CUỐI NĂM CHIA TAY HUẾ

nguyendangtrinh

mai xa Huế xa nụ tình mới nhú
mùa sắp xuân sao cứ buốt trong lòng
ngoài đêm gió hình như chưa muốn ngủ
lay nhánh bàng nhã nhạc tiễn mưa đông

chưa rời Huế mà nghe chừng đã nhớ
chiều Hoàng cung bảng lảng khói vương triều
đêm Đại nội lờ nhờ thành quách cũ
gót công nương lởn vởn ngọ môn rêu

sắp xa Huế nghẹn nỗi gì tiêng tiếc
chưa cùng em run rẩy tối sông đò
chưa cùng em liêu xiêu đêm rượu tết
lời tình thầm lịm ngất giữa môi thơ

đêm ơi đêm xin đêm chầm chậm thức
để ta ôm gọn lõn Huế vào lòng
ôm luôn cả những gì chưa ôm được
từ vạt tóc trường tiền đến tà lụa Hương giang

chưa rời Huế mà trái tim rối rảo
xin đừng ru chi mái đẩy mái nhì
xin đừng nép bên hàng cây long não
để ta còn nhấc nổi bước ra xe

phải xa Huế xốn xang lòng ta lắm
cứ như đang níu áo mối tình đầu
Huế trầm mặc Huế bốn mùa lăng tẩm
khép cổng thành lén vá trái tim đau!…
(1999)
nguyễn đăng trình

BỐN MƯƠI NĂM, ĐÔI ĐIỀU NHÌN LẠI.

nguyennhathuy

Có đến cả năm sau sự kiện 30.4.1975, các phương tiện truyền thông của “Bên thắng cuộc”, cán bộ trong những buổi họp dân ở xã phường, kể cả họ khi ở ngoài xã hội đều nói nhiều về sự “Phồn vinh giả tạo” của miền Nam Việt Nam!

Ai cũng biết, hệ thống tuyên truyền cộng sản bắt đầu từ Ban tuyên giáo TW xuống dần các tỉnh huyện, các cán bộ bên dưới chỉ làm công việc nhai lại như một con vẹt, “trên” nói sao, dưới nói y vậy, không kể còn tô son điểm phấn, cường điệu và minh họa thêm.

1.Chuyện tuyên truyền rằng miền Nam “phồn vinh giả tạo” vừa nhằm biện minh và giải thích cho quân dân miền Bắc điều mà khi bức màn sắt còn đang đóng trước 1975, họ ra rả kêu gọi đi B để giải phóng miền Nam, ở đó người dân bị Mỹ Ngụy kềm kẹp không có lấy một cái chén ăn cơm! Không nói thế, hóa ra cán bộ và nhân dân cho rằng chính quyền lừa bịp dầu đó luôn luôn là bản chất cộng sản!. Nó cũng là thứ vũ khí mà cán bộ từ Bắc vào hay người Nam hồi kết đều nói để xóa đi mặc cảm nghèo hèn, dốt nát, bị chế độ lừa gạt như dân gian truyền tụng rằng sau 75, nghề hái ra bạc ở miền Nam là nghề lượm mũ cối! (Những người Bắc vào đều đội mũ cối, nhìn những nhà lầu nguy nga trong các phố phường miền Nam cứ say sưa đếm số tầng đến quên cả mũ cối rớt) và như chính Huy Đức trong “Bên thắng cuộc” cũng đã nhắc lại câu nói dân gian sau 75: “Miền Nam nhận họ, miền Bắc nhận hàng”.

Nhà văn nữ Dương Thu Hương, khá nhiều nhà văn tên tuổi của chế độ cũng thú nhận rằng họ mở mắt là nhờ những sách vở còn lại tại miền Nam mà họ được đọc, Huy Đức cũng nói ngay trong lời nói đầu cuốn “Bên thắng cuộc” rằng những bộ đội tập kết về thăm quê miền Nam ra thế nào trong đáy ba lô cũng có dăm ba cuốn sách cũ làm quà và khá nhiều người hiểu thêm thực trạng miền Nam, sự tự do trong sáng tác của văn nghệ sĩ đều từ những nguồn này. Đúng là “phản động”, là đi ngược những tuyên truyền một chiều bịp bợm của họ!

2. Nhiều năm sau, thế hệ những người lớn tuổi nghiệm ra rằng những gì nhà cầm quyền ra rả chống, ra rả nói xấu họ đều làm theo, từ chuyện người vượt biển tìm tự do ở ngoại quốc là “theo địch”, là “phản động” rồi trở thành “khúc ruột ngàn dặm” không xa cách nhau là bao, nói chống Mỹ nhưng con cái cán bộ cao cấp xin đi Mỹ du học tự túc, họ không cần biết hậu quả điều mình nói, việc mình làm miễn là đạt được mục đích nào đó mà suy cho cùng, cái tối hậu là đạt mục tiêu xâm lăng miền Nam và thu vén cướp bóc để hưởng thụ trước khi dâng đất nước này cho Trung cộng!

Bốn mươi năm đã qua, nhớ lại những nội dung này thật thấm thía! Tra vài từ điển trên net, thấy giải thích từ “giả tạo” là “không thật, vì được tạo ra một cách không tự nhiên”, miền Nam phồn vinh giả tạo theo lập luận của cộng sản là nhờ viện trợ Mỹ, Đúng, nhưng là viện trợ của một nước tự do bảo vệ một nước nhỏ trước nạn xâm lăng cộng sản.

3. Với viện trợ Mỹ, một dân vệ VNCH (sau này là nghĩa quân) như du kích có lương tương đương một giáo viên hương sư phụ khuyết (thầy giáo trường làng), thấp nhất trong quân đội và giáo dục là một ngàn năm trăm đồng (1500đ), đủ nuôi sống 1 vợ 5 con và cha mẹ già, thời điểm đó gạo 300đ/tạ. Có tham nhũng không? – Có. Có hối lộ không? – Có! Tham nhũng tiền viện trợ nhưng không tày đình kiểu Vinashin, Vinalines và hàng trăm hàng ngàn vụ động trời khác, không ăn chận vốn ODA dành cho các công trình giao thông quan trọng. Hối lộ ở miền Nam chỉ là của những nhà giàu sợ con đi lính chết trận, những nhà buôn muốn yên thân, ăn hối lộ không cạn tàu ráo máng kiểu công an nhận hối lộ của tài xế xe nghèo xơ xác, kiểu phường khóm nhận của người buôn bán lẻ kiếm sống qua ngày. “Chế độ ta ưu việt” hơn “thằng địch” nhiều, do vậy, hối lộ là cả dây chuyền khép kín, từ trên xuống dưới! Nếu không, Nông Đức Mạnh lấy đâu tiền làm ngai vàng, dát vàng tương Hồ Chí Minh, đồng chí X lấy đâu tiền xây nhà thở tộc >70 tỉ trong lúc phần lớn bộ trưởng, viên chức trung ương kể cả Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu của đệ nhất và đệ nhị Cộng hòa không có hoặc có nhưng nhà chưa bằng nhà một… chủ tịch phường ở Hà Nội! (http://www.baomoi.com/Chu-tich-phuong-cung-xay-nha-khong-phep/148/15863770.epi).

Cái giả tạo đó vẫn tốt hơn nhiều so với cái ưu việt của chế độ ta khi những viên chức sống chính bằng đồng lương là điều không thể!

Hãy vào trang này: http://dulichgo.blogspot.com/2012/09/nha-cu-cua-ong-thieu-se-tro-thanh-iem.html để thấy nhà của mẹ Tổng thống Thiệu và nhà mát của ông ta ở Ninh Chữ (Ninh Thuận), hãy đến đường Nguyễn Huy Tưởng (Bình Thạnh), nhìn căn nhà ngày xưa của cựu Thủ Tướng Nguyễn Ngọc Thơ để mà hiểu và nói cho con cháu biết chúng phải làm gì?

4. Cũng ngày ấy, bộ máy tuyên truyền ra rả câu “Tội ác Mỹ Ngụy trời không dung, đất không tha, người người đều căm giận” thì cái gọi là tội ác đó nếu có cũng chưa bằng tội xóa bỏ hiệp định Geneve, gây chiến tranh xâm lăng miền Nam, đẩy hàng triệu người rời bỏ đất nước ra đi, hành hạ hàng trăm ngàn người trong các trại tù, bắt bớ, tù đày hàng chục ngàn người yêu nước và trên tất cả mọi thứ, cắt đất dâng cho Tàu, kẻ thù truyền kiếp của dân tộc! Thử hỏi bốn mươi năm qua, trên giải giang sơn gấm vóc của chúng ta có phải ở đâu cũng thấy nhà cầm quyền cộng sản đã phạm vào đúng điều mà họ lên án Mỹ Ngụy? . Trở lại định nghĩa “giả tạo là không thật, được tạo ra một cách không tự nhiên” người viết tự hỏi, bằng cấp giả là chuyện phổ biến từ trung ương xuống địa phương vài chục năm nay nhưng cái chức danh giáo sư, học giả, danh hiệu do nhà nước phong tặng cho một con người cao quý như ông Vũ Khiêu có phải là “giả tạo” khi mà những gì báo chí phanh phui thời gian sau Tết là điều không thể chối cải, không thể phản bác và như ông Nguyễn Lân cha của 8 giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ, một gia đình nổi tiếng lại là cha đẻ của Từ điển từ và ngữ Hán Việt, Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam, Từ điển từ và ngữ Việt Nam với quá nhiều sai lầm mà dầu công luận lên tiếng nhiều vẫn không mảy may đính chính, có quyển được tiếp tục tái bản đã để lại cho các thế hê sau không biết bao nhiêu thiệt thòi khi tham khảo và nhất là làm hỏng tiếng Việt!

5. Có phải tất cả những chuyện nói trên có nguồn gốc sâu xa từ một người đã khuất mà đến gần năm mươi năm nay (ai cũng tưởng là) được UNESCO vinh danh là danh nhân văn hóa thế giới cũng là “giả tạo” vì chưa chắc cái xác ướp nằm đó của người đúng với tên người ta nghĩ mà là của một anh Chệt nhưng nhân dân đất nước này đã còng lưng đóng thuế vì chi phí tạm tính cho việc chăm sóc nơi anh Chệt này nằm trong 40 năm theo một bài báo (*) là 249 tỉ, số tiền đó xây được 12.480 căn nhà tình nghĩa (20tr/căn) giúp được 49.920 hộ dân thoát nghèo!!.

Có bao người dân Bắc thầm hoan hô “sự phồn vinh giả tạo” đó của miền Nam?

NGUYỄN NHẬT HUY

(*) http://xoathantuong.tripod.com/tdbc_langho.htm
Mời tham khảo thêm một số link sau đây:
http://thuguibanta.blogspot.com/2015/02/february-27-2015.html
http://thuguibanta.blogspot.com/2015/03/march-6-2015.html

Phong cách sống cung đình


http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=4091&rb=06
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=4443&rb=06

HUẾ MƯỜI NĂM XA

nguyenvanthien

Mười năm xa trăm mùa trăng vỡ
Hương giang trôi tóc nữ sinh buồn
Về vườn xưa thềm rêu mai nở
Mơ môi gần đêm Huế chớm xuân

Lụa thơm bay chiều xưa qua phố
Nón trăng nghiêng thơ rớt ven cầu
Tuổi ngu ngơ lần đầu biết khổ
Giọt đàn trầm rụng mắt em sâu

Mắt em sâu – mười đông xa Huế
Ta về tìm chút nắng xuân hanh
Nhánh sứ già rung rinh tiếng sẻ
Thành Nội chiều thoi thóp rêu xanh

Lăng tình đầu em xây đá nhớ
Thơ gọi mùa thông réo hồn thiêng
Thiên An chào người xưa ngờ ngợ
Ta lên đồi đợi Huế ra Giêng.

NGUYỄN VÂN THIÊN

MƯA & ĐÀN

vungocgiao

1.
bàn tay năm ngón ngại ngùng
dạo trên phím mỏi sượng sùng như thơ
tiếng đàn xưa chợt thẫn thờ
khi dòng tóc rối bên bờ hư vô
2.
bàn tay năm ngón ngu ngơ
khóc trên phím mỏng bơ vơ mệt nhoài
giọt đàn đêm giấu trong tay
nhớ môi mềm với cơn say hững hờ
3.
ta còn đây một cơn mơ
khép trong ngày tháng là tờ kinh xưa
rưng rưng mùa hát quên mùa
cuối hồn đàn khóc cùng mưa hiên ngoài

vũ ngọc giao

TIẾNG CHUÔNG NGÂN (PHẦN 6) NGÀY ĐEN TỐI

nguyenthingoclan

Sau nhiều lá thư của ông Giao gởi về thuyết phục, hứa hẹn một cuộc sống tươi đẹp, mẹ buộc cô phải làm đám cưới với ông. Biết không thể nào ngăn cản ý của Mẹ được nữa nên Hải Đường im lặng ra vẻ đồng ý, nhưng trong lòng thì đang tìm cách thoát cho bằng được cuộc hôn nhân này. Đêm đó cô quyết định viết lá thư từ hôn gởi cho ông Giao với những lời lẽ  thật cay đắng và cả van xin. Hải Đường đề nghị  một cách dứt khoát, yêu cầu ông Giao ra nhận lại lễ vật đã tặng  trong lễ hỏi. Một quyết định liều lĩnh đầu tiên trong đời mà cô dám làm để giải thoát cho bản thân. Hải Đường chọn con đường tìm lại tự do cho mình đồng thời cũng chấp nhận một cuộc đời đắng cay, tủi nhục khác.
Nhận thư, có lẽ ông Giao không còn hy vọng gì ở cuộc hôn nhân này nữa nên mười ngày sau, người chú và người em trai thay mặt gia đình từ Bình Định vào xin được nhận lại những lễ vật đính hôn. Chiếc nhẫn bằng kim cương có giá trị lớn cùng những lễ vật khác Hải Đường đã cẩn thận gói sẵn để trong tủ chờ đến ngày trả lại cho nhà trai.

Ngày định mệnh  25/6/1977.
Đang cầm chiếc cuốc xới cho tơi đất để trồng mì, anh trai từ nhà qua báo cho Hải Đường biết gia đình ông Giao đến nhận lại lễ hỏi theo đề nghị trong thư của cô.  Mẹ cho gọi  về ngay. Hải Đường nghe báo tin mà rụng rời cả tay chân. Chiếc cuốc trên tay lúc đó cô nắm chặt không muốn thả ra. Một thời khắc sợ hãi kinh hoàng cô cần phải đối mặt trong lúc này.
Hải Đường biết điều đen tối đang chờ cô trong chút nữa thôi. Sợ hãi tột cùng. Cô điên loạn hay đã chết rồi trong lúc ấy?
Sợ Mẹ, sợ họ hàng ông Giao nên Hải Đường trốn biệt vào một bụi cây rậm bên rẫy. Không ai có thể tìm ra cô cho đến tối mịt. Chung quanh là bóng đêm. Sương bắt đầu rơi xuống trên những tán cây, trên lá và trên tóc Hải Đường ướt đẫm. Lạnh buốt xương và cái đói hành hạ. Nhắm mắt lại cô bắt đầu rơi vào cơn mê loạn.

Có ánh sáng đom đóm bay đêm chập chờn. Tiếng gió rít, ve vuốt, rượt đuổi. Âm thanh răng rắc. Tiếng lá rơi xào xạc, lả lơi. Có tiếng hát ru em của Dì Út vọng về.

 Điệu múa Đêm tàn Bến Ngự. Lượt là trong bộ Hoàng bào vàng óng.

Những hạt sương mong manh trên má. Cái lạnh thấm dần vào thân thể yếu mềm hoà với cái đau bị muỗi đốt vẫn còn đỡ hơn cái đau trong tâm hồn mà Hải Đường đang gánh chịu lúc này. Cô muốn mình được thiếp đi một cách nhẹ nhàng. Thôi đừng đau đớn nữa. Cô muốn bay vào hư vô mãi mãi để không còn phải giáp mặt với những bất hạnh mình đã chịu từ bao nhiêu năm nay.
Sương lạnh thấm vai. Buốt rét mềm đôi bàn tay nhưng con tim nóng hừng hực bừng lên như ngọn lửa hồng đốt cháy.
Tiếng muỗi vo ve hát ca nhảy múa.Tiếng côn trùng ran ran bên cạnh. Có tiếng sột soạt của con thú hoang đói mồi.Tiếng chin chit của lũ chuột tinh ranh.
Có tiếng hú gọi đến như tiếng người. Đen thẫm. Mờ mờ ảo ảo ánh đén hắt sang ..

Hải Đường giật mình bừng tỉnh. Không gian rờn rợn. Chung quanh toàn những cây cao và bụi rậm. Đêm của lũ côn trùng ma quái. 
Đói cồn cào!
Hải Đường muốn nằm yên trong bụi cây này mãi. Mong được khép chặt đôi mắt, thiếp đi nhẹ nhàng và đừng bao giờ thức dậy  nữa. Muốn được bay bỗng lên rồi tan ra, biến vào hư không. Xin đừng đau đớn. Cô đau đớn nhiều rồi. Hải Đường muốn trốn chạy đi đâu đó thật xa cái xứ này. Nhưng trốn đi đâu bây giờ?
Rét run và đói. Hai tay ôm chặt lồng ngực, hơi thở yếu dần. Hải Đường trở mình bên bụi cây gai. Có vết đau trên lưng. Không! Nó nhói từ trái tim. Nắm nhánh cây gai đang đong đưa trước mặt, níu chặt, chập choạng. Có mùi mặn trên đôi tay.
Không còn nơi nào  có thể nương thân. Về thôi!
Lầm lũi  bước cao, bước thấp mò mẫm từng đoạn đường mòn, bước qua con suối lạnh Hải Đường tìm đường về nhà.
Bọn dế giun đang hát khúc hoan ca hay khúc bi ai bên kia bờ suối?

Rồi cũng đến được. Cổng nhà đây rồi! Cánh cửa màu xanh quen thuộc và cây trứng cá của Hải Đường mỗi chiều đứng đợi. Mà đợi gì nhỉ?
Bàn tay chạm vào cánh cửa, Hải Đường run lên bần bật, thân thể co rúm lại, bước chân không còn nhấc lên nổi nữa. Chờ  một lúc lâu, nghe trong nhà im vắng cô rón rén đi vào bằng lối bên hông nhà. Vừa đến sân nhìn thấy Mẹ ngồi trên ghế, nét mặt giận dữ đang chờ. Thân thể mãnh mai tội nghiệp đổ sụp xuống dưới chân Mẹ.

Không còn cảm giác để mà đau nữa.  Không còn đủ sức để van xin. Tê dại. Khù khờ. Có tiếng gió rin rít. Gãy đổ. Lào rào. Rền rĩ. Nước mắt cạn khô rồi. Miệng bỏng rát. Da thịt nham nhám mùi vỏ cây. Hải Đường lạnh!

Đã bao nhiêu lần trong đời sống bên ngoài gia đình. Đó là những đêm đi biểu diễn văn nghệ cùng với bạn bè thời đi học. Những lúc ấy Hải Đường chỉ có niềm vui.
Đêm nay cô cũng có một đêm bên ngoài ngôi nhà của mình. Bên ngoài đúng nghĩa của nó vì Hải Đường đang ngồi dựa gốc cây trứng cá trước nhà mình giữa đêm khuya.Tâm hồn khô khốc, trống rỗng, nhạt thếch. Đã khóc như một phản ứng tự nhiên nhưng không hiểu vì sao mình khóc. Chẳng ý thức được gì, không hiểu mình đang làm gì và chuyện gì đang xảy ra với mình. Sự trống rỗng đến ngạc nhiên.

Lại mơ!

Hoá thân thành con đom đóm nhỏ lập loè bay lên với các vì sao. Sao sáng quá khiến cô sợ hãi,
Mơ bay trên sân trường phủ đầy hoa phượng đỏ có những tà áo trắng phất phơ.
Mơ xoay tròn trên sân khấu với vũ khúc Vọng cố đô trong vai cô Công chúa mặc áo Hoàng bào.
Mơ mình ngồi bên giòng sông tuổi thơ, nước êm đềm cuốn đi chiếc lá khô vừa rơi xuống. Ba  chở đi trên chiếc Lambretta qua cầu Bạch Hổ chiều lộng gió thổi bay chiếc mũ rộng vành.
Mơ được Ba đưa vào Đài phát thanh Huế khi người còn làm việc trong ban văn nghệ .
 
Mơ! Cô mơ nhiều lắm.

Mơ cái êm êm của tuổi thơ bên giòng sông Hương. Mơ con chuồn chuồn ớt đỏ vụt bay trong khoảnh khắc hai ngón tay vừa chạm vào cái đuôi mềm mại, âm ấm của nó. Mơ con đường đất nhiều sỏi đá dẫn tôi đến trường tiểu học và thằng bạn mập xịt, kẻ thù  thời thơ ấu.  
( Xem ” Chuyến Tàu Tuổi Thơ” cùng tác giả)
Mơ tiếng chuồn chuồn chạm nước. Nhẹ nhàng như nụ hôn bất ngờ anh lướt nhẹ trên má.

Nhiều khuôn mặt lướt qua trong trí nhớ vội vàng. Nhòe nhoẹt. Rõ nét. Vui nhộn. Lặng lẽ. Hung tợn. Như có thể chạm được nhưng lại xa vời vợi.
Hải Đường mơ, mơ mãi trong giấc ngủ mê hoảng loạn. Hai tay bó gối. Lưng tựa vào thân cây.
Tiếng muỗi vo ve, tiếng chó sủa trong đêm vắng vẻ. Con đường khuya thỉnh thoảng có ánh đèn vụt qua.
Có tiếng xì xào xa xa. Tiếng chim non gọi mẹ. Thống thiết.
Có cánh tay choàng qua vai ôm chặt . Hơi ấm từ đâu đó sưởi ấm bờ vai gầy yếu của cô  vẫn còn đang trong mơ tuyệt vọng.
Có cái lay nhẹ bờ vai. Lờ mờ Hải Đường nhận ra một giọng nói quen thuộc. Có tiếng âm âm từ rừng núi dội về.
Có tiếng hỏi dồn. Cô bay lên. Nhè nhẹ. Từ từ. Chậm rãi. Hải Đường chạm vào mây. Mềm mại. Âm ấm.
Mây vuốt vào má. Có bàn tay đặt nhẹ lên môi. Có cánh tay dìu  đứng dậy. Lướt hay bay đi. Nhẹ tênh.
 
Hải Đường như vô cảm lúc đó. Bước chân bềnh bồng. Chệnh choạng.
Anh Thọ!
Hình như Hải Đường đang gọi tên ai đó.
Anh dìu cô về căn nhà nhỏ của mình.
Sáng hôm sau, cơn mê bừng tỉnh. Anh nói: “Bây giờ thì em quyết định được rồi đó, em phải tự chọn con đường mình đi, không ai ép buộc em được. Nhìn em như thế này anh cảm thấy uất ức lắm. Anh muốn đưa em thoát khỏi cuộc hôn nhân vô nghĩa này, anh sẽ bất chấp tất cả nếu em đồng ý”.
 
Anh an ủi, dỗ dành, thuyết phục, vỗ về Hải Đường  mãi. Có còn nơi đâu để cô về nữa?.
Cơn gió rin rít thổi qua mái lá. Có tiếng róc rách của con suối chảy qua ngang đây. Bản nhạc rừng líu lo.
Hải Đường  gật đầu đồng ý. Cô cũng chẳng cần gì khác nữa.
Sau này, khi hai vợ chồng tâm sự cùng nhau, Anh hay ôm đầu Hải Đường vào lòng, nói đùa: “Mẹ đã vô tình tặng cho anh món quà vô giá này”.
Một tuần sau Ủy ban xã cấp giấy công nhận kết hôn và cho hai người ở nhờ căn nhà nhỏ vắng chủ. Của hồi môn Hải Đường mang theo chẳng có gì nhiều. Ngoài áo quần, chỉ còn vài ba cuốn sách và những kỷ vật thời học trò.
Hai vợ chồng sống với nhau thật hạnh phúc. Anh rất yêu thương Hải Đường, lo lắng cho cô đủ điều, từ những việc nhỏ nhặt nhất trong gia đình. Kinh tế khó khăn  nhưng không lấy đó làm buồn phiền. Vợ chồng cô chăm lo hạnh phúc gia đình. Quyết định không có con vội trong lúc này. 
Cuộc sống tuy nghèo nhưng thơ mộng. Hai người  thường hay ngồi bên nhau hằng giờ mỗi đêm, chồng đàn vợ hát những tình khúc xưa thật say sưa. Khi chưa vướng bận chuyện con cái, hai người thường hay xuống suối vào những đêm trăng sáng. Đêm trăng bên giòng suối vắng thật huyền ảo, ánh trăng tràn ngập khắp nơi. Trăng như rơi vỡ trên giòng nước.
Hải Đường và anh đi dọc theo bờ suối hoặc ngồi trên tảng đá cùng nhau câu cá. Thường thì anh cầm cần câu còn cô cầm đèn, ngồi giữ chiếc lồng đựng cá và nhai bắp rang cho đỡ buồn ngủ. Nhưng cũng có đôi lúc cô thiếp đi lúc nào không hay. Đến khi anh gọi dậy, cùng nhau trở về trời cũng bắt đầu sáng.
Cuộc sống vợ chồng khi mới lấy nhau thật lãng mạn dù muôn vàn khó khăn phải đối mặt hằng ngày.
Năm 1980 Hải Đường sinh con trai đầu lòng. Cuộc sống bây giờ khó khăn hơn nhiều, với đồng lương của anh làm sao nuôi được vợ con nên anh quyết định xin nghỉ việc ở Uỷ ban xã để ra ngoài làm ăn.
Cuộc sống vất vả hơn nhiều. Anh bươn chãi khắp nơi để kiếm sống.Ở thời buổi này, kiến thức, chữ nghĩa anh học được chẳng giúp gì được cho cuộc sống gia đình.

Vào một buổi sáng thàng hai 1982, đang lui cui làm việc ở nhà thì em gái Hải Đường chạy vào báo tin Ba bị tai nạn bên rẫy. Cô tức tốc chạy băng qua, đến nơi thì Ba đã trút hơi thở cuối cùng. Đau đớn chồng thêm đau đớn, vành khăn tang đầu tiên trong đời lại dành cho người cô yêu thương và kính trọng nhất. Người luôn mong muốn cho cuộc đời con gái được sung sướng, hạnh phúc nhưng lại bất lực nhìn đứa con gái yêu thương của mình chịu hết đau khổ này đến đau khổ khác. Không đủ sức dìu dắt để con được vào đời may mắn hơn.
Hải Đường mồ côi Ba!

Đứa con trai thứ hai ra đời  năm 1983 thì tháng ngày vất vả  bắt đầu từ đây. Anh Thọ tham gia đoàn người đi tìm trầm. Mỗi chuyến đi của anh lặn lội trong rừng sâu nước độc từ nửa tháng đến một tháng đã đày ải thân xác anh.
Căn nhà nhỏ bên cạnh nhà thờ  được Ủy Ban Xã cho ở tạm thấp lè tè và nóng bức vô cùng. Lấy nhau đã năm năm mà tài sản gia đình của họ chẳng có gì. Thậm chí cái quạt máy cho con mát trong những ngày hè cũng không có. Hải Đường phải xin vào làm kế toán ở ủy ban xã với đồng lương èo uột nhưng vẫn cố gắng sống sao cho vừa đủ. Điều này có nghĩa bản thân cô phải biết tính toán và tiết kiệm một cách tối đa. Một đồng quà cho con cũng phải suy nghĩ.
Anh Thọ đi núi vất vả  nhưng không kiếm được bao nhiêu. Lúc trầm khan hiếm thì lại không được gì. Lúc tìm được trầm thì hàng không ai mua phải bán rẻ. Phải nói là số phận gia đình Hải Đường thật bất hạnh. Người ta cũng như mình nhưng lại gặp may mắn còn anh thì xui rủi cứ đeo đuổi mãi .
Cuộc sống khốn khó nhưng hạnh phúc trôi đều theo năm tháng
Và kỷ niệm nhẫn tâm một lần ùa về  thật bất ngờ..

Một buổi chiều, Hải Đường thong thả đạp xe về nhà sau giờ làm việc. Hôm đó anh Thọ không đi núi, thay cô lo cho hai con nên cô cũng không vội vã lắm. Tự cho phép mình hưởng thụ một chút gió chiều, nắng nhạt, cái cảm giác mà lâu lắm rồi có không có được.
Hải Đường nhớ hôm ấy tóc bay sau ngược gió vì cô không kẹp lên. Một chút lãng mạn sau bao tháng năm buồn, hôm nay cô muốn được hưởng một tí.

Khi đạp xe về gần ngôi nhà cũ, quán cà phê Hải Đường ngày trước. Cô giật mình vì thoáng thấy một dáng người cúi đầu lầm lũi bước đi bên kia đường. Dáng ấy quen thuộc đến mức Hải Đường không thể lầm lẫn được. Hai tay cô run run trên ghi đông xe đạp, toàn thân cứng đờ. Chiếc xe vẫn từ từ tiến lên phía trước một cách nặng nề.
Khi đến trước quán cà phê cũ, người ấy dừng lại và nhìn vào trong rất lâu. Hải Đường cũng dừng lại bởi một sức hút vô hình từ phía bên kia đường. Cô ngộp thở, tai ù đi, ran ran tiếng gió.
 
Hải Đường bước ra khỏi xe và nhìn chằm chằm vào con người ấy. Bất chợt người ấy quay lại nhìn cô.
Người bên này, người bên kia đường bất ngờ hoà tan trong  ánh mắt. Hai chân Hải Đường muốn quỵ xuống. Đôi mắt của anh. Đôi mắt u buồn kỳ lạ, xa xăm nhưng lại có ngọn lửa bùng cháy bên trong.
Trời ơi! anh đó sao? Hơn mười năm rồi, anh gầy và đen hơn nhiều. Dáng người khắc khổ. Anh nhìn cô không hề chớp mắt. Hải Đường cũng vậy. Nước mắt cô chảy dài  xuống má tự nhiên không kìm chế được. Hải Đường muốn chạy ào qua với anh nhưng hai chân chôn chặt xuống lề đường. Không được! Không thể được. Cô nhủ thầm như vậy.
Người bên này, người bên kia đường chỉ im lặng nhìn nhau  trong chốc lát, không ai nói một lời nào. Khi anh quay mặt bước đi cũng là lúc Hải Đường ngồi lên yên xe, đạp về nhà. Cô cám ơn anh đã kìm chế được trong giây phút đó. Nếu anh băng qua con đường rồi đứng trước mặt cô liệu điều gì sẽ xảy ra tiếp theo? Hải Đường cũng không biết nữa. Trong khoảnh khắc xảy ra chớp nhoáng ấy, cô tin anh vẫn còn yêu mình. Đôi mắt không giấu được điều gì.
Về đến nhà chồng con  ra đón, hai đứa con bụ bẫm dễ thương ôm lấy Hải Đường. Nhờ vậy cô đã che giấu được cảm xúc bất ngờ với chồng lúc đó. Hải Đường đã quyết định đoạn tuyệt với mối tình đầu từ lâu. Hơn mười năm, đôi lúc có nhớ về anh nhưng với tình yêu chồng con dành cho cô quá lớn không cho phép có những giây phút yếu lòng. Cũng bởi Hải Đường may mắn chưa gặp lại lần nào kể từ lúc anh ra đi. Nhưng chiều nay, gặp nhau trong hoàn cảnh như vậy lòng cô đau xót lắm. Thà anh cứ cúi đầu, đừng nhìn để cô không mang nặng đôi mắt ấy, có lẽ sẽ nhẹ nhõm hơn rất nhiều. Hải Đường biết phải làm sao bây giờ. Đã là gái có chồng,  sinh được hai cậu con trai, trái tim  mềm yếu vẫn chưa quên được anh sao?
Thật ra  Hải Đường đã tự dối lòng. Cô nghĩ không chỉ riêng mình mà với bất cứ người phụ nữ nào đều không thể quên được tình yêu cũ. Nếu có thể quên, có nghĩa là họ chưa bao giờ yêu và được yêu. Người phụ nữ luôn yếu mềm. Chỉ có thể chôn vùi nó vào trong trái tim để làm tròn bổn phận người vợ, người mẹ. Coi đó như là một kỷ niệm thiêng liêng. Một tượng đài của ký ức.
Hải Đường cũng chỉ là một phụ nữ yếu đuối.
 Mối tình đầu luôn có một chỗ đứng trong trái tim. Dù đã có gia đình nhưng cô vẫn dành riêng cho mối tình ấy một  giang sơn nhỏ bé trong tâm hồn. Nó mong manh, kỳ ảo vô cùng.
 Sáng hôm sau nhìn thấy Hải Đường xanh xao mệt mỏi, anh Thọ đến bên cạnh, nhẹ nhàng:
– Em đau rồi, hôm nay xin nghỉ một ngày cho khỏe. Để việc nhà anh lo. Em cứ nằm nghỉ.
– Dạ không anh, em mệt một tí thôi, đi làm được mà.
Nói với anh như vậy nhưng Hải Đường rất mệt do cả đêm qua thao thức, nằm không dám trở mình sợ anh lo lắng. Cô hối hận và thấy thương anh. Trong một phút yếu lòng gặp lại anh, Hải Đường trở thành người phụ nữ phản bội chồng mình dù chỉ trong tư tưởng.

 Đôi khi nhiều chuyện cứ tưởng đơn giản nhưng không phải vậy. Ngỡ đã quên được anh rồi, nhưng khi bắt gặp ánh mắt u buồn của anh buổi chiều hôm ấy lòng cô lại vấn vương, ray rứt. Nhiều năm sau này cũng vậy, cho đến ngày chồng qua đời, trái tim héo khô và thân xác gầy mòn sống đơn độc một mình nuôi con, Hải Đường mới thật sự quên được tất cả. Cô quên hết những con người đã từng yêu thương mình. Quên hết. Không có ai, không còn ai trong tâm trí cô nữa. Bởi một điều đơn giản cô không còn thời gian để tiếc nhớ, để mộng mơ, để oán trách.  

Hai con khỏe mạnh, ít đau ốm nên Hải Đường cũng bớt được nỗi lo.Có lẽ ông trời thương cảm hoàn cảnh gia đình cô nên ban cho hạnh phúc như vậy. Niềm hạnh phúc lớn lao nhất là mỗi chiều đi làm về được bồng ẳm, ôm chặt hai con vào lòng. Buổi tối sau khi dỗ hai con ngủ cô tranh thủ làm sổ sách kế toán cho hoàn chỉnh. Những ngày anh Thọ không đi núi sẽ ngồi ôm đàn hát khẽ cho cô nghe hoặc gíup cô cộng những dãy số để làm quyết toán.
Những đêm trăng đẹp, cả gia đình ra ngồi bên bờ suối ngắm trăng lên. Ánh trăng xuyên qua những tán cây hai bên bờ suối trông thật lãng mạn. Trăng rơi xuống mặt nước lững lờ trôi, trăng vỡ từng mảnh nhỏ trên lưng phiến đá. Có khi trăng lại cười với gia đình họ.  Hai con trai tung tăng bên bờ suối, còn vợ chồng Hải Đường ngồi cạnh nhau hát cho nhau nghe những bản tình ca . Ôi, thời gian ấy sao mà đẹp quá!
Có những buổi sáng anh dậy thật sớm chuẩn bị bữa ăn sáng cho công việc đi kiếm củi cách đó gần 10 cây số. Cực nhọc, vất vả là vậy nhưng lúc nào anh cũng tươi cười, ngọt ngào, nhẹ nhàng với Hải Đường và đùa giỡn với hai con.  Trăm ngàn khó nhọc nhưng gia đình cô rất hạnh phúc, đầm ấm, chỉ mong cuộc sống mãi bình yên.
 
Đầu năm 1993 gia đình Hải Đường phải bỏ cái vùng đất oan nghiệt ấy ra đi. Đến vùng đất mới xa lạ ở vùng rừng núi cao nguyên để kiếm sống. Phải vay mượn thêm để có tiền cất tạm nhà mới. Anh Thọ không còn đi núi nữa vì sức khỏe rất kém. Hải Đường mở quán nước giải khát nhỏ trước nhà và anh Thọ nhận dạy kèm Toán, Anh văn cho học sinh cuối cấp nên cũng có thêm thu nhập. Tuy vậy, quần quật quanh năm suốt tháng mà cũng không trả hết nợ. Túng thiếu đeo đuổi gia đình cô mãi.

Năm 1994 anh Thọ phát bệnh nặng, phải vào bệnh viện để điều trị nhiều đợt do xuất huyết dạ dày. Sức khoẻ anh càng ngày càng sa sút. Anh xanh xao, gầy yếu nhưng vẫn phải dạy học để có thêm thu nhập cho gia đình. Hải Đường làm mọi công việc để đủ tiền nuôi hai con ăn học và thuốc thang cho anh. May mắn nhất là hai đứa con  rất ngoan hiền, biết phụ giúp đỡ đần công việc trong nhà nên cô cũng được đôi phần an ủi, yên tâm.
Cuối năm 1994 sức khỏe anh đã kiệt quệ. Thương cho hoàn cảnh, mến anh và thích cách dạy của anh nên học trò vẫn đến học rất đông. Anh ngồi kê gối dựa vào thành giường giảng bài, còn học trò ngồi chung quanh ghi chép. Khi thấy anh mệt thì thay phiên nhau quạt, xoa bóp cho anh, lại còn nấu từ nhà mang đến cho anh những món ăn bồi dưỡng sức khỏe. Cứ như vậy anh cố gắng dạy cho đến gần ngày ra đi.

Anh Thọ mất vào một buổi tối giữa tháng giêng âm lịch tại bệnh viện tỉnh. Trước đó vài giờ, khi anh đang còn nhận máu từ những đứa học trò hiến cho anh thì vị bác sĩ trực tiếp điều trị cho anh đã gọi Hải Đường ra ngoài hành lang hỏi: “Chị đã có con trai chưa?”  Cô gật đầu trả lời “Dạ, tôi được hai cháu trai”. Bác sĩ giọng nhỏ lại: “Vậy là tốt rồi. Bệnh anh nặng lắm, bị ung thư dạ dày giai đoạn cuối, không qua được đâu. Có lẽ một vài hôm nữa thôi”…
Hải Đường gục xuống hành lang bệnh viện, ôm mặt khóc.
Trở vào phòng ngồi bên cạnh nhìn anh thoi thóp thở, cô cứ ôm lấy đôi chân gầy guộc, xanh xao của anh như muốn níu giữ anh ở lại với mình, với hai con. Hải Đường xin anh đừng bỏ rơi cô và hai con mà đi. Hải Đường yếu đuối quá, cần anh che chở biết bao. Hai con còn thơ dại quá, cần anh nuôi nấng, dạy dỗ mới khôn lớn nên người.
 
Bón cho anh từng muỗng sữa rất nhỏ mà anh vẫn nuốt thật khó khăn. Nước mắt anh chảy dài trên gối và nước mắt Hải Đường thì rơi từng giọt trên ngực anh. Rồi anh sờ soạng, cầm lấy hai bàn tay cô nắm  chặt như muốn dồn vào đó tất cả sức lực còn lại của mình. Giọng anh lạc hẳn đi:  “Em yếu đuối quá! Anh sợ em nuôi con không nổi. Tội nghiệp cho em.” Rồi bàn tay anh lơi dần, mắt khép kín và đôi chân cũng lạnh dần.
Anh ra đi thật lạnh lùng, thật vội vã không chút tiếc thương, mặc cho Hải Đường và hai con đã ghì chặt, đã kêu tên anh biết bao lần.

Hải Đường trở thành  góa phụ năm 38 tuổi…
Đám tang anh thật lặng lẽ. Bà con không có nhiều. Đông nhất là học trò của anh và hàng xóm  tiễn đưa đến nơi cuối cùng.
Sau đám tang anh một tuần Hải Đường lại phải lao vào công việc. Đau đớn và thương tiếc chồng cũng đành nén lòng để kiếm đồng tiền nuôi hai con và trả nợ.  Cuộc đời cơ cực cứ vậy mà lôi cô đi. Con trai lớn tội nghiệp  phải nghỉ học để đi học nghề, đau lòng lắm nhưng đành phải vậy thôi. Làm sao một mình Hải Đường có thể gánh vác được để cho con tiếp tục đến trường. Cô thật sự bất lực để kiếm đồng tiền nuôi con. Nước mắt chỉ biết nuốt vào trong nhìn con mới mười lăm tuổi phải vào đời kiếm miếng cơm.
Từ lúc ấy Hải Đường không còn để ý gì về mọi chuyện chung quanh nữa. Công việc bắt đầu từ sáng sớm và kết thúc vào 9 giờ tối hàng ngày. Ban ngày cô nấu chè bán cùng các loại nước giải khát và đồ tạp hóa. Hàng gì bán được cô cũng gom góp mua về bán. Đêm đến làm nhiều loại bánh để sáng sớm hôm sau đạp xe đi bỏ khắp nơi.
Khổ cực đến nỗi Hải Đường không còn nhớ chuyện gì đã xảy ra trong cuộc đời mình hơn hai mươi năm qua. Không có thời gian để nhớ về thân phận mình, để nhớ về những ngày xưa rằng cô đã có một thời đi học vui đùa cùng các bạn, đã có một tình yêu đầu đời thật đẹp. Thậm chí cô cũng quên luôn mình đã từng có một gia đình êm ấm, hạnh phúc. Quên luôn những khổ đau đã trải qua, vì chính thời gian này là thời kỳ bi đát nhất, khó khăn nhất trong đời cô.
 
Một điều kỳ lạ nhưng may mắn đã xảy ra. Vào đúng ngày mãn tang anh Thọ, mới sáng sớm, bất ngờ cô em chồng đến thăm, chạy ào vào nhà:
 
– Chị Hải Đường ơi! Em nằm mơ thấy anh Thọ về. Khuôn mặt anh buồn lắm. Anh vừa khóc, vừa nói với em đừng đòi lại số vàng đã cho anh chị mượn. Anh xin em cho chị vì biết chị trả không nổi. Sáng nay em đã ra mộ thắp hương đồng ý rồi. Thôi chị đừng lo nữa, em cho chị để nuôi cháu. Chị yên tâm nhé!
 
Hải Đường mừng rỡ đến nghẹn ngào không nói được lời cảm ơn cô em chồng. Chỉ biết ôm chặt lấy cô ấy mà khóc nức nở.
Vậy là  bớt đi một nỗi lo. Hải Đường biết ơn vô cùng. Tình cảm và sự cưu mang của cô em chồng Hải Đường nhớ mãi mãi.
 
*****
 Thời gian vun vút trôi nhanh. Con trai chị bây giờ đã khôn lớn, bắt đầu kiếm được tiền giúp đỡ mẹ và em. Hải Đường  sung sướng khi con  đem đồng tiền đầu đời của nó kiếm được đưa cho mình. “Con đã trưởng thành rồi, Mẹ mừng lắm!”. Chị xúc động nói với con như vậy. Con trai đã lớn, chững chạc, hiền lành và giống ba như đúc. Hải Đường không phải làm công việc của người đàn ông nữa, không phải leo lên mái nhà để lợp lại tấm tôn tốc mái. Đóng những cây đinh để treo hàng hóa hay cầm cái cưa xẻ tấm ván làm ghế ngồi. Chị sung sướng nhìn con đóng cái bàn, cái ghế, sửa lại hàng rào… Làm những việc mà trước đây chị phải gánh vác thay chồng.
Bây giờ nhà chị thực sự đã có người đàn ông rồi.

Vất vả để nuôi con, thân xác héo hon, nhan sắc cũng úa tàn theo. Hải Đường đóng chặt trái tim mình như sợ ai đó biết được nó đang cô đơn mà gõ cửa. Chị sống an phận, nén buồn tủi với  tiếng thở dài.

Nhiều người đàn ông nhìn ngó, đánh tiếng. Trong số họ cũng có  người không vướng bận gia đình, kinh tế khá giả nhưng chi không để tâm. Lòng đã lạnh nguội rồi. Chị đã có hai con trai và đó là chính cuộc đời của chị. Con  ngày càng khôn lớn và chị cảm thấy mình được bảo vệ, chở che. Còn gì hơn nữa. Ấm lòng, hạnh phúc trong cảnh mẹ góa con côi chị luôn cầu mong sao quãng đời còn lại được bình yên, may mắn.

Cuộc sống cứ trôi đều. Cuốn Hải Đường theo với những tháng ngày cực nhọc, buồn tủi.  Chị không còn nhớ ai và cũng không muốn nhớ về ai. Thật ra cũng chẳng còn ai để cho chị nhớ về. Hải Đường quên hết, sống khép kín trong vỏ ốc cô đơn. Chị biết chẳng ai còn nhớ đến mình. Bạn bè ư ?  Một thời đã xa rồi. Tình yêu ư? Trái tim  héo khô rồi. Nơi vùng đất xa xôi cao nguyên này chỉ còn lại mình chị và hai đứa con tội nghiệp sống trong nghèo khổ mà thôi. Một thời nhan sắc đã qua, cái khổ tàn phá dung nhan chị. Một người phụ nữ hồng nhan bạc mệnh.

Có những chiều ngồi giặt áo quần bên giòng kênh nhìn nước chảy cuồn cuộn, Hải Đường chợt nhớ đến con suối  năm xưa. Chị nhớ những đêm trăng cùng chồng ngồi trên tảng đá to nhìn trăng lên. Hải Đường nhìn xuống giòng kênh ấy và nhìn  thấy chồng mình ngồi trầm tư nhìn ánh trăng trên giòng nước chảy lững lờ bên giòng suối năm xưa. Nhìn thấy từng mảnh trăng vỡ vụn dưới những bọt nước bên khe đá.

Con kênh đưa giòng nước chảy về đâu? Có đem theo được nỗi lòng Hải Đường về lại chốn cũ. Nơi những đêm trăng chị ngồi bên chồng, tựa đầu vào vai anh nghe hạnh phúc trào dâng.
Có mang dùm tâm hồn nhỏ bé tội nghiệp của chị về đâu đó xa xa, nơi ấy có anh, mối tình đầu vụng dại. Giòng kênh nước chảy ơi! Nước mắt chị lại hoà xuống dòng kênh, trôi đi.
 
Có những đêm mệt lả người Hải Đường ngủ  thiếp đi. Trong mơ màng giấc ngủ hiện về những ngày tươi đẹp hiếm hoi của đời mình.

Chị mơ thấy Ba chở đến Đài phát thanh Huế, nơi Ba vẫn thường làm việc. Cô bé năm tuổi đứng đằng trước hai tay vịn vào ghi đông. Ba ngồi trên xe hai đầu gối giữ chặt, vừa chạy vừa cúi xuống hôn lên tóc cô con gái bé nhỏ .
Chị mơ đang chơi cờ cá ngựa cùng chồng. Khi  bị thua, anh vừa nhẹ nhàng vuốt mũi vừa nheo mắt chọc chị. Tức quá,chị khóc không thèm chơi mặc cho anh năn nỉ.
Chị mơ những đêm trăng lẽo đẽo theo anh đi dọc con suối, tay cầm giỏ đựng cá, hai vợ chồng vừa đi vừa hát nho nhỏ.
Chị mơ về mối tình đầu. Nụ cười nửa miệng và đôi mắt nhìn nghiêng của anh. Mơ thấy anh băng nhanh qua hành lang lớp học, nghiêng đầu nhìn. Bóng anh mờ dần dưới sân trường rồi mất hút đằng sau cánh cổng.
Chị mơ cùng bạn bè tung tăng ngoài cửa lớp, mơ điệu múa  Vọng cố đô với áo Hoàng bào rực rỡ.
.
Chị mơ nhiều lắm để rồi khi tỉnh giấc, những giọt nước mắt lăn dài trên má.
Và như vậy Hải Đường cứ mơ, mơ và mơ. Những giấc mơ an ủi chị, đem lại hơi thở cuộc sống  sau những giờ mệt nhọc. Giấc mơ cho chị thêm nghị lực, dìu chị đi như đứa bé con mới lớn chập chững những bước vụng về.
Hải Đường mơ nhiều lắm. Vì chỉ có mơ mới đem lại cho chị niềm hạnh phúc mà thôi, dù biết rằng đó là hạnh phúc trong mơ.

Ngày cuối thu năm 2000.
 
Có tiếng chuông điện thoại đổ vang, liên hồi.
Tiếng điện thoại reo vang nhiều lần nữa nhưng Hải Đường vẫn ngồi làm việc. Rồi tiếng chuông cũng tắt như mệt mỏi..
Đến trưa, khi chuẩn bị dọn dẹp bếp nướng bánh, tiếng chuông điện thoại lại vang, vội vã, thúc giục. Hải Đường đang đứng gần bên điện thoại nên cầm ống nghe.
– A lô !

-A lô!
– “…Tôi ước ao được nói với kỷ niệm của ngày xưa cũ rằng. Ánh mắt thương yêu và những ý nghĩ trầm mặc đã đưa tôi vào cõi thần tiên. Để tôi lạc bước trên những đường mây rộng thênh thang…”
– Tôi xin lỗi, ai vậy?
 
Làm việc vất vả nhưng Hải Đường không hẳn đã quên cuộc gọi bất ngờ, kỳ lạ đó. Có một điều gì là lạ khiến chị tò mò. Cũng không hẳn vây. Một bản năng trỗi dậy trong chị khi nghe đoạn văn với cái chất giọng vừa lạ, vừa quen kia. Nó thôi thúc chị, nhắc nhở chị quay về một nơi mình đã ra đi. Nó không phải là một vùng đất, một nơi chốn. Nó mơ hồ, mong manh, mờ nhạt. Nhưng nó đã có thật. Nó ở trong sâu thẳm tiềm thức chị. Chắc chắn vậy! Hải Đường cố nhớ!
Cuộc sống không có ngày Chủ Nhật “Một ngày như mọi ngày”, kể cả những ngày lễ tết vẫn thui thủi một mình kiếm tiền để sống, nuôi con. Những ngày này nó đem lại cho Hải Đường nguồn thu khá lớn. Phục vụ cho những người đi chơi. Vậy là chị làm việc đủ ba trăm sáu mươi lăm ngày trong một năm.
Một tuần sau, tiếng chuông điện thoại lại reo trong lúc công việc đang dang dỡ như lần trước. Hải Đường lẩm bẩm ”Ai đó muốn chọc ghẹo sao?” Hải Đường thầm nghĩ vậy. Tiếng chuông thôi thúc rộn ràng hơn, quyến rũ dịu êm hơn. Chị đến bên điện thoại:
– A lô !
Im lặng. Có tiếng thở nhẹ trong ống nghe:
– A lô !
Vẫn tiếng thở nhẹ nhưng nhanh hơn:
-A lô !
Một giọng nói gấp gáp:
-Hải Đường phải không? Có phải em đó không?
Hai chân Hải Đường chôn chặt, toàn thân cứng đờ, mười đầu ngón tay như có giòng điện chạy qua. Chị không  cầm nổi cái ống nghe nữa, bàn tay rơi xuống mặt bàn cùng với nó. Hải Đường nghĩ trái tim mình  đã ngừng đập mất rồi. Giọng nói như xa, như gần. Như quen, như lạ. Âm thanh ấy đâu đó trong tiềm thức vọng về. Khơi gợi, xé toang u mê. Khó khăn lắm chị mới cầm được ống nghe .
– Phải.. không..?
Tiếng nói nhỏ, van xin.
– Anh đây! Đừng bỏ máy! Hải Đường phải không?
Tôi nghẹn ngào:
– Anh.. Anh  phải không? Dạ, em!
Giọng run run:
– Anh gọi cho em đây!.
Hai hàng nước mắt chảy dài, chị nói từng tiếng:
– Sao anh biết số điện thoại của em?
– Anh biết qua một người quen. Anh xin lỗi. Hải Đường đang bận phải không?
– Dạ, cũng bận nhưng mình nói chuyện với nhau được mà anh.
– Vậy giờ nào, ngày nào trong tuần em rảnh? Anh ngại làm phiền em.
– Khoảng 5 giờ chiều, anh.
– Vậy chiều mai, 5 giờ anh gọi cho em nghe. Anh muốn được nói chuyện thật nhiều, thật lâu với em. Được không?.
Hải Đường hốt hoảng:
– Thôi bây giờ nói chuyện luôn đi. Mai em bận rồi.
Thật ra chiều mai chị chẳng có việc gì phải bận cả, công việc hằng ngày cứ trôi đều như vậy. Ngày nào mà không bận. Nhưng có gì bận rộn hơn được nghe anh nói, điều mà chị đã chờ đợi suốt gần ba mươi năm qua. Giọng anh ấm và chậm rãi:
– Vậy thì mình nói chuyện với nhau nhé.
– Dạ, anh nói trước đi. Em không biết nói chi với anh hết.
Anh cười :
– Thì em nói cái chi cũng được mà. Anh muốn nghe được em nói lắm. Anh nhớ em. Nhớ giọng nói của em quá!
Hải Đường thì thầm:
– Dạ.. em cũng vậy.
– Anh cũng chờ em lâu lắm rồi. Anh đi tìm em cả đời mình.
Lúc này Hải Đường đã lấy lại bình tĩnh hơn, chọc anh:
– Mà sao giọng anh nói nghe lạ dữ rứa.
Hình như khi nghe tôi nói, anh có vẻ không vui:
– Họ già rồi thì giọng nói phải khác đi chứ. Lạ lắm sao?
– Không, em nói vậy thôi vì không nhận ra giọng của anh ngay từ đầu. Em xin lỗi.
Giọng anh như chùng xuống:
– Tại em quên anh từ lâu rồi nên mới không nhận ra thôi. .
– Em nói thật mà.
– Thôi, bỏ qua cái giọng nói đi. Em có khỏe không? Chuyện chồng con?
– Anh Thọ mất lâu rồi, anh không biết sao?
– Anh biết! Ngày anh Thọ mất, anh định vào chia buồn với em, nhưng nghĩ lại không hay lắm, mọi người và cả em nữa lại nghĩ không tốt về anh, nên thôi. Anh có lỗi với em. Còn bây giờ thì sao, em sống với ai?
– Sao anh lại nghĩ về em như vậy? Người đàn ông nào có thể đi vào đời em được kia chứ?
– Anh.. xin lỗi em. Nhưng anh tưởng..
– Em vẫn ở vậy từ ngày anh Thọ mất, sống với hai con trai em. Anh đang ở đâu mà gọi cho em vậy?
– Quán cà phê. Một mình. À, Mà không phải dưới giàn bông giấy đâu nghe, anh về quê từ sau 30/4.
Giọng nói anh trở lại bình thường và vẫn cách nói bông đùa:
– Anh đang uống cà phê, nghe nhạc Trịnh. Không thập thò đưa thư như ngày xưa nữa đâu.  Gìa rồi!. Nhưng mà bỗng dưng nhớ em quá. Anh nói thật.
– Còn vợ con anh ra sao?
– Ừ, thì một người vợ bình thường, không đẹp như em nhưng tuyệt vời. Anh có hai con, một trai một gái.
Hải Đường muốn nói chuyện với anh nhiều nữa nhưng e ngại vì thời gian xa cách quá lâu, giữa hai người đang có một khoảng cách hai bảy năm không gặp. Cả hai đều ấp úng không biết nói những gì dù muốn nói mãi.
– Chúc anh hạnh phúc. Lúc khác mình nói chuyện nha anh!
– Ừ, mai anh gọi. Em chờ anh năm giờ chiều nhé.
– Da, em chờ.
Đêm đó Hải Đường thao thức không sao ngủ được, miên man với những kỷ niệm ùa về.

Cậu thư sinh áo trắng ngồi quay lưng lặng lẽ bên giàn hoa giấy đỏ. Có cô gái bên trong của sổ trộm nhìn.  Những mảnh giấy viết vội.
Nụ cười anh, nụ cười của Mona Lisa. Đôi mắt nhìn nghiêng, giếng sâu bên má.
Nụ hôn nhẹ như con chuồn chuồn chạm nước một chiều bên suối.
Buổi nắng sớm bên bờ biển sóng vỗ rì rào. Anh choàng tay qua bờ vai gầy định hôn lên mái tóc . Họ cãi nhau rồi giận hờn. Rồi từ đó không còn nói với nhau một lời nào nữa. Hai mươi bảy năm biền biệt xa.
Màu đỏ hoa phượng ngập bóng anh. Khuất dần nơi sân trường rồi tan nhanh sau cánh cổng màu xanh.
Anh dựa lưng vào tường, hai tay ôm ngực, đầu cúi xuống trong buổi lễ hỏi . Đôi mắt u buồn.
Dáng anh khắc khổ đứng trước quán Hải Đường. Người bên này người bên kia nhìn nhau ngậm ngùi. Buổi chiều nắng đẹp.

Ôi! Biết bao kỷ niệm của hai người hiện về cùng lúc trong tâm hồn Hải Đường  đêm nay. Chị  hạnh phúc quá.

Chiều hôm sau anh không gọi như đã hứa. Hải Đường bần thần trông ngóng tiếng chuông điện thoại. Im lặng. Hôm sau và hôm sau nữa, đến ngày thứ tư, đúng 5 giờ chiều anh gọi. Tiếng chuông điện thoại rộn ràng khiến cho Hải Đường hoảng hốt, run rẫy. Phải anh đó không? Chị vội vã  cầm ống nghe:
– A lô !
– Anh đây ! Em khỏe không?
Hải Đường giận hờn:
– Em bình thường. Sao mấy ngày rồi anh không gọi?
Anh lúng túng:
– Anh muốn lắm. Đêm nào anh cũng cầm điện thoại lên nhưng rồi lại thôi. Anh ngại làm phiền em, sợ em không muốn nghe.
Chị trả lời thật nhanh:
– Không ! Không. Em chờ anh gọi mà.
– Em nói thật chứ?
Hải Đường nghe tiếng anh nghẹn lại bên kia đường dây. Chị im lặng, không nói gì, chỉ thấy lòng mình ấm lại sau câu hỏi của anh. Bất ngờ anh nói:
– Anh đứng ở trước quán Hải Đường của em đây. Người ta xây nhà tầng rồi em. Anh muốn gặp em.
Hải Đường hoảng hốt:
– Anh nói sao? Sao lại ở đó?
– Mấy ngày qua anh suy nghĩ rất nhiều. Anh rất nhớ em. Nếu em đồng ý, vài giờ nữa mình sẽ gặp nhau. Được không em? Chỉ còn vài chục cây số thôi mà.
Chị lo lắng :
– Không! Không thể được đâu anh. Đừng đến. Em sợ lắm!
– Em sợ ai? Em đang sống với người đàn ông khác phải không?
– Không! không . Hải Đường  nói nhanh.  Không có ai đâu anh. Nhưng em sợ lắm!
– Tại sao em phải sợ. Anh chờ ngày hôm nay lâu rồi. Hai bảy năm anh luôn đi theo bước chân em…Dù không gặp em nhưng em ở đâu, làm gì, những gì xảy ra trong cuộc đời em anh đều biết. Em đừng nghĩ rằng anh quên em. Không đâu em.
 (Sau này anh kể cho chị nghe, làm sao mà anh đã biết về cuộc sống của chị như thế nào trong những năm qua).
– Em muốn lắm nhưng mình không thể gặp nhau bây giờ được. Em sợ! Còn nhiều việc mình phải suy nghĩ đã anh. Nếu còn thương em, xin anh đừng đến.
– Anh chuẩn bị cho chuyến đi này lâu lắm rồi em. Một chuyến đi mà anh phải sắp đặt hơn hai mươi năm mới làm được. Em phải tin anh. Anh không thể về mà không gặp lại em.
Có nhiều lý do Hải Đường không muốn gặp anh lúc này. Chị sợ anh thất vọng khi nhìn thấy chị  không như xưa nữa. Nhan sắc tàn phai. Sống trong căn nhà mái tole lụp xụp nghèo nàn. Không có nổi bộ bàn ghế đàng hoàng để tiếp anh. Nhưng điều Hải Đường lo sợ nhất khi gặp anh còn một lý do khác lớn hơn nhiều.
Chị cương quyết:
– Không được! Em không thể gặp lại anh.
– Em khác ngày xưa nhiều quá. Nếu ngày đó em cũng cương quyết như bây giờ có lẽ anh và em không phải khổ sở đến mấy chục năm.
Chị chạnh lòng khi nghe anh nói nhưng vẫn không thay đổi.
– Anh nghe em! Chuyện cũ qua lâu rồi, anh đừng nhắc lại nữa buồn lắm. Mình có thể gặp nhau nhưng không phải là bây giờ. Mong anh hiểu cho em.
– Anh không muốn hiểu gì hết. Anh chỉ muốn gặp lại em thôi. Một lần duy nhất thôi. Anh biết vì sao em ngại gặp anh. Nhưng em đừng nghĩ như vậy. Anh biết em không còn đẹp như xưa nữa. Yêu em không phải vì nhan sắc. Anh yêu mối tình đầu của anh.  Nó đi theo suốt cả đời anh. Em hiểu không?
Anh nói một hơi dài, vừa giận dỗi vừa như muốn kéo Hải Đường lại gần anh hơn. Nhưng chị không thể nào nghe theo lời anh bây giờ được. Dứt khoát là như vậy. Thật sự là chị sợ. Rất sợ. Hải Đường van xin anh:
– Anh! Hãy để cho mọi thứ qua đi. Hãy xem em như một người bạn cũ. Em sợ gặp lại nhau lắm. Chúng ta, mỗi người đều đã có cuộc sống riêng, đã an phận với những gì mình có lâu nay. Em xin anh, đừng đến nếu anh vẫn còn yêu thương, còn nhớ đến em. Em nói thật lòng mà. Đừng nghe anh!
Nước mắt ràn rụa trên hai má, chảy dài xuống nơi ống nghe điện thoại khiến tay chị không cầm chặt được nó.
Anh chưa bỏ cuộc:
– Một lần này đi em. Anh nhớ em! Đã đi năm trăm cây số vào đây rồi. Muốn gặp được em. Gần ba mươi năm anh mới đủ can đảm làm điều này. Em biết không? Chỉ một lần được nhìn thấy em, nói với em vài câu rồi anh trở về cũng được mà.
Hải Đường cương quyết không để cho anh thuyết phục:
 – Em nói rồi. Không được là không được. Anh đến, em sẽ tránh mặt. Hãy nghe lời em. Bây giờ không thể được. Có thể sau này cũng vậy. Chỉ cần thỉnh thoảng nghe anh nói qua điện thoại cũng đủ hạnh phúc cho em lắm. Quay về đi anh.
 
Hải Đường không nghe tiếng anh nói mà chỉ còn những tiếng thở dài. Anh im lặng, lòng chị nặng trĩu nhưng biết làm sao hơn. Không thể được! Dứt khoát  không thể gặp nhau trong lúc này được. Có thể là mãi mãi về sau này cũng vậy. Hải Đường nghĩ bây giờ chị chẳng  còn gì nữa. Cô bé học trò ngày xưa kiêu sa, xinh đẹp của quá khứ rồi. Tình yêu của chị và anh cũng vậy. Đã qua rất xa và nằm sâu trong ký ức mỗi người. Hãy để cho tình yêu ấy đẹp hơn nữa nếu vẫn là kỷ niệm một thời đã xa. Hải Đường không muốn mất đi mối tình đẹp đẽ đó. Không muốn cho những ngày xa xưa với tình yêu đầu đời tan biến đi sau khi gặp lại nhau. Vì nó là một phần của cuộc đời chị. Hải Đường không muốn gặp anh là vì vậy.
Lâu sau anh thì thầm với chị:
– Vậy thôi! Em đã cương quyết, anh không muốn em không vui, khó xử. Anh sẽ đợi.
Hải Đường im lặng.
– Nhưng em hãy biết rằng mấy chục năm qua chưa bao giờ anh quên được em. Hình bóng em vẫn nằm mãi trong tim anh. Sau này có dịp anh sẽ kể cho em nghe anh đã đi tìm em như thế nào trong suốt thời gian ấy. Nhất là cái ngày anh vào tìm em sau khi em về làm vợ anh Thọ. Thôi, anh chúc em mạnh khỏe. Một ngày gần đây anh sẽ gọi lại cho em.
– Em xin lỗi anh.
– Em không có lỗi gì hết.  Anh cũng vậy. Tất cả đều là định mệnh.Trước khi vào đây anh nghĩ em sẽ vui. Anh sẽ được em mừng rỡ đón tiếp. Nhưng không phải vậy, đó cũng là lý do vì sao bao nhiêu năm anh không dám gặp lại em. Anh sợ em từ chối. Anh sợ cái nhìn lạnh lùng, xa lạ của em. Vì trong anh luôn có một ý nghĩ, từ ngày anh bỏ ra đi. Anh chẳng là gì của em. Thôi vậy cũng được. Chiều nay anh sẽ quay về.
-Em xin lỗi!
Nước mắt Hải Đường ràn rụa trên má. Anh dừng lại một lúc lâu vẫn chưa chịu tắt máy điện thoại.
-Em này! Có thật sự em không muốn gặp anh?
Hải Đường ngập ngừng:
– Dạ…không!
– Không…là sao em.
– Dạ… muốn!
– Anh nhớ em. Sẽ chờ em cho anh cơ hội. Thôi, anh tắt máy đây.  Khi nào anh có thể gọi lại cho em được?
Nghe giọng anh buồn mà lòng tôi hiu hắt:
– Lúc nào cũng được. Thuận tiện thì anh gọi.
– Anh mong em luôn vui vẻ và khỏe mạnh. Mong mọi an lành cho em.
– Em cũng mong anh như vậy. Nhớ giữ gìn sức khỏe.
Hải Đường cúp máy và lau nhanh những giọt nước mắt còn lại trên má.

NGUYỄN THỊ NGỌC LAN

THÔI THÌ…

vudinhhuy

Thôi thì
nương náu vào em
Bại tướng ngã ngựa
phải hèn chứ sao
Cúi đầu
tạ lỗi trời cao
Ngoảnh nhìn lần cuối
vẫy chào nhân gian
Em ngồi yên nhé
hồng nhan
Ta xin kẻ lại
đôi hàng mi ngoan
Ô hay
tội lỗi nhân gian
Chúa cõng Thập tự
em mang qua cầu
Mắt em
là đáy bể dâu
Rưng rưng bại tướng
kẻ mầu
rưng
rưng.

VŨ ĐÌNH HUY

Những buổi chiều bình yên ấy

daothithanhtuyen

Trước đó là quãng thời gian đầy sóng gió với gia đình chúng tôi (tôi, Khang và Nhím), đặc biệt là Khang, anh phải gồng toàn bộ gánh nặng gia đình khi ấy. Thế nhưng với tôi, không thể có khoảng thời gian và không gian nào êm đềm hơn thế trong cuộc đời của mình.
Mùa hè năm đó Nhím chuẩn bị vào lớp 9. Chúng tôi dọn về Th. sau khi Khang vấp một cú lừa, gần như trắng tay trong một phi vụ làm ăn, không dính vào vòng lao lý là may! Tôi, cách đó không lâu, một ngày, chợt phát hiện mình không còn khả năng làm mẹ vĩnh viễn bởi một khối u hiện hữu trong cơ thể có nguy cơ chuyển thành K. nếu không phẫu thuật sớm.
Tôi suy sụp nhìn Khang đầu bù tóc rối, ánh mắt vô hồn. Bé Nhím nhìn ba mẹ và mím môi xếp sách vở vào thùng, lấy băng keo dán kín, chờ đợi một chuyến chuyển nhà, quyết không rơi một giọt nước mắt và không bước chân ra khỏi nhà dù bạn bè nó suốt ngày gọi điện thoại rủ đi đâu đó để chia tay.
Đêm trước ngày phẫu thuật, tôi chỉ nói với Khang một câu rằng biết đâu tôi không qua khỏi và Khang hãy gắng nuôi Nhím đến bờ đến bến, sau đó giữa chúng tôi là khoảng không im lặng đến ghê người. Tôi không hiểu Khang nghĩ gì và tôi biết chắc chắn rằng khi ấy, tôi không quan tâm đến điều đó nhiều lắm. Những suy nghĩ trong đầu tôi bị chẻ vụn, xáo lên, trộn xuống lộn xộn.
Đêm dài như vô tận! Ánh đèn néon cùng với màu tường sơn trắng tạo thành một màu chói lóa. Tôi nhắm mắt. Không nôn nao, không chờ đợi. Phía trước mặt là bức tường chắn ngang, không có con đường đi tiếp nhưng cũng không thể ngoái về phía sau, nơi có những con đường đã đi qua nhiều gập ghềnh, xô lấn; vinh quang cũng có mà đắng cay cũng từng.
Thỉnh thoảng có tiếng chuông điện thoại reo lên và giọng khàn đục của Khang trả lời ai đó, rồi mọi thứ chìm vào yên lặng khiến tôi có cảm giác tiếng máy điều hòa dường như to quá, nó vang lên rồi ong ong trong đầu tôi những âm thanh hỗn tạp không phân biệt là của đường phố, hay tiếng sóng biển, hay tiếng gió mưa gào thét. Rồi bỗng dưng những âm thanh ấy chợt tắt ngúm và tôi như người đang chạy nước rút, bị hụt chân, mất thăng bằng ngã chúi nhủi.
Sau này, Khang nói có lúc anh thấy tôi lim dim, lơ mơ, rồi tôi nói thầm điều gì đó, rồi lại mở to đôi mắt nhìn lên trần nhà không chớp và anh bỗng thấy tôi xa lạ, một người nào rất khác chưa hề một lần quen biết!
Sáng hôm sau, Khang tiễn tôi một đoạn ngắn trong hành lang bệnh viện, tôi không quay đầu lại bởi bước chân và ánh mắt tôi phải bám theo tấm áo blouse trắng trước mặt. Mọi thứ sau đó diễn ra rất nhanh cho đến khi tôi thấy lạnh, rất lạnh, run lên từng cơn, lập cập, tôi lập bập trả lời cô y tá những câu hỏi gì đó rồi chìm vào vô thức cho đến khi những cơn đau dồn dập thúc tôi tỉnh dậy.
Những ngày sau đó, tâm trí tôi chỉ chú mục vào cơn đau và cố gắng làm mọi cách xoa dịu nó. Tôi hoàn toàn không quan tâm Khang làm thế nào để có cho tôi những chén cơm mềm, canh nóng hay Nhím ở nhà ăn gì. Mối quan tâm của tôi lúc đó chỉ là nhịp thở. Tôi tập trung vào nó, hít thở và đếm, và cảm nhận được sự huyền nhiệm của thời gian qua từng giây, từng phút, từng giờ đồng nghĩa với cơn đau lui dần từng chút một cho đến ngày tôi đi đứng bình thường và chúng tôi dọn về Th.
Nơi gọi là nhà chúng tôi khi ấy là một dãy nhà cấp bốn, gồm ba phòng mà Khang ký hợp đồng thuê trong thời hạn mười năm của một trung tâm thể dục thể thao sau khi anh trúng thầu quản lý sân quần vợt cũng từng thời gian ấy. Trung tâm có một nhà thi đấu, câu lạc bộ bóng bàn, quần vợt, võ thuật và một sân bóng đá đúng tiêu chuẩn cho những trận thi đấu cấp thành phố. Khang đem tiện nghi về cho gia đình chúng tôi sao cho mọi người không cảm giác đang ở nhà thuê.
Bé Nhím có một phòng riêng đầy đủ mọi thứ phục vụ học tập và giải trí. Kế đó là phòng tôi và Khang, còn lại một phòng dành cho bạn bè thân thiết đến chơi, ở lại. Phòng nào Khang cũng sửa sang thật đẹp, ấm cúng, anh muốn khách đến với gia đình chúng tôi được thoải mái như ở nhà họ. Khang còn chu đáo mang về hai con chó nhỏ đẹp như hai con chó bông, một con Nhím đặt tên là Lu, một con tôi đặt tên là Rem.
Phía trước nhà có cái sân rộng, Khang mua vài cây lớn về trồng tạo bóng mát, trong đó có một cây sa kê. Anh đặt bên dưới gốc cây một cái xích đu, mấy bộ bàn ghế thấp, thế là có ngay một nơi để anh tiếp khách và phục vụ nước giải khát cho khách chơi thể thao.
Từ vị trí giám đốc một doanh nghiệp, dưới tay có vài chục nhân viên, Khang chấp nhận và vui vẻ lui về làm ông chủ hàng nước, chủ yếu có tiền cho tôi đi chợ, cho Nhím đi học thêm. Việc chính của anh là những cú (mà anh gọi là) “áp-phe” anh có được từ sân quần vợt. Với một người chơi quần vợt giỏi và dễ tạo mối quan hệ thì đây rõ ràng là một thuận lợi.
Phía sau nhà là sân bóng đá, cỏ xanh trải dài ngút mắt, chưa bao giờ tôi đi bộ hết một vòng. Tôi thích ngồi hàng giờ ở đó những buổi chiều thả suy tư mình đi từ miền này đến miền khác của ký ức. Tầm năm rưỡi chiều, nắng vừa tắt, trong khi chờ Nhím đi học thêm về và Khang vẫn còn hào hứng với những pha cắt bóng ở sân quần vợt thì tôi lững thững ra sân cỏ. Lu và Rem lũn cũn chạy theo.
Nơi ấy có sẵn hai cái ghế dài cùng một cái bàn và một cái ghế dựa là những thứ phục vụ cho trận bóng đá còn lại chưa dọn dẹp. Đến tối có người mang tất cả vào nhà và sẽ mang ra vào hôm sau để phục vụ các trận bóng đá khác.
Khi tôi ra sân, lúc nào cũng có một nhóm con nít đi học bóng bàn sớm tranh thủ tạt vào chạy nhảy, hay mang banh vào đá, hay chơi với Lu và Rem. Chúng mê hai con chó đến nỗi có đứa sẵn sàng hi sinh gói bánh snack hay ổ bánh mì thịt để dụ Rem chạy theo chúng lòng vòng trên sân cỏ, có đứa thích thú ngã lăn quay theo Rem và Lu khi chúng đùa giỡn nhau.
Những suy nghĩ của tôi cứ miên man, khi thì theo bước chân chạy nhảy của bọn trẻ, khi thì say sưa với trò vật lộn của Lu và Rem, khi thì dõi theo đường lăn của trái banh quần vợt màu xanh mà bọn trẻ quăng ra để nhử Lu. Tôi kéo hồi ức về tuổi thơ, về tuổi dậy thì, về những ngày trong trường đại học và về Khang.
Ngày tôi đưa Khang về nhà, mẹ tôi, một phụ nữ đơn thân, có cái nhìn hơi kỹ tính về đàn ông nói với tôi rằng Khang có gương mặt hiền, nhưng đôi mắt lại đầy tham vọng. Người như thế không bao giờ bằng lòng với những ngày thật bình yên. Với anh ta, đó chỉ là những năm tháng phí hoài hay để dừng lại chờ một cơ hội khác. Khi ấy tôi không quan tâm nhiều đến lời nhận xét của mẹ bằng cái gật đầu của bà chấp thuận cho chúng tôi có một đám cưới.
Rồi Nhím ra đời, lúc nào cũng cười. Mẹ tôi nói nụ cười của Nhím sẽ giúp chúng tôi làm ăn khá, nhưng liền sau đó bà lại chép miệng bảo đôi mắt của Khang sâu quá, khi tối, khi sáng quá!
Quả đúng vậy, Khang làm ăn lên như diều. Một phân xưởng rồi hai phân xưởng, một miếng đất rồi hai miếng đất… Tôi nghỉ việc, về nhà quản lý sổ sách, lo toan gia đình, đưa đón Nhím đi học…
Nghĩ đến quãng thời gian đó, tôi thường phóng tầm mắt nhìn bao quát hết sân cỏ rộng có tiếng cười giòn tan của lũ trẻ. Có mùi cỏ ướt vừa được tưới nước lẫn với mùi đất và mùi nắng nương theo gió lúc nhạt, lúc nồng. Và gió. Gió mơn man, lúc nhẹ nhàng, lúc suồng sã, khi nồng nàn, khi âu yếm, khi phóng khoáng, lúc bao dung… Tôi hít mãi mùi cỏ ướt, ngắm mãi mặt sân cỏ, tâm trạng không buồn, không vui, chỉ thấy lòng rất thanh thản.
Đến khi chiều dần sụp xuống hết, lũ trẻ lần lượt được ba mẹ đón về nhà, Lu và Rem mỏi mệt, lười biếng, nằm phục dưới chân tôi vụt ngẩng đầu, nghe ngóng rồi phắt nhanh phóng ra phía trước khi có tiếng chuông xe đạp leng keng của Nhím đi học về. Tôi trở về phòng chuẩn bị cơm nước cho ba người. Tham gia một chút với Khang cùng bạn bè ngồi uống bia sau trận đấu, chấm hết một ngày. Những ngày có những buổi chiều rất bình yên.
Hè năm sau đó Nhím thi đậu vào trường chuyên. Khang nghĩ xa hơn là Nhím cần nên đi du học sau này và tôi thấy anh có những buổi tối ngồi ở bộ bàn ghế dưới cây sa kê đốt thuốc liên tục. Tôi chợt nhớ lời mẹ tôi đã ra người thiên cổ rằng đôi mắt Khang khi thì tối quá và lúc thì sáng quá!
Hai năm sau, Khang để lại cho tôi sân quần vợt cùng quán nước, anh trở lại S. nói là cần phải gầy dựng lại những gì đã mất.
Những buổi chiều thật bình yên của tôi thưa dần dù sân bóng vẫn còn bọn trẻ chơi đùa với Lu và Rem và mùi cỏ lúc đậm, lúc nhạt phảng phất đến chỗ tôi ngồi trên cái xích đu. Tôi không còn thì giờ ra ngồi trên cái ghế dài trên sân bóng đá, tôi bận thu tiền, tính giờ và phục vụ nước cho khách.
Nhím đi học thêm nhiều hơn, những bữa cơm của chúng tôi hoặc sớm quá hoặc tối quá. Chúng tôi không còn những sinh hoạt gia đình giống như những gia đình bình thường khác. Thỉnh thoảng Khang về, nếu không làm vài set với bạn bè thì anh lại ngồi rất lâu dưới gốc cây sa kê và hút thuốc. Giữa chúng tôi khi ấy chỉ là những kế hoạch cho Nhím, thỉnh thoảng Khang nhắc đến khoản tiền tích lũy để gia đình có thể trở về những ngày xưa ở S.
Tôi nói với Khang rằng tôi thấy mỏi mệt, tôi thích những ngày thật bình yên có Khang, có Nhím và tôi có cái sân cỏ rộng để thả suy tư của mình trong buổi chiều tắt nắng. Khang nhìn tôi lạ lẫm, trong ánh sáng nhập nhoạng chiều chuyển sang đêm, tôi vẫn cảm nhận được những luồng tối sáng hiện ra trong đôi mắt anh, đó là lần đầu tiên tôi lờ mờ hiểu được những điều mẹ tôi đã dự đoán.
Mọi sự trôi đi như thế…
Ngày có tin Nhím đậu vào đại học y khoa thì tôi là người sau cùng biết tin Khang có người đàn bà khác cùng một đứa bé mới sinh. Nhím hình như không còn biết cười từ ngày ấy. Từ một đứa linh hoạt, vui tính, hồn nhiên, sôi nổi, nó bỗng nhiên trầm xuống và ít nói hẳn đi. Tôi đóng cửa quán nước buổi chiều và trở lại sân cỏ cùng với Lu và Rem giờ đã lớn không còn thích thú gì với những trò chạy nhảy của bọn trẻ ngoài mấy gói bánh snack.
Tôi ngồi mãi cho đến khi bóng tối phủ đầy cùng tiếng muỗi vo ve bên tai và Nhím bước ra ôm vai tôi, hai mẹ con vào nhà ăn cơm rồi tắt đèn đi ngủ sớm. Cả Nhím và tôi đều biết chúng tôi sẽ có những đêm rất dài, triền miên không ngủ được!
Khang trở về ngày tôi chuẩn bị đưa Nhím vào trường. Tôi đưa cho Khang tờ đơn ly hôn đã viết sẵn. Khang sang lại câu lạc bộ cho người khác quản lý khi chưa hết hạn hợp đồng. Tôi làm một con tính trừ, những buổi chiều bình yên của tôi chỉ có được hai năm. Quá ngắn cho một đời người, nhưng có lẽ quá dài cho một người như Khang. Với tôi, tôi không biết mình đã thật sự tận hưởng hết những buổi chiều thật bình yên đó hay không, chỉ biết mọi thứ đã chấm hết, một phần đời ngắn trong một đời dài…
Hai năm sau, Nhím có được học bổng đi học nước ngoài. Tôi quay lại Th. mua một miếng đất ở vùng ngoại ô và cất ngôi nhà nhỏ. Tôi tìm lại dãy nhà ba phòng ngày xưa và vòng ra sân cỏ. Mọi thứ vẫn vậy, sân cỏ vẫn êm đềm và mùi cỏ vẫn lẫn mùi đất cùng mùi nắng, nồng nàn. Hết bọn trẻ này lớn lên có bọn trẻ khác tìm đến câu lạc bộ bóng bàn.
Tôi ngồi lại một chút rồi đứng lên khi thấy lồng ngực mình nặng trĩu và mắt cùng sống mũi thì cay quá! Và đêm ấy, tự dưng tôi bật tiếng khóc thật to trong căn nhà còn nồng mùi sơn mới. Tôi, Khang, Nhím, Lu, Rem và sân cỏ… Những ngày bình yên ấy sao ngắn ngủi đến vậy? Tôi tự hỏi nhiều lần câu ấy cho đến khi thiếp đi trong một giấc ngủ đầy mộng mị…
Ba năm sau, tôi nhận được tin Khang bị ốm nặng khó qua khỏi. Báo tin cho tôi là một người bạn thời đại học. Anh nói với tôi rằng Khang bị ung thư dạ dày giai đoạn cuối. Tôi nên đi thăm Khang, nếu không còn tình nghĩa vợ chồng thì cũng là bạn bè những năm trong trường đại học.
Tôi sắp xếp mọi thứ, quay lại S. và ở với Khang ba tuần cuối cùng trong bệnh viện. Người phụ nữ sau này của anh cũng là một người quen biết cũ của chúng tôi. Giữa chúng tôi không còn thù hận, hờn ghen khi Khang nằm đó, gầy gò, dúm dó trong những cơn đau. Tôi nhớ lại những chén cơm mềm, canh nóng quãng thời gian tôi phẫu thuật. Đã trải qua, tôi biết chắc chắn giờ đây Khang chẳng nghĩ gì xa hơn đến việc làm sao dứt khỏi sự đau đớn. Trong mắt Khang, bóng tối phủ đầy, thảng hoặc lóe lên vài luồng ánh sáng rất nhạt và yếu ớt!
Có một lần, duy nhất, Khang tỉnh táo sau giấc ngủ dài không bị cơn đau hành hạ, Khang hỏi tôi Nhím sau này sẽ về hay ở lại? Tôi nói không biết. Giữa ba chúng tôi dường như từ rất lâu đã muôn trùng xa cách rồi!
Tôi điện thoại cho Nhím: ba có thể không qua khỏi, con thu xếp về gặp ba một lần cuối. Nhím chưa sắp xếp được ngày về thì Khang ra đi vào một buổi chiều có nắng vàng thật rực rỡ bên ngoài khung cửa sổ. Một chiếc lá chao nhẹ, rơi xuống, sau đó nhiều chiếc lá thi nhau lìa cành bởi một cơn gió ở đâu đột ngột thốc đến. Vợ Khang gào khóc. Tôi không khóc được như vợ của Khang, hình như nước mắt chảy ngược vào trong đã từ lâu lắm rồi!
Nhín nghẹn ngào với tôi qua điện thoại rằng mấy năm rồi con chưa thấy ba, mẹ thì con vẫn thấy hằng ngày qua webcam… Trước khi chấm dứt, Nhím bỗng nói: “Có bao giờ mẹ nghĩ ngược lại rằng mẹ có lỗi với ba?”.
Tôi không có thì giờ suy nghĩ về điều Nhím nói bởi còn phải phụ với vợ Khang lo cho Khang lần cuối.
Đêm cuối cùng ở S., tôi và vợ Khang có một bữa tối cùng nhau trong một không gian thật yên tĩnh, có tiếng nhạc nhè nhẹ, có bình hoa thật đẹp trên bàn và có cả nến. Vợ Khang nói với tôi những điều tương tự như lời của Nhím. Chị nói chính tôi đã đẩy Khang vào cuộc đời chị.
Những ngày đó, khi mà tôi chìm đắm trong khoảng trời bình yên của riêng mình thì Khang đã rất cô đơn. Ở tuổi 45, Khang còn quá trẻ để cột mình vào những buổi chiều nhàn nhạt ấy. Cuối cùng chị nói tôi chưa bao giờ yêu Khang như Khang đã yêu tôi. Tôi chỉ yêu khoảng trời nhỏ bé mà tôi cho rằng đã rất bình yên đó, và ôm một hi vọng hão huyền là có thể trói người đàn ông nhiều tham vọng, không bình thường bằng những điều tầm thường đến vậy!
Tôi trở về Th. và tìm lại sân cỏ ngày trước. Ngồi trên ghế dài, tôi chợt nhớ vô cùng tiếng chuông xe đạp leng keng của Nhím và tiếng cười to của Khang trên sân quần vợt. Chẳng lẽ đời người không có quyền tìm cho mình chốn bình yên? Ngày xưa có lần mẹ tôi cũng nói nhiệm vụ của tôi là phải đi theo những bóng tối và ánh sáng trong đôi mắt Khang, như Rem và Lu luôn phải nghe ngóng tiếng chuông xe đạp của Nhím.
Tôi ngồi mãi không muốn đứng lên dù bóng tối đã phủ đen sân cỏ và những con muỗi bắt đầu bản nhạc rất khó chịu bên tai khi nhận ra một điều, trong những ngày tôi cho là bình yên đó, cả tôi, Khang và Nhím đều cô đơn! Khang đứng trong bóng tối khao khát về ánh sáng.
Nhím cô đơn trên con đường đi tìm tương lai và tôi, tôi cô đơn bởi (vô tình hay cố ý) không muốn nhận ra ranh giới giữa bóng tối và ánh sáng để hiểu về người đàn ông có một thời là của tôi giờ vĩnh viễn dừng lại trên con đường đi không dài của đời người.

ĐÀO THỊ THANH TUYỀN

GIẤC NGỦ MÂY VÀNG

huytuong

Nằm nghe giấc ngủ mây vàng
Trôi qua ngày xế, vượt ngàn tử sinh
Thăm nhau trong cuộc vong tình
Ngậm ngùi chim hót như kinh triệu hồn
Trăng cầm lệ xuống càn khôn
Ngàn đêm máu chảy vỡ hồn hoa xưa…

HUY TƯỞNG

Mai Chúa Nhật

tranvanle

Bạn tôi nói quán cà phê đó ngon
Mai Chúa Nhật hai đứa mình tới đó
Bạn tôi già mà giống như đứa nhỏ
Một câu mời hai tiếng “đó” giòn tan!

Bạn tôi làm tôi nhớ thuở Việt Nam
Thời đi dạy học trò vui thiệt
Đứa nhỏ nào tóc trên đầu cũng xanh biếc
Và đầu Thầy tóc cũng …rất là đen!

Bạn tôi nói một câu rất là quen
Bao nhiêu chuyện đã quên, bỗng nhớ
Nhớ ngày vào lính xếp hàng ngồi trên cỏ
Như cái thời mình còn là học trò…

Nhớ những ngày mình mất tự do
Làm cúi mặt, mặc trời mưa hay nắng
Với chế độ biết rằng “không ở đặng”
Sống ngày nào thì hận đến muôn năm!

Bạn tôi gặp đây không phải bạn thân
Quen giữa đuờng mà cuối đời xa xứ
Tôi hỏi bạn tôi: “Tại sao ông không tự tử?”
Bạn tôi cười ruồi: “Tôi cũng giống ông thôi!”

Sáng Thứ Bảy hai đứa tôi cùng ngồi
Ở một quán cà phê có hành lang chật chội
Ai cũng hút thuốc nên hành lang đầy khói
Lòng tôi cũng đầy hư ảo ngày mai…

Mai Chúa Nhật, bạn tôi nhắc lại lần thứ hai:
“Mình đến đó, một quán cà phê nhiều gió
Mặc sức thả hồn cho hoa cho cỏ
Mặc sức ngắm nhìn hoa đỏ hoa vàng…”

Hai đứa tôi chia tay ở parking
Bạn tôi về Irvine, tôi về Los Angeles
Một ngày cuối tuần chấm hết
Trời rất xanh. Nhớ quá quê nhà…

Trần Vấn Lệ