NHỮNG ĐOẠN VIẾT NGẮN VỀ SÀI GÒN, VỀ VIỆT NAM

duyenanh

Còn nhớ Sàigòn không? Thành phố tóc gẫy chia ly, thành phố mắt mờ giã biệt một cuối tháng tư lạc tay thù. Còn nhớ Sàigòn không” Những tháng nhung xanh cũ, những ngày lụa đào xưa, thành phố ấy, Sàigòn yêu dấu, mặt trời thắp sáng ước mơ, ánh trăng soi rõ kỷ niệm. Mỗi vỉa hè là một giải chiêm bao. Mỗi đoạn đường là một cơn hạnh phúc. Đã thấm niềm tưởng tiếc rồi đó, sau mười năm lưu lạc. Có chỗ nào tuyệt diệu hơn Sàigòn? Thành phố ấm quanh năm. Thành phố lá tương tư nhạc gió. Những đêm mưa, bụi khói khóc hư vô. Cổ tích ướp hơi thơ. Tình ái ngát hương thu nghìn cũ. Sàigòn dệt thơ làm nắng. Giữa tim hạ đã là xuân lãng đãng huyền thoại trong lối lụa Tú Xương, trên nền gấm Huyền Trân. Chỉ cần một câu vọng cổ, đã xao xuyến hồn già. Chỉ cần bước chân giao mùa, đã xanh mắt trẻ thơ, hồng môi thiếu nữ. Ơi thiếu nữ Sàigòn, những cô gái áo dài tha thướt phố phường, những cô gái áo ngắn gọn gàng công xưởng, những cô gái đồng phục nhịp nhàng trên đường xây dựng và bảo vệ quê hương, những cô gái Việt rộn ràng tiếng trống Mê Linh, miệt mài vó ngựa Bùi thị Xuân…
Vó ngựa lại một phen tung bụi mịt mù đất nước. Chiến tranh xâm lăng từ phương Bắc tràn xuống. Như tất cả tuổi trẻ thành phố, nông thôn, những chàng trai Sàigòn xếp bút nghiên theo việc đao cung, tạm biệt phồn hoa để dấn thân bảo vệ non sông. Mỗi tấc đất quê hương ông cha gửi lại đều ký thác bằng mồ hôi, nước mắt và máu. Thì chiến đấu giành lại từng tấc đất lọt vào tay quân thù cũng phải đổ mồ hôi, nước mắt và máu. Tuổi trẻ Việt Nam đã kiêu hùng, vẫn kiêu hùng, mãi mãi kiêu hùng. Sự kiêu hùng ấy đã làm nên những chiến thắng Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa…lại làm nên những chiến thắng Bình Long, Kontum, Quảng Trị… Tuổi trẻ Sàigòn đã vinh dự đóng góp xương máu cho những trang sử đấu tranh của giống nòi…
***
Trái tim dân tộc đã nhiều lần rạn nứt phân chia đòi đoạn. Hôm nay, thêm lần nữa, trái tim dân tộc rướm máu. Những sợi máu vương đây đó. Trên nỗi đau. Trên niềm nhớ. Niềm nhớ có tên và niềm nhớ không tên. Sàigòn là một niềm nhớ không tên. Có nhớ Sàigòn không? Có nhớ niềm nhớ không tên, niềm nhớ ray rứt, niềm nhớ gặm nhắm thớ thịt ta từng phút, từng giây. Có nhớ cổng trường xưa anh chờ đón em về chiều thu muộn? Có nhớ con đường cũ lá me mưa xanh mướt ái ân? Sàigòn, niềm nhớ nhung trên những vệt sọn môi, trong ánh mắt và trong hơi thở. Sàigòn, niềm nhớ nhung trong hạnh phúc và trong đau khổ. Ở tuổi non và ở tuổi già. Ở xuân hồng sắp sang và thu biếc đã qua. Ở hôm nay ta sống và ngày mai ta chết. Ở nghìn dặm kẻ chân mây mù mịt. Ở tấc gang người cuối phố đầu phường. Ở sớm công viên ngọn cỏ ngậm sương. Ở chiều bùng binh đèn mầu phố sắc…
***
Từ một niềm nhớ không tên, Sàigòn đã thành nỗi đau có tên. Hãy hình tưởng, Sàigòn, người tình chung của ta, lạc vào tay thù. Hoa lạc tay thù có ố gương? Khi manh áo của loài chồn tinh phủ lên tên Sàigòn, thành phố của ta bị lột da. Như chính ta bị lột da vậy. Và đó là nỗi đau mưng mủ trong mỗi trái tim chúng ta. Những con đường hoa mộng cũ, bây giờ, hằn lên những thù hận, thống khổ, thê lương, ngậm ngùi. Nụ cười hôm qua là giọt lệ hôm nay. Hy vọng hôm qua là tuyệt vọng hôm nay. Đời sống đầy rẫy những đe dọa ban ngày, những hãi hùng ban đêm. “Nếu cột đèn biết đi, cột đèn sẽ vượt biển tìm tự do”. Ai đã nói giùm tâm sự cột đèn Sàigòn? Dân tộc Việt Nam hiền hòa và luôn luôn bất hạnh, nào ngờ, sau một đổi đời nghiệt ngã, lại hóa ra thuyền nhân khốn khổ lênh đênh trên mặt đại dương chập chùng hệ lụy. Đất đưa người ra biển. Biển dẫn người về đâu? Về đâu và sẽ ra sao tháng năm biệt xứ xanh xao phiền muộn. Đất đưa người ra biển nhưng đất không chia xẻ với người thảm cảnh phiêu lưu. Biển dẫn người về đâu, dẫn về đâu, biển cũng chẳng hiểu nổi sự đói khát, niềm sợ hãi của người ra khơi. Thế đó, nhân loại có từ nỗi đau rõ rệt tên tuổi của chúng ta một danh từ nạm vàng tủi nhục: Thuyền nhân…
Bỏ quê hương ra đi, để lại Sàigòn héo hắt trong tay thù. Còn nhớ Sàigòn không? Nghĩ gì về Sàigòn bây giờ? Sàigòn bây giờ ra sao? Đừng hỏi mưa, hỏi nắng. Mưa và nắng cũng buồn bã trốn khỏi thành phố rồi. Hãy hỏi mẹ lang thang góc phố. Hãy hỏi cha thất thểu đầu đường. Hãy hỏi chị ngồi lê chợ trời. Hãy hỏi em chầu chực bán máu đỏ đong gạo đen. Son phấn hoàng hôn những vỉa hè cơm áo. Nước mắt đêm khuya những cay đắng phận người. Sàigòn bây giờ như vậy. Đến vỏ cây già cũng bị lột đến ngọn cao. Đến muông thú Bách Thảo cũng gầy mòn, chết đói. Vẻ kiêu sa dĩ vãng là bệ rạc hiện tại. Bàn tay ngọc thiếu nữ Sàigòn đã kềnh càng ghẻ lở vì nước phèn thủy lợi cưỡng bức. Đôi mắt xanh em nhỏ đã trắng rã vì khoai sắn triền miên. Sàigòn ra đường không áo dài. Sàigòn ra đường không cười nói, líu lo. Cúi xuống là ngục tù, trại tập trung. Nhìn lên là công an độc ác. Thời tiết Sàigòn bây giờ ngậm đầy khắc khoải. Không khí Sàigòn bây giờ dằng dặc ngậm ngùi. Sàigòn bây giờ ở trong nhà với những phiền muộn, thở dài, với những giọt nước mắt âm thầm nhỏ xuống miếng đời buồn tênh, ngao ngán…
***
Nhưng có phải xa Sàigòn là lên thiên đàng hạnh phúc không? Hãy hình tưởng trùng dương nổi giận vô duyên cớ nuốt gọn thuyền nhân. Hãy hình tưởng sóng gió phũ phàng vùi dập thuyền nhân. Hãy hình tưởng hải tặc tàn bạo cưỡng hiếp, giết chóc thuyền nhân. Và, sau chót, hãy nhìn thật lâu, thật kỹ ngày tháng chờ đợi phát chẩn ân huệ định cư ở các trại tỵ nạn, gọi là “quán trọ trước cổng thiên đường”. Hãy nhìn rõ ràng những bước chân em bé lên ba, lên năm, trên cát bỏng oan khiên quê người. Rồi sẽ hiểu tại sao “Tôi biết tôi sẽ buồn”. Chừng đó lòng hoài hương bừng bừng sống dậy, thuyền nhân ao ước một ngày về cùng Sàigòn gấm vóc ngày xưa…
***
Đâu riêng gì Sàigòn phá sản hôm nay. Quê hương ta, khắp nơi, đều bị phá sản, của cải và tình nghĩa, từ lá cờ hừng hực máu thù hận tanh hôi ngạo nghễ tung bay. Hà Nội đã rạc rài hơn ba chục năm rồi. Thiên đàng của đám người ảo tưởng và phản bội chỉ là thứ thiên đàng bánh vẽ Xã Hội Chủ Nghĩa bước giật lùi. Không còn ai chết đói mà chỉ còn những ai đói rách triền miên. Đất nghìn năm văn vật, người sống bằng tiêu chuẩn vật, vật và người đồng hóa, vật và người chung một tâm sự và bị bóc lột như nhau. Những kẻ khố rách đi giải phóng những kẻ áo lành. Rốt cuộc, Sàigòn tăm tối, đoạ đầy, thê thảm ngang hàng Hà Nội. Hãy quan sát Hà Nội, thủ đô của “phẩm cách con người”, “đỉnh cao trí tuệ và tiến bộ”. Hãy tìm cho Hà Nội một định nghĩa chính xác về hạnh phúc. Vậy đó, những hình ảnh sống động và đích thực của Hà Nội và đang của Sàigòn dưới mầu cờ kiêu ngạo ngu xuẩn và sắt máu căm hờn. Vinh hoa của Sàigòn đã bị đẩy ra vỉa hè. Người mẹ ngồi cau mày trong nắng sớm. Người cha đứng nhăn nhó dưới mưa chiều. Gửi gì về cho Sàigòn? Một an ủi, một mơ ước hay một hứa hẹn? Thành phố, cây cỏ, nắng mưa, chim muông, người vật, vỉa hè, góc quán, gửi gì về? Gửi gì về?
Gửi gì về cho vừa đủ một quê hương bỏ lại, một quê hương chất ngất sầu đau? Gửi gì về cho ruộng đồng bát ngát, cho sông nước mênh mông? Gửi gì về cho con kinh mới đào, cho con lạch vừa khơi? Gửi gì về cho bờ xa, cho bãi rộng? Gửi gì về cho đồi thấp, cho núi cao? Gửi gì về cho rừng sâu, cho biển thẳm. Gửi gì về cho lúa vào sữa, cho heo may giải đồng? Gửi gì về cho hoa bưởi, hoa cau? Gửi gì về cho sầu riêng, măng cụt? Gửi gì về cho câu hò lan tỏa, cho điệu ru ấm nồng? Gửi gì về cho đường thơm tình tự, cho ngói đình ái ân, cho nhịp cầu thương nhớ? Gửi gì về? Gửi gì về? ôi quê hương, chỉ khi khuất xa gần như vĩnh biệt, ta mới biết tương tư mùi rơm mới, mùi khói đốt đồng, mùi hoa hèn, mùi cỏ dại. Và ta mới thấy cái đơn giản nhất, cái bình thường nhất đều đã bùi ngùi nhất trên khói sóng hoàng hôn. Không có nơi nào đẹp hơn quê hương ta. Gửi gì về? Cho gửi một mơ ước trở lại.
***
Mơ ước trở lại thắp sáng hồi tưởng. Và bằng hồi tưởng ta về với quê hương ta. Vùng biển ta đó. Từ cao nhìn xuống. Nha Trang cát trắng với cầu Bóng huyền thoại. Rừng đồi ta đó. Đà Lạt nên thơ. Này hồ Than Thở. Nọ rừng Ái Ân. Ta vào trường Võ Bị tìm lại dấu chân cũ, hình bóng xưa của những chàng trai “vốn giòng hào kiệt”. Những chàng trai ấy, bây giờ, ở đâu. Hẳn nhiên, nhiều người đã “áo bào thay chiếu anh về đất”, về tận lòng đất Việt Nam. Để Việt Nam ngạo nghễ muôn đời Nhiều người đã ra đi, mang theo tâm sự Đặng Dung, chỉ mong sớm về giải thoát non sông kẻo chết già. Ta rời trường Võ Bị Quốc Gia sang trường Yersin chứa chan kỷ niệm. Ngôi trường còn đó, buồn bã với cảnh ngộ đổi lốt thay tên. Ngôi trường tự nhiên mơ mộng, một ngày nào, học trò cũ về làm xôn xao dĩ vãng. Hồi tưởng cho ta đôi cánh tự do bay. Một thoáng vỗ của hồi tưởng, ta đã ra công trường Hòa Bình của Đà Lạt mờ cao. Rồi ta lại bay qua đồi, vào thăm viện Đại Học Đà Lạt kiếm chút an ủi hiện tại hiu hắt. Và ta về, ta về cùng nắng ấm Sàigòn. Con đò đưa khách sang Thủ Thiêm. Cột cờ Thủ Ngữ khóc thầm vì vắng bóng lá cờ vàng sọc đỏ thân yêu. Bến Bạch Đằng đó. Phố Tự Do kia. Tiếng còi tầu nào réo gọi chuyện viễn du. Đợt sóng nào nhắc nhở vạt hoàng hôn sông khói. Ôi, Sàigòn, một miếng Sàigòn thôi, đã đủ lòng ta ấm áp phương xa. Tưởng chừng hồn ta đang là đà trên Sàigòn. Hồn ta là phố phường cũ, là dinh thự xưa. Tự nhiên, ta muốn thầm thì với Sàigòn: “Em, Sàigòn ra sao? Còn nguyên màu áo, còn nuôi chiêm bao, còn chờ đợi nhau? Em, đường thương lối nhớ, cỏ cây quá khứ, nhạc chim lời gió, nước mắt mây mưa, đã mất gì chưa”? Đừng, đừng mất gì cả, bởi vì ta vẫn mơ một ngày về.
***
Hưng vong là luật chung của muôn đời. Dâu biển đã xẩy ra cho cả tư tưởng, nói chi một triều đại, một chế độ hay một chủ nghĩa. Một thi sĩ đã định nghĩa cái không bao giờ có dâu biển, không bao giờ chết:
Ai cũng chết cả rồi
Cái còn vĩnh viễn là người Việt Nam
Một thi sĩ khác định nghĩa thêm cái không bao giờ mất:
Me ơi, tha thiết lắm rồi
Mất gì không mất tình người Việt Nam
Người Việt Nam vĩnh viễn. Tình Việt Nam vĩnh cửu. Đã không mất con người thì không bao giờ mất quê hương. Và những kỷ niệm thuộc về quê hương cũng không mất. Còn đó, Sàigòn với Nhà Thờ Đức Bà, với Thảo Cầm Viên, với Bảo Tàng Viện, với Lăng Ông Bà Chiểu. Còn đó, Huế với bầy phượng vĩ đỏ ối mùa hè rắc rơi sắc máu trên lối Huế cổ kính, thầm lặng. Còn đó, Huế với lăng tẩm, điện đài. Còn đó, Huế với “dấu xưa xe ngựa” với “nền cũ lâu đài”. Còn đó, linh hồn tiền nhân bảng lảng trên lớp rêu phong, trên những thềm bậc vang bóng một thời. Hỡi tiền nhân bất hủ, có phải người không chết, người chỉ Tĩnh Tâm dưới hồ sen. Và ý nghĩa sống của người vẫn vàng thắm nhụy sen, vẫn thơm ngát hoa sen. Ta thèm rung một hồi chuông Thiên Mụ gọi về những xao xuyến Huế ở mỗi hàng cây, mỗi viên gạch, mỗi bờ tường, mỗi mái ngói, mỗi vạc đỉnh, mỗi hoa lăn của một triều đại đã khuất lấp ngậm ngùi. Còn đó, Huế với sông Hương núi Ngự, với cầu Trường Tiền, cầu Bạch Hổ. Còn đó, Huế với những lá đò dìu nhẹ trên mặt nước bình yên. Còn đó, Huế với giòng An Cựu “nắng đục mưa trong” và những con thuyền đêm đêm chở đầy trăng xuôi về Vĩ Dạ.
Sao em không về thăm thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá. xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Gió theo lối gió mây đường mây
Giòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay
Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có mặn mà
Còn đó, Huế, còn nguyên đó, bờ sông với những cô nàng giặt chiếu, với những nụ cười thật đẹp, thật thơ. Còn đó sân trường Đồng Khánh bướm trắng tung bay. Còn đó cổng Viện Đại Học giấc mơ xanh thắm. Còn đó, còn nguyên đó, khi ta về. Còn đó, Hà Nội với hồ Tây, hồ Trúc Bạch, với con đường Cổ Ngư thơ mộng thuở học trò. Còn đó đền Quan Thánh. Còn đó đền Ngọc Sơn, cầu Thê Húc, hồ Gươm, tháp Rùa. Còn đó khu Giảng Võ Văn Miếu, chùa Một Cột. Còn đó 36 phố phường…
Còn quê hương Việt Nam. Còn nguyên vẹn. Nếu ta đừng quên và đừng bao giờ đánh mất tình người Việt Nam, dù đi đến cuối đường oan biệt xứ. Mãi mãi Việt Nam. Mãi mãi Việt Nam…

DUYÊN ANH

Chiều nay rực rỡ hoàng hôn

phamngoclu

(những câu thơ đề trên một tấm ảnh…)

Người đi neo bóng bên bờ
Có sông thêm tội nước chờ thuyền lui
Nước đau từng sợi ngậm ngùi
Cuốn tình tôi chiếc lá vùi đáy sông
Người đi hồn chẳng đi cùng
Khói sương chẳng đậu, đèo bòng chi tôi
Tà dương như thể trêu ngươi
Chờ chi… chưa rụng chưa trôi chưa chìm
Người đi ! Con nước đứng tim !
Chết tôi chiếc bóng ngồi im bên bờ…

PHẠM NGỌC LƯ

THẢ CHÚT CHIỀU VÀO NHỚ

tranvannghia

Rồi em cũng xa phố đời lạc mất
Gió quạnh hiu ở lại nhớ môi hồng
Dấu chân của một thời thơm hương mật
Chút xao tình trăng mười sáu đợi mong

Ai có hiểu mưa về đâu mưa lạnh ?
Tháng ngày qua ray rứt buốt tay chờ
Những kỉ niệm nhạt nhoà trang giấy trắng
Có tôi về vụng dại chép bài thơ

Nhắn tìm đến mây cuối trời phiêu lãng
Chở buồn theo qua chốn cũ âm thầm
Chiều thả tóc nghiêng con đường phai nắng
Làm tím lòng , tím cả áo mười lăm

Còn nỗi nhớ mãi xanh màu lá cỏ
Qua đồi xưa chợt thấy dáng sương chìm
Nếu có giữ chỉ là lơ lửng gió
Rớt xuống đời ngơ ngác một tiếng chim

Tình xưa của hôm nào tôi vẫn giữ
Để thấy trong đôi mắt mãi nồng nàn
Giọt lệ buồn thấm sâu vào giấc ngủ
Đón em về thổn thức lối nhân gian

Dẫu ăn năn với lỡ làng đôi lứa
Vẫn còn đau theo gió nội mây đồng
Về lại đây nhìn vầng trăng cổ độ
Đã cong chìm tan sóng gợn đáy sông

TRẦN VĂN NGHĨA

CHUYỆN CÁI TÔ VÀ CÁI GIÁ PHẢI TRẢ CHO HAI CHỮ TỰ DO

josephnguyen

Nghĩ cũng lạ khi là sau ngày 30/4 thì sẽ là ngày 1/4. Như vậy là nhờ có “giải phóng” lên bà con mới có dịp mà trêu ghẹo nhau ngày nói láo. Mà cần gì có ngày 1/4 hằng năm. Đối với một đất nước như Việt Nam đang nằm dưới tay cs thì lúc nào cũng là ngày để các quan chức nói láo và stroll bà con bằng những tuyên bố mà không ai có thể nghĩ là xuất phát từ miệng của một con người bình thường. Nói nhiều lắm rồi. Không thèm nói thêm. Chỉ có viết thêm thế này.
Càng sống với cs, bà con ta giờ tự nhiên nhắc về thời VNCH hơi bị nhiều, kể cả trên báo chí trong nước. Không chỉ người già, có tuổi nhớ về những ngày cũ, mà ngay cả giới trẻ ngày nay cũng ti toe tìm hiểu. Đúng là như người ta hay nói: Có mất mới biết quí. Nỗi đau mất mát của chúng ta không chỉ là chính thể VNCH, nếu có thì chỉ phần nào thôi, nhưng là TỰ DO. Hai chữ ấy nghe thì có vẻ đơn giản mà sao bao nhiêu người phải đấu tranh cả cuộc đời, thậm chí phải hy sinh mạng sống, để có được. Hy vọng là sau này khi chúng ta lật đổ được chế độ cs, chúng ta hãy biết quí những gì chúng ta đã vất vả đấu tranh mới dành được. Đừng dại dột mà đánh đổi nó với bất kỳ thứ gì nữa.
Nhắc đến tự do, tự nhiên tôi nhớ lại một chuyện. Hồi trước 1945, có một tiệm đồ cổ ở Hà Nội nổi tiếng. Nghe nói chủ tiệm là một bậc thầy về cổ vật, lại có mối liên hệ mật thiết với Viện Viễn Đông Bác cổ, (viết tắt: EFEO. Một trung tâm nghiên cứu của Pháp về Đông phương học, chủ yếu trên thực địa). Giai đoạn trước 1945, thời tây học thống lĩnh nước ta. Những quan lại, quan chức cũ triều đình nam triều hay những nhà giàu thất thế vì cuộc sống thay đổi buổi giao thời nên bán đi những vật dụng trong nhà mà có khi truyền từ bao đời. Ông chủ tiệm đồ cổ nọ lại là tay lanh lợi, lão luyện trong việc mua rẻ bán đắt nên giàu có ít ai bì.
Ngày nọ, một người đàn ông trông có vẻ nghèo đem đến tiệm một cái tô cổ. Nhìn vào là biết ngay là đồ quý giá. Tuy tuổi đời chiếc tô không cao nhưng vật liệu làm ra nó thì khó lòng mà có giá nào cho tương xứng. Ngay chủ tiệm là người sành sõi vậy mà cũng phân vân, không biết nên định giá thế nào cho phải. Thấy giá cao thì có phần lưỡng lự. Nhưng cái tô đẹp quá nên sau vài lần kì kèo bớt một, thêm hai thì mua liền.
Chuyện ấy tưởng xong. Bán buôn thời ấy tin tức cũng không đi như tia chớp như ngày nay. Ấy vậy mà mấy nhà giàu người Việt ở Hà Nội chẳng hiểu sau ai cũng rỉ tai nhau chủ tiệm người Pháp mới mua được cái tô quí. Một đại phú gia nghe nói liền đến xem rồi mua lại cái tô với giá khủng đủ để mua vài căn nhà thời ấy. Ông chủ tiệm mua một, lời 100 thì mừng lắm. Nhưng từ dạo đó lại sinh thắc mắc trong lòng. Tự hỏi mình tại sao có người lại dám bỏ cả một gia tài mà mua một cái tô. Lại có ý trách mình tại sao là người có kiến thức về cổ học đông tây kim cổ mà có cái tô cũng không biết. Ấm ức nhiều ngày mà không làm sao buôn bán gì được, ông đóng cửa tiệm về Pháp tìm hiểu. Chừng vài tháng sau người ta thấy tiệm ông thay chủ mới. Mọi người thắc mắc nhưng không rõ lý do vì sao. Chỉ nghe chủ tiệm chết nên gia đình ấy sang lại. Mọi chuyện vì thế trôi vào quên lãng.
Đột nhiên có mấy người Việt Nam đi du học Pháp đi ngang qua tiệm đó nên sẵn vui miệng kể chuyện, người Hà Nội xưa và những ai chừng 70 tuổi đổ lên, nếu đọc sách và buôn bán đồ cổ, thì đều nghe sơ qua. Xem đó như bài học nên biết. Là bài học đau thương.
Thì ra ông chủ tiệm đồ cổ sau khi về lại chính quốc thì dành toàn thời gian vào tất cả các văn khố, lẫn thư viện Viện Viễn Đông Bác Cổ tra tìm thì mới phát hiện ra một sự thật bất ngờ ngoài trí tưởng tượng. Khi liên quân 8 nước đánh vào Bắc Kinh thì Từ Hi cho tẩu tán rất nhiều tài sản của triều Mãn Thanh về cung Di Hòa Viên, hay con gọi là cung điện mùa hè. Nhưng để phòng bị về sau cho một cuộc kháng chiến lâu dài nếu Trung Quốc chẳng may rơi vào tay người phương tây, Từ Hy cho nghiền nát một lượng lớn trân châu bảo ngọc và kêu thợ làm thành 3 chiếc tô. Nghe nói lại thì khi đêm đến 3 chiếc tô này sẽ phát sáng màu xanh lục bảo tuyệt đẹp. Ba người thân tín được chọn đem 3 cái tô chạy về 3 nơi. Hẹn nhau sẽ tìm cách liên lạc lại sau khi mọi chuyện đã ổn định.
Đương nhiên 3 chiếc tô này còn nhiều bí ẩn bên trong mà không phải ai cũng biết được. Ví dụ dưới đáy tô là một mật khẩu bí mất. Mỗi tô là một con số mà nếu gộp chung lại sẽ là mật mã để mở cửa một kho tàng khổng lồ mà nhà Thanh tích cóp bao đời. Từa tựa như khi người ta mở kho vàng nằm dưới lòng New York vậy. Hai người có hai chìa khóa khác nhau. Mở từ hai hướng khác nhau thì kho vàng mới mở. Hai người này không nhìn thấy mặt nhau. Cũng không biết ai là người giữ chiếc chìa khóa còn lại. Lại thêm trên mình tô là ấn chỉ của triều Mãn Thanh. Sau này cứ theo dấu ấy mà làm lại ấn tín nếu ấn nhà vua vì lý do nào đó mà thất lạc vào tay giặc. Nói vậy để thấy cái tô kia là vô giá. Là hàng quốc bảo không tiền nào mua được.
Biết được bí mật ấy, người chủ tiệm vì tiếc của sinh ra u uất rồi nhảy lầu tự tử. Cảnh sát chỉ điều tra chiếu lệ rồi hồ sơ vụ án bị chìm vào quên lãng. Nhưng có nhiều người muốn tìm hiểu thì cất công lặng lội sang Việt Nam để tìm hiểu tại sao gia đình Việt Nam kia nhìn không giàu mà lại có cái tô quí giá đến chừng ấy.
Hóa ra gia đình nọ tổ tiên họ trong một đêm mưa đã cứu sống một khách chú bị ngất xỉu trên đường phố. Họ đem ông khách Trung Quốc về nhà cho ăn uống, thay quần áo rồi đối đãi như người trong nhà trong nhiều năm. Không may người khách lạ bị bệnh nặng rồi mất. Khi hấp hối, ông cho gọi gia chủ lại bên giường. Lúc này ông mới đem cái bọc mà ông luôn khư khư giữ bên người ra, mở ra, lấy cái tô rồi dặn gia chủ:
– Tôi lưu lạc xứ này không ngờ được gia đình ông thương tình cứu giúp. Phàm trong người không có gì quí, chỉ có cái tô này là của gia truyền từ mấy đời ông bà để lại. Thấy ông có lòng tốt cưu mang bấy nay mà không mong có gì đáp đền nên tôi biết gia đình ông là người tốt. Nay tôi đem vật này ra gọi là chút lòng thành. Giả mà sau này có người từ Trung Hoa tìm đến lấy lại thì hãy lấy giá thật cao. Nhất định họ sẽ trả liền mà không nói gì vì cái tô này là một tín vật. Nếu không thấy ai đến cả thì thôi số đã vậy, hãy giữ lại trong nhà như cách tôi trả cho ông cái ân tình đối đãi bấy lâu.
Người khách chú mất. Gia đình ấy trải qua mấy đời giữ vật ấy. Đến đời cháu chắt thì cuộc sống khó khăn quá nên mới lấy đồ tổ tiên ra mà cầm bán sống qua ngày. Chứ đâu biết giá trị nó thế nào. Mà cũng có thể mãi mãi con cháu đời sau của gia đình ấy cũng không biết mình đã làm gì. Sau này đã cố công tìm hiểu mà em ba không biết số phận mấy cái tô quí giờ thế nào. Ai đọc bài này nếu có ai biết gì đồ cổ và biết gì thêm thì xin cho bà con hay, gọi là mở tầm mắt.
Kể chuyện xưa vậy để thấy TỰ DO mà chúng ta như cái tô quí kia. Chúng ta được ông bà trao lại từ hàng ngàn năm đấu tranh xây dựng và giữ nước. Tích tụ từ hàng triệu sinh linh đã phải đổ máu trên mảnh đất hình chữ S này mới có được hình hài tổ quốc này. Vậy mà con cháu đời sau vì không biết giá trị đó mà rẻ rúng, bán buôn. Thà rằng chúng ta thất học hay ngu đần mà không nhận ra giá trị của hai chữ Tự Do. Đàng này …
Cái tô là vật ngoài da, tổ quốc là máu thịt bên trong. Người cho tô là một khách chú nước ngoài. Còn nền độc lập của dân tộc là do ông bà trong nhà trải qua hàng ngàn năm gìn giữ mà có được. Vậy sao những kẻ cầm quyền ngày nay lại đang tâm buôn bán đổi trao cả dãi non sông gấm vóc vì lo sợ thể chế mình lung lay hay vì cái ghế chóng qua mình đang ngồi.
Tự do cũng là thứ mà miền nam có được mà nhiều kẻ ăn cơm quốc gia thờ ma cs không biết quí trọng. Để đến nổi như ông chủ tiệm đổ cổ kia sau khi mất tô thì sinh ra u uẩn, phát khùng phát rồ, chán sống rồi gieo mình quyên sinh. Hỏi sau khi chúng ta mất miền nam, bao nhiêu người đã vỡ mộng, ân hận, hối tiếc vì những gì mình đã làm khi tiếp tay quỷ dữ phá nát một nền tự do chân chính. Để rồi họ sống mà như chết. Tan xương nát thịt vào lòng đất rồi mà tên tuổi còn bay mùi xú uế ngàn năm không chất tẩy rửa nào gột xóa hếtđược. Chúng ta càng thêm đau lòng khi những kẻ ăn tem phiếu xứ tự do lại đi về nước tung hê chính phủ hiện nay. Lòng hỏi lòng họ có còn chút liêm sỉ nào chăng? Hay ra đường bị chó táp mất rồi?
Ba cái tô như 3 miền đất nước. Người Pháp chia 3 để bẽ gẫy mật mã của sự đoàn kết mà mưu tính chuyện đô hộ lâu dài. Giờ thì cs còn làm hơn thế. Mật mã giờ chia năm xẻ bảy khi lòng con dân Việt ly tán nhân tâm. Cs sẽ sụp đổ không sớm thì muộn. Nhưng liệu đến bao giờ những mật mã 3 miền mới lại có thể hội tụ như xưa để mở ra kho tàng dân tộc, hồn thiêng sông núi để xây lại nước nhà hùng mạnh như muôn năm cũ. Thời mà chỉ cần nghe những cái tên những anh hùng dân tộc như Trần Hưng Đạo, Quang Trung … thì giặc phải thất kinh bạc vía. Ăn không ngon, ngủ không yên.
Mới đó mà 40 năm rồi. Ôi! Thời gian qua nhanh như bóng câu ngoài cửa sổ. Nhìn lại mình còn lại gì đây. Hình hài này rong rêu phủ kín mà mộng tang bồng giúp nước cứu đời mơ mãi vẫn không thoát ra khỏi cơn mê dài bất tận.
Còn chờ đến bao giờ đây mới lại thấy lại nền TỰ DO mà người Việt hằng đêm nuối tiếc vì lỡ tay đánh mất vì dại khờ. Mà nước tôi thì, ôi lạy Chúa, những kẻ khờ khạo và cả tin vì bị tẩy não thì còn nhiều quá.
Ác mộng đến bao giờ mới qua, hỡi trời?

JOSEPH NGUYEN
(HOUSTON NGÀY NÓI LÁO 2015)

Trong Một Ngày Hình Như Vui

reu

( trừ những ngày còn lại …)

Tôi viết bài thơ trong một ngày hình như vui
Mà từng câu như một loài phản bội
Nhởn nhơ gieo như phường nhàn rỗi
Vờ vĩnh vui trên những tháng năm buồn

Tôi viết bài thơ hình như đẫm hơi sương
Như đẫm nước (không phải là nước mắt)
Những nỗi đau… phải! Bao giờ cũng thật
Mà niềm vui khi thật, có khi không…

Tôi viết bài thơ hình như chẳng thật lòng
Trong một sáng người nói lời từ biệt
Tôi đáp lại dửng dưng,ừ, chấm hết
Anh đường anh, ta chẳng nợ nần…

Tôi viết bài thơ hình như quá thương thân
Những đau đớn chưa một lần kể lể
Và chợt thấy mình thành gian dối tệ
Nhưng hình như… tôi thứ lỗi cho mình…

RÊU

TỪ CHỖ CỦA MÙA ĐÔNG

chuthuynguyen

xe sẽ qua
ngang miền ký ức
da diết nhất đoạn đi
nỗi nhớ chưa bao giờ có trong kịch bản

tôi quen tiếng dương cầm
góc phố của những gót son
nắng vẫn ngoài ngõ
sao bỗng hun hút trời biệt ly ?

chùm hoa biên biếc mưa
khi quyết định ở lại chỗ nầy
đôi lúc chúng ta đành phải bỏ quên ký ức chỗ kia
bởi mình chưa bao giờ là gió

tôi chẳng thể đợi lâu
toan trèo vào giấc mơ tìm em cho được
ai ngờ còi tàu qua ga inh ỏi quá
nên lại trễ nải mất rồi

ngồi đây buổi chiều cùng đàn sếu rừng
từ chỗ mùa đông da diết mãi
có phải chúng ta đến để rồi đi ?
cho dù cố chần chừ nán lại …

Chu Thụy Nguyên

NHỮNG NGÀY CỦA THÁNG TƯ.

tonnuthudung

( Tặng Ba, người đã dạy con chữ nhân và Mẹ, người đã tập con chữ nhẫn.)

Ngày 2 tháng 4, tôi mất Nha Trang.

Đêm trước, ba tôi không về nhà, ông ở lại nhiệm sở để đốt hồ sơ nhân viên. Mẹ bảo tôi mang Coramine và các loại thuốc Tension lên cho ông. Tôi với chiếc cady nhỏ xíu đi trong một thành phố hoảng loạn…Trước đó anh rể tôi đã giữ chỗ cho cả nhà trên một chiếc tàu hải quân neo ở Cảng Cầu Đá trước mặt Đội phòng thủ hải cảng. Nhưng ba tôi nói : “ba chưa đi được đâu. Ba còn nhiều việc.Con cứ lo cho Nga và bé Nai. Ba sẽ đi cùng bác P.” Sau đó nhiều năm anh kể: anh đã khóc như con nít , uất ức như năm 74 khi tàu anh ra gần tới Hoàng Sa thì nhận lệnh quay về… Nếu gia đình mình cùng đi thì ba đâu có chết.

Nếu có ai hỏi về những ngày tháng tư năm ấy, tôi chỉ biết nói : hoảng loạn , điên rồ…

Tôi không biết nhiều về chiến tranh trước đó, Nha Trang của tôi là một thành phố bình yên nhất nước. Khái niệm chiến tranh đối với tôi chỉ là những anh chàng không quân, hải quân đẹp trai bảnh bao chiều thứ bảy đi nườm nượp phố phường. Có thể lúc đó tôi còn nhỏ và được bảo bọc bằng một lớp kính vạn hoa chăng nên tôi chỉ biết chiến tranh qua sách vở…

Cho đến ngày 2 tháng 4.

Tôi đứng bên cửa sổ phòng làm việc của ba trong Tòa hành chánh nhìn ra biển. Biển dậy sóng. Không biết anh Tuấn, chị Nga và bé Nai đi đến đâu rồi. Nước mắt tôi rơi tự lúc nào… Ba và chú Chương đang vội vàng đốt, điên cuồng đốt, khói mịt mù ngạt thở. “Hay mình đốt cả tòa hành chánh luôn “. Chú Chương nói. Ba không trả lời gì. Nước mắt của hai người đàn ông thần tượng của đời tôi cùng rơi… Có ai chứng kiến điều đó ngoài tôi… Mấy người cận vệ gõ cửa : ” Thầy ơi, về thôi thầy”. Cánh cửa sập lại sau lưng mọi người. Ba tôi lên tiếng : “Tôi chỉ có thể làm đến vậy cho các vị…”. Nếu tôi nhớ không lầm thì những loạt đạn đã được bắn lên trời và những cây súng đã bị quăng xuống đất. Họ chào nhau, có cả những cái nhìn vĩnh biệt…

Chúng tôi mất Nhatrang thật rồi.

Đất trời mù mịt mưa ngày đó, chưa bao giờ Nha Trang có một cơn mưa lớn đến vậy – Biển dậy sóng –

Sao không là một trận đại hồng thủy để cuốn mọi điều tan tác theo mưa ?…

Tôn Nữ Thu Dung

LỜI CUỐI TRỊNH CÔNG SƠN

tamnhien

Cõi tạm trần gian chừ viễn biệt
Lời thiên thu gọi đón ta về
Nhưng trước ngày đi xin gởi tặng
Cho người dăm ca khúc tình quê

Đời vốn u buồn hơn tiếng hát
Từ xưa thiên hạ đã nói rồi
Nay ta dù chuyển cung cầm mới
Vẫn điệu sầu chung cũng thế thôi

Em có vì ta mà thương tiếc
Thì hãy quay nhìn lại quanh đây
Chính nơi em đó là thơ nhạc
Là rung cảm nọ mến yêu này

Suối nhạc nguồn thơ trôi chảy mãi
Nghìn năm trên mặt đất bao dung
Thôi nhé ! Ta đi hòa cát bụi
Cười theo sương khói cõi vô cùng

Tâm Nhiên

TA TRẢ NGƯƠI VỀ THỜI BOM ĐẠN

linhphuong

Ta trả ngươi về thời bom đạn
Bốn mươi năm trước ra sa trường
Cái thằng lính tráng còn cà chớn
( Để má già rồi khóc tiễn con )

Ngươi đi – ngươi biết không về nữa
“ Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi “ (*)
Vác súng qua sông buồn thấy mẹ
Tay bắn đùng đùng-tay làm thơ

Đánh trận ngươi dữ dằn hơn cọp
Uống rượu thuộc hàng dân chịu chơi
Đù má đôi khi ngươi trở chứng
Nhìn xa xăm thương nhớ con bồ

“ Mỹ nhân tự cổ như danh tướng …” (**)
Hảo hán lụy tình càng thêm đau
Xưa-nay-gái đẹp vô số kể
“…Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu “ (***)

Ta và ngươi giày saut mòn gót
Ghét cay ghét đắng tống biệt hành
Tống biệt hành khỉ khô gì chớ
Chết xong là hòm gỗ mới tinh

Rủi ro cụt cẳng thành bại tướng
Giải ngũ lo chi chuyện bao đồng
Bồ bỏ ư ? Chỉ cần một trái
Lựu đạn thôi em khỏi lấy chồng

He… he… ta xúi dại vậy đó
Nghe hay không tùy ý nhà ngươi
Đừng giống ta hận người đen bạc
Cứ hiên ngang mà bất cần đời

Ta trả ngươi về thời bom đạn
Hào khí ngất trời Nam Việt Nam
Mai kia có chết vì sông núi
Ngươi sẽ sống hoài với núi sông

(*) : ( Tạm dịch )Trước giờ người đi chinh chiến mấy ai còn sống trở về ( Thơ Vương Hàn )
(**) ;(***) : Mỹ nhân tự cổ như danh tướng
Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu
Tạm dịch : (Người đẹp từ xưa như tướng giỏi
Chẳng hẹn chờ ai thấy bạc đầu )

LINH PHƯƠNG

Ngày 30 tháng Tư của tôi : Đếm ngược

trinhthanhthuy

Tôi chạy hốt hoảng tìm Ti, tìm Hát, tìm En trong giòng xe cộ xuôi ngược nhốn nháo. Không một chiếc xe ôm nào chờ chực ở góc đường. Tất cả phương tiện chuyên chở công cộng đều vắng bóng. Dường như họ ngầm bảo nhau biến mất khỏi thế giới loài người. Tôi nhận được tim mình đập nhanh và chân bước như trong chiêm bao. Cơn chiêm bao có vuốt của con ác thú cào nhẹ thành bao tử. Khuôn mặt thành phố câm lặng một cách ngột ngạt tưởng chừng có thể bùng cơn bão lửa. Tôi thấy đói, cổ họng khô ran, những chỗ da non gặp mồ hôi ẩm bắt đầu ngứa, hậu quả của ba ngày chưa tắm. Khi nhận được điện tín bố nhắn “Bà mất, về gấp”. Tôi biết bố báo tin ngầm gia đình sắp đi. Tôi năn nỉ, cạy cục mãi thượng cấp mới cho phép về Sài Gòn chịu tang. Thật ra bà tôi mất lâu lắm rồi. Vừa trình diện bộ tổng tư lệnh xong được tin đêm nay di tản, tôi vội vã tìm phương tiện về nhà.

Suốt một tiếng đồng hồ tôi không tìm được xe nào chịu cho quá giang. Tôi lạc lõng giữa Sài Gòn mà như lạc giữa thành phố rong rêu bỏ hoang khi nền văn minh địa cầu sụp đổ. Tiếng gọi xe chìm vào hư không, mất hút vào bãi sậy ảo ảnh xao xác gió nóng. Đôi mắt Vi lúc ẩn lúc hiện. Mặt em thấm đẫm mồ hôi bên chai nước biển nối thòng sợi nylon xuống cổ tay gầy ốm. Em oà khóc, gào thét câu hận thù cay nghiệt khi phải phá bỏ đứa con đang thai nghén của mình. Tôi mím môi tàn nhẫn. Xin lỗi em, anh không còn chọn lựa nào khác.

Vi nằm bất động trên giường trong một góc khuất căn phòng bệnh viện. Tôi bảo em tôi đã lỡ lầm để một sự sống lọt vào khe hở đó có cơ hội tượng hình. Tôi từ chối quyền sở hữu nó. Tôi không có quyền tư hữu bất cứ một vật gì khi hiện tại và tương lai u ám, bất định. Tôi đã mất đi tuổi trẻ đời mình. Tôi không muốn gì nữa cả. Xin lỗi em, xin lỗi Vi. Em nhìn trừng trừng lên trần nhà, lại rấm rức khóc. Khóc đi em vì đó cũng là giọt nước mắt của tôi, thằng con trai khốn kiếp sợ hãi trách nhiệm, sợ hãi mối ràng buộc bên đời. Tôi, một con muỗi mùa đông say mê màu đỏ, hút hết dòng máu ấm trong em rồi vỗ cánh bay xa. Em giận dữ giơ tay quơ đập nguyền rủa. Chết đi mày, nếu có tái sinh cũng ngàn năm thân ruồi truyền kiếp.

Vi lắc lắc đầu, em tan giữa dòng người trôi chảy. Em xanh hơn lá mạ, tay không ngừng chỉ trỏ về hướng biển. Em xé tung áo quần mang chiếc bụng lớn chạy tràn trên cát. Biển xanh hơn em. Em loang loáng nước, loang loáng sóng, loang loáng thời gian. Tôi van em đừng chạy nữa. Tôi cần dừng lại. Tôi không thể đuổi kịp em. Mỗi người cần có một khoảng khắc thời gian để sống, để ngơi nghỉ. Vi càng chạy càng xa và chìm dần vào đường chân trời tím thẫm.

Tôi lột chiếc đồng hồ trên tay cho cuộc trao đổi. Người thanh niên đồng ý chở tôi về nhà. Tôi sẽ được gặp bố, mẹ, các em. Tôi phải đưa tất cả ra khơi đêm nay.

Ông Diệm đứng bên này bờ Bến Hải chõ kiếm sang phía Hà Thành hỏi ông Hồ: “Hoà hay Chiến?” Ông Hồ: “Chiến!” Ông Nhu vót tre, cắm cọc nhọn ra lệnh bọc làng vây xóm vào “Hàng rào ấp chiến lược”. Mây to gió lớn tỉ tê tiếng hò ai oán, bầy dơi chập chờn bay. Lửa ngùn ngụt cháy, tăng bào rực đỏ. Trái tim Thượng Toạ Thích Quảng Đức nguyên vẹn tinh khôi một thể giữa đường phố Sài Gòn. Lòng dân ta thán, hơi cay mịt mù âm khí, tăng lữ, phật tử chật tù. Đại Sứ Cabot Lodge gãi đầu gãi tai hỏi thuộc hạ “Con chim nuôi để hót mà nó không chịu hót thì phải làm sao? Thuộc hạ nháy mắt “Giết, giết”. Mụ phù thủy, tay không ngớt bỏ độc dược vào chếc nồi đen ngun ngút khói, miệng lẩm bẩm thần chú, trước mắt trang sách “Làm thế nào để giết một tổng thống” rộng mở. Hai anh em ông Diệm gục xuống ở một góc đường hầm.

Ti không biết làm gì khi cả nhà đi đâu mất, giao Ti nhiệm vụ trông nhà. Bố bảo ra bến Bạch Đằng tìm đường. Ti leo lên sân thượng ngồi ngắm chậu hoa Đại trổ bông vàng rực rỡ. Trời xanh lơ đãng thả vài cụm mây ngoằn nghèo che bóng nắng. Một chú ong mật bay vù vù vào mặt làm Ti hãi quá chạy bay xuống lầu ra đường đứng ngóng người. Từng đoàn xe nhà binh chạy qua thành phố. Những người lính có người cởi cả áo trận tung cao lên trời la to “Hoà bình rồi bà con ơi, hết chiến tranh rồi”. Một cụ già nở nụ cười hiền khoe lợi móm mém. Một thằng bé ngu độn gọi mẹ ầm ĩ, chạy theo đoàn xe reo hò tở mở.

Ti tự hỏi chuyện gì đã xảy ra. Chuyện của người lớn, ban ngày, bóng tối, súng đạn hay chết chóc. Em mù tịt chỉ biết phải theo gia đình đến trọ nhà người quen gần phi trường Tân Sân Nhất một thời gian, sửa soạn cho chuyến đi xa. Bố mua chỗ trên máy bay làm giả gia đình một người me Mỹ để được theo cô ta di tản về Hoa Kỳ cùng với chồng. Nhưng phút cuối ông chồng Mỹ lên phi cơ bỏ cả cô me Mỹ ở lại. Thế là gia đình Ti lại lếch thếch kéo nhau về, từ giã căn nhà trọ. Căn nhà có nuôi một heo mẹ và đàn con mũm mĩm. Đêm Ti thường mất ngủ vì tiếng heo ủn ỉn dưới lầu. Em hay trằn trọc nghĩ tới những chiếc mõm hồng không ngừng cử động khi chăm chỉ mút vú mẹ. Em mơ hồ thấy các bầu vú hồng căng sữa nở những đoá sen bềnh bồng thơm ngát mùi mạch nha. Thứ mạch nha quánh mật, đọng vị ngọt nơi cổ người con gái mới chớm dậy thì. Cây kẹo tuổi nhỏ ngày lên tám chập chờn trở về khuấy nâu váng ký ức. Ngày thằng Ka rủ Ti vào phòng nó, đòi mút chung cây kẹo trên tay Ti. Em đã quỳ xuống theo lời nó chỉ, khi nó cởi cái quần đùi khét nắng và đất. Ka nghiêm mặt bảo “mút kẹo xong mày mút chim tao, mày sẽ thấy kẹo ngọt hơn”. Ti làm theo như một cái máy. Cả hai thứ kẹo đều thấm vị ngọt đầu lưỡi. Em cười ngây ngô. Hình như hạnh phúc và ngây thơ hoà nhập làm một thể. Những đoá sen nuột nà đơm hạt đầu núm vú heo mẹ phơn phớt hồng. Ti thiếp đi trong đêm xanh.

Ồ anh En đã về rồi. Anh hối Ti xách quần áo ngồi lên xe anh chở ra bến Bạch Đằng. Mọi người đang đợi Ti cùng đi.

Ông Thiệu đứng bên này bờ Bến Hải chõ kiếm sang phía Hà Thành hỏi ông Hồ: “Hoà hay Chiến?”. Ông Hồ: “Chiến!” Ông Mẫu giở chiếc nón phô diễn đầu mới cạo, bảo sinh viên trường Luật “Thày cạo đầu phản đối ông Thiệu bầu cử độc diễn”. Vó ngựa đường mòn họ Hồ rồn rập. Kiến, giun bị giẫm nát bẹp gí, chuồn chuồn Hạ Lào cánh gãy như rạ. Lưỡi dao đã cắm sâu xuống rẻ sườn chữ S, máu đổ, thịt rơi. Rừng núi Trường Sơn thê thiết tiếng kèn đồng “Sinh Bắc, tử Nam”. Ngày 28 tháng 3.1975, Ngôi Nhà Màu Trắng mở buổi họp Hội đồng An ninh Quốc gia định đoạt số phận tiểu quốc Việt, Miên, Lào. Ông Đán la thất thanh “Đà Nẵng thất thủ”. Ngày 24 tháng 4, 1975, Nhà Trắng hạ lệnh Đông Dương di tản. Ông Thiệu vứt kiếm bỏ chạy trước. Chiến địa hoang tàn. Chỉ chạy mà không chống. Người đạp lên người. Ông Minh bảo ông Hồ, chúng ta “Hoà, hoà”. Ông Hồ: “Chiến!”. Ông Hương chống gậy đứng nhìn chiếc xe tăng tràn vào Dinh Độc Lập.

Tôi ngồi thu mình trong góc nhỏ chiến hạm. Cả nhà tôi thu mình. Mọi người đều im lặng, không một tiếng thở mạnh. Đêm thẳm sâu thoang thoáng mùi dầu nhớt. Tàu chưa được lịnh nhổ neo. Tôi ước ao một cơn mưa đổ xuống làm tan đi thứ không khí đặc quánh, khó thở này. Cơn sợ nhen nhúm lúc càng lan rộng. Có một cái gì căng cứng ở phía bên dưới bụng tôi. Tôi nhận ra bọng đái mình đầy ắp. Từ chiều tới giờ lê la theo gia đình tìm đường, tôi chưa được đi tiểu. Anh Kh. theo lời dặn của anh Si dẫn tôi qua cổng gác. Những người lính Hải Quân đang ôm súng giơ tay chào. Bạn anh hỏi “Dẫn bồ theo hả”. Anh Kh. lặng thinh nhỏ nhẹ bảo “Hát đừng sợ, bạn anh đùa thôi”. Anh Kh. nắm tay tôi ân cần như cái nắm tay hai năm sau lúc anh ấy tỏ tình. Cuối cùng bạn anh nói lên HQ2 đi, ở đó có rất nhiều vị tướng, chắc an ninh hơn. Chúng tôi leo lên tàu rất vất vả vì chen lấn, ai cũng sợ bị bỏ lại. Tôi níu tay anh Kh. đi như người mộng du. Anh Si la: “En leo lên đi, vất cái túi đang mang xuống biển, cả dép nữa”. Biển hun hút vực thẳm. Một người bị trượt ngã, rớt xuống nước nhanh như cánh diều đứt giây. Không ai buồn cứu. Bên tai tôi ồn ã tiếng la, réo gọi, nấc nghẹn, tuyệt vọng, hãi hùng. Tôi không kịp thấy bàn tay nào vươn lên từ mặt nước sánh đen. Những cặp mắt bàng hoàng không kịp nói điều gì hơn sự im lặng. Con người chỉ còn thuần loài thú hai chân săn tìm sự sống. Bản năng sinh tồn gầm lên tiếng rống dũng mãnh một con sư tử. Sóng thao thiết vỗ. Đêm vẫn xanh rất xanh. Bỗng có tiếng nổ lớn kinh hoàng. Sau này người ta kể đó là chiếc tàu có chở nhà văn Chu Tử bị trúng đạn pháo kích và ông đã thiệt mạng trong chuyến đi này. Lại có lịnh nhắc nhở mọi người phải giữ im lặng và bất động tuyệt đối.

Tôi thấy ươn ướt giữa hai đùi. Không giữ được nữa rồi. Nước tiểu lênh láng chảy xuống sàn tàu. Lần đầu tiên tôi đái dầm như đứa trẻ lên ba. Chưa bao giờ tôi thấy dễ chịu như thế này. Cái cảm giác dễ chịu đến thích thú chỉ mình mình biết, mình mình hay. Cái dễ chịu thả được dòng nước vàng óng ra khỏi thân thể một bầu căng cứng. Loại nước thải mặc tình tự do chảy qua ngõ ngách xuống đôi chân mỗi lần tắm, mỗi lần kỳ cọ. Nước sẽ bôi xóa tất cả, sẽ cuốn trôi những hạt bụi tròn đọng trên thân thể. Tôi đã hồn nhiên tắm, hồn nhiên đái không e dè, mắc cỡ cho đến một ngày tôi phát giác ra từ trước tới giờ mình bị nhìn trộm lúc tắm. Cái lỗ nhỏ ở góc phòng tắm mà người thanh niên ở trọ khoan, đã cướp mất tuổi thơ trong sáng của tôi. Từ đó tôi không còn hồn nhiên đái khi tắm nữa.

Tôi giật mình tỉnh giấc, mở mắt để kịp thấy bóng người thanh niên mặc chiếc áo Hải Quân lực lượng người nhái vừa đứng lên. Hắn rút tay ra khỏi chỗ kín của tôi và lẩn vào bóng đêm nhanh như một con beo. Tôi nhận ra mình vừa bị rờ trộm. Sao trên trời lấp lánh sáng. Gió đồng loã thổi đen tâm hồn tôi lem luốc. Người con trai đã đánh thức tôi, đánh thức đợt cồn dục vọng ngoằn nghèo gợn sóng, dồn lên rồi gấp khúc. Cảm giác tưng tức bên dưới còn râm ran. Tựa như lần tôi bị gã con trai nào đó ấn cái vật nóng hổi vào phía sau mông trong một rạp chiếu bóng quá đông người đến nỗi không còn chỗ ngồi, tôi phải đứng mà xem. Tôi trở mình nằm sấp, dấu cái vật nhô cao ấy xuống sàn tàu. Đêm nở những cánh uất kim hương đen rực rỡ. Đèn của đệ thất hạm đội xa xa đủ màu nhấp nháy như hội hoa đăng. Đêm nay là đêm thứ ba gia đình tôi ngủ trên boong tàu trong sự gặp gỡ hoà bình sâu xa của trời và nước. Và tôi của tớ hớ, tênh hênh không chiếu trải, không mền che đậy điệm, hoa đào phơi phới tháng tư. Một chú ong vừa ghé ngang tính toan nếm mật. Chúng tôi chiếm một góc gần ổ máy tàu và được mọi người đặt cho cái tên rất thân tình “Gia đình bác Tám”. Lê, người lính hải quân lúng túng đem khoe tôi tập thơ chép tay rất học trò. Bê, xum xoe bên mẹ tôi, trao tặng người mấy con cá nướng thơm phức mà mắt cứ nhìn chằm chằm vào ngực tôi. Đê, thản nhiên rủ tôi đi dạo trên boong, bỏ mặc những mắt nhìn phía sau. Sau ba đêm bình yên, người ta đã quên nỗi kinh hoàng. Sự sống mở toang cánh cửa. Thượng đế và tín ngưỡng không còn bị lạm dụng bởi sự nài nỉ, van xin hay nhắc nhở tới nữa. Con người trở về sinh hoạt bình thường, ăn, ngủ, thở và thèm khát những thứ bị thiếu thốn. Thực phẩm và nước uống thì không thiếu vì đây là một chiến hạm có dự trữ lương thực cho mấy tháng, mà tàu vì có nhiều vị tướng nên số người được phép lên tàu rất giới hạn. Những người lính Hải Quân theo tàu lênh đênh trên biển một thời gian dài, chưa kịp về thăm gia đình, giờ lại tiếp tục cuộc hải hành bỏ nước ra đi. Họ cô đơn, thèm khát mái ấm gia đình, muốn kể lể chia sẻ nỗi hoang mang, tâm tư bất ổn, thèm trò chuyện về một ước mơ chưa đạt. Họ tìm đến tôi như một chỗ tựa khoảnh khắc, vĩnh lặng để khoả lấp khoảng trống thời gian vô vị trên tàu. Nghĩ đến sự bất hạnh của họ, “lòng tôi chợt từ bi bất ngờ”. Tôi mặc nhiên tha thứ cho hành động của thanh niên người nhái nọ. Tối mai tôi sẽ nói với anh Si cho tôi xuống hầm tàu ngủ gần anh. Dù tha thứ nhưng tôi vẫn không muốn việc này tái diễn.

Đại Dương gầm sóng, 81 con chuồn chuồn sắt tìm đường ra biển Nam Hải. Ông Ford bồi hồi xúc động “Chương sách Việt Nam từ nay khép lại”. Ông Kissinger thôi vừa hôn vừa hát. Dọc con đường đến toà đại sứ Mỹ người dân và lính tranh nhau tháo gỡ và lấy cắp thực phẩm, đồ đạc, xe cộ của người Mỹ bỏ lại. Sài Gòn thất thủ thắp nến thay họ đổi tên. Một đại tá cảnh sát nghiêm chào bức tượng “Thương tiếc” rồi tự bắn vào đầu. Bõ già đứng dựa gác chuông nhà thờ làm dấu thánh “Giê su ma, lạy chúa tôi”. Gió tháng tư thổi người ra biển khơi.

Từ sáng đến giờ ngoài việc xếp hàng ăn điểm tâm ra Ti không biết làm gì. Em vào thư viện đảo đọc sách chán, lại ra biển ngắm dã tràng, ngắm những đợt sóng vỗ bờ loang vào cát. Em thấy mình bé bỏng giữa mênh mang nước xanh. Hàng dương không ngừng xào xạc tấu điệu biển cả… Xa xa, một ngôi nhà biệt lập sừng sững đứng nghiêng triền đồi cuối đảo. Ti chợt rùng mình ghê sợ. Em nghe kể nơi đó giam giữ những người phạm tội. Nó như điềm dữ, bóng đêm, ác mộng mà mỗi lần liên tưởng em lại thấy lạnh ở sống lưng. Anh Th. nói anh Xê bị nhốt trong ấỵ. Anh Xê đã nổi loạn, đập phá, gây gổ, đánh nhau với ban quản đốc trại. Anh Xê và anh Th. đều yêu chị Hát. Nhiều lần nhìn ra hướng ấy, em cố hình dung, phía sau cánh cửa ghê khiếp kia là những thiên sứ bị đoạ ngồi ngóng đám con gái có đôi chân thuôn dài như đuôi cá. Có đêm em mơ thấy chị Hát xõa tóc hát bài ca trùng dương mê hoặc anh Th., anh Xê và những chàng trai khác. Ti nhớ mãi ngày em ngồi đàn piano trong thư viện đảo. Anh Th. đến làm quen và trò chuyện. Ngày hôm sau anh nhờ Ti trao một bức thư cho chị Hát. Em sững sờ và giận dữ. Thì ra anh Th. làm quen với em vì chị Hát, em buồn buồn nhưng vẫn trao chị Hát bức thư. Em núp trong bụi cây nhìn anh Th. hớn hở giấu trái táo sau lưng trân trọng trao tặng chị Hát. Mai cả nhà lên phi cơ đi Mỹ rồi, chị Hát ra bãi hát tiễn anh Th. bài Biển Nhớ. Anh Th nói anh không bao giờ quên chị Hát. Anh Th kể lể thằng Xê gây với anh nó bảo nó yêu chị, anh nói anh cũng yêu chị và anh không biết phải làm sao.

Em lại lang thang trên đảo. Em cần phải thăm từng gốc cây, hốc đá. Một cặp tình nhân núp trong bụi, che ngang tấm khăn tắm có lẽ dấu chuyện họ đang âu yếm nhau. Em thấy được khuôn mặt người đàn ông da trắng và tấm giấy đô người con gái nhét vội dưới đống áo quần. Sáng qua trên đường đến nhà ăn, một ông Mỹ đã hỏi em “How much”. Em đưa mắt nhìn chị Hát. Chị tức tưởi “Họ xem tất cả những người con gái Việt Nam như điếm.”

Em đi tìm bố nuôi Tonỵ. Ông là một người Phi làm công trên đảo Wake. Sáu tháng ở đây, sáu tháng về Phi. Ông thương em như con và dạy em học Anh văn. Ông hay đem kẹo bánh phân phát cho trẻ em. Em đến từ giã, bố Tony xúc động, trao em bức thư và một tờ giấy 20 đô. Ông bảo ông sẽ nhớ em lắm, qua Mỹ đừng quên ông. Ông nhắn, tiền ông cho em mua gì thì mua, nhưng thư đừng mở vội, đến Mỹ hãy mở. Em cảm động nhìn ông rưng rưng. Khuôn mặt đen rám nắng của ông sáng lên ánh chớp thân tình. Hôm sau vì tò mò, khi lên phi cơ em đã nhờ anh Si mở và đọc giùm. Anh Si cười hăng hắc chảy cả nước mắt. Anh nói với cả nhà, lão Phi nói thương thầm và đòi cưới con bé Ti làm vợ. Em chưng hửng. Trời, em xem ông ta như bố. Anh Si chua chát. Khờ quá bé ạ, đó là con đường tắt nhanh nhất cho ông ta trở thành công dân Mỹ như ước mơ. Thôi con Ti cứ lấy 20 đô ăn quà cho sướng, còn chuyện lão già thì quên đi. Em vẫn thấy bồi hồị. Nhớ dòng nước mắt rơm rớm lúc chia tay và tình cảm thân thương của người cha già cho con gái. Thật không tưởng tượng được, sao lại như thế?

Mai em đi rồi, cả nhà đi rồi. Từ giã đảo wake, từ giã những ngày dài bình yên bên hàng phi lao, rì rào kể chuyện biển.

Trong những trại tị nạn, nơi đăng bố cáo tìm thân nhân, lúc nào cũng là nơi đông đảo nhất. Trong túp lều Tín Ngưỡng các vị linh mục, tu sĩ làm phép cưới cho nhiều cặp tình nhân. Bệnh viện trại cũng nhoay nhoáy sản xuất hài đồng. Người Mỹ thở hắt ra rùng mình nhìn cuộc chiến tàn. Tính toán tổn thất có lẽ tới con số 50.000 quân nhân Mỹ. Phía Việt Nam có thể phỏng đoán con số 2 triệu rưỡi người. Báo “Sài Gòn giải phóng” tuyên bố Miền Nam phải trả nợ máu cho nhân dân. Từng đoàn người khăn gói vào trại cải tạo chuẩn bị cho một cuộc sống mới.

Con đường lên Processing Center không dài nhưng mỗi lần có việc phải lên đó tôi thấy mình như bước vào một thế giới khác. Ở đó tôi có thể xem Tivi, nói chuyện với những người sẽ phỏng vấn và bảo trợ mình. Tất cả tượng trưng cho người của thế giới bên ngoài trại. Một gia đình luật sư đã nhận bảo trợ gia đình tôi. Hai tuần nữa chúng tôi sẽ được về Los Angeles, sẽ thực sự đứt đuôi nòng nọc rùng mình biến hóa, thành một người khác, nói một ngôn ngữ khác. Việt Nam sẽ thuộc về quá khứ. Giấc mơ về một nơi nắng ấm Cali thành sự thực. Đoá hướng dương mọc hoang ven dốc đường ngạo nghễ khoe đài vàng lụa nõn. Lũ kiến đánh hơi ngọt thi nhau rồng rắn kéo đến làm thịt cái nhụy đầy ắp những hạt chín tròn mẩy nở. Ừ mảy nở như cặp mông của Nơ người con gái bò lạc, Fê bắt về được đêm qua. Tiên sư nó, làm cả lều không ngủ được. Fê thì thầm vào tai tôi : “Nó hành nghề ở Vũng Tàu, qua đây thiếu chịu không nổi, cho không. Tao làm trước, tụi bay xếp hàng phiên sau”.

Đêm tháng tám Pendleton, sương muối dày đặc nhìn không rõ mặt nhau, lâu lâu tiếng sói tru dài đệm vào không gian điệu kèn u uất. Nơ tới chiếc ghế bố thằng Fê cắm cọc, căng vải trải giường bít bùng chung quanh từ hồi chiều. Con nhỏ thật thiện nghệ, chắc nó làm việc này mỗi đêm. Bố mẹ tôi kinh ngạc khi đi ăn cơm về thấy sừng sững nổi bật trong lều một căn phòng di động kín đáo, trắng toát. Tôi trằn trọc, Kh. đổi thế nằm. Có lẽ những thằng bạn tôi như tôi đang thao thức theo cơn động tình trên ghế bố thằng Fê. Hình như mọi người đều chờ một tiếng động khác lạ hơn tiếng ngáy đơn điệu mỗi đêm của thằng Fê. Thứ tiếng động nhịp nhàng, đều đặn hay rin rít của ghế bố nhún gặt vào mặt đất trải sỏi hoặc thứ âm thanh vừa ú ớ, vừa rền rỉ. Dù khác lạ thế nào chăng nữa, nó cũng sẽ tấu lên giữa khuya một hợp âm những nhịp sống nhân bản du dương trong cuộc sống con người di tản trong trại đầy rỗng lặng.

Tôi sắp bước qua dấu khắc thay đổi đời mình. Thật không biết thu vén, chuẩn bị gì cho cuộc hành trình sắp tới. Không biết bỏ lại và mang theo những gì. Nỗi buồn chán tuổi trẻ, sự chán ngán chiến tranh, mớ kiến thức từ chương từ thưở còn đi học, lý tưởng, đạo đức, thành kiến, hay những cơn mơ hoang tưởng? Có lẽ tôi nên đi tay không hoặc với hình ảnh Vi điên loạn, trần truồng cuối đường chân trời và một chút hy vọng.

Trịnh Thanh Thủy