NHÀ TÙ : CHƯƠNG 20

 

Tôi bắt đầu suy nghĩ về những chiếc còng made in USA mà người Mỹ bỏ lại quê hương tôi. Người Mỹ chạy trốn vội vàng không kịp di tản còng khoá hay người Mỹ cố tình tặng còng khoá made in USA cho Cộng sản? Tại sao sự khai phóng tự do, dân chủ cần thiết còng, khoá, khiên, ma-trắc, lựu đạn khói nhỉ? Câu hỏi tôi tự đặt ra rồi tôi tự trả lời bằng bài thơ tù:

Nhân danh chủ nghĩa tư bản
nước Mỹ chế tạo còng
và viện trợ cho những tên độc tài ở Sài Gòn
để bảo vệ tự do dân chủ
và xây dựng hạnh phúc con người nước nhỏ

Nhân danh tự do dân chủ
thi sĩ chống đối chế độ độc tài
và bị còng nhãn hiệu USA siết chặt tay
tống vào ngục

Nhân danh chủ nghĩa vô sản
Liên Xô giải phóng Việt Nam
tiêu diệt ảnh hưởng chủ nghĩa tư bản tan hoang
nhưng vẫn sử dụng hàng triệu chiếc còng
mà Mỹ quên di tản

Nhân danh quyền sống
và không nhân danh gì cả
thi sĩ phản kháng và bất động
đều bị Liên Xô dùng còng Mỹ siết chặt tay
tống vào ngục

Tôi nằm tù sáu năm
tìm hoài chưa thấy một định nghĩa chính xác
về cái còng ở thời đại của chúng ta

Chúng ta có nhiều cái nếu sau nhiều lần can thiệp của Tây phương trên đất nước chúng ta.

Nếu người Anh không can thiệp vấn đề Việt Nam, không dâng hiến cơ hội và khích lệ người Pháp trở lại gây chiến tranh 10 năm tạo thanh thế và chính nghĩa cho Cộng sản, lịch sử đã như thế nào? Chắc chắn, Cộng sản đã bị quốc gia nghiền nát. Người Pháp đã vội quên thân phận bị trị của mình, vội quên những giọt nước mắt mừng rỡ giải phóng dân tộc thoát ách phát-xít Đức để cố tình dẫm bước chân thống trị lên nỗi mừng rỡ độc lập của Việt Nam. Khác hẳn thực dân Pháp của thế kỷ trước, người Pháp năm 1946 là người Pháp vừa trải qua sự nhục nhằn mất nước, vừa trải qua cuộc kháng chiến chống xâm lăng hào hùng. Họ đem cái hào hùng đó xâm lăng nước ta. Tinh thần và tác phong của người Pháp dân chủ xâm lăng còn thô bạo gấp ngàn lần tinh thần và tác phong của người Pháp thực dân xâm lăng. Đó chính là dịp may ngàn năm một thuở để Cộng sản phát tín hiệu đoàn kết dân tộc rồi đẩy dân tộc lên tuyến đầu. Năm năm sau, đảng phái quốc gia bị tiêu diệt dần mòn. Năm năm sau nữa, Cộng sản chế ngự và chuyên chế. Cái tham vọng mù loà của người Pháp đã nuôi dưỡng Cộng sản khôn lớn bằng máu xương và nước mắt dân tộc Việt Nam.

Nếu người Mỹ không can thiệp vấn đề Việt Nam từ 1954, lịch sử đã như thế nào? Họ đến, họ làm đảo tung đạo lý Việt Nam, họ mang chiến tranh, ngục tù, còng xích họ viện trợ bọn độc tài bù nhìn, họ phá hủy, họ nuôi dưỡng Cộng sản rồi họ bỏ đi. Cái còn lại là gì? Là Cộng sản. Là ngục tù và còng xích made in USA. Bất cứ nơi nào người Mỹ can thiệp, mọi diễn biến sẽ giống hệt Việt Nam. Bọn cầy cáo tay sai ôm hàng tỷ đô-la cuốn gói về nước chủ. Dân chúng ở lại quằn quại, rên xiết. Nguyễn Văn Thiệu đó. Cao Văn Viên đó. Trần Thiện Khiêm đó. Marcos đó. Câu ca dao dưới đây diễn tả thật đúng tâm sự bẽ bàng của dân tộc Việt Nam.

Mỹ đưa Khiêm Thiệu đi rồi
Dân ta ở lại chịu đời đắng cay.

Thời đại chúng ta, cách mạng làm bằng phương tiện Mỹ. Lãnh tụ cách mạng chết vì âm mưu Mỹ. Chiến tranh bởi súng đạn Mỹ. Mất nước do… thiếu viện trợ Mỹ. Thế mà vẫn còn đứa ngu xuẩn trưng bằng cớ Mỹ nuốt lời hứa. Nước mình mình không lo, lo ăn cắp máu lính, lo ăn cướp xương dân, đem cái kiến thức tiến sĩ tôi đòi mà đổ vạ ông Nixon. Lại lắm kẻ mê muội cố bám lấv lòng trắc ẩn chẳng bao giờ có của Mỹ để mưu đồ giải phóng dân tộc. Xây dựng hạnh phúc giống nòi ở Caliíornia, ở Paris chẳng khác chi xây lâu đài trên cát. Bởi vì chưa nhìn còng made in USA còng tay người quốc gia chống Cộng tống vào tù Cộng sản.

Suy nghĩ về còng Mỹ bỏ lại tặng Cộng sản, tôi đâm ra ngao ngán và bi quan. Người giầu có thể thương người nghèo, nhưng nước lớn không đời nào tử tế với nước nhỏ. Sự phũ phàng là, chúng ta đang sống ở kỷ nguyên nước nhỏ không được phép quyết định thân phận mình. Tinh thần quốc gia cực đoan trở thành không tưởng. Tôi bế tắc. Tôi bế tắc vì tôi mệt mỏí, rã rượi. Giữa tháng 12-1977, Hoàng Mạnh Hùng và tôi được lệnh “chuẩn bị tư trang khẩn trương”

– Mình đi lao động chăng? Hùng hỏi.,

– Càng hay. Tôi thèm khí trời. Tôi nói.

Tính ra tôi đã trọ ở khách sạn quốc doanh Đề Lao Gia Định ngót 18 tháng, cổ nhân phán: “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”. Nếu vậy tôi đã ở đề lao 540 ngàn năm. Có nên so sánh một ngày tù của cổ nhân và một ngày tù Cộng sản để nhân thêm số năm không nhỉ? Có nhiều tù nhân và nhiều chuyện đáng nhớ tôi lại quên. Có nhiều tù nhân và nhiều chuyện đáng quên tôi lại nhớ. “Chuyện buồn nhỏ nhặt liệu mà quên”. Và tôi đã quên hết khi viết về đề lao Gia Định. Những chuyện đáng quên ấy không làm tôi khôn lớn.

– Hoàng Mạnh Hùng!

– Có.

– Vũ Mộng Long!

– Có.

– Xong chưa?

– Rồi.

Cai ngục mở cửa. Các bạn tù 4C-2 chúc chúng tôi thượng lộ bình an. Tôi đeo cái túi đựng phân bón đã khâu hai cái quai trên lưng, tay xách giỏ ni-lông chứa các chai hũ nước mắm, thịt kho, cá kho…, tay xách cái bị cói chứa mì vụn, bột đậu xanh, bột sữa, đường… Tôi không giống bất cứ ai ở xã hội loài người. Tôi là tù nhân của chủ nghĩa Cộng sản, đỉnh cao của trí tuệ nhân loại. Tôi vừa nhận tôi là tù nhân? Sai. Chủ nghĩa Cộng sản không có nhà tù. Tôi là sinh viên nội trú của Đại Học Đề Lao Gia Định. Năm ngoái, tôi học ở Đại Học sở Công An Thành Phố. Tốt nghiệp chứng chi Vỡ Lòng Cay Đắng, tôi ghi danh học Thống Khổ Nhập Môn 18 tháng. Tốt nghiệp chứng chỉ Thống Khổ Nhập Môn tôi ghi danh học tiếp Thương Đau Chín Rấm. Lát nữa tôi mới biết Đại Học nào nhận tôi, Bây giờ, các giáo sư Đề Lao Gia Định bảo tôi xếp hàng chung với các sinh viên khác. Tôi thấy Nguyễn Mạnh Côn, Đằng Giao, Đặng Hải San, Phạm Quang Khai, Đỗ Văn Lựu và vô số bằng hữu các phòng học cũ. Như Phong học dốt bị đúp ở lại Đại Học Đề Lao.

Giáo sư Quản Giáo cầm danh sách đọc tên chúng tôi. Sợ chúng tôi ham vui nhẩy xuống xe đi lạc, giáo sư còng hai sinh viên một còng số 8 made in USA, tay phải sinh viên này dính sát tay trái sinh viên kia và ra lệnh cho chúng tôi lên xe. Xe trùm vải bố kín mít. Tôi giã từ Đại Học Đề Lao Gia Định với bao nuối tiếc. Giã từ các vị giáo sư Chấp Pháp khả kính. Gíã từ các vị giáo sư Quản Giáo khả ái. Giã tử lò bánh mì nung nấu cuộc đời. Tôi đi đây. Tôi đi học một mình chẳng cần “mẹ tôi nắm tay tôi dẫn tôi đi trên con đường làng dài và hẹp.” Ấy quên, giã từ Viện trưởng Hai Phận bất hủ và những cái ống cắm mỏ dầu hỏa ở Tiền Hải.

Nhưng mà xe bít bùng tối tăm, tôi không thể vẫy tay chào tạm biệt ai. Một giọng nói đùa nghịch hỏi vu vơ:

– Tu tủ tù tu đố mấy thằng tù?

Tôi bàng hoàng. Thì ra tôi đích thị tù nhân…

 

NHÀ TÙ: CHƯƠNG 18

Ba ngày Tết, các tù nhân nguy hiểm ở cachot được “giải phóng” xiềng xích. Nguyễn Việt Hưng, tướng Phục Quốc Nguyễn Việt Hưng, thường đứng dán mặt vào ô cửa nói chuyện với chúng tôi. Các bạn trẻ của 1 C-1 đấu ào ào, bất chấp Nội quy. Ổng Hưng hỏi thăm tôi chuyện “nội các” Đinh Xuân Cầu khiến tôi tê tái. Ở đề lao Gia Định, tất cả can phạm phản động đều qúy mến ông Đinh Xuân Cầu. Chuyện Hai Nghiêm mỉa mai ông “Mặt anh mà đòi làm thủ tướng à?” đã thành giai thoại ở đề lao. Ông Cầu đang nằm tại 7 C-2, vào cachot vì Sao giò trốn trại. Sau ba ngày Tết, Nguyễn Việt Hưng bị máng chân vào cùm ở ngay tường, ông ta phải nằm ngửa suốt ngày đêm, trừ hai bữa ăn. Tù nhân vụ Vinh Sơn có người nhái AIi Hùng thổi sáo tuyệt diệu, về khuya, Ali Hùng trổ tài Trương Lương. Tiếng sáo của anh ta buồn não nuột. Cả khu C-l thức nghe anh ta thổi sáo. Trong hơi sáo sau của Ali Hùng, chợt nổi lên một giọng nữ gai góc từ khu B vọng sang “Báo cao cán bộ phòng 4 có người bệnh nặng”, tưởng chừng nhạc thiều âm ty. Tôi đã sống những phút giây hãi hùng và kỳ ảo đó. Nghĩa đời không phải ở đấy. Nhưng ở đấy, người ta tìm thấy nghĩa đời.

Hạ tuần tháng 2-1977, Toà án Nhân Dân Thành Phố Hồ Chí Minh xử vụ Vinh Sơn. Sáng sớm, mỗi tù nhân được phát một ổ bánh mì rồi bị xích chân còng tay đưa tới Tòa án. Buổi chiều được dẫn về. Nguyễn Việt Hưng, Ali Hùng, linh mục Nguyễn Vãn Nghị, linh mục Nguyễn Văn Chức, thiếu tá Tiếp và hai người tôi không biết tên ở cachot l, 2, 3, 4, 5, 6, 7 đã hầu toà ba ngày liên tiếp. Buổi chiều cuối cùng của phiên tòa chung thẩm, khi trở lại cachot Nguyễn Việt Hưng dơ ba ngón tay rồi dùng gan bàn tay chặt lên gáy mình, ông ta báo tin có ba tù nhân bị xử tử. Vài hôm sau, bẩy tù nhân vụ Vinh Sơn chuyển cachot. Chúng tôi hết được nghe Ali Hùng huýt sáo đêm khuya. Bẩy cái cachots dành cho tù nhân mới mà hai cái là nơi “ngự trị” của hai nữ hoàng cachot Hoàng Thị Nga và Ngô Thị Lan. Doãn Quốc Sĩ, hình như, ở cachot số 9. Tôi lại bị gọi sang khu A làm việc với chấp pháp số 11, người Thanh Hoá.

Chấp pháp số 11 yêu cầu tôi bổ sung bản tự khai liên hệ với văn nghệ sĩ Hà Nội. Hắn muốn biết ngoài tôi còn anh em nào thù tạc văn nghệ sĩ Hà Nội không và tôi nghe thấy gì do anh em khác kể lại. Bản tự khai bổ sung rất ngắn. Vì tôi không biết, không nghe, không thấy. Chấp pháp số 11 nhã nhận. Hắn không hạch hỏi. Tôi viết buổi sáng là xong. Buổi chiều hắn mạn đàm:

– Anh Duyên Anh, tại sao anh giao du nhiều mà chỉ khai có một bạn thân.

– Tôi ít bạn.

– Tại sao?

– Vì tôi ưa viết báo công kích, không ai thích thân với tôi.

Câu trả lời của tôi hợp lý quá. Chẳng còn gì nhảm hơn là khai hết tên bạn bè để làm phiền họ, nhỡ họ bị công an chiếu cố. Mà thực ra, bạn thân đúng nghĩa trước 1975, tôi chỉ có một người. Là Đặng Xuân Côn. Ngày Đặng Xuân Côn vượt biên, tôi bị hạch hỏi, bị quay chóng mặt- Như ngày Nhật Tiến vượt biên, dù đã được tha, Nguyễn Đình Toàn vẫn bị gọi lên Sở Công An viết… tự khai.

Chấp pháp số 11 không yêu cầu gì thêm, hỏi vẩn vơ hai ba câu rồi nói chuyện văn nghệ… tiền chiến. Tôi làm việc với hắn vỏn vẹn một ngày. Bất thình lình, 1C-l bị giải tán. Từng nhóm, từng nhóm, tù nhân khăn gói quả mướp chuyển tới các phòng ở khắp đề lao. Tôi vào tuốt 7 C-1, phòng giam tăm tối và hôi hám. Vì cần tiến nhanh, tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa nên ủy ban nhân dân quận Bình Thạnh đã xây cái chuồng heo tại góc sân sát vỉa hè Phan Đăng Lưu, sát tường sau 7C-1. Tù nhân tha hồ hít thở phân tiểu heo cách mạng, hương thơm của chủ nghĩa ưu việt. Tôi “tái ngộ” vua cachot Đoàn Kế Tường ở đây. Ở đây, đầy đủ mặt phản động. Già có cụ Cao Văn Diên, cụ Trần Văn Liễu, cụ Nguyễn Văn Thông. Trẻ có Hoàng Sơn Trường, Đinh Cường, Nguyễn Hữu Trí. Tư sản mại bản có Đỗ Bá Thúc đã từng làm Thứ trưởng thời Diệm và dạy ở trường Luật. Linh mục Phạm Minh Thiện cũng về 7 C-l “họp đàn”. Ngoài phản động còn có vài tù nhân vượt biên, vài cảnh sát đặc biệt trốn trình diện. Sĩ quan mới phải trình diện. Riêng an ninh quân đội, cảnh sát đặc biệt, hạ sĩ quan cũng phải trình diện học tập cải tạo. Và Phủ trung ương tình báo thì anh gác cổng, anh bưng nước đều… tinh báo hết. Ra đi lâu về. Hoặc ra đi không về. Trưởng phòng tên Nguyễn Văn Mâu do Hai Phận chỉ định. Tôi đã có tí chức tước: Thư ký tù, chuyên viết biên bản các buổi họp cuối tuần và lập danh sách mua hàng chợ.

Hai Phận sáng tạo kiểu điểm danh mới. Ngày hai lần, sáng và chiều, hắn bắt tù nhân ra xếp hàng đôi ngay ngắn. Trưởng phòng hô “nghiêm” rồi báo cáo:

– Báo cáo ông Trưởng khu, phòng 7 hiện diện 56 người đủ.

Hai Phận vĩ đại hất tay:

– Được.

Chúng tôi lần lượt dơ tay đọc số, đọc tên và vào phòng. Hai Phận mở cuộc thi đua vệ sinh, ngăn nắp cho tù nhân. Khẩu hiệu của hắn: “Bỏ cờ trắng, vượt cờ xanh, giành cờ đỏ”. Điểm danh cũng được tính điểm thi đua. Tù nhân thi đua ở tù! Nhờ màn thi đua nên có cuộc họp trưởng phòng toàn khu. Thư ký đi ghi chép biên bản. Tôi được gặp Mặc Thu Nguyễn Viết Khánh, Thanh Thương Hoàng và được biết anh em của tôi đã “họp đàn” hết tại đề lao Gia Định, Đủ mặt. Lúc này, Hai Phận vĩ đại thống lãnh lưỡng khu C-l, C-2. Chúng tôi có một tháng thi đua. Phái đoàn trưởng phòng tham quan các phòng và… chấm điểm. Tù chấm điểm tù. 7 C-l cầm cờ trắng hạng bét vì toàn mùi phân heo và mùi ghẻ mủ. Hai Phận chửi chúng tôi ăn ở bẩn thỉu. Hắn ví chúng tôi với heo và ra lệnh cho chúng tôi “phải khắc phục mùi phân heo”!

Năm 1977 có hai biến cố. Biến cố thứ nhất: Toàn dân ăn độn. Biến cố này được dân gian đánh dấu bằng lời ca số 2 của ca khúc Miền Đông đất đỏ:

Ai đã qua miền Đông đất đỏ
Xem xe chở vào thành phố khoai mì
Cả khoai lang và rồi thì khoai bí
Dân mình xếp hàng mua kí về ăn

……

Tổ quốc ơi!
Ăn khoai mì ngán quá
Từ giải phóng đến nay
Ta ăn độn dài dài
Từ giải phóng đến nay
Ta ăn độn bằng khoai…

Hai Phận “triệu tập” một phiên họp “đột xuất”. Các trưởng phòng và thư ký đi phó hội. Hai Phận buồn bã nói:

– Trung Quốc nó đòi nợ, ta phải trả nợ nó, ta không thèm khất nợ, ta trả hết, trả khẩn trương. Do đó, từ mai, các anh sẽ ăn độn. Các anh khắc phục ăn khoai, ăn sắn nhé! Cũng đầy đủ vi-ta-min. Đấy, gà nó ăn ngô béo ra phết. Lợn nó ăn khoai thịt vẫn ngon.

Chúng tôi không dám cười. Hai Phận đau đớn:

– Người ta cứ bảo đất miền Nam tốt, làm không ăn có, ném thóc giống rồi nhắm mắt chờ mùa gặt. Thế mà từ giải phóng, hết hạn hán lại lụt lội…

Hai Phận vò đầu bứt tóc.

– Trời hại ta, trời cũng theo đế quốc Mỹ!

Tôi thấy Hai Phận đích thực vĩ đại hơn Hồ Chí Minh vĩ đại. Hắn trấn an chúng tôi:

– Nhưng ta đã có mỏ dầu hỏa ở Tiền Hải, Thái Bình. Mỏ ngay trên đất, không cần giàn khoan, không cần nhà máy lọc…

Biết rồi, khổ lắm, nói mãi. Hai Phận đã dạy bài này bên Sở Công An. Hắn dạy lại.

Hai Phận, tinh hoa của cộng sản đấy. Chúng tôi đã được học tập cải tạo tư tưởng như thế với những ông thầy như thế. Sau buổi họp “chuẩn bị tư tưởng” ăn sắn, ăn khoai, chúng tôi ăn sắn, ăn khoai thay cơm. Tại sao Hai Phận phải “triệu tập” cuộc họp “đột xuất”? Vì đề lao Gia Định là đề lao kiểu mẫu của thành phố. Chế độ muốn làm dáng dân chủ trong nhà tù. Đã xẩy ra một lần cơm đầy thóc, nhiều phòng… tuyệt thực. Tù nhân phản đối: Chúng tôi không giống gà. Chấp pháp phê bình quản giáo, thay đổi một trưởng khu. Họ sợ giữa thành phố, tù nhân nổi loạn sẽ tạo tiếng xấu cho cách mạng.

Biến cố thứ hai: Nổ kho đạn ở Long Bình. Tù nhân sung sướng, tưởng chừng sắp xô gục cửa ngục mà ra. Cả buổi chiều, hành lang vắng bóng công an. Đạn nổ ầm ầm. Nhưng đâu lại vào đó. Đạn ngưng nổ, ước mơ của tù nhân tắt lịm. Ngoài đời, dân gian cũng tuyệt vọng không kém. Những tù nhân “to tiếng bàn luận” vụ nổ bị làm kiểm điểm, bị cúp thăm nuôi. 7 C-l bình yên nhờ “lãnh tụ” Đoàn Kế Tường bảo anh em “im iặng” nghe đạn nổ. Sinh hoạt đề lao bình thường.

Thêm một sáng tạo ăn. Nghe đồn Đức Giáo Hoàng bán đấu giá vương miện lấy tiền mua bột mì tặng tù nhân chính trị Việt Nam. Đề lao xây lò bánh mì. Bánh mì đề lao thiếu bột nổi. Ăn nóng thì rát họng, ăn nguội thì mỏi răng. Để đến ngày mai thì y hệt cái giầy tã. Bèn đề xuất bánh tầm bì không bì heo. Rồi bánh cuốn. Rồi mì sợi nấu với nước muối. Mì sợi bị chê, đề lao trở về cơm hẩm. Tiêu chuẩn ca đầy ngọn chì còn lưng ca.

Đúng dịp cơm tù bị bớt để trả nợ chiến tranh giải phóng, Doãn Quốc Sĩ ra cachot sau 11 tháng “thiền” trong bóng tối. Anh về 6 C-1 ở chung với Thái Thủy. Tôi bị đuổi qua 3 C-l. Thời gian ở 7 C-l, Đoàn Kế Tường tả cho tôi nghe các cachots anh đã nằm, các hình phạt anh đã chịu. Hồi ở 5 C-2, tôi đã chứng kiến Đoàn Kế Tường chửi quản giáo Hùng kẽm gai. (Hùng mở cửa cho cơm vào phòng. Một tù nhân thấy thùng canh rau muống già, ngao ngán nói: “Lại canh kẽm gai”. Hùng bắt bẻ. Tù nhân tặng nó biệt danh Hùng kẽm gai). Hùng kẽm gai báo cáo Hai Phận. Hai Phận đến tận phòng hỏi:

– Đứa nào dám chửi cán bộ cách mạng dã man?

Đoàn Ké Tường đáp:

– Không có đứa nào cả. Tôi đây, Nội quy cấm ông ăn nói lỗ mãng.

Hai Phận nổi giận:

– Nội quy của ai?

– Của nhà tù. Tôi đọc cho ông nghe: “Can phạm gọí cán bộ là anh xưng tôi. Cán bộ gọi can phạm là anh xưng tôi”.

– Anh dám chửi cán bộ.

-Tôi chửi luôn chế độ dã man!

Hai Phận bắt Đoàn Kế Tường ra làm việc. Vị anh hùng đề lao Gia Định, người nằm cachot bị ra phòng tập đã đập cửa hò hét xin trở lại cachot, đâu ngán cachot.

Tù nhân ở C-2 phục chàng quá. Hai Phận làm việc xong, đưa chàng về. Hắn cho chàng gặp vợ con. Hắn cho chàng khiêng đồ ngày thăm nuôi. Hắn cho chàng chế thuốc ở Y Tế. Chàng nóng tính đánh nhau với ai, kẻ bị chàng đánh đi kỷ luật, chàng bình yên.

– Đang là anh hùng, em trở thành “ăng-ten” anh ạ! Cộng sản thâm hiểm thật.

Cộng sản thâm hiểm, dĩ nhiên. Hạ gục uy tín vị anh hùng, tạo mâu thuẫn để tín đồ bôi bẩn thần tượng rồi bỏ rơi thần tượng. Lúc ấy, thần tượng đã nhào, anh hùng đã hèn mọn! Thay vì người ta “học tập” thủ đoạn cộng sản, người ta chỉ nghị luận “ăng-ten”. Người ta khó mà khôn lớn, dẫu nằm tù cộng sản suốt đời.

Đến 3 C-1, tôi gặp cụ Đỗ Văn Lựu, nhạc phụ của tướng Phạm Văn Phú. Vị đại tá Ngự Lâm Quân này, thời còn đeo lon trung úy, đã đóng ở tô giới Thượng Hải, đã có những trang tình sử với các kiều nữ Tô Châu. Trung thành với Bảo Đại, cụ Lựu chống Ngô Đỉnh Diệm, bị Diệm bỏ tù. Hôm nay, cụ vào tù cộng sản về tội phản động, về tội phó thủ tướng chính phủ Liên Bang Đông Dương.* Tôi gặp Hoàng Mạnh Hùng, tiến sĩ, giáo sư đại học Bách Khoa Thủ Đức. Tôi gặp Ngô Tỵ, Nguyễn Khánh Long. Tôi gặp Tổng giám đốc nhà phát hành Nam Cường. Tôi gặp Đặng Hải Sơn. Tôi gặp nhóm bạn trẻ Song Vĩnh. Tôi gặp cụ Nguyễn Đồng chăn bò làng Song Vĩnh bỗng trở thành đại phản động. Trưởng phòng 3 C-1 là gã Việt cộng gốc QuảngNam. Tôi quên họ của hắn, chỉ nhớ hắn tên Đoan. Hắn vào tù vì tội tham nhũng. Đoan tập kết trở về. Trong số các trưởng phòng tôi biết, Đoan là thằng khốn nạn nhất. Giữa hắn và tù nhân có một sự cách ly ngấm ngầm. Chúng tôi không nói chuyện với hắn. Đoan cấu kết với tên Ba, can tội vượt biên. Không khí 3 C-1 căng thẳng. Hắn bắt chúng tôi thay phiên nhau đọc báo Nhân Dân và phát biểu cảm tưởng những gì mình thu hoạch. Giờ đọc báo, Đoan quan sát các tù nhân có ngủ gục. Hắn yêu cầu ngồi nghiêm chỉnh nghe báo Đảng. Những giờ hành chính, tù nhân không được nằm.

Các bạn trẻ 3 C-l thường tụ tập quanh tôi nghe “quay phim” Đông Chu Liệt Quốc, Hán Sở Tranh Hùng. Và tôi bị Đoan báo cáo là tuyên truyền phản cách mạng, bị Hai Phận gọi ra nạo dũa tơi bời. Không sao, bù lại tôi gặp Nguyễn Văn Quả,** binh nhì Thủy quân Lục chiến, hiền như đất, nói ngọng níu lưỡi mà dám làm phản động có đại liên, có tổ chức. Tôi yêu những ngời như Quả biết mấy. Đi chiến đấu là để chiến đấu. Thế thôi. Khác hẳn những ông sư đoàn trưởng Phục Quốc Quân vốn đeo lon hạ sĩ, trung sĩ của quân lực Việt Nam Cộng Hòa. A, tôi còn gặp Quang dù (anh ta bảo anh ta là đại úy), người thấp, ngực đầy lông, chân mang thương tích, nắm chức vụ Tư lệnh Lực Lượng Kháng Chiến thủ đô. Anh em quen gọi đùa Quang dù là ông Đô trưởng. Đô trưởng rất ham nói, dẫu nói nhăng nói cuội, và rất dễ chọc giận. Anh ta bị quân báo bắt, bị nhốt ở Tô Hiến Thành, bị đánh sưng phổi. Vài hôm quen với 3 C-l, Hoàng Mạnh Hùng*** sang chỗ tôi tâm sự còm:

– Trước ngày bị bắt, tôi định đi gặp ông?

– Làm gì?

– Mời ông xuất ngoại với chúng tôi.

– Đê làm gì?

– Chiến đấu!

A, lại thêm một người mời tôi chống cộng vào lúc “trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn.”

– Chừng đi gặp ông thì hay tin ông đã bị bắt.

– Và ông cũng bị bắt.

– Không ngờ gặp ông tại phòng này.

Hoàng Mạnh Hùng du học ở Mỹ về. Anh ta đã từ chối không nhận chức thứ trưởng Văn hóa Giáo dục của chính phủ Thiệu. Quốc gia cực đoan như Duy Dân, anh ta xếp các chính phủ Việt Nam từ sau 1945 là ngụy quyền. Để tiện phân biệt, anh ta chia hai: Hà Nội phỉ quyền, Saigon ngụy quyền. Anh ta muốn chiến đấu cho một chính quyền. Và như thế, cần thiết cuộc chiến đấu phải mới, thật mới với tư tưởng mới và lãnh đạo mới. Tôi đồng ý. Chúng tôi trở thành thân. Tôi bắt đầu sống bằng ước mơ ở 3 C-l. ít nhất còn một người hiểu giá trị tung hoành của ngòi bút của tôi. Tôi kể cho Hoàng Mạnh Hùng nghe “nội các” Đinh Xuân cầu. Anh ta nói:

– Cộng sản đã lưu manh hoá thị dân miền Bắc và cả nông dân miền Bắc nữa. Mỹ và ngụy quyền đã lưu manh hóa thị dân miền Nam, bây giờ, thêm cộng sản. Chúng ta phải nghĩ đến nông dân miền Nam còn chân thật mà chiến đấu. Và phải quên những thứ Trương Phiên, Bùi Ngọc Phương nhan nhản cuộc sống hôm qua, hôm nay. Tôi chỉ còn tin đám trẻ. Ông đã đi nhiều phòng giam, chắc ông đã rõ, đám trẻ hào sảng và nhiệt tình vô cùng. Họ không biết thở đài.

Tôi ghi nhận điểm son chói lọi này.

– Tại sao trước J 975 ông không tìm tôi.

– Tôi ngại!

– Ngại gì?

– Ông cao ngạo bỏ mẹ đi ấy, tìm ông sợ bị ông đồng hoá với bọn bẩn, ông chửi mất mặt. Nhiều người ghét ông vì ông cao ngạo!

– Ngộ nhận cả, ông ạ!

Chưa ai gặp tôi nói chuyện có ý nghĩa cho cuộc đời phải thất vọng về tôi hết. Người ta không gặp tôi rồi bảo tôi cao ngạo! Một lần, người ta đề nghị tôi vào ban giám khảo văn chương toàn quốc, tổng trưởng Ngô Khắc Tinh nói: “Đừng đừng, ông ta nhận không sao nhưng ông ta từ chối, ông ta sẽ chửi bới um sùm.” Toàn tưởng tượng rồi ghim thành kiến xấu. Lại một lần, có ông tướng hồi hưu muốn ra nhật báo, nhờ người kiếm tôi làm chủ bút. Tôi đặt vấn đề lương: 200 ngàn một tháng. Đáng lẽ 150 ngàn thôi. Chủ nhiệm một tuần báo đi làm thuê cho chủ nhiệm một nhật báo phải 200 ngàn. Ông tướng đồng ý. Tôi đòi trả trước 5 tháng lương. Tại sao? Vì nhỡ báo ông xuất bản được hai tháng, cao hứng ông dẹp tiệm hay cạn vốn ông dẹp tiệm, tôi mất tiếng cần gỡ tiền. Làm báo phải chịu đựng, ít nhất, sáu tháng. Ông tướng lắc đầu và bảo tôi cao ngạo. Quyền lợi hợp lý mà cũng cao ngạo à? Thêm lần nữa, ông Nguyễn Văn Bé xuất bản nhật báo Thách Đố mời tôi viết vài mục. Tôi đòi 200 ngàn một tháng, đưa trước một tháng và sẽ viết từ số 2 nếu báo của ông ta đúng lập trường tôi đã đồng ý với ông ta. Ông Bé lôi tên tôi quảng cáo om sòm. Báo Thách Đố ra số 1. Đó là nhật báo đốn mạt, tôi không viết. Đem tên tuổi tôi quảng cáo đã đủ 200 ngàn. Chưa kể tôi sẽ kiện Thách Đố để Tô Văn viết bài ký tên tôi. Có gì đâu mà cao ngạo?

– Tôi nghĩ thế.

– Bây giờ ông còn thấy tôi cao ngạo không?

– Không, với tôi.

– Dĩ nhiên là với những người đừng để tôi coi thường, bất cứ nơi chốn nào. Tôi yêu và phục tất cả những người tài năng, những người có tâm hồn. Tôi ít học, có dốt nhưng không ngu. Nói chuyện với tôi vài câu là, hoặc tôi yêu mến, hoặc tôi khinh bỉ. Tôi không cao ngạo. Ai sống có chính kiến cũng đều giống tôi. Tôi không thích làm hòn bi với triết lý ba phải. Tôi chỉ có thể là nghệ sĩ là chiến sĩ mà không thể là chính khách hay chính trị gia. Tôi không thích làm vừa lòng mọi người. Với tôi, thiện và ác rõ rệt, xấu và đẹp phân minh, dối và thật sáng tỏ. Sự lầm lẫn của tôi là yêu ai thì yêu hết mình, ghét ai thì ghét hết mình. Tôi bằng lòng sự lầm lẫn đó và trung thành suốt đời với sự lầm lẫn đó. Bởi tôi không cần ai bỏ phiếu cho tôi.

– Người ta sẽ dùng ông như một kẻ châm lửa cho một phong trào.

– Ai là người ta?

– Tuổi trẻ có tâm hồn.

– Tôi rất mong được hầu hạ những người ấy. Những người ấy có quyền cưỡi lên lưng tôi. Tôi tình nguyện làm con ngựa già nhẫn nại. Những thằng lãnh tụ khụ khị thì đừng hòng. Chúng nó có gì hơn tôi? Và chúng nó cứ ghét tôi, cứ bảo tôi cao ngạo. Tôi phục vụ cho tương lai, không cho dĩ vãng.

Tháng 6-1977, một số bạn trẻ rời đề lao đi lao động cải tạo, một số bị chuyển phòng vì chống tên Đoan. 3 C-1 tiếp nhận người mới, có Nguyễn Văn Mẫn bộ đội đào ngũ (anh này đã ở với tôi tại 6 C-I, 7 C-I) và Lê Văn Nhân, trưởng phòng thương nghiệp. Anh Nhân “30 năm đời ta có Đảng,” tập kết năm 1954, về Nam năm 1975. Anh quê Rạch Giá, hồi hương giữ chức trưởng phòng thương nghiệp thành phố Hồ Chí Minh. Vợ anh người Hà Nội, cháu nhạc sĩ Đoàn Chuẩn. Muốn loại bỏ thành phần tập kết, chế độ lấy lý do anh ở nhà lầu, đi xe Fiat (của gia đình ở Saigon cho), chụp lên đầu anh ta cái mũ “mất phẩm chất cách mạng”, tịch thu thẻ Đảng, khai trừ anh ta ra khỏi Đảng rồi tống anh vào nhà tù. Khi khép cửa phòng lại, Hai Phận nói với anh ta:

– Bây giờ anh đã trở thành kẻ thù của Đảng, của nhân dân, anh hết là đồng chí của chúng tôi. Anh được đối xử như mọi can phạm.

Tình nghĩa và tình cảm cộng sản đó. Những anh chị cộng sản làm dáng, làm cảnh, vừa tích cực hoạt động Hội vừa nhẩy đầm nên suy nghĩ. “Ba mươi năm đời ta có Đảng” vẫn nằm tù. Thì cái thứ cộng sản dây máu ăn phần… về quê thăm nước ra cái gì nhì? Anh Nhân có vẻ khoái tôi. Tôi thì méo mó nghề nghiệp cứ thích “phỏng vấn” can phạm Việt cộng.

– Thật sự anh can tội chi?

– Chiến chinh đã tàn, cung nỏ đốt cháy. Đấy, tội của tôi. Chúng nó muốn người Bắc nắm mọi chức vụ.

– Bác Hồ dạy “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết” mà?

– Ổng nằm hòm kính rồi.

– Anh tin ai nữa?

– Hết, tôi không tin ai nữa. Có mỗi thứ để tin là Đảng, Đảng chơi quá nặng tin ai bây giờ?

Cùng với anh Nhân, một đảng viên trung kiên cũng vô cachot đối diện 3 C-l. Anh này tối ngày chỉ hát hai bài và mỗi bài hai câu:

Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng
Lời bác nay thành chiến thắng huy hoàng…

……..

Chưa có hôm nào đẹp như hôm nay
Đất nước thanh bình lòng ta mê say

– Thằng ấy dân tập kết như tôi, anh Nhân nói.

Dân tập kết, giám đốc công ty xuất khẩu thảm Trương Văn Loan nằm ở 5 C-l, chủ nhiệm công ty ăn uống quốc doanh nằm ở 4 C-l, vân vân. Anh Nhân thường để dành miếng cháy bữa chiều làm điểm tâm sáng sau. Lúc anh nhai cháy, anh nhìn tôi, nghẹn ngào hát: Chưa có hôm nào đẹp như hôm nay. Hoàng Mạnh Hùng bảo, cuộc chiến đấu mới cần mở rộng cho những Lê Văn Nhân tham dự. Họ đã thấm đòn cộng sản, họ sẽ phóng lên tuyến đầu. Tôi đồng ý. Nhưng sự đồng ý của tôi, sự gần gũi những người cộng sản đã “trở thành kẻ thù của Đảng, của nhân dân” đã làm khó chịu những người quá khích. Họ không muốn nhìn kẻ bị cộng sản khu trừ như một con người, con người đang khốn khổ như những con người trong ngục tù cộng sản, con người đang khao khát chiến đấu phục hận. Cái nhìn xa không giống cái nhìn gần. Cận thị và viễn thị khác nhau. Không giống và khác nhau tạo thành bất đồng quan điểm. Khi quan điểm bị nâng lên, sự bất đồng thay đổi triệu chứng. Cái triệu chứng khốn kiếp nhất là bôi bẩn nếu chưa quyền bính, là tàn sát nếu có quyền bính, Con người muốn sống đích thực với lòng mình thật khó. Nó sẽ cô đơn khôn cùng. Để thoát khỏi cô đơn, nó phải toa rập với đám đông thường là mê muội, độc đoán, ngu xuẩn. Thế thì con người chọn cái đích thực phải căng ra mà hứng những mũi tên tẩm thuốc độc. Hơn bất cứ ai, nghệ sĩ sáng tạo cần thiết cô đơn. Bởi vì, từ trong nỗi cô đơn, anh sẽ soi sáng được chân lý, anh sẽ dâng hiến cho đời sống những ý nghĩa mầu nhiệm về con người, về cuộc đời. Tôi bắt đầu chê bỏ thứ tiểu thuyết mua vui của các chuyên viên phơi-ơ-tông. Loại penilletonistes rỗng tuếch tư tưởng xem chừng đã lạc hậu ỏ cái thế lưu vong của chúng ta. Không thể réo gọi thời đại bằng nước mắt những cuộc tình lẩm cẩm. Cũng dễ hiểu thôi, loại này trăm năm chưa biết cô đơn là cái gì. Những kẻ ồn ào dễ a dua, toa rập. Họ cần có im lặng và bóng tối để truy nã bản thân mình.

3 C-l cho tôi nhiều suy nghĩ. Một trong những suy nghĩ của tôi là trường hợp ôngNam Cường. Vợ ông nằm vùng làm tới chức Phường trưởng. Ông vẫn đi tù. Trường hợp thứ hai không đáng suy nghĩ nhưng cũng nên nhắc: Ông Tư Bôn, giám đốc Việt Nam tổng phát hành, cậu ruột của Mai Văn Bộ, tê liệt ở đề lao Gia Định, Bộ vào thăm mà không thể xin cho cậu mình được tha. Bạn sẽ có một định nghĩa nào về tình cảm cộng sản?

DUYÊN ANH

* Sẽ viết chi tiết về Chính Phủ Liên Bang Đông Dưưng ở phần ba.

** Năm 1978, Qủa ra tòa cùng tổ chức, lãnh án 25 năm, bị đưa sang chí Hòa.

*** Đã có mặt tại Santa Ana, California, USA.

NHÀ TÙ: CHƯƠNG 17

 

Hai lạng cà-phê của chấp pháp Hà Nội tặng, uống vừa hết thì quản giáo gọi ra làm việc. Tôi chưa hết làm việc. Hồ sơ của tôi chưa kết thúc. Tôi có nhiều hồ sơ. Mỗi chấp pháp là một hồ sơ chăng? Và mỗi hồ sơ là một thời gian lao động cải tạo chăng? Chấp pháp số 10 đón tôi ở đầu khu C-1 và dẫn tôi sang khu B. Hắn ta dân Bắc kỳ, khuôn mặt lạnh lùng. Gói thuốc Vàm Cỏ và hộp quẹt đẩy sát chỗ tôi, chấp pháp số 10 nói:
– Anh hút thuốc đi rồi chúng ta làm việc.
– Tôi tưởng hồ sơ đã kết thúc.
– Bổ sung hồ sơ.
Hắn cười:
– Một sự làm việc hoàn toàn mới. Anh cần đổi không khí. Không viết tự khai nữa. Anh chán viết tự khai hả?
Tôi đáp:
– Anh thừa hiểu điều này.
Hắn nhìn tôi ranh mãnh:
– Anh có trí nhớ tốt lắm. Bản tự khai nào của anh cũng giống nhau, không sai từng dấu chấm. Anh viết… hấp dẫn vô cùng!
Nỗi khổ tự khai của một nhà văn bị còng tay vào tù ngục đã làm người Cộng sản thích thú. Tạp chí Nghệ Thuật Công An, số ra tháng 4-1981, cùng chiến dịch tái tổng càn quét ảnh hưởng văn hoá Mỹ Ngụy trên các đài truyền thanh, truyền hình, báo chí nhà nước và các buổi học tập ở đại học, trung học, phường, khóm, đã rao rêu: “Duyên Anh viết tự khai nhiều nhất. Nó viết tốn cả bó bút Bic và hàng ngàn tờ giấy”. Người Cộng sản bắt tôi viết ngày viết đêm, viết đói, viết mệt lả, dại khờ về quá trình 50 tác phẩm của tôi. Họ bắt tôi tóm tắt cốt truyện, ghi lại các nhân vật tiểu thuyết, nói rõ cá tính của nhân vật. Rồi bắt tôi phê bình tôi. Phê bình xong, họ bắt tôi trung thực tự kiểm viết theo cảm hứng nào, nhằm mục đích gì, nhận tiền Mỹ bao nhiêu. Một mặt, họ bảo tôi nguy hiểm, chống cộng tự nguyện. Một mặt, họ bảo tôi viết ăn lương CIA. Nghĩ mà bẽ bàng cho cái thân phận tôi. Bẽ bàng hơn, hôm nay, Cộng sản chưa ngớt nhục mạ tôi, có phần họ còn nhục mạ nghiệt ngã gấp bội, sau khi, tôi đã trả lời họ, trả lời một cách ngạo nghễ “Thế giới đã đọc sách của tôi”. Nhưng khi ấy không ít những thằng ngu, những con tôm, mắt mờ vì đố kỵ, hồn đục vì ganh ghét, nhận mình là quốc gia, chụp mũ Cộng sản lên đầu tôi. Tôi chiến đấu bằng chữ nghĩa. Chữ nghĩa sừng sững không thèm chối cãi. Những kẻ chiến đấu bằng mồm dễ chối cãi nhất. Những tên núp xó tối sủa bậy càng dễ chối cãi. Chúng sẽ cúi mặt: Tôi đâu có chữ để viết. Những tên núp xó tối sủa bậy đó đây, vẫn nhiều. Chúng tiếp tay Cộng sản hạ gục uy tín của những tài năng chống Cộng sản, những thủ đoạn vặt của ngụy quốc gia, đã hết hiệu quả. Tôi đã dẫm lên những hèn mọn của chúng, đi mãi không bao giờ mệt mỏi, cùng dân tộc tôi chiến đấu cho ngày mai hạnh phúc đoàn tụ, thương yêu, tự do, dân chủ.
– Chúng ta bắt đầu nhé?
– Tùy anh.
– Tôi hỏi, anh trả lời.
– Được.
– Trả lời thôi.
– Được.
– Nguyễn Cao Kỳ gọi anh làm chủ bút báo Chí Trai của Bộ Thanh Niên Ngụy?
– Không.
– Ai?
– Đỗ Tiến Đức.
Đố Tiến Đức là bạn hàn vi của tôi thuở di cư Nhà Hát Tây, Saigon. Năm 1964 cãi nhau với Tổng giám đốc Nguyễn Ngọc Tú, tôi bỏ Bộ Thanh Niên. Thời Nguyễn Tấn Hồng làm tổng trưởng, Đỗ Tiến Đức làm Giám đốc. Anh ta mời tôi giữ chức chủ bút tạp chí Chí Trai. Bị một ông nhà văn công cán ủy viên “bỏ nhỏ” chi đó, Đổng lý Trần Đỗ Cung, “vua cơm heo” gọi về Bộ trách báo ra chậm và hỏi tôi “có nghiện thuốc phiện” không. Tôi nổi giận trả lời: Tôi làm việc với Đỗ Tiến Đức và chỉ cần biết Đỗ Tiến Đức. Và tôi trả lại chức chủ bút cho Đỗ Tiến Đức. Từ đó, tôi không thèm dính dáng đến nhà nước nữa. Nhà nước động đến tài của tôi, phải chi thật nặng. Tôi lấy tác quyền của Nguyễn Văn Hảo 2 triệu viết vẩn vơ trong Hình ảnh kỉnh tế Việt Nam, còn đòi trả lại tiền lấy lại bài xé đi vì cố vấn Nguyễn Cao Hách ghi nhận xét lên bài của tôi. Tôi lấy tác quyền 2 triệu làm đặc san Cách Mạng Xanh cho Nguyễn Văn Hảo. Chính Nguyễn Xuân Nghĩa trả trước 1 triệu. Vì chưa kịp phát hành Cách Mạng Xanh thì Ban Mê Thuột thất thủ, Ngày Nông Dân bị hủy bỏ, nên Nguyễn Văn Hảo vẫn nợ tôi 1 triệu.Tôi đã trả tác quyền một bản nhạc in báo cho Phạm Duy 50 ngàn, một bài thơ cũ của Hà Huyền Chi 5 ngàn, một bài tạp ghi cũ của ký giả Lô-Răng 40 ngàn. Vân vân… Thời kỳ này, giá biểu viết phơi-ơ-tông nhật báo một tháng 15 ngàn. Ông nhà văn công cán ủy viên huyết thống cách mạng tưởng là gì ghê gớm. Cải tạo ở Kà Tum về sớm, ông ta viết một bài “vĩ đại” trên tạp chí Đứng Dậy của Nguyễn Ngọc Lan ca ngợi cách mạng tưng bừng, ông ta sắp sang Mỹ đấy. Chắc chắn, ông ta sẽ quên “Giáng sinh ở Kà Tum”.
– Chủng tôi sẽ hỏi Đỗ Tiến Đức.
– Anh cứ hỏi.
– Minh Vồ khai anh nắm hết tuần báo Con Ong. Đúng chứ?
– Đúng.
– Anh viết bài ký tên nó?
– Đúng.
– Nhất định đúng, văn của anh dễ nhận và Minh Vồ viết lý lịch mình không nổi. Miền Nam có nhiều chủ báo lạ nhi? Tự do thật, tự do ngu dốt.
– Anh hỏi và tôi trả lời.
– Tôi được bình luận, anh thì không.
– Anh có đủ quyền hành.
– Anh thích thi sĩ nào?
– Hoàng Anh Tuấn.
– Tại sao?
– Vì nó làm thơ xong là vất đi.
– Anh đã viết trong cuốn Lứa tuổi thích ô mai. Anh không thích thi sĩ cách mạng?
– Tôi chưa đọc.
– CIA đỡ đầu anh viết cuốn Điệu ru nước mắt hả?
– Không ai đỡ đầu cả.
– Không có CIA đỡ đầu mà anh dám viết bạo và được xuất bản à?
– Do Sở Phối Hợp Nghệ Thuật cho phép.
– Do CIA
– Cũng được, tùy anh.
– Anh nhận tiền của ai viết Bò sữa gặm cỏ cháy?
– Của nhà xuất bản Nguyễn Đình Vượng.
– Anh âm mưu “trồng người” chống chúng tôi. Cuốn này nguy hiểm nhất, ác độc nhất.
Nguy hiểm nhất, ác độc nhất đối với Cộng sản, Bò sữa gặm cỏ cháy của tôi. Thế mà nó đã bị om ở Phủ tổng thống mấy tháng, bị tự ý kiểm duyệt. Và chẳng đứa nào của chính phủ Nguyễn Văn Thiệu đọc cả. Tôi nhớ buổi tiếp tân của Nhã Ca ở Trung tâm Văn Bút Việt Nam nói về cuốn Vi ơi, bước tới mà Barry Hilton sẽ dịch sang Anh Ngữ. Bấy giở, Phủ đặc trách văn hóa được trao vào tay nhà khuyến lệ cổ ca Đỗ Văn Rỡ. Linh mục Thanh Lãng đã nồng nhiệt giới thiệu tôi với ông già Đỗ Văn Rỡ. Ông ta đưa cho tôi tấm danh thiếp, mời tôi ghé Phủ của ông ta đàm đạo văn hóa. Tôi bèn hỏi: “Thế ngài đã đọc cuốn sách nào của tôi chưa”? Rất thành thật, nhà văn hóa đáp: “Chưa!” Tôi bèn gửi lại nhà văn hóa cái danh thiếp của ông ta. Làm văn hóa mà chỉ biết khuyến lệ cổ ca Nam phần thì hỏng quá! Rốt cuộc, nhà văn vào tù. Và tôi viết Bò sữa gặm cỏ cháy cho… Cộng sản đọc. Để họ kết án tôi nặng nề.
– Anh yên tâm, Nguyễn Văn Thiệu không đọc đâu.
– May là nó không đọc. May là nó coi thường tác dụng mãnh liệt của văn nghệ. Nếu không, chúng tôi còn phải hy sinh nhiều nữa, gian khổ nhiều nữa. Thằng Thiệu ngu. Anh cũng ngu. Anh giai cấp vô sản lại viết sách dạy ngụy quyền huấn luyện nhi đồng thành giai cấp tiểu tư sản.
Một sự làm việc hoàn toàn mới của chấp pháp số 10 đấy. Nó chửi rủa tôi ngu. Mà tôi không dám chửi lại nó. Mà ai dám chửi lại nó, ở địa vị một tù nhân như tôi? Tôi có thể viết, hôm nay, những trang rất hào hùng của người quốc gia trong ngục tù Cộng sản. Ở tiểu thuyết thôi và chỉ xẩy ra với bầy sư tử lãng mạn. Cá nhân tôi, lặng thinh nghe chúa ngục Cộng sản chửi mình, không lạy nó đừng chửi mình, đã khá rồi. Cứ ba hoa nói phét mình chửi lại, mình ăn thua đủ thì không khá. Và mình sẽ xấu hổ, nếu mình còn liêm sỉ. Lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh đã thú nhận ở tù, ông bị dắt đi như trâu bò. Tôi đã hân hạnh gặp những người Cộng sản trung kiên bị nhốt tại quân lao Nha Trang, hồi ông Lê Khánh làm tỉnh trướng Khánh Hòa. Nhân vụ giáo sư Trần Vinh Anh bị một thí sinh tú tài đâm chết. Tôi phải đóng vai ủy viên Quân đoàn 2 vào thăm quân lao để phỏng vấn mấy cậu học trò tạm nhốt ở đây. Vậy thì ông ủy viên rởm thăm một phòng nhốt Cộng sản. Tù nhân Cộng sản đứng nghiêm răm rắp. Ủy viên rởm vẫy tay chào. “Anh em ngồi xuống”. Cộng sản ngoan ngoãn ngồi. “Anh em đang làm gì vậy”? Lãnh tụ tù Cộng sản đáp: “Thưa, chúng tôi đang học tập chính nghĩa quốc gia ạ”! Phải biết sau 30-4-75, vị lãnh tụ tù này sẽ nói phét đấu tranh trong ngục tù Mỹ Ngụy dường nào. Tôi là nhà văn. Tôi trung thực. Tôi viết đúng vì, có lần, theo sự đổi đời, tôi đã đứng nghiêm trong một nhà giam chào đón một cán bộ trung ương. Và Trưởng phòng của tôi đã nói: “Thưa chúng tôi đang học tập cái thế tất thắng của cách mạng ạ”! Bạn ơi, ở tù nào cũng khổ. Ở tù Cộng sản khổ hơn, dĩ nhiên. Bạn phải nhịn nhục cả những đứa không đáng gì. Theo tôi, biết nhịn những kẻ mạt hạng mới là thái độ anh hùng, thái độ kẻ cả. Bạn đừng hy vọng, ở tù Cộng sản, bạn được bầy tỏ lòng can đảm với Trường Chinh, Phạm Văn Đồng. Ở tù Cộng sản chỉ có một cách chết là chết dưới lỗ chân trâu. Những ai muốn tìm cho mình một cách chết xứng đáng với sự chịu đựng thống khổ, đều khước từ cái chết ở lỗ chân trâu. Và muốn thế, người ta phải thẩm thấu triết lý sống chết, phải soi sáng trí tuệ vào oan khiên, phải hiểu tận cùng rằng “có một thời im lặng và một thời lên tiếng”, phải biết “xếp tàn y lại để dành hơi”.
Chấp pháp số 10 khoái “bình luận”. Hắn chuyên chế… bình luận.Thằng này ham chửi rủa.
– Anh đã gài mìn?
– Tôi đâu biết gài mìn.
– Chính anh gài mìn khúc đường Trung Lương – Cai Lậy. Anh bịa đặt, đổ vạ cho Cộng sản hại dân lành.
Hắn muốn đề cập cuốn Hưng Mập.
– Anh đầu độc tâm hồn thiếu nhi nông thôn.
Tôi nhiều tội quá. Mỗi cuốn sách của tôi là một trọng tội. Tôi có cảm tướng, chấp pháp số 10 bổ xung chấp pháp số 7. Một đứa bắt tôi viết, một đứa bắt tôi nói. Tôi bị chấp pháp số 10 quần thảo năm ngày về sách rồi về báo. Hắn chửi tôi kỹ nhất thời gỉan tôi cộng tác với nhật báo Xây Dựng.
– Những tờ báo có tiếng nói là những tờ báo chống cộng có trọng lượng. Xây Dựng có hậu thuẫn rõ rệt. Nó đã tạo đoàn kết thiên chúa giáo vụ Đặng Sĩ. Nó đã lãnh đạo vụ đuổi cổ thằng Cabot Lodge. Rồi nó cấu kết với hết Kỳ Loan lại cấu kết với Thiệu Bình.
Tôi không tin nhật báo Xây Dựng có trọng lượng ghê gớm thế. Nhưng cá nhân ông chủ nhiệm của nó, linh mục Nguyễn Quang Lãm, là người thích bám nhà cầm quyền. Như một số linh mục Bùi Chu, Phát Diệm, kẻ khoái làm giầu như ông Trần Đức Huynh, kẻ ham chính trị như ông Hoàng Quỳnh, ông Lãm mê giật giây thống trị và làm đảo điên thống trị. Bước đầu mon men làm quen nhà cầm quyền của ông Lãm là mấy chai rượu lễ nhờ ông Minh Vồ biếu ông Tổng giám đốc cảnh sát quốc gia Phạm Văn Liễu. Ông Liễu không ưa cần Lao nhân vị cách mạng đảng, không ưa cố đạo, ông đã cho tôi uống hết. Ông Lãm chống ông Liễu, ông Thi và nhờ vậy, rất thân với ông Loan, ông Kỳ. Vụ Mậu Thân 1968, nhà ông Lãm có máy truyền tin do ông Loan cấp để theo rõi báo cáo tình hình. Ông Kỳ, ông Loan thất thế, ông Lãm tìm đường đến ông Thiệu, ông Bình. Bị chê, ông ta chống Thiệu dữ dội. Ông Lãm đã xúi dục hàng Giáo Phẩm chống ông Phan Huy Quát, ông Bùi Diễm, ông Lãm đã gài Mặc Giao vào quốc hội. Vân vân…. Không oanh liệt như linh mục Thanh Lãng có quyền chỉ định Tổng trưởng, nhưng ông Lãm đã là con lươn của chính trường Saigon một thuở. 1-5-1975, ông xuất bản nhật báo Xây Dựng 2 trang chửi gỡ Nguyễn Văn Thiệu lập công với Cộng sản. Bị cấm ngay, cả hai ông Lãng và Lãm đều không bị Cộng sản bắt. Chỉ có bọn đã viết báo Xây Dựng bị nằm tù, bị viết tự khai, bị hạch hỏi về báo của ông Nguyễn Quang Lãm.
– Báo Xây Dựng trả anh nhiều tiền lắm, phải không?
– Báo nhà chùa và báo nhà chúa bóc lột nhất nước.
– Tôi không tin nó bóc lột anh.
– Tùy anh. Tôi đã từng bỏ Xây Dựng sau một lần tranh đấu lương tháng 13 cho anh em thất bại.
– Anh đã lĩnh lương tháng… 14?
– Tháng 20. Không có nhà văn nào “ăn khách” mà không biết yêu sách chủ báo. Tôi yêu sách đúng công lao của tôi, tôi không để bị bóc lột.
– Báo nào anh lĩnh lương nhiều nhất?
– Công Luận.
– Bao nhiêu mỗi tháng?
– Hai trăm ngàn, tiền giá năm 1968.
– Cả công viết hồi ký bố láo cho thằng Đính?
– Phải.
Quay tôi tít con mòng mòng về văn, về báo, hắn hỏi tội tôi viết bình luận ở Đài Saigon giáo dục Cảnh Sát công lộ thời Phạm Văn Liễu.
– Bao nhiêu tiền một bài đọc 5 phút?
– Năm ngàn.
– Anh viết bao nhiêu bài?
– Bốn.
– Tại sao nghỉ?
– Vì ông Phạm Văn Liễu kêu đắt và vì tôi không chịu ký tên Ổi, tên Xoài lĩnh tiền.
– Tại sao?
– Tôi bán bài đọc trên đài phát thanh, không bán tin tức mật.
– Liễu cho anh những gì?
– Cái máy đánh chữ Remington trước khi ông ta tử chức.
Vụ giao du với Phạm Văn Liễu, Phạm Huy sảnh, Nguyễn Hoàng Đạt, tôi không khai mà chấp pháp số 10 biết rõ ngọn ngành. Tôi biết người khác đã khai. Cho nên, những gì đã trở thành sự kiện, bạn đừng hòng dấu diếm công an, bất cứ công an của chế độ nào. Bạn chỉ có thể dấu kỹ tư tưởng và ước mơ của bạn.
Sau mười ba ngày làm cái chong chóng trước gió chấp pháp số 10, tôi bị bỏ rơi. Hai Phận thay đổi vài sinh hoạt ở các phòng giam C-1. Hắn bắt tù nhân điểm danh hai lần một ngày. Có hàng ngàn chuyện xẩy ra giữa các tù nhân. Vì khốn quẫn. Vì tù túng. Vì dồn nén. Vì bệnh hoạn. Vì tuyệt vọng. Toàn là những “chuyện buồn nhỏ nhặt liệu mà quên”. Tù nhân “con bà phước” – những người không được thân nhân tiếp tế thực phẩm, thuốc men – được phát một bộ quần áo tù may bằng vải sô và… một cái hột gà tươi duy nhất! Thế thôi, đã đủ kèn cựa và bóng gió sỉ nhục nhau.
Thấm thoát, tôi nằm đề lao Gia Định đã 6 tháng. Đầu năm 1977, hai phần ba văn nghệ sĩ và ký giả giam nhốt rải rác các phòng bốn khu được tập trung tại khu A học tập một tháng để được thả về ăn Tết. Vào thời gian này, tự nhiên, điều tôi mong muốn đã tới: Tôi bị tống vào cachot khu B không lý do báo trước. Tôi thích được biệt giam. Tôi chán sống chung đụng với tù nhân ô hợp đủ tội trạng. Nhưng hạnh phúc đời tù thật ngắn ngủi với tôi. Được đúng hai tuần, tôi ra phòng tập thể 5 C-2. Ở đây, tôi gặp Đoàn Kế Tường và linh mục Thiên, Dòng Chúa Cứu Thế. Ở đây, tôi biết, đối diện phòng tôi là cachot nhốt luật sư Vũ Đăng Dung, thủ lãnh luật sư đoàn Huế. Cạnh luật sư Dung là cachot nhốt một tử tù vụ đánh cướp nhà băng quốc doanh gây sôi nổi ở đại lộ Hàm Nghi. Ở đây, tôi biết Võ Long Triều, Nguyễn Ngọc Tân (Bẩy Bốp, Phạm Thái) học tập cải tạo trở về đã bị bắt lại và đang nằm chung với hai cuốn tự điến Như Phong, Lâm Văn Thế. Nguyễn Ngọc Tân cũng là… tự điển Đại Việt, người Xứ ủy miền Nam này đã ra Hà Nội làm việc ở căn nhà phố Hàng Quạt, nơi Hồ Chí Minh viết Tuyên Ngôn Độc Lập 2-9-1945; người Xứ ủy này đã chiến đấu tại chiến khu Nam Ngãi, đã bị lưu đầy thời ông Diệm. Tôi ở 5 C-2 có bốn ngày, được Hai Phận vĩ đại “giáo dục” một bài học nhân vụ linh mục Phạm Minh Thiện “làm lễ” trưa chủ nhật với đám con chiên bị ngay con chiên ghẻ tố cáo.
– Trong tù không có thánh, chẳng có thần. Thần tượng của các anh là chấp pháp. Nói cho các anh rõ, Chúa Giêsu nằm tù, tôi cũng còng tay tống cổ vào cachot.
Hai Phận biểu diễn quyền uy Cộng sản. Bạn cần suy nghĩ câu nói của Hai Phận vĩ đại. Và bạn sẽ nhận diện những vị anh hùng tù ngục Cộng sản thoát ra ngoại quốc ồn ào. Một trong những vị anh hùng phét lác ấy là Đoàn Văn Toại, người đã làm… kiến nghị và lấy chữ ký của hàng trăm tù nhân!
Bốn ngày ở 5 C-2 chưa quen hết tù nhân, tôi bị trở lại 1 C-1. Rồi vừa mới treo xong hành lý, tôi lại được gọi: “Vũ Mộng Long, chuẩn bị rời phòng. Khẩn trương”. Tôi sang 3 C-2 với Nguyễn Hữu Miên. Ở đây, tôi gặp nhóm Trịnh Hùng Dần, Thịnh, Dũng cận và Mai Viết Dũng vượt biên đường bộ bị bắt tại Quảng Trị. Các bạn trẻ kể tôi nghe những nhà tù dọc quốc lộ số 1. Ở đây tôi gặp người anh kết nghĩa Khai Trí. Ở đây, thú vị nhất, tôi gặp Lê Xuyên và Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh. Chức sắc của 3 C-2 nghiêm chỉnh, đúng ý Nội quy. 3 C-2 không có can phạm hình sự. Đa số là can phạm vượt biên. Khu C-2 bí hơn C-1. Tường xây sát khít mái tôn, bít kín lối vào của dưỡng khí. Thời gian này, đề lao tiếp nhận thêm can phạm từ các quận gửi tới. Con số tù nhân ở mỗi phòng trên 50. 50 ổ bánh mì trong lò. 50 con cá mòi trong hộp sắt.
Tôi được an ủi nhiều nhờ nằm cạnh Lê Xuyên. Tác giả Rặng trâm bầu đã nằm đề lao Gia Định thời cách mang Nhân Vị. Anh bị ông Diệm bắt về tội Đại Việt và tuần báo Tự Quyết. Người quốc gia bắt nhốt người quốc gia. Cần Lao bắt nhốt Đại Việt. Bây giờ, Cộng sản bắt nhốt hết. Ra tù cách mạng Nhân Vị, Lê Xuyên viết Chú Tư Cầu trên nhật báo Saigon Mai sau chính biến 1960. Anh nổi tiếng từ đó. Và từ đó, anh mưu sinh bằng nghề văn, nghề báo, rời bỏ chính trị. Lê Xuyên hiền lành, thành thật, ít nói và… nhút nhát, khác hẳn những sôi nổi tình dục trong tiểu thuyết của anh. “Văn là người”, câu này không đúng với trường hợp Lê Xuyên. Nó đã chẳng đúng với trường hợp Vũ Trọng Phụng. Nó không đúng với nhiều nhà văn Việt Nam. Lê Xuyên dạy tôi bài học này: “Công việc là công việc. Bất cứ công việc nào, ở bất cứ đâu, một là không thèm làm, khước từ nó đến nơi đến chốn hoặc là làm việc đến nơi đến chốn. Đứng nghĩ ai giao phó công việc, hãy nghĩ việc làm. Việc nhỏ, việc bị cưỡng bức làm chu đáo sẽ làm nổi những việc lớn, những việc tự nguyện”. Lê Xuyên đã trung thành với lời anh nói. Anh là người thư ký toà soạn mẫn cán nhất, gương mẫu nhất Việt Nam: Đến sớm, về muộn, bám sát toà soạn. Anh là người tù biết sống đời tù: Thà ngồi bó gối dựa lưng, không nằm ngủ; trực sinh lau rửa cầu tiêu sạch nhất phòng. Kẻng báo thức sáng, Lê Xuyên dậy giũ chiếu đợi trực sinh quét bục nằm. Rồi anh tắm gội. Và ngồi bó gối. Lê Xuyên chỉ nằm vào giờ ngủ, dẫu không ai bắt anh ngồi- Anh vấn thuốc rê bằng giấy báo, hút liên miên. Người tù thản nhiên Lê Xuyên không bao giờ thở dài, không hề nôn nóng ngày thăm nuôi. Nhận quà sớm, anh bảo “Vợ tôi thắng bài bữa nay”. Nhận quà muộn, anh bảo “Vợ tôi thua bài bữa nay”. Luôn luôn, chú Tư Cầu nhận quà vào giờ chót.
– Nó bắt anh làm việc chưa, Lê Xuyên?
– Nó quên tôi rồi.
Tôi kể cho Lê Xuyên nghe chuyện làm việc của tôi. Anh lắc đầu:
– Ông bị… sao vàng chiếu kỹ. Từ ngày bị bắt, nó chưa gọi tôi lần nào.
– Tự khai?
– Chưa.
– Chụp hình, lăn tay?
– Một lần, bên Sở. Nó bảo tôi viết lý lịch. Thế thôi.
Lê Xuyên không thắc mắc. Cuối tháng 1-1977, tôi tạm biệt anh, chuyển phòng. Cuối tháng 9- 1981, hay tin tôi được tha, vợ chồng Lê Xuyên đến thăm tôi. Hỏi chuyện cũ, anh kể:
– Ngày các ông sang Chí Hoà, tôi biết. Sau ngày đó, Hai Nghiêm gọi tôi ra. Nó hỏi tôi: “Anh viết bao nhiêu cuốn sách”? Tôi nói tổng số. Nó dọa tôi: “Mỗi cuốn sách của anh là 2 năm tù, anh về suy nghĩ đi”! Tôi về. Hôm sau, tôi nhận Giấy ra trại. Ông thấy ly kỳ chưa?
Ly kỳ thật. Nhưng đó là chuyện 1981. Chúng tôi đang ở 3C-2 tháng 1 năm 1977. Người buồn bã đến rã rượi là Nguyễn Viết Khánh, nguyên Tổng thư ký Việt Tấn Xã, chuyên viên bình luận thời sự quốc tế. Anh ta đã cai thuốc phiện từ lâu và hút lại từ 1-5-1975 và yêu cô học trò báo chí. Anh giã từ cả Phù Dung tiên nữ lẫn người tình cuối đời mà vào tù cởi trần mặc xà lỏn, ăn cơm hẩm với canh rau muống già nấu với muối. Nguyễn Viết Khánh người không bao giờ sang được nước Mỹ, vẫn cay cú cái danh sách nhà văn, nhà báo xin di tản lập tại Usis Saigon đã lọt vào tay Sở Công An. Và Hai Nghiêm đã cầm danh sách đó, chỉ mặt từng nhà văn nhà báo mà hắn làm việc mà kết tội tay sai của CIA. Để quên rã rượi, Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh “quay phim” cho anh em nghe. Nghề này của Hoàng Anh Tuấn 1. Anh Khánh đọc nhiều truyện khoa học giả tưởng, anh kể rất hấp dẫn. Với tôi, anh thuật những kỷ niệm, những cuộc tình của anh ở Nhật, ở Saigon.
Người sầu não vẫn là Khai Trí Nguyễn Văn Trương. Anh ta gửi mua cả quầy chuối treo sát tường. Vốn cao lớn và hơi hơi gù, anh ta giống con gấu. Khai Trí dựa lưng vào tường, quầy chuối trên đầu anh, chân anh duỗi dài, tav anh chống bục nằm. Sức nóng của phòng giam làm chuối mau chín. Và chuối đã lần lượt rụng xuống bụng anh khi anh nhắm mắt. Cái nghĩa của phù ảo được sáng tỏ ở đây. Chuối rụng mà trái sầu vẫn xanh. Vương Khải vào tù. Thạch Sùng vào tù. Thiên hạ còn kèn cựa nhau, còn bước qua xác nhau làm giầu, chẳng bao giờ nghĩ cái bất ngờ 30-4-1975 không hứa hẹn chỉ một lần trong đời sống.
Người ta đã thả hai phần ba nhà văn, nhà báo bị bắt trong chiến dịch 2-4-1976 về ăn Tết Giải Phóng năm thứ hai. Những người còn nằm lại:
Doãn Quốc Sĩ
Như Phong
Lê Xuyên
Nguyễn Mạnh Côn
Trịnh Viết Thành
Tô Ngọc
Đằng Giao
Trần Dạ Từ
Nguyễn Hải Chí
Hồ Văn Đồng
Thái Thủy
Mặc Thu
Thanh Thương Hoàng
Mộc Linh
Duyên Anh
Thế Viên
Nguyễn Sĩ Tế
Nguyễn Viết Khánh
Mai Đức Khôi
Cùng với tin vui này, nhóm Trịnh Hùng Dần và Nguyễn Hữu Miên đi lao động cải tạo. Chế độ bắt thêm Hoàng Hải Thủy, Nguyễn Đình Toàn, Nguyễn Thụy Long. Thủy có mặt ở cachot khu B. Toàn có mặt ở 4 C-2. Long bị nhốt ở nơi khác. Tôi lại bị tống về 1 C-1. Bây giờ, 1 C-1 hoàn toàn mới với các tù nhân mới tôi chưa từng ở chung phòng. I C-1 với tôi nhiều duyên nợ. Về 1 C-1 lần này, tôi gặp gỡ nhiều khuôn mặt. Hoàng tử cachot đề lao là Dương Đức Dũng, trung úy, sĩ quan báo chí Quân đoàn 4, khước từ diện học tập cải tạo, thành lập nhóm chống cách mạng với Đoàn Kế Tường, Lương Việt Cương, có cụ Phan Vô Kỵ cố vấn. Nhóm bị Đỗ Hữu Cảnh, luật sư, bạn thân của Dương Đức Dũng lùa vào với Mai Chí Thọ trọn ổ.
Dũng kể cho tôi nghe những cachots, những kiểu còng anh ta đã chịu đựng. Anh ta biết” tôi là… Bộ trưởng (!) của “nội các” Đinh Xuân Cầu”. Tôi không muốn làm anh ta thất vọng nên im lặng chuyện tôi bị Trương Phiên bịp. Ngoài Dương Đức Dũng là vô số sinh viên, học sinh can tội phản động. Được sống với họ rất thú vị. Tôi chợt nẩy mầm mơ ước viết về họ, mai này. Những Đặng Cơ Bản, Ngô Tỵ, Nguyễn Hữu Trí, Nguyễn Khánh Long, Hoàng Sơn Trường, Đinh Cường… Tôi nằm cạnh nhà tỷ phú Phạm Quang Khai với ông cháu không thích ông bác chúa tầu. Có thêm “giáo sư” hồi chánh Phạm Thành Tài và người Cộng sản nằm vùng mất phẩm chất Nguyễn Văn Nha ở 1 C-1.
Thời gian này, Doãn Quốc Sĩ đã chuyển cachot. Cachot số 1 khu C-l nhốt Nguyễn Việt Hưng. Từ cachot 1 đến cachot 7 dành riêng cho can phạm vụ Vinh Sơn. Ali Hùng nằm cachot số 3. Đinh Xuân Cầu bị xích chân, còng tay “trụ trì” cahot số 8.
Tôi ăn Tết Giải Phóng năm thứ hai tại 1C-1. Năm ngoái, các bạn trẻ kể, ngày mồng một, đề lao cho phép tù nhân đi các khu chúc tụng nhau. Các bạn trẻ đã ôm đàn guitare hát những bản chính huấn 2 nuôi chí phục hận. Rút kinh nghiệm, năm nay, khu nào gặp khu ấy và cấm đàn, cấm hát, cấm chào cờ… Cửa gió cachot mở hết. Vệ binh ôm súng canh ở đầu khu. Tù nhân được tự do trò chuyện 10 phút. Tôi đã lợi dụng lúc ồn ào, tấp nập, “mừng tuổi” ông Đinh Xuân Cầu 10 đồng và cho ông ta biết tôi đã gặp mặt Trương Phiên, ông Cầu xin lỗi tôi. Ông bảo Trương Phiên đã được thả và quả là nó đã bịp nhiều người. Tôi lại có phen đi chống Cộng với một anh ngây thơ và một thằng bịp trong hoàng hôn chống Cộng. Từ đấy, tôi nghi ngờ tất cả những hạng lãnh tụ chống Cộng già nua. Ở bất cứ nơi nào họ tá túc trên trái đất, họ nên chấm dứt cái “sứ mạng” của họ đi. Họ đã trải dài cái “sứ mạng” mọc rêu của họ ròng rã mấy chục năm, rốt cuộc, Đất đã ủng và Nước đã tù. Họ đầy rẫy mặc cảm thua kém Cộng sản và đầy rẫy tội lỗi, tội ác với dân tộc, nên rút vào bóng tối. Cuộc chiến đấu tiêu diệt chủ nghĩa Cộng sản giải thoát quê hương hôm nay phải là của tuổi trẻ, của sư tử sừng sững, không mảy may tự tị mặc cảm khi đương đầu kẻ thù, không mảy may tội lỗi với tổ quốc. Phải để mặt trời tuổi trẻ đốt cháy dĩ vãng bệnh hoạn, mở đường tương lai cho dân tộc. Và tuổi trẻ cần phóng lên phía trước, cần nắm chặt vận mệnh đất nước mình. Giờ cáo chung của lãnh tụ già đã điểm hồi 10 giờ ngày 30 tháng 4 năm 1975. Tuổi trẻ không đuợc phép để bị lãnh tụ khốn kiếp lửa gạt niềm tin, bịp bợm thiện chí. Tuổi trẻ phải biết phóng lên bầu trời những tín hiệu chống Cộng mới. 1986 năm trước, Jesus đã phán: “Cỏ dại chỉ phá hại mùa màng. Thì nhổ hết lên mà đốt để có mùa gặt hái tốt”. Cỏ dại chính là bọn lãnh tù già nua chống Cộng của nước Việt Nam. Họ không có kinh nghiệm gì cả. Kinh nghiệm của họ là chạy dài chạy dài, chạy dài từ 1945 đến 1975. Những kẻ chưa một lần thắng, không có quyền nói kinh nghiệm thua, Nhưng có một thứ kinh nghiệm bịp! Đã đến lúc tuổi trẻ làm mũ đội lên đầu mình chưa? Hay vẫn cứ thích làm guốc cho lãnh tụ cỏ dại?
Tôi về phòng nằm dài suy nghĩ về sự “xin lỗi” của ông Đinh Xuân cầu. Tôi bỗng khen tôi có mấy câu thơ hay trong bài thơ dài mà tôi không nhớ hết. Đại ỷ của bài thơ 3 “Thằng bé tôi nhà quê, mong Tết để có nhiều tiền mừng tuổi. Thằng bé mặc quần áo mới lên đình chơi xuân. Gặp chiếu bầu cua tôm cá. Nhập cuộc. Bị cò mồi dụ vào cửa của nó. Thằng nhỏ rồi cháy túi. Thằng bé lớn lên, học đòi làm chính trị. Bị cò mồi vét cạn niềm tin. Tôi khen tôi để vỗ về tôi:
Tổ guốc mình đó em
Anh đi làm lịch sử
Với bọn cò mồi hèn
Thấy thiên đường đổ vỡ
Anh còn gì đâu em
Anh còn gì cho em
Cái “Còn gì” chỉ là niềm bất mãn chung thân tạo ra những ngộ nhận khiến vàng vọt tâm sự, hắt hiu đời mình.
Chú thích:
Hoàng Anh Tuấn giết thì giờ bằng cách kể lại những phim anh đã coi cho các bạn trẻ nghe.
Những bài ca của Cục Chính Huấn Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Đăng trên báo Sống số Tết 1965.

NHÀ TÙ: CHƯƠNG 16

 

 

Đầu tháng 10, tôi bị gọi ra. Thời gian này, đề lao chỉ còn cho nhận quà hai tuần một lần. 1 C- 1 đã nhiều thay đổi. Người cũ đổi phòng. Người mới nhập phòng. Vài anh được thả, lệnh tha đọc tại chỗ. Nhân vật của 1 C-1 bây giờ là Bí thư của thủ tướng Trần Văn Hương. Thêm ông giáo sư trường nữ Sương Nguyệt Ánh bị học trò tố cáo phản động. Đám tư sản mại bản Chợ Lớn đã từ các nhà tù thành phố về tập trung tại 2 C-1. Có mặt vua kẽm gai Hoàng Kim Quy. Tôi được đưa vào phòng chấp pháp đầu khu C-l. Công an chấp pháp số 8 tự giới thiệu.
– Gọi tôi là Hai Nghiêm.
Lần đầu tiên một chấp pháp xưng bí danh. Bí danh Hai Nghiêm, một bí danh hãi hùng. Hai Nghiêm đã cho nhiều anh em của tôi vào cachot nếm các kiểu còng, xích. Hai Nghiêm đang chiếu cố tôi. Hắn ta dân Quảng Bình, ăn mặc luộm thuộm, có cái xe đạp cũ rích dựng trước cửa phòng. Kinh nghiệm nhà tù Cộng sản dạy tôi bài học này.
Một công an miền Bắc vào Saigon vẫn giữ tác phong miền Bắc là một công an còn nguyên “phẩm chất cách mạng”. Và tù nhân nên lo sợ. Bài học này nữa: Tất cả công an ở những vùng bị không lực Mỹ oanh tạc, đều trút thù hận xuống tù nhân tư tưởng, tù nhân chính trị miền Nam. Hai Nghiêm hội đủ hai bài học của chính sách học tập cải tạo của Cộng sản.
– Hôm nay, anh làm việc với tôi.
Tôi đã bẽ bàng nghe hai tiếng làm việc. Thôi rồi, tôi sắp viết tự khai. Hai Nghiêm pha ấm trà Thái Nguyên. Hắn ta hút thuốc rê. Móc gói thuốc và giấy vấn, hắn hỏi tôi:
– Anh biết hút thuốc rê chứ?
– Biết
– Vậy tự do vấn mà hút.
Tôi vấn thuốc. Hai Nghiêm đã rót trà. Nâng ly của mình trước, hắn bảo tôi:
– Uống đi, anh Duyên Anh.
Sau tuần trà tù, Hai Nghiêm nhìn tôi, gật gù:
– Trường hợp của anh là trường hợp đáng nghiên cứu.
Hai Nghiêm đặt lên bàn tờ Chỉ Đạo do Bộ quốc phòng xuất bản năm 1960 số đăng truyện ngắn đầu tay của tôi: Hoa thiên lý. Hắn lật từng trang và ngưng lại dí ngón tay xuống cái slogan đóng khung “Tố Cộng là yêu nước”. Rồi lật tiếp đến trang Hoa thiên lý.
– Giàn thiên lý của mẹ anh còn nguyên ở làng Trường An. Mẹ anh đã chết, không phải chết vì héo hắt thương nhớ anh. Mà chết vì bom Mỹ năm 1969, anh biết chứ?
– Tôi biết, bố tôi cho tôi biết.
– Thằng Mai Thảo viết bài cổ võ dội bom lên miền Bắc. Nó hò hét “dội bom lên đầu chúng nó”. Anh cũng cổ võ dội bom xuống đầu mẹ anh.
– Tôi không cổ võ.
– Anh chống Cộng sản. Các anh ăn lương Mỹ chống Cộng sản. Thằng Nguyễn Mạnh Côn đã công khai viết mỗi bài viết thuê nó nhận bao nhiêu tiền. (Anh Côn đã viết, đã đăng báo trước 1975. Anh ta rất hãnh diện nói thật, tất cả những điều cần dấu điếm, những điều người khác sợ hãi. Thí dụ anh ấy hiên ngang viết anh ấy nghiện thuốc phiện. Cộng sản đã dầy công nghiên cứu văn học Sàigòn. Họ rõ chúng tôi từng chi tiết vụn vặt).
– Tôi không ăn lương chống Cộng.
– Thế anh mới nguy hiểm. Những thằng chống Cộng tự nguyện như thằng Dương Nghiễm Mậu, thằng Phan Nhật Nam, thằng Thanh Tâm Tuyền, thằng Doãn Quốc Sĩ và anh toàn là những thằng nguy hiểm. Các anh đã phá hại Đảng, đã huyễn hoặc nhân dân bằng sự tự nguyện của các anh. Nhân dân không tin bọn chống Cộng lãnh lương nhưng tin các anh. Các anh đầu độc tư tưởng nhân dân.
Tôi là thằng chống Cộng nguy hiểm? Thế mà, trước 1975 thiếu gì đứa làm nghề viết báo miệt thị tôi chống Cộng thô bỉ vì ngôn ngữ sống sượng của tôi đã lố bịch Bác của chúng nó. Tôi nhớ năm 1969, năm Hồ Chí Minh “băng hà”, trên mục Phù Thế của báo Công Luận, tôi định viết loạt bài dài, nhan đề Cây đại thụ đổ gục , bọn Lê Hiền nói nhỏ nói to: Thằng Duyên Anh mà dám viết về chủ tịch Hồ Chí Minh ư? Tôi chán quá, cúp ngang loạt bài này.
– Cái giọng hài hước đểu cáng của anh đã khiến nhân dân khinh nhờn lãnh tụ. Anh sâu sắc lắm, anh chia đối tượng mà tuyên truyền. Bình dân thì anh trào phúng. Trí thức thì anh nghiêm chỉnh. Con nít thì anh đá giò lái, phục kích những câu đối thoại ác độc.
Hai Nghiêm kết tội tôi nặng quá. Tôi đã “đi” chấp pháp bẩy lần, “bẩy chữ” của ‘Vành ngoài” đã quen, mặc kệ Hai Nghiêm nguyền rủa. Hắn ta có quyền. Vì hắn ta chiến thắng. Tôi chiến bại. Tự nhiên, tôi nhớ nhân vật Trần Cung của La Quán Trung. Bạn đọc Tam Quốc Chí chứ? Trần Cung chê Tào Tháo gian ác, bỏ lỡ cơ hội giết Tào Tháo, ra đi. Tưởng phò ai, lại phò Lã Bố là thằng chỉ ham rượu và gái, và phản thầy. Rốt cuộc, Trần Cung bị Tào Tháo sát hại. Chuyện có khác nhiều với chúng tôi. Những Lã Bố di tản qua Mỹ phè phỡn. Chúng tôi chống Cộng ở lại vào tù, nghe Cộng sản chửi rủa.
– Anh vô sản mà ngu dốt chống giai cấp của anh. Anh chống bố anh, chống các em của anh.
Chán chưa? Cộng sản cứ nằng nặc gắn lên tôi nhãn hiệu vô sản. Như tất cả những tên công an, chấp pháp đầy thủ thuật, Hai Nghiêm châm thêm nước cho tôi và chuyển đoạn:
– Anh biết Mai Thảo ở đâu không?
– Không!
– Nó nằm ở Chí Hòa. 1 Vì nó trốn nên nó không được hưởng quy chế như các anh.
Câu này rất thấm thía về mặt khôi hài đen.
– Anh Duyên Anh.
– Tôi nghe rõ.
– Anh nói thật nhé?
– Tôi nói thật.
– Ở miền Nam anh phục nhất ai?
Đang nói về Mai Thảo, Hai Nghiêm rẽ sang chuyện khác cái rụp. Tôi chới với, phải thú nhận là tôi không kịp chuẩn bị câu trả lời:
– Tôi không phục ai cả.
– Anh có thể trả lời anh phục một người.
– Không, tôi không phục ai.
– Có.
– Không.
– Đinh Xuân Cầu!
Hai Nghiêm mỉm cười:
– Thần tượng của anh.
Tôi lặng người. Hai Nghiêm nhả khói thuốc:
– Kể ra, Đinh Xuân cầu xứng đáng là mẫu người hùng của anh. Thằng này bị bắt cứ ngoan cố khai cái tên giả. Chúng tôi biết tỏng, mặc kệ xem nó đóng kịch bao lâu. Chúng tôi còng tay, xích chân nó cho đến hôm chúng tôi mời đồng chí Trưởng trại Lý Bá Sơ vào thăm nó. Lúc ấy nó mới chịu nhận nó là Đinh Xuân cầu, thần tượng chống Cộng của anh.
Tôí nín thinh.
– Thằng Đinh Xuân Cầu ngạo mạn lắm. Tôi làm việc với nó. Bị bắt mà còn xấc láo nói: “Tôi không làm thủ tướng thì ai làm thủ tướng”! Cái mặt thằng Cầu mà đòi làm thủ tướng à? Anh Duyên Anh này, thằng Trương Phiên đang nằm ở khu B.
Hắn hất hàm:
– Lá cờ Bảo Quốc nó ra sao?
Tôi đáp:
– Tôi chưa hề thấy.
Hai Nghiêm gằn giọng:
– Đó là cờ bịp. Cả lũ các anh bị bịp. Từ Đinh Xuân Cầu, Nguyễn Thiện Ngọ, Hà Tường Các, Nguyễn Đan Quế, Nguyễn Tiến Hỷ bị bịp.
Hai Nghiêm dẫn tôi sang khu B. Đến trước cửa một phòng giam, hắn gọi:
– Trương Phiên.
Trương Phiên “có” thật lớn. Ông ta chạy ra cưa. Tôi đã nhận diện Trương Phiên. Tôi còn thấy Nguyễn Mạnh Côn nữa. Anh ta đã lại từ Sở Công An về đề lao Gia Định. Gặp tôi, Trương Phiên giật mình. Quả nhiên, Trương Phiên là tên bịp, một đạo diễn tài ba của vở kịch Chống Cộng cuối mùa. Tôi đau điếng. Những gì tôi cố dấu đã bị lật tẩy. Hai Nghiêm đưa tôi về khu C. Tôi phải làm lại tự khai từ năm mười tuổi đến ngày tôi bị bắt. Hai Nghiêm chỉ yêu cầu thế. Hai Nghiêm không hành hạ tôi như chấp pháp số 7. Tôi viết tự khai tại phòng của Hai Nghiêm đúng giờ giấc hành chính. Mất nửa tháng mới xong. Vào ngày chấm dứt tự khai, Hai Nghiêm cho vợ tôi gặp tôi ở phòng của hắn. Hắn ngồi giám sát. Thấy tôi hốc hác, hai tay ghẻ lở kềnh càng, vợ tôi đã khóc. Tôi bảo đừng khóc, vợ tôi vẫn khóc. Các con tôỉ ngồi đợi ngoài cổng. Vợ tôi xin Hai Nghiêm “cho các cháu gặp bố chúng”, Hai Nghiêm từ chổi. Hắn nói hắn mời vợ tôi đến làm việc. Đây không phải là chỗ thăm nuôi và hắn không dám qua mặt lãnh đạo của hắn. Hai Nghiêm chỉ cho tôi nhận thuốc lá và không được đem về phòng. Tôi gặp vợ tôi hơn mười phút. Mười phút ngắm nghía dung nhan tiều tụy của vợ để mường tượng sự ngơ ngác của ba đứa con mất bố, tôi muốn điên lên. Tôi không được cầm tay vợ tôi và quên hỏi nồi cháo thịt chiều 8-4 có bị khét. Sự chống Cộng tự nguyện của tôi đã phải trả giá não nề. Tại sao tôi phải chống Cộng nhỉ? Vì tôi chống Cộng, tôi đã chống đủ thứ để chính nghĩa chống Cộng sáng tỏ. Và vì thế, Cộng sản không tha quốc gia không dung. Tội nghiệp thay là người cầm bút có chính kiến!
Tôi về phòng, tâm hồn bấn loạn. Cái đòn tình cảm của Hai Nghiêm đã xoáy vào tim tôi những mũi kiếm nhọn hoắt. Buổi chiều, Hai Nghiêm đem cho tôi ba gói thuốc Vàm Cỏ. Hắn chia ra đưa dần. Ngay sáng hôm sau hắn gọi tôi ra, pha trà mời tôi uống, lấy thuốc của vợ tôi cho tôi hút.
– Anh có vẻ trách tôi? Hắn mở đầu câu chuyện.
– Tôi không có quyền trách móc ai. Có lẽ, tôi đã trách móc tôi làm phiền vợ con tôi. Nhưng tôi tin rằng vợ con tôi sẽ hiểu sự vinh nhục trong đời sống.
– Anh nên nhớ là chỉ có Trưởng phòng chấp pháp của Sở mới đủ khả năng cho phép vợ con anh thăm anh khi anh đang làm việc. Tôi mời vợ anh tới với tư cách nhân chứng để anh gặp vợ anh.
– Cám ơn anh.
– Tôi hứa với anh, làm việc xong, tôi cho anh gặp vợ con anh thoải mái.
– Cám ơn anh.
– Anh tin tôi chứ?
– Tôi sẽ tin.
– Phải, anh sẽ tin.
Hai Nghiêm đưa tôi về phòng. Câu chuyện buổi sáng ngắn ngủi. Buổi trưa, hắn gọi tôi ra, mời tôi uống trà và ăn kẹo Hà Nội.
– Cần kết thúc hồ sơ của anh.
Hắn nói và căn cứ vào những câu, những đoạn trong Tự khai ngót 30 trang vắn tắt cuộc đời tôi từ năm mười tuổi đến ngày tôi bị bắt mà hẳn đã gạch dưới đỏ chói, Hai Nghiêm thẩm vấn tôi. Hẳn bắt đầu ở đoạn tôi lưu lạc Saigon. Hai Nghiêm hỏi thật kỹ chuỗi ngày tôi hoạt động với Duy Dân trên Ban Mê Thuột. Tôi thú thật tôi chưa tuyên thệ, mới chỉ là cảm tình viên. Tuy nhiên tôi rất mê thơ của Lý Đông A, những bài tùy bút chan chứa tình yêu nước. Hai Nghiêm không ngắt lời tôi. Hắn cũng chẳng thèm ghi chép. Sau đó là đoạn đời văn chương báo chí. Và kết thúc ở những ngày tôi theo Đinh Xuân Cầu chống Cộng hoàng hôn. Hai Nghiêm không truy nã những nơi và những người dung dưỡng tôi. Đúng một tuần lễ, tôi trả lời hàng trăm câu hỏi của Hai Nghiêm. Tôi đợi hắn tống tôi vào cachot. Nhưng hắn bỏ rơi tôi. Cuối tháng 10, Hai Nghiêm gọi tôi ra.
– Bản tự khai anh làm việc với tôi là bản tự khai quyết định thời gian anh cải tạo, anh thấy cần bổ sung không?
– Không.
– Anh không ân hận chứ?
– Không,
Hai Nghiêm đọc cho tôi nghe những trang hắn thẩm vấn tôi. Tôi ngạc nhiên vô cùng. Hắn đã chửi tôi như tát nước vào mặt. Hắn lừng danh cứng rắn với anh em tôi. Và hắn đã lập một cái hồ sơ thật nhẹ nhàng về tội trạng của tôi. Đảng của Hai Nghiêm chỉ thị hắn hay Thượng Đế của tôi đã nhập vào linh hồn Hai Nghiêm? Hắn đề nghị cho tôi đi lao động cải tạo một thời gian. Hai Nghiêm đưa tôi đọc lại. Rồi bảo tôi ký tên vào mỗi trang hắn viết. Cuối cùng, hắn ghi ngày, tháng, năm và ký tên hắn. Bạn biết không, với tù nhân, chấp pháp là Thượng Đế. Hai Phận nói thế. Chấp pháp đủ quyền hành đề nghị bạn nằm tù dài hạn hay ngắn hạn, tống bạn vào cachot hay lôi bạn ra, còng bạn hay không còng bạn. Chấp pháp còn có quyền nhốt cả quản giáo và cai ngục. Ở đề lao Gia Định, cai ngục không dám đánh tù nhân vì sợ chấp pháp.
– Anh không phải làm việc nữa. Hồ sơ của anh đã kết thúc. Chúng ta có thể mạn đàm thoải mái.
Hai Nghiệm pha ấm trà mới.
– Những kẻ chống Cộng quả quyết rằng người Cộng sản thiếu lương tâm. Điều này không tuyệt đối đâu. Bởi vì cả những kẻ chống Cộng sản cũng vẫn thiếu lương tâm. Tôi có chút cảm tình với anh nhờ tôi đã đọc truyện Đại dương trong lòng con ốc nhỏ của anh. Tôi vốn con nhà nghèo, bố tôi giống hệt người bố ở truyện của anh. Giá anh chi viết loại truyện đó. Anh còn cơ hội làm lại.
Mạn đàm trời trăng mây gió chán, Hai Nghiêm nói:
– Nếu đề nghị của tôi được lãnh đạo chấp thuận, anh sẽ đi lao động 3 năm tính từ hôm anh bị bắt.
Hai Nghiêm cười:
– Ba năm không dài chứ?
Tôi đáp:
– Vâng, không dài nếu thật sự chỉ là ba năm.
Hai Nghiêm nhìn tôi:
– Cái nguyện vọng anh viết cuối tự khai không thể thoả mãn.
Tôi đã viết: Nếu được tha sớm, tôi xin viết cuốn sách tố cáo những tổ chức, những lãnh tụ phản động bịp để khỏi còn ai vào tù vì tội phản động, mất tiền, mất tình 2
– Tại sao?
– Anh ngây thơ lắm. Chúng tôi cần những thằng chống Cộng bịp để bắt những thằng chống Cộng lương thiện, những thằng như Nguyễn Thiện Ngọ, Nguyễn Đan Quế, Phan Vô Kỵ và bọn sinh viên, học sinh bất mãn chế độ…
° ° °
Nhưng hồ sơ chưa kết thúc. Trung tuần tháng 11, tôi bị gọi ra làm việc. Lại làm việc. Ở phòng Haỉ Nghiêm.
Hai nhân vật đợi tôi. Một người đeo kính trắng gọng vàng, cao ráo, mặt mũi sáng sủa. Rất trí thức. Hắn ăn mặc như dân Saigon. Hai Nghiêm giới thiệu: “Đây là đồng chí Phó Giám Đốc ở sở Công An thành phố”. Một người tóc hoa râm, khuôn mặt phong trần, trán cao, mắt sáng, ăn mặc giản dị. Hai Nghiêm giới thiệu: “Đây là đồng chí ở Viện Kiểm Sát Nhân Dân, từ Hà Nội vào”. Tôi đụng độ thứ dữ. Hai Nghiêm cung kính chào hai đồng chí lãnh đạo và rời phòng. Phó giám đốc Sở Công An nói:
– Anh sẽ làm việc với cán bộ trung ương một thời gian.
Tôi nói:
– Hồ sơ của tôi đã kết thúc.
Phó giám đốc nói:
– Vụ này ngoài hồ sơ.
Phó giám đốc bắt tay cán bộ trung ương ra về. Còn tôi với… trung ương và tôi gọi hắn là chấp pháp Hà Nội.Tôi mơ hồ thấy chuyện gì bất ổn cho tôi. Chấp pháp Hà Nộí mời tôi ngồi.
– Tôi công tác lưu động, sẽ chỉ làm phiền anh vài ngày thôi.
A, chấp pháp Hà Nội nhã nhặn quá. Chức tước càng lớn càng lịch sự.
– Đảng và Nhà Nước có khuyết điểm là giam giữ các anh. Chuyện này ngoài ý muốn, sẽ giải quyết nhanh. Mong anh thông cảm.
Tôi im lặng. Ông ta – tôi không thể thiếu nhã nhặn với người nhã nhặn – hỏi tôi:
– Anh điểm tâm chưa?
– Thưa ông chưa.
– Gọi tôi bằng anh,
– Nếu ông cho phép.
– Tại sao không? Rồi anh sẽ trở về và chúng ta sẽ gặp nhau.
– Cám ơn anh.
– Sao điểm tâm muộn thế?
– Vì phải chờ nước sôi.
Tôi kể tình trạng sinh hoạt của tù nbân. Ông ta bảo tôi về phòng đem mì ra. Quản giáo khúm núm trước mặt cán bộ trung ương. Tôi mang ca nhựa đựng mì vụn và cái muỗng nhựa, ông ta lôi từ ba-lô cái ấm nấu nước cắm điện và gói trà. Ăn mì xong, tôi được quản giáo dẫn đi rửa ca muỗng, rửa mặt, rửa tay. Tôi… de luxe quá.
– Nhà không gửi đồ nhôm à?
– Đề lao cấm kim khí.
Sau tuần trà, chấp pháp Hà Nội vào việc:
– Yêu cầu của tôi là anh viết tất cả những lần anh tiếp xúc với anh em văn nghệ Hà Nội vào. Các anh đã đến đâu, ăn uống chỗ nào, trao đổi chuyện chi. Vân vân… Anh không chịu bất cứ một trách nhiệm gì về những lời khai của anh cả.
Tôi hỏi:
– Tại sao anh chọn tôi?
Chấp pháp Hà Nội đáp:
– Vì anh em văn nghệ Hà Nội vào Saigon, khi về đều viết tự kiểm. Họ nhắc tên anh và nhiều anh em khác. Tôi được giao công tác này. Và tôi đã làm phiền các anh em văn nghệ Saigon ngoài đời, bây giờ, tới lượt làm phiền anh em bị tạm giữ. Mong anh giúp đỡ tôi.
Chấp pháp Hà Nội, cán bộ gộc của Viện Kiểm Sát Trung Ương, một cơ quan ngồi trên công an, muốn tôi viết tự khai. Ông ta đã tế nhị “làm phiền” tôi. Văn Nghệ chế độ miền Nam hay văn nghệ chế độ miền Bắc đều không khá, kể cả những anh đã “lột người” như Xuân Diệu. Nó bắt tự khai, ta đành tự khai. Nó không tin tự kiểm “phe ta”. Nó muốn đối chiếu tự khai “phe địch”. Tự khai hay tự kiểm đều bố láo cả, với nhà văn. Huỳnh Bá Thành nhận xét đúng: “Bọn nhà văn là bọn biết dấu diếm những gì cần dấu diếm trong đầu óc chúng”. Anh em chẳng dại gì khai thật. Ta ngu sao khai thật. Vậy thì tôi đã viết những lần gặp gỡ một số nhà văn trẻ Hà Nội tìm gặp tôi, những buổi ăn uống và nhứng câu chuyện văn chương. Tuyệt nhiên không đả động gì đến chính trị, bất mãn hay phản kháng. Chấp pháp Hà Nội khác hẳn tên chấp pháp sổ 7. Ông ta hỏi tôi mấy giờ ăn cơm trưa, mấy giờ ăn cơm chiều. Luôn luôn, ông ta dục tôi về phòng trước bữa ăn và luôn luôn, pha tặng tôi ấm trà đổ vào ca nhựa cho tôi mang về. Sang hôm thứ hai, ông ta hỏi:
– Anh muốn nhờ tôi việc gì không?
– Việc gì, thưa anh?
– Việc thuộc phạm vi tình cảm.
– Trại đã cấm cà-phê. Nếu có thể, anh ghé qua nhà tôi ở sổ 225 Bis đường Công Lý cũ, bảo vợ tôi mua cho nửa kỷ cà-phê.
– Dễ thôi.
Buổi sáng ngày thứ ba, ông ta đưa tôi gói cà-phê:
– Tôi đã qua nhà anh rồi ngại không dám vào. Một cán bộ vào nhà một nhà văn bị tạm giữ sẽ xẩy ra nhiều dị nghị cho cả hai. Tôi mua tặng anh hai lạng.
Tôi nói:
– Tôi xin phép gửi lại tiền anh.
Ông ta lắc đầu:
– Anh quên tôi là cán bộ và anh là người bị tạm giữ. Trên tất cả vẫn là con người.
Tôi đã làm việc với ông Mai Chí Thọ. Bây giờ, với cán bộ Viện Kiểm Sát Nhân Dân. Tôi thấy cả hai đều ngọt ngào. Và tôi cũng hiểu, càng ngọt ngào càng đáng sợ. Nhưng tôi bằng lòng sự ngọt ngào. Ít ra, tôi đỡ phải khinh bỉ họ đã cậy quyền bắt tôi và át giọng tôi. Người chấp pháp miền Nam đã dạy tôi rằng, ở tù không tin ai cả.
– Cám ơn anh.
Lúc quản giáo dẫn tôi về phòng, ông ta chỉ thị: “Tôi cho phép anh Vũ Mộng Long đem cà-phê vào”. Buổi chiều, tôi chấm dứt bản tự khai. Ông ta không đọc, không chấp pháp mà cất vào ba-lô.
– Thế là xong rồi, anh Duyên Anh ạ!
Ông ta bưng ly trà mời tôi:
– Anh tin tôi đi, mọi việc sẽ tốt đẹp.
Giọng ông ta trầm xuống.
– Đất nước ta còn thiếu nhiều nhân tài, mọi mặt. Anh là một nhân tài của đất nước. Anh cố gắng giữ gìn súc khỏe để mai này phục vụ đất nước.
Ông ta đứng dậy, bắt tay tôi:
– Giữ gìn sức khoẻ.
Tôi bắt tay ông ta. Lần đầu tiên và là lần duy nhất người của Đảng bắt tay tù nhân, chúc sức khoẻ tù nhân. Tôi nói:
– Cám ơn anh câu nói “Trên tất cả là tình người”. Cám ơn anh câu chúc “‘Cố gắng giữ gìn sức khoẻ để mai này phục vụ đất nước”. Tôi rất mong, rất thèm phục vụ đất nước, mai này…
Ông ta chào từ biệt tôi lần cuối. Từ đó, trên đường tù, tôi không còn được gặp người nào như ông ta nữa.
Chú thích:
Mai Thảo vẫn trốn cho tới ngày vượt biên. Hai Nghiêm tung hỏa mù. Tôi bán tín bán nghi.
Ở cuốn Trại Tập Trung, độc giả sẽ biết rõ tên tuổi những lãnh tụ bịp này và sẽ ngậm ngùi cho sự nhiệp chống Cộng.

NHÀ TÙ: CHƯƠNG 15

 

Hôm sau, vẫn ở phòng chấp pháp khu B, tôi làm việc với chấp pháp số 7. Tôi… đi khách lần thứ bẩy. Chấp pháp số 7 giống hệt tên lái buôn thô lỗ. Mà tôi, nàng Kiều chưa thể chuyên nghiệp.
– Hôm nay anh viết tự khai.
– Tôì đã viết bên Sở hai lần.
– Sở là sở, Trại là trại. Với Trại, mọi chuyện bắt đầu.
– Tôi đã viết thêm một lần ở Trại.
– Anh chưa làm việc với tôi.
Chấp pháp số 7 móc thuốc Vàm Cỏ và hộp diêm Samasa đặt trên bàn:
– Anh tự do hút thuốc. Hết thì sẽ có thêm. Anh được uống cà-phê. Lát nữa, quản giáo đem tới.
Từ nửa tháng nay, đề lao cấm chỉ cà-phê, trà. Vì có phòng bị phát hiện nấu nước sôi bằng lon sữa bò và túi ni lông bện lại nhóm lửa. Cà-phê, trà bị cấm. Sữa đặc bị khui ra đổ vào keo nhựa hay túi ni-lông rồi mới cho vô phòng. Ở tù phiền lắm. Một người vi phạm nội quy, ngàn người vạ lây. Cách mạng có dịp diễn tả sự tử tế: “Chúng tôi không cấm đoán các anh, mọi khó khăn do chính các anh tạo ra”.
Chấp pháp số 7 chưa phát giấy bút. Hắn… mạn đàm:
– Tôi nhắc lại: Anh viết tự khai.
– Tôi hiểu.
– Tốt. Trong các anh, nhiều người chướng lắm. Lố lăng nhất là thằng Trần Dạ Từ. Bảo viết tự khai, nó làm thơ chéo.
Tôi chưa biết thơ chéo ra sao.
– Nó đòi làm việc với nhà văn miền Bắc! Công an bắt nó mà nó mơ mộng. Cuối cùng, nó vẫn làm tự khai.
Chấp pháp số 7 dằn mặt tôi. Hắn lôi người không ở chung phòng tôi ra dẫn chứng. Đây là đòn công an. Như gã chấp pháp xứ Nghệ đã “bỏ nhỏ” Nguyễn Mạnh Côn khai về tôi “không lấy gì làm đẹp”. Cộng sản dùng kế ly gián để chúng tôi bôi lẫn nhau cả những chuyện không liên can tới văn nghệ phản động. Tôi biết chắc họ đã đem tôi ra “bỏ nhỏ” với người này, người kia. Công an chế độ nào cũng giống nhau. Công an và an ninh quân đội. Đòn ly gián rất ếp-phê. “Nhà văn hoá” Trần Tam Tiệp đã áp dụng thủ thuật khốn kiếp này. Muốn bêu tôi, ông ta gửi về tặng Dương Hùng Cường gói thuốc tây, kèm theo cái thư có đoạn “bỏ nhỏ”: Này, thằng Duyên Anh đang ở Paris, nó uống rượu tối ngày, nó chửi mày dữ quá! Dương Hùng Cường sẽ nổi điên, nghĩ rằng thật, nó sang Pháp sung sướng còn nỡ chửi anh em. Bèn hài tội Duyên Anh, thêu dệt đủ tội. Khi người ta phẫn nộ thì ghê lắm, “Nhà văn hoá” Trần Tam Tiệp, gốc an ninh quân đội, chớp được thư nhà, phô-tô cóp-pi vung vít mà gửi khắp quần hào. Cái tác phong ngụy tiểu nhân của cớm sớm muộn nó cũng lòi ra. Bọn bất tài vô tướng thường chơi thủ thuật. Chừng thủ thuật hết thiêng, chúng nó lêu bêu như lũ chó ghẻ già nua.
Chấp pháp số 7 nói tiếp:
– Cái thằng Như Phong Lê Văn Tiến vẫn ngoan cố. Bầy đặt tuyệt thực. Thời đại của Thiệu đã cáo chung. Đứa nào muốn chết cháv, cứ tự nhiên. Gia đình nó sẽ đóng thuế ngu cho nó. Rốt cuộc, Như Phong đành tự khai. Các anh không kiên trì bằng người cộng sản. Các anh là đá, chúng tôi là nước. Nước chảy đá mòn. Các anh là sắt, chúng tôi là át-xít. Át-xít gặm mòn sắt. Chúng tôi có giai đoạn rõ rệt. Kiên trì rồi kiên quyết. Khoan hồng rồi trấn áp. Các anh thích làm anh hùng, chúng tôi biến thành anh hèn ngay. Khẩn trương, đột xuất.
Hắn đánh phủ đầu tới tấp. Nhờ hắn tiết lộ, tôi tin chuyện Như Phong đã khước từ cơm tù 41 ngày mà anh em C-2 kể cho tôi nghe khi anh em chuyển sang C-l, chung phòng tôi, mấy tháng sau. Như Phong “yoga” ở cachot. Anh không viết tự khai, không làm tự điển Việt Nam Quốc Dân Đảng. Nhà quân sự Phải Gió uống nước chanh đường mà yoga. Mức yoga của Như Phong đến bậc thượng thừa. Đề lao biết anh… tuyệt thực, cứ giả vờ như không biết. Ô cửa gió mở. Quản giáo thường xuyên theo rõi. Bấy giờ, Trưởng trại T-20 tức Giám thị đề lao Gia Định là thiếu tá công an Tuấn, Phó trại là Tư Long, tên nằm vùng bán vé xe đò bến Saigon – Đà Lạt cho hãng xe Minh Trung. Tư Long đeo quân hàm đại úy. Ngày thứ 41, Tư Long cúp ống dẫn nước vào cachot. Quân sư Như Phong kềnh ngay lập tức. Người ta khuân anh ra Phòng Y Tế. Người ta chích nước biển. Như Phong còn đủ sức co tay, Tư Long xỉ vả anh. Như Phong thều thào: “Anh nên lễ độ, tôi chấp nhận cái chết”. Bác sĩ Quang năn nỉ Như Phong: “Xin anh cho tôi làm bổn phận y sĩ”. Người ta đè anh, trói chân anh, tay anh trên giường. Và vào nước biển tiếp sức. Như Phong được đề lao bồi dưỡng một thùng sữa đặc, trở thành tù nhân de luxe của đề lao. Anh ra phòng tập thể C-2, ngày ngày đi mạn đàm với chấp pháp. Rồi anh viết tự khai…
Chấp pháp số 7 đã đưa giấy bút cho tôi.
– Anh viết khẩn trương vì tôi sẽ về Hà Nội công tác đột xuất. Tự khai lần này khác.
Tôi hỏi:
– Tôi sẽ viết thế nào?
Hắn đáp:
– Cuộc đời anh từ năm anh 10 tuổi đến ngày anh bị bắt. Thật chi tiết. Chính xác ngày, tháng, năm.
– Làm sao tôi nhớ ngày tháng?
– Cố nhớ đến đâu hay đến đó. Anh hay khoe anh có trí nhớ tốt mà.
– Chỉ vậy?
– Anh tóm tắt mỗi cuốn sách của anh, khai rõ cảm hứng nào anh viết, anh viết nhằm mục đích gì, ai thuê anh viết, mỗi cuốn giá bao nhiêu… Anh đừng quên những bài báo của anh trên những tờ báo anh cộng tác.
– Tôi viết cả 10 ngàn bài dài ngắn.
– Cố nhớ.
Bạn thấy hệ lụy văn chương của những nhà văn ở lại bị bắt chưa? Tôi muốn ông “nhà xuất bản” Đại Nam và các ông “nhà báo” viết thuê cho ông Đại Nam chửi bới tôi đọc Nhà Tù. Hy vọng lương tri các ông ấy thức tỉnh. Tôi cũng muốn độc giả thân mến của tôi tỏ thái độ quyết liệt với những kẻ sống trên lưng nhà văn, sống trên nỗi thống khổ mà nhà văn phải chịu đựng vì hệ lụy văn chương của mình. Cái công trình mồ hôi, nước mắt, tim óc của chúng tôi đã bị chà đạp ở quê nhà, còn bị ăn cướp ở quê người. Và những kẻ cướp đó lại là người Việt Nam, nạn nhân của cộng sản như chúng tôi, nhưng may mắn hơn chúng tôi. Tôi sắp chịu cực hình, đau đớn trên mọi tra tấn. Là tóm tắt 50 cuốn sách của tôi. Và phát biểu cảm tưởng về chữ nghĩa dĩ vãng. Và bôi nhục nó. Và nguyền rủa nó. Ôi, văn chương, nó đã đưa tôi lên và nó đã dìm tôi xuống. Không, cộng sản đã dìm tôi và văn chương của tôi. Hai chúng tôi đang “chết đuối trên cạn”, đang sặc sụa, đang đạp dẫy.
– Tôi nói để anh chuẩn bị tư tưởng: Anh phải tranh thủ thời gian.
Gã quản giáo đã đem ca cà-phê đá tới. Tôi bắt đầu viết tự khai, bắt đầu chơi lại một trò chơi quái đản của ý thức hệ. Trò chơi khốn kiếp này, tôi đã chơi và đã thể hiện ở một tiểu thuyết mới nhất của tôi. 1 Xin trích một đoạn:
– “Tôi đã viết ba lần.
– Ba lần anh viết khác nhau. Tôi chỉ yêu cầu hai lần giống nhau là đủ. Anh viết ba lần ba cuộc đời của ba con người!
– Cô cho phép tôi đọc cả ba bản để cô so sánh.
– James, anh đã biết điều, nên tiếp tục biết điều. Tù nhân không được quyền yêu sách. Anh được đọc nội quy nhà tù chưa?
– Chưa.
– “Triệt để thi hành mệnh lệnh của cán bộ”. Anh viết lại tự khai.
– Bắt đầu?
– Phải, từ năm anh mười tuổi đến khi anh bị bắt.
James viết tự khai lần thứ tư. James viết tự khai lần thứ năm. Lần thứ sáu. Lần thứ bảy. Lần thứ tám. Lần thứ chín. Lần thứ mười, về cuộc đời chàng từ năm chàng mười tuổi đến khi chàng bị bắt. Đến lần thứ ba mươi, ấu thơ chàng, niên thiếu chàng, thanh xuân chàng, kỷ niệm chàng, tình yêu chàng, mơ ước chàng, hạnh phúc chàng, gia đình chàng, trường lớp chàng, thầy cô chàng, bạn bè chàng, nơi chôn rau cắt rốn chàng, dòng sông chàng, cánh đồng chàng, khu rừng chàng, ngọn núi chàng, sân cỏ chàng … ngậm ngùi lếch thếch dắt díu nhau lên trên những trang tự khai quái đản. Dĩ vãng đi. Dĩ vãng về. Dĩ vãng bò. Dĩ vãng lết. Dĩ vãng nhẩy. Dĩ văng chạy. Dĩ vãng vấp. Dĩ vãng ngã. Dĩ vãng tới. Dĩ vãng lui. Dĩ vãng nằm nghiêng. Dĩ vãng nằm ngửa. Tuổi hồng của James bị bầm vặp. Tháng ngày đẹp nhất đời người của James bị đâm chém. James sợ hãi, James kinh hoàng viết về dĩ vãng, về ấu thơ, về gia đình, về trường lớp, về tình yêu. Người lính Mỹ tên là James Fisher tâm hồn thánh thiện, biểu tượng sáng chói của cái thật, cái tốt, cái đẹp của dân tộc Mỹ, tham dự chiến tranh ở Việt Nam không hề mang theo ý thức hệ, không hề nhân danh chủ nghĩa tư bản, chỉ đáp theo tiếng gọi của tổ quốc yếu dấu, đang bị quay chóng mặt trong trò chơi của ý thức hệ. Và trò chơi mang tên tự khai, một kiểu tra tấn tinh thần tinh vi nhất, độc ác nhất trong thời đại mà bóng tối đã phủ kín lương trí loài người.
James Fisher bơ phờ, hốc hác. Chúa Jesus không bị viết tự khai như James Fisher nên ngài mới bình thản nói: “Đừng lo lắng chi về ngày mai, vì ngày mai sẽ tự lo lắng cho ngày mai”, James đã thấm đòn tự khai. Chàng lo lắng ngày mai vô cùng. Chàng sợ hãi ngày mai. Ngày mai quằn quại hơn hôm nay. Ngày mai, chàng nhìn rõ móng vuốt nó nhọn hoắt cào cấu đầu óc chàng; chàng nhìn rõ răng nó sắc bén gậm nhắm thần kinh chàng. Trên những trang giấy hãi hùng. Một cây bút, một xấp giấy. Nhỏ bé và êm ái. Thế mà bút và giấy đã khiến chàng bấn loạn điên khùng. James chỉ muốn chết để khỏi viết tự khai. Bây giờ chàng mới hiểu nhà tù cộng sản và sự khoan hồng, nhân đạo cộng sản. Tám năm chịu đựng thống khổ dưới hầm đá, trong các cachots, James đã chịu đựng nổi và sẽ chịu đựng hoài cho tới ngày nhận “phần thưởng trên trời”. Nhưng tự khai, chàng không hứa hẹn lần “no đủ sự công nghĩa”, dẫu tự khai cuộc đời chàng từ năm chàng mười tuổi đến khi chàng bị bắt.
Nàng Chi Mai chẳng thèm xúc động. Chàng viết tự khai lần thứ năm mươi thì ba mươi trang giấy thừa quá nhiều. “Tôi rất tiếc James ạ”! James không thể viết tự khai nữa. Thần kinh của chàng căng thẳng. Chi Mai không tha chàng, không mảy may trắc ẩn. Nàng bày thêm chi tiết của trò chơi. James sắp ăn, nàng gọi lên viết tự khai. James đang ngủ, nàng gọi lên viết tự khai. James mệt mỏi, nàng gọi lên viết tự khai. James ốm đau, nàng gọi lên viết tự khai. Rồi James hết thèm ăn, chán ngủ, James gầy gò, xanh xao. Mắt James thâm quầng. Râu ria James tua tủa. James chẳng còn biết chàng đã viết gì. James mất tự chủ. James hôn mê khi viết tự khai. James viết bậy bạ. James viết thư cho cha mẹ. James viết những lời thương nhớ Susan McCareen. James viết lời quốc ca. James vẽ bản đồ nước Mỹ. James làm thơ. James gọi Thượng Đế. James cầu cứu Chúa Jésus. Vào đúng lúc James tê liệt dễ sai khiến nhất, bảo sao làm vậy miễn là đừng bắt viết tự khai cuộc đời mình từ năm mười tuổi đến ngày bị bắt thì Chi Mai gọi chàng lên văn phòng của nàng.
– James, anh viết bao nhiêu lần rồi, nhớ không?
– Bẩy mươi.
– Sai.
– Sáu mươi.
– Sai. Cố nhớ đi!
– Tôi không nhớ.
– Một trăm mười hai lần!
Chi Mai nhoẻn miệng cười:
– Chưa phải là kỷ lục tự khai.
James hồi hộp chờ đợi một câu nói mà chàng sợ hãi nghe. Nàng cố tình nín thinh. Nàng khoái kéo dài sự lo lắng của James Fisher. Con sói cái muốn vờn con cừu non mềm nhũn, ngã qụy rồi mới rút ruột.
– James!
– Tôi nghe.
– Tôi rất tiếc James ạ!
James Fisher choáng váng.
– Tôi rất tiếc những lần sau cùng anh viết lung tung. Anh mệt mỏi, anh rã rượi rồi, hả?
Chàng thành thật:
– Phải, tôi rã rượi rồi.”
……
Thật sự, nhân vật tiểu thuyết của tôi chưa rã rượi bằng tôi. Tôi đã nói tôi sợ tôi không đủ khả năng diễn tả một buổi trưa hè trong một phòng giam của đề lao Gia Định. Thì làm sao tôi viết hết nổi cảm giác nhục nhằn của tự khai. Nhân vật tiếu thuyết của tôi chi phải tự khai từ năm 10 tuổi đến ngày bị bắt. Còn tôi, tôi phải truy nã hồi tưởng mà tự khai 50 cuốn sách và 10 ngàn bài báo của 15 năm viết lách mưu sinh. Năm 1937, Nguyễn Vĩ than vãn:
Thời thế bây giờ vẫn thấy khó
Nhà văn An nam khổ như chó
Mỗi lần cầm bủt viết văn chương
Nhìn đàn chó đói gặm trơ xương
Rồi nhìn chúng mình hì hục viết
Suốt mấy năm trời kiết vẫn kiết.
Nỗi khổ “kiết vẫn kiết” thấm gì với nỗi khổ tự khai của nhà văn Việt Nam năm 1976. Không có hình phạt nào thảm thê bằng hình phạt tự khai. Mọi thống khổ ngục tù trại tập trung là cỏ hèn dưới chân đại thụ tự khai sừng sững. Tự khai của các nhà văn, cuộc truy nã thân phận mình, sự nghiệp mình và kết tội mình. Tự khai của các nhà văn, niềm đau đớn tổng hợp niềm đau đớn của chữ nghĩa cổ kim, Đông Tây. Đó là một tra tấn tổng hợp những tra tấn của loài người ác độc. Tôi đã cố gắng ghi chép:
Người ta đưa cho anh một sấp giấy trắng
đã kiểm soát số trang
anh có thể gạch xóa nhiều hàng
nhưng cấm anh xé bỏ
tư tưởng anh bị soi kính hiển vi từng cái chấm nhỏ
Viết gì
Tự khai
Tự khai gì
Cuộc đời anh từ lên mười đến ngày anh vào rọ
Người ta đưa thêm cho anh một sấp giấy trắng
đã kiểm soát số trang
Viết gì
Tự khai
Tôi viết rồi
Viết nữa
Khai gì
Cuộc đời anh từ lên mười đến ngày anh vào rọ
Người ta lại đưa cho anh một sấp giấy trắng
đã kiểm soát số trang
Viết gì
Tự khai
Tôi đã viết hai lần
Viết thêm nữa
Khai gì
Cuộc đời anh từ lên mười đến ngày anh vào rọ
Anh phải viết ngày này qua tháng nọ
viết đến khi anh phờ phạc dại khờ
dĩ vãng hiện tại anh đảo lộn mập mờ
Viết đến khi anh đớn đau chết ngất
Đó là lúc người ta tìm ra sự thật
để kết án anh dù anh chẳng có tội chi
Này bạn
Bạn sẽ chép lại được mấy lần bức thư tình đã viết
Riêng tôi rất oanh liệt
Viết bốn trăm lần một bản tự khai 2
Những nhà văn bị nhốt ở Sở Công An, ở đề lao Gia Định đều bị tra tấn theo cung cách này. Tất cả đều chóng mặt. Tất cả đều rã rượi. Tất cả đều bị chữ nghĩa tự khai xoáy mòn xương thịt. Ở những giây phút hôn mê ấy, chỉ có tù nhân và chấp pháp. Đôi khi, chỉ có một tù nhân trong căn phòng nhỏ. Nhà văn cô đơn sáng tạo. Nhà văn cô đơn tự khai. Chắc chắn, không có lão Toan Ánh đứng ngoài nhìn trộm và nghe lén qua khe cửa để bịa đặt tin bẩn, thứ tin chó dại ngoạm vào nỗi thống khổ của người oan khổ dưới bút hiệu Lã Vi. Và, chắc chắn, chỉ một gã chủ báo chưa vỡ nghĩa “người đi đường và con chó” của Quốc văn giáo khoa thư lớp sơ đẳng mới tự phóng uế lên lương tâm mình mà toa rập với “người đi đường” khốn kiếp và ác độc. Không ai biết được nỗi đau đớn, không ai biết được lòng quả cảm và sự hèn mọn ở không gian tự khai cả. Người cộng sản tim thép không xúc động. Họ lại có thú vui nhìn con người quằn quại. Người nhà văn viết tự khai “phờ phạc dại khờ”, “dĩ vãng hiện tại đảo lộn”, chẳng còn hiểu nổi cả sự hiện hữu của bản thân mình. Nhưng tôi, tôi dám thách thức cộng sản Việt Nam xuất bản Tự Khai dầy ngót 2000 trang viết tay giòng thưa của tôi. Tôi thách thức cộng sản Việt Nam công bố một sự thật về tôi có dấu tích thủ bút của tôi ở đề lao Gia Định, nơi tôi đã viết tự khai ròng rã 40 ngày đêm, nếu họ can đảm bằng không, họ nên chấm dứt cái điệp vụ văn hoá rẻ tiền nhằm hạ uy tín chống cộng của tôi, nhằm làm tê liệt sự phản kháng của tôi, nhằm cô lập tôi với đồng bào của tôi. Trò chơi này đã quê kệch và mất ép-phê. Ép-phê ngược là đằng khác. Sau ba năm trở lại nghề viết và hiên ngang sống bằng chữ nghĩa, tính từ tháng 4-1984 đến tháng 4-1987 tôi được phép ngạo mạn ngồi lên mặt cộng sản và những kẻ a dua cộng sản bêu nhục tôi. Tôi đã không chết. Tôi đã không cúi mặt. Tôi vẫn ngẩng mặt. Tôi mãi mãi phong phú sinh lực sáng tạo. Để chiến đấu và để góp phần tạo hạnh phúc cho cả cộng sản lam lũ, bần hàn.
Như nhân vật James Fisher, trong tiểu thuyết mới nhất mang nhan đề tiếng Việt Một định nghĩa tình yêu của tôi mà nhà xuất bản Belford muốn đặt là Un prisonnier américain au Vietnam, tôi đã viết tự khai vào những giờ giấc toan tính của chấp pháp số 7. Hắn chỉ thị quản giáo rình mò tôi. Buổi sáng, nước sôi vào phòng, tôi pha mì vụn điểm tâm, chưa kịp ăn, hắn đã gọi tôi ra viết tự khai. Tôi ngồi viết một chập, hắn cho về ăn lót dạ. Mì chương đầy ca, tôi không muốn ăn. Hắn lại gọi ra. Qua bữa ăn trưa, hắn cho về. Tôi nhấm nhá cầm hơi. Nằm nghỉ chưa kịp nhắm mắt, hắn gọi ra. Tối hắn gọi ra. Đêm hắn gọi ra. Tranh thủ thời gian.Viết ngày không đủ, tranh thủ viết đêm. Tôi mất ăn, mất ngủ. Tôi ngẩn ngơ quên cả ghẻ nước, ghẻ mủ. Phép lạ hay niềm tin đã giúp tôi đủ sức cầm cự đòn tra tấn thần kinh tự khai? Tôi chẳng biết anh em có bị tra tấn như tôi. Nhà văn, nhà báo đã bị cách ly . Nhà văn còn bị cách ly với cả các tù nhân cùng phòng, thời gian viết tự khai. Tại tôi mệt lử cò bọ, về phòng là nằm bất động, các bạn trẻ không thích quấy rầy tôi hay họ bị ra lệnh cấm liên hệ với tôi? Đêm thứ 40, tôi nhớ rõ, tôi đánh số trang 1780, sang phần tự khai những tờ báo tôi viết thuê, tôi làm chủ bút, chủ nhiệm và những bài báo tôi đã ký một lô bút hiệu Thương Sinh, Thập Nguyên, Mõ Báo, Vạn Tóc Mai, Lệnh Hồ Xung, Thái Anh, Nã Cẩu, Bếp Nhỏ, Bếp Phụ… Hạnh phúc cho tôi là tôi được ngưng ở trang 1780.
– Anh tạm nghi. Sáng mai tôi về Hà Nội.
Chấp pháp số 7 nói:
– Chúng ta sẽ tiếp tục làm việc. Có một dấu hiệu chứng tỏ anh thiếu thành khẩn.
Hắn giải thich ngay:
– Năm trang tự khai của anh mới bằng một trang bản thảo tiểu thuyết của anh. Anh viết ngoài thói quen viết sít hàng, chữ nhỏ li ti của anh. Ngoài thói quen là ngoài ý muốn. Tư tưởng thể hiện hành động. Anh thiếu thiện chí cải tạo.
Thiện chí cải tạo! Bạn hiểu chưa? Ở xã hội cộng sản, xã hội ưu việt của loài người, con người còn cần biểu lộ thiện chí vào tù, thiện chí chịu đựng đau khổ, thiện chí lãnh đòn tra tấn tinh thần.
Chấp pháp số 7 lôi từ xặc-cột của hắn ra một trang bản thảo tiểu thuyết Người con gái ngồi đợi mộí chuyến tàu về 3 mà đám côn quang đã lục xét, tịch thu tại nhà tôi đêm 8-4-1976. Bản thảo của tôi sạch, đẹp, ít bôi chữa, viết chữ thật nhỏ, dòng thật khít. Đó là thói quen. Tôi lại thích viết bằng giấy in nhật báo. Vì nó mềm và thấm mực bút nguyên tử. Ở tòa soạn, tôi thường viết những bài báo đằng sau bản tin Việt Tấn Xã in một mặt. Tôi không hiểu tại sao chấp pháp số 7 chọn trang thứ nhất của bản thảo Người con gái ngồi đợi một chuyến tầu về là trang tôi viết nhỏ nhất, sít dòng nhất mà so sánh. Hắn đã cho tôi viết tự khai trên pelure mỏng, thứ giấy pelure sản xuất tại Việt Trì mầu như mầu giấy dầu.
– Với cách mạng, anh không thể dấu diếm nổi tư tưởng thầm kín của anh đâu, cách hành văn tự khai của anh như người mới tập viết. Anh bẻ dừa bẻ ngô, râu ria thừa thãi.
Phê bình văn chương tự khai của tôi một lúc, hắn đưa tôi về phòng I C-1. Tôi có những ngày ăn ngủ điều hòa. Cộng sản đã tính sức chịu đựng của tôi. Thêm nữa, tôi sẽ chết gục trên tự khai. Họ chỉ cần hành hạ tôi chứ cần gì tôi tóm tắt toàn bộ tác phẩm của tôi. Họ đã đọc hết, đọc từ lâu. Tôi chờ đợi chấp pháp số 7 trở lại Sàigòn.
Chú thích:
Un prisonnier Americain au Vietnam, cuốn thứ ba của Duyên Anh viết cho nhà Belfond. Giao kèo của Belfond yêu cầu Duyên Anh viết cho họ 5 cuốn.
La Torture (Tra Tấn) trong tập Poèmes de prison do Les Éditions de Caux, Thụy Sĩ xuất bản.
Tiểu thuyết này đăng được 10 chương trên tạp chí Tuổi Ngọc thì dang dở vì cộng sản thôn tính miền Nam.

NHÀ TÙ: CHƯƠNG 14

Không tính những tên quản giáo hạch hỏi lý lịch, tôi đã qua tay 5 chấp pháp và gã này là 6. Thân phận Kiều tiếp khách chơi hoa không khổ bằng thân phận nhà văn tiếp khách chấp pháp.
Xưa sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dầy dạn phong sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân.
Có phải Nguyễn Du đã tiên tri thân phận những Vũ Hoàng Chương, Doãn Quốc Sĩ, Dương Nghiễm Mậu, Thanh Tâm Tuyền, Phan Nhật Nam, thân phận những nhà văn, nhà thơ trong ngục tù cộng sản? Ôi, biết bao câu Kiều nó vận vào cái “đoạn đường ai có qua cầu mới hay” của chúng tôi.
Bây giờ bình đã vỡ rồi
Lấy thân mà trả nợ đời cho xong
Nợ đời, soạn giả tuồng cải lương Mộc Linh đã diễn tả 5 câu vọng cổ ở khu A. 5 câu thôi, anh bị ho ói máu nên phải dang dở. Trong 5 câu ấy có đoạn:
….”Than ôi, trời đất bao là mà sao ta không có chỗ đứng, lại phải xui chi tới cảnh đoạn trường…Nợ chẳng vay ai mà nay phải trả cho đời”. (Văn chương là cái nợ. Nghệ thuật là cái nợ. Nợ văn chương trả ở nhà tù! Và nhà nghệ sĩ biến thành nàng Kiều, dạt trôi đề-lao, khám lớn, trại tập trung. Cuộc sống vốn hiếm Từ Hải, hiếm cả đến Thúc Sinh. Chỉ rặt lũ chấp pháp cộng sản chở chất thù vặt. Chúng dập vùi tới cả phẩm cách con người. Chủ nghĩa nào ưu việt? Đâu là đỉnh cao trí tuệ? Nơi mô là cái nôi của loài người? Bạn ơi, nhân loại ơi, cái nôi của loài người, đỉnh cao trí tuệ, chủ nghĩa ưu việt tập trung ở nhà tù giam nhốt, đầy đoạ các nhà văn, nhà thơ. Nhà văn, nhà thơ là những kẻ chung thân bất mãn với hiện tại. Trần Dần viết:
Chẳng thể rúc kèn cũ rích
Vác loa mồm kêu:
“Hiện tại rất thiên đường
không
thiên đường chúng ta
là nối đuôi nhau
vô tận thiên đường
đi mãi
chẳng bao giờ thoả
Không có hiện tại nào là thiên đường cả. Và cả khi hiện tại đã là thiên đường, vẫn cần thiết có thiên đường khác rực rỡ hơn. Bổn phận của nhà văn là không ngừng phản kháng hiện hữu. Để thiên đường không đứng lại. Để thiên đường không chết. Để thiên đường tiến lên một thiên đường khác tuyệt vời gấp bội. Sự phản kháng hiện hữu của nhà văn đã bị xã hội cộng sản chụp mũ chống cộng sản. Nhà văn chống mọi bất công, mọi độc tài, mọi áp bức, mọi bóc lột, mọi sự xúc phạm quyền sống của con người. Nhà văn đòi hỏi tự do, dân chủ, công bình, hạnh phúc tuyệt đối cho con người. Bản chất của nhà văn là phản động. Nó phản động trong bất cứ xã hội nào, dưới bất cứ chủ nghĩa nào, ở bất cứ nơi nào nhân quyền bị tước đoạt, nhân phẩm bị chà đạp. Sự phản kháng của nhà văn là ước mơ của loài người. Nó làm thăng hoa cuộc sống. Nó gây cảm hứng leo lên ngọn đỉnh chân thiện mỹ. Chỉ những kẻ ngu xuẩn, bịp bợm và bệnh hoạn nghĩ rằng hiện tại què quặt của mình đã là thiên đường vĩnh cửu mới dùng quyền lực khỏa lấp sự phản kháng của nhà văn. Chỉ có cộng sản mới hèn mọn chụp mũ nhà văn, kết tội nhà văn và giam nhốt nhà văn. Phải vinh tôn những nhà văn phản động và phải bỏ tù bọn bồi bút nịnh bợ “rúc kèn cũ rích, vác loa mồm kêu: hiện tại rất thiên đường”. Đó mới là ưu việt, đỉnh cao trí tuệ. Tại sao? Vì bằng phản kháng hiện tại, nhà văn đã thắp ước mơ như ngọn đèn dẫn đến tương lai, dẫn đến những tương lai vô tận, những thiên đường đích thực của loài người. Vì bằng bồi bút nịnh bợ, bằng yên phận hòn bi, nhà văn đã rúc đầu xuống vực thẳm tội ác. Hà Nội định nghĩa bồi bút:”Bồi bút là kẻ viết sách báo làm tôi tớ cho thực dân đế quốc” – Văn Tân, Từ điển Việt Nam, 1976 – Cộng sản Việt Nam ở Paris đề nghị một định nghĩa:”Bồi bút là kẻ viết sách báo làm tôi tớ cho bọn cường quyền” – Nguyễn Trọng Nghĩa, Đoàn kết 4-1987. Bọn cường quyền hiện hữu ở Việt Nam là cái gì? Cộng Sản! Có lẽ, nên định nghĩa: “Bồi bút là kẻ viết sách báo làm tôi tớ cho thực dân, đế quốc và cộng sản”. Nhưng định nghĩa chính xác nhất là: Bồi bút là đám viết sách báo đứng về phía bọn thống trị. Với nhà văn chân chính, thống trị là đối tượng phản kháng hàng đầu. Nơi nào không có đối lập chính trị, thống trị man rợ, ghê tởm, cần thiết trừ khử. Việt Nam đang là nơi ấy. Và người ta dễ dàng tìm ra sự bồi bút ở hai câu định nghĩa của bồi bút. Họ không dám đụng đến cộng sản và giai cấp thống trị mới ở xã hội cộng sản. Xã hội cộng sản chấp nhận bồi bút, nuôi dưỡng bồi bút và bỏ tù cả nhà văn phản kháng lẫn thi sĩ chỉ viết thơ tình.
Tên công an chấp pháp số 6 dẫn tôi sang khu B, chỗ tôi đã mạn đàm với tên chấp pháp rỗ hoa. Tôi không muốn chế diễu họ. Rẻ tiền lắm. Nhưng bạn cần hiểu rằng, chẳng có tên công an chấp pháp nào giới thiệu tên thật hay bí danh với bạn cả. . Trừ Ba Trung là thằng nằm vùng vây co. Nên tôi đành phải lấy “đặc điểm” của họ mà đặt biệt danh để dễ so sánh. Công an chấp pháp số 6, dân miền Bắc, mặt mũi sáng sủa, người vừa phải. Hắn ta có nụ cười dễ gây cảm tình. Câu mở đầu của hắn:
– Anh có vẻ thất vọng về chúng tôi, phải không, anh Duyên Anh?
Tôi thản nhiên:
– Tôi không thất vọng, cũng chẳng hy vọng gì các anh.
Hắn cười.
– Tại sao?
Tôi đáp:
– Tôi đã hiểu tôi không còn quyền thất vọng và hy vọng.
Hắn khẽ lắc đầu:
– Đừng cay đắng, anh Duyên Anh.
Hắn mời tôi hút thuốc Điện Biên. Nhả nạm khói, hắn nhìn tôi bằng cặp mắt chan chứa cảm thông:
– Với tôi, anh muốn ngồi kiểu nào, tùy ý.
Tôi khựng lại. Chúng nó đã trao đổi với nhau về tôi. Thằng số 5 đấm tôi. Thằng số 6 xoa bóp.
– Anh bớt ghẻ chưa?
– Chưa, anh ạ!
– Nó sẽ phá tung một lượt. Rồi khỏi hẳn. Chị ấy tiếp tế bình thường chứ?
– Cám ơn anh.
– Trường hợp của anh thật oan nghiệt. Anh chống Mỹ, chống Ngụy rồi sợ Mỹ Ngụy trả thù, anh phải chống cộng sản.
Tôi không muốn cãi. Tôi đã chống cộng sản bằng Hoa thiên lý trước khi chống chính sách Mỹ ở Việt Nam và bọn thống trị bù nhìn.
– Tại sao anh chống lung tung thế? Chống tứ phía, phía nào anh sống?
– Tôi vẫn sống.
– Thực tế một chút, anh Duyên Anh. Giá anh đừng chống cộng, anh đã được biểu dương rồi.
Tôi đã nghe Ba Trung, đã nghe tên chấp pháp xứ Nghệ nói cái luận điệu này. Vẫn luận điệu gai góc mà buồn tẻ ấy, chấp pháp số 6 nhai lại. La raison du plus fort est toujours la meilleure. Thi hào La Fontaine đã để lại cho loài người một câu thơ trở thành chân lý vĩnh cửu. Khi trái đất còn quyền lực, còn ngục tù; còn lệnh bắt, còn cai ngục và còn tù nhân, chân lý đó không thay đổi. Ông Hồ Chí Minh là người cảm thầm “lý lẽ của kẻ mạnh nhất”. Ổng ta hiểu “vĩ nhân có thể chết bởi cái gai”, ông ta hiểu “anh hùng có thể chết ở cái lỗ chân trâu”. Và ông ta có triết lý sống đời tù bình thường: Để chúng dắt đi tựa trâu bò. Hạnh phúc cho ông Hồ Chí Minh là ông đã không được sống đời tù cộng sản. Nếu đã nằm nhà tù cộng sản, ông không trở thành “cha già dân tộc”, không trở thành “vĩ nhân”. Cộng sản đã là vĩ nhân, đã là anh hùng. Họ độc quyền anh hùng vĩ nhân. Bạn khó lòng thành vĩ nhân, anh hùng tù ngục cộng sản. Ở nhà tù cộng sản, nhất là nhà tù dành cho tù nhân của tư tưởng, của lương tâm, bạn sẽ bị đối xử tồi tệ hơn trâu bò. Bởi vì, ngoan ngoãn “tựa trâu bò” rồi sẽ thành lãnh tụ vĩ đại. Kinh nghiệm ở tù của Hồ Chí Minh là ánh sáng quang vinh chiếu rọi khắp nhà tù cộng sản. Phải bắt tù nhân lửng lơ giữa người và thú vật. Phải diệt nhân tính của tù nhân. Và, như thế, sự đọa đày mà tù nhân cam chịu không hun đúc nó nên anh hùng. Nó sẽ chỉ loay hoay quanh nỗi đói, nỗi khổ, nỗi nhớ nhà. Nó sẽ chỉ loay hoay quanh niềm sợ hãi, niềm mong đợi ngày được tha. Trong những loay hoay bi thảm của nó, thẩy cho nó chút ân huệ toan tính, bơm cho nó chút hy vọng gian dối, nó sẽ níu lấy ân huệ và hy vọng đê tiện đó, bảo vệ ân huệ và hy vọng đó một cách rất đê tiện. Từ cái ân huệ toan tính, cái hy vọng gian dối ban cho một tù nhân tạo thành những ngờ vực, những thù hận, những đề phòng giữa các tù nhân. Cai ngục mỉm cười, rao giảng phúc âm: “Các anh không thương các anh thì ai thương các anh”. Tù nhân ghét bỏ tù nhân hơn cả cai ngục ghét bỏ tù nhân. Riết rồi, tù nhân “thương yêu” cai ngục! Bản chất và hiện tượng. Hai tuyệt chiêu nằm trong bí kíp cộng sản đã, chẳng những cấy sinh tử phù vào tế bào tù nhân, mà còn cấy vào cả tim phổi quần chúng. Hiện tượng lúc nào cũng bị nghiêm khắc phê bình. Hiện tượng thủ tiêu tập thể 1 triệu 500 ngàn dân lành bị sửa sai. Tổng bí thư Trường Chinh tạm sang nắm ghế Chủ tịch Quốc hội, vẫn là ủy viên Bộ chính trị. Để bản chất đúng và tốt và chân lý. Hiện tượng và bản chất hư hư thật thật. Đảng nhân đạo, khoan dung. Đảng là bản chắt. Cán bộ vô nhân đạo, khắc nghiệt. Cán bộ là hiện tượng. Chấp pháp số 5 là hiện tượng. Chấp pháp số 6 là bản chất. Hiện tượng dọa nạt. Bản chất vuốt ve. Cả hai kết hợp lừa bịp loài người. Bản chất hay hiện tượng thì cũng cứ là cộng sản và do họ nói và đều là lý lẽ của kẻ mạnh. Dẫu có gai góc buồn tẻ một nhịp điệu nhai lại, chớ dại dột bịt tai. Càng không nên nổi giận. “Tư tưởng thể hiện hành động”. Móng vuốt chịu khó dấu đi. Chìa ra là bị chặt đứt liền. Mà chìa móng vuốt với ai?
Tù nhân ở các nhà tù cộng sản có hai lần bầy tỏ thái độ anh hùng. Lần thứ nhất: Làm việc với công an chấp pháp. Bạn sẽ ngồi trong căn phòng chỉ có bạn với chấp pháp. Đừng ngại, không có máy ghi âm bí mật đâu. Chấp pháp sẽ hạch hỏi bạn, sẽ mắng mỏ bạn, sẽ chửi bới bạn, sẽ đập bàn la lối. Bạn nổi máu anh hùng, bạn dậy lòng bất khuất, bạn ăn thua đủ chấp pháp. Nó tống bạn vào cachot, còng bạn đủ kiểu. Nó cho bạn ăn uống theo tiêu chuẩn kỷ luật. Nó cấm vợ con bạn thư từ, tiếp tế. Bạn sẽ chết thảm ở cachot. Lịch sử không hề biết nên sẽ chẳng bao giờ viết. Bạn chết rồi thì chỉ còn một người biết. Là chấp pháp. Nó không ngu gọi bạn là anh hùng. Biên bản… chết của bạn sẽ ghi: Chết bệnh. Nếu bạn không chết, bạn trở về phòng, bạn cũng không dám khoe thành tích. Bạn tù thương bạn lắm. Ngàv thăm nuôi, bạn mỏi mắt đợi quà. Bạn đã bị cúp dài hạn. Anh em ngưỡng mộ vị anh hùng, một dúm mì, một trái chuối, một miếng thịt. Một lần thôi nhé! Chỉ một lần. Nếu bạn xuống máu anh hèn, bạn lạy lục chấp pháp, khóc lóc thảm thê, vẫn chỉ bạn và chấp pháp biết. Chẳng ai chứng kiến cả. Không có chứng nhân ở phòng chấp pháp. Anh hùng và anh hèn đồng hạng. Lần thứ hai: Bạn ra tù, bạn vượt biên hay đi chính thức qua Mỹ qua Ảu, bạn sẽ viết hồi ký. Lúc ấy bạn phong bạn làm anh hùng, bất khuất. Những thằng hèn trong hồi ký của bạn là những thằng đã không cho bạn cục đường, muỗng nước mắm hay trái chuối, dúm mì. Những thằng hèn trong hồi ký của bạn còn là những thằng bạn ghét dù bạn chưa hề sống chung với nó ở tù. Bạn sẽ “nghe kể, nghe đồn” vô tội vạ. Yên ổn nói cái ta anh hùng và cái người anh hèn. Vì rằng, chỉ có ta với chấp pháp biết rõ cái ta. ít khi ta dám lôi cái ta hèn hạ ra phỉ báng. Ta lôi cái người hèn hạ ra phỉ báng để khoả lấp cái ta hèn hạ thì rất nhiều khi. Sự ấu trĩ, dần dà, bị khám phá. Và cái ta vô lại hiện nguvên hình.
Tôi biết có thằng vô liêm sỉ, một bồi bút trơ trẽn là Thanh Vân, tác giả cuốn sách vỏ tôm, nhan đề Sống như anh, diễn tả cuộc đời “anh hùng” Nguyễn Văn Trỗi. 1 Bồi bút Thanh Vân ngu xuẩn và hạ cấp đến độ cho Trỗi chửi nhau tay đôi với thẩm vấn viên của Cảnh Sát Đặc Biệt. Và vợ y, “chị Quyên trung hậu đảm đang” cũng vào Tổng Nha sa sả nguyền rủa “tay sai Mỹ Ngụy”! Chúng ta có thể viết lại Sống như anh, diễn tả trung thực, rất trung thực đoạn anh hèn Văn Trỗi ở phòng thẩm vấn. Anh Trỗi đã chết. Người thẩm vấn anh, có thể, đã chết hay đang nằm tù. Chứng nhân tuyệt tích, cần diệt nhân chứng. Hoá cho nên, anh hùng và anh hèn trên sách vở và trong cả lịch sử đều tùỵ thuộc lòng yêu mến và sự thù hận, tùy thuộc mục đích tuyên truyền chính trị và tham vọng đè hèn. Và luôn luôn cần xét lại cả lịch sử, nhất là lịch sử viết bởi những anh thiếu tư cách.
Đến anh hùng Nguyễn văn Bé mới tức cười. Anh bị bắt ở một trận đánh tại Định Tường, xin hồi chánh, phục vụ Cảnh sát quốc gia. Hà Nội suy tôn Nguyễn Văn Bé là anh hùng, truy điệu liệt sĩ Bé rỉ rả trên Đài Tíếng Nói Việt Nam. Anh Bé nghe đài. Anh Bé hoảng sợ. Anh Bé yêu cầu Cảnh sát quốc gia đổi họ thay tên và tạo lý lịch mới!
Ôi, anh hùng và anh hèn của thời đại khốn kiếp hôm nay, nghĩ mà buồn nôn. Càng buồn nôn hơn khi thấy anh nhanh chân tình nguyện đóng tiền trình diện học tập cải tạo luận anh hùng, anh hèn bị công an ập vào tư gia, còng tay, bịt mắt dẫn đi. Nếu bỏ anh hùng để chỉ luận anh hèn thì anh chưa đến lượt mình (sĩ quan giải ngũ mà) đã nhanh chân nộp tiền xin trình diện học tập cải tạo tư tưởng với triết lý sống đơn giản “nhanh chân có lời” thì anh này hèn rõ rệt. Nhưng anh này âm mưu xóa dấu vết hèn hạ của mình bằng cách luận tội người khác hèn hạ. Rốt cuộc, sự hèn hạ của anh ta cứ ám ảnh anh ta. Và cái cường độ của sự phô diễn anh hùng tự phong, rốt cuộc, là một tự khai thành khẩn “ăn vụng thịt nhà bếp, ăn cắp cơm cháy, ăn tranh phần cám heo” và ngồi nhà “vẽ chân dung Hồ chủ tịch” để trốn tránh lao động! Bạn đã từng biết anh này là ai không? Tôi sẽ định không nêu tên anh ta vì sợ anh ta nổi tiếng. Như vậy, tôi mang tội đố kỵ tài năng. Vậy để anh ta nổi tiếng. Thế thì anh ta là Tạ Tỵ đấy. Anh ta đã “nghe đồn” mà bảo tôi làm “ăng-ten” trong tù. Tôi không nghe ai đồn cả. Tôi viết đúng lời tự thú công khai của anh ta. 2 Và anh Tạ Tỵ đã công khai tự nhận rằng, ở trại cải tạo, anh ta đã “ăn vụng” và “ăn cắp.” Có lẽ, anh ta sẽ nổi tiếng, sẽ đi vào lịch sử văn học, không phải do tài năng hội họa, văn chương, thi ca. Mà do “ăn cắp” và “ăn vụng.”
Tôi không là anh hùng, không bao giờ là anh hùng. Cũng chẳng dám ôm mộng anh hùng. Làm anh hùng khổ lắm. Thường thì anh hùng chết rất đẹp và rất thảm. Và chết xong, anh hùng bị khai thác triệt để. Đó là anh hùng đích thực. Anh hùng giả vờ khổ hơn.
Anh hùng là anh hùng rơm
Cho một mồi lửa hết cơn anh hùng
Tôi chưa là anh hèn. Nhưng để bị bắt bỏ tù, ghẻ kềnh ghẻ càng, xin ngồi nghiêng chấp pháp từ chối, bắt ngồi nghiêm chỉnh, bị tống vào cachot không dám cãi, mạn đàm không ương ngạnh, lý luận… là hèn. Thì tôi đã hèn. Tiền nhân đã thông cảm tuyệt đối với những kẻ sa cơ thất thế.
Anh hùng như thể khúc lươn
Khi cuộn thì ngắn, khi vươn thì dài.
Biết dấu nanh vuốt lúc nào, biết chìa nanh vuốt lúc nào, đó là cái trí của anh hùng. Cựu ước kinh ghi chép: “Có một thời lên tiếng và một thời im lặng”. Khi không thể lên tiếng nói dõng dạc, nên im lặng hơn là nói lảm nhảm. Tân ước, Jésus dạy: “Đừng chống cự kẻ ác”. Phải, đừng chống cự kẻ ác khi mình nằm trong tay nó..
Tôi rất thích những câu ca dao miền Nam này:
Phượng hoàng gẫy cánh hẩm hiu
Sa cơ thất thể phải theo đàn gà
Bao giờ mưa thuận gió hoà
Thay lông trổ mã lại ra phượng hoàng.
Tiền nhân đã an ủi “chim quyên xuống đất ăn trùn”. Người đời xưa thương người đời sau là vậy. Theo tôi, người ta nên luận về lẽ sống chết hơn là luận anh hùng trong thời đại không hề có anh hùng. Hồ Chí Minh là anh hùng của Việt Nam cộng sản, lại là gian hùng của Việt Nam quốc gia. Ngô Đình Diệm là anh hùng của Việt Nam Thiên Chúa giáo, lại là anh hèn của Việt Nam Phật giáo, anh tay sai đế quốc của Việt Nam cộng sản. Trần Văn Bá là anh hùng của ông Lê Quốc Túy, lại là anh thường của ông Hoàng Cơ Minh. Vân vân… Ở tù cộng sản, khôn chết sớm, dại chết muộn, biết thì sống ngất ngư. Sống dễ hay chết dễ? Chết khó hay sống khó? Đông Chu Liệt Quốc có đoạn luận về lẽ sống chết như vầy:
Trình Anh và Công Tôn Cửu Chử cùng là gia nhân nhà họ Triệu. Khi Đỗ Ngạn Giả nắm quyền, xui vua Tấn diệt trung thần. Gia đình họ Triệu (Triệu Thuẫn phò Trùng Nhĩ phục quốc) bị giết hết. Một nàng dâu họ Triệu là công chúa, mang bầu chạy về cung trốn cuộc tàn sát. Công chúa hạ sinh một hài nhi đặt tên là Triệu Vũ. Đỗ Ngạn Giả hay tin, nhưng còn nể vua, chưa dám xông vào cung. Trình Anh và Công Tôn Cửu Chử bàn nhau cứu giòng máu cuối cùng của họ Triệu, vị thầy thuốc tín cẩn được mời vào thăm bệnh cho công chúa rồi bỏ hài nhí vào giỏ xách ra.
Công Tôn Cửu Chử hỏi Trình Anh:
– Sống để nuôi con chủ chờ ngày trả hận khó hay chết để tỏ lòng trung thành với chủ khó?
Trình Anh đáp:
– Sống khó.
Công Tôn Cửu Chử nói:
– Vậy nhà ngươi sống, còn ta chết.
Bèn lập mưu sống và chết. Đúng lúc công chúa hạ sinh cậu bé Triệu Vũ, vợ Công Tôn Cửu Chủ cũng hạ sinh một nhóc tì. Trình Anh làm “ăng ten” đi báo Đỗ Ngạn Giả rằng Công Tôn Cửu Chử dấu hài nhi họ Triệu. Đỗ Ngạn Giả vây nhà Công Tôn Cửu Chử. Công Tôn chỉ mặt Trình Anh nguyền rủa tội lừa thầy, phản bạn, “ăng ten”. Đỗ Ngạn Giả đâm chết Công Tôn Cửu Chử, quật nát hài nhi, giết cả nhà Công Tôn Cửu Chử. Nhở đó, Trình Anh mới đem Triệu Vũ xa kinh thành, nuôi dưỡng, chỉ dạy. Sau này, Triệu Vũ diệt Đỗ Ngạn Giả, khôi phục họ Triệu.
Lẽ sống chết ở đây. Tôi không nuôi tham vọng trả thù ai. Tham vọng của tôi là viết một cuốn sách có ý nghĩa cho đời mình và trả lời câu nói miệt thị của cộng sản “thế giới đâu đã đọc sách của các anh”. Và tôi cần sống. Giá nào tôi cũng phải sống. Cách nào tôi cũng phải sống. Và tôi vẫn sống.
Tôi dập điếu thuốc:
– Ở tù khó mơ mộng lắm, anh ạ!
Chấp pháp số 6 gật gù:
– Tại anh không thích mơ mộng thứ anh mơ mộng. Anh mơ mộng viển vông nên anh thiếu thực tế.
Hắn gợi ý:
– Bồn Lừa là nhân vật lý tưởng của giai cấp. Bố nó là công nhân. Nó thông minh trùm lấp bọn con cái tư sản. Nó tài năng xuất chúng. Bồn Lừa, cuốn truyện tốt. Đổì mầu cờ. Không, viết rõ rệt cờ tổ quốc là cờ tổ quốc của chúng ta, thêm giai cấp tính cho Bồn lừa, cuốn sách hoàn toàn. Chúng ta cần nhân vật tuổi thơ vô sản thần tượng..
Hắn nhìn tôi:
– Liệu anh còn viết nổi những cuốn như Bồn Lừa ?
Không thèm nghe tôi trả lời, hắn ngó đồng hồ, đứng dậy:
– Tôi sẽ làm việc với anh sau.
Thế đó, chấp pháp số 6 làm việc với tôi thật ngắn ngủi. Hắn đưa tôi về 1 C-1 và không tống tôi vào cachot.
Chú thích:
Xin đọc thêm Thời của đàn bà. cùng tác giả. Nam Á Paris xuất bản.
Tạp chí Ngày Nay, xuất bản ở Wichita, Hoa Kỳ, số 46, thảng 5-1985.

NHÀ TÙ; CHƯƠNG 13

Cùng buổi chiều Thanh Thương Hoàng vào cachot, Hồ Văn Đông, Trịnh Viết Thành, Như Phong, Doãn Quốc Sĩ cũng túi bị vào cachot. Chủ nhiệm nhật báo Quyết tiến trụ trì cachot số 6. Chủ bút nhật báo Quật Cường trụ trì cachot số 3. Tác giả Sầu mây chiếm cachot số 11. Tác giả Khói Sóng 1, cuốn tự điển Việt Nam Quốc Dân Đảng, cắm dùi ở cachot số C-2. Những cachots còn lại của C-1 dành cho quý vị đại đức Ấn Quang. Thượng tọa Thích Quảng Độ trụ trì cachot số 7. Được đúng tuần lễ, kể từ hôm Thanh Thương Hoàng giã từ 6C-1, ba chúng tôi, Hồng Dương, Nguyễn Hải Chí, Duyên Anh, nhận lệnh rời phòng. Người công an chấp pháp nói: “Các anh cần đổi nước”. Chúng tôi đã tưởng đi xa. Cuối cùng thì Nguyễn Hải Chí sang khu A; Hồng Dương và tôi vào 1C-1, cái phòng bẩn cả nội dung lần hình thức. Thời gian này, cửa nhà giam đã trổ rộng một nửa gần chấn song và ống nước đã vô phòng. 1C-1 hưởng dưỡng khí và ánh sáng 24/24 đầu tiên. Trưởng phòng 1C-1 tên là Nguyễn Hữu Trí. Hắn vốn làm tài xế tắc xi sau khi giải ngũ. Ở quân đội, hắn đeo lon thượng sĩ. Hồng Dương miệt thị hắn là Trá xế. Trí cấu kết với Viên và Quang. Về sau ba đứa tách rời. Cả ba cùng vượt biên đường bộ, bị bắt ngay tại bến xe đò Pleiku. Phó phòng tên Đảm, quen biết chúng tôi bên Sở Công An. Đa số tù nhân bên 1C-1 là những người tuổi trẻ, đủ thành phần, vượt biên đường bộ, từ Pleiku, Bạn Mê Thuột chuyển về.
Chế độ nhà tù ở Pleiku, Ban Mê Thuộc hết sức tồi tệ. Tù nhân bị tịch thu hết, chỉ còn bộ quần áo dính thân thể. Họ không được tắm gội cả tháng nên ghẻ lỡ kềnh càng, chấy rận lổn ngổn. Ở mấy nhà tù cao nguyên, nhóm tù nhân này đã hục hặc nhau, chia bè kết đảng. Và bộ ba Trí-Viên-Quang bị bọn trẻ thù ghét. Trở về đề lao Gia Định, Nguyễn Hữu Trí vẫn làm trưởng phòng. Giữa hắn và phó phòng Đảm không ưa nhau. Thêm thư ký Miên coi thường hắn nên hắn bám chặt cai ngục. Hắn chỉ sợ mất chức trưởng phòng. 1C-1 ngoài Nguyễn Hữu Trí nham hiểm, còn có “nghệ sĩ” Ngô Văn Sự. Tên này bị gù, có tài về trang trí. Sử nói phét thánh trời. Hắn tự nhận hắn là Chóe, quen thân với Nhã Ca, Duyên Anh, Doãn Quốc Sĩ… Bất ngờ chúng tôi vào 1C-1, Ngô Văn Sử bị anh em lột mặt nạ. Đó là sự bất hạnh của hai chúng tôi. Sử được ra ngoài sơn cửa các phòng tù. Hắn cấu kết với Trí. Hồng Dương và tôi là hai đối tượng báo cáo của hai đứa. “Chuyện buồn nhỏ nhặt liệu mà quên”. Tôi không quan tâm hai thằng vô lại này mà rất quan tâm chấy rận vượt biên xâm lăng tôi.
Tôi bắt đầu ghẻ nhiều ở 1C-1. Chúng tôi vẫn chưa được gặp vợ con. Đúng lúc ghẻ hành hạ tôi, vợ tôi viết thư báo tin buồn: “Ông ngoại đã chết. Em mặt áo tang đến xin gặp bố, người ta từ chối”. Thật sự, tôi muốn quên chuyện gia đình. Nhưng muốn quên thật khó. Mà nhớ thì lòng dạ như bị xát muối. Nhìn khuôn mặt hốc hác của Trịnh Viết Thành dán chặt vào ô cửa gió cachot số 3, Hồng Dương bảo tôi:
– Sắp đến lượt mình.
Tôi không sợ cachot. Tôi thèm nằm cachot. Rất giản dị, ở cachot, tôi chẳng cần đề phòng ai. Cachot đề lao Gia Định lý tưởng lắm, nếu không bị còng tay chéo chân để ngủ ngồi. Nhờ ghẻ nặng, tôi loay hoay với ghẻ cả ngày. Khởi sự là ghẻ nước. Ghẻ mọc từng cụm trên mu bàn chân. Vừa khều nặn xong vài mụn, vài mụn khác đã mọc quanh. Chuyện khó tin mà có thật. Cả 1C-1 ghẻ. Ngót 50 tù nhân ngồi nặn ghẻ mủ, ghẻ nước. Tất cả bị nấm tấn công “hạ bộ”. Đàn Ta-Lư gẩy liên miên. Cơ thể tôi thiếu sinh tố.. Da khô và mỏng. Chất nhờn trên mặt da không bài tiết nữa. Ở 6C-1, tôi nặn hết nước, nặn ra máu, thấm khô rồi bôi thuốc xanh, mụn ghẻ chịu ngay. Ở 1C-1, nặn hết nước, bôi thuốc, nước cứ đùn ra. Nước đùn rạ, ghẻ mọc thêm. Ghẻ mọc cả trên mụn ghẻ mới khỏi. Ghẻ tấn công ngược. Bắt đầu ở chân, rồi lên đùi, háng, mông. Ghẻ nước lỡ toét bị nhiễm trùng thành ghẻ mủ. 1C-1 có mấy “dũng sĩ” ghẻ. Hai cẳng ghẻ cơ hồ cơm cháy đắp lên. Nước vàng ri rỉ cả ngày. Bục xi-măng nhớp nhúa. Manh chiếu khô cứng máu mủ, nước vàng. Mùi vị tanh tưởi nồng nặc. Tôi đã ăn, ngủ, hít thở cùng mùi vị tanh tưởi mủ ghẻ ấy. Khi ghẻ mủ mọc khắp cẳng, đùi và đầy mông, tôi mất ngủ. Nằm nghiêng hằng đêm, tôi thao thức. Các bạn trẻ của tôi nhờ dễ ngủ mà bớt ngứa, bớt đau. Nhức ghẻ mủ, ngứa nấm ăn “hạ bộ”, hai cái thái cực quái đản nầy tưởng xa mà gần, tưởng mơ hồ mà hiện thực. Tôi vốn khổ từ niên thiếu. Những nỗi khổ tôi đem vào đời, những nỗi khổ tôi làm cuộc đời tôi, tôi ngỡ đã ghê gớm lắm. Vất đi tại đề lao Gia Định. Vất hết đi. Tôi nằm nghiêng trên hai gang chiếu của phòng 1C-1, ngửi mùi tanh mủ ghẻ, nuốt đắng cay, nghiến răng chịu nhức nhối. Để nhập môn thống khổ.
Sau khi đi học tập viết tự khai và sau khi viết tự khai tại phòng, người ta tách Hồng Dương khỏi tôi. Hồng Dương từ giã tôi. Từ đó tới nay, tôi chưa gặp lại. Tôi không tin tên Nguyễn Hữu Trí báo cáo Hồng Dương. Thời gian chuẩn bị thẩm vấn, người ta cách ly chúng tôi. Để tránh trao đổi ý kiến. Hồng Dương đi, 1C-1 có thay đổi. Anh em vượt biên được gia đình tiếp tế. Xà phòng tắm gội. Quần áo cũ loại bỏ. Phòng bớt tanh và chấy rận bớt dần. Viên đi. Quang đi. Đảm đi. Nguyễn Hữu Trí hòa hoãn với thư ký Nguyễn Hữu Miên và mọi người. Vợ hắn không nuôi hắn. Hắn chợt hiểu cai ngục không cho hắn mì vụn và uống cà phê. Hắn bám anh em. Ngô Văn Sự chuyển trại. Mọi việc bình thường. Tôi bình yên nằm nghiêng nghe mủ mưng trên cơ thể. Lãng mạn một chút, tôi bảo thống khổ mưng giữa nỗi đời cơ cực của tôi.
Tháng 7, 1976, đề lao Gia Định tiếp nhận hàng ngàn tù nhân phản động bình dân. Gọi là phản động bình dân để phân loại. Ngày 30-4-75, các nhà tù thành phố được giải phóng hết. Nhưng 1-5, nhà tù mở cửa đón khách mới. Lâm Văn Thế là khách khai trương. Từ tháng 6-1975 đến tháng 5-1976, đề lao tiếp nhận tù nhân phản động trí thức. Thời điểm rực rỡ này là thời điểm của sinh viên, học sinh, luật sư, giáo sư chống phá cách mạng. Bây giờ là thời điểm của nông dân, công nhân, phu nhà đòn, lơ xe đò, du đãng… Những nhà nghiên cứu Mác xít sẽ nhức đầu về hiện tượng phản động bình dân. Ngoài tù nhân phản động bình dân, tháng 7-1976, đề lao cũng tiếp nhận hàng ngàn tù nhân vượt biên bị bắt. Người ta sắp xây thêm các khu D, E… 1C-1 phải chứa 60 tù nhân! Tôi đã phiêu bạt khá nhiều phòng giam của đề lao Gia Định. Và tôi có một nhận xét: Tỷ lệ đại đức thượng tọa vượt biên 1%, linh mục 99%; tỷ lệ đại đức thượng tọa phản động 99%, linh mục 1%. Những người vượt biên thuộc đủ mọi thành phần xã hội. Vượt biên đường biển thì bị chặn bắt ngay tại Phú Lâm. Vượt biên đường bộ thì bị chặn bắt ngay khi vừa bước xuống các bến xe đò Pleiku, Ban Mê Thuột. Hài hước của vượt biên đường bộ có ông giáo sư họ Mai là biểu tượng. Ông này mang theo ba đôi giày deluxe, hai bộ complet, chục cái cà-vạt, chuẩn bị họp báo ở Vọng Các. Bi thảm thì có cậu cháu anh thợ hàn xì lạc rừng mây ba ngày, đói quá, bẻ trộm bắp, bị mọi cộng bắt trói đem giao nộp Việt cộng. Đúng lúc 1C-1 đông nghẹt, tôi được gọi ra làm việc. Người ta dẫn tôi sang phòng chấp pháp khu B. Tôi cặm cụi đi, không nhìn ngang nhìn dọc. Công an chấp pháp ngồi đối diện tôi. Hắn ta cao lớn, mặt rỗ hoa mè, mặc áo sơ-mi mầu trứng sáo. Chỉ cái ghế trước bàn giấy, hắn bảo tôi ngồi.
– Tôi xin anh một ân huệ?
– Gì?
– Tôi bị ghẻ mủ đầy mông, anh cho tôi ngồi nghiêng.
– Không. Anh phải ngồi ngay ngắn. Vì anh làm việc với đại diện của Đảng (Hắn dân Bắc kỳ, giọng nói miền biển Tiền Hải)
– Hiểu chưa?
– Tôi hiểu.
Tôi đã đụng độ ba thằng việt cộng đằng đằng thù hận. Thằng thứ nhất bên Sở Công An, phòng lý lịch. Nó quát tháo khi thấy tôi ngồi gác chân. Nó bắt tôi ngồi nghiêm túc và mang tội thiếu… văn hóa. Thằng thứ hai ở đề lao. Nó đến cửa 6C-1 ghi lý lịch tôi. Nó mắng tôi nói láo vì tôi khai tôi là nhà văn chế độ cũ. Nó muốn tôi khai tôi là tay sai chế độ cũ. Thằng thứ ba đang đứng trước mặt tôi. Hắn nhìn tôi, hất hàm:
– Khi các anh bắt cộng sản, các anh đối xử thế nào?
Tôi chưa ngồi, tôi vẫn đứng.
– Chúng tôi không bắt ai. Chúng tôi không có quyền bắt ai. Chúng tôi không thích bắt ai.
Tôi nói thêm:
– Nhà văn không phải là nhà cầm quyền.
Phản ứng của tên chấp pháp Bác Kỳ là nụ cười nửa miệng.
– Anh không phải là ngụy quyền?
Tôi đáp:
– Phải.
Hắn dập điếu thuốc lá:
– Nhưng anh là tay sai của ngụy quyền, các anh là tay sai của ngụy quyền, bọn nhà văn Sàigòn là tay sai của ngụy quyền.
Tôi nói:
– Đó là ý nghĩ của anh.
Hắn gằn giọng;
– Của nhân dân. Các anh nhận tiền của Mỹ, của Ngụy chống phá cách mạng, tạo ra chiến tranh tâm lý. Anh muốn tôi kể tên những thằng chống cộng ăn lương Mỹ Ngụy không?
– Anh đừng kể.
– Anh xấu hổ à?
– Tôi đã biết. Chính chúng tôi đã công kích chúng nó công khai.
Chúng nó. Chỉ có vài thằng thôi! Đứa lấy tiền của Juspao, của Usis qua trung gian Lý Trung Dũng. Đứa lấy tiền của Ngô Đỉnh Diệm qua trung gian Bùi Kiến Tín. Đứa lấy tiền của Sở Nghiên Cứu Chính Trị. Đứa lấy tiền của Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia. Đứa lấy tiền của Asian Foundation… Toàn những khuôn mặt khoa bảng và văn nghệ hàng đầu cả. Hai ba đứa làm tôi mọi cho đài phát thanh chiến lược Mỹ. Những thằng nhà văn “for rent” này đã chuồn hết. Chúng tôi ở lại chịu nhục. Chịu nhục với công sản chưa đủ, còn bị chúng nó bêu nhục trên đất Mỹ. Tôi đã cố dằn phẫn nộ để im lặng về thái độ bần tiện của chúng nó khi chúng nó toa rập nhận chìm tôi xuống bùn nhơ. Rõ rệt, chúng nó đã “bắt nạt tôi những ngày đầu lưu vong của tôi”.
– Anh công kích?
– Người khác.
– Ai?
– Anh có đọc một bài báo của Nguyên Sa không?
Hắn bảo tôi:
– Anh ngồi xuống.
Tôi hỏi:
– Ngồi nghiêng?
Hắn lắc đầu:
– Ngồi ngay ngắn, ngồi nghiêm túc.
Tôi ngồi ngay ngắn. Nỗi đau khác đã làm bớt nỗi đau ghẻ mủ. Tôi biết sức nặng của phần trên thân thể đã bắt những mụn ghẻ mủ ở mông tôi vỡ ra. Tên công an chấp pháp biết rõ hơn. Hắn thích vậy. Hắn muốn nhìn tôi đau đớn. Bao thuốc chìa ra, hắn mời:
– Anh hút thuốc.
Tôi rút một điều thuốc Vàm Cỏ. Hắn quẹt diêm cho tôi mồi thuốc.
– Tôi gọi anh ra để mạn đàm.
Hắn nhả khói thuốc.
– Mạn đàm cũng là làm việc đấy.
Cuộc mạn đàm bắt đầu.
– Anh xa nhà mấy tháng rồi, anh Duyên Anh, thần tượng của tuổi trẻ?
Giọng mỉa mai, hắn bĩu môi nói hai tiếng “thần tượng”. Mạn đàm với hắn là vấn nạn, đối với tôi, với chúng tôi, những nhà văn, nhà thơ bị bỏ tù.
– Tôi không là thần tượng của ai cả. Tôi đã viết điều này. Làm thần tượng có hai điều khổ. Một, trở thành nô lệ của những kẻ phong tước vị cho mình. Hai, sẽ bị đạp đổ.
– Anh đã được coi là thần tượng?
– Tôi thành thật khước từ.
– Tại sao?
– Tôi thích tự do làm theo ý của tôi. Thần tượng, tôi phải làm theo ý của người khác. Khác ý họ, tôi bị đạp đổ nhục nhã. Nhưng thần tượng là cái gì? Theo tôi, thần tượng là đất nung, gỗ đẻo.
– Anh ám chỉ ai?
– Tôi nói tôi.
– Mà anh mà là thần tượng à?
– Anh vừa bảo tôi là thần tượng.
– Anh tin tôi thành thật ư?
– Cách mạng không bao giờ gian dối.
Hắn nhìn thẳng mặt tôi, đôi mắt hắn long xồng xộc:
– Lũ các anh là thần tượng móc méo, xỏ xiên. Tôi hỏi anh xa nhà mấy tháng rồi?
Hắn chuyển đoạn cau có. Tôi chậm rãi đáp:
– Tôi vào tù từ 8-4.
– Ai bảo anh vào tù?
– Cán bộ Ba Trung bên Sở.
– Anh đi học tập cải tạo tư tưởng.
– Tôi xa nhà.
– Anh xa nhà đi hoc.
– Vâng, tôi xa nhà đi học được bốn tháng rồi.
– Thấy thế nào?
– Nhớ vợ, thương con.
– Có vậy thôi?
– Phải, có vậy.
– Không thấm thía à?
– Không.
– Thế là chưa tiến bộ, chưa có chuyển biến tư tưởng. Anh cần học tập lâu hơn.
– Tùy anh.
– Tùy ở chính bản thân anh đấy.
Thằng rỗ mặt hoa nầy coi bộ đã nhận chỉ thị áp đảo tinh thần tôi. Tất cả những nhà văn, nhà thơ làm việc, bị mạn đàm đều bị làm khán giả xem kịch sĩ công an thủ các vai Ác và Thiên. Hễ hôm nào bị Ác át giong, ngày mai sẽ được Thiện vuốt ve. Ác bít lối, Thiện mở đường. Thiện thỏa mãn yêu sách chưa được thực hiện, Ác đã xoá bỏ ngay tức thì. Thằng mặt rỗ hoa mè mặc áo sơ mi mầu trứng sáo, tháng 6 năm 1977, gặp Doãn Quốc Sĩ ở 3C-1, kể lại cuộc mạn đàm, anh Sĩ nhận ra “cố nhân” liền. Anh Sĩ nói: “Nó đã dọa chặt tôi ra làm ba khúc xem thân thể tôi có là kim cương. Chính nó tống tôi vào cachot.”
– Anh Duyên Anh.
– Tôi nghe.
– Đồng chí Ba Trung bảo anh vào tù là đúng.
– Tôi không xa nhà đi học?
– Anh nằm tù.
– Anh vừa nói …
– Bây giờ là chân ly, anh nằm tù. Anh nằm tù suy nghĩ tội ác. Các anh nằm tù suy nghĩ tội ác.
Bổng hắn hất hàm:
– Thằng Doãn Quốc Sĩ thế nào?
Tôi thừa hiểu, khi chúng nó nói chuyện với nhau, khi chúng nó nói với anh em của tôi, chúng nó cũng gọi tôi là thằng Duyên Anh, như lãnh tụ của chúng nó mở miệng là thằng Diệm, thằng Nhu…
– Đó là thằng được nhiều người kính trọng.
– Thằng Doãn Quốc Sĩ được nhiều người kính trọng? Nó ví Hồ Chủ Tịch là chồn tinh chín đuôi. Vũ Hạnh báo cáo thằng Sĩ thường nhục mạ Bác. Sàigòn có ba thằng đáng tội chém. Thằng Doãn Quốc Sĩ viết cổ tích lăng mạ lãnh tụ Hồ Chí Minh. Thằng Chóe vẽ cờ tổ quốc cắm lên cán chổi. Còn anh, anh ví cờ tổ quốc với xì-líp đàn bà có kinh. May cho các anh, Biệt đôi bận việc khác, chứ không, các anh đã ăn đạn như thằng Chu Tử.
Chu Tử viết Ao thả vịt của nhật báo Sống, chê “Hồ chủ tịt làm thơ như cục kít”. Tôi xin phép được nói rõ về trường hợp Chu Tử và sau đó, một vài trường hợp ngộ nhận quốc gia sát hai quốc gia. Thuở báo Sống chống đối sự thừa thắng xông lên của các ông sư chính trị, nhóm Phật giáo quá khích đã đốt tòa soạn Sống, đốt luôn chiếc xe Vespa mới toanh của nhân viên trị sự tên là Vũ Hải Vân. Chu Tử nổi giận. Nhật báo Sống đánh sư chính trị, sư thành phố thả giàn. Chu Tử bị mưu sát. Chúng tôi quả quyết thủ phạm là thượng tọa Thích Thiên Minh. Báo chí Sàigòn tỏ thái độ với Phật tử ồn ào xuống đường và lãnh tụ của họ. Tự nhiên, nhà cầm quyền hưởng lợi. Chẳng cần thuê mà báo chí xúm nhau “mần thit” những kẻ chống đối mình. Rồi thượng tọa Thích Thiên Minh bị mưu sát. Phật giáo Ấn Quang đổ riết tội cho nhà nước. Nhà nước, nhà chùa, nhà báo chơi nhau lung tung beng. Nhà báo bảo nhà chùa … dàn cảnh. Đến khi chết giữa biển và chết trên quê hương, Chu Tử vẫn tưởng Thích Thiên Minh bắn mình và Thích Thiện Minh vẫn tường nhà nước hại nhà chùa. Tôi, nhờ nhà tù, tai nghe rõ cộng sản xác nhận họ bắn Chu Tử. Họ gây xáo trộn tình hình Sàigòn. Từ đó, tôi nhận diện thủ phạm ám sát Nguyễn Văn Bông và Trần Văn Văn. Tôi vốn không ưa ông Kỳ và không hưởng bổng lộc gì của ông Loan, nhưng tôi muốn đóng góp một chút sự thật vào sự thật của lịch sử. Trong cuốn Một người tên là Trần Văn Bá, tôi viết ông Nguyễn Cao Kỳ và ông Nguyễn Ngọc Loan không hề ám hại nhà chính khách đối lập Trần Văn Văn. Thủ phạm vẫn chỉ là việt cộng, tác giả các vụ Chu Tử, Thích Thiện Minh, Nguyễn Văn Bông, Trần Văn Văn,… Phản ứng của bà Trần Văn Văn là, căn cứ vào một tờ báo lưu vong xuất bản tại Úc Đại Lợi, ký tên một tác giả không ai biết, vẫn khẳng định Kỳ, Loan giết chồng bà. Những ngộ nhận tại hai điển hình vừa kể, cần phải chấm dứt. Còn ngộ nhận là còn chơi trò chơi tạo mâu thuẫn của cộng sản.
– Tại sao anh dám ví cờ tổ quốc với xì-líp đàn bà có kinh?
– Tôi không biết trả lời.
Trả lời thế nào? Trả lời hôm nay, khi ngồi viết hồi ký ở Ivry Sur Seine rằng, tôi ví cờ tổ quốc của anh với xì-líp đàn bà có kinh vì tôi ghê tởm cờ tổ quốc anh. Tôi không ham nói phét, dẫu nói phét không bị đánh thuế và dẫu có thể được coi như ngục sĩ anh hùng. Cuộc đời đã thừa thãi những anh Rambo, chẳng nên thêm tôi. Ở cuốn Đàn bà, người đàn ông bị vợ từ chối không cho làm tình, gã hỏi “Hôm nay em kéo cờ cộng sản hả?”. Tôi dám ví cờ đỏ sao vàng với xì-líp đàn bà có kinh? Cộng sản chụp mũ tôi. Họ ví chứ tôi không ví.
– Anh chỉ biết viết?
– Tôi không biết trả lời.
– Anh không trả lời?
– Anh hiểu tôi khó trả lời mà.
– Anh cần suy nghĩ.
– Phải.
Hắn tống tôi vào cachot khu B, khóa chặt cửa gió, không cho tôi về 1C-1 thu dọn hành lý, không phát chiếu, không còng tay. Cuộc mạn đàm kết thúc như vậy. Tôi có dịp biết cachot. Và tôi bằng lòng ở cachot. Cachot là phòng lý tưởng của khách sạn quốc doanh đề lao. Đang nằm nghiêng trên hai gang chiếu ở cái phòng tập thể nhung nhúc tù nhân, nồng nặc mùi mồ hôi, hôi nách, ghẻ mủ, được nằm thoải mái một bục xi-măng láng coóng, yên tĩnh, cầu tiêu, vòi nước riêng, tôi cảm giác mình được cách mạng đãi ngộ. Đối diện dãy cachot nhốt tôi là các phòng tập thể khu B dành riêng cho nữ tù nhân. Tôi không nhìn thấy ai cả. Thú thật, lúc ấy tôi quên sợ hãi. Càng ở tù lâu, hai chữ cũng đành càng lớn và cảm giác sợ hãi nhỏ dần. Ngồi mạn đàm với đại diện của đảng cộng sản quang vinh, những mụn ghẻ mủ ở mông tôi vỡ ra, ướt nhẫy đít quần. Bây giờ, quần bám chặt vào mụn ghẻ tạo thành mảng mài lớn, khô cứng. Tôi không dám gỡ ra, sỡ máu sẽ chảy và lại thành mảng mài lớn. Với riêng nỗi khổ ghẻ mủ, tôi đã muốn ngồi lên mặt những đứa bịa đặt chuyện bêu nhục tôi ở tù bằng cái đũng quần cứng khô máu mủ. Nhưng mà tôi đã ngồi lên mặt chủ nghĩa cộng sản. Như thế hách hơn.
Người ta không cho tôi ăn cơm trưa, không cho cả nước sôi. Tôi ghé miệng vào vòi nước, vặn rô-bi-nê uống nước phông tên. Rồi tôi nằm duỗi chân, dang chân thoải mái mà ngủ. Cơn mưa lớn đã ru tôi ngủ ngon. Khi tôi thức giấc, mưa đã tạnh và ngọn đèn vàng trong cachot đã bật. Mụ cai ngục lùn, mắt lé mở khóa. Tên công an chấp pháp mặt rỗ huê đợi tôi bước ra. Hắn hỏi tôi:
– Anh suy nghĩ chưa?
Tôi nói:
– Đói quá, tôi không suy nghĩ được.
Hắn nín thinh dẫn tôi về khu C-1, giao tôi cho cai ngục. Tôi trở lại 1C-1 ồn ào và tiếc rẻ cachot khu B. Sáng sớm hôm sau, trước cả giờ báo thức, cai ngục gọi tôi ra làm việc. Tên công an rỗ hoa dẫn tôi ra khu A, tống tôi vào cachot. Nhờ ví cờ cộng sản với xì-líp đàn bà có kinh, tôi biết thêm cachot khu A, khu sát khít trường Hồ Ngọc Cẩn. Hôm nay tôi bị còng tay chéo sau lưng. Vẫn bị cúp bữa cơm trưa, cúp nước sôi. Chập tối, tên công an rỗ hoa lại dẫn tôi về khu C-1. Một tuần liền, sáng sớm tinh mơ tôi vào cachot, chập tối tôi ra cachot với vài kiểu còng tay, còng chân. Bố tôi, tháng 9-1975, đi lẻn vào Sàigòn, dạy tôi kinh nghiệm ngục tù: “Ăn ít, dù gia đình tiếp tế đầy đủ. Tập thắt dạ dày, vì, sẽ bị nhịn vài ngày”. Nhờ kinh nghiệm của bố, được … học tập ăn một bữa suốt tuần, tôi đã tồn tại.
Trò chơi của tên công an chấp pháp rỗ hoa đến đó là chấm dứt. Hắn không cho tôi ngủ đêm ở cachot. Hắn cũng quên hỏi tôi “Suy nghĩ chưa”. Tôi bị bỏ rơi ba ngày liền. Lúc này, Doãn Quốc Sĩ đã từ cachot 12 chuyển về cachot số 1 đối diện phòng tập thể của tôi. Trịnh Viết Thành, Hồ Văn Đông bị sang Sở Công An. Chuyến đi này có thêm Nguyễn Mạnh Côn. Bên cachot C-2, Như Phong vẫn khước từ viết tự khai. Bệnh ghẻ mủ của tôi không thuyên giảm. Có mòi tăng triển. Ghẻ báo động … đỏ. Mỗi tuần, vào buổi trưa nắng, đề lao cho tù nhân ra phơi nắng 10 phút. Phòng này vào, phòng kia ra. Tù nhân ngồi nguyên chỗ của mình. Các cửa gió của cachot đóng kín, đề phòng liên lạc bằng dấu hiệu. Mười phút nắng chỉ làm ghẻ buồn cười. Hôm tắm nắng, đồ đạc treo lên hết. Trực sinh rửa phòng và y tế xịt thuốc trừ chấy rận. Tôi khám phá ra sự thiếu máu. Ở ngoài nắng bước vô, mắt tôi mờ đi mấy phút. Tôi ôm mặt đứng. Cứ ngỡ mình đã bị lòa. Tôi thèm nói chuyện mắt với Doãn Quốc Sĩ. Anh ta không hề dán mặt vào ô gió cachot như những tù nhân khác. Sáng sớm, Sĩ chạy tại chỗ. Rồi thiền và ngủ. Vợ tôi vẫn tiếp tế đều đặn. Qua ba ngày không thấy tên công an chấp pháp rỗ hoa gọi ra, tôi ngỡ đã yên thân. Tôi nhầm. Cai ngục lại réo tên cúng cơm của tôi.
– Vũ Mộng Long.
– Có.
– Mặc quần áo ra làm việc.
Chú thích:
Viết tiểu thuyết, Như Phong ký Lý Thắng. Trường thiên tiểu thuyết Khói Sóng đăng dang dở trên nhật báo Tự Do trước 1963.

NHÀ TÙ: Chương 12

 

Bạn biết người y tá tù là ai không? Đoàn văn Toại, tác giả Goulag Vietnamien láo lếu đấy. Cái xó xỉnh đề lao Gia Định này là biểu tượng của nền ngục tù ô nhục của công sản ư? Đoàn Văn Toại chỉ quanh quẩn ở đề lao Gia Định. Anh ta bị bắt trước tôi vài tháng. Khi tôi đến đề lao, Đoàn Văn toại được ban phát ân huệ giúp việc Phòng Y Tế. Trưởng phòng Y Tế, bác sĩ Quang, y sĩ trung úy Thủy Quân Lục Chiến … nằm vùng. Sau 30-4-1975, anh ta mang quân hàm trung úy công an. Có lẽ, Quang là bí danh của anh ta. Đoàn văn Toại nghiền, tán thuốc dân tộc và phát thuộc các phòng tập thể C-1. Anh ta chưa được bén mảng ở cửa cachot. Toại hưởng quy chế ăn uống, tắm giặt thoải mái trên Phòng Y Tế. Mỗi tuần, Toại ra cổng trại, nhận thuốc của thân nhân tù nhân đăng ký. Bề ngoài nhận xét, Đoàn Văn Toại có vẻ là một cán bộ bị kỷ luật hơn một tù nhân chính trị. Lý do nào anh ta được cộng sản tin cẩn, tôi không hiểu. Toại biết thân, biết phận, không bàng nhàng với anh em. Một cách vô tư mà nhận xét, dưới mắt tôi, Đoàn văn Toai chỉ khúm núm cầu an. Anh ta chưa hề hại ai. Mà cũng chẳng ai có thể hại ai ở trong tù. Những kẻ xử dụng ngôn từ đao to búa lớn “Bước lên xác anh em, bán xác anh em” là những kẻ gian dối. Nó đã chứng tỏ kiến thức nhà tù cộng sản quá thấp. Cộng sản không bao giờ tin cả những tên họ xử dụng làm tai mắt cho họ. Hễ tên “ăng-ten” báo cáo một tù nhân nào, ít nhất, hai tù nhân khác bị gọi ra làm việc trước. Và câu hỏi như vậy: “Anh thấy anh X có khả năng làm việc đó, nói điều đó không?” Nếu hai tù nhân “chứng nhân” trả lời “không”, tù nhân bị báo cáo bình yên, và tên “ăng-ten” viết tự kiểm. Tôi đã trải qua ba nhà tù lớn nhất và hãi hùng nhất của miền Nam, tôi chưa thấy một tù nhân nào bị chết vì bị “ăng-ten” báo cáo. Tôi cũng chưa thấy một tù nhân nào được thả sớm nhờ làm “ăng -ten”. Chuyện “ăng-ten” là chuyện nhỏ nhặt đấy. Bạn còn nhớ Vũ Thành An, tác giả Những bài ca không tên chứ? Tất cả viên chức cao cấp “ngụy quyền” ở Lòng Thành đều rõ. Vũ Thành An đã sáng tác ca khúc có đoạn:
… Nay mới rõ, đế quốc Mỹ là quân xâm lược
Nay mới rõ, lũ ngụy quyền là lũ tay sai
Bao nhiêu năm mình cúc cung phục vụ miệt mài …
Nhờ ca khúc … nín thở qua câu này, Vũ Thành An ho lao đỡ phải vác cuốc, ngồi nhà làm Thông Tin Văn Hóa tù. Rốt cuộc, anh ta vẫn bị đày ra Bắc và trở về bệnh hoạn tiều tụy. Người ta có nỡ kết án Vũ Thành An làm “ăng-ten”, Vũ Thành An “bán xác anh em” không? Vẫn ở trại cải tạo Long Thành, bác sĩ N. Ng. T. (hiện đang định cư ở Mỹ) phục vụ tại bệnh xá tù, đã tình nguyện vác cả tủ lạnh, ti vi đem vào dâng Trưởng trại Ba Tô để hưởng nhàn, để tích trữ thuốc và để Chánh án Đào Minh Lượng mất nửa lá phổi, để Vũ Thành An ói máu thì sao không ai nói? Chưa đủ đê tiện, bác sĩ T. còn dụ đưa Ba Tô về Sàigòn chơi, cho Ba Tô ăn uống no say, để được ngủ với vợ. Và bầy trò khám các nữ tù trại Long Thành để bọn cai tù … coi xi nê thỏa thích 1. Sao không nghe ai nói nhỉ? Tôi sẽ bênh vực đến cùng, nếu ai bảo Đoàn Văn Toại làm “ăng-ten”. Toại, ban ngày, ở ngoài phè phỡn, ban đêm, vào phòng 7C-1. Phòng 7C-1 có phóng viên lùn Văn Chi, dũng sĩ quốc gia đã đánh hai Pháp kiều thân Cộng treo cờ Giải Phóng ở trung tâm Sàigòn trước 1975. Sau năm 1975, Văn Chi bán phở và tham gia tổ chức phản động. Anh ta đã “chào mừng” tôi bằng trái xoài nhờ Đoàn Văn Toại chuyển. Phòng 7C-1 có tỷ phú Phạm Quang Khai, vua tàu dầu, tư sản mại bản. Ông Khai có 50 chiếc tàu chuyên chở dầu chiến lược. Ông không tin thủy thủ đoàn Việt Nam, chuẩn bị một chiếc tàu với thủy thủ đoàn Đại Hàn. Chổi cùn, dế rách ở biệt thự nguy nga số lẻ đường Công Lý, đối diện trường Régina Mundi, được khuân hết xuống tàu. Vợ con ông đã đi từ khuya. Ngày 29-4-1975, ông khệnh khạng xuống tàu. Thủy thủ đoàn Đại Hàn ớn cộng sản đã chuồn rồi. Ông tỷ phú đứng khóc. Ông muốn điên. Ông lú lẫn. Ông không kiếm người khác. Ông sợ tàu… chìm. Và ông … vào tù y hệt tinh thần luân lý giáo khoa thư: “Ba quan đắt quá, thà chết còn hơn”. Phòng 7C-1 có cụ Cao Văn Diên, phản động già và cụ Trần Văn Liễu, phản động gân. Nhân vật Cao Văn Diên hiện diện trong Goulag Vietnamien của Đoàn Văn Toại như một ông già bị bắt oan và chết tại đề lao Gia Định. Sẽ đề cập sau.
Nhờ thảnh thơi ban ngày ngoài phòng giam, Đoàn văn Toại đã thoát dịch ghẻ 1976 kéo dài từ tháng 4-1976 đến tháng 10-1976. Cuối năm 1976, Toại bị tống vào phòng vì sự liên hệ lèm nhèm nào đó. Chức vụ y tá C-1 rơi vào tay Lý Sen, chủ nhà băng Đông Nam Á, tư sản mại bản Chợ Lớn. Đoàn Văn Toai bắt đầu bất mãn. Vợ anh ta, quốc tịch Pháp, con gái nhạc sĩ Võ Đức Tuyết, đã ẵm con sang Tây. Toại ở chung phòng với Đặng Giao bên khu A. “Ngày nào thành công, tôi sẽ sản xuất một loạt cầu tiêu hình đầu Hồ Chí Minh. Cái miệng lão là chỗ phân rơi xuống!” Đoàn Văn Toại tâm sự với Đặng Giao và Đặng Giao kể lại ngày chúng tôi tái ngộ ở Chí Hòa. Rồi Toại được thả, được leo lên máy bay Air France, đoàn tụ gia đình. Tôi vượt biển sang Pháp, biết Đoàn Văn Toại đã kể chuyện đề lao cho Minh Đức Hoài Trinh và Minh Đức Hoài Trinh thông dịch cho một ký giả Tây. Và Goulag Vietnamien xuất bản. Tôi lại biết Toại đã vận động định cư ở Mỹ và theo Trương Như Tảng. Tảng theo Hoàng Văn Hoan, chỉ chống tập đoàn Lê Duẩn – Trường Chinh, chứ không chống cộng sản Việt Nam. Họ đã xác định lập trường. Hồ Chí Minh vẫn là xác chết được tôn thờ. Cậu Đoàn Văn Toại từng bầy tỏ chí khí “Sản xuất một loạt cầu tiêu hình đầu Hồ Chí Minh. Cái miệng lão là chỗ phân rơi xuống”. Bây giờ, cậu Đoàn Văn Toại “phản tỉnh”, “thức tỉnh”, cậu hò hét “Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp chúng ta”. Giữa Toại và tôi đã có biên giới.
Mùa thu 1985, Đoàn Văn Toại, qua Paris, với tư cách cựu tù nhân đề lao Gia Định, mời tôi ăn tối. Với tư cách cựu tù nhân đề lao Gia Định, tôi nhận lời. Chúng tôi hẹn nhau ở quán Đào Viên quận 13. Đoàn Văn Toại tặng tôi cuốn Goulag Vietnamien. Tôi nói:
– Tôi đã đọc. Sách của cậu đáng liệng vào thùng rác. Vì có những ba điều bố láo. Một: Ở đề lao Gia Định, giấy và bút bị nghiêm cấm. Công an kiểm tra hành lý tù thường xuyên, cậu đào đâu ra giấy bút mà lập kiến nghị? Rồi tù nhân bị nhốt kỹ 24 trên 24, cậu liên lạc với ai mà xin được hàng trăm chữ ký? Hai: Cụ Cao Văn Diên phản động nặng, cụ bị đầy lên Pleiku và chết tại Gia Trung, cậu bảo cụ ấy chết ở đề lao. Cậu được tha, cụ Diên vẫn còn nằm ở đề lao. Cụ Diên rời đề lao sau 2-9-1977. Ba: Cậu quả quyết tôi chết rồi. Còn rất nhiều bố láo. Ba điều thôi đã đủ liệng sách “Chứng nhân” của cậu vào thùng rác. Tôi sẽ chửi nhà xuất bản Laffort cái tội rủa tôi chết.
Đoàn văn Toại cười cầu tài:
– Tôi kể đại ông ơi!
Tôi nhìn thẳng mặt anh ta:
– Điều nầy ngoài cuốn sách. Cậu là thằng bất nhân. Đã cho tôi chết, cậu còn bảo tôi làm “ăng-ten”
Toại chối:
– Tôi thề với ông, tôi không hề bêu nhục ông. Đứa nào nói với ông vậy?
Tôi chậm rãi:
– Bạn cậu, Vũ Ngọc Yên, tạp chí Độc Lập bên Đức.
Đoàn Văn Toai câm họng. Tôi cười xòa và bốc anh ta chín từng mây. Toại khoái chí chửi Trương Như Tảng cù lần, Hoàng Văn Hoan đần độn, Nguyễn Công Hoan ngu dốt, Tô Văn cố đấm ăn xôi… Anh ta nói về đài phát thanh sẽ lập ở Tân Gia Ba, gợi ý mời tôi bằng cách than thở thiếu nhân tài. Nội tình của phe nhóm anh ta, anh ta kể vanh vách. Tôi nghĩ thầm: Mẹ kiếp, mày nhóc tì, tuổi ít hơn ông, ngu hơn bò mà cứ đòi đi mưu cầu hạnh phúc cho dân tộc ông à? Ông vừa trổ đòn nhà báo, mày đã tự khai vung xích chó. Hết chai rượu đỏ, tôi nói:
– Thôi nhé, chut tình đồng tù đề lao đến đây chấm dứt. Cậu đi đường cậu, tôi đi đường tôi. Mai này tôi đánh, cậu rán mà đỡ. Tôi thích sòng phẳng.
Chúng tôi chia tay. Ít tháng sau, Toại gửi cho tôi một bức thứ từ Liễu Châu. Anh ta ba hoa: “Đã thăm mộ các liệt sĩ quốc gia, sẽ không còn sai lầm như họ”. Tôi suýt chửi thề. Đó, người y tá tù đề lao Gia Định khu C-1, nhà cách mạng lưu vong Đoàn Văn Toại, với đầy đủ tài năng và tư cách, người đang chu du thế giới bằng tiền Tàu, tranh đấu cho giấc mộng Tôn Sĩ Nghị cùng đám Hoàng Văn Hoan, Trương Như Tảng. Và tôi, tôi ngồi trên lầu 8 của cái immeuble bên bờ sông Seine, thành phố có thị trưởng Jacques Laloe, là đảng viện cộng sản, có tổng hành định của Georges Marchais, Tổng bí thư Đảng cộng sản Tây, viết sách mưu sinh. Bởi nghèo, nên bị cư trú tại Ivry Sur Seine. Bởi chống cộng, nên bị Jacques Laloe lờ tít mọi trợ cấp xã hội, y tế. Không sao, tôi đã chống cộng, tôi đang chống cộng, tôi còn chống cộng đến tối. Tôi anh dũng thấy mẹ, tôi chống cộng trong lòng địch!
Trở lại đề lao Gia Định, nơi tôi đang học môn Thống Khổ Nhập Môn. Tôi ở 6C-1 đã 2 tuần, đã quen với sinh hoạt phóng này. Tôi không còn gớm ghiếc nhìn đống mài ghẻ mà trực sinh quét gom buổi sáng. Bạn thử tưởng tượng mài ghẻ mủ và mủ ghẻ dính nhớp nhúa trên bục nằm, mỗi sáng. Người ta phát cho chúng tôi miếng bố tời, vừa để chùi chân bước lên cầu tiêu vừa để lau bục nằm. Ở đề lao, dép cất kỹ trong bị, chỉ mang khi bị gọi lên phòng chấp pháp làm việc. Làm việc, danh từ cộng sản, có nghĩa là làm việc với công an, có nghĩa là viết tự khai và chịu đựng những cuộc thẩm vấn điên đầu. Người cộng sản chơi chữ rất xảo quyệt. Một ông Ba Tàu đã phát biểu ý kiến ở phòng B, Sở Công An: “Lù má ló, pắt pỏ tù lại pảo li học tập. Lấy cung lại pảo làm việc. Nhà tù lại pảo trường học. Cai ngục lại pảo quản giáo, cán pộ!” Chữ nghĩa của cộng sản đã huyễn hoặc thế giới. Cho đến hôm nay, báo chí người và cả báo chí mình vẫn viết nhà tù, trại tập trung khổ sai lao động là Trại học tập cải tạo! Ở khắp nơi tôi đi làm chứng nhân, người ta đều hỏi tôi: “Ông được học tập ra sao?” Và tôi đã trả lời: “Tôi chẳng được dạy dỗ gì cả. Người cộng sản có một mục đích rõ rệt. Họ làm chúng tôi sợ hãi, bắt chúng tôi khổ cực và bỏ chúng tôi đói. Càng kéo dài sự sợ hãi, khổ cực và đói, chúng tôi càng sa sút tinh thần. Khi biết chúng tôi tàn lụi ý chí phấn đấu, đó là lúc họ thả chúng tôi về. Và họ đã đạt kết quả. Đa số, chúng tôi về mất trí, thành phế nhân. Có nhiều người đã được xuất ngoại chính thức theo chương trình ODP, sang Mỹ, sang Tây … vẫn chưa hết ngẩn ngơ, ngơ ngác. Chúng tôi học tập sợ hãi, khổ cực và đói. Bất cứ tù nhân nào vượt qua sợ hãi, khổ cực và đói, thì sẽ tự học ở đó những ý nghĩa rạng ngời của cuộc sống, của lý tưởng chiến đấu cho tự do, dân chủ và nhân quyền.” Tôi không dám nói thêm: “Nhưng không dám vượt qua sợ hãi, khổ cực và đói thì sẽ ăn vụng thịt dưới bếp, ăn cắp cơm cháy, ăn tranh phần cơm heo và tự đòng hóa mình với súc vật”. Vậy thì, làm việc là danh từ hãi hùng của tù nhân. Bạn sẽ mệt lữ cò bơ với làm việc. Làm việc ở đề lao Gia Định, là bị truy nã dĩ vãng, hiện tại; ở Chí Hòa là bị đánh học máu mồm; ở các trại tập trung là vào nhà lô, ăn đòn nhừ tử.
Tôi chưa bị ghẻ. Hồng Dương đã bắt đầu. Nhờ không biết ăn mắm ruốc và cá biển, một vài mụn ghẻ nước của tôi chịu thuốc xanh ngay. Tôi dùng mũi kim băng khều mụn, nặn đến máu chảy ra rồi thấm khô, chấm thuốc. Là mụn ghẻ mọc mài. Mỗi tù nhân đề lao đều có một cái kim băng và phải dấu kỹ. Khi bị ngứa, ngày cũng như đêm, tôi lấy bàn chải đánh răng chà lên chỗ ngứa. Nếu gãi bằng móng tay, gãi cho đã, da sẽ bị xước. Và chỉ cần da xước một tí là ghẻ mủ cấp kỳ. Ghẻ nhà tù “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc” hơn xã hội chủ nghĩa. Hàng chục thứ bệnh truyền nhiễm ở phòng giam tập thể, nhưng tù nhân không được chích thuốc ngừa. Sự khôn ngoan chống ghẻ của tôi bắt tôi phải đánh răng bằng cái bàn chải tôi đã gãi khắp thân thể. Không có sự khôn ngoan nào không bị trả giá. Sự khôn lớn của con người bị trả giá đắt nhất. Phòng 6C-1, ngoài mấy tên trộm cắp vô lại, mấy tên Mafia cơm nước, mấy “chuyện buồn nhỏ nhặt”, không đáng chi phải để phòng. Tôi yêu nhóm anh em trẻ phản động Hóc Môn, Bà Điểm. Người của Mười tám thôn vườn trầu đã được hai kép hát Út Trà Ôn và Thành Được diễn tả điêu luyện và rung động trong Người ven đô như những chiến sĩ “Chống Mỹ cứu nước” phi thường lại cũng chống cộng cứu nước phi thường. Nếu tôi đã ngờ vực Trương Phiên, tôi hoàn toàn ngưỡng mộ và tin tưởng tinh thần chống cộng của nông dân trẻ miền Nam. Bắt đầu, ở phòng 6C-1, tôi suy nghĩ về cuộc tân cách mạng Tây Sơn 2. Tôi đã nói chuyện nhiều với nhóm anh em Mười tám thôn vườn trầu. 6C-1 có một người tên Nga, tâm sự na ná Moritz của Gheorghiu. Anh ta nuôi heo cho một chủ trại ở Thủ Đức. Vợ anh ta đã chết. Anh ta làm gà trống chăm sóc đứa con gái 8 tuổi. Chủ trại bị bắt. Anh Nga bị bắt theo. Người ta chụp lên đầu anh cái mũ phản động … nuôi heo để dễ ăn cướp bầy heo. Anh Nga xin đem con gái vào tủ. Người ta từ chối. Cả ngày, anh ta ngồi xổm trên thành hồ nước hết khóc lại thở dài. Này bạn chống cộng sản và bạn thân cộng sản, có bao giờ bạn thấy một người vô sản ngồi khóc nhớ con trong nhà tù cách mạng vô sản về tội nuôi heo? Chẳng bao giờ bạn thấy cả. Vì bạn không bao giờ ở tù cộng sản. Vậy bạn nên suy nghĩ về cái gọi là bản chất và hiện tượng cộng sản, xuyên qua thân phận người vô sản cùng khốn tên Nga. Chừng suy nghĩ đắn đo, chín muồi, bạn sẽ có thái độ chính trị quyết liệt, dù chống cộng hay thân cộng. Tôi vốn khinh bỉ mọi sự làm dáng chính trị. Nó không thấm khô nước mắt của anh Nga nuôi heo, nó không lau sạch mủ ghẻ trên bục xi măng nhà tù.
Tôi chưa kể chuyện người bạn tuổi nhỏ của tôi, nhà văn Từ Kế Tường, cũng bị bắt, bị đưa về đề lao Gia Định và đã tạm trú ở 7 C-1. Từ Kế Tường trốn quân dịch. Giám đốc Nha Quân Pháp của Bộ Quốc Phòng ký cho cậu ta đầy đủ giấy tờ hợp lệ như một sĩ quan. Từ Kế Tường lãnh lương và đóng thêm tiền mồ hôi nước mắt, nộp cho cai thầu lính kiểng. Cậu ta mặc quân phục, mang phù hiệu quân pháp, đeo lon thiếu úy công khai. Sau hai năm, lên trung úy. Từ Kế Tường dại dột diện quân phục về ngõ nhà mình. Khi các sĩ quan đi trình diện học tập hết, không thấy Từ Kế Tường ra đi, mấy đứa ác độc gần nhà cậu ta tố cáo cậu ta trốn học tập cải tạo. Từ Kế Tường bị bắt. Nằm đề lao chưa kịp ghẻ, nhờ ông bố tập kết bảo lãnh nên hồ sơ… lính kiểng được cứu xét lẹ. Từ Kế Tường về đời xã hội chủ nghĩa, làm tới chức Chủ nhiệm Nhà Văn Hoá quận 4. Báo Tuổi Ngọc phá kỷ lục vào tù. Chủ nhiệm Duyên Anh, chủ bút Đinh Tiến Luyện, thư ký tòa soạn Từ Kế Tường. Cuối năm 1981, được tin tôi ra trại, Từ Kế Tường, Nguyễn Thanh Trịnh, Đinh Tiến Luyện đến thăm tôi. Luyện đã phiêu lưu các trại tập trung Suối Máu, Bù Gia Mập, Tống Lê Chân và làm nghề buôn bán hạt giống, nước mắm. Trịnh làm công nhân xưởng dệt quốc doanh, cộng tác với báo Tuổi trẻ. Pham Đình Thống bán thuốc tây chợ trời. Chúng tôi vẫn dành cho nhau nguyên vẹn tình cảm nhưng tư tưởng đã tạm ngăn cách. Và đó là nỗi buồn của chúng tôi. Pham Đình Thống khấm khá nhờ những kinh nghiệm và thủ đoạn chợ trời. Trước ngày tôi bỏ Sàigòn, Thống mở hiệu bán thuốc với công ty bằng hữu ở đường Đồng Khánh. Chẳng biết hiệu thuộc của Thống còn tồn tại? Từ Kế Tường đã bị loại khỏi sinh hoạt văn nghệ. Nguyễn Thanh Trịnh mỗi năm chỉ được đăng hai truyện ngắn ca ngợi lao động sản xuất. Đinh Tiến Luyện vượt biên hoài không nổi, đành kết hôn với một nữ thuyền nhân hụt và yên phận chọn Tam Hiệp, Biên Hòa. Luyện đã có con gái đầu lòng. Cuộc đời đã đổi thay hết.
Một thứ không hề thay đổi. Là cung cách chiến đấu chống cộng sản. Một thứ dừng lại. Là tư tưởng văn chương của các tiên chỉ, lý trưởng văn nghệ. Một thứ trở về. Là lối kiếm tiền chụp giật để chóng giàu. Một thứ tiến bộ. Là tinh thần ăn cắp, ăn quỵt, chụp mũ.
Đầu tuần lễ thứ ba, sau khi điểm tâm, chúng tôi được lệnh chuyển trại cả phòng. Lệnh khẩn trương. Tù nhân hạ bị, giỏ, tháo gỡ hết giây, gom góp mọi đồ “tế nhuyễn”, đem ra xếp thứ tự thành một hàng dài ngoài hành lang. Tất cả sợ hãi và băn khoăn. Ngày mai thăm nuôi, chuyển trại đột xuất, chưa kịp báo tin, vợ con khuân quà cáp tới sẽ mất công khuân về và sẽ lo lắng không hiểu chồng, cha mình ở đâu. Như ở bên Sở, tù nhân được nhận quà của gia đình mỗi tuần một lần. Ngày này, danh từ cộng sản gọi là ngày thăm gặp. Thực ra, không có thăm, cũng chẳng có gặp. Thân nhân bỏ quà cáp (thịt khô, mì vụn, mắm ruốc, nước mắm, kẹo bánh, cà phê, thuốc lá, thuốc bệnh, thuốc rê, thuốc lào, giấy quấn, diêm quẹt, trái cây… và 10 đồng) vào bị cói hay túi vải, túi phân bón, kèm tấm giấy ghi các món quà. Công an kiểm soát các món ở sân ngoài, rồi ký tên xác nhận lên tấm giấy “danh sách quà cáp”. Món nào cấm, công an gạch xóa. Được nhận quà, thân nhân tin là tù nhân không bị kỷ luật, bèn về ngay. Những người được Sở cho phép gặp tù nhân thì ngồi chờ trong phòng khách. Các Trưởng phòng khiêng những túi quà vào một căn nhà khám xét quà cáp của khu mình. Đề lao Gia Định có ba khu, mỗi khu một ngày nhận quà. Ở căn nhà khám xét, công an chiếu cố quà cáp kỹ lưỡng. Món nào dính dáng tới nước mắm, bị đổ ra cái thau nhựa. Đũa, muổng, dĩa khoắng, quậy, gắp, rỉa xem có thư gửi lén. Rồi lại dồn vô túi ni-lông. Thịt kho ướp mắm ruốc, cá kho là vì cái thau nhựa bới tung mắm ruốc, cá kho bới tung thịt.. Đường, cà phê… bị nắn bóp. Bánh chưng bị cắt làm tư. Quà tù nghe chừng cũng đau đớn. Dưới mắt công an cộng sản, cái gì của tù nhân phản động đều … phản cách mạng cả. Thuốc lá bị xé bao, dẫu là thuốc lá cách mạng, dồn vào túi ni lông. Dồn cả 200 điếu. Vẫn thuốc lá ấy, nhà tù mua giùm tù nhân thì để nguyên trong bao! Khám xét … nát quà cáp, rồi vất bừa vô bị, vô giỏ. Lúc ấy, trưởng phòng khiêng về cửa phòng theo tên tù nhân và số phòng. Cai ngục mở cửa. Tù nhân dở đồ ra sắp xếp. Chuối là dập nát. Xoài là dập nát. Bún chả tanh mùi cá. Phở xào nặng hương vị mắm tôm. Mì vụn vương đầy thuốc rê. Thăm gặp, dùng chữ của công sản, là một thủ đoạn. Đừng tưởng cộng sản ban phát ân huệ. Thăm gặp nhằm những mục đích:
° Chính sách cải tạo của Đảng và Nhà Nước nhân đạo.
° Đỡ tốn thức ăn và thuốc men.
° Tù nhân dinh dưỡng bằng thực phẩm của gia đình mình sẽ khỏe mạnh để ở tù lâu.
° Cho tù nhân hưởng phè phỡn thành thói quen. Sẽ dọa cúp thăm gặp làm áp lực tình cảm và vật chất.
Bởi vậy, ngoài thăm gặp hàng tuần, còn cho mua hàng hóa hàng tuần. Tù nhân sợ chuyển trai, phần lớn, vì sợ mất liên lạc gia đình, ít ra, nửa tháng. Đến trại mới được gửi quà.
Sau khi tù nhân ra ngoài hết, cửa phòng khóa chặt. Mỗi tù nhân đứng cạnh hành lý của mình. Cai ngục điểm số. Chúng tôi, từng người đọc tên và số thứ tự xếp hàng.
– Số 1, Vũ Mông Long.
– Số 2, Nguyễn Thanh Chiểu.

– Số 52, Lâm Văn Thế.
Điểm số xong, cai ngục nói:
– Các anh nhớ số của mình.
Cửa phòng lại mở. Chúng tôi nhận lệnh trở vào. Cai ngục gọi:
– Số 1.
Tôi hô “có” và đi ra. Cai ngục bắt tôi đứng nghiêm, dơ hai tay lên. Hắn rờ nắn thân thể tôi khám xét túi quần, túi áo tôi. Những tên vệ binh đeo súng ngắn, đứng canh chừng. Khám người xong, cai ngục bảo tôi đổ từng đồ “tế nhuyễn” ở túi, bị, giỏ ra. Hắn kiểm soát từng món, cật vấn đủ điều. Thư vợ tôi gửi, cai ngục tịch thu. Ảnh vợ con tôi, hắn giữ lại “nghiên cứu”. Hành lý của tôi bừa bãi trên nền xi măng của hành lang khu C. Cai ngục hạ lệnh “Khẩn trương”. Tôi quơ vội nhét vào giỏ, bị. Nước mắm lẫn với quần áo. Tôi được đem hành lý vào phòng. Tù nhân thứ hai, Nguyễn Thanh Chiểu, bị gọi ra. Cứ vậy, tới tù nhân số 52. Một buổi tổng kiểm tra phòng. Cai ngục nói dối chuyển trại để tù nhân có cất dấu cái gì trong phòng cũng sẽ phải thu quén bỏ hết vào bị. Thêm một thủ thuật. Thủ thuật biến ảo. Nó không thành qui luật chết. Nên tù nhân mắc bẫy dài dài. Lần sau chuyển trại thật sự, tù nhân tưởng tổng kiểm tra, công kênh nhau dấu những thứ cần dấu trên những xà gỗ trần phòng. Thế là vất lại những gì đã dấu. Nửa tháng, có khi một tuần, tù nhân, tiếc rẻ món này bị tịch thu, mừng húm món kia thoát nạn. Là đầu óc bớt căng thẳng, sự nổi loạn ở phòng giam được bảo đảm. Tôi đã nhìn rõ tôi qua hình ảnh Thanh Thương Hoàng, Nguyễn Hải Chí và tất cả tù nhân đề lao ngoài ánh sáng. Mặt chúng tôi trắng bệch, ngơ ngác. Mới đứng tại hành lang khám tư trang của tù nhân đã thấy mình hèn mọn. Mọi sự hung hăng biến đâu mất. Tôi chợt nhớ bài thơ L’albatros của Beaudelaire. Con hải âu đã rơi xuống sàn tàu. Tôi chợt nhớ bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ. Con hổ đã nằm trong chuồng. Tôi chợt nhớ thiên hồi ký ngắn của Nguyễn Mạnh Côn, nhắc lại kỷ niệm ở tù Việt Minh với nhà văn Trọng Lang 3. Anh Nguyễn Mạnh Côn, viết rất thật, rất người rằng, vì thương con, Trọng Lang đã lạy cộng sản để nó đừng giết mình. Trọng Lang đã phản ứng bằng cách miệt thị Nguyễn Mạnh Côn nói láo. Tôi vừa tìm ra sự thật. Chưa có ai lạy cai ngục cả. Nhưng tất cả đều lễ phép khi bị cai ngục cật vấn, xét hành lý. Tôi lại chợt nhớ lời khuyên của Thanh Thương Hoàng bằng thơ Sông Hồ “Chuyện buồn nhỏ nhặt liệu mà quên”.
Chúng tôi ăn cơm trưa muộn. Vì bận bịu sắp xếp và treo hành lý tù. Buổi trưa, không ngủ, tôi mò sang chỗ ông Lâm Văn Thế đánh cờ tướng. Đánh cờ để tâm sự. Chúng tôi nói thật nhỏ.
– Ông Thế, ông nghĩ bao lâu họ thả chúng ta?
– Chịu. Không ai đoán nổi. Mọi suy nghĩ về cộng sản của người quốc gia đều sai hết. Ông sẽ đi lao cải, sẽ về, tùy vào sự ổn định tình hình sớm hay muộn.
– Còn ông?
– Tôi sẽ ở đây với các ông Thái Đen, Nguyễn Thiện Giai, Như Phong chờ phép lạ. Hai nơi đến và đi của chúng tôi: Sở và Đề Lao. Người ta không cho chúng tôi ra ánh sáng đâu.
– Tại sao?
– Chúng tôi là tự điển!
Tự điển, ông Lâm Văn Thế, thiếu tá cảnh sát đặc biệt giải thích:
– Tôi đặc trách một cụm tình báo. Rất nhiều cộng tác viên tình báo không có tên. Họ lãnh lương bằng hàng trăm mật danh ổi, xoài, mít… Tôi cũng không thể biết mặt họ toàn thể. Một số nào quan trọng thôi. Cơ quan của tôi, kẻ đã di tản, người trốn trình diện. Và tôi bị bắt ngay đêm 30-4. Tình báo đánh giá đúng mức tình báo. Họ dùng tôi làm tự điển.
– Họ tra … ông?
– Phải. Bắt được nhân viên của tôi trốn trình diện hay một người họ ngờ vực là cộng tác viên của tôi, trước hết, họ khai thác người bị bắt. Nếu người bị bắt chối, họ bảo người bị bắt làm tự khai danh dự, chấp nhận mọi hậu quả nếu gian dối. Rồi họ gọi tôi ra. Họ nêu tên tuổi người bị bắt, hỏi tôi có quen biết không. Tôi nói không quen, họ dẫn tôi về phòng. Rồi họ lại gọi tôi ra, cho tôi gặp mặt người mà tôi nói không quen biết. Họ quan sát mặt chúng tôi, cử chỉ của chúng tôi để tìm ra sự thật.
– Nếu ông trả lời ông quen biết?
– Thì người chối không hề quen biết tôi can tội gian dối. Và anh ta đích thị là công tác viên tình báo.
– Có trường hợp ngược?
– Có chứ. Tôi đâu biết người bị bắt khai làm việc với tôi, tôi nói không quen. Họ dí vào mặt tôi tờ tự khai và dẫn người bị bắt ra gặp tôi.
– Rồi sao?
– Tôi bắt buộc phải làm tự điển trung thực.
Ông Thế buồn bã:
– Với công ăn ở bất cứ chế độ nào ông có thể dấu diếm được tư tưởng trong đầu óc ông mà không thể dấu diếm được các sự việc đã xảy ra. Ngoài tôi, còn các cuốn tự điển khác mà tôi không biết. Có lẽ, họ cũng bị bắt sớm như tôi. Cá nhân tôi, tôi cũng chẳng rõ ai chạy thoát, ai kẹt lại, ai trình diện, ai bị bắt, ai còn lẩn trốn. Họ sợ tình báo, họ cần quét sạch tình báo, từ lính đen sĩ quan, từ gác cổng đến bưng nước văn phòng.
Tôi hỏi:
– Như Phong dính dáng tình báo?
Ông Thế đáp:
– Ông ấy là tự điển Việt Nam Quốc Dân Đảng.
Tôi đã thấy Trịnh Quốc Tài tự tra … tự điển bên Sở Công An. Và tôi đã thấy ông ta tra bạn tôi, Thanh Thương Hoàng.
– Họ cũng tra tự điển tôi về các nhà văn, nhà báo. Cơ quan của tôi không phụ trách “hồ sơ” văn nghệ sĩ.
Chúng tôi ngừng cuộc cờ. Tôi trở lại chỗ của tôi, ngồi dựa lưng vào tường suy nghĩ. Có hai đối tượng cộng sản đang truy lùng: Tình báo và đảng phải. Cộng sản thù hận các đảng Đại Việt, Duy Dân, Việt Nam Quốc Dân Đảng. Đó là mối thù “truyền kiếp”. Rất nhiều đảng viên của ba đảng này không trình diện và tiếp tục chống đối cộng sản. Cụ thể hóa sự sợ hãi và lòng thù hận của cộng sản là Mai Chí Thọ đã đích thân chỉ huy cuộc hành quân, vây bắt trọn vẹn đàn ông (thanh niên, phụ lão) của hai làng Sống Vinh (Bà Rịa), hai làng do Việt Nam Quốc Dân Đảng thành lập trong kế hoạch khẩn hoang lập ấp của Phan Quang Đán. Họ sợ hãi những nhân vật chìm, những con bài chưa lật tẩy. Thứ đã lật tẩy, đã om sòm tên tuổi cỡ Vũ Hồng Khanh, Hà Thúc Ký, Đặng Văn Sung, Phạm Huy Cơ, đi hay ở, chẳng có gì quan trọng. Vũ Hồng Khanh, kẻ ngang vai vế với Hồ Chí Minh (Ở bối cảnh lịch sử 1946, còn trên cơ là khác), đã lẽo đẽo đi trình diện, đã trả lời câu hỏi “Tai sao ông chống cộng?” của tên thiếu tá quân đội nhân dân như vầy: “Sống dưới chế độ miền Nam, không chống cộng là chết!” Câu trả lời bất hủ nầy phẩm định giá trị chiến đấu của đại lãnh tụ quốc gia. Ông Vũ Hồng Khanh đã già lắm, đáng lẽ, ông đã khước từ trình diện và chỉ chấp thuận trả lời Phạm Văn Đồng, Trương Chinh. Ông đã sợ … chết già. Ông ta ham sống như bọn lãnh tụ già bất tài vô tướng ham sống vậy. Câu trả lời bằng tiếng nói đích thực của Vũ Hồng Khanh đã được truyền thanh khắp nước, ròng rã hàng tháng. Biểu tượng quốc gia bị bêu nhục. Ông giáo Giản 4 đã tiêu diệt các đảng phải quốc gia nhỏ để Việt Nam Quốc Dân Đảng của ông chiếm đa số ghế trong Quốc Hội bịp 1946. Ông giáo Giản suýt thủ tiêu Nguyễn Mạnh Côn (Việt Nam Phục Quốc Đảng), nếu Nguyễn Tường Tam không kịp can thiệp 5. Nhà lãnh tủ đa sát này đã đứng giữa hoàng hôn giăng giối: “Sống dưới chế độ miền Nam, không chống cộng là chết!” Chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy Nguyễn Tú (ký giả nhật báo Chính luận, tên thật Nguyễn Ngọc Tú, nhân vật quan trọng của Đại Việt quan lai, từng chấp chính giữ ghế Tổng Giám đốc Nha Thanh Niên thời Tổng Trưởng Nguyễn Văn Kiểu) bị bắt ngay đêm 30-4-75 mà Phan Huy Quát, cựu Thủ tướng, Chủ tịch Liên Minh Á Châu Chống Cộng vẫn đạp xe mini suốt tháng 5-1975, Tự điển người! Ghê gớm thay thủ đoạn cộng sản. Tôi bắt đầu lo ngại cho Thanh Thương Hoàng.
Anh ta đã thức giấc đúng lúc nước sôi buổi chiều vào. Thanh Thương Hoàng pha cà phê mời tôi uống.
– Vụ ấy, mày không nhận là may. Anh em bảo mày OK.
Tôi ngẩn tò te.
– Vụ nào?
Thanh Thương Hoàng cười ruồi:
– Vụ anh em đưa vợ con mày đi.
Tôi nhớ rồi.
– Bị bắt hết. Bị Mai Chí Thọ cài người gài bẫy bắt hết.
– Có chuyến đi?
– Có. Chuyến đi dính lưới toàn bộ.
– Có chiến khu?
– Có. Một nhóm sĩ quan, một nhóm lính. Đang nằm trong tay Quân Báo bên Tô Hiến Thành.
– Sao mày biết?
– Tao không dám ta-pi. Tao từ chối. Một người quen thoát lưới chuyến đi, nhờ hối lộ tên công an Phước Tỉnh hai lạng vàng, cho tao rõ. Mấy hôm sau, người ấy báo cáo thêm cả tổ chức bị sa lưới.
– Không phải là tao không nhận. Vợ tao đau nặng hôm đó.
– Vận may. Đàn bà con nít không nên vào tủ. Họ phải ở ngoài tiếp tế cho bọn mình.
Thanh Thương Hoàng thở dài:
– Bốn phương mù mịt cả. Tổ chức nào cũng dính lưới. Có tổ chức cài người vào Phường, khi bị công an bảo vệ chính trị bắt, Phường trưởng không tin người bị bắt là phản động. Trước hôm mày vô 6C-1, thằng Chín bị đổi phòng. Nó được cài vào huyện đội công an Thủ Đức. Nó chửi Mỹ tổ chức chống cộng rồi xúi cộng sản bắt!
Tôi bỗng nhớ Trương Phiên. Người Mỹ âm mưu gì nữa? Tôi hoàn toàn mù tịt. Vỗ vai Thanh Thương Hoàng, tôi hỏi:
– Mày thận trọng nhé! Tao thấy thằng Trịnh Quốc Tài viết báo cáo có tên mày, Trịnh Viết Thành, Tô Ngọc. Mày dính dáng Phủ Đặc Ủy Trung ương Tình báo hả?
Thanh Thương Hoàng giật mình:
– Không, không…
Tô Ngọc phục vụ cảnh sát đặc biệt để trốn lính như Y Vân. Trịnh Viết Thành làm báo Quật Cường của Trung ương Tình báo với Anh Quân. Còn Thanh Thương Hoàng chỉ tai tiếng vụ Làng Báo Chí. Anh ta có dính liếu với Trung ương Tình báo hay không, tôi không biết. Nhưng khi tôi nhắc nhở anh ta có tên trong báo cáo của Trịnh Quốc Tài, anh ta rầu rĩ vô cùng. Sáng hôm sau, cai ngục đến 6C-1 trước giờ phát nước sôi. Tên hắn là Sáu, dân Sàigòn, vì bị lé nên tù nhân tặng hắn biệt danh Sáu lé.
– Nguyễn Thanh Chiểu.
– Có
– Mặc quần áo ra làm việc.
Thanh Thương Hoàng vội vàng mặc bộ bà ba vải mỏng, mầu gụ. Anh ta cầm đôi giép Nhựt bước tới cửa phòng. Tù nhân ra làm việc, bất kể làm gì, đều phải ăn mặc tươm tất, đi giép. Đầu tóc có thể rối bù. Râu ria có thể rậm rạp. Quần áo không thể thiếu nghiêm chỉnh. Ở đề lao, hàng tháng, tù nhân được cắt tóc, cạo râu một lần. Tù cắt tóc cho tù. Cai ngục đứng giám sát. Cuối khu C-1, người ta dựng cột lợp tôn làm cái chái. Do đó, phòng 7C-1 thiếu ánh sáng. Tù nhân khu C-1 ra cắt tóc ở cái chái nầy. Buổi sáng một phòng. Buổi chiều một phòng. Ba thợ cắt tóc tù làm việc khẩn trương. Cai ngục mở cửa. Ba tù nhân ra một lượt. Cửa khép chặt, ấn khóa. Không có khăn quàng. Không có dao cạo. Không có kéo. Không có gương. Tông-đơ Trung quốc lưỡi thưa, thứ tông đơ cắt lông ngựa liếm tóc tù nhân. Giáo điều cắt tóc của cách mạng vô sản:
– Cắt dài là thiếu nếp sống văn hóa mới.
– Cắt trọc là chống đối.
Bởi thế, tông-đơ đẩy lưng chừng. Đẩy xong những đường tóc, tông-đơ đẩy râu ria. Tông-đơ chấm bát luôn. Năm phút một cái đầu. Cằm bị chảy máu, mép bị chảy máu, ráng chịu. Tông-đơ nhai tóc, đừng kêu ca. Ba anh này vào, ba anh kia ra. Anh nọ soi gương bằng cách nhìn đầu anh kia. Thấy mình giống quái vật. Cắt tóc xong thì bước vô phòng tắm, dùng khăn khô phủi tóc cho nhau, đợi sáng mai hãy tắm (nếu cắt tóc chiều). Ngủ một đêm với tóc vụn dính mồ hôi có sao. Ngứa thì gãi chung với gãi ghẻ cho tiến bộ, đuổi kịp nếp sống văn hóa mới.
Đầu tóc, râu ria Thanh Thương Hoàng khiếp lắm. Rõ là thằng tù! Sáu lé mở cửa. Hắn khóa lại. Tù nhân đi trước, cai ngục đi sau, đề phòng đánh lén. Cách mạng luôn luôn cảnh giác cao. Sau bữa ăn sáng, Thanh Thương Hoàng trở về. Anh ta mệt mỏi, bỏ cơm. Kẻng tù báo thức giấc trưa, anh ta ra làm việc. Cứ vậy, sự làm việc của Thanh Thương Hoàng kéo dài cả tuần. Trong khi ấy, Chóe, Hồng Dương, Thân Trọng Kỳ, Cao Sơn và tôi chưa bị gọi ra. Một buổi tối, chúng tôi ngồi bên nhau hút thuốc lá, chuyện gẫu. Thanh Thương Hoàng nói :
– Tao đã kết thúc tự khai.
Anh ta kể:
– Tao viết một câu rất hòa giải dân tộc.
Thanh Thương Hoàng đọc:
– “Chúng tôi sẵn sàng bắt tay với các anh xây dựng lại đất nước”.
Hồng Dương dẫy nẩy:
– Hỏng rồi.
Thanh Thương Hoàng vốn phục Hồng Dương thông minh, đọc nhiều. Anh ta hỏi.
– Hỏng sao?
Tôi nhanh miệng đáp:
– Mày bỏ tù nó, mày viết thế là mày cao thượng, quốc gia cao thượng. Nó bỏ tù mày, mày nói thế là mày xấc. Nó sẽ hành mày. Nó ví chúng ta là thú vật. Mày hiểu chưa? Nó đòi cắt đuôi chúng ta để chúng ta làm người. Sức mấy nó chìa tay cho mày bắt. Xấc thì hay đấy nhưng thiếu lô-gích. Thằng nào chấp pháp mày?
– Hai Nghiêm.
– Dân gì?
– Quảng Bình.
– Nó đọc chưa?
– Rồi.
– Phát biểu?
– Tốt.
Hồng Dương lắc đầu. Hôm sau, Thanh Thương Hoàng lại lên làm việc. Lúc về, anh ta uể oải:
– Chúng mày đúng. Nó bảo tay tao chưa sạch tội ác. Tao chuẩn bị vào cachot. Nó bảo vậy.
Thanh Thương Hoàng sửa soạn hành lý. Ngay buổi chiều, anh ta rời phòng 6C-1 vào cachot số 4 của khu C. Thanh Thương Hoàng nằm cachot một tuần thì bị đưa trở lại Sở Công An. Từ đó, tôi mất tin anh. Tháng 9 năm 1981, về đời, tôi biết anh bị lưu đày lên Pleiku cùng chuyến đi với Doãn Quốc Sĩ. Gặp Sĩ, anh nói tác giả Cánh chim mỏi rã rượi lắm. Anh ta rụng hết răng, tê liệt. Người vợ thứ nhất của Thanh Thương Hoàng là con gái của Lê Khải Trạch đã không còn ở với anh từ lâu. Mọi sự nuôi anh trong tù do người vợ thứ hai. Người nầy tiếp tế anh đầy đủ. Nhưng chị ấy đã vượt biên. Người vợ thứ nhất lo việc tiếp tế. Chị ta nghèo, thiếu phương tiện thăm chồng xa xôi. Thanh Thương Hoàng trở thành “con bà phước” ở rừng núi Gia Trung 6. Anh ta hào sảng lắm, ở Sở Công An, ở đề lao Gia Định. Trên Pleiku có ai hào sảng với anh? Tất cả đã là tù nhân. Tất cả đều là bạn tù. Bạn tù trong danh ngôn nghiệt ngã “Bạn tù, tình nhà thổ”. Khi nỗi khổ kéo dài mòn mỏi, khi sự phú quý đi giật lùi, con người đâm ra bần tiện, chỉ còn biết nghĩ đến mình. Mọi thù hận lẫn nhau phát xuất từ đó. Anh em nguyền rủa lẫn nhau, nói xấu lẫn nhau. Ra khỏi tù, anh em không quên thù hận, vẫn nguyền rủa nhau, nói xấu nhau, gặp nhau không thèm nhìn mặt. Đó là mục đích trong những mục đích của học tập cải tạo tư tưởng!

Chú thích
Đọc Sỏi Đá Ngậm Ngùi, cùng một tác giả, Nam Á Paris xuất bản 1985.
Trong bộ tiểu thuyết Hồn Say Phấn Lạ, tôi khai triển tư tưởng cách mạng Tây Sơn.
Đã đăng trên tạp chí Bách Khoa, tôi quên số và tháng, năm phát hành.
Vũ Hồng Khanh, xuất thân là giáo làng.
Đọc Hồi Ký Nguyễn Mạnh Côn, tạp chí Bách Khoa.
Nghe nói anh đã được tha vào năm 1986.

NHÀ TÙ : CHƯƠNG 11 ,THỐNG KHỔ NHẬP MÔN

 

Quá khuya, sương trải thật nhiều. Những giọt sương, đọng trên lá cây bên sân Tòa Tỉnh Trưởng Gia Định, rơi xuống mái tôn nhà tù như những giọt buồn ray rứt. Khu C-1 xây dài theo bức tường biên giới đề lao và tòa tỉnh – đã trở thành Trụ sở Ủy ban nhân dân quận Bình Thạnh. Nếu tính phòng 7 C-1 là đầu, thì đầu khu C-1 sát khít vỉa hè đường Phan Đăng Lưu. Tôi nhớ thuở Bùi Thế Cầu làm Tỉnh trưởng Gia Định, hay ghé đây thăm bạn … tổng đốc Gia Định Thành. Và tôi không quên những cây vú sữa chung quanh sân. Bây giờ, những giọt sương, đọng trên lá vú sữa, não nề rơi xuống mái tôn nhà tù. Và tôi ngồi giữa cái hoang vu của kiếp người, nghe điệu sáo thấm vào hồn mình. Nguyễn Vĩ đã diễn tả.

Sương rơi
… Lạnh lùng
Hiu hắt
Thấm vào
Em ơi
Trong lòng
Hạt sương
Thành một
Vết thương
Rồi hạt
Sương trong
Tan tác
Trong lòng
Tả tơi
Em ơi
Từng giọt
Thánh thót
Từng giọt
Điêu tàn
Trên nấm
Mồ hoang …

Những giọt sương của Nguyễn Vĩ đã rơi vào năm 1935, năm tôi “mang tiếng khóc ban đầu mà ra” đời. Vẫn là hạt sương của 40 năm trước, 40 năm sau nó tuyệt tích âm điệu thánh thót. Nó không còn là vết thương của một người nữa. Nó đã ngậm oan khiên của lịch sử giống nòi. Nó đã rơi xuống xác hai triệu người Việt Nam chết đói, một triệu rưỡi người Việt Nam chết Cải Cách Ruộng Đất, bao nhiêu triệu người Việt Nam chết thủ tiêu – bom đạn chiến tranh. Hôm nay, nó rơi xuống roi gạo mác xít, rơi xuống thuyền gỗ lênh đênh vượt biển, rơi xuống các trại tị nạn ô nhục, rơi xuống nhà tù, trại tập trung. Giọt sương theo nỗi đổi đời, đã thành giọt nước mắt. “Nếu cột đèn biết đi, nó sẽ đi tìm tự do”. Thuyền nhân nào đó đã trả lời phóng viên một đài phát thanh ngoại quốc thế. Sự ví von thật hay. Cột đèn không biết đi. Con người biết đi. Nhưng con người đã dừng lại sau chuyến đi dài. Người Việt Nam không thích nhớ những gì đáng nhớ, phải nhớ; không thích quên những gì cần quên, nên quên. Cái truyền thống hẩm hiu nhất của dân tộc ta là nhớ thù vặt và ham trả thù vặt. Triều đại này lật đổ triều đại kia, tiêu hủy mọi công trình xây dựng tốt đẹp, kể luôn công trình kiến trúc. Cao Miên còn hãnh diện có Đế Thiện Đế Thích, chúng ta còn gì? Phải cám ơn ông thực dân Pháp một tí. Nhờ ông chiếm đất nước tôi nên chúng tôi còn chút xíu lăng tẩm, thành quách triều đại Nguyễn Phúc Ánh. Ông sang muộn, những kẻ phục Lê lật đổ Nguyễn sẽ san bằng những lăng tẩm, bia mộ, đền đài ở Huế! Nhưng mà những kẻ nhớ thù vặt, trả thù vặt tận tình nhất vẫn là cộng sản Việt Nam. Mắt mờ thù hận, óc ủng thù hận, cộng sản Việt Nam đã dẫm nát báu vật và giam nhốt tài năng của dân tộc. Còn chúng ta, chúng ta bảo vệ báu vật và tài năng ra sao? Chúng ta hất hủi, hờ hững, kèn cựa. Và với triết lý thoát là tới, chúng ta đã quên những oan khiên mà giọt sương vẫn ngậm, vẫn rơi đều đặn xuống thân phận Việt Nam. Dân tộc đang kiên nhẫn bước trên sầu đạo để chiến đấu, để tìm ý nghĩa rạng ngời cho lịch sử. Quê hương đang cựa quậy. Chúng ta dừng lại, dầu chúng ta khác hẳn cột đèn. À, chúng ta cũng đi chứ! Chúng ta đi giật lùi. Đã nhiều dâu biển trong kẻ thù của chúng ta. Chưa có dấu hiệu sắp dâu biển trong cung cách chiến đấu để chiến thắng kẻ thù của chúng ta. Mọi lãnh vực, chúng ta đứng. Rồi nằm. Và nhai lại. Khi đó, những giọt sương đã “đổi đời” và không ngừng rơi xuống những xót xa, nghẹn ngào bắt thức tỉnh, suy tư.

Sự suy tư của tôi gần gũi nhất. Là cái “nội các” của ông Đinh Xuân Cầu. Trực giác của tôi cho tôi biết mục sư Trương Phiên đã bịp chúng tôi. Tôi chợt nẩy sự ngờ vực từ hôm Trương Phiên dọa tôi rằng công an mật đã bao vây nhà tôi. Hắn muốn cắt đứt đường về của tôi. Rồi hắn bảo tôi cho tổ chức mượn mấy lạng vàng. Tôi viết thư về nhà. Con gái tôi trả lời thay vợ tôi. Tôi đọc thư, lòng dạ tan nát. Con tôi viết: “Mẹ bị mù rồi hay sao ấy, bố ạ! Mẹ chẳng còn nhìn rõ cái gì”. Có lần, vợ tôi đã không đọc rõ chữ và tôi phải cầu cứu Bùi Duy Tâm. Tôi tin ngay. “Nhà cạn tiền rồi, bố về lo cho các con”. Tôi chưa về, vì nghĩ vợ con tôi chưa biết công an mật lởn vởn trước nhà tôi. Trương Phiên chở em vợ hắn đến An Đông lấy vàng. Hắn đã thất vọng. Hắn vẫn quả quyết ông tướng Ngô Quang Trưởng còn ở trong “bưng”. Đặng Xuân Côn đề nghị: “Chỉ cần đưa ông Trưởng về Sàigòn, dẫn ông tướng này gặp vài người là thừa vàng chiến đấu”. Trương Phiên nồng nhiệt hứa hẹn thực hiện kế hoạch Đặng Xuân Côn. Những chuyến “ra đi” của “nội các” cứ bị hoãn lại. Lần thì Nguyễn Cao Kỳ bay về bưng bắt Bùi Thế Lân, gây áp lực với Hội Đồng Bảo Quốc. Lần thì địch “báo động đỏ”, giăng lưới các cửa biển. Vân vân . Trương Phiên có tài nói và diễn xuất. Mục sư mà. Hắn phô bày chí lớn của hắn bằng bí danh Trương Mộng Hoàng. Họ Trương ôm giấc mộng trở thành hoàng đế! Hắn nói, ngay cả tôi nghe, cứ tưởng hắn dốc tâm can vì nước. Có nhiều lúc, kẻ khôn ngoan bỗng ngu xuẩn một cách tội nghiệp. May cho tôi, khi qua nhà số chẵn đường Tăng Bạt Hổ, nhân xem ti vi, tôi đã ngỡ ngàng. Báo chí Mỹ thân Cộng đã chụp đầy mặt tướng lãnh lưu vong tặng Việt cộng. Ông thì đang rót rượu, ông thì đang lau bàn… Việt cộng thuyết minh thêm. Mỗi chân dung tướng lãnh hiện rõ trên màn ảnh nhỏ. Có ông Kỳ, ông Trưởng … Tôi quyết định trở về sau vài tuần lưu lạc ở Hòa Hưng, Bảy Hiền. Thoạt tiên, tôi đến nhà bà Nguyễn Đình Vượng, địa chỉ tạp chí Văn. Tôi nhờ bà liên lạc với vợ tôi. Vợ tôi lên đón tôi chập tối. Sáng tỉnh mơ hôm sau, tôi đến Phú Nhuận. Tôi lại về nhà. Rồi tôi ở nhà luôn. Rồi tôi đi về lung tung. Chẳng thấy bóng dáng công an nào. Ông Đinh Xuân Cầu và Sao giò bị bắt trong tháng 1-1976. Tôi bình yên. Nguyễn Đan Quế, Nguyễn Thiện Ngọ … bình yên. Chúng tôi vẫn gặp nhau ở một tiệm thợ may trong chung cư Nguyễn Thiện Thuật. Trương Phiên tuyệt tích.

Tôi không đánh giá Trương Phiên như một công an cộng sản lùa chúng tôi vào lưới. Thấp hơn, tôi đánh giá hắn như một tên lợi dụng tinh thần chống cộng của mọi người. Hắn khôn khéo đạo diễn, thảy cái bè chuối xuống nước đúng lúc. Sau 30-4-75, rất nhiều tên làm tiền và làm tình bằng những thủ thuật phục quốc và rất nhiều người mất vàng, mất trinh, rồi vào tù. Hoàng hôn của miền Nam nó thảm thiết vậy đó. Tôi sẽ viết ở những trang sắp tới. Ông Đinh Xuân Cầu nghĩ rằng Trương Phiên là gián điệp Mỹ. Năm 19 tuổi, lòng chứa chan mộng ước, tôi theo Duy Dân lên rừng Ban Mê Thuột làm cách mạng. Trở lại Sàigòn thất học, bơ vơ, tôi thù hận chính trị, cách mạng. Và tôi đã diễn tả sự khinh miệt lãnh tụ trong tiểu thuyết Ảo vọng tuổi trẻ. Năm 1975, lòng chứa chan uất ức, tôi đi chống cộng sản. Và tôi cũng trở về, chán nản, bơ vơ. Rốt cuộc thì tôi vào tù, mất toi một lạng vàng cho sự nghiệp chống cộng đến chiều. Ít ra, tôi đã trung thành với khẩu hiệuChống cộng đến chiều đầy hệ lụy mà tôi đã viết từ thuở tôi cầm bút chống cộng. Nhưng sự bẽ bàng chống cộng tàn mùa của tôi, một mình tôi chịu. Và tiếp tục nói dối cả với vợ con tôi, với Đặng Xuân Côn: “Tôi đã vào chiến khu, đã gặp Ngô Quang Trưởng, đã gặp Mỹ với khí giới tối tân!” Ở tù, tôi quen bao nhiêu con người chống công tâm huyết, trẻ có, già có. Họ cũng bị bịp như tôi. Bạn đã hiểu tại sao tôi khinh bỉ những tên lái buôn chống cộng, những công ty đấu thầu chống cộng. Tôi chưa cháy niềm tin chống cộng. Tôi vẫn chống cộng. Vì dân tộc, chắc chắn, là viễn vông. Vì những con người đã dấu diếm tôi, đã săn sóc tôi, đã kỳ vọng nơi tôi, ở các căn nhà hẽm phố Trần Quý Cáp, phố An Đông, phố Tăng Bạt Hổ, phố Tô Hiến Thành, Bảy Hiền, Xóm Mới. Chính xác, tôi chống cộng với tuổi trẻ, với các bạn Pháp và Việt của tôi. Tôi không chống cộng với lãnh tụ ghẻ lở, với cây mục vô tích sự, với lái buôn, cai thầu. Và tôi tin vào sự quật khởi của dân tộc tôi, không tin vào các thế lực ngoại bang.

Kẻng tù báo thức làm sự suy tư của tôi ngừng lại. Tù nhân bắt đầu ồn ào. Hãy tưởng tượng đống sơ mít, nhặng bu đầy, bị đụng khẽ. Tù nhân đã vo ve như thế từ lúc kẻng báo thức đến lúc kẻng báo ngủ. Sự tranh chỗ tiểu tiện, đại tiện, đánh răng, rửa mặt náo nhiệt vô cùng. Không có nhường nhịn ở nhà tù. Luật đời và luật tù giống hệt nhau. Thằng nào manh, thằng ấy chủ động. Những thằng mạnh, cộng sản biết dùng người lắm, là những thằng cảnh sát đặc biệt, an ninh quân đội, du đãng được sử dụng vào các chức Trưởng phòng và Trật tự viên. Những thằng này, bất cứ hoàn cảnh nào, đều biết cách đàn áp anh em để thủ lợi. Dưới chế độ cộng sản, các vua tù bị thoái vị. Trưởng phòng mất quyền bóc lột, hà hiếp tù nhân. Ở đề lao Gia Định, cộng sản ban phát cho Trưởng phòng ân huệ ra ngoài khiêng đồ tiếp tế của thân nhân tù nhân, mỗi tuần lễ. Ra khiêng đồ sẽ được gặp vợ con trong năm phút. Để bảo vệ quyền lợi khốn kiếp này, Trưởng phòng đã ghi những câu nói mỉa mai của tù nhân, báo cáo Trưởng khu hay Cán bộ giáo dục. Tùy theo mức “phản động” nặng hay nhẹ, tù nhân sẽ bị viết tự kiểm, sẽ bị cấm viết thư, sẽ bị cấm nhận quà tiếp tế, sẽ bị nằm cachot. Không phải Trưởng phòng nào cũng đê tiện. Cộng sản chọn người xứng đáng cho công việc xứng đáng. Khi nó đã chọn, đừng hòng từ chối. Từ chối là chồng đối chế độ. Chống đối chế đó ở nhà tù là mút chỉ ăn cơm hẩm. Đừng hòng tình nguyện. Tình nguyện là có ý đồ. Có ý đồ là bị điều tra. Ở bất cứ nhà tù nào, dưới bất cứ một chế độ nào, trên bất cứ một quốc gia nào, bạn đừng đòi hỏi tự do. Bạn chỉ được đòi ân huệ và chớ dại dột yêu sách. Yêu sách, bạn sẽ được nâng quan điểm lên bất mãn. Mỗi nhà tù một quy chế. Cái hợp lý ở đề lao Gia Định sẽ là cái vô lý ở khám Chí Hòa. Chính sách nhà tù cộng sản thả nổi. Ở đề lao Gia Định, bạn có quyền tuyệt thực. Sang khám Chí Hòa, bạn tuyệt thực thì bụng bạn đói mà thân bạn no đòn. Những kẻ chỉ loanh quanh các trại cải tạo không nên lạm bàn về nhà tù. Trại cải tạo là động. Nhà tù là tỉnh. Trại cải tạo là ánh sáng. Nhà tù là bóng tối. Ở trại cải tạo, cộng sản gọi bạn là trại viên. Nhà tù, cộng sản gọi bạn là can phạm. Ở trại cải tạo, bạn sống chung với các chiến hữu. Ở nhà tù, bán sống chung ô hợp với đủ mọi thành phần xã hội. Ân huệ của Trưởng phòng là ra ngoài khiêng đồ, gặp vợ con, hít no dưỡng khí, tắm nắng thỏa thuê, tuy còng lưng, mỏi tay. Ân huệ của Trật tự viện là đi đổ rác, phơi quần áo, tha hồ liếc nhìn các phòng, các cachots và gặp gỡ “anh em” ở đống rác, ở chỗ phơi quần áo. Ấy, ân huệ nhỏ mọn thế thôi, mà cộng sản dư khả năng tạo ra mọi ngờ vực, mọi phôi pha tình người. Trưởng phòng Lâm Văn Thế không thuộc loại đê tiện. Ít nhất, ông ta cũng là sĩ quan. Dzũng quan tài không tệ, nhưng đám mafia 6 C-1 cậy thế nó để tác yêu, tác quái ở hồ nước.

Không một tù nhân nào được tắm bằng nước chứa trong hồ. Nước này chỉ dùng xối cầu tiêu, rửa chén, rửa mặt, đánh răng và rửa … đít. Tù nhân bị cấm sử dụng giấy vệ sinh. Mafia 6C-1 bất chấp luật lệ. Nửa đêm, chúng thay phiên nhau tắm để ngủ ngon. Mỗi ngày, vòi nước lùa qua ô cửa gió 2 lần. Nước đầy hồ, tù nhân mới được tắm. Tù nhân trần truồng đứng xếp hàng. Mafia cầm vòi nước. Tôi đếm thử những cái tích tắc, tính ra mỗi tù nhân hưởng 10 giây đồng hồ tắm gội. Bị mafia ăn cắp một giây. 520 giây tắm cho 52 tù nhân đa số bị ghẻ lở! Không thể sát xà phòng. Ngôn ngữ tục tĩu nhất đã phóng ra ở sân tắm vào giờ nước vào. Những ngày Sáu Cầu làm Trưởng khu, không có điểm danh. Trưởng phòng đếm tù, rồi báo cáo cán bộ là xong. Những ngày này, tù nhận được nhận cà phê và trà. Mỗi ông tù có một cái vợt vải nhỏ. Màn tắm táp sáng nay đã xong. Tù nhân ngồi chờ nước sôi và nghe nhạc cách mạng oang oang từ cái ô-pạc-lơ gắn trên nóc phòng 7C-1. Tôi thích nhất bài Tình em biển nhớ của Nguyễn Đức Toàn. Có lẽ, tôi thích nhất hai câu đầu. Ở cái lúc chui rúc trong chuồng gà kỹ nghệ, sự nghiệp tiêu tan, thân thể lênh đênh, vợ đau con dại mà thưởng thức giọng hát Đỗ Dậu nỉ non: Chưa có hôm nào đẹp như hôm nay, đất nước thanh bình, lòng ta mê say… thì dẫu là Khổng Tử, vẫn cần thiết chửi thầm. Thân phận tù cộng sản nó cay đắng khôn cùng. Nó không bị xét xử. Nó không có án. Nó không biết ngày về. Ba cái không chưa đủ làm điên, còn sáng, trưa, tôi nghe hát chưa có hôm nào đẹp như hôm nay!

Nhưng mà nước sôi đã tới. Cai ngục mở cửa. Trật tự viên xách xô nhựa ra. Tù nhân tín cẩn gánh nước từ bếp khu A sang, múc đầy xô. Trật tự viên xách vào. Chỗ chia cơm nước lại sinh động. 52 cái ca nhựa bầy sẵn. Tù nhân đứng hết dậy. 104 con mắt nhìn Trật tự viên chia nước sôi. Ăn thua từng giọt. Cãi nhau vì mì đã bỏ sẵn vô ca mà không ưu tiên chia nước trước. Phân bì ca nhỏ sao nước bằng mức ca lớn. Vân vân … Nước chia xong, tù nhân đem về chỗ của mình. Anh không có cà phê thì đổi nửa phần nước cho anh có cà phê lấy chút đường và… cái bã. Những anh ăn chung thì vừa ngâm mì vụn vừa pha cà phê. Mì ăn dứt, ta nhâm nhi cà phê, hút thuốc rê, thuốc lá, thuốc lào. Các anh máu mì, máu cà phê, thì pha bột Bích Chi, bột đậu xanh… Cách mạng kể ra tốt chán. Tù nhân điểm tâm bằng sự… nhịn ăn uống của vợ con mình! Chấm dứt điểm tâm là màn rửa ca, rửa muỗng. Bụng đã có tí sinh tố, tù nhân thay phiên nhau đi cầu. Và đây mới là hoạt cảnh. Anh tù lên giàn bắn. Anh ta chơi ra-phan. Những anh tù khác vừa nghe đạn nổ, vừa ngửi thuốc súng. Hàng tràng chửi thề tới tấp. “Xối nước đi”! Ngôn ngữ cách mạng phong phú. “Xối khẩn trương. Xối tối đa. Xối thoải mái. Xối nhanh. Xối mạnh. Xối vững chắc”! Anh tù cứ thản nhiên … rặn. Hòa bình rồi. Thống nhất tổ quốc rồi. Đi đâu mà vội. “Khẩn trương cho người khác tiếp quản cầu tiêu chứ”? 52 tù nhân xếp hàng đi cầu. Thì đâu vào đó cả. Cách mạng không sai lầm. Đảng ta luôn luôn sáng suốt. “Khắc phục ỉa đi!” “Khắc phục cái củ cà-rốt, đi cầu chứ đi sang Liên Xô sao?” “Mẹ anh, nhân dân làm chủ cái cầu hay anh làm chủ? Đầu óc tư hữu lạc hậu!”

Cuối cùng, mọi việc đều tốt. Tù nhân chơi cờ tướng, chơi đô-mi-nô. Khích bác nhau một chặp, chơi văng bậy và suýt chơi chân tay. Ông Thế say sưa học chữ Tàu. Ông hiểu trưởng Tàu say sưa học tiếng Việt. Các ông Tàu Chợ Lớn bị xử ức. Cộng sản nó bảo: “Anh ở nước tôi mấy đời rồi, anh không hoc nổi tiếng nước tôi, học viết chữ nước tôi, chúng tôi không làm việc với anh qua thông ngôn. Học đi, chừng biết viết Tự khai hãy nghĩ chuyện về sum họp gia đình.” Các ông Tàu thộn mặt. Và tự giác mình đã láo lếu mấy đời. Tù nhân chia từng nhóm. Nhóm ngồi hút thuốc tâm sự. Nhóm ngồi gãi ghẻ. Nhóm ngồi nặn trứng cá, nhổ tóc sâu. Chuyện tù sao mà nhiều thế! Nói hoài nói hủy. Thuốc rê đốt um khói. Thuốc lào rít liên hồi. Ở 6C-1, tôi yêu nhất hai chú bé phản động mà tôi quên tên. Hai chú bé dưới 18 tuổi, không tranh giành cơm nước, không chửi thề nói bậy. Hai chú bé nằm dưới sàn chia cơm và bắt được hai con dế chui vô phòng. Thế là hai chú bé đá dế, cười nói hồn nhiên. Tôi biết chắc hai chú bé không hề nuôi một tham vọng nào khi đi làm phản động. Không thích cộng sản, các chủ bé chống cộng sản. Đi chiến đấu hồn nhiên, vào tù hồn nhiên, đau khổ hồn nhiên và chiến thắng vẫn hồn nhiên. Đất nước cần những tâm hồn chiến đấu không thèm toan tính ấy. Hai chú bé con nhà nghèo, không một ai tiếp tế. Chỉ sống bằng cơm tù, ai cho gì cũng từ chối. Cuộc chiến đấu của tôi còn vì những chú bé như hai chú bé này. Tôi bị lừa gạt niềm tin hai lần. Lần thứ nhất, tôi 20 tuổi. Lần thứ hai, tôi 40 tuổi. Tôi không muốn những chú bé Việt Nam bị lừa gạt niềm tin chiến đấu. 20 tuổi, tôi viết:

Tổ quốc mình đó em
Anh đi làm lịch sử
Với bọn cò mồi hèn
Thấy thiên đường đổ vỡ
Anh còn gì đâu em
Anh còn gì cho em

Từ niềm tin đầu đời bị lừa gạt, tôi chở sự phẫn nộ vào cuộc sống. Và rồi tôi bơ vơ, lạc lõng. Tôi trở thành kẻ quá khích của điều thiện, một thứ cuồng sỉ khó ai dung dưỡng nối. Kẻ quá khích của điều thiện chỉ đem về cho nó những thù ghét cay đắng, những ngộ nhận nghiệt ngã, những săn đuổi không thương xót. Không phải bất cứ ai cũng có thể giải tỏa nỗi ẩn ức của mình bằng chữ nghĩa. Tôi nghĩ tới những tác động phá phách của tuổi trẻ mất niềm tin và cả những bất động nữa. Cả hai điều thiệt thòi cho quê hương. Bọn buôn bán tuổi trẻ đã không hề nghĩ đến sự thiệt thòi ấy. Chúng nó chỉ biết làm lợi cho chúng nó. Và tôi lên tiếng. Tiếng nói của tôi chìm vào hư vô bởi những khỏa lấp của quyền lực và tài lực. Thêm nữa là sự rút đầu xuống cát của đà điểu văn nghệ. Chẳng ai ngu si đi tìm những oan khiên cho mình. Ai cũng biết khôn ngoan sống chiều lòng người, vừa lòng người, đẹp lòng người, khen luôn những cái không đáng khen của người, suốt đời ngậm miệng không chê người… Cái triết lý sống bần tiện này không nên có ở những người cầm bút trong thời đại hôm nay. Anh đừng nói anh chuyên viết và bình luận văn học, không dính dáng chính trị. Chúng ta đang sống ở kỷ nguyên mà con người khó thoát khỏi quỹ đạo chính trị. Anh không làm chính trị, anh cũng không có thái độ chính trị nữa sao? Vậy sự từ bỏ Việt Nam sang Mỹ của anh là thái độ gì? Kỷ nguyên nghệ thuật vị nghệ thuật đã chấm dứt và nó rất lạc hậu đối với hiện cảnh và thảm cảnh Việt Nam. Người cộng sản chỉ mong anh không có thái độ chính trị, chỉ mong anh bàn về ăn mặc, uống trà, để khen anh. Họ đã khen anh. Và rồi họ sẽ nuốt anh. Như họ đã nuốt anh em của anh, dẫu có người chưa hề có thái độ chính trị. Thế Viên chẳng hạn. Vũ Hoàng Chương chẳng hạn. Anh khôn lõi. Tôi dại dột. Nếu các hào kiệt Nhân văn giai phẩm đã khôn lõi, chắc chắn, đã không có dấy động tuyệt vời của chữ nghĩa. Anh khôn lõi, anh được tôn sùng. Tôi dại dột, tôi bị ghét bỏ. Nhưng tôi hãnh diện về sự dại dột của tôi. Và tôi ngạo nghễ khinh thường thơ văn không chính kiến của anh hôm nay là:

Thứ thơ văn nghìn năm không dấy động
Thơ văn cột rỗng
Lớp son mầu mè tỉa tót công phu
Thứ thơ văn tửu hậu trà dư
Thơ văn chết khi cuộc đời căng nhựa sống
Thơ văn ngồi khi Việt Nam khốn quẫn
Thơ văn nằm khi bạo lực diễn hành
Thơ văn tô móng tay khi dân tộc đói nhăn răng
Thơ văn nhẫy nhụa môi son vênh vang trưng diện

Tôi viết văn, làm thơ chẳng hề đeo tham vọng đi vào văn học sử hay bất tử. Với tôi, đó là chuyện hề kệch cỡm. Trước năm 1975, rất nhiều lần, tôi thành thật nói tôi viết văn để mưu sinh. Không biết làm nghề gì cả, tôi làm nghề viết văn. Và tôi đã sống bằng nghề viết văn, hoàn toàn sống bằng nghề viết văn. Không có thiên chức hay sứ mạng gì trong văn chương của tôi cả. Chưa từng ngửa tay nhận tiền của cơ quan ngoại quốc nào để vừa viết văn vừa ăn vừa lo nộp sách. Cũng chưa từng ngửa tay nhận tiền của Mạnh Thường Quân nào. Tôi bán chữ nghĩa của tôi thẳng cho nhà xuất bản. Tôi là công nhân chữ nghĩa, nếu anh muốn gọi thế. Tôi bắt đầu có tham vọng văn chương từ hôm Huỳnh Bá Thành, bí danh Ba Trung, tác giả Vụ án hồ con rùa, đại diện đảng Cộng sản Việt Nam, nói với tôi một câu đầy miệt thị: “Thế giới đâu đã đọc sách của các anh.” Rồi trải qua ba nhà tù, hai trại tập trung ròng rã 6 năm. Rồi nhìn lại một Sàigòn bán máu đỏ mua gạo đen, nhìn lại một sản phụ không sữa nuôi con bị vắt vú ba lần mới được mua sữa bò giá chính thức, nhìn lại cảnh chó và người mưu sinh chung ở đống rác, nhìn lại vô số … Rồi tôi vượt biển và nhìn đồng bào tôi bị ngược đãi tại quán trọ trước cổng thiên đường. Tôi càng thấy tôi nên có tham vọng văn chương. Tham vọng văn chương của tôi sẽ không bao giờ đi vào văn học sử. Tôi nghĩ chúng ta cần có tổ quốc đã. Thiếu tổ quốc, hình như, không có lịch sử và mọi chuyện đều vá víu tạm bợ. Vậy thì tham vọng văn chương của tôi, bây giờ, là ngày mai của tổ quốc tôi. Muốn có ngày mai của tổ quốc, tôi phải chiến đấu. Văn chương của tôi là văn chương chiến đấu, là tư tưởng dấy động, là chữ nghĩa lên đường; không thể là văn chương chết, là tư tưởng ngồi, là chữ nghĩa nằm. Văn chương ấy phải làm thế giới xúc động mà cảm thông nỗi khổ của dân tộc tôi. Tôi đã sung sướng thực hiện được một bước trong ngàn bước tham vọng văn chương của tôi, dẫu tôi cô đơn, âm thầm làm một mình, dẫu tôi bị móng vuốt của đố kỵ hèn mọn cào cấu chảy máu, dẫu tôi bị bạo lực cộng sản bức tử. Nói tóm lại, tôi thích được gọi là người viết văn có chính kiến và chấp nhận mọi thiệt thòi, vật chất và tinh thần, cho kẻ ham bày tỏ chính kiến rõ rệt, dứt khoát. Tôi đọc ở Remarque câu này: “Khi thế giới còn những bọn hung tàn vô nhận đạo mà mình biết mình đủ khả năng chống đối, lại không dám chống đối, là mang tội ác.” Tội ác trên cả tội lỗi, ghê gớm lắm. Tôi sợ mang tội ác nên tôi tiếp tục chống đối, sau thêm một phen bị lừa gạt niềm tin ở tuổi 40. Tôi đã chiến đấu ngoài đời và trong văn chương. Ở hoàn cảnh tôi năm 1975, anh không dám phản động đâu. Chưa ai lãng mạn hơn tôi. Với tôi, tất cả đều trực diện chiến đấu, không phục kích, chiến đấu công khai. Cuộc chiến đấu của tôi rất trẻ nên tôi cần dẹp bỏ bọn lái buôn lý tưởng của tuổi trẻ.

Tôi ngồi suy nghĩ vẩn vơ một chặp thì đến giờ phát thuốc. Mọi sinh hoạt ngừng hẳn. Tù nhân chen nhau ở chỗ chia cơm nước. Vì cửa phòng mở rộng, ai cũng thèm đứng gần cửa để hít dưỡng khí. Y tá tù bê một khay thuốc.

– Ai bệnh cảm cúm?

Tù nhân bị cảm cúm dơ tay. Mỗi người cầm sẵn một ca nước. Y tá múc thuốc bột bằng muỗng cà phê từ cái hủ thủy tinh. Thuốc cảm giống màu xi măng nên tù nhân đặt tên nó là thuốc xi măng. Tù nhân uống thuốc trước mặt y tá.

– Ai cảm sốt?

Tù nhân cảm sốt dơ tay. Thuốc cảm sốt y hệt thuốc cảm cúm. Nghĩa là thuốc xi măng ở cùng cái hủ.

– Ai đau bao tử?

Đau bao tử được uống xi rô màu hồng.

– Ai đau tim?

Bệnh tim tương tự bệnh bao tử, nên trị bằng … xi-rô màu hồng luôn.

– Ai tiêu chảy? Ai ghẻ mủ? Ai kiết lỵ?

Ba bệnh nầy chung một triệu chứng. Và bệnh nhân uống Xuyên Tâm Liên, món thuốc trị bá bệnh, trị cả ung thư nữa. Tù nhân đau bao tử và đau tim… giả vờ đông hơn cả tù nhân đau thật sự. Vì xi-rô có đường. Tù nhân cần chất đường, thêm chất đường cho đỡ hại cơ thể! Cách mạng nắm vững vấn đề. Do đó, đau tim và đau bao tử chỉ được phát một muỗng cà phê xi-rô hồng. Các thứ bệnh “điều trị” xong, y tá phát thuốc tư. Thuốc tư là thuốc của thân nhân gởi vào nhà tù cho tù nhân. Thuốc phải đăng ký ở Phòng Y Tế của đề lao. Muốn xử dụng hôm nay, tù nhân phải thông báo y tá từ hôm qua. Y tá ghi vào sổ. Tù nhân đăng ký thuốc tư có số riêng. Trừ thuốc bổ, các thứ thuốc bệnh phải uống trước mặt y tá. Khi tù nhân bị bệnh đột xuất, thí dụ trúng gió, ngộp thở, bất kể ngày đêm, trưởng phòng ghé miệng sát cửa gió, nói lớn: “Báo cáo cán bộ, phòng … có người bệnh nặng.” Bác sĩ nhà tù sẽ đến cấp cứu. Bệnh nguy kịch, tù nhận được chở qua bệnh viện Nguyễn Văn Học.

Màn phát thuốc chấm dứt. Cửa phòng khép lại, khóa kỹ. Y tá sang 7C-1. Thời khoá biểu đề lao được áp dụng trúng phóc. Đến giờ cơm trưa. Cơm trưa đề lao ăn lúc mười giờ. Cửa phòng mở. Trật tự viên và hai “trực sinh” ra khiêng cơm và thức ăn vào. Tù nhân thay phiên nhau, hàng ngày, hai người chịu trách nhiệm quét phòng, lau sàn phòng, bục ngủ, chà rửa sàn nước, cầu tiêu, khiêng cơm. Cơm nước chia xong, phải lau sàn và rửa thùng đựng cơm, thùng đựng thức ăn sạch sẽ. Một ngày làm công việc này gọi là trực nhật, và người làm gọi là trực sinh! Theo luật nhà tù xã hội chủ nghĩa, phòng giam tập thể chia thành nhiều tổ, mỗi tổ 10 tù nhân lãnh đạo bởi Tổ trưởng và Tổ phó. Vậy một phòng giam có Trưởng phòng (chủ tịch nhà nước), Phó phòng (phó chủ tịch nhà nước), Trật tự viên (Tổng Bí thư), Thư ký (ban bí thư trung ương đảng), các Tổ trưởng, Tổ phó (uỷ viên trung ương đảng). Mỗi tối thứ sáu họp phòng, kiểm điểm … thành tích tù. Biên bản ghi một câu đúng chỉ tiêu đặt ra: “Các can phạm triệt để tin tưởng vào sự khoan hồng nhân đạo của Đảng và Nhà Nước, quyết tâm học tập cải tạo tốt để sớm được về sum họp gia đình. Trước khi bế mạc, các can phẩm hồ hởi, phấn khởi liên hoan văn nghệ bằng hợp ca bản Như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng. Biên bản này được đọc lớn cho cả phòng nghe. Mọi người nhất trí.” Trực sinh do Tổ trưởng chỉ định từng cấp thuộc tổ mình. Trưởng phòng, trật tự viên, thư ký được miễn trực nhật.

104 cái ca nhựa được bày thứ tự thẳng hàng. Trật tự viên phân phối cơm và thức ăn. Cơm gạo hẩm, đầy cả cỏ ngọn. Thức ăn bữa thì hai miếng đậu kho, bữa thì su su kho, bữa thì cá ngừ hay cá đuối kho, bữa thì canh rau muống già, canh bí rợ. Kho và nấu canh bằng muối. Đậu kho tuyệt tích từ tháng 8-1976. Muốn ăn miếng thịt cà ri hay thịt khô, phải đợi mấy ngày lễ lớn. Thường xuyên là cá biển ươn kho. Ươn phát thối thì cà-ri cá. Cá biển lừng danh đến nỗi tù nhân đặt cho những tên mỹ miều như: Trần Thị Lệ Đuối, Lệ Ngừ… Cuối cùng, các loại cá biển nhà tù mang chung tên của một ca khúc cách mạng:Đàn Ta-Lư. Bởi vì, tù nhân bị ghẻ mà ăn cá ngừ, cá đuối thì gãi bằng thích. Khi gãi ghẻ, tù nhân bảo gẩy đàn Ta-Lư! Tính tính tính tính tang tính tình … Đàn em reo vang, đàn Ta-Lư. Vừa gãi ghẻ, vừa nghe danh ca hạng nhất Hà Nội là em Tường vi hát Đàn Ta-Lư, sẽ giật giật tuyệt cú mèo. Chia cơm ồn ào gấp bội chia nước sôi. Đôi khi, đấm đá xảy ra giữa các ông tù trộm cướp với các ông tù mafia. Trưởng phòng giả vờ đui điếc. Báo cáo cán bộ, đêm nó nấu bao ni-lông, nó đổ vào mắt là mù.

Bữa cơm trưa vừa dứt là kẻng báo ngủ trưa. Cả phòng im lặng. Không ngủ thì ngồi im lặng. Bây giờ, phòng giam mới là cái lò nướng bánh mì đúng nghĩa. Nắng hừng hực trên mái tôn. Sức nóng hầm da thịt. Tù nhân mình trần, quần xà lỏn nằm nghiêng, nằm ngửa trên bục xi-măng. Mồ hôi tuôn xối xả. Nguyễn Hải Chí thấm ướt cái khăn tắm đặt lên ngực cho mát mà ngủ. Chừng thức giấc, cái khăn khô rom. Mồ hôi không ra ở ngực, nó ra ở lưng. Vài tù nhân quên Nội qui, cởi truồng nằm ngửa tênh hênh, ngáy pho pho. Thân phận con người như những con heo cạo lông phơi bày trên sạp bán thịt. Không hiểu tại sao tù túng thế, khổ cực thế mà tính dục vẫn chưa bị diệt. Kìa tù nhân cởi truồng nằm ngửa, khẩu đại bác đang dựng đứng. Và trong giấc mơ hoa ở lò nướng bánh, hắn đã bắn máy bay, đạn phọt lên! Hắn cựa quậy. Rồi hắn vội lấy khăn che dấu khẩu đại bác. Tôi ngồi dựa lưng vào tường quan sát. Chẳng biết một mai sống sót về, tôi có đủ khá năng diễn tả một buổi trưa hè trong một phong giam ở đề lao Gia Định? Tôi viết về những cuốn sách dính dáng tới nhà tù. Tôi tưởng tượng. Tôi viết mò. Tôi gian dối với độc giả. Tôi vừa tìm ra cái lý do văn học của chúng ta thiếu tác phẩm lớn, tác phẩm tầm vóc quốc tế, dù quê hương chúng ta đầy dẫy đề tài kích thước, để cống hiến cho các nhà vẫn thống lĩnh đỉnh núi trong suốt ba thập niên cách mạng, thù hận, chiến tranh, giải phóng, chia lìa, đổ vỡ, lưu đày, đói khổ, ngục tù… Nhà văn lỗi lạc của chúng ta ở miền Bắc đã bị cưỡng bức sa đọa hóa tư tưởng. Họ đã bị hoàn toàn tê liệt sự rung động và sáng tạo. Nhà văn lỗi lạc của chúng ta ở miền Nam thì ít sống, sợ sống, lười sống. Hãy đọc Sống chỉ một lần xem Mai Thảo sống ra sao. Sống loanh quanh thành phố, lang thang phòng trà, tửu điếm, hộp đêm. Sau một kinh qua vỡ núi lấp sông của dân tộc, Mai Thảo cứ nhởn nhơ sống theo phong cách đó và thản nhiên tái bản Sống chỉ một lần. Những tài năng đoạt giải nhất, giải nhì khác? Chưa có biến chuyển khác lạ. Vẫn nhai lại. Tôi xác định thêm một lần nữa: Tôi chỉ là người viết tiểu thuyết mưu sinh tầm thường, không đáng kể. Tôi kỳ vọng những tác phẩm lớn ở những nhà văn lỗi lạc của chúng ta. Không có, vì họ sợ sống. Thế Phong đã đưa ra một đề nghị lạ lùng: “Muốn có tác phẩm lớn, phải nhờ bọn thống trị lôi các nhà văn ra bùng binh Chợ Bến Thành, quất roi xuống thân phận họ, họ sẽ viết.” Có vẻ sa-đích. Mà đúng. Nhà văn của chúng ta thiếu phẫn nộ bởi lánh xa mọi phẫn nộ của dân tộc. Có kẻ đã thể nghiệm sự phẫn nộ, sự thống khổ của quê hương đấy. Kẻ ấy giương danh nhà văn chân chính, chê tư tưởng thiên hạ “Cao hơn giép râu cộng sản”, viết pho sách ngót nghét nghìn trang để chỉ phô diễn sự “Ăn vụng, ăn cắp, ăn tranh phần cơm heo”. Chẳng nên làm nổi danh kẻ này bằng cách nêu tên ông ta và tên “tác phẩm để đời” của ông ta. Tôi vừa vỡ lòng cay đắng, đang nhập môn thống khổ, nhưng tài còm của tôi vẫn khó hứa hẹn diễn tả nổi một buổi trưa hè trong một phòng giam của đề lao Gia Định. Thật sự mà nói, muốn có tác phẩm văn học lớn, chúng ta phải chờ đợi các nhà văn trẻ thế hệ sau 1975.

Kẻng báo thức lại khua. Tù nhân lại ồn ào. Vòi nước đã chuyển qua ô cửa gió. Như buổi sáng, nước đầy hồ rồi thì mỗi tù nhân có 10 giây tắm, gội không sát xà phòng. Cuộc tắm hà tiện nước của cách mạng chấm dứt khi vòi nước kéo mạnh ra. Người ta đã nhìn đồng hồ mà ban ân huệ tắm. Y tá xuất hiện với hai chai thuốc ghẻ xanh và vàng. Xanh là Bleu de méthylène. Vàng là gì, tôi không rõ. Vàng, nếu tôi đúng, là môn thuốc ghẻ cổ lỗ sĩ chế bằng diêm sinh và lưu hoàng, mùi hôi khó tả và xức ghẻ thì xót điếng người. Y tá rót thuốc xanh và vàng vô hai cái lọ thủy tinh mà Trật tự viên có bổn phận bảo quản. (Nhà tù sợ tù nhân tự sát hoặc sát hại nhau bằng mảnh thủy tinh). Thêm một hoạt cảnh đề lao. Ghẻ mủ, ghẻ nước, hắc lào đều bôi thuốc xanh, thuốc vàng. Hai tù nhân bôi thuốc cho nhau. Ghẻ đề lao ranh mãnh lắm. Nó cứ nhè “của quý’ mà lập chiến khu. Tù nhân nầy cởi truồng, chổng mông để tù nhân nọ bôi thuốc. Thuốc vừa bồi xong, tù nhân nọ vội lấy quạt quạt lia lịa. Vì thuốc xót vô cùng. Tù nhân bị bôi thuốc dẩy nẩy. Kẻ nhảy tăng tăng, kẻ quạt lia chia. Một vũ điệu ngoạn mục của đề lao Gia Định. Chừng hết xót, tù nhân đã được bạn bôi thuốc sẽ bôi thuốc trả nợ bạn. Và quạt. Bục tù biến thành sân khấu nhảy múa. Mà người biên soạn vũ điệu ghẻ là cách mạng, là Đảng quang vinh! Có tù nhân ghẻ tứ tung bèn sơn thuốc xanh khắp mình mẩy và được phong làm chim xanh, mang tên Mỹ: Mr. Blue Bird. Ông Thế kể đã có tù nhân chết vì … ghẻ, tháng trước, tại 6C-1. Tù nhân tên Tuấn, trung úy cảnh sát đặc biệt. Anh ta vốn mắc bệnh phong tình. Vô đề lao, anh bị ghẻ mủ. Anh ta tuyệt vọng, khước từ uống và bôi thuốc của vợ gửi vào. Anh ta khước từ tắm luôn. Ghẻ ăn chung quanh mắt anh. Nhà tù mời vợ anh vô thuyết phục anh. Anh vẫn khước từ. Người ta đưa anh vô bệnh viện Nguyễn Văn Học. Anh chết. Bởi anh tình nguyện chết.

Hoạt cảnh ghẻ hạ màn. Cơm chiều đến. Cơm chiều giống cơm sáng. Chia chác, ăn uống, rửa ca muỗng xong, tù nhân chơi đô-mi-nô, cờ tướng, chuyện trò, hút thuốc, nhớ vợ con, mong đợi thả về và chờ kẻng báo ngủ. Thế đó, trừ những hôm thăm nuôi, mua hàng, họp cuối tuần, sinh hoạt ở các phòng giam đề lao Gia Định giống hệt nhau. Một ngày như mọi ngày. Cô đơn trong thống khổ. Rã rượi trong tủi nhục.

NHÀ TÙ : CHƯƠNG 10 ,THỐNG KHỔ NHẬP MÔN

-10-

Chuyến xe đời chập chùng hệ lụy đổ chúng tôi xuống một địa chỉ mới. Địa chỉ mới, với tôi. Với dân tộc tôi thì nó đã quen thuộc đến cũ mèm. Số 4 đường Phan Đăng Lưu, Quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh, là địa chỉ mới ấy. Trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, không ai cần biết số 4 đường Chi Lăng, tỉnh Gia Định. Những kẻ biết nó đều bất hạnh. Vì nó khoác cái nhãn hiệu hãi hùng: Đề lao Gia Định. Cũ hơn cả Nha Cảnh Sát Đô Thành, đề lao Gia Định do thực dân Pháp xây dựng. Nó nằm giữa Tòa án Gia Định và Tòa Tỉnh trưởng Gia Định. Nhà tù luôn luôn sát khít tòa án. Hình phạt và công lý gắn bó nhau. Ông Ngô Đình Diệm làm cách mạng nhân vị, ông ta chỉ xoá tên… phế đế Bảo Đại. Đề lao Gia Định vẫn còn nguyên. Và cách mang nhân vị của ông ta dùng đề lao Gia Định giam nhốt những người đối lập chế độ nhân vị. Cơ chừng nhân và vị đã nặng mùi, từ đó. Trong sự nghiệp khai phóng tự do, dân chủ của Hoa Kỳ, người Mỹ ít quan tâm tới đề lao Gia Định. Bằng tinh hoa kiến trúc Hiệp Chủng Quốc, họ đã tặng Việt Nam Cộng Hòa hai nhà tù thật hiện đại, thật tư bản. Để nhốt và khai thác Việt Nam cộng sản. Ở Tô Hiến Thành. Đôi mắt chú Sam đã nhắm tít khi ngang qua đề lao Gia Định. Do đó, đề lao không được hưởng văn minh và tự do Hoa Kỳ. Nó bệ rạc cả nội dung lẫn hình thức. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, cách mạng vô sản tiếp quản đề lao. Rồi, vì Chi Lăng đổi tên Phan Đăng Lưu, dân chúng tự ý đổi tên đề lao Gia Định thành nhà tù Phan Đăng Lưu, mặc dù, nhà nước cộng sản ghi rõ trên văn thư là Trại T-20. Vị anh hùng giai cấp Phan Đăng Lưu đã được phục sinh như một cai ngục vĩ đại của một nhà tù mà cổng treo tấm bảng nền vàng chữ đỏ: Không có gì quý hơn độc lập tự do! Câu nói bất hủ của Hồ Chí Minh chỉ sáng nghĩa và sáng giá khi con người vào tù bởi độc lập, tự do. Và con người phải chui qua cái cổng, chui dưới tấm bảng nền vàng chữ đỏ “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Dân tộc Việt Nam đã loay hoay với độc lập, tự do ngót nửa thế kỷ. Chúng ta loay hoay giành độc lập, tự do giữa chúng ta. Rốt cuộc, mãi mãi, chúng ta ngậm ngùi “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Người Việt Nam đã nhân danh cái của thiên hạ mà tàn sát nhau. Chưa ai chịu truy nã phận mình. Chúng ta điên rồ trong trò chơi của ý thức hệ. Và tàn cuộc, chúng ta hành hạ lẫn nhau. Chưa đủ, chúng ta thù hận nhau, chém giết nhau. Khi ấy, cánh đồng mầu mỡ quê hương, cỏ dại nhiều hơn lúa.

Bạn biết chợ Bà Chiểu chứ? Đằng sau Lăng Ông ấy mà! Bên đây đường, cổng đề lao. Bên kia, hông chợ. Biên giới của tự do và tù đầy ngắn ngủn. Chuyến xe đời chập chùng hệ lụy qua cổng chính. Cổng khép kín ngay. Xe ngừng lại. Tấm vải bố kéo lên. Chúng tôi, hai người chung một chiếc còng tay, nhảy xuống đất. Người ta mở cổng và lùa chúng tôi vào sân trong kín đáo. Buổi chiều hôm ấy không có nắng. Trời âm u. Chúng tôi ngồi trong sân thứ hai. Chúng tôi đi đứng tự do ở cái sân nhỏ, chung quanh tường cao giăng giây kẽm gai ngọn đỉnh. Một bạn tù vỗ vai tôi:

– Duyên Anh.

Tôi nhận không ra.

– Thế Viên đây mà.

Thế Viên, trời ơi, tác giả thi phẩm ướt tình Người yêu tôi khóc, giáo sư văn chương của trường Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ Tho! Năm nào, anh đã giới thiệu tôi với cử tọa buổi diễn thuyết của tôi ở trường Gioan 23, Định Tường. Sau đó, chúng tôi sang Cồn Phụng, thăm ông Đạo Dừa. Thế Viên có mái tóc bồng bềnh, đôi mắt thật thi sĩ. Anh chưa từng chống cộng sản. Một nhà giáo tận tâm, một thi sĩ lãng mạn, suốt đời ca ngợi tình yêu, tại sao anh vào tù?

– Hệ lụy, anh Duyên Anh à!

Thế Viên đã về Nhà Trang, dạy ở đó cho đến đại nạn hồng kỳ. Là giáo chức, không một ngày quân trường, anh chỉ bị học tập tại nhiệm sở của anh vài tuần và tiếp tục nghề nghiệp theo giáo trình, giáo án của chế độ mới. Tháng 4-1976, anh vô Sàigòn thăm Doãn Quốc Sĩ, ăn cơm trưa với Sĩ. Đáng lẽ, Thế Viên về sớm là thoát nạn. Định mệnh của anh nằm trong sự quyến luyến của Doãn Quốc Sĩ. Sĩ đã lưu bạn hiền uống cà phê, kéo dài những phút hàn huyên. Tác giả Dòng sông định mệnh đâu biết người ta đã bủa lưới vây bắt anh. Công an ập vào căn nhà trong căn hẽm dài đuờng Thành Thái. Người ta còng tay Doãn Quốc Sĩ. Người ta đọc lệnh bắt anh. Tác giả Đoàn người hóa khỉ đã tận mắt nhìn người hóa khỉ. Thế Viên dính lưới một cách oan uổng. Không hề có lệnh bắt anh. Anh không được Trần Bạch Đằng chiếu cố. Trần Bạch Đằng vẫn chưa cho anh “một chỗ đất sống dưới ánh mắt trời”. Những tên công an nằm vùng, gã sinh viên đại học Vạn Hạnh, học trò cũ của Thế Viên, đã đích thân còng tay thầy của nó và đưa thầy nó vào cuộc phiêu lưu ê chề, nhục nhã. Nó gặp thầy, không nghiên mình như Carnot, mà bắt thầy nó đứng nghiêm. Và nó bảo thấy nó can tội thi sĩ phản động!

Tên sinh viên đại học nằm vùng này không phải là tên cộng sản mầm non học thói Đặng Trần Thường thứ nhất và duy nhất. Trước nó cả ba chục năm, nhà văn Lan Khai, tác giả Cái hột mận, Ai lên phố cát, đã bị học trò bỏ vào rọ tre, đeo đá nặng và thả xuống sống chết sặc sụa. Thế Viên may mắn hơn Lan Khai, Khái Hưng. Anh không bị đếm tung từng chết trầm. Anh chỉ bị học trò bắt đi… học tập. Người cộng sản sẽ trả lời thế nào về tình nghĩa, về đạo đức, về phẩm cách qua sự việc bắt nhốt Thế Viên? Bản chất của công sản là phản bội. Lãnh tụ Hồ Chí Minh đã thủ tiêu bao nhiều bằng hữu, bao nhiêu đồng chí sáng giá hơn mình? Chúng ta chưa có bằng chứng cụ thể. Bằng chứng cụ thể là thi sĩ Thế Viên được học trò cộng sản đền ơn bằng còng, xích và ngục tù. Những anh cộng sản làm dáng ở Paris, ở Bonn, ở Amsterdam, ở Londres, ở Washington, có gợn chút ưu tư? Sự mỉa mai không dành cho những anh tập sự phản bội, tập sự dẫm nát tình nghĩa. Mà, hơi buồn, lại phải dành ưu tiên cho ông nhà văn Kẻ Tà Giáo. Ông nhà văn Kẻ Tà Giáo là con rể ông Trương Gia Kỳ Sanh, là em rể tên cộng sản khát máu Trần Bạch Đằng. Cả nước đều rõ. Trần Bạch Đằng tuyên bố: “Bọn văn nghệ Sàigòn không có đất sống dưới ánh mắt trời”. Cả nước đều rõ. Ông nhà văn Kẻ Tà Giáo tham dự phiên họp đầu tiên của Hội Văn Nghệ Giải Phóng. Cả nước đều rõ. Ông nhà văn Kẻ Tà Giáo được Trần Bạch Đằng cài đi nằm vùng ở Tin Sáng của bọn Ngô Công Đức, đi Bắc về Nam. Cả nước đều rõ. Ông nhà văn Kẻ Tà Giáo sang Mỹ dẫn lời Bertol Bretch: “Buồn cho thời đại, nói chuyện với cỏ cây cũng là một tội lỗi”. Nhiều người biết. Nhiều báo đăng. Chúng ta khó chịu cái thái độ bất lương trí thức của ông nhà văn với. Người nên nói lời của Bertol Bretch chỉ là Vũ Hoàng Chương, là Thế Viên. Những kẻ nhởn nhơ công tác theo chị thỉ của Trần Bạch Đằng, một giai đoạn nào đó, trong khi, các thi sĩ “nói chuyện với cỏ cây” chết rũ trong tù là những kẻ không được tha thứ. Song, người “quốc gia” vốn rộng lượng. Và những kẻ đã cộng tác với kẻ thù của họ, vẫn ngông nghênh, vẫn mục hạ vô nhân, tưởng thiên hạ mù và câm hết, ong óng một giọng bịp bợm rẻ tiền: “Tôi không nuôi một ảo tưởng nào. Và điều mong ước dĩ nhiên của tôi là tiếp tục dùng ngòi bút để phục vụ người Việt đang định cư ở hải ngoại”. Nuôi ảo tưởng nào cho một giai đoạn nào? Nước Mỹ không có Trần Bạch Đằng, sẽ có ai? Đó là ưu tư của người “quốc gia”, nếu họ còn chống cộng và còn tham vọng giải thoát quê hương. César nói: “Kẻ thù có thể tha thứ, kẻ phản bội phải ném vào chuồng cọp”. Những kẻ phản bội, những tên ở lại, đã xách súng lùa anh em đi họp chào mừng cộng sản, đã viết báo cộng sản, đã làm việc với công sản và đã vượt biên bằng thuyền và bằng máy bay sang Mỹ, sang Pháp. Bằng chứng rành rành, đọc tên đứa nào, đứa nấy cúi mặt câm nín. Thì vẫn công khai múa mép và múa bút. Thì vẫn được hoan nghênh như chiến sĩ đấu tranh cho tự do, dân chủ. Và nạn nhân của chúng nó thì bị vùi dập tơi bời, bị dồn vào cuối đường cô đơn, tuyệt vọng. Người “quốc gia” còn một hạng, mà dưới mắt và trong ý nghĩ đốn mạt của nó, ai cũng là cộng sản, nếu đã nằm tù cộng sản và nếu trốn khỏi đất nước muộn màng. Cái hạng chống cộng bằng sách vở này, chưa một phút nhìn giép râu dẫm trên đường phố Sàigòn, chưa một giây nếm nổi chua xót của tổ quốc, quá khích đến tội nghiệp. Có lẽ, sự cường điệu quốc gia chỉ nhằm khoả lấp một co cẳng chạy dài, vất lại một quá khứ bần tiện.

– Gia đình tôi chưa biết tôi ở tù. Thế Viên buồn bã nói.

– Họ đã cho viết thư mà. Tôi nói.

– Tôi đã viết hai lần. Không thấy gia đình trả lời, không có ai gửi quần áo, thuốc men, tiền bạc.

– Anh còn tiền không?

– Còn. Tôi đăng ký mấy chục.

Chúng tôi được lệnh xếp hàng và ngồi yên lặng. Tôi nhìn sang phía Thế Viên, thi sĩ của tình yêu. Người yêu của anh, những người yêu của anh còn khóc? Tại sao người ta không bắt chủ nhiệm nhật báo Xây dựng, nhật báo Tự Do chống cộng khét lẹt? Tại sao người ta không bắt Thanh Lãng? Câu trả lời có phần lợi cho sự “ân trả oán đền” của cộng sản. Linh muc Nguyễn Quang Lãm đã lôi Thái Bạch ra khỏi Tổng nha Cảnh Sát quốc gia và bảo đảm hành vi “nằm vùng “ của nó. Linh mục Thanh Lãng đã xin ông Nguyễn Văn Thiệu thả Vũ Hạnh và cho nó một chỗ ngồi ở Trung tâm Văn Bút Việt Nam. Ban chấp hành Văn Bút bình yên. Thế Viên không chống ai thì lận đận. Chắc chắn, anh đã không thích May cờgiống thi sĩ Tướng Lĩnh, không thích Ngày mai giống thi sĩ Hoàng Trúc Ly gửi đăng Sàigòn giải phóng vội vàng. Anh cũng không thích giống văn sĩ Lan Đình, tuyết hận Nguyễn Mạnh Côn chê Từ hôm khởi chiến của mình, bị loại ra giải văn học tổng thống bằng loạt bàiThâm cung bí sử trên Tin Sáng. Anh ngồi chồm hổm, thi sĩ của chúng ta. Nông dân Moritz của Giờ thứ hai mươi lăm chỉ vì trời mưa, chỉ vì vợ đẹp mà lưu lạc mấy chục nhà tù phát xít, đồng minh. Thi sĩ Thế Viên chỉ vì ly cà phê hàn huyên, chỉ vì Người yêu tôi khóc mà đã lưu lạc hai nhà tù cách mạng. Tôi đi tù không oan uổng. Sự hèn mọn của công sản ở đó, và từ đó, loài người có thể phán xét công lý cộng sản.

Chúng tôi bị phân thành ba nhóm. Ba tên công an chức sắc của đề lao Gia Định xuất hiện. Họ ngó chúng tôi như lái buôn nô lệ chọn người. Cười nói một lúc, họ thỏa thuận, mỗi tên nhận một nhóm. Nhóm của tôi vào sau cùng. Chúng tôi, Hồng Dương, Nguyễn Hữu Hiệu và tôi, được đưa vào khu C-1. Dương Nghiễm Mậu, Đặng Hải Sơn, Thế Viên đến khu khác. Đề lao Gia Định, thời Pháp đô hộ có mỗi khu A. Khu A cũ kỹ, ẩm thấp, nhưng đầy đủ “tiện nghi”. Người Pháp lập một thư viện nhỏ, tràn ngập tiểu thuyết trinh thám, gián điệp. Sang thời cách mạng nhân vị, ông Ngô Đình Diệm trùng tu khu A và cất thêm khu B mái phẳng xi-măng cốt sắt. Qua cách mạng vô sản thống nhất cả nước, Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc” hơn thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, xây liền một mạch hai khu C-1, C-2. C-1 và C-2 mỗi khu có 7 phòng và 12 cachots. Cachot hay biệt giam đối diện phòng giam tập thể. Biệt giam khu A có phòng nhốt bốn, năm tù nhân, còng tay, xích chân dính chùm*. Trưởng khu C-1, bí danh Sáu Cầu, người Quảng Ngãi. Ông ta bảo chúng tôi đứng xếp hàng. Một công an quản giáo dở sổ ghi tên tù nhân mới nhập trại. Sau này, tôi biết tên hắn là Hùng, dân Củ Chi “thành đồng cách mạng”. Tù nhân tặng hắn biệt danh Hùng kẽm gai.

Hồng Dương rất thông minh. Anh ta kéo tôi đứng cuối cùng hàng. Để có thể biết anh em ai vào phòng nào. Nguyễn Hữu Hiệu vô phòng 3 C-1. Hồng Dương đã xong thủ tục. Tôi là kẻ cuối cùng. Khám xét hành lý của tôi hồi lâu, gã quản giáo cật vấn lý lịch:

– Họ và tên?

– Vũ Mộng Long.

– Bí danh?

– Không có.

– Nghề gì?

– Viết văn.

– Viết tiểu thuyết ba xu hả?

– Phải

– Bút hiệu?

– Duyên Anh.

– A, Duyên Anh viết Điệu ru nước mắt.

Sau khi ghi lý lịch của tôi vào sổ tù, sổ đoạn trường, gã quản giáo hỏi tôi:

– Tại sao anh viết Điệu ru nước mắt?

Tôi đáp:

– Tôi sẽ trả lời với cán bố chấp pháp.

Có nghĩa rằng, cai ngục, anh không có quyền thẩm vấn tôi. Gã quản giáo cay cú. Hắn cũng là tên nằm vùng. Tôi hiểu hắn đã đánh dấu tôi. Đó là điều dại dột, là sự lãng quên lời dặn “Chớ dại chết ở cái lỗ chân trâu”.

– Anh đã viết Kẻ bị xóa tên trong sổ bụi đời?

– Phải.

– Bao giờ anh viết Kẻ được xóa tên trong sổ tù?

Hắn không cho tôi trả lời, vẫy tay xua tôi ra chỗ Hồng Dương. Một tên cai ngục dẫn tôi đến phòng cuối dãy. Chúng tôi vào phòng 6 C-1. Ở đây, tôi gặp lại các anh em của tôi: Thanh Thương Hoàng, Chóe, Thân Trọng Kỳ, Cao Sơn.

Như tất cả các phòng giam tập thể của C-1 và C-2, 6 C-1 của tôi thấp lè tè, lợp tôn. Nó dài tám thước, rộng bốn thước. Hồ nước, cầu tiêu ở trong đó luôn. Người ta xây bục xi măng cao khỏi nền đất hai gang tay làm bục ngủ. Có một miếng trống, thấp gần cửa để chia cơm nước. Trần phòng là những thanh xà mười tròn, chồng lên nhau thành hình vuông, đầu người chui không lọt. Chẳng hề có cửa sổ, cửa gió. Chúng tôi tiếp dưỡng khí qua ô nhỏ vừa bằng cuốn sách bỏ túi trổ giữa cửa sắt. Trưởng phòng và Trật tự viên dùng dây đo lại toàn phòng để chia chỗ nằm đồng đều cho tù nhân. Khi phòng đã chật, thêm tù nhân mới là một sự vất vả. Chia chỗ thường dẫn đến gây gỗ, mỗi tù nhân bị bớt một chút xíu chiều rộng. Cuộc chia chỗ kéo dài nửa tiếng, tôi được đúng hai gang tay chiều rộng. Bằng hai gang đo này, tôi chỉ có thể nằm nghiêng hay nằm ngửa, đặt đôi tay lên bụng, không nhúc nhíc. Hành lý của tù nhân được treo lên những thanh sắt trần sát tường. Tù nhân có, ít nhất, một cái bị cói và một cái giỏ plastic. Bị đựng kẹo, bánh, đường, bột, mì vụn, thuốc lá, thuốc cảm sốt và quần áo. Giỏ đựng chén, muỗng, nước mắm, thức ăn mặn. Tất cả bằng nhựa. Mọi đồ kim khí bị nghiêm cấm. 6 C-1 thêm Hồng Dươngng và tôi, là 52 người. 52 người chiếm một diện tích 32 thước vuông tính cả cầu tiêu, hồ nước, sàn tắm, chỗ chia cơm nước.

Xong thủ tục nhập phòng và sau bữa cơm chiều vội vã, tôi có dịp tìm hiểu phòng 6 C-1. Trưởng phòng, thiếu tá cảnh sát đặc biệt Lâm Văn Thế, ngoài 50 tuổi, điềm đạm, nhẫn nhục. Ông Thế thuộc thế hệ kháng chiến Nam Bộ. Năm 1954, thay vì xuống Cà Mau ra Bắc tập kết, ông ta đã ngược lên Sa Huỳnh. Nửa đường, ông ta bỏ về. Rồi ông cộng tác với cảnh sát quốc gia, tự học thi đậu tú tài, tự học Anh ngữ. Trong tù, ông ta học chữ Nho bằng phấn viết trên bục xi măng với ông hiệu trưởng trường Tàu. Phấn bị cấm, ông nhúng ngón tay vào ca nước mà học. Ông Thế bị bắt ngay đêm 30-4-75 tại nhà. Trật tự viên, Dzũng quan tài, một du đãng trẻ, lừng danh sau vụ cướp súng của bộ đội, bắn nhau với công an, bị bắn què cẳng và bị đánh gãy răng. Thư ký phòng là nghị viên hàng tỉnh Nguyễn Tấn Lợi. Đó là ba chức sắc của phòng 6 C-1. Ngoài ra, phòng 6 tập hợp đủ thành phần: Tư sản mại bản Chợ Lớn, phản động trẻ tuổi, đầu trộm đuôi cướp, án phạt của chế độ cũ về những thành tích bất hảo. Và nhà văn, nhà báo, nhà vẽ, nhà đạo diễn! Cái xã hội tù ô hợp nầy chửi thề văng tục suốt ngày, kèn cựa nhau từng tí. Nó khác xa với sĩ quan trình diện học tập hay công chức cao cấp trình diện học tập. Trình độ văn hóa và tâm tính hoàn toàn chênh lệch nên đối nghịch nhau liên miên. Tôi được nhiều độc giả du đãng và phản động trẻ săn sóc. Và đó là những hệ lụy suốt thời gian tôi trọ ở khách sạn quốc doanh Đề Lao Gia Định.

Năm chúng tôi, Thanh Thương Hoàng, Chóe, Hồng Dương, Thân Trong Kỳ và tôi, xúm quanh nhau hút thuốc lá, chuyện trò.

– Chúng mày là chuyến xe vét đấy. Bên Sở chỉ còn một Nguyễn Sĩ Tế vẫn nằm cachot. Thanh Thương Hoàng nói.

Tác giả Cánh chim mỏi đưa tay gãi háng:

– Tao bị ghẻ nặng rồi.

Anh tiếp:

– Đêm sang đây thật hãi hùng. Chúng tao cứ tưởng nó đem đi thủ tiêu.

Làm sao tôi quên đêm ấy. Bản lề phòng giam kèn kẹt ghê rợn. Nó nhiễm đầy Đảng tính nên kỹ thuật dọa nạt của nó tuyệt vời. Một kẻ bất cần đời như Hoàng Anh Tuấn mà nghe đọc tên mình thì rối loạn, chụp vội mỗi cái điếu cày ra đi, quên cả hành lý. Con người rất con người là phải biết sợ bỏ rọ ngâm sông. Thiếu nỗi sợ đó, con người vô tri giác. Và phê bình nỗi sợ đó, phán xét nỗi sợ đó, dành cho các phán quan Nói Phét ở những nơi bày tỏ sư dũng cảm không bị đánh thuế. Tôi đã thấy các vị phán quan bệnh hoạn này trên đất nước của Lincoln. Hình như, tất cả đều ngậm miệng, đều khom lưng trước quyền uy ảo tưởng Hoàng Cơ Minh. Chủ nghĩa tôi mọi thường tỏ ra thiếu hào sảng với đồng nghiệp oan khiên và đồng bào oan khổ. Một giây Hoàng Anh Tuấn thôi, sẽ không còn nhớ chụp cái điều cày ra đi. Mà sẽ đứng nghệt mặt, xón đái ra quần. Vậy thì, chưa kinh quá khốn cùng, nên câm họng, chớ nên luận anh hùng hay chụp mũ bừa bãi. Không hề kiếm nổi một anh hùng tù ngục trong ngục tù cộng sản đâu. Chỉ có những kẻ bất trí, những kẻ thiếu chí lớn, ngông nghênh với đám cai tù chăn trâu cắt cỏ, tự hạ thấp mình cùng lũ công an nói ngọng. Để chết dại ở lỗ chân trâu. Thảng hoặc, những anh hùng tù ngục được vinh tôn bởi một tù nhân vô loại “xuống bếp ăn vụng thit, ăn cắp cơm cháy, ăn tránh phần cơm heo”, tưởng đã chẳng hiển hách, còn bị nhục thêm. Không có gì xấu hổ để bị bắt hay tình nguyện vẽ tranh Hồ Chí Minh trong tù cả. Biết nhẫn nhục “vẽ chân dung Hồ Chí Minh cũng như vác củi, cuốc đất”. Sự bảo trọng thân xác kiểu “cũng như” đã phô bày sự tồn tại lãng nhách trong một pho hồi ký thuật viết lách còn phải học tập lâu ngày. Lãnh tụ cộng sản không chấp nê những tiểu tiết trong nhà tù. Không có thằng lãnh tụ cộng sản nào làm anh hùng trong nhà tù cả. La fin justifie les moyens. Chúng nó hèn hạ để tồn tại, để trở thành “cha già dân tộc”, để trở thành Tổng bí thư và Uỷ viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng. Trong Ngục trung nhật ký, Hồ Chí Minh không ngần ngại tự khai:

Ở đời trăm sự đều cay đắng
Cay đắng đâu bằng mất tự do
Mỗi lời mỗi việc không tự chủ
Để chúng dắt đi tựa trâu bò.

“Cha già dân tộc”, chủ tịch Hồ Chí Minh “vĩ đại sống mãi” đã mất thế tự chủ, đã biến thành trâu bò cho cai ngục dắt dẫn, sai bảo. Thế giới đã quên cái hèn của Hồ Chí Minh, chỉ còn nhớ cái vĩ đại của một người đọc Tuyên Ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, đánh bại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Chúng ta đã không khai thác cái khía cạnh ở tù hèn hạ của lãnh tụ cộng sản. Chúng ta chỉ khai thác cái khía cạnh ở tù hèn hạ của chúng ta. Không hiểu nổi tâm sự và chí lớn của đại bàng, bằng thù vặc cá nhân, bằng đố kỵ hẹp hòi, bằng kết tội và phán xét thiếu suy diễn và a dua, những con chim sẽ mãi mê lép nhép. Rốt cuộc, cái tư tưởng anh hùng tù ngục nằm gọn trong tiếngăn: “Ăn vụng, ăn cắp, ăn tranh”. Và nó chỉ có thế. Nó không thoát nổi thứ địa ngục tồi tệ với mấy trăm trang sách vô tích sự, viết lấy được, mà kiên nhẫn doc, người ta dễ dãi cách mấy cũng khó tìm nỗi hạt bụi thông minh, vết chấm tài hoa.

– Nhưng mà hên. Chóe nói.

– Hên sao? Tôi hỏi.

– Vừa sang tới đây, nó lùa chúng tao vào hội trường. Anh em đủ mặt. Thiếu anh Tế và bọn mày. Đang đêm, Mai Chí Thọ đến.

Thanh Thương Hoàng ngừng lại, kéo một hơi thuốc lá. Chậm rãi, Chiểu** tiếp:

– Nó thăm hỏi chúng tao. Tình cảm ra phết. Bố Côn đứng phắt dậy, đại diện anh em xin xỏ. Anh em buồn quá. Bố ấy đói thuốc đâm ra ngớ ngẩn. Thằng Trịnh Viết Thành nổi đóa. Tao phải nói bố Côn không đại diện ai cả, bố ấy đại diện cho riêng bố ấy thôi.

– Rồi sao?

– Mai Chí Thọ cười.

– Rồi sao?

– Chúng tao yêu cầu gặp vợ con. Mai Chí Thọ ô-kê. Thằng nầy thủ đoạn vô song. Nó bảo anh em ghi địa chỉ để nó sai người đi báo gấp. Và sáng hôm sau, chúng tao gặp vợ con, tiếp tế ê hề … Chúng mày sẽ được gặp vợ con.

– Sang đây làm việc gì chưa?

– Chưa. Nó quên rồi.

Anh em đủ mặt. Thế là, ngoài nhà văn, nhà báo quân đội đi trình diện học tập theo diện sĩ quan, đám văn nghệ sĩ và ký giả bị bắt trong chiến dịch 2-4-76 đã bị lùa hết về đề lao Gia Định, trừ Nguyễn Sĩ Tế vẫn cô đơn ở cachot Sở Công An.

– Phòng 5C-1 có Doãn Quốc Sĩ, Sao Biển, Hoàng Vĩnh Lộc, Vương Hữu Đức, Minh Đăng Khánh. Anh em khác trụ trì khu A, khu B, Chiểu nói. Được gần gũi nhau cũng đỡ buồn.

Khi kẻng tù báo ngủ Chiểu nói riêng với tôi:

– Ngày về xa lắm đấy, Duyên Anh ạ! Chuyện buồn nhỏ nhặt liệu mà quên.

Tôi về chỗ của tôi. Không ai được phép giăng mùng. Dzũng quan tài muốn chia máu đồng đều cho muỗi. Vì 52 tù nhân nhồi nhét vào diện tích 32 thước vuông nên Trật tự viên Dzũng quan tài đặt lệ:

– Cấm nằm co kiểu xếp thìa.

– Cấm nắm kiểu chân nầy gác lên đầu gối chân kia.

– Sắp lớp kiểu cá mòi hộp, đầu anh này là chân anh kia nằm cạnh.

– Cấm tiểu tiện ban đêm.

Chúng tôi tuân lệnh. Anh mập nằm nghiêng, anh gầy nằm ngửa. Tất cả nằm thẳng không nhúc nhích. Tôi nằm cạnh Nguyễn Tấn Lợi và Chóe, hai tên cùng to xác. Tuy kẻng tù đã điểm nhưng ngọn đèn nê-ông không tắt. Nó sẽ sáng đến lúc điểm danh sớm hôm sau. Đêm đầu, lạ nhà tù, tôi khó nhắm mắt. Nhớ câu thơ của Sông Hồ “Chuyện buồn nhỏ nhặt liệu mà quên” mà Thanh Thương Hoàng vừa khuyên vừa khuyến cáo, tôi suy nghĩ mãi. Có lẽ, mọi chuyện buồn nhỏ nhặt hết, kể cả chuyện buồn ở tù. Những ngày còn nằm bên Sở Công An, tôi đã ao ước chuyển trại. Tôi muốn biết khoảng 20 nhà tù trong thời gian ba năm. Tôi thiếu cái thung dung của Dương Nghiễm Mậu. Mậu tính mười hai năm. Tôi chỉ dám tính một cái mốc. Cộng sản đặt mỗi mốc tù ba năm. Nếu tôi độc thân như Mai Thảo, Như Phong, mọi việc quá dễ dàng. Tôi có người vợ yếu đuối, đau ốm quanh năm và ba đứa con còn nhỏ dại. Nằm tù, mà cứ lo chuyện xảy ra ngoài đời thì mau héo hắt lắm. Tôi vào tù, chắc chắn, bằng hữu đã sợ vạ lây mà xa tránh. Nghĩ ngợi lung tung, rồi ý nghĩ lại trở về nồi cháo thịt chiều 8-4-76. Tôi thèm gặp vợ con tôi để hỏi nồi cháo thịt có bị cháy đen. Nồi cháo hay thân phận tôi? Chóe đang ngáy pho pho. Lợi đã co một chân và gác chân kia lên đầu gối chân co. Mồ hôi của hai tên phì lũ chảy sang chỗ tôi khiến lưng tôi nhơm nhớp. Tôi nhổm dậy, dựa lưng vào tường, kiếm thuốc lá hút và quan sát năm mươi mốt ổ bánh mì trong lò. Có mỗi ô cửa gió, dưỡng khí ít, thán khí nhiều, mà con người vẫn sống, vẫn ăn, vẫn ngủ. Tiếng ngáy, tiếng gải ghẻ soàn soạt, tiếng mớ tạo thành một hợp âm. Thỉnh thoảng, cái chân gác lên đầu gối của anh này rơi bịch xuống ngực anh kia, hay chân anh kia đạp trúng đầu anh nọ, thì những tràng chửi thề văng ra. Nhưng tù nhân cứ ngủ. Mùi vị đề lao mới ghê. Mồ hôi chua, hôi nách, mũ ghẻ và mùi cầu tiêu, quyện lấy mùi thuốc lá, thuốc lào, nước mắm, mắm ruốc … Cơ hồ, tôi thoáng thấy mùi đau khổ.

Thả hồn theo khói thuốc, tôi về gõ cổng nhà tôi. Im lặng. Bên ngoài cũng đã là một ngục tù. Và vợ con tôi đang thoi thóp trong ngục tù bao la đó…

*Đọc Sỏi Đá Ngậm Ngùi, cùng một tác giả. Nam Á Paris xuất bản 1985.

**Tên thật của Thanh Thương Hoàng là Nguyễn Thanh Chiểu.