Ngày 30 tháng Tư của tôi : Đếm ngược

trinhthanhthuy

Tôi chạy hốt hoảng tìm Ti, tìm Hát, tìm En trong giòng xe cộ xuôi ngược nhốn nháo. Không một chiếc xe ôm nào chờ chực ở góc đường. Tất cả phương tiện chuyên chở công cộng đều vắng bóng. Dường như họ ngầm bảo nhau biến mất khỏi thế giới loài người. Tôi nhận được tim mình đập nhanh và chân bước như trong chiêm bao. Cơn chiêm bao có vuốt của con ác thú cào nhẹ thành bao tử. Khuôn mặt thành phố câm lặng một cách ngột ngạt tưởng chừng có thể bùng cơn bão lửa. Tôi thấy đói, cổ họng khô ran, những chỗ da non gặp mồ hôi ẩm bắt đầu ngứa, hậu quả của ba ngày chưa tắm. Khi nhận được điện tín bố nhắn “Bà mất, về gấp”. Tôi biết bố báo tin ngầm gia đình sắp đi. Tôi năn nỉ, cạy cục mãi thượng cấp mới cho phép về Sài Gòn chịu tang. Thật ra bà tôi mất lâu lắm rồi. Vừa trình diện bộ tổng tư lệnh xong được tin đêm nay di tản, tôi vội vã tìm phương tiện về nhà.

Suốt một tiếng đồng hồ tôi không tìm được xe nào chịu cho quá giang. Tôi lạc lõng giữa Sài Gòn mà như lạc giữa thành phố rong rêu bỏ hoang khi nền văn minh địa cầu sụp đổ. Tiếng gọi xe chìm vào hư không, mất hút vào bãi sậy ảo ảnh xao xác gió nóng. Đôi mắt Vi lúc ẩn lúc hiện. Mặt em thấm đẫm mồ hôi bên chai nước biển nối thòng sợi nylon xuống cổ tay gầy ốm. Em oà khóc, gào thét câu hận thù cay nghiệt khi phải phá bỏ đứa con đang thai nghén của mình. Tôi mím môi tàn nhẫn. Xin lỗi em, anh không còn chọn lựa nào khác.

Vi nằm bất động trên giường trong một góc khuất căn phòng bệnh viện. Tôi bảo em tôi đã lỡ lầm để một sự sống lọt vào khe hở đó có cơ hội tượng hình. Tôi từ chối quyền sở hữu nó. Tôi không có quyền tư hữu bất cứ một vật gì khi hiện tại và tương lai u ám, bất định. Tôi đã mất đi tuổi trẻ đời mình. Tôi không muốn gì nữa cả. Xin lỗi em, xin lỗi Vi. Em nhìn trừng trừng lên trần nhà, lại rấm rức khóc. Khóc đi em vì đó cũng là giọt nước mắt của tôi, thằng con trai khốn kiếp sợ hãi trách nhiệm, sợ hãi mối ràng buộc bên đời. Tôi, một con muỗi mùa đông say mê màu đỏ, hút hết dòng máu ấm trong em rồi vỗ cánh bay xa. Em giận dữ giơ tay quơ đập nguyền rủa. Chết đi mày, nếu có tái sinh cũng ngàn năm thân ruồi truyền kiếp.

Vi lắc lắc đầu, em tan giữa dòng người trôi chảy. Em xanh hơn lá mạ, tay không ngừng chỉ trỏ về hướng biển. Em xé tung áo quần mang chiếc bụng lớn chạy tràn trên cát. Biển xanh hơn em. Em loang loáng nước, loang loáng sóng, loang loáng thời gian. Tôi van em đừng chạy nữa. Tôi cần dừng lại. Tôi không thể đuổi kịp em. Mỗi người cần có một khoảng khắc thời gian để sống, để ngơi nghỉ. Vi càng chạy càng xa và chìm dần vào đường chân trời tím thẫm.

Tôi lột chiếc đồng hồ trên tay cho cuộc trao đổi. Người thanh niên đồng ý chở tôi về nhà. Tôi sẽ được gặp bố, mẹ, các em. Tôi phải đưa tất cả ra khơi đêm nay.

Ông Diệm đứng bên này bờ Bến Hải chõ kiếm sang phía Hà Thành hỏi ông Hồ: “Hoà hay Chiến?” Ông Hồ: “Chiến!” Ông Nhu vót tre, cắm cọc nhọn ra lệnh bọc làng vây xóm vào “Hàng rào ấp chiến lược”. Mây to gió lớn tỉ tê tiếng hò ai oán, bầy dơi chập chờn bay. Lửa ngùn ngụt cháy, tăng bào rực đỏ. Trái tim Thượng Toạ Thích Quảng Đức nguyên vẹn tinh khôi một thể giữa đường phố Sài Gòn. Lòng dân ta thán, hơi cay mịt mù âm khí, tăng lữ, phật tử chật tù. Đại Sứ Cabot Lodge gãi đầu gãi tai hỏi thuộc hạ “Con chim nuôi để hót mà nó không chịu hót thì phải làm sao? Thuộc hạ nháy mắt “Giết, giết”. Mụ phù thủy, tay không ngớt bỏ độc dược vào chếc nồi đen ngun ngút khói, miệng lẩm bẩm thần chú, trước mắt trang sách “Làm thế nào để giết một tổng thống” rộng mở. Hai anh em ông Diệm gục xuống ở một góc đường hầm.

Ti không biết làm gì khi cả nhà đi đâu mất, giao Ti nhiệm vụ trông nhà. Bố bảo ra bến Bạch Đằng tìm đường. Ti leo lên sân thượng ngồi ngắm chậu hoa Đại trổ bông vàng rực rỡ. Trời xanh lơ đãng thả vài cụm mây ngoằn nghèo che bóng nắng. Một chú ong mật bay vù vù vào mặt làm Ti hãi quá chạy bay xuống lầu ra đường đứng ngóng người. Từng đoàn xe nhà binh chạy qua thành phố. Những người lính có người cởi cả áo trận tung cao lên trời la to “Hoà bình rồi bà con ơi, hết chiến tranh rồi”. Một cụ già nở nụ cười hiền khoe lợi móm mém. Một thằng bé ngu độn gọi mẹ ầm ĩ, chạy theo đoàn xe reo hò tở mở.

Ti tự hỏi chuyện gì đã xảy ra. Chuyện của người lớn, ban ngày, bóng tối, súng đạn hay chết chóc. Em mù tịt chỉ biết phải theo gia đình đến trọ nhà người quen gần phi trường Tân Sân Nhất một thời gian, sửa soạn cho chuyến đi xa. Bố mua chỗ trên máy bay làm giả gia đình một người me Mỹ để được theo cô ta di tản về Hoa Kỳ cùng với chồng. Nhưng phút cuối ông chồng Mỹ lên phi cơ bỏ cả cô me Mỹ ở lại. Thế là gia đình Ti lại lếch thếch kéo nhau về, từ giã căn nhà trọ. Căn nhà có nuôi một heo mẹ và đàn con mũm mĩm. Đêm Ti thường mất ngủ vì tiếng heo ủn ỉn dưới lầu. Em hay trằn trọc nghĩ tới những chiếc mõm hồng không ngừng cử động khi chăm chỉ mút vú mẹ. Em mơ hồ thấy các bầu vú hồng căng sữa nở những đoá sen bềnh bồng thơm ngát mùi mạch nha. Thứ mạch nha quánh mật, đọng vị ngọt nơi cổ người con gái mới chớm dậy thì. Cây kẹo tuổi nhỏ ngày lên tám chập chờn trở về khuấy nâu váng ký ức. Ngày thằng Ka rủ Ti vào phòng nó, đòi mút chung cây kẹo trên tay Ti. Em đã quỳ xuống theo lời nó chỉ, khi nó cởi cái quần đùi khét nắng và đất. Ka nghiêm mặt bảo “mút kẹo xong mày mút chim tao, mày sẽ thấy kẹo ngọt hơn”. Ti làm theo như một cái máy. Cả hai thứ kẹo đều thấm vị ngọt đầu lưỡi. Em cười ngây ngô. Hình như hạnh phúc và ngây thơ hoà nhập làm một thể. Những đoá sen nuột nà đơm hạt đầu núm vú heo mẹ phơn phớt hồng. Ti thiếp đi trong đêm xanh.

Ồ anh En đã về rồi. Anh hối Ti xách quần áo ngồi lên xe anh chở ra bến Bạch Đằng. Mọi người đang đợi Ti cùng đi.

Ông Thiệu đứng bên này bờ Bến Hải chõ kiếm sang phía Hà Thành hỏi ông Hồ: “Hoà hay Chiến?”. Ông Hồ: “Chiến!” Ông Mẫu giở chiếc nón phô diễn đầu mới cạo, bảo sinh viên trường Luật “Thày cạo đầu phản đối ông Thiệu bầu cử độc diễn”. Vó ngựa đường mòn họ Hồ rồn rập. Kiến, giun bị giẫm nát bẹp gí, chuồn chuồn Hạ Lào cánh gãy như rạ. Lưỡi dao đã cắm sâu xuống rẻ sườn chữ S, máu đổ, thịt rơi. Rừng núi Trường Sơn thê thiết tiếng kèn đồng “Sinh Bắc, tử Nam”. Ngày 28 tháng 3.1975, Ngôi Nhà Màu Trắng mở buổi họp Hội đồng An ninh Quốc gia định đoạt số phận tiểu quốc Việt, Miên, Lào. Ông Đán la thất thanh “Đà Nẵng thất thủ”. Ngày 24 tháng 4, 1975, Nhà Trắng hạ lệnh Đông Dương di tản. Ông Thiệu vứt kiếm bỏ chạy trước. Chiến địa hoang tàn. Chỉ chạy mà không chống. Người đạp lên người. Ông Minh bảo ông Hồ, chúng ta “Hoà, hoà”. Ông Hồ: “Chiến!”. Ông Hương chống gậy đứng nhìn chiếc xe tăng tràn vào Dinh Độc Lập.

Tôi ngồi thu mình trong góc nhỏ chiến hạm. Cả nhà tôi thu mình. Mọi người đều im lặng, không một tiếng thở mạnh. Đêm thẳm sâu thoang thoáng mùi dầu nhớt. Tàu chưa được lịnh nhổ neo. Tôi ước ao một cơn mưa đổ xuống làm tan đi thứ không khí đặc quánh, khó thở này. Cơn sợ nhen nhúm lúc càng lan rộng. Có một cái gì căng cứng ở phía bên dưới bụng tôi. Tôi nhận ra bọng đái mình đầy ắp. Từ chiều tới giờ lê la theo gia đình tìm đường, tôi chưa được đi tiểu. Anh Kh. theo lời dặn của anh Si dẫn tôi qua cổng gác. Những người lính Hải Quân đang ôm súng giơ tay chào. Bạn anh hỏi “Dẫn bồ theo hả”. Anh Kh. lặng thinh nhỏ nhẹ bảo “Hát đừng sợ, bạn anh đùa thôi”. Anh Kh. nắm tay tôi ân cần như cái nắm tay hai năm sau lúc anh ấy tỏ tình. Cuối cùng bạn anh nói lên HQ2 đi, ở đó có rất nhiều vị tướng, chắc an ninh hơn. Chúng tôi leo lên tàu rất vất vả vì chen lấn, ai cũng sợ bị bỏ lại. Tôi níu tay anh Kh. đi như người mộng du. Anh Si la: “En leo lên đi, vất cái túi đang mang xuống biển, cả dép nữa”. Biển hun hút vực thẳm. Một người bị trượt ngã, rớt xuống nước nhanh như cánh diều đứt giây. Không ai buồn cứu. Bên tai tôi ồn ã tiếng la, réo gọi, nấc nghẹn, tuyệt vọng, hãi hùng. Tôi không kịp thấy bàn tay nào vươn lên từ mặt nước sánh đen. Những cặp mắt bàng hoàng không kịp nói điều gì hơn sự im lặng. Con người chỉ còn thuần loài thú hai chân săn tìm sự sống. Bản năng sinh tồn gầm lên tiếng rống dũng mãnh một con sư tử. Sóng thao thiết vỗ. Đêm vẫn xanh rất xanh. Bỗng có tiếng nổ lớn kinh hoàng. Sau này người ta kể đó là chiếc tàu có chở nhà văn Chu Tử bị trúng đạn pháo kích và ông đã thiệt mạng trong chuyến đi này. Lại có lịnh nhắc nhở mọi người phải giữ im lặng và bất động tuyệt đối.

Tôi thấy ươn ướt giữa hai đùi. Không giữ được nữa rồi. Nước tiểu lênh láng chảy xuống sàn tàu. Lần đầu tiên tôi đái dầm như đứa trẻ lên ba. Chưa bao giờ tôi thấy dễ chịu như thế này. Cái cảm giác dễ chịu đến thích thú chỉ mình mình biết, mình mình hay. Cái dễ chịu thả được dòng nước vàng óng ra khỏi thân thể một bầu căng cứng. Loại nước thải mặc tình tự do chảy qua ngõ ngách xuống đôi chân mỗi lần tắm, mỗi lần kỳ cọ. Nước sẽ bôi xóa tất cả, sẽ cuốn trôi những hạt bụi tròn đọng trên thân thể. Tôi đã hồn nhiên tắm, hồn nhiên đái không e dè, mắc cỡ cho đến một ngày tôi phát giác ra từ trước tới giờ mình bị nhìn trộm lúc tắm. Cái lỗ nhỏ ở góc phòng tắm mà người thanh niên ở trọ khoan, đã cướp mất tuổi thơ trong sáng của tôi. Từ đó tôi không còn hồn nhiên đái khi tắm nữa.

Tôi giật mình tỉnh giấc, mở mắt để kịp thấy bóng người thanh niên mặc chiếc áo Hải Quân lực lượng người nhái vừa đứng lên. Hắn rút tay ra khỏi chỗ kín của tôi và lẩn vào bóng đêm nhanh như một con beo. Tôi nhận ra mình vừa bị rờ trộm. Sao trên trời lấp lánh sáng. Gió đồng loã thổi đen tâm hồn tôi lem luốc. Người con trai đã đánh thức tôi, đánh thức đợt cồn dục vọng ngoằn nghèo gợn sóng, dồn lên rồi gấp khúc. Cảm giác tưng tức bên dưới còn râm ran. Tựa như lần tôi bị gã con trai nào đó ấn cái vật nóng hổi vào phía sau mông trong một rạp chiếu bóng quá đông người đến nỗi không còn chỗ ngồi, tôi phải đứng mà xem. Tôi trở mình nằm sấp, dấu cái vật nhô cao ấy xuống sàn tàu. Đêm nở những cánh uất kim hương đen rực rỡ. Đèn của đệ thất hạm đội xa xa đủ màu nhấp nháy như hội hoa đăng. Đêm nay là đêm thứ ba gia đình tôi ngủ trên boong tàu trong sự gặp gỡ hoà bình sâu xa của trời và nước. Và tôi của tớ hớ, tênh hênh không chiếu trải, không mền che đậy điệm, hoa đào phơi phới tháng tư. Một chú ong vừa ghé ngang tính toan nếm mật. Chúng tôi chiếm một góc gần ổ máy tàu và được mọi người đặt cho cái tên rất thân tình “Gia đình bác Tám”. Lê, người lính hải quân lúng túng đem khoe tôi tập thơ chép tay rất học trò. Bê, xum xoe bên mẹ tôi, trao tặng người mấy con cá nướng thơm phức mà mắt cứ nhìn chằm chằm vào ngực tôi. Đê, thản nhiên rủ tôi đi dạo trên boong, bỏ mặc những mắt nhìn phía sau. Sau ba đêm bình yên, người ta đã quên nỗi kinh hoàng. Sự sống mở toang cánh cửa. Thượng đế và tín ngưỡng không còn bị lạm dụng bởi sự nài nỉ, van xin hay nhắc nhở tới nữa. Con người trở về sinh hoạt bình thường, ăn, ngủ, thở và thèm khát những thứ bị thiếu thốn. Thực phẩm và nước uống thì không thiếu vì đây là một chiến hạm có dự trữ lương thực cho mấy tháng, mà tàu vì có nhiều vị tướng nên số người được phép lên tàu rất giới hạn. Những người lính Hải Quân theo tàu lênh đênh trên biển một thời gian dài, chưa kịp về thăm gia đình, giờ lại tiếp tục cuộc hải hành bỏ nước ra đi. Họ cô đơn, thèm khát mái ấm gia đình, muốn kể lể chia sẻ nỗi hoang mang, tâm tư bất ổn, thèm trò chuyện về một ước mơ chưa đạt. Họ tìm đến tôi như một chỗ tựa khoảnh khắc, vĩnh lặng để khoả lấp khoảng trống thời gian vô vị trên tàu. Nghĩ đến sự bất hạnh của họ, “lòng tôi chợt từ bi bất ngờ”. Tôi mặc nhiên tha thứ cho hành động của thanh niên người nhái nọ. Tối mai tôi sẽ nói với anh Si cho tôi xuống hầm tàu ngủ gần anh. Dù tha thứ nhưng tôi vẫn không muốn việc này tái diễn.

Đại Dương gầm sóng, 81 con chuồn chuồn sắt tìm đường ra biển Nam Hải. Ông Ford bồi hồi xúc động “Chương sách Việt Nam từ nay khép lại”. Ông Kissinger thôi vừa hôn vừa hát. Dọc con đường đến toà đại sứ Mỹ người dân và lính tranh nhau tháo gỡ và lấy cắp thực phẩm, đồ đạc, xe cộ của người Mỹ bỏ lại. Sài Gòn thất thủ thắp nến thay họ đổi tên. Một đại tá cảnh sát nghiêm chào bức tượng “Thương tiếc” rồi tự bắn vào đầu. Bõ già đứng dựa gác chuông nhà thờ làm dấu thánh “Giê su ma, lạy chúa tôi”. Gió tháng tư thổi người ra biển khơi.

Từ sáng đến giờ ngoài việc xếp hàng ăn điểm tâm ra Ti không biết làm gì. Em vào thư viện đảo đọc sách chán, lại ra biển ngắm dã tràng, ngắm những đợt sóng vỗ bờ loang vào cát. Em thấy mình bé bỏng giữa mênh mang nước xanh. Hàng dương không ngừng xào xạc tấu điệu biển cả… Xa xa, một ngôi nhà biệt lập sừng sững đứng nghiêng triền đồi cuối đảo. Ti chợt rùng mình ghê sợ. Em nghe kể nơi đó giam giữ những người phạm tội. Nó như điềm dữ, bóng đêm, ác mộng mà mỗi lần liên tưởng em lại thấy lạnh ở sống lưng. Anh Th. nói anh Xê bị nhốt trong ấỵ. Anh Xê đã nổi loạn, đập phá, gây gổ, đánh nhau với ban quản đốc trại. Anh Xê và anh Th. đều yêu chị Hát. Nhiều lần nhìn ra hướng ấy, em cố hình dung, phía sau cánh cửa ghê khiếp kia là những thiên sứ bị đoạ ngồi ngóng đám con gái có đôi chân thuôn dài như đuôi cá. Có đêm em mơ thấy chị Hát xõa tóc hát bài ca trùng dương mê hoặc anh Th., anh Xê và những chàng trai khác. Ti nhớ mãi ngày em ngồi đàn piano trong thư viện đảo. Anh Th. đến làm quen và trò chuyện. Ngày hôm sau anh nhờ Ti trao một bức thư cho chị Hát. Em sững sờ và giận dữ. Thì ra anh Th. làm quen với em vì chị Hát, em buồn buồn nhưng vẫn trao chị Hát bức thư. Em núp trong bụi cây nhìn anh Th. hớn hở giấu trái táo sau lưng trân trọng trao tặng chị Hát. Mai cả nhà lên phi cơ đi Mỹ rồi, chị Hát ra bãi hát tiễn anh Th. bài Biển Nhớ. Anh Th nói anh không bao giờ quên chị Hát. Anh Th kể lể thằng Xê gây với anh nó bảo nó yêu chị, anh nói anh cũng yêu chị và anh không biết phải làm sao.

Em lại lang thang trên đảo. Em cần phải thăm từng gốc cây, hốc đá. Một cặp tình nhân núp trong bụi, che ngang tấm khăn tắm có lẽ dấu chuyện họ đang âu yếm nhau. Em thấy được khuôn mặt người đàn ông da trắng và tấm giấy đô người con gái nhét vội dưới đống áo quần. Sáng qua trên đường đến nhà ăn, một ông Mỹ đã hỏi em “How much”. Em đưa mắt nhìn chị Hát. Chị tức tưởi “Họ xem tất cả những người con gái Việt Nam như điếm.”

Em đi tìm bố nuôi Tonỵ. Ông là một người Phi làm công trên đảo Wake. Sáu tháng ở đây, sáu tháng về Phi. Ông thương em như con và dạy em học Anh văn. Ông hay đem kẹo bánh phân phát cho trẻ em. Em đến từ giã, bố Tony xúc động, trao em bức thư và một tờ giấy 20 đô. Ông bảo ông sẽ nhớ em lắm, qua Mỹ đừng quên ông. Ông nhắn, tiền ông cho em mua gì thì mua, nhưng thư đừng mở vội, đến Mỹ hãy mở. Em cảm động nhìn ông rưng rưng. Khuôn mặt đen rám nắng của ông sáng lên ánh chớp thân tình. Hôm sau vì tò mò, khi lên phi cơ em đã nhờ anh Si mở và đọc giùm. Anh Si cười hăng hắc chảy cả nước mắt. Anh nói với cả nhà, lão Phi nói thương thầm và đòi cưới con bé Ti làm vợ. Em chưng hửng. Trời, em xem ông ta như bố. Anh Si chua chát. Khờ quá bé ạ, đó là con đường tắt nhanh nhất cho ông ta trở thành công dân Mỹ như ước mơ. Thôi con Ti cứ lấy 20 đô ăn quà cho sướng, còn chuyện lão già thì quên đi. Em vẫn thấy bồi hồị. Nhớ dòng nước mắt rơm rớm lúc chia tay và tình cảm thân thương của người cha già cho con gái. Thật không tưởng tượng được, sao lại như thế?

Mai em đi rồi, cả nhà đi rồi. Từ giã đảo wake, từ giã những ngày dài bình yên bên hàng phi lao, rì rào kể chuyện biển.

Trong những trại tị nạn, nơi đăng bố cáo tìm thân nhân, lúc nào cũng là nơi đông đảo nhất. Trong túp lều Tín Ngưỡng các vị linh mục, tu sĩ làm phép cưới cho nhiều cặp tình nhân. Bệnh viện trại cũng nhoay nhoáy sản xuất hài đồng. Người Mỹ thở hắt ra rùng mình nhìn cuộc chiến tàn. Tính toán tổn thất có lẽ tới con số 50.000 quân nhân Mỹ. Phía Việt Nam có thể phỏng đoán con số 2 triệu rưỡi người. Báo “Sài Gòn giải phóng” tuyên bố Miền Nam phải trả nợ máu cho nhân dân. Từng đoàn người khăn gói vào trại cải tạo chuẩn bị cho một cuộc sống mới.

Con đường lên Processing Center không dài nhưng mỗi lần có việc phải lên đó tôi thấy mình như bước vào một thế giới khác. Ở đó tôi có thể xem Tivi, nói chuyện với những người sẽ phỏng vấn và bảo trợ mình. Tất cả tượng trưng cho người của thế giới bên ngoài trại. Một gia đình luật sư đã nhận bảo trợ gia đình tôi. Hai tuần nữa chúng tôi sẽ được về Los Angeles, sẽ thực sự đứt đuôi nòng nọc rùng mình biến hóa, thành một người khác, nói một ngôn ngữ khác. Việt Nam sẽ thuộc về quá khứ. Giấc mơ về một nơi nắng ấm Cali thành sự thực. Đoá hướng dương mọc hoang ven dốc đường ngạo nghễ khoe đài vàng lụa nõn. Lũ kiến đánh hơi ngọt thi nhau rồng rắn kéo đến làm thịt cái nhụy đầy ắp những hạt chín tròn mẩy nở. Ừ mảy nở như cặp mông của Nơ người con gái bò lạc, Fê bắt về được đêm qua. Tiên sư nó, làm cả lều không ngủ được. Fê thì thầm vào tai tôi : “Nó hành nghề ở Vũng Tàu, qua đây thiếu chịu không nổi, cho không. Tao làm trước, tụi bay xếp hàng phiên sau”.

Đêm tháng tám Pendleton, sương muối dày đặc nhìn không rõ mặt nhau, lâu lâu tiếng sói tru dài đệm vào không gian điệu kèn u uất. Nơ tới chiếc ghế bố thằng Fê cắm cọc, căng vải trải giường bít bùng chung quanh từ hồi chiều. Con nhỏ thật thiện nghệ, chắc nó làm việc này mỗi đêm. Bố mẹ tôi kinh ngạc khi đi ăn cơm về thấy sừng sững nổi bật trong lều một căn phòng di động kín đáo, trắng toát. Tôi trằn trọc, Kh. đổi thế nằm. Có lẽ những thằng bạn tôi như tôi đang thao thức theo cơn động tình trên ghế bố thằng Fê. Hình như mọi người đều chờ một tiếng động khác lạ hơn tiếng ngáy đơn điệu mỗi đêm của thằng Fê. Thứ tiếng động nhịp nhàng, đều đặn hay rin rít của ghế bố nhún gặt vào mặt đất trải sỏi hoặc thứ âm thanh vừa ú ớ, vừa rền rỉ. Dù khác lạ thế nào chăng nữa, nó cũng sẽ tấu lên giữa khuya một hợp âm những nhịp sống nhân bản du dương trong cuộc sống con người di tản trong trại đầy rỗng lặng.

Tôi sắp bước qua dấu khắc thay đổi đời mình. Thật không biết thu vén, chuẩn bị gì cho cuộc hành trình sắp tới. Không biết bỏ lại và mang theo những gì. Nỗi buồn chán tuổi trẻ, sự chán ngán chiến tranh, mớ kiến thức từ chương từ thưở còn đi học, lý tưởng, đạo đức, thành kiến, hay những cơn mơ hoang tưởng? Có lẽ tôi nên đi tay không hoặc với hình ảnh Vi điên loạn, trần truồng cuối đường chân trời và một chút hy vọng.

Trịnh Thanh Thủy

Advertisement

Cơn ác mộng của người già trong Viện Dưỡng Lão

trinhthanhthuy

Thật vậy, “Viện dưỡng lão” hay “Nursing Home” từ lâu đã là cơn ác mộng của người già, người bệnh cũng như những người mất năng lực tự vệ. Hai chữ “Nursing Home” là hai từ đánh thốc vào tim tạo nên các cơn kinh hãi của các cụ cao niên. Trên trang mạng chuyên môn về Nursing Home, “Cosumer affair Complaints & Review” nơi người dân có thể kiện cáo, phàn nàn về những vấn đề tắc trách, ngược đãi người già của các viện dưỡng lão, đã đăng tải và nêu ra những vấn đề nghiêm trọng cần được mọi người quan tâm.
Những viện dưỡng lão ngày nay có quá nhiều nhân viên thiếu khả năng chuyên môn, ít nhiệt tâm và không được huấn luyện kỹ lưỡng. Việc điều hành của các nhà dưỡng lão hầu hết đều kém và thiếu sự sắp đặt. Con số người bị ngược đãi, bỏ mặc trên cả hai phương diện sinh lý lẫn tâm lý đã lên tới con số hàng chục ngàn người, và còn tăng hơn với sự cắt giảm tài trợ của chính phủ hiện nay do ngân quỹ tài chính thiếu hụt. Họ bị bỏ mặc với những cơn đau trong nhà dưỡng lão như bị quăng vào một thùng rác và chịu đựng những bệnh nhiễm trùng đe doạ tới mạng sống. Họ còn bị bắt nín lặng, khỏi than phiền, kêu cứu hay la lối trước các cơn đau, rối loạn tâm thần hoặc tuyệt vọng, bằng cách được cho uống thuốc an thần một cách rất thản nhiên.
Tôi được một người bạn từng là cựu điều dưỡng viên trong viện dưỡng lão ở Quận Cam, Hoa Kỳ, cho biết và xin kể lại những câu chuyện thật về việc đối xử tệ hại các cụ cao niên ở đấy cho bạn đọc xem ở phần cuối bài.
Sự bê bối của các viện dưỡng lão đã được che đậy một cách khéo léo trước con mắt công luận nên có rất nhiều trường hợp các cụ bị bỏ bê và ngược đãi mà không ai biết. Tất cả mọi việc xảy ra đều do việc thiếu tài trợ, thiếu công quỹ, thiếu nhân lực, thiếu huấn luyện và thiếu sự thanh tra thường trực.
Có những thân nhân của người bị ngược đãi báo cáo và than phiền về việc các cụ bị ngược đãi với ban quản trị, đã bị làm khó dễ, bị trừng phạt hay bị ngăn chặn khi vào thăm các cụ với lý do là làm trở ngại điều hành của viện. Chính bản thân người bị ngược đãi còn bị trả thù bằng nhiều cách thâm độc mà người mất bản năng tự vệ không sao chống trả được. Như trường hợp một cụ bà sợ đòn thù mà không dám báo cáo gì, dù thấy người chồng yêu quý của mình bị bạc đãi vì các cụ chẳng có con cái để tỉ tê kể lể, hay có cũng chẳng bao giờ chúng màng viếng thăm.
Nhắc đến viện dưỡng lão ai cũng sợ nhưng tại sao con số người già và bệnh bị đưa vào đó ngày càng tăng vì nhiều lý do.
Hoa Kỳ hiện nay có khoảng 36 triệu người già trên 65. Với thế hệ “Baby Boomer” lần lượt về hưu cho tới năm 2050, con số các cụ cao niên sẽ tăng cỡ 86.7 triệu. Do đó, với số lượng người già cao như vậy, nhu cầu đòi hỏi thêm các viện dưỡng lão có dịch vụ chăm sóc y tế thường trực là điều tất yếu.
Hiện nay vào khoảng 91% của 1,650,000 người ngụ cư trong viện dưỡng lão tại Mỹ là người già trên 65 tuổi. Hơn phân nửa các cụ có số tuổi từ 85 trở lên. Hầu hết những trường hợp được đưa vào đấy do những nhu cầu bệnh lý đòi hỏi phải có sự trợ giúp thường trực của y tá hay vật lý trị liệu mà chỉ các viện mới có khả năng cung cấp. Những người bệnh này thường đã bị hàng loạt những bệnh mất năng lực về thể chất lẫn tinh thần hoặc họ có thể yếu đến nỗi không thể di chuyển, tự tắm rửa hay tự ăn uống được. Nhiều người trong số này được xem như những bệnh nhân cần có người chăm sóc suốt đời vì họ không bao giờ có thể hồi phục để có thể tự chăm sóc lấy mình và khả dĩ có thể cho về nhà được. Tương lai của họ một là sẽ chết trong viện, bị chuyển vào nhà thương khi bệnh nghiêm trọng và chết ở đó hay bị trả về viện để chết. Trung bình cứ mỗi 100 cụ ở viện dưỡng lão trong chu kỳ một năm, có 35 cụ sẽ chết, 37 cụ khác bị đưa vào nhà thương nơi các cụ có thể chết ở đó, được bình phục hay trở về viện.
Theo một bài báo cáo về sự ngược đãi trong Viện dưỡng lão của phóng viên Vince Gonzales, đài CBS thì người Mỹ rất sợ phải vào Nursing Homẹ. Đó là nơi cuối cùng mà bất đắc dĩ họ phải đi vào. Một cụ già 85 tuổi khi không thể sống một mình được nữa mà con cái ngại ngần khi phải mang cha mẹ về chăm sóc thì “cái gì đến, nó phải đến thôi.” Cụ Alice Oshatz bắt đầu khóc khi được hỏi cụ nghĩ sao khi cụ trở thành một người bị phế thải trong viện dưỡng lão.
Việc bê bối của các Viện dưỡng lão không phải là vấn đề riêng của Mỹ mà nó cũng xảy ra ở các nước khác như Gia Nã Đại, Úc và cả ở Việt Nam. Viện nghiên cứu thông tin y tế Canada cũng có những công bố báo cáo cho biết, trong số những người già của Canada sống lâu dài tại viện dưỡng lão, có tới 44% mắc chứng trầm cảm, tình trạng thể chất và chất lượng cuộc sống đều không tốt đẹp. Theo bản cáo trạng của hiệp hội Ontario Federation of Labour thì các người già cư ngụ tại các viện dưỡng lão bị để nằm hàng giờ với tã ướt sũng nước tiểu.
Riêng những người già tị nạn Việt Nam ở đất Mỹ cũng rất sợ bị đưa vào viện dưỡng lão. Khi các cụ lớn tuổi thường tìm về các nơi có nhiều người Việt để ở. Họ hoặc ở chung với con cháu hay ở trong các chung cư dành cho người già với lợi tức thấp. Có cụ ở trong các khu nhà tiền chế(mobile home) và vui thú điền viên ở đó. Nhưng khi tuổi thọ tăng cao, thì sức khoẻ các cụ xuống dần và lúc đối đầu với bệnh nặng ắt hẳn phải tới. Chuyện không thể tự chăm sóc lấy mình sẽ đương nhiên xảy ra khi bệnh trạng các cụ tới thời kỳ nghiêm trọng. Xác suất con số người thân vì phải mưu sinh hay bận rộn không có thời giờ chăm sóc các cụ được rất cao. Con số các cụ có người thân khá giả, thuê y tá hay điều dưỡng đến nhà ăn ở, nấu nướng và chăm sóc cho không nhiều. Các cụ thường bị lẫn, mất trí nhớ không nhận ra được cả người phối ngẫu hay người nhà và còn không cho họ tới gần. Cụ thì đổi tính trở nên khó khăn, gắt gỏng, nghi ngờ tất cả mọi người do trầm cảm hay phản ứng phụ của thuốc hoặc do hậu quả của các cơn đau hành hạ. Điều quan trọng nhất là có nhiều cụ cần sự theo dõi thường xuyên của y tá mà điều kiện tài chánh của con cái không đài thọ nổi, thế là các cụ bị đưa vào viện dưỡng lão.
Những cụ lo xa thường về hẳn bên VN ở, để có con cháu hay người làm chăm sóc dùm. Tuy nhiên điều kiện y tế và vệ sinh bên VN kém và thiếu chuyên môn. Trong trường hợp nếu các cụ bị lâm vào các tình trạng mất năng lực hay trong tình huống khẩn cấp mà không được chăm sóc y tế chu đáo hoặc kịp thời, nguy cơ rủi ro xảy ra cho tính mạng rất cao. Thành ra được cái này lại mất cái kia. Phần quan trọng nhất là chi phí y tế bên VN các cụ hay người nhà phải tự trả, trong khi ở Mỹ, nếu là công dân trên 65 tuổi hầu như các dịch vụ y tế chính phủ đài thọ gần hết.
Trong một cuộc phỏng vấn về Nhà dưỡng lão cho người già, Thạc sĩ Đặng Vũ Cảnh Linh phát biểu:
“Việt Nam có thuận lợi trong vấn đề chăm sóc người cao tuổi khi văn hóa truyền thống coi trọng đạo lý “kính già”, được xây dựng trên tinh thần “trọng lão, trọng xỉ”. Tuy nhiên vấn đề này cũng có khá nhiều khó khăn, tồn tại. Khi ngày nay các giá trị gia đình khủng hoảng, mâu thuẫn thế hệ gia tăng đã dẫn đến tình trạng nhiều người cao tuổi không sống cùng với con cháu hay con cháu bỏ rơi cha mẹ, chối bỏ trách nhiệm chăm sóc người cao tuổi. Ở góc độ xã hội, nhà dưỡng lão, cơ sở xã hội, dịch vụ của chúng ta còn thiếu, phát triển còn lộn xộn, thiếu quy hoạch và chưa đáp ứng yêu cầu về chất lượng, tiêu chuẩn chăm sóc. Trình độ, năng lực của cán bộ y tế, điều dưỡng viên cũng còn hạn chế. Giá các dịch vụ tư nhân còn quá cao so với túi tiền của người cao tuổi….”
Ngoài ra, Ông Nguyễn Tuấn Ngọc, Giám đốc Trung tâm chăm sóc sức khỏe người cao tuổi Từ Liêm cho biết, “chữ “nhà dưỡng lão” ở Việt Nam còn chưa chuẩn. “Ở đây, chỉ nên gọi là các Trung tâm chăm sóc và nuôi dưỡng người cao tuổi thì đúng hơn.”
Trong một bài báo, vấn đề cẩu thả và chăm sóc người già không đúng mức ở các nhà dưỡng lão VN cũng bị phanh phui giống hệt ở nước ngoài
Ở Mỹ, nếu có thì giờ nghe chuyện thì có khoảng 300 triệu câu chuyện kinh khủng để kể về viện dưỡng lão. Người nào trong đó cũng có tâm sự cần thố lộ. Lý do tại sao có quá nhiều chuyện để kể bởi vì viện dưỡng lão giống như một tàn dư hay một phế tích. Lẽ ra Viện dưỡng lão là nơi chăm sóc bệnh nhân và người già nhưng thực tế nó biến thành một cái xưởng dịch vụ, nơi mà người ta được cung cấp dịch vụ nhưng nghệ thuật chăm dưỡng thì bị bỏ quên. Đây là bi kịch của hàng triệu công dân Hoa Kỳ.
Sau đây là những câu chuyện kể lại của một cựu điều dưỡng viên trong một viện dưỡng lão ở Quận Cam Hoa kỳ. Xin phép bạn đọc cho tôi được dấu tên vì những câu chuyện này có thật và đây là ý kiến của một cá nhân nên tôi đã ghi lại với một sự dè dặt như thường lệ.
Ở Orange County, các viện dưỡng lão từ xưa đến nay vẫn do người bản xứ làm chủ và điều hành. Viện thường được chia làm hai khu chính là thường xuyên và bán trú, cùng nhiều khu phụ. Khu thường xuyên dành cho các cụ ở thường trực. Khu bán trú dành cho những bệnh nhân sau khi được giải phẫu ở nhà thương, không đủ tiền lưu lại vì bệnh phí rất cao, nên phải chuyển vào để nằm chờ. Khi bình phục họ sẽ về nhà. Những khu phụ như khu chuyên về phổi, suyễn, hay có khu lẫn lộn cả khuyết tật bẩm sinh. Họ có sắp các khu theo sắc tộc, như khu dành cho người da trắng, khu cho người Việt Nam, Đại Hàn..v…v… Nếu thiếu phòng, bệnh nhân phải nằm bất cứ khu nào còn trống. Khi người VN vào đông, các cụ được nhà bếp dành đặc ân cho nấu riêng món ăn Việt. Tuy nhiên, các món Việt chỉ dành cho buổi trưa và tối, còn điểm tâm ban sáng vẫn phải ăn chung các món Mỹ. Các bệnh nhân đặc biệt phải ăn kiêng thì nấu riêng. Ở đây điều dưỡng viên VN ít nên bị điều đi phục vụ toàn viện, không cứ gì phải chăm sóc trong khu có người Việt. Họ thường được gọi đến để thông dịch. Khi khu VN có đông bệnh nhân tới ở, điều dưỡng Việt ưu tiên được làm ở đó.
Theo điều luật định của riêng tiểu bang California, mỗi viện dưỡng lão phải có đủ nhân viên săn sóc cho bệnh nhân, nhất là các dịch vụ khẩn cấp. Một viện có khoảng 100 giường trở lên, mỗi bệnh nhân phải được y tá săn sóc ít nhất 3.2 tiếng mỗi ngày. Y tá phải có bằng như RN, LPN, hay LVN. Những điều dưỡng viên cần có bằng CNA(certified nursing assistant) với nhiệm vụ trợ giúp y tá và các nhân viên y tế săn sóc bệnh nhân. Khi chính phủ state board phái người xuống kiểm tra (thường vào buổi sáng), viện dưỡng lão hay mướn và dồn điều dưỡng lại cho đông và cho một điều dưỡng chăm khoảng 13 người theo luật định để che mắt, và quay phim. Khi điều tra viên đi, tới ca chiều điều dưỡng viên bị giảm xuống và phải chăm tới 16,17 người bệnh. Ca tối lại còn tệ hơn chăm tới 20 bệnh nhân. Vì nhiều việc quá, điều dưỡng viên làm không xuể, bệnh nhân chắc chắn bị xao lãng và bỏ quên.
Thường thì không ai thích làm cho viện dưỡng lão, những điều dưỡng có bằng hay có kinh nghiệm hay tìm chỗ nhẹ nhàng hơn mà làm. Do đó, các Viện dưỡng lão luôn thiếu người và họ phải tìm những người được đào tạo cấp tốc ở các trung tâm dạy nghề. Những người này đóng học phí cao hơn bình thường và chương trình giảng dạy chỉ trong vài tuần lễ, nên họ được giảng dạy qua loa để mau tốt nghiệp đi làm cho nhanh.
Vì được đào tạo cẩu thả nên các điều dưỡng viên này mất căn bản. Họ thường không theo đúng trình tự của việc chăm sóc bệnh nhân. Họ lại bị sức ép của công việc quá nhiều, nên có nhiều người mất cả đạo đức nghề nghiệp. Họ làm việc ẩu tả và dối trá. Chẳng hạn sáng sớm phải rửa mặt, tắm rửa rồi thay tã và quần áo cho bệnh nhân nhưng họ chỉ làm qua loa lấy lệ, cho xong việc. Có khi nước chưa được ấm, họ xối đại nước lạnh khiến bệnh nhân bị ướt, rét, sưng phổi mà chết. Họ cũng không thay tã theo qui định. Lúc trước, khi chưa có chính sách tiết kiệm, viện cho tối đa một ca (8 tiếng), mỗi bệnh nhân được thay 3 tấm tã, giờ chỉ còn có 2. Thế mà họ cũng làm biếng không thay, để người bệnh ướt đẫm từ sáng tới chiều. Điều dưỡng ca chiều vào, thấy bệnh nhân bị thối tha, khó chịu khóc lóc quá nên ca chiều phải thay. Những điều dưỡng có lương tâm thấy bệnh nhân nào tiểu ít họ dấu tã đi để dành thay cho những người tiểu nhiều. Tã mà để lâu không thay, da sẽ bị nhiễm trùng, lở loét. Có người lúc mới vào không sao, ở lâu trong viện da bị ghẻ lở nom rất ghê sợ. Có những bệnh nhân bất lực không cử động được, bị bỏ quên từ sáng tới chiều, từ chiều tới tối, không được trở mình, máu chỗ nằm không lưu thông, da mềm đi biến thành mủ hay ghẻ trông thật tội.
Người già thường có giấc ngủ trưa, điều dưỡng phải cho họ đi nghỉ trưa. Tuy nhiên, vì làm biếng họ để bệnh nhân ngủ gà ngủ gật trên xe mà không đẩy họ về phòng cho lên giường như qui định.
Lúc về già, nhiều người răng yếu hay rụng, khi được đút ăn họ ăn rất chậm. Đôi khi vì buồn phiền các cụ không muốn ăn, điều dưỡng có quá nhiều việc, lại hết giờ, không đủ kiên nhẫn, họ chỉ đút qua loa nên các cụ trong đó ốm o, gầy mòn và bị đói thường xuyên. Họ làm hết việc thì về rốt cuộc bệnh nhân là người bị thiệt hạị.
Ngoài ra còn xảy ra nạn kỳ thị đối với bệnh nhân. Người nào ít có hay không người thân tới thăm hoặc để mắt tới thường xuyên, cơ hội bị bỏ quên rất cao. Các cụ đó có nhấn chuông mỏi tay, đòi thay tã hay giúp đỡ đều bị lờ đi đến phút chót khi điều dưỡng sắp hết ca, họ mới trở lại thay tã cho. Khi các cụ phản đối hay thưa gởi sẽ bị trả thù hèn hạ bằng nhiều cách mà hành hạ là một thí dụ điển hình. Khi được đưa từ giường qua xe hay từ xe qua giường, họ bị liệng nặng tay như quăng một món đồ. Người bệnh có đau chỉ biết khóc thầm và chịu câm nín, không dám báo cáo vì càng khiếu nại càng bị trả thù dã man hơn. Tuy nhiên những điều dưỡng Việt trong đó đa số có lương tâm và đạo đức nghề nghiệp và đối xử ít tệ bạc hơn. Nhưng đâu phải tất cả các điều dưỡng viên là người Việt mà có đủ các sắc dân, nhất là những điều dưỡng viên nam người Mễ Tây Cơ. Vì cần tiền, họ làm 2 ca, thường là ca chiều và ca đêm. Làm một ca đã mệt, khi ca kế tới, họ tìm chỗ ngủ để nghỉ. Công việc dĩ nhiên bị bê trễ, họ ngụy trang bằng cách lấy chăn mền tấn chung quanh bệnh nhân và có ai tới kiểm tra hay y tá ghé mắt đến, đều yên chí thấy mọi thứ tươm tất sạch sẽ nên bỏ đi, đâu biết rằng bệnh nhân nằm đó bên dưới đầy nước tiểu và phân.
Còn trường hợp cho uống thuốc lộn nữa. Nếu ban điều hành phác giác, người làm lỗi sẽ bị đuổi, không thì thôi. Với những bệnh nhân hay phàn nàn đau nhức, bấm chuông hoài, có khi họ bị cho uống thuốc giả hay thuốc an thần để khỏi tiếp tục kêu ca. Có những trường hợp bệnh nhân vì bị cho vào nhà dưỡng lão nên buồn khổ quá mà trở nên lầm lẫn hoặc đã bệnh còn tăng thêm bệnh vì kiêm thêm chứng trầm cảm.
Những người từng làm việc cho Viện dưỡng lão, những người khách đến thăm viện và quan trọng nhất là những người già sống trong viện, tất cả đều ước mơ các Viện dưỡng lão được thay đổi. Thay đổi làm sao để khi nghĩ tới, nhắc đến, nó không còn là một cơn ác mộng của tuổi già. Đường lối điều hành Viện cần phải tổ chức lại sao cho hữu hiệu. Các y tá và điều dưỡng cần phải được cắt bớt việc. Khi ít bận rộn họ mới có thì giờ để ý và chăm sóc kỹ hơn cho các cụ. Nếu các cụ có muốn tâm sự, họ có thời giờ để lắng nghe. Mà khi các cụ có nơi để kể lể, tâm hồn sẽ phơi phới, đỡ thấy cô đơn buồn khổ nhiều. Phần tâm lý được chăm sóc, bệnh ắt hẳn thuyên giảm. Vấn đề lương tâm và đạo đức nên đặt ra ở đây cho ban quản đốc dù mục đích tối hậu là thương mại. Cần giải quyết, quan tâm và lắng nghe những tiếng chuông kêu của bệnh nhân nhiều hơn. Nên có thức ăn đêm dự phòng trong trường hợp khẩn thiết khi có cụ đói bụng.
Riêng nhịp cầu thông cảm giữa người già và con cái phải được thiết lập ngay từ lúc các cụ chưa được đưa vào viện dưỡng lão. Các cụ cần sửa soạn tâm lý khi đến lúc phải vào viện dưỡng lão mà không cảm thấy quá buồn khổ. Vì càng buồn khổ thì bệnh trầm cảm sẽ làm bệnh tật thêm trầm trọng. Thời buổi kinh tế khó khăn, việc làm khó kiếm, có việc thì quá bận rộn nên con cái bất đắc dĩ mới đưa cha mẹ vào đó. Có nhiều cụ vì sống chung với con cái quen rồi vào đó quá bất mãn, lại cô đơn nên chửi rủa suốt ngày, chửi con cái xong quay qua chửi cả nhân viên trong viện, càng chửi càng bị ghét, càng bị bỏ bê.
Mỗi viện dưỡng lão nên có một khu vườn nhiều cây xanh để người già có cơ hội tiếp xúc với thiên nhiên, thở dưỡng khí trong lành. Giấc mơ của người già sẽ thành sự thật khi họ được ngồi trên xe lăn được chăm sóc chu đáo trong một khu vườn có chim hót líu lo, sóc chạy tung tăng, đâu đó là tiếng cười đùa khanh khách của vài đứa trẻ. Đời sống thần tiên và êm ả thế ai không muốn sống và vào viện”

Trịnh Thanh Thủy

Tài liệu tham khảo
-Tracking Abuse In Nursing Homes
http://www.cbsnews.com/stories/2002/01/31/health/main327525.shtml
-Vấn đề chăm sóc người già tại các viện dưỡng lão Gia nã đại

Đánh bạc bằng chữ: Thả Thơ

trinhthanhthuy

Mỗi độ xuân về, Ban Điều Hành Giải Khuyến Học lại rộn ràng gởi thư mời gọi chúng tôi đến giúp cho Quán Thả Thơ ở chợ Tết Sinh Viên Bolsa, Cali trong ba ngày tết. Dù bận rộn đến đâu chúng tôi cũng thay phiên nhau một lòng tình nguyện tới coi Quán từ lúc mở chợ cho đến lúc bế mạc. Lý do chúng tôi đến có lẽ từ nguyên nhân ham vui thì ít mà do cái tình thì nhiều. Đó là mối tình mến chữ, yêu thơ, trọng bạn, và muốn lưu giữ chút gì cổ tục còn sót lại.

Xuân đến, yêu xuân thì ai không yêu nhưng trong lòng chúng tôi xuân mà thiếu thơ như buổi ban mai thiếu chút sương mù, cành mai đầy lộc thiếu làn nắng nhẹ, quả dưa hấu đỏ thiếu đi một huyền thoại Am Tiên. Ngày đầu năm, đi dạo một vòng chợ Tết ồn ào, đông vui, ghé Làng Việt Nam, dừng chân ở Quán Thả Thơ, con tim những người xa xứ từng yêu thơ, ai không khỏi thoáng chút bồi hồi. Trí tò mò con cháu dòng máu Việt chợt nổi lên khi nhìn vào tấm biển với dòng chữ “Quán thả thơ”, một cậu thanh niên tuổi độ 17 nghiêng nghiêng vầng tóc nhuộm vàng hoe, hỏi chúng tôi “What’s that mean?”. Cô bé áo trắng, mắt lóng lánh sáng, đứng bên mẹ hồi lâu chân còn chưa mỏi, cười căng môi hồng, liên tục chơi thả thơ hết câu này đến câu khác. Mặc kệ tiếng pháo ồn ã, tiếng loa thét đâu đó đinh tai, nơi góc quán này vẫn có một đám đông đang say mê trò chơi trí tuệ. Tai phải họ nghe bình thơ, tai trái họ gật gù theo tiếng ngâm đang lên cao vút, óc đung đưa suy luận, tay đặt tấm vé(ticket) của mình vào nơi mà mình muốn đặt. Tháng Giêng là tháng ăn chơi, cờ bạc, tháng đất trời khai hội, tất cả các loài hoa bung nở mừng lễ Nguyên Tiêu. Đâu đó vài ba chiếu bạc “bầu, cua, cá cọp” lai rai người tụ lại đỏ đen, thử thời vận xui hên, năm mới. Nơi đây tiếng rao hàng cho quán thả thơ ném vào không gian dịu dàng như một giải lụa bạch: “Thả thơ là một trò chơi trí tuệ, đánh bạc bằng thơ là một thú đỏ đen tao nhã, đầu năm, mời quí vị ghé Quán Thả Thơ để thử tài đoán thơ của mình có ngang bằng các thi sĩ hay không. Trò chơi này không tốn tiền mà lại có thưởng, mời quí vị ghé vô”

Tốp người này đi nhường chỗ cho tốp người khác, người mới đến mỗi người được phát 5 vé(tickets) màu xanh, mỗi lần chỉ được đặt một vé. Nếu trúng sẽ được chung một vé màu cam. Thua hết 5 vé sẽ được phát thêm, chơi bao lâu cũng được. Nếu trúng khoảng 20 vé màu cam sẽ được chọn một món quà thưởng do quỹ của Giải Khuyến Học cung cấp. Dưới hình thức “đố vui để học”, trò chơi Thả Thơ hợp với mọi lứa tuổi, ai tham gia cũng được. Người dự được giới thiệu từ 2 đến 4 câu thơ viết trên màn ảnh, (sẽ thiếu một chữ), bên dưới là 4 câu trả lời theo thứ tự a, b, c,d để người dự chọn. Sẽ có một người đọc những câu thơ, hoặc ngâm lên như một gợi ý cho người dự nghe. Quán thường có 3 đến 4 người coi và mỗi người sẽ bình các câu thơ theo ý riêng của mình, mục đích để góp ý và đôi khi cũng để bàn ra, đánh lạc hướng, làm hoang mang người tham dự khiến họ không biết chọn câu nào. Tuy nhiên quyết định cuối cùng vẫn là người cầm trong tay tấm vé đặt vào nơi mà mình tin là đúng. Điều hào hứng nhất là người tham gia được trao micro để ngâm hay đọc thơ và thậm chí họ được bình theo ý của mình về lý do tại sao mình chọn chữ đó. Điểm lý thú của trò chơi, trong câu trả lời trúng nhất, có khi lại là một chữ rất lạ lùng, rất quái mà không ai ngờ được tại sao tác giả lại chọn cái chữ vô lý ấy. Thế mới biết, thơ mà, chỉ có người làm thơ mới chính người chọn chữ hợp nhất cho thơ mình.
Đây là một ví dụ: Hai câu thơ trong “Tống Biệt Hành” được đưa ra với một chữ bỏ trống. Người tham dự sẽ chọn một trong 4 câu trả lời mà câu c) là câu có chữ sao đúng theo chữ tác giả đã dùng.

Đưa người, ta không đưa qua sông
(…..) có tiếng sóng ở trong lòng

a)nghe b)ta c)sao d)như

Thơ thường được trích từ Truyện Kiều của Nguyễn Du, hay tác phẩm của Đoàn Thị Điểm, Hàn Mạc Tử, Cao Bá Quát, Nguyên Sa, Ngô Minh Hằng, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Trần Trung Đạo, Quang Dũng v.v. Ngoài ra còn có hàng trăm câu ca dao, tục ngữ lấy ra từ nền văn học Truyền Khẩu VN.

Trò chơi Thả Thơ ở Quán Thả Thơ này hơi khác với nguyên thủy theo lời kể của Nguyễn Tuân trong truyện ngắn “Thả thơ”:

– Thầy sẽ viết vào mảnh giấy trắng này một câu thơ bảy chữ mà chỉ… có sáu chữ thôi. Còn một chữ thì để trống và thay vào đấy một cái khuyên tròn. Cái khuyên tròn thay chữ đó thường gọi là chữ vòng. Đây này, chị lấy một câu làm thí dụ thì các em rõ ngay. Các em biết câu: “Quân hướng Tiêu Tương, ngã hướng Tần” đấy chứ? ừ, thí dụ bây giờ định thả câu thơ ấy. Và định vòng chữ “hướng” ở đoạn dưới. Thầy sẽ viết vào mảnh giấy nhỏ này: “Quân hướng Tiêu Tương, ngã… Tần”. Và khi ngâm câu thất ngôn có sáu chữ ấy lên thì thường phải ngâm: “Quân hướng Tiêu Tương, ngã… “vòng”… Tần”; Chữ “vòng” đây thay vào chỗ để trống. Bây giờ mới nói đến những chữ “thả” ra. Thí dụ thầy thả năm chữ: cố, tại, vọng, phản và luôn cả cái chữ hướng trong nguyên văn. Thường chỉ thả có năm chữ thôi.
Tụi trò nhỏ thấy chuyện thả thơ ngộ nghĩnh, nghe lấy làm khoái trí, trố mắt nhìn cô Tú, giục cô nói tiếp.
– Muốn đánh chữ gì thì chọn lấy một trong năm chữ mà đánh. Đánh trúng thì một đồng ăn ba đồng.

Sự khác biệt ở chỗ Quán TT chỉ đưa ra 4 câu trả lời a,b,c,d thay vì 5 như trong trò chơi nguyên thủy. Quán Thả Thơ do Giải Khuyến Học thành lập năm 1999 tại chợ Tết Sinh Viên ở Bolsa, Cali, với mục đích quảng bá và bảo tồn một sinh hoạt truyền thống văn hoá đặc sắc của những ngày xuân. Thưở ban đầu, người tham dự phải mua vé với một số tiền nhỏ tượng trưng và giải thưởng có giá trị theo đúng nguyên tắc của trò chơi nguyên thủy. Sau này vì muốn số người tham dự dành cho mọi lứa tuổi, nhất là các em nhỏ vào lứa tuổi teen trở lên(không có tiền) có cơ hội tham dự và học hỏi tiếng Việt cùng thi ca VN nên ban tổ chức ra quyết định cho free. Quyết định này là một thành công bất ngờ vì chúng tôi thấy số các em tham dự đông chưa từng thấy, vì số người trẻ đi chợ Tết rất nhiều. Các em thường đi thành nhóm, kéo đến Quán, ríu rít hỏi, hăng say bình luận, hùa nhau đặt, tiếng cười nói vang dội khắp quán. Có em hoàn toàn không biết tiếng Việt hay biết lõm bõm nhưng cũng kiên nhẫn nghe, không hiểu thì hỏi, đặt tứ tung theo ý bạn, theo ý người bình thơ, cười tươi hỉ hả khi may mắn được trúng. Không khí quán thơ trong hơn, xanh hơn, mang vẻ tranh đua trong tinh thần học hỏi hơn một trò sát phạt nhau bằng tiền và chữ. Giọng ngâm đưa thơ thanh thoát, thăng hoa vào mây cao khiến khách du xuân dừng chân ngoảnh lại trí bần thần “À thơ”.

Thả thơ (hay còn gọi là đánh thơ), ngày xưa, vào những đêm hội Tao Đàn, các cụ ta xưa thường ngắm trăng, bình văn, và thả thơ. Đây là một thú chơi tao nhã dùng văn chương để giải trí lại khiến người được cuộc vui vì có chút tài lộc và hãnh diện về tài thi phú, vốn hiểu biết sâu sắc của mình. Các nho sĩ, quan lại và hoàng tộc xưa ở kinh đô Huế rất chuộng thú tiêu khiển này. Nó là một cuộc đấu trí đầy cân não, mà những người ít hiểu biết về văn chương thi phú khó có thể tham dự. Ngược lại, “Người cầm cái” cũng phải rất mực tinh thông. Theo giai thoại, thì thú Thả Thơ có từ đời vua Minh Mạng, một ông vua nổi tiếng có tới 142 người con, cả trai lẫn gái. Nổi tiếng nhất là ông Hoàng thứ 10 là Miên Thẩm tức Tùng Thiện Vương và ông Hoàng thứ 11 là Miên Trinh tức Tuy Lý Vương. Hai ông hoàng này văn tài lỗi lạc, thơ phú làu thông. Mỗi dịp xuân về, phủ của Tùng Thiện Vương và Tuy Lý Vương luôn tổ chức mời những văn nhân thi sĩ tới dự cuộc chơi thả thơ. Lâu dần, không biết sao trò chơi này bị mai một.
Năm 1999, Quán Thả Thơ của Giải Khuyến Học ra đời. Năm 2011, trong nước bắt đầu khôi phục tục Thả Thơ trong đêm thơ Nguyên Tiêu bên lầu Tứ Phương Vô Sự (Đại Nội Huế) với bốn bề gió mát trăng thanh cùng nhiều bài thơ bất hủ đã đem đến cho khán giả yêu thi ca thật nhiều cảm xúc khó quên. Trong buổi Ngày Thơ lần thứ ba(2005) ở VN, ban tổ chức đã khai mạc với lễ Thả Thơ nhưng không phải bằng thú đánh thơ mà đem thơ buộc vào những quả bóng bay đỏ do 50 thiếu nữ mặc quốc phục thả, để thơ được bay lên trời cho có vẻ hoành tráng! Cũng là hai từ “Thả Thơ” nhưng nghĩa khác hẳn nhau.
Những Người Xuân xưa, thưở bé chơi trò Thả Đỉa Ba Ba, lớn lên lựa là trí tuệ chơi Thả Thơ bắt chữ. Em ngày nào hái hoa, anh ngày nào bắt bướm, lớn lên nhìn nhau bỡ ngỡ, ngày tàn lạc lối đi về. Xin lấy thơ Nguyễn Chủ Nhạc thay cho một lời kết, thay cho một thời thả thơ yêu em, thay cho một thoáng Xuân nồng.
Một thời thả thơ…

Ta
của một thời
hoang dại
thả thơ
như một đam mê
em vớt thuyền thơ
dạt bến
lôi ta lạc lối đi về…

Thế rồi,
em thành người lớn
mơ hái trăng sao
trên trời
đem tình yêu
cho gió thổi
quên ta thành cọc bến đời,

Trái đất
quay vòng
bé nhỏ
giờ đây
ta gặp lại nhau
em thêm một lần
người lớn
ta già
nên ngại bước mau,

Em
trả thơ
về bến cũ
nào đâu
ta dám nhận về
thơ
có một thời
hoang dại
ta
chỉ một thời
đam mê…

Nguyễn Chủ Nhạc

Trịnh Thanh Thủy

AI DÊ HƠN AI ???

trinhthanhthuy

Các nhà sinh vật học thường hay nghiên cứu, đối chiếu và so sánh sinh hoạt đời sống của thú vật với con người. Các cụ Việt Nam ta, không biết tự một ngày đẹp trời nào, cũng làm công việc quan sát này và đặc biệt chiếu cố tới đời sống tình dục của loài dê. Rồi trong một lúc đắc ý, từ ngữ “dê” tình cờ ra đời, góp chữ làm giàu cho kho tàng văn học dân gian lưu truyền từ đời này qua đời khác. Ấy cũng bởi cái khả năng sinh sản và giao phối mạnh mẽ, dê đã bị người đời gán cho những hình tượng xấu xa, dâm ô, đầy những thành kiến.

Từ “dê” được dùng, lúc như động từ, lúc như danh từ. Ngữ nghĩa, khi nhẹ, khi nặng. Khi nhẹ nó được nghĩ như “tán tỉnh, ve vãn”, ám chỉ những người có tính ham muốn và ưa chinh phục người khác (giới). Khi nặng, như dâm dục, thú tính, súc vật, ám chỉ những người mà lý trí không còn kiểm soát được sự ham muốn quá độ, nên hành động sai trái, đi tới xâm phạm, chiếm đoạt, hay có những cử chỉ, hành động quấy rối, sàm sỡ, quá đáng với người khác.

“Dê” còn được thêm thắt với nhiều nghĩa phụ để thành những từ kép và được sử dụng một cách rộng rãi như: máu dê, râu dê, dê xồm, dê già, dê cụ, dê gái.

Giữa nam và nữ, ai bị người đời gán cho danh hiệu có “máu dê” hay “35” nhiều hơn? Và tại sao?

Nếu bạn đọc để ý sẽ nhận ra một điều, từ lâu phái nam đã vang danh trong lãnh vực “dê” đặc biệt này. Những câu truyền cảng trên cửa miệng các bà mẹ khi dặn dò con gái thường là “Cẩn thận nghe con, đàn ông nào cũng có máu dê trong người”. Hoặc câu nói “Không dê sao gọi là đàn ông?” được các đấng mày râu phân bua, đính chính hay tự giải thích về hành động “tứ chi qườ quạng, vô tổ chức” của mình. Thậm chí, có người còn làm vè:

“Không dê sao gọi là đàn ông
Không dê liệu có làm chồng được không
Đàn ông là phải biết dê
Đàn ông phải biết chết mê đàn bà.”

Có người am tường hơn thì bảo “Đàn ông ai cũng có máu “35” trong người, không nhiều thì ít”. Quan sát kỹ hơn, người ta thường thấy phái nam chiêm ngưỡng phái nữ theo nhiều cách, kín đáo, tế nhị, hay lộ liễu, lố bịch, sàm sỡ. Họ thường nhìn ngắm. Có người nhìn lén, người lại nhìn chăm chăm như muốn ăn tươi nuốt sống đối phương. Người lại ưa hành động cụ thể hơn bằng lời nói, cử chỉ. Do đó những từ như “dê đại trà”, “dê đạo lộ”, hay “bạ đâu, dê đấy” ra đời.

Phụ nữ thì sao? Họ có dê không?

Nếu hiểu theo nghĩa ve vãn, tán tỉnh thì phụ nữ cũng biết và rất thích tán tỉnh phái nam. Họ thể hiện nó bằng nét mặt, ánh mắt, nụ cười và những cử chỉ kín đáo thường là gián tiếp hơn trực tiếp. Có những phụ nữ tự tạo cho mình các nét quyến rũ riêng như một cái bẫy để nhử con mồi và quý ông cứ lao vào mà lầm tưởng rằng chính mình chủ động. Cách họ lắc đầu, vẫy mái tóc để lộ khuôn mặt, kiểu liếc khoé mắt có đuôi, kéo vai áo lộ một chút vai trần hay bờ ngực vun, uốn lượn cặp mông cong, khơi mở một câu chuyện… Tất cả những mời gọi có tính cách nửa hở, nửa kín ấy đều là những dấu hiệu ngầm của sự ve vãn. Có người chọn lối ăn mặc lộ liễu, hở hang. Người lợi dụng tài ăn nói lanh lẹ, uyên bác. Có cô hay liếm môi, thoa son ướt, hay đặt ngón tay lên môi xoa đi xoa lại như một gợi tình. Đôi môi phụ nữ là một công cụ ve vãn rất hiệu quả. Họ thích phái nam chú ý đển họ, phần lớn để thoả mãn và xoa dịu cái tự ái ít nhất họ còn có được sự quyến rũ.

Nếu bảo rằng phụ nữ không thích phái mạnh “dê”, theo nghĩa để ý, tán tỉnh mình, là sai. Họ rất thích sự ve vãn của đàn ông nhưng mỗi người thích một lối riêng. Có người yêu kiểu nhẹ nhàng, kín đáo, người ưa lối tấn công mạnh bạo, trực tiếp.

Có “chàng” đã tâm sự khi bị than phiền về lối dê sỗ sàng hay “dê đạo lộ” của họ.

“Hỡi ơi, phụ nữ làm sao hiểu được, những hành động có vẻ mang chút hơi hướm “quấy rối” đó đã làm cho đàn ông vui và hào hứng một cách đặc biệt, nhất là khi đã có chút rượu bia. “Dê” vốn là một đặc điểm nhận dạng không thể thiếu của phái mạnh từ xưa tới nay, kia mà.”

Có người tự thú, tuy được gọi là phái mạnh nhưng thật ra đàn ông là một sinh vật rất yếu đuối(lòng) và dễ động lòng. Chỉ cần một nụ cười duyên hay xởi lởi, một mái tóc đang cột tự dưng được gỡ bung ra, chẳng hạn. Ai cấm họ tự hiểu, đó là một thông điệp ngầm đầy khuyến khích của phái đẹp. Họ xem những lối ăn mặc hở hang, thừa da thịt, thiếu vải che, là những hành động “khiêu khích” gián tiếp hay trực tiếp mở đường cho con “dê” lòng họ xổng chuồng chạy bậy. Từ ý nghĩ đi tới giai đoạn hành động, giơ tay, động chân, tùy theo cá nhân. Không phải bất kỳ người nào cũng ủng hộ tác phong lợi dụng, quờ quạng đó. Phái nam thường xem đó là nỗi xấu hổ, làm mất mặt các đấng nam nhi. Nhưng đa phần quý ông khi rượu bia, chén chú chén anh vào, đều đồng ý rằng, đó là hành động vì mất tự chủ nên thông cảm được. Do đó, có người đã khuyên phụ nữ nếu không muốn bị “dê” hay xúc phạm nên tránh xa họ khi thấy họ có chút rượu bia hay bắt đầu say.

Vấn đề đôi khi được đặt ra tuỳ thuộc vào sự khêu gợi ở người phụ nữ, vì không có lửa sao có khói? Một người phụ nữ được trùm kín từ đầu đến chân chỉ chừa đôi mắt, làm sao khiến người đàn ông phạm tội? Tuy nhiên không phải vì sợ bị dê mà tất cả phụ nữ trên thế giới phải phục sức như phụ nữ Hồi. Chọn lưạ cách phục sức khêu gợi hay tự nhân dáng có sự khêu gợi, còn tuỳ thuộc vào quan niệm sống, phong tục và thời trang của phái nữ qua từng thời đại. Trong một cuộc phỏng vấn của một đài truyền hình, các thiếu nữ được hỏi “Các cô nghĩ gì về phái nam và các cô có ước muốn chinh phục họ không?”. Phần lớn đều trả lời “Bây giờ phái nam rất thích phụ nữ có ngực to nên chúng tôi ước có một thân hình đẹp với bộ ngực to và nếu có thể, có tiền để đi sửa ngực cho to”.

Nếu hiểu theo nghĩa “dê” là sự ham muốn hay khát khao dục tình thì phái nam có ham muốn “sex” nhiều hơn phái nữ không? Theo những khảo cứu khoa học gần đây nhất, quả thật phái nam có nghĩ và khao khát điều này nhiều hơn phái nữ. Qua một báo cáo của Edward O. Laumann, giáo sư bác sĩ, khoa xã hội học của University of Chicago, phần lớn quý ông dưới tuổi 60 nghĩ đến “sex” ít nhất là 1 lần trong ngày. Chỉ có một phần tư phụ nữ tiết lộ đã nghĩ đến nó thường xuyên. Nếu so sánh giữa nam và nữ khi có tuổi, khát vọng dục tình của nam cao hơn gấp đôi. Roy Baumeister, một tâm lý gia xã hội học của Florida State University, trong một nghiên cứu thăm dò, đã tìm ra quý ông thường xuyên bị dục vọng khuấy động một cách tự phát và hay tưởng tượng đến chúng.

Con ong, cái kiến, khát khao chuyện ái ân, loài vật có mùa động tình, con người cũng vậy. Phụ nữ chẳng khác, nhưng thường thì họ chỉ hưng phấn khi nến thơm được thắp lên và toả hương đúng lúc và dĩ nhiên người bạn tình là người đầu tiên phải gieo rắc mùi hương. Nhờ nhiều nghiên cứu khoa học mà người ta khám phá ra phái nam không những có ước vọng tình dục cao mà còn có tính khẩn thiết nữa. Phụ nữ như các con sóng ngầm trong khi đàn ông là những cơn bão dữ. Tuy nhiên phụ nữ thường đặt nặng giá trị cảm xúc và mối liên hệ lên trên hơn là khát vọng dục tình. Hơn nữa họ bị ảnh hưởng nặng nề bởi thành kiến đạo đức xã hội nên họ tự kếm chế mọi dục vọng. Vì thế cho dù họ rất ham muốn hay hứng khởi họ vẫn muốn phái nam khởi động và dẫn dắt, họ rất sợ phải mang tiếng là người chủ động.

Vả lại từ xưa, ngay trong truyền thuyết họ được quan niệm là một cái dẻ xương phụ thuộc nên họ tự động phải sống, hành động, sinh hoạt và tuân thủ theo nguyên một cơ thể con người của người đàn ông. Giáo điều, quan niệm và thành kiến xã hội đã đặt để, bắt buộc họ đứng về vị trí của một dẻ xương, một kẻ phụ thuộc, kể cả chuyện dục vọng sinh lý.

Đến đây chắc bạn đọc đã có chút khái niệm trong sự so sánh, nam và nữ, ai “dê” hơn ai rồi. Tuy nhiên trong tương lai, thời thế và quan niệm thay đổi, biết đâu chúng ta sẽ có một câu trả lời khác đi, phải không các bạn?.

Trịnh Thanh Thủy

Tiếng Việt thời thượng

 

trinhthanhthuy

Nói đến tiếng Việt thời thượng, chúng ta có thể hình dung hay nhớ đến nhiều cụm từ lạ tai bao gồm cả những tiếng lóng hay ngôn ngữ mạng được ưa thích và sử dụng rộng rãi trong những tầng lớp xã hội khác nhau. Tỷ như khi vào ăn trong một quán mì gõ chúng ta nghe tiếng gọi:
– Cho 2 cái hầm, 2 bộ hài cốt nghen…
– Thêm “2 xị vô sinh” nữa…
– Chài, trời nóng mà mần vô sinh chi? cho 2 cái “bật nắp là thấy” đi…

Hoặc ngôn ngữ trên một lá thư của 2 học trò teen đang chuyền tay nhau trong giờ học.

“H. à, nhớ su súp ghia mà nghè mơi có ktra, hem đi đc, star life mình “khổ hơn cún” á. Ừ, bi h cóa ai bỉu mình not learn hén, chắc mình sướng die granma lun hén mày. Eh, hn mày nhận đc tn của B. k? Hwa nó vừa bị broke ktra đó. Thấy tía rồi, thôi stop 8, tao xách đik dzìa nhà học thoai, chớ hông là bài nì “dzục cho cún ăn” đóa, tao chưa có chữ nào trong não hết, b h cóa nhét iốt dzô não cũng cóc dzô”.

Nhắc đến những tiếng lóng lạ lùng như trên là nhắc đến một thế giới ngôn ngữ đầy bí ẩn cần phải có giải mã nên tôi định chỉ thu hẹp bài viết này trong phạm vi những tiếng Việt thời thượng có xuất xứ hay liên quan tới những ngôn ngữ khác như Pháp hay Anh chẳng hạn.

Như chúng ta đã thấy, Anh ngữ ngày nay được xem như một sinh ngữ quốc tế được nhiều người sử dụng và giảng dạy như một ngôn ngữ thứ hai trong nhiều quốc gia trên thế giới. Việc sử dụng Anh ngữ như một ngôn ngữ chung cho toàn cầu ngày càng tăng trưởng và đã trở thành một tiện ích. Nó mang lại sự cảm thông trong sinh hoạt toàn cầu không những trong các lãnh vực thông tin, truyền thông, liên mạng mà cả ở những lãnh vực giáo dục, kinh tế, thương mại, nghiên cứu, âm nhạc, du lịch, cũng như các hoạt động tôn giáo, chính trị hay văn hóa khác.

Trong nền kinh tế thị trường, Việt Nam là một nước mới phát triển. Các nước tiên tiến mang tài chánh và nhân lực vào Việt Nam để đầu tư nên nhu cầu học và hiểu tiếng Anh như một nhịp cầu thông cảm cần thiết hơn bao giờ. Thêm nữa, vì phải mở cửa ngành du lịch, Việt Nam cần phải nói và viết Anh Ngữ thông thạo, ngỏ hầu phục vụ tinh thần giao tiếp cho thật hữu hiệu. Để chạy cho kịp bánh xe tiến hoá toàn cầu, Việt Nam đã du nhập tiếng Anh vào nước như một nhu cầu thiết yếu. Sự ưa chuộng và sử dụng tiếng Anh cho nhuần nhuyễn của người Việt như một hấp lực mạnh mẽ đưa đến một việc lạm dụng không thể tránh. Hậu quả là nhiều thứ tiếng Anh-Việt thời thượng lai tạp ra đời.

Người Việt trong thói quen ứng xử rất thích dùng phương pháp tiện và lợi. Tiếng Việt là tiếng đơn âm tiết không như tiếng Anh là tiếng đa âm tiết nên muốn tạo từ mới phương pháp ghép chữ là một phương pháp khả thi. Do đó chúng ta hay ghép tắt các từ vào với nhau, như “điều nghiên” là từ ghép của “điều tra và nghiên cứu”. Để tân tiến hơn, tiếng Anh được mang vào ngôn ngữ hàng ngày và bỗng nhiên những từ lắp ghép Anh Việt trở thành thông dụng . Nhất là giới trẻ, việc học và dùng tiếng Anh đã biến thành phong trào. Khắp nước đi tới đâu ta cũng thấy thứ tiếng Việt pha tạp mà Việt kiều hay dùng, gọi là tiếng ba rọi. Trong công sở, ngoài xã hội, trên truyền hình, các trang mạng, face book hay blog, đâu đâu cũng có.

Những từ như: show hàng, áo chip hai màu xì-tin, quần xì cực cute, quần sock ngắn, chip ukie, điện thoại Bikini, hot teen múa cột, hot boy nói gì, tiệm bánh snack, slogan thể hiện, đang hot, top tuần..v..v.. đầy rẫy trên báo chí và các trang mạng.

Sự phát triển tiếng Anh quá nhanh mang đến việc nhiều người sử dụng ngoại ngữ một cách cẩu thả mà không nghiên cứu cũng như học hỏi đến nơi đến chốn. Nhưng thái độ dễ dãi và xuề xoà đi tới chấp nhận của người Việt trước những sai lầm đôi khi biến những thứ tiếng Việt thời thượng kỳ dị ấy dùng lâu thành tiếng Việt thực thụ.

Tỷ như chữ Mô-đen mà chúng ta dùng đã lâu nhưng dùng sai ngữ pháp nguyên thủy mà không biết.
Chữ Mô-đen nguyên thủy từ chữ Modèle phát âm trại đi theo tiếng Pháp là Mô-đen. Modèle có nghĩa là: mẫu mã, mẫu mực, gương mẫu hay mô hình, vật mẫu. Trong tiếng Anh, người ta dùng chữ Model cho nghĩa này. Nhưng khi nói tới nghĩa mới và thời trang thì người Pháp dùng chữ Mode, tiếng Anh là Fashion, trong khi tiếng Việt ta lại dùng chữ Mô-đen cho hai nghĩa này.
Những chữ Modèle, Moderne và chữ Mode có âm giọng giông giống nhau. Người Việt chúng ta chắc khó phân biệt, dùng lâu thành nếp nên phân biệt chi cho mệt, tiện thì dùng luôn, thế là mô-đen được sử dụng với nghĩa thời thượng hay hiện đại trong khi tiếng Pháp phải dùng chữ Moderne hay Modern trong tiếng Anh.
Rốt cuộc, Mô-đen bị Việt hoá với đủ các nghĩa như mẫu mã, mẫu mực, gương mẫu, mô hình, vật mẫu, mới, thời trang, thời thượng hay hiện đại. Ngạc nhiên hơn, một từ mới sau này phát sinh từ chữ Mô-đen và có một nghĩa khác biệt chẳng dính dấp gì tới cái nghĩa xưa cũ từ lúc nó sơ sinh là từ “Kết Mô-đen” lạ hoắc.
Đây là những ví dụ điển hình trong sự lạm dụng từ Mô-đen:

Nó có nghĩa rất mới, rất tân tiến, đúng thời trang, thời thượng như: “Cực kỳ mô-đen”. Hoặc ngược lại “Lạc quẻ với mô-đen bùng nhùng”. Từ này còn ám chỉ một mẫu hàng “Mô-đen 3100”. Nó còn là tiếng gọi một người mẫu, “Thin nít sờ Mô đen(teenist model)”. Hay là “mô đen sống mình ên”, không gì “vắt vai” đang là môđen của nhiều người trẻ thành đạt, Môđen bây giờ là đi “tàu nhanh”, mô đen Hàn Quốc, mô đen wằn wại. Ghế ngồi chờ xe buýt quá “mô-đen”, Các bạn ơi con gái thời nay mô đen lắm đó, thời trang ý ẹ: Mô-đen dây và rây, Tóc “mô đen” – Nhìn và thấy Mô đen bây giờ là tóc càng dựng càng đẹp.

Và nó còn được dùng cả trong lãnh vực tình cảm như “Tin tức, Trần Kiều Ân kết mô-đen Lam Chính Long”.

Người Việt đã tỏ ra ứng xử ngôn ngữ rất nhanh nhạy trước giai đoạn đổi mới khi đối đầu với lượng ngoại ngữ quá lớn từ bên ngoài ồ ạt đổ vào. Chưa bao giờ tiếng Việt phát triển cực độ như bây giờ. Kho tàng từ vựng của ngôn ngữ Việt Nam ngày một dồi dào thêm và du nhập về những “tiếng lạ” do nhu cầu giao tiếp cùng người ngoại quốc. Hàng ngày chúng ta thấy nhan nhản việc dịch sai, nói sai, dùng sai ngữ pháp khiến sự việc trở thành một trò cười được lưu hành khắp nơi trên mạng thông tin. Chính thói quen thích sử dụng tùy tiện, lại thích tỏ ra chúng ta có óc sáng tạo nên nhiều từ vựng được sinh ra nghe rất ngô nghê và không đúng ngữ pháp nguyên thủy của những từ được vay mượn.

Có lần tôi đọc được thực đơn những thức giải khát của một nhà hàng ở Hà Nội. Họ bán một thứ nước uống gọi là Milk Sex. Tôi ngạc nhiên, ngồi ngẫm nghĩ mãi mới đoán ra là có lẽ họ bán thứ nước uống giống sinh tố bên Mỹ gọi là Milk Shake làm bằng sữa. Vì khi người Mỹ phát âm Shake, họ nghe không rõ nên tưởng lầm là Sex, rồi tỏ ra sáng tạo hơn sao không gọi là Milk Sex. Thế là thứ nước uống rất Việt Nam gọi là Milk Sex ra đời!!!

Học tiếng nước người không những chúng ta học từ vựng, ngữ pháp, cách đặt câu, cách viết bài mà chúng ta còn học cả văn hoá của ngôn ngữ đó nữa.
Trong việc chuyển ngữ, dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt đã khó, dịch từ tiếng Việt sang Anh còn khó hơn. Nó đòi hỏi người thông dịch phải thật giỏi cả hai ngôn ngữ mà còn cần có kinh nghiệm sống dồi dào trên đất nước của hai ngôn ngữ được sử dụng để hiểu cách dùng cho nhuần nhuyễn.

Do đó vì kém ngoại ngữ mà trong một thực đơn của nhà hàng ở Vịnh Hạ Long món Mực nướng được dịch ra tiếng Anh là ink baked thay vì baked squid mới đúng. Tuy con squid có ink(mực) nhưng con squid(con mực) không được gọi là con ink. Và chữ động từ nướng bake phải có thêm ed để thay đổi thành tiếng tính từ và đứng trước danh từ squid để thành baked squid.

Một nơi khác không ngần ngại dịch phăng món Ốc thành Screw!!! tức là cái đinh ốc thay vì dùng chữ Snail. Và nước đá là Water stone, hi light viết thành Hair light, Fast food viết thành fat food hay fast foot, welcome viết thành wellcome, cua dịch sai thành crap thay vì crab. Sai một ly đi một dặm chữ crap trong tiếng lóng có nghĩa là “cứt”.

Việc dịch sai một vài thực đơn trong nhà hàng có thể đem lại vài trận cười tiếu lâm cho người đọc. Nhưng nó biến thành hỏng trầm trọng khi một nhóm chuyển ngữ gồm các bác sĩ, sinh viên, nghệ sĩ có tên là BSP Entertainment (TPHCM) tung ra một CD
gồm 10 bài hát với tên gọi “Tình ca 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội”. nhân đại lễ 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội. Tặng phẩm này dành cho chương trình “Những tấm lòng với Thăng Long – Hà Nội” là công trình dịch thuật những bài hát viết về Hà Nội nổi tiếng được dịch ra tiếng Anh.

Dịch ca từ không phải là việc dễ, dịch từ tiếng Việt sang Anh còn khó hơn. Nó đòi hỏi một kiến thức Việt và ngoại ngữ lưu loát mà còn phải biết rành âm nhạc cũng như am hiểu đặc tính thơ ca trong ca từ. Không biết vì kém tiếng Anh, thời gian thực hiện lại gấp gáp hay sao mà nhóm BSP đã tung ra một sản phẩm dịch thuật thiếu chuyên nghiệp, kém chất lượng, tồi tệ đến nỗi một bài viết trên báo Lao Động phải kêu lên “ca từ trong CD này đã bị chuyển ngữ một cách vô cùng cẩu thả, thô thiển”(xin xem các link về những bài báo này dưới mục Tài liệu tham khảo).

Bài báo còn dẫn ra những câu dịch sai:
“Hanoi’s this season… absent the rains. The first cold of winter make your towel’s gently in the wind. Flower stop falling, you inside me after class on Co Ngu street in our step slowly return…” – đây chính là phần chuyển ngữ của ca khúc “Hà Nội mùa vắng những cơn mưa” (Hà Nội mùa này vắng những cơn mưa/ Cái rét đầu đông khăn em bay hiu hiu gió lạnh/ Hoa sữa thôi rơi, em bên tôi một chiều tan lớp/ Đường Cổ Ngư xưa chầm chậm bước ta về).
Xin trích ý kiến của một số bạn đọc trên mạng sau khi đọc bài báo: Bạn đọc lang doan viết: “Sau khi đọc được lời dịch qua tiếng Anh (Mỹ), tôi phải bật cười vì cách dịch cứ như người mới học sinh ngữ được 2-3 lớp sơ đẳng, hoặc chưa hề tập viết văn chương bằng tiếng Anh. Từ cú pháp, ẩn dụ thật tối nghĩa cho tới văn phạm đều sai. Cho nên, nếu dịch cẩu thả là không thể chấp nhận, vì như vậy là coi thường thính giả trong và ngoài nước, đồng thời thiếu tôn trọng văn hoá Việt. Không những thế, người ta sẽ đánh giá trình độ văn hoá của cả nước khi những tác phẩm này được quảng bá đại diện cho văn hoá VN. Lấy thí dụ nhỏ, cái “khăn” để đội đầu hay cuốn quanh cổ mà dịch thành “Towel” (khăn tắm, khăn rửa mặt, khăn lau xe) thì hết ý kiến!”.
Trớ trêu hơn, bạn Nhựt Hồng phát hiện: “You inside me after class” theo nghĩa Mỹ có nghĩa là… “anh và em quan hệ tình dục sau lớp học” chứ chẳng phải “em bên tôi một chiều tan lớp”.
Không chỉ dừng ở việc “tàn sát” các ca từ trong ca khúc “Hà Nội mùa vắng những cơn mưa”, kiểu dịch “từ đối từ” sai về cú pháp, ngữ pháp tiếp tục được lặp đi lặp lại trong các ca khúc nổi tiếng về Hà Nội khác như: “Có phải em mùa thu Hà Nội?” (Are you the autumn in Hanoi?): “August autumn, did leaf fall come yellow. Since you’ve been gone, I miss you silent” – (phải hiểu là: Tháng tám mùa thu, lá rơi vàng chưa nhỉ. Từ độ người đi, thương nhớ âm thầm) hay “One day return, I visit sad Thanglong” (cần hiểu là: Một ngày về xuôi, chân ghé Thăng Long buồn). Còn trong bài “Hà Nội niềm tin và hy vọng” có đoạn “Đường lộng gió thênh thang năm cửa ô, nghe tiếng cười không quên niềm thương đau” được chuyển ngữ thành “The windy road immense the doorway, hear the laugh but don’t forget the pain”.

Bây giờ nếu đem phân tích những lỗi lầm dịch thuật đã phạm trong những ca khúc này, chúng ta cần phải học bao nhiêu bài học, viết bao nhiêu bài phân tích về Anh ngữ cho đủ. Nên tôi xin miễn bàn thêm. Chỉ có điều đáng tiếc và đáng buồn không phải ở chỗ khả năng người dịch kém, ca sĩ phát âm không đúng mà ở chỗ sản phẩm kém vẫn được quảng cáo và truyền thông đến người tiêu dùng. Bài quảng cáo “Chắp cánh cho ca khúc Việt bay xa” được đăng trên trang web chính thống của Bộ VHTTDL, trang web của Uỷ ban Người VN ở nước ngoài TPHCM, và những trang thông tin kết nối với bạn bè quốc tế, người Việt xa xứ. Điều này cho thấy cơ quan chức năng cũng tệ không thua gì sản phẩm!!!

Việc toàn cầu hoá ngôn ngữ trong việc dùng tiếng Anh đã mang lại nhiều tiện ích cho Việt Nam. Nó giải quyết được nhiều lúng túng trong việc thiếu từ vựng trong nhu cầu tạo từ mới trong các lãnh vực, kỹ thuật, tin học, kinh tế, y khoa, chính trị, khoa học cũng như văn hoá. Do đó sự ưa thích được gọi là sính dùng tiếng Anh đã lan nhanh như cơn sóng lớn có ảnh hưởng chiều ngang đến ngôn ngữ mẹ đẻ của người Việt và dần dà ăn sâu đến văn hoá theo chiều dọc của bản chất dân tộc Việt. Tuy nhiên cái gì cũng có hai mặt tích cực và tiêu cực. Việc sử dụng sai phạm, kém hiểu biết, thiếu chuyên nghiệp, cẩu thả sẽ biến thành trò cười cho người ngoài và những người thông hiểu tiếng Anh. Mà trên đà toàn cầu hoá, trên thế giới đã có khoảng trên dưới 500 triệu người đang sử dụng tiếng Anh như là một quốc ngữ, và khoảng phân nửa dân số thế giới dùng Anh ngữ như là một ngôn ngữ thứ hai.

Còn một nguy cơ nữa chúng ta cần lưu ý là đừng để mất bản sắc dân tộc khi đắm chìm trong việc chạy theo lực cuốn hút của tiếng Anh. Đã đến lúc chúng ta phải nhìn lại và dừng lại sự say mê lạm dụng tiếng Anh trong đời sống hàng ngày. Đừng để một ngày nào đó nhìn lại một trang viết hay trong một câu nói của một học sinh chỉ còn lõm bõm hai ba chữ quốc ngữ, phần còn lại chỉ toàn là tiếng Anh. Lúc đó chúng ta sẽ đánh mất luôn cái hồn nước cuối cùng của dân tộc.

Trịnh Thanh Thủy

Tài Liệu tham khảo

Thảm hoạ ca từ nhạc Việt
http://WWW.LAODONG.COM.VN/TIN-TUC/THAM-HOA-CA-TU-NHAC-VIET/15619

Chắp cánh cho ca khúc Việt bay xa
http://www.cinet.gov.vn/ArticleDetail.aspx?rnd=10&newsid=53050&rid=140&zoneid=73&page=7
Ha Noi’s this season absent the rain- video clip http://vqhn.wordpress.com/2010/10/02/ha-nois-this-season-absent-the-rain/
Đặc sản tiếng Việt
http://us.24h.com.vn/cuoi-24h/anh-vui-dac-san-tieng-viet-9-c70a272414.html

 

EM VIỆT NAM BÍ ẨN

trinhthanhthuy

Khi cuộc hành trình đi về miền nhiệt đới nóng ẩm của tôi đổi hướng từ Thái qua Việt Nam thì khí hậu cũng theo ngày tháng mà nóng dần lên. Tiếng gọi giục giã của Sài Gòn không còn là những rạo rực, háo hức nóng bỏng thương nhớ của những năm đầu người trở về, không còn câu chào mời hết sức niềm nở cho các Việt Kiều từ ngàn dặm xa của người ở lại. Trong mắt tôi, bây giờ VK được đối xử nhã nhặn, vui vẻ, chừng mực, một cách rất bình đẳng như tất cả các khách du khác.

Tôi đón xe Taxi từ phi trường về khách sạn nơi tôi đặt trước ở trung tâm Sài Gòn. Phố xá giờ khang trang, xe cộ ồn ã kín đặc, người người ai cũng vội vàng tất bật chạy theo dòng luân lưu như một cộ đèn kéo quân. Tôi bỗng giật mình, dường như mình lầm vì không còn nhận ra bóng dáng thân yêu của các cô gái Việt Nam ngày cũ nữa.

Cái ký ức những cô nữ sinh áo dài trắng đạp xe, vạt sau cài yên, giỏ trước chất đầy tập vở đã đi vào giấc mơ của hoa bướm ngày xưa. Những lời thơ có cánh, xôn xao lòng như “Những chiếc giỏ xe chở đầy hoa phượng, em chở mùa hè của tôi đi đâu?” cũng bay vào ngăn kéo lãng mạn của viện bảo tàng văn học nào đó trước thập niên 75. Phái nữ giờ thay đổi từng ngày, từng tháng, từng năm, nhanh đến nỗi bất ngờ. Em hiện đại, “phơi phới” giữa đường, chân ga, tay găng, mắt kiếng râm, mặt khẩu trang, mũ vải rộng vành nằm (trên)dưới mũ bảo hiểm, áo nắng siêu đắt, tất cả kín mít từ đầu đến chân…..như phụ nữ Hồi.

em-vn-hinh-1-resized
Em Việt Nam.

Em Huế, Sài Gòn Hà nội ngày nay ra đường được “ngụy trang đến tận răng”. Anh nào mà ngớ ngẩn, lạng quạng “theo ngọ về”, đến nhà lột hết mũ áo ra mới hay mình lầm, lỡ “theo cọp về” chỉ có nước tẽn tò.

Đất mẹ nứt nẻ, toàn cầu bị hâm nóng, tia tử ngoại gia tăng, nhà cửa, cao ốc thành phố thi nhau mọc lên như nấm, bụi bặm, khí độc ô nhiễm khắp nơi, ai mà không sợ? Các em giờ chống nắng triệt để, vì sợ đen, sợ ung thư da. Không những phụ nữ mà tất cả già trẻ lớn bé ai phải “xông pha” ngoài đường cũng phải dùng khẩu trang. Chỉ cách đây vài năm, các cô chỉ đeo khẩu trang sơ sơ và găng tay. Giờ tân thời hơn, “phát minh mới” cái áo che nắng đặc chế ra đời, phủ trùm từ đầu đến chân(cho các cô mặc đầm) khiến các cô trông như các phi hành gia hay nhân viên phòng thí nghiệm.

Tuy nhiên, sự cẩn thận nào cũng có cái lý của nó. Không thể chối cãi được, bạn sẽ nhận ra rằng em VN tóc dài, tay lụa, đã thay da, đổi thịt, đẹp, trắng, xinh hơn khi về đến nhà, khi cởi “vỏ bọc”. Nhất là các cô làm những nghề cần đến nhan sắc đã biết dùng kem lột da để tự tạo làn da trắng nõn, khiến các bậc tu mi điên đảo khoé nhìn.

Tự ngàn xưa, theo quan niệm thẩm mỹ của người VN, khi nhắc đến một phụ nữ đẹp, các cụ nhà ta thường có câu “trắng da, dài tóc”. Ngày nay, phụ nữ VN trắng da, dài tóc nhờ được che chắn kỹ càng. Những phụ nữ Hồi cũng vậy, họ rất đẹp và trắng dù ở những nơi mịt mù gió cát sa mạc, khí hậu khắc nghiệt, nhờ trùm kín mít chỉ hở có đôi mắt.

em-vn-hinh-2-resized

Em Việt Nam.

Mới đây, bản tin Swiss Canton, một tỉnh bang của Thụy Điển vừa bầu xong đạo luật “cấm mặc quần áo che hết khuôn mặt”, làm tôi chú ý. Lại một nơi nữa, ngoài Pháp và Bỉ, đã ra đạo luật ngăn cấm những chiếc áo có mạng che mặt như Burqas hay Niqabs không được mặc để đi lại. Việt Nam ta có câu “Nhập gia tùy tục”. Những phụ nữ Hồi Giáo vẫn không chịu tuân thủ luật cấm, đã bị chặn ở Pháp và bị phạt khoảng 200 đô khi trang phục kín mít chỉ để hở đôi mắt. Hầu hết trong các trường hợp họ đều cởi mạng che mặt không kháng cự nếu cảnh sát yêu cầu, nhưng tháng 7 vừa qua đã có một cuộc nổi loạn gần Versailles khi cảnh sát bắt một phụ nữ Hồi Giáo tháo khăn che mặt.

Cái đẹp huyền bí của những tấm che mặt Burqas hay Niqabs như một khiêu khích vô chừng trí tưởng tượng và tò mò của con người và nó cũng mở ra những huyền thoại. Người phụ nữ Hồi phải che mặt vì bị bắt buộc theo luật định của tôn giáo, của gia đình, của quan niệm gia trưởng độc đoán, của sự an toàn bản thân và cũng để nhận diện tộc phái chính mình. Nếu sai phạm, một người phụ nữ có thể bị đánh đập tàn nhẫn, hiếp dâm và giết chết. Họ được dạy dỗ về sự thiêng liêng của việc gìn giữ thân xác, khuôn mặt chỉ cho riêng một người. Đó chính là người phối ngẫu, mới xứng đáng được hưởng tất cả những cái đẹp thể xác và linh hồn của người phụ nữ do thượng đế đã tặng dữ. Chỉ có người chồng mới yêu mến, có ý định gắn bó trăm năm, không lợi dụng họ, xem họ như một món đồ chơi hay hình tượng gợi dục cho phái nam giữa công chúng như thế giới ngày nay thường làm trên mạng, truyền hình và sách báo. Người phụ nữ Hồi hài lòng và chấp nhận cái hay, đẹp, cần được chăm sóc và đem giấu kỹ trái hẳn với quan niệm “đẹp phô ra, xấu xa đậy lại”.

em-vn-hinh3-resized

Em Việt Nam.

Nếu bạn có ghé qua khu vực chợ Bến Thành, Sài Gòn ngay góc đường Nguyễn An Ninh, bạn sẽ thấy chung quanh khu này có rất nhiều tiệm quần áo trưng bày và bán những sản phẩm thủ công thêu tay hay thêu máy rất đẹp và tinh xảo. Những tấm khăn Burqas, Niqabs, các trang phục phụ nữ Hồi thêu hoa màu sắc rực rỡ hay trang nhã được treo và trưng bày khắp nơi dọc theo khu phố này ban ngày cũng như trong khu chợ đêm Bến Thành. Người ngoại quốc ra vào nườm nượp, nhất là những khách buôn người Malaysia. Du khách từ Mã Lai đến để mua những mặt hàng thêu này về bán lại vì nó đẹp, nét thêu tỉ mỉ, mỹ thuật, lại rẻ. Người bán cũng trang phục phụ nữ Hồi và nói tiếng Anh và Mã Lai. Nhìn những bộ quần áo trông giông giống bộ áo dài thêu VN này được các phụ nữ Mã nâng niu đi tới đi lui trả giá bạn sẽ thấy hoa lòng rộ vui vì nền công nghiệp may mặc VN phát triển song song với kỹ nghệ du lịch.

Như chúng ta đã thấy sự khác nhau trong ý nguyện che mặt và thân thể của phụ nữ Vn và phụ nữ Hồi, một bên là tự nguyện vì làm đẹp, một bên là vì lý do tôn giáo và truyền thống. Nhưng kết quả cuối cùng vẫn mang lại cho chúng ta những người đẹp trắng da dài tóc được gói ghém cẩn trọng trong lụa là gấm vóc. Địa cầu thay đổi, con người thay đổi, thế hệ thay đổi, dĩ vãng đen trắng qua đi như những cơn mơ. Hình ảnh những nàng nữ sinh áo trắng tan trường đạp xe đạp đi hàng đàn với nón lá che nghiêng, giờ tan học từng làm xốn xang lòng người, giờ chỉ còn là kỷ niệm.

Thương ơi!!! Thương quá ngày xưa.

Trịnh Thanh Thủy

Ý thức nữ quyền trong tác phẩm của các nhà văn nữ từ 1954 đến 1975.

10658715_807275092652503_3556808770613039003_o
(photo by Uyên Nguyên )

Bài tham luận trong buổi “Hội Thảo 20 năm văn học Miền Nam Việt Nam” của TRỊNH THANH THỦY

Gần đây, có lẽ nhiều người trong chúng ta từng nghe nói đến giải Nobel Hoà Bình năm nay được trao cho hai người, một Ấn Độ và một Pakistan. Họ đều là các nhà hoạt động vì quyền lợi của phụ nữ và trẻ em.
Người thứ nhất, Ông Kailash Satyarthi là một kỹ sư điện Ấn Độ, 60 tuổi, từng đấu tranh hỗ trợ cho các trẻ em và phụ nữ, những người làm việc tại các nhà máy Ấn Độ như những kẻ nô lê. Họ bị bóc lột sức lao động và là nạn nhân của bạo lực cũng như tấn công tình dục.
Người thứ hai, Malala Yousafzai là một cô gái người Pakistan, 17 tuổi, người trẻ nhất của lịch sử giải Nobel trong hơn một trăm năm vừa qua. Năm 16 tuổi, cô bị một nhóm người Taliban nả súng vào đầu cũng chỉ vì cô đấu tranh cho 31 triệu bé gái trên thế giới được đi học. Họ tưởng đã làm cô bặt tiếng nhưng họ đã lầm. Cô vẫn sống như một phép lạ. Và từ sự im lặng đó hàng nghìn tiếng nói khác đã cất lên, những sức sống mãnh liệt đầy dũng cảm được ra đời.
Tôi tự hỏi, động cơ nào đã khiến một cô bé gái từ năm 11 tuổi đã tranh đấu cho nữ quyền, đã không sợ bất cứ quyền lực nào, cái chết và sự trả thù. Tại vì người Taliban đã cấm không cho người nữ được cắp sách đến trường. Họ muốn bịt mắt, bịt miệng, che tai, mù loà đầu óc phụ nữ ngay khi họ còn là đứa bé. Chỉ khi bị bịt miệng người ta mới biết mình cần được nói. Bị bịt mắt người ta mới thấy ánh sáng là cần thiết. Bị mù loà tâm trí người ta mới cần cắp sách đến trường để khai thông trí tuệ, học hỏi điều hay lẽ phải. Sức mạnh của giáo dục rất cần thiết cho mọi con người.
Quý vị có bao giờ đặt câu hỏi tại sao Kailash là một người nam, lại đứng ra tranh đấu cho phụ nữ và trẻ em?. Tại họ bị bóc lột sức lao động, bị hãm hiếp không thương tiếc trong khi chính quyền đang tâm làm ngơ và coi thường rẻ rúng người phụ nữ. Phụ nữ là ai, họ là em, là chị, là mẹ, là bà của chúng ta, họ cũng là những bè bạn, người thân ruột thịt chúng ta hằng yêu mến. Tranh đấu và bênh vực cho họ chính là tranh đấu cho nhân quyền, tranh đấu cho quyền làm người của họ và cũng là tranh đấu cho chính chúng ta.
Qua câu chuyện trên chúng ta nhận ra được, ngày nay, ảnh hưởng của ý thức nữ quyền rất sâu rộng. Ở mọi lãnh vực, giới tính, mọi lứa tuổi, màu da, cũng như đẳng cấp xã hội.
Bây giờ, ngược dòng lịch sử, chúng ta thử nhìn xem ý thức nữ quyền ảnh hưởng trong tác phẩm của các nhà văn nữ từ 1954 đến 1975 ở Miền Nam VN như thế nào.
Nhắc đến các nhà văn nữ ở thời điểm đó, cá nhân tôi không khỏi tự hào về họ. Những người nữ đã bắt đầu biết sử dụng ngòi viết của mình để bày tỏ lập trường cá nhân. Họ viết và tư duy như một phụ nữ. Ý thức nữ quyền khiến họ nói lên được những quan điểm riêng, và xác định được vị thế cũng như cung cách sống của mình trong xã hội. Họ bắt đầu nhận thức về vai trò, giới tính cùng những khái niệm nhân bản của mình. Họ viết để giải toả sự lạc lõng và cô đơn. Họ tìm sự cảm thông và chia sẻ nơi độc giả. Họ vươn cao, tìm kiếm tự do, cố gắng thoát khỏi sự bao vây nhận chìm của cấu trúc quyền lực truyền thống có tính cách bộ tộc, và cả văn hoá Khổng-Nho.

Họ, không ít thì nhiều chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh. Đó là một quan niệm nghệ thuật về con người là sinh vật cô đơn trong một thế giới phi lý. Nhà văn Nguyễn thị Hoàng là một thí dụ điển hình. Những nhân vật nữ trong tác phẩm của bà lúc nào cũng ở trong một tình trạng mất định hướng và bối rối khi đứng trước một thế giới hình như là vô nghĩa. Họ lang thang bất định, xa rời với phận sự gia đình, luôn khao khát đi tìm một đời sống thật của mình, nghĩa là tìm kiếm chính mình. Những nhân vật như thế đều được tìm thấy trong các tác phẩm “Tuổi Sài Gòn, Vực Nước Mắt, Tiếng Chuông gọi người tình trở về”.

Vốn dĩ phải chịu nhiều thiệt thòi trong cuộc sống, các nhà văn nữ đề cao quan niệm tự do luyến ái. Họ thừa hưởng ý thức nữ quyền do ảnh hưởng Simone de Beauvoir. Họ mon men đi vào những đề tài cấm kỵ như tình dục. Có người còn nổi loạn bằng cách đề cao tính dục, thân xác, vẻ đẹp của phụ nữ và coi trọng tự do cá nhân, cuộc sống riêng tư. Tác phẩm “Vòng tay học trò” của Nguyễn Thị Hoàng ra đời như một cuộc nổi loạn, đạp đổ hàng rào luân lý, đạo đức truyền thống. Câu chuyện xoay quanh những suy tư dằng xé giữa tình yêu, tình dục và đạo đức của một cô giáo và anh học trò. Tác phẩm trở thành một trong những tác phẩm gây tranh cãi nhất thời ấy.

Vào thập niên 54 tới 75, quyền làm người của phụ nữ vẫn chưa được đánh giá đúng đắn. Trong nhiều quốc gia và xã hội họ vẫn còn được xem như các tài vật được buôn bán và trao đổi. Riêng ở Việt Nam có những người còn bị ngược đãi, bạo hành, cưỡng dâm, vùi dập và chịu mọi phục tùng trước sức mạnh của quyền lực. Quan niêm phụ nữ là một vật dục để thoả mãn nhục dục vẫn được lưu giữ trong đầu óc một số người thời đó. Trong truyện ngắn “Bí mật của rừng già” của Trùng Dương viết năm 1971, bà đã mô tả một nhân vật nam có tiền bạc quyền lực thích chiếm đoạt và làm tình với gái trinh, chỉ một lần rồi bỏ đi và tìm cô gái khác. Ông ta thú nhận cái cảm giác thích thú khi nhìn những giọt máu rỉ ra từ các màng trinh bị rách của các cô gái đáng thương. Sau đó ông ta đã cưỡng dâm một nữ tu từ ái trong một lần cô ta quá giang xe tới Đà Lạt. Số phận hèn mọn của người nữ tu kết thúc bằng một cái chết và đứa con gái gù lưng.

Câu chuyện kể trên, có thể có thật hay đã được Trùng Dương dựng nên từ hư cấu. Tuy nhiên nó là một thí dụ điển hình của những chuyện tương tự như thế ở xã hội VN thời bấy giờ. Nó xảy ra công khai hay được che chắn bằng tiền bạc hoặc những thế lực quyền cao chức trọng.

Thân phận nhỏ bé và mềm yếu của người phụ nữ càng hiển lộ khi họ rơi vào cuộc chiến. Vậy mà sau cuộc chiến họ là người có công trong việc tái lập trật tự gia đình, xã hội. Bàn tay của họ dịu dàng, nhẫn nhục, xoa dịu và chữa lành những vết thương ghẻ lở tàn dư của cuộc chiến. Người phụ nữ viết không phải để kể công trạng của họ thời hậu chiến, mà họ viết để kể lể sự bất hạnh, để tìm sự cảm thông, để bày ra ánh sáng những giọt nước mắt âm thầm đã nhỏ trong góc tối, của một kiếp đàn bà chịu đoạ đày. Họ viết bằng mực máu nhỏ từ tim.

Dưới ngòi viết của Nhã Ca, chiến tranh là những kinh hoàng, khốn khổ, lửa đỏ, nước mắt ngược xuôi. Cuốn, Giải khăn sô cho Huế của bà đã ghi được cơn hấp hối của Huế trong trận thảm sát Mậu Thân với hàng chục ngàn hài cốt dân Huế dưới những mồ chôn tập thể. Đâu cũng có nét hoảng hốt, chỗ nào cũng là người chết, kẻ bị thương. Tiếng vật vã, mẹ khóc con, vợ khóc chồng thê thiết, bi ai trong tiếng đạn phá, đại bác réo tơi bời. Có thể nói khi viết về chiến tranh, ngòi viết nữ bỗng chảy thành thể lỏng rấm rứt, thê lương. Đặc biệt hơn, dưới vai trò nạn nhân, bản năng người mẹ của phụ nữ trỗi dậy, họ như gà mẹ xù lông đối đầu với nanh vuốt diều hâu. Họ sẵn sàng hy sinh, dìu dắt và liều chết để bảo vệ con trẻ trước sự bạo hành của bất cứ bàn tay hung ác, quyền lực nào.

Có một số người viết nữ có khuynh hướng bung thoát khỏi tầm ngắm. Họ muốn bứt phá bức tường thành kiến xã hội, tả và viết về tình dục như một biểu trưng của nữ quyền. Trùng Dương đã tỏ rõ thái độ nữ quyền của mình trong tác phẩm “Miền chân trời”. Bà đã cho Diệu, nhân vật nữ của mình hành động, tư duy như một người nữ và cái tôi của người phụ nữ trong tình dục được thể hiện qua hành động “đòi nằm trên” trong cuộc chăn gối.

Túy Hồng với lối tả chân các cảm nhận đích thực, bà đã soi rọi những bí mật chìm sâu trong thế giới nhạy cảm của người nữ. Ngòi bút của bà đã đi những bước dài trong hành trình đi vào địa ngục hay thiên đường xứ “sex”. Những cuồng nộ và khoái cảm được tả tỉ mỉ trong một cảnh quan ân ái trong tác phẩm “Những sợi sắc không” tỏ lộ được nét nữ tính đặc biệt của người nữ trong lối viết về sex. Chúng ta sẽ không thể tìm được những điều này trong các tác phẩm của những nhà văn nữ sống tại miền Bắc trong thời điểm 54-75.

Lệ Hằng lãng mạn hơn, thần thánh hoá vũ trụ đàn ông bằng những cháy bỏng, khát khao, lúc nào cũng sẵn sàng chảy sáp trong tình dục cũng như tình yêu. Sự trữ tình và nồng nàn trong văn phong của bà khi nhắc tới dục tính khiến người đọc nghĩ tới những nhân vật nữ bị ẩn ức tình dục lâu ngày dồn nén, chỉ chực nổ bung khi có dịp.Tác phẩm “chết cho tình yêu” của bà đã tỏ lộ điều này.

Nguyễn Thị Thụy Vũ, đào sâu hơn vào những phân chia đẳng cấp, những áp bức bất công và số phận bi thương của phụ nữ trong xã hội bùn lầy nước đọng. Bà nói lên tâm sự cô đơn của các cô gái già. Bà viết về xã hội các cô gái buôn hương bán phấn, sinh hoạt của các gia đình với nhiều biến cố có liên quan đến thời cuộc và khúc quanh của lịch sử.Những tác phẩm “Khung rêu, Mèo đêm, Lao vào lửa” là những ray rứt, thèm khát yêu thương, tình dục được tâm sự, kể lể bằng ngòi viết nữ mà không người viết nam nào có thể có được.

Sự có mặt của các nhà văn nữ miền Nam VN từ thập niên 54 tới 75 tựa như sự hiện diện của những bông hoa rực rỡ, toả ra một mùi hương rất nữ tính, trong khu vườn văn học. Ý thức nữ quyền khi tiềm tàng, lúc sáng chói đã khiến người phụ nữ phải cầm viết. Chính vì văn chương cũng là một vũ khí quan trọng trong công cuộc giải phóng chính mình và giải phóng cho nữ giới nói chung.

Trịnh Thanh Thủy

Cái chết của một ngôn ngữ: Tiếng Việt Sài Gòn cũ

Trịnh Thanh Thủy

Vấn đề ngôn ngữ là vấn đề của muôn thuở, không riêng gì của người Việt. Trong bài viết này, tôi muốn bàn về một thực trạng của tiếng Việt mà đã đến lúc, chúng ta không thể không suy nghĩ về nó một cách nghiêm túc. Đó là nguy cơ diệt vong của một thứ tiếng Việt mà người miền Nam Việt Nam dùng trước năm 1975 hay còn được gọi là tiếng Việt Sài Gòn cũ. Thứ tiếng Việt đó đang mất dần trong đời sống hàng ngày của người dân trong nước và chẳng chóng thì chầy, nó sẽ biến thành cổ ngữ, hoặc chỉ còn tìm thấy trong tự điển, không còn ai biết và nhắc tới nữa. Điều tôi đang lo lắng là nó đang chết dần ngay chính trong nước chứ không phải ở ngoài nước. Người Việt hải ngoại mang nó theo hành trình di tản của mình và sử dụng nó như một thứ ngôn ngữ lưu vong. Nếu người Việt hải ngoại không dùng, hay nền văn học hải ngoại không còn tồn tại, nó cũng âm thầm chết theo. Nhìn tiếng Việt Sài Gòn cũ từ từ biến mất, lòng tôi bỗng gợn một nỗi cảm hoài. Điều tôi thấy, có lẽ nhiều người cũng thấy, thấy để mà thấy, không làm gì được. Sự ra đi của nó âm thầm giống như những dấu tích của nền văn hoá đệ nhất, đệ nhị cộng hoà VN vậy. Người ta không thể tìm ra nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, Cổ Thành Quảng Trị, nghĩa trang Quân Đội, trường võ bị Thủ Đức, v.v… Tất cả đã thay đổi, bị phá huỷ hoặc biến đi như một sắp xếp của định mệnh hay một định luật của tạo hoá.
Nhắc đến tiếng Việt Sài Gòn cũ là nhắc tới miền Nam Việt Nam trước 1975. Vì cuộc đấu tranh ý thức hệ mà Nam, Bắc Việt Nam trước đó bị phân đôi. Sau ngày Việt Nam thống nhất năm 75, miền Nam thực sự bước vào sự thay đổi toàn diện. Thể chế chính trị thay đổi, kéo theo xã hội, đời sống, văn hoá và cùng với đó, ngôn ngữ cũng chịu chung một số phận. Miền Bắc thay đổi không kém gì miền Nam. Tiếng Việt miền Bắc đã chịu sự thâm nhập của một số ít ngữ vựng miền Nam. Ngược lại, miền Nam chịu ảnh hưởng trực tiếp sự chi phối của ngôn ngữ miền Bắc trong mọi lãnh vực. Nguời dân miền Nam tập làm quen và dùng nhiều từ ngữ mà trước đây họ không bao giờ biết tới. Những: đề xuất, bồi dưỡng, kiểm thảo, sự cố, hộ khẩu, căn hộ, ùn tắc, ô to con, xe con, to đùng, mặt bằng, phản ánh, bức xúc, tiêu dùng, tận dụng tốt, đánh cược, chỉ đạo, quyết sách, đạo cụ, quy phạm, quy hoạch, bảo quản, kênh phát sóng, cao tốc, doanh số, đối tác, thời bao cấp, chế độ bao cấp, chế độ xem, nâng cấp, lực công, nền công nghiệp âm nhạc, chùm ảnh, chùm thơ, nhà cao tầng, đáp án, phồn thực, sinh thực khí, từ vựng, hội chứng, phân phối, mục từ, kết từ, đại từ, nghệ sĩ ưu tú, nghệ sĩ nhân dân,v.v…dần dà đã trở thành những từ ngữ quen thuộc trong đời sống hàng ngày của người dân miền Nam.
Có những từ ngữ miền Nam và miền Bắc trước 75 đồng nghĩa và cách dùng giống nhau. Có những từ cùng nghĩa nhưng cách dùng khác nhau. Tỷ như chữ “quản lý” là trông nom, coi sóc. Miền Nam chỉ dùng từ này trong lãnh vực thương mại trong khi miền Bắc dùng rộng hơn trong cả lãnh vực cá nhân như một người con trai cầu hôn một người con gái bằng câu: “Anh xin quản lý đời em”. Hoặc từ “chế độ” cũng vậy, miền Nam chỉ dùng trong môi trường chính trị như “chế độ dân chủ”. Miền Bắc dùng bao quát hơn trong nhiều lãnh vực như “chế độ xem”, “chế độ bao cấp”. Có những từ miền Bắc dùng đảo ngược lại như đơn giản – giản đơn; bảo đảm – đảm bảo; dãi dầu – dầu dãi; vùi dập – dập vùi. v.v…
Song song với việc thống nhất đất nước, chính quyền Việt Nam đã thống nhất hoá tiếng Việt và gọi đó là “tiếng Việt toàn dân”. Cuối năm 1979, đầu năm 1980, Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam đã phối hợp với Viện Khoa học Giáo dục tổ chức một số cuộc hội thảo về vấn đề chuẩn hoá tiếng Việt. Bộ Giáo dục cũng thông qua một số quy định về chính tả trong sách giáo khoa cải cách giáo dục. Ngày 01/7/1983, Quyết nghị của Hội đồng chuẩn hoá chính tả và Hội đồng chuẩn hoá thuật ngữ đã được ban hành và áp dụng cho các sách giáo khoa, báo và văn bản của ngành giáo dục.
Khi tiếng Việt được thống nhất và chuẩn hoá, toàn quốc sử dụng chung một thứ ngôn ngữ theo một tiêu chuẩn, mẫu mực nhất định. Tiếng Việt Sài Gòn cũ, gồm những từ ngữ mà tiếng Việt miền Bắc đã có từ ngữ thay thế, sẽ bị quên đi hoặc bị đào thải. Những từ ngữ thông dụng cho cuộc chiến trước đó sẽ biến mất trước tiên. Những: trực thăng, cộng quân, tác chiến, địa phương quân, thiết vận xa, xe nhà binh, lạnh cẳng, giới chức(hữu) trách, dứt điểm, phi tuần, chào bãi, tuyến phòng thủ, trái bộc pha, viễn thám, binh chủng, phi hành, gia binh, ấp chiến lược, nhân dân tự vệ, chiêu hồi, chiêu mộ, v.v… hầu như ít, thậm chí không được dùng trong hiện tại. Những từ ngữ thông dụng khác như ghi danh, đi xem đã bị thay thế bằng đăng ký, tham quan. Nhiều từ ngữ dần dần đã bước vào quên lãng như:sổ gia đình, tờ khai gia đình, phản ảnh, đường rầy, cao ốc, bằng khoán nhà, tĩnh từ, đại danh từ, túc từ, giới từ, khảo thí, khán hộ, khao thưởng, hữu sự, khế ước, trước bạ, tư thục, biến cố, du ngoạn, ấn loát, làm phong phú, liên hợp, gá nghĩa, giáo học, giáo quy, hàm hồ, tráng lệ, thám thính, tư thất, chẩn bệnh, chi dụng, giới nghiêm, thiết quân luật, v.v…
Ở hải ngoại, khi bắt đầu cầm bút, trong tâm thức một người lưu vong, viết, đối với tôi, là một động tác mở để vỡ ra một con đường: Đường hoài hương. Nhiều người viết hải ngoại cũng tìm đến con đường về cố hương nhanh nhất này như tôi. Hơn nữa, để đối đầu với cơn chấn động văn hóa thường tạo nhiều áp lực, tôi xem viết như một phương pháp giải toả và trám đầy nỗi hụt hẫng, rỗng không của một người vừa ly dị với quê hương đất tổ sau một hôn phối dài. Tôi không bao giờ để ý đến việc mình viết cho ai, loại độc giả nào, trong hay ngoài nước, và họ có hiểu thứ ngôn ngữ mình đang dùng hay không vì lúc đó, chỉ có một vài tờ báo điện tử liên mạng mới bắt đầu xuất hiện ở hải ngoại. Sau này, nhờ kỹ thuật điện toán ngày một phát triển, cầu giao lưu giữa trong và ngoài nước được nối lại, độc giả trong và ngoài nước đã có cơ hội tiếp xúc, thảo luận, đọc và viết cho nhau gần như trong gang tấc. Đó là lúc tôi được tiếp xúc với dòng văn học trong nước và làm quen với nhiều từ ngữ mới lạ chưa từng được nghe và dùng. Ngược lại, trong nước cũng vậy, số người lên mạng để đọc những gì được viết bởi người cầm bút ngoài nước cũng không ít.
Thế hệ chúng tôi được người ta âu yếm gọi là thế hệ một rưỡi, thế hệ ba rọi hay nửa nạc nửa mỡ, cái gì cũng một nửa. Nửa trong nửa ngoài, nửa tây nửa ta, nửa nam nửa bắc, nửa nọ nửa kia, cái gì cũng một nửa.
Do đó, nhiều lúc tôi phân vân không biết mình nên dùng nửa nào để viết cho thích hợp nữa. Nửa của những từ ngữ Sài Gòn cũ hay nửa của tiếng Việt thông dụng trong nước? Mình có nên thay đổi lối viết không? Tôi nghĩ nhiều người viết hải ngoại cũng gặp khó khăn như tôi và cuối cùng, mỗi người có một lựa chọn riêng. Không chỉ trong lãnh vực văn chương, thi phú mà ở các lãnh vực phổ thông khác như giáo dục và truyền thông cũng va phải vấn đề gay go này. Việc sử dụng nhiều từ ngữ thông dụng của quốc nội ở hải ngoại đã gặp nhiều chống đối và tạo ra những cuộc tranh luận liên miên, dai dẳng.
Các cơ quan truyền thông như báo chí, truyền thanh, truyền hình thường xuyên bị chỉ trích và phản đối khi họ sử dụng những từ trong nước bị coi là “chữ của Việt Cộng” và được yêu cầu không nên tiếp tục dùng. Nhất là ở Nam Cali, báo chí và giới truyền thông rất dễ bị chụp mũ “cộng sản” nếu không khéo léo trong việc đăng tải và sử dụng từ ngữ. Chiếc mũ vô hình này, một khi bị chụp, thì nạn nhân xem như bị cộng đồng tẩy chay mà đi vào tuyệt lộ, hết làm ăn vì địa bàn hoạt động chính là cộng đồng địa phương đó.
Trong cuốn DVD chủ đề 30 năm viễn xứ của Thúy Nga Paris, chúng ta được xem nhiều hình ảnh cộng đồng người Việt hải ngoại cố gìn giữ bản sắc văn hoá Việt Nam bằng cách mở các lớp dạy Việt ngữ cho các con em. Khắp nơi trên thế giới, từ nơi ít người Việt định cư nhất cho tới nơi đông nhất như ở Mỹ, đều có trường dạy tiếng Việt. Riêng ở Nam California, Mỹ, hoạt động này đang có sự khởi sắc. Ngoài những trung tâm Việt ngữ đáng kể ở Little Saigon và San José, các nhà thờ và chùa chiền hầu hết đều mở lớp dạy Việt ngữ cho các em, không phân biệt tuổi tác và trình độ. Nhà thờ Việt Nam ở Cali của Mỹ thì rất nhiều, mỗi quận hạt, khu, xứ đều có một nhà thờ và có lớp dạy Việt ngữ. Chùa Việt Nam ở Cali bây giờ cũng không ít. Riêng vùng Westminster, Quận Cam, Cali, đi vài con đường lại có một ngôi chùa, có khi trên cùng một con đường mà người ta thấy có tới 3, 4 ngôi chùa khác nhau. Việc bảo tồn văn hoá Việt Nam được các vị hướng dẫn tôn giáo như linh mục, thượng tọa, ni sư nhắc nhở giáo dân, đại chúng mỗi ngày. Lớp học tiếng Việt càng ngày càng đông và việc học tiếng Việt đã trở thành một trong những mối quan tâm hàng đầu của cộng đồng lưu vong. “Tại Trung tâm Việt ngữ Hồng Bàng, năm nay số học sinh nhập học tiếng Việt lên tới 700 em. Những thầy cô dạy tiếng Việt đều làm việc thiện nguyện hoàn toàn, đã hết lòng chỉ dạy cho các em, nhất là các em vừa vào lớp mẫu giáo tiếng Việt” (trích Việt báo, Chủ nhật, 9/24/2006)
Về vấn đề giáo trình thì mỗi nơi dạy theo một lối riêng, không thống nhất. Sách giáo khoa, có nơi soạn và in riêng để dạy hoặc đặt mua ở các trung tâm Việt ngữ. Còn ở đại học cũng có lớp dạy tiếng Việt cho sinh viên, sách thường được đặt mua ở Úc. Một giảng sư dạy tiếng Việt tâm sự với tôi: “Khi nào gặp những từ ngữ trong nước thì mình tránh đi, không dùng hoặc dùng từ thông dụng của Sài gòn cũ trước 75 vì nếu dùng cha mẹ của sinh viên, học sinh biết được, phản đối hoặc kiện cáo, lúc ấy phải đổi sách thì phiền chết.”
Sự dị ứng và khước từ việc sử dụng tiếng Việt trong nước của người Việt hải ngoại có thể đưa tiếng Việt ở hải ngoại đến tình trạng tự mình cô lập. Thêm nữa, với sự phát triển rầm rộ của kỹ thuật điện toán và thế giới liên mạng, báo chí, truyền thông của chính người Việt hải ngoại đến với mọi người quá dễ dàng và tiện lợi. Độc giả cứ lên mạng là đọc được tiếng Việt Sài Gòn cũ nên họ dường như không có nhu cầu tìm hiểu tiếng Việt trong nước. Kết quả là tiếng Việt trong và ngoài nước chê nhau!!!
Việc người Việt hải ngoại chống đối và tẩy chay ngôn ngữ Việt Nam đang dùng ở trong nước có vài nguyên do:
Thứ nhất là do sự khác biệt của ý thức hệ. Những người Việt Nam lưu vong phần lớn là người tị nạn chính trị. Họ đã từ bỏ tất cả để ra đi chỉ vì không chấp nhận chế độ cộng sản nên từ chối dùng tiếng Việt trong nước là gián tiếp từ chối chế độ cộng sản.
Thứ hai, sự khác biệt của từ ngữ được dùng trong cả hai lãnh vực ngữ nghĩa và ngữ pháp. Đây là một thí dụ điển hình. Trong cùng một bản tin được dịch từ một hãng thông tấn ngoại quốc, nhà báo ở trong nước và ngoài nước dịch thành hai văn bản khác nhau:
Trong nước:
Tàu ngầm hạt nhân Nga bốc cháy
Interfax dẫn một nguồn tin Hải quân Nga cho hay ngọn lửa bắt nguồn từ phòng điện hóa và dụng cụ bảo vệ lò hạt nhân đã được kích hoạt, do đó không có đe dọa về nhiễm phóng xạ. Phát ngôn viên hạm đội này cho hay: “Lửa bốc lên do chập điện ở hệ thống cấp năng lượng phần mũi tàu.
(http://vnexpress.net/Vietnam/The-gioi/2006/09/3B9EDF89/)
Ngoài nước:
Hỏa hoạn trên tàu ngầm Nga
Hải quân Nga nói rằng lò phản ứng hạt nhân trên tàu Daniil Moskovsky đã tự động đóng lại và không có nguy cơ phóng xạ xảy ra. Chiếc tàu đã được kéo về căn cứ Vidyayevo. Nguyên nhân hỏa hoạn có thể do chạm giây điện.
(http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=48362&z=75)
Một người Việt hải ngoại khi đọc văn bản thứ nhất sẽ gặp những chữ lạ tai, không hiểu nghĩa rõ ràng vì sự khác biệt như những chữ: phòng điện hoá, được kích hoạt, chập điện, hệ thống cấp năng lượng…
Hơn thế nữa, Việt Nam mới bắt đầu mở cửa thông thương giao dịch với quốc tế; những từ ngữ mới về điện toán, kỹ thuật, y khoa, chính trị, kinh tế, xã hội, ồ ạt đổ vào. Có nhiều từ ngữ rất khó dịch sát nghĩa và thích hợp nên mạnh ai nấy dịch. Ngoài nước dịch hai ba kiểu, trong nước bốn năm kiểu khác nhau, người đọc cứ tha hồ mà đoán nghĩa. Có chữ thà để ở dạng nguyên bản, người đọc nhiều khi còn nhận ra và hiểu nghĩa nó nhanh hơn là phiên dịch.
Trong việc phiên dịch, theo tôi, địa danh, đường phố, tên người nên giữ nguyên hơn là phiên dịch hay phiên âm. Nếu có thể, xin chú thích từ nguyên bản ngay bên cạnh hay đâu đó bên dưới bài viết sẽ giúp người đọc dễ theo dõi hay nhận biết mặt chữ. Tỷ như việc phiên âm các địa danh trên bản đồ trong sách giáo khoa của Bộ Giáo dục trong nước là việc đáng khen nhưng tôi nghĩ, nếu đặt từ nguyên thủy lên trên từ phiên âm thì các em học sinh chưa học tiếng Anh hoặc đã học tiếng Anh sẽ dễ nhận ra hơn. Xin lấy tỉ dụ là những địa điểm được ghi trên tấm bản đồ này. (http://i12.photobucket.com/albums/a215/unisom/thualuonJPG.jpg)
Tôi thấy một hai địa danh nghe rất lạ tai như Cu dơ Bây, Ben dơ mà không biết tiếng Mỹ nó là cái gì, ngồi ngẫm nghĩ mãi mới tìm ra: đó là hai địa danh Coos Bay và Bend ở tiểu bang Oregon, nước Mỹ!
Ngôn ngữ chuyển động, từ ngữ mới được sinh ra, từ cũ sẽ mất đi như sự đào thải của định luật cung cầu. Tiếng Việt Sài Gòn cũ ở trong nước thì chết dần chết mòn; ở ngoài nước, nếu không được sử dụng hay chuyển động để phát sinh từ mới và cập nhật hoá, nó sẽ bị lỗi thời và không còn thích ứng trong hoạt động giao tiếp nữa. Dần dà, nó sẽ bị thay thế bằng tiếng Việt trong nước. Nhất là trong những năm gần đây, sự chống đối việc sử dụng tiếng Việt trong nước ngày càng giảm vì sự giao lưu văn hoá đã xảy ra khiến người ta quen dần với những gì người ta đã phản đối ngày xưa. Tạp chí, sách, báo đã đăng tải và phổ biến các bản tin cũng như những văn bản trong nước. Người ta tìm được nhiều tài liệu, ấn phẩm, sách nhạc quốc nội được bày bán trong các tiệm sách. Các đài truyền thanh phỏng vấn, đối thoại với những nhà văn, nhà báo, chính trị gia và thường dân trong nước thường xuyên. Đặc biệt, giới ca sĩ, nhiều người nổi tiếng ra hải ngoại lưu diễn, đi đi về về như cơm bữa. Giới truyền thông bây giờ sử dụng từ ngữ trong nước rất nhiều, có người mặc cho thiên hạ chỉ trích, không còn ngại ngùng gì khi dùng từ nữa. Khán thính giả có khó chịu và chê trách, họ chỉ giải thích là thói quen đã ăn vào trong máu rồi, không chịu thì phải ráng mà chịu.
Sự ra đi của một chế độ kéo theo nhiều thứ: con người, tài sản, nhà cửa, vườn tược, lịch sử… nhưng có cái bị lôi theo mà người ta không ngờ nhất lại là “cái chết của một ngôn ngữ”

TRỊNH THANH THỦY