
Cuối tháng ba, đã thấy lác đác trên mạng những hình ảnh về cuộc di tản 1975 ở Tây Nguyên, Quảng Trị, Huế, đã đọc được vài bài viết nhắc lại những chuyện buồn quanh sự kiện Ba mươi tháng tư, lục lại những trang hồi ức của mình, tôi đọc được:
“Tìm cách vượt biên từ Đá Bạc, 12/4 vào được Ninh Chữ, Phan Rang trên một chiếc ghe máy F5 chở được 15 người (lúc đó Phan Rang chưa mất vì quân nhảy dù và TQLC thiết lập phòng tuyến mới ở Du Long để chặn đường tiến của Bắc quân). Chị bốn Tuần, một người quen của gia đình tiếp đãi nồng hậu và nhiệt tình tìm ghe lớn để chúng tôi về Sài Gòn. Tàu xuất phát khỏang 19g, sáng hôm sau thì gặp bão biển phải tấp vào hải đăng Hàm Tân trú tạm, ghe tập trung về càng lúc càng nhiều, cũng vui, lại đươc nhìn thấy hải đăng ở khỏang cách gần nhưng lại lo lắng về tin mất Phan Rang, chủ ghe hoặc là phiêu lưu ra khơi khi đang còn bão hoặc thả khách tại chỗ để quay về đón gia đình di tản! Cuối cùng, ghe chúng tôi là chiếc duy nhất ra khơi ! Nguy hiểm vô cùng và sóng lớn đã nhồi đến nổi những người quen sóng nước cũng không chịu nổi, quần áo cứ ướt rồi khô, khô rồi ướt, ói mữa liên tục đến nỗi thằng em đi cùng sợ quá phải trùm kín đầu mỗi khi một con sóng mới ập lên ghe ! Sáng sớm hôm sau đã nhìn thấy từ xa bãi sau Vũng Tàu, thích thú quá tôi hỏi tài công : “Còn bao lâu thì tới ? “, anh trả lời thật thất vọng: “Cũng không chắc có tới được không vì biển vẫn đang còn bão. Hãy yên tâm chờ!”. Cuối cùng, tạ ơn Đất Trời, ghe cập được vào Bãi Sau, ai nấy đều mừng vui vì thóat chết và đến bến bờ tự do dầu vẫn còn lo và tự hỏi không biết còn được sống tự do đến lúc nào ? Không nấn ná ở thêm tại Vũng Tàu, chúng tôi tìm phương tiện về ngay SG, ghé nhà quen ở Đề Thám, gửi đồ đạc rồi ra phố ăn. Ngồi trong tiệm sang, tư thế thân thể thì yên nhưng đầu cứ lắc lư, chao đảo, hậu quả của trận say sóng kéo dài! Ăn mất ngon!”
…..
“ Trong những ngày hấp hối của nền đệ nhị cộng hòa, khi cuộc tiến công như chẻ tre của Bắc quân đến gần cửa ngõ SG, Tổng Thống Thiệu đã rời VN, chính phủ Trần Văn Hương lúng túng trong giải tỏa áp lực quân sự, nhiều nước có liên quan tìm một lối thóat hòa bình cho cục diện, giải pháp đưa tướng Minh thay Trần Văn Hương có thể dẫn đến một cuộc thương lượng với Bắc Việt nhằm tránh đổ máu không cần thiết được xem là khả thi và tại tòa nhà thượng viện (Hội trường Diên Hồng), quốc hội lưỡng viện đã họp khóang đại để biểu quyết việc chuyển giao quyền lực. Tôi đựợc người quen dẫn vào quan sát – như là một phóng viên ở chuồng bồ câu dành cho báo chí. Hình ảnh đập vào mắt mà tôi còn nhớ mãi là dân biểu Phan Xuân Huy Đà Nẵng trong nhóm chống đối việc trao quyền này đã, trong giờ giải lao, ra ngòai hành lang chưỡi rũa, phân bua, nhắc lại quan điểm của mình và lên án phe đối lập sau khi dùng lan can gạt gãy chai rượu Gin uống ừng ực !!. Và hậu quả việc này thế nào thì chúng ta đều biết. Dầu sao, làm chứng nhân của một sự kiện, một giai đọan đen tối của Quốc gia, Dân tộc cũng không thú vị, tự hào gì nhưng ghi chép lại là điều rất nên !”
Không hiểu vì sao, mỗi năm cứ vào tháng tư, khi có những sự kiện nhắc nhớ là lòng người cứ ngược về quá khứ, cứ suy nghĩ về đôi bờ Bến Hải, giòng sông ngăn cách về địa lý, lịch sử, chính trị hai miền Nam Bắc hơn hai mươi năm và cũng chia cách lòng người bốn mươi năm sau khi nước nhà thống nhất như một bài của nhà báo Phạm Tường Vân từ Sài Gòn gửi BBC Vietnamese tháng tư năm ngoái: “Còn một vĩ tuyến 17 trong tâm thức”??
Tôi sinh ra trong một gia đình trung nông nhưng bị quy thành địa chủ ở liên khu 5 thời Việt minh nhưng chưa đến lượt đấu tố cha tôi thì đình chiến, gia đình tôi không ưa gì cộng sản nhưng khi học trường quận, sau mỗi trận Việt cộng đánh đồn bị giết, xác không được đồng bọn đem đi, quân đội Quốc gia đem về bỏ ở Sân vận động cho dân chúng nhìn thấy, nhìn những xác người ốm o và còn rất trẻ tôi vẫn thấy thương họ, thật lòng, họ cũng như những người dân quê tôi, trên những khuôn mặt ngây thơ ấy không thấy nét căm thù dầu trước khi vượt Trường Sơn đi B đều thề “sinh Bắc tử Nam”. Khi học trường tỉnh xa nhà chừng ba chục cây số, đi về hàng tuần những năm 1965-68, thỉnh thoảng tôi nhìn thấy những người dân chết vì bị bắn tỉa lúc đeo bám phía sau xe đò những khi chiều muộn, những xác người không nguyên hình dạng kéo vào vệ đường khi chiếc xe đò trước tôi bị cán phải mìn do du kích gài đêm hôm trước, tôi cũng thấy không ưa gì chính quyền Bắc Việt vì họ đã làm xáo trộn miền Nam yên bình thời “Ngô Tổng Thống” và chính phủ của nền đệ nhị Cộng Hòa khi mà không ngày nào các bệnh viện không phải xử lý các ca thương tích do Việt cộng đặt mìn, pháo kích vào các khu dân cư, đặt chất nổ TNT giết thường dân trong các buổi chiếu bóng, các đêm văn nghệ phục vụ đồng bào!
Mậu Thân 1968, Việt cộng chôn sống quân, dân, cán, chính của Thừa Thiên Huế, giết cả những trí thức người Đức tình nguyện qua giúp thành lập và điều hành thời gian đầu trường Đại học Y khoa Huế, tôi không là dân Huế nhưng đã khóc sướt mướt khi coi trên TV phóng sự do tiểu đoàn 105 Chiến tranh chính trị thực hiện về vụ khai quật những mồ chôn tập thể, nhất là cuối phim bao giờ cũng phát kèm nhạc phẩm Thương về cố đô!.
Miền Nam lọt vào tay cộng sản, không thể làm gì khác hơn ngoài việc chờ đợi và mong nhà nước mới nhanh chóng giải quyết những công việc khi tiếp thu chính quyền trong năm đầu để rồi sau đó cùng bắt tay hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng đất nước trong hòa bình, bù đắp những mất mát hư hại do chiến tranh kéo dài và dân tộc sớm về cùng một mối nhưng chỉ vài năm sau là thấy ngay rằng những mong ước đó là ấu trĩ, là hão huyền vì chế độ mới trả thù những người của chế độ cũ và những người cộng sản khi vào miền Nam, mặc cảm vì thấy mình thua sút dân miền Nam (hãy thử đọc ngay dòng 16 trong lời nói đầu sách “Bên thắng cuộc”), thấy mình bị đảng và chính quyền lừa bịp đã phản ứng bằng thái độ tâm lý bù trừ, phải hành hạ bọn ngụy quân ngụy quyền trong các trại cải tạo tập trung và vô hình trung tạo ra hố sâu ngăn cách ngay sau vài năm đầu! Như thế, làm sao có hòa hợp hòa giải dân tộc?
Đối đầu với đói nghèo về kinh tế, với chính sách hộ khẩu, với sổ mua lương thực, với tem phiếu, với tình trạng thiếu thuốc men, phương tiện y tế… một vài năm, năm mười năm, vài mươi năm, những tên cộng sản nằm vùng, những “cơ sở cách mạng”, những gia đình có công, những tên cách mạng ba mươi dần dà thấy mình bị lừa trong khi bộ máy trấn áp của chính quyền, công an cảnh sát ngày càng mạnh, cả quân đội cũng hưởng được nhiều ưu tiên nên sẵn sàng bảo vệ chế độ đến cùng, bọn họ sẵn sàng đục khoét để ngoi lên, dễ nhất là nhận hối lộ, bắt đầu từ những đảng viên, cán bộ cao cấp rồi đến cả guồng máy, lúc đầu của những gia đình còn của cải dành dụm hay có thân nhân từ Mỹ gửi về, sau là của toàn xã hội, tiếp đến là trong hàng chục năm, làn sóng người đi tìm tự do bất chấp sóng gió, hải tặc, bắt bớ tù đày ngày càng đông, làm sao tìm được tiếng nói chung giữa dân miền Nam với chế độ?
Bắt đầu lên tiếng từ những văn nghệ sĩ , có lẽ tiên phong là nhà văn nữ Dương Thu Hương mà tham luận của cô trong ĐH VI hội Nhà văn Việt Nam là một tiếng sét, sự xuất hiện tác phẩm “Những thiên đường mù”của cô rồi Lê Lựu với “Chuyện làng Cuội”, Ma Văn Kháng với “Đám cưới không giá thú”, Phùng Gia Lộc với bài ký “Cái đêm hôm ấy đêm gì?”, Nguyễn Huy Thiệp với “Tướng về hưu”, chưa kể các tác phẩm của Bùi Tín và “Đêm giữa ban ngày” của Vũ Thư Hiên, sau này là Nguyễn Khải với “Đi tìm cái tôi đã mất”… đã vạch trần tất cả những mưu mô và tội ác mà cộng sản đã gây ra cho miền Nam, cho đồng bào ở hai miền, nói chung là nói thật cái mặt trái của một “chế độ xã hội ưu việt!”. Sau các nhà văn, các chính khách xuất bản hồi ký, vài trường hợp đáng chú ý là: Tướng Trần Độ, phó Thủ tướng Đoàn Duy Thành, giáo sư Đại học Nguyễn Đăng Mạnh rồi nhạc sĩ Tô Hải …Mỗi người nêu một khía cạnh, cung cấp một số thông tin ngày càng làm sáng tỏ mặt trái của cộng sản, bản chất con người và chế độ cộng sản. Những người một lòng theo Bác, theo đảng ngày càng chán nãn nhưng họ không làm được gì nên khi không còn tại chức, họ không còn sợ sệt gì hay bớt sợ, càng mạnh dạn lên tiếng rộng rãi.
Đói khổ cùng với nhận thức rõ về chế độ, người dân càng phản ứng nhưng càng phản ứng thì càng bị đàn áp nên mới xuất hiện hàng trăm vụ chống đối, thập niên 80 là vụ Thái Bình sau này là vụ Đoàn Văn Vươn, nông dân Văn Giang… Kẻ thù của chế độ bây giờ đã là toàn dân Việt Nam thay vì dân miền Nam như trước nhưng vẫn không thấy một động thái nào thể hiện thiện chí của chính quyền trong việc hòa hợp hòa giải dân tộc, hay họ nghĩ rằng nếu xóa bỏ vĩ tuyến 17 trong tâm tưởng dân hai miền thì lực lượng chống đối sẽ đông đảo và hùng mạnh hơn?
Nền tảng đạo đức của dân tộc sa sút, kinh tế xã hội đảo điên, tham nhũng từ trên xuống dưới, bọn Tàu cộng gặm nhắm từng tất đất, xâm nhập vào VN bằng nhiều đường nhưng xót xa nhất là công khai cướp bóc trên biển Đông mà nạn nhân nhà những ngư phủ chẳng giàu có gì mà Đảng cộng sản và chính quyền vẫn bàng quan, người yêu nước biểu tình thì bị bắt bớ, đàn áp, tù đày…
Người tù thế kỷ Nguyễn Hữu Cầu thì còn cho là bọn Mỹ Ngụy cũ nhưng Lê Thị Công Nhân, Phạm Thanh Nghiên, Huỳnh Thục Vy, Nguyễn Phương Uyên, Cù Huy Hà Vũ, Điếu cày Nguyễn Văn Hải, Đinh Nguyên Kha, Đặng Chí Hùng, Lê Văn Quang… và hàng ngàn hàng vạn người yêu nước bị tù đày thì họ là ai?
Khi internet du nhập vào Việt Nam, khi blog, mạng xã hội facebook phát triển ở Việt Nam ngày càng rộng rãi, trở thành một diễn đàn để người dân phát biểu, khái niệm “bức màn sắt” cáo chung dầu báo chí lề phải, truyền hình và các loa truyền thanh phường khóm vẫn ra rả hàng ngày những “đánh giá cao” những “thắng lợi trong sự nghiệp đổi mới”…những “thành tựu” đáng tự hào, mỵ dân đến thế! Có khác nào kỹ thuật tuyên truyền mà Hitler nhắc đến trong Mein Kamf!
Có bao điều khiến tôi trăn trở và thấy mình lao đao mỗi khi nghĩ đến:
1. Tại sao kết thúc cuộc nội chiến 1954-75 của Việt Nam không giống như cuộc nội chiến 1861-65 của Mỹ?. Yếu tố địa chính trị hay sự hiện diện thường xuyên của Trung Cộng trong và sau chiến tranh VN đã tác động để VN có một kết cục bi đát cho dân tộc đến thế này?
2. Tại sao một phóng viên báo chí người Đức, Uwe Siemon-Netto chỉ sống ở VN hơn 5 năm trước 1975 mà đã dành cho dân tộc Việt Nam, đặc biệt là những người Việt miền Nam những tình cảm lớn lao đến thế khi anh viết “ĐỨC- Tình yêu của một phóng viên cho một dân tộc nhiều đau thương”? *. Mở đầu tác phẩm, tác giả viết lời TƯỞNG NIỆM như sau: “Cuốn sách này được viết nhằm tưởng nhớ vô số nạn nhân vô tội trong cuộc xâm chiếm Miền Nam Việt Nam của Cộng sản, đặc biệt là:” (tác giả liệt kê 7 đối tượng trong đó, đối tượng thứ 5 là: “Các thanh niên Nam, Bắc Việt Nam động viên vào quân ngũ đã bỏ mạng trong cái gọi là “chiến tranh giải phóng” nhưng đã không mang lại tự do cho ai”.
3. Đọc “Chuyện kể năm 2000” của Bùi Ngọc Tấn, suốt hơn 700 trang kể chuyện nhà tù ở miền Bắc những năm 1968-73, không hề thấy nhà văn thể hiện ở bất cứ đâu lòng căm thù những người đã đưa ông vào tù, những người đã đày đọa tù nhân bằng ngàn lẽ một cách, không căm thù cái hệ thống đã tạo ra nhà tù và những cai tù mà chỉ là kể chuyện, với cách diễn đạt, từng câu, chữ của ông đậm đầy tình đầy nhân ái. Tôi tự hỏi tại sao con người không biết thương yêu nhau mà hành hạ nhau kinh khủng đến thế và nhà tù dành cho con dân của xã hội ưu việt là thế thì nhà thù dành cho người của chế độ cũ sẽ kinh khủng đến mức nào?
4. Bốn năm trước, nhà văn Khuất Đẩu ** trong “Một nước Việt buồn”đã đưa ra 10 câu hỏi rồi tự tìm cách trả lời, đến nay đã có được bao nhiêu giải đáp?. Và sau một năm, nhà báo Phạm Tường Hân đã có thể trả lời chưa cho câu hỏi: Có còn chăng một vĩ tuyến 17 trong tâm thức?
Gia đình tôi không có nợ máu với Cộng sản, cũng không hưởng ân huệ gì của Quốc gia ngoài những năm tháng thanh bình, no cơm ấm áo, được sống trong không khí tự do dân chủ nhưng đã bốn mươi năm qua rồi, dân tộc Việt Nam vẫn còn điều linh quá. Những lao đao, trăn trỡ này không biết còn đến bao giờ?
NGUYỄN NHẬT HUY
*Quyển sách có đến 8 nhận định và lời ca ngợi in ở trang bìa và 2 in ở bên trong của những nhân vật khá nổi tiếng thuộc nhiều lãnh vực trên bình diện quốc tế. Tác giả hiện nay là một Tiến sĩ thần học và là giám đốc sáng lập Trung Tâm Thần Học Lutheran và Đời Công (bản dịch của Lý Văn Quý & Nguyễn Hiền)