NHỮNG ĐỨA TRẺ THÁNG TƯ

khuatdau

Thủa ấy, thế hệ chúng tôi thường ca cẩm đầu thai nhầm thế kỷ!. Cái thế kỷ mà chúng tôi ngán ngẩm là thế kỷ hai mươi, với thế chiến thứ nhất, thế chiến thứ hai, rồi chiến tranh lạnh, chiến tranh qui ước và cuộc nội chiến lê thê suốt hai mươi năm dài.
Kêu trong chán nản, trong hờn dỗi nhưng không tuyệt vọng. Vì còn kêu được kia mà. Chỉ có một chút tấm tức, sao không được sinh ra trong những thế kỷ yên bình. Có nghĩa rằng, dù thế nào chăng nữa, thì được sinh ra làm người vẫn hơn là không được sinh ra.
Khác hẳn với những đứa trẻ sinh ra trong tháng tư, bảy lăm, sau chúng tôi một thế hệ. Chúng không kêu mà hỏi: sinh chúng tôi ra làm gì?

Đó là những đứa trẻ mẹ mang đầy bụng, mẹ không thở ra hơi mà vẫn phải bết bát chạy.
Chạy từ cầu Ái Tử qua cầu Tràng Tiền. Rồi từ cầu Tràng Tiền lê lết trèo qua đèo Hải Vân. Rồi từ đèo Hải Vân qua đèo Mẹ Bồng Con. Sau cùng đến giữa trái tim thủ đô Sài Gòn, vẫn phải giẫm đạp lên nhau để xuống bến Bạch Đằng, hay chen lấn nhau đến nghẹt thở để chui vào phi cảng Tân Sơn Nhất. Một cuộc chạy Marathon dài nhất trong lịch sử.
Và rồi mẹ sinh. Không phải trong nhà thương Từ Dũ với sự giúp sức của các bác sĩ và cô đỡ mát tay để mẹ tròn con vuông.
Mà sinh, có thể là lúc đang chạy trối chết, con rớt trong quần mà mẹ không hay.
Cũng có thể là lúc mẹ mệt quá cái đôi chân này đang ngồi tựa lưng vào một bức tường lỗ chỗ dấu đạn. Rồi con lặng lẽ chui ra mà mẹ không cần phải rặn, đúng hơn là không còn hơi sức đâu mà rặn.
Có thể trong thùng xe chất cứng người, suýt nữa con bị người ta đạp cho nát bét.
Có thể trên con tàu mấp mé sắp chìm, người ta đang ném những xác chết và những người sắp chết xuống biển cho nhẹ bớt. (Cũng may họ không ném những người đàn bà chửa)
Có thể trong khoang trực thăng mà viên phi công bị đạn dưới đất bắn lên, xuyên qua ghế ngồi khiến anh ta đầm đìa máu, vẫn cố sức giữ cho máy bay khỏi rơi.
Có thể mọi lúc, mọi nơi, mọi giờ, mọi phút.
Ngay cả phút cuối cùng của giờ thứ hai mươi lăm, khi tông tông Dương Văn Minh vừa nói xong mấy tiếng “đầu hàng không điều kiện”.
Mẹ sinh, không có cha bên cạnh.
Có thể cha đã chết trong chiến hào, có thể đang chiến đấu mà súng bị gãy, có thể bị thương, bị bắt, cũng có thể cởi bỏ quân phục lẫn lộn giữa đám thường dân đói khát trên quốc lộ số 1
Người ta đi biển có đôi
Còn tôi đi biển mồ côi một mình.
Mẹ sinh con ra chỉ mình ên, quạnh hiu lắm con ơi!
Mẹ sinh con ra, chính mẹ, cũng không biết để làm gì!
Không biết để làm gì nhưng vẫn muốn con được sống.
Giữa chốn đông người, mẹ vẫn cứ vạch áo ra cho con bú. Tuy chỉ uống nước lã cầm hơi, mẹ cũng hãy còn một ít máu. Những giọt máu hiếm hoi màu đỏ khi chảy qua miệng con vẫn thành màu trắng thơm tho.
Và kỳ diệu làm sao, con vẫn sống được.
Nghĩa là con vẫn thở trong khi khắp nơi đậm đặc mùi xác chết thối rữa, mùi khói, mùi xăng, mùi nhà cháy. Và con vẫn khóc được trong tiếng đại bác ì ầm, tiếng A.K cọc cọc, tiếng xe tăng rít trên mặt đường.
Con sống, nhưng sau cái phút cuối cùng của giờ thứ hai mươi lăm, mẹ ngơ ngác không biết đang ở đâu, rồi sẽ đi về đâu giữa rừng cờ nửa xanh nửa đỏ.
Sau cùng, mẹ cũng hiểu ra rằng lịch sử đã sang trang. Không chỉ riêng mình mẹ mà nửa nước đều thấy xa lạ với chính thành phố, xóm làng của mình. Ngay cả con phố, căn nhà, mảnh vườn cũng không còn là của mình nữa.
Mẹ bị đuổi về quê làm xã viên hợp tác xã. Mẹ lội xuống ruộng, mặc dù rất sợ đỉa, để cấy, gặt. Đôi lúc mẹ trần vai để kéo cày thay trâu. Mẹ làm ra lúa ra khoai đầy kho đụn, nhưng mẹ và những người đội nón lá chỉ làm cho nón cối hưởng, nên con vẫn đói khát, bủng beo.
Mẹ bị hốt trong đêm quẳng lên rừng thiêng nước độc, gọi là kinh tế mới. Mẹ phải sống chung với rắn rít và cả cọp beo, khi ấy hãy còn nhiều lắm. Mẹ bẻ măng rừng, hái nấm ăn cho đỡ đói. Nhiều lần ăn phải nấm độc suýt chết. Cả con và mẹ đều bị sốt rét rừng, bụng ỏng da vàng khè.
Chịu hết xiết, mẹ cõng con trốn về thành phố. Mẹ vay mượn chút ít chạy chợ trên, lộn chợ dưới. Bị mắng là con buôn, bị quản lý thị trường rượt đuổi còn hơn mã tà. Một đôi lần bị cướp sạch cả vốn. Đến nổi, nói ra thật xấu hổ, chỉ còn cái vốn trời cho. Để làm lại cuộc đời mẹ đã thử theo bè bạn đi đứng đường. Nhưng mẹ gầy yếu teo tốp quá, chẳng ai thèm rớ tới.
Cũng may, lúc ấy cha con chẳng phải chết, chỉ bị bắt đi cải tạo, vừa được thả ra. Cha con còn thảm não hơn cả mẹ. Nhưng nhờ cái gọi là tình chồng nghĩa vợ, mẹ cha cũng gắng gượng mà sống để nuôi con. Cha đạp xe thồ, bán cà rem, mẹ lượm lon nhặt giấy vụn trong bãi rác.
Con được (hay bị) dạy thành cháu ngoan Bác Hồ.
Rồi con cũng học đến lớp 12.
Nhưng tới đó thì thôi, cánh cửa đại học đã đóng sầm trước mặt con.
Con bị ném vào đời không nghề nghiệp, không vốn liếng.
Con sống lây lất cho đến hôm nay.

Hôm nay, những đứa trẻ tháng tư năm ấy đã bốn mươi tuổi, cái tuổi tứ thập nhi bất hoặc. Còn bi đát tội nghiệp hơn cả cha mẹ, chúng không có quá khứ để tiếc thương, không có tương lai để hướng tới, chỉ có cái hiện tại không sắc màu, không mùi vị, như một con số không chẳng biết để làm gì.
Trong gia đình, nhìn thấy mẹ cha co rúm, mòn cùn, tuy không nói ra, nhưng chúng thừa biết họ là những kẻ hèn. Ngoài xã hội, chúng chỉ đứng bên lề, nếu không muốn nói là đứng dưới đáy. Trong khi những đứa cùng năm sinh, tháng sinh nhưng ở nửa nước bên kia hay dưới cái dù lý lịch màu đỏ phía bên này đang được cơ cấu vào những chức vụ ngon ăn, sắp sửa đi làm đầy tớ cho những ông chủ kém may mắn nói trên.
Thế nên, đến chết vẫn còn nguyên câu hỏi: Sinh ra trong chết chóc, lớn lên trong đói khổ và suốt đời sống trong ô nhục, vậy sinh chúng tôi ra làm gì?!

KHUẤT ĐẨU

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, “Chúng tôi là một đoàn quân chiến bại.”

nuocmattruocconmua

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, nguyên tác Anh Ngữ “Tears Before The Rain” là một tập sử liệu về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam, do Larry Engelmann, Giáo Sư Đại Học San Jose State thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn nhiều thành phần: người Mỹ, người Việt, kẻ thắng người bại …Những cuộc phỏng vấn này khởi sự từ 1985, sách xuất bản năm 1990. Bản dịch Việt Ngữ do nhà văn Nguyễn Bá Trạc thực hiện năm 1993, xuất bản năm 1995 tại California.

nguyenbatrac

THOMAS POLGAR
(Chỉ huy Trung ương Tình báo Mỹ tại Việt Nam)
“Chúng tôi là một đoàn quân chiến bại.”

Hiểu ý định địch quân không khó vì Bắc Việt không giữ bí mật phương hướng, đường lối. Họ thường cho cán bộ học tập kỹ lưỡng cả đến những chi tiết đáng ngạc nhiên về những gì họ làm, hơi giống kiểu Hitler và cuốn Mein Kampf. Họ thường nói trước những gì họ sẽ làm, chúng ta thường không tin những gì họ đã nói. Còn chính sách Hoa Kỳ thì đơn giản là không đáp ứng những tin tình báo mà chúng tôi thu lượm.

Xin đưa thí dụ: Mùa thu 1974, chúng tôi tìm ra được những báo cáo của Hà Nội nói Nixon đã đổ, chúng ta sẽ chơi một trận cầu mới, chúng ta sẽ có nhiều thử nghiệm trong phạm vi quân sự. Tôi xem các tài liệu này rất hệ trọng. Bắt đầu vào tháng 10, 1974, khi tìm được phương án hoạt động 75, tôi lái xe xuống Biên Hoà nói chuyện với viên Trưởng Nhiệm sở Tình báo vùng, nơi họ bắt được phương án này, chúng tôi đã bàn thảo và đi đến kết luận: Cái giọng trong văn kiện này tương đồng khủng khiếp với cái giọng của tập tài liệu 90 nguyên tắc chỉ đạo do Trung ương cục miền Nam đưa ra vài tháng trước cuộc tổng công kích 1972.

Một hôm, tôi có dịp hỏi ý kiến Kissinger về hoạt động tình báo của chúng ta, không phải chỉ riêng ở Việt Nam, mà nói chung. Lúc ấy, ông đang tiếp nhận một lưu lượng khổng lồ các tin tức do Trung ương Tình báo từ khắp nơi trên thế giới gửi về. Tôi hỏi ông nghĩ thế nào về giá trị ngành tình báo chúng ta? Ông suy nghĩ một lúc, rồi trả lời: “Khi nó hỗ trợ cho chính sách của tôi, nó rất hữu ích!” Tôi nghĩ: Đấy, chính đấy là tâm điểm vấn đề. Vấn đề là chính sách Mỹ không được thiết lập để đáp ứng với tin tức do tình báo thâu nhập được nhưng chúng ta thiết lập chính sách trước, rồi cố tìm kiếm các tin tức tình báo để hỗ trợ chính sách ấy mà thôi.

Ở Việt Nam lúc đó có ba nguồn tình báo chính: Quân báo, sở An ninh Quốc gia và Trung ương Tình báo. Chúng tôi không bao giờ gặp những trường hợp tin tức nghịch chiều. Chưa bao giờ Văn phòng Tình báo- Văn phòng Tùy viên Quân sự đưa ra những quan điểm hoàn toàn khác biệt với quan điểm những cơ quan tình báo bạn. Chúng tôi phối hợp chặt chẽ với Bill Legro, người chỉ huy tình báo thuộc Văn phòng Tùy viên Quân sự suốt phần lớn thời gian kể từ sau Hiệp định Ba-Lê. Nhưng trở ngại là chính sách Hoa Kỳ đã được đặt trên căn bản của một tiền đề: Tiền đề đó là Chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt. Quân đội Hoa Kỳ đã rút. Và chắc chắn, Tổng thống Ford sẽ không để cho hy vọng tái bầu cử của ông bị đe dọa vì việc có thể đưa quân Mỹ trở lại Việt Nam.

Vào năm 1974, chúng ta đã không gửi tiếp vận cho Nam Việt Nam đúng kỳ hạn. Chúng ta đã chậm trễ trong việc thi hành các nghĩa vụ đồng minh. Lúc ấy, tôi báo cáo: Nếu người miền Nam Việt Nam mất tin tưởng vào sự hỗ trợ của Hoa Kỳ, họ sẽ sụp đổ. Tôi nhấn mạnh vào sự tin tưởng-vào tinh thần của họ, hơn là vào cả cái mức độ thực sự của việc yểm trợ quân sự.

Có năm sự kiện xảy ra trong năm 1973 dù không liên quan gì đến Việt Nam, nhưng đã ảnh hưởng trầm trọng đến họ. Trước hết, cuộc chiến Ả Rập/Do Thái đã làm đổi hướng Bộ Quốc phòng Mỹ và đổi hướng nguồn quân vận sống chết của Nam Việt Nam. Tiếp đến việc phong tỏa dầu lửa, giá dầu thô tăng vọt làm kinh tế Nam Việt Nam bị va chạm, thiệt hại nặng. Rồi các nhược điểm trong chính sách ngoại giao Mỹ đã tạo nên những phản ứng tâm lý mạnh mẽ chống lại việc tiếp tục các cam kết ngoại giao đắt giá. Rồi việc quân nhân đảo chánh, hạ bệ Salvador Allende ở Chí Lợi làm công luận thuộc Khuynh hướng Tự do và Khuynh hướng Tả phái tức giận, họ trút sang đầu Nam Việt Nam. Sau nữa, quốc hội vì ghê tởm vụ bưng bít Watergate, đã tìm cách trừng phạt Nixon, nên cũng gộp luôn cả Việt Nam vào vụ này.

Tôi nghĩ ông Thiệu hiểu rất rõ: Không có Mỹ, ông không thể tồn tại được. Tôi cũng biết Hoàng Đức Nhã, cháu ông Thiệu rất nhiều. Nhã đã học bốn năm đại học ở Mỹ, còn hiểu rõ hơn cái bản chất bất định của nền chính trị Hoa Kỳ, những sự lên xuống thuần túy chỉ do áp lực nội bộ gây ra, thường chẳng liên quan đến đề mục ngoại giao, mà lại ảnh hưởng lớn đến liên hệ ngoại giao. Nhưng làm thế nào một người như Thiệu có thể nhận thức thấu đáo sinh hoạt quốc hội Mỹ, trong khi cách làm việc của ông là chỉ coi quốc hội của ông như một công cụ khúm núm quỵ lụy mà thôi?

Vụ thất thủ Phước Long xảy ra đầu năm 1975 không quan trọng về phương diện quân sự, nhưng cực kỳ quan trọng ở phương diện tiêu biểu: Nước Mỹ đã từ chối không thực hiện lời Nixon hứa với Thiệu rằng sẽ “trả đũa mạnh mẽ và toàn bộ.” Quân Bắc Việt thử nghiệm xong, tất nhiên được đàng chân, lân đàng đầu, họ sẽ tiến sâu hơn nữa.

Khi phái đoàn quốc hội Hoa Kỳ đến Việt Nam, tôi nghĩ cách hành xử của Fraser và Abzug không tha thứ được. Ngay khi bước vào phòng, Abzug lên tiếng hỏi: “Trong mấy người ở đây, ai là Polgar?” Tôi tự giới thiệu. Bà ta nói: “Tốt! Tôi đã được người ta cảnh giác về ông.”

Bấy giờ có một lãnh tụ sinh viên bị nhốt tù, anh này có đôi chút tiếng tăm ở Mỹ. Bà Abzug đầu tiên bảo anh ta chắc chết rồi, Nam Việt Nam giết hắn rồi. Tôi bảo “Không. Nam Việt Nam không làm như vậy. Họ có thể xác định được bất cứ người nào ở đâu trong tù.” Bà ta bảo: “Xác định người này xem.” Chúng tôi xác định ra được địa điểm giam anh ta là ở vùng 3, Tuy Hoà.(Ghi chú của người dịch: Có lẽ là Biên Hòa) Bà bèn bảo bà ấy muốn phỏng vấn. Nhưng đi xe hơi xa quá, phải có trực thăng, bà ấy lại chỉ có thể đi sáng chủ nhật, thực bất tiện cho tất cả mọi người. Nhưng cũng đành, chúng tôi thu xếp trực thăng, thu xếp thủ tục thăm tù. Sau khi tất cả lo liệu xong, bà ấy nói: “À, tôi không lưu ý vụ này nữa” và không bao giờ đi gặp người sinh viên này nữa.

Cùng đi trong phái đoàn có Millicent Fenwick. Bà này tuy không có cảm tình với Nam Việt Nam nhưng vẫn còn cư xử đàng hoàng, đã theo dõi lắng nghe các buổi thuyết trình. Nhưng Abzug và Fraser hết sức quá quắt. Tổng thống Thiệu mời cả phái đoàn dự tiệc, hai người này thản nhiên không dự. Họ chẳng đếm xỉa nghi lễ, không buồn từ chối. Họ lẳng lặng không đến. Trước buổi tiệc ấy là tiếp tân của thủ tướng, họ đến, nhưng họ không thò mặt vào buổi tiệc của tổng thống. Rồi đại sứ cũng mời phái đoàn dùng cơm chiều. Tất cả mọi người đến, trừ Abzug. Tôi rất thất vọng, vì chính tôi đã được xếp ngồi ngay cạnh bà ta.

Về vụ tấn công Ban Mê Thuột ngày 5 tháng 3, tôi không tin có ai đã đoán trước được, nhưng hầu hết mọi người đều biết một cuộc tấn công lớn sẽ xảy ra ở cao nguyên trung phần. Chúng tôi biết họ sẽ cắt đường, sẽ đưa vào nhiều sư đoàn. Tất cả đều đã xảy ra đúng như vậy, nhưng Hoa Thịnh Đốn không bao giờ chấp nhận tin tức tình báo của chúng tôi. Họ không chấp nhận vì-(Chúng ta đang bước vào chuyện xuất xứ các nguồn tin và những phương pháp thâu nhập tin tức tình báo, chẳng rõ tôi có nên nói ra ở đây không)-Nhưng sự kiện xảy ra là giới tình báo Hoa Thịnh Đốn đã không sử dụng tin tức tình báo từ Việt Nam do Văn phòng Tùy viên Quân sự và sở Trung ương Tình báo chuyển đến, nói rằng sẽ có một cuộc tấn công lớn tại cao nguyên vào năm 1975. Họ từ chối không chịu tin điều ấy. Còn miền Nam Việt Nam thì chẳng có được một quan niệm chiến thuật riêng tư nào, ngoài việc đặt một trung đoàn chỗ này, đưa một trung đoàn ra chỗ kia để phòng vệ. Trung đoàn tăng cường Ban Mê Thuột không đủ đương đầu tình hình, họ cũng không được may mắn. Những lực lượng này dùng để giữ các địa phương thì tốt, họ tỏ ra đắc lực để đối đầu vài trận tấn công. Tuy nhiên họ không phải là loại binh đội được huấn luyện và trang bị để chiến đấu với các đơn vị chính quy chủ lực có chiến xa tăng cường.

Sau khi mất Ban Mê Thuột, ông Thiệu họp với tướng Phạm Văn Phú tại Cam Ranh, ban lệnh triệt thoái cao nguyên. Tôi nhớ buổi họp ấy nhằm thứ sáu. Phú cho thực hiện kế hoạch vào thứ bảy. Nhận tin sáng thứ bảy ấy, tôi chạy theo tướng Charles Timmes ra Tổng Tham mưu, và nói rằng “Tôi chẳng biết chuyện trời đất gì đang xảy ra đây nữa!” Tôi cho một phụ tá cao cấp đi gặp tướng Đặng Văn Quang, Cố vấn An ninh của Thiệu, hỏi chuyện gì đang xảy ra ở vùng II. Quang bảo: “Ông thấy, tình hình không được tốt. Chúng tôi không mở đường lại được, chúng tôi đang lo ngại về tình hình và sẽ phải thay đổi vị trí một vài đơn vị- chớ chẳng có chuyện gì xảy ra ở vùng II cả.”

Hiển nhiên, ông Quang không hay biết ông Phú đang di tản. Tướng Timmes vào Tổng Tham Mưu Việt Nam, nhưng không gặp tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham mưu Trưởng. Mọi sự ở đấy có không khí của một buổi sáng thứ bảy. Nhưng ông đã gặp tướng Trần Đình Thọ, là Trưởng phòng hành quân để hỏi thăm tin tức vùng II. Ông Thọ nói: “Còn có cái gì xảy ra mà quý ông không hay biết cả đâu?” Rõ rệt, Bộ Tổng Tham Mưu cũng không biết gì việc ông Phú đang triệt thoái. Sau đó tôi nhận tin trực tiếp từ Pleiku gửi về. Phó Đại sứ Wolf Lehman bấy giờ đang bận một số chuyện lặt vặt. Joe Bennett, sĩ quan chính trị đang bận đi chữa răng. Tôi điện thoại cho Moncrieff Spear, Tổng Lãnh sự ở vùng II, bảo ông ta: “Tốt hơn hết ông nên chuyển người của ông ra khỏi Pleiku, theo chỗ tôi hiểu: người ta đang di tản.” Ông ta nói: “Anh khùng à?” Bấy giờ ông ta đang ở Nha Trang, vùng duyên hải, tôi bảo: “Không, tôi có lý do để tin những việc đang xảy ra.” Ông ta nói: “Có phải anh ra lệnh cho tôi di tản Pleiku đấy chăng?” Tôi bảo: “Ông biết thừa tôi không thể làm thế. Nhưng tôi có thể kết luận nếu khôn ngoan thì hãy di tản ngay đi.”
Có một điểm tôi muốn nêu ra đây về tướng Phú trong buổi sáng hôm ấy. Bất kỳ công trạng trước đây của ông thế nào, không kể, nhưng bây giờ ông ta đã hoàn toàn không phối hợp với chúng tôi. Ông ta không thông báo cả cho Tổng Lãnh sự là người mà ông bắt buộc phải thông báo, vì đây là đại diện chính thức của Hoa Kỳ tại vùng II. Ông Quang cũng không biết chuyện gì đang xảy ra, ông ta có vẻ của một người bận rộn, nhưng thực tình chỉ lăng xăng giết thì giờ. Còn ông Thọ Trưởng phòng hành quân, cũng thế, chẳng hay biết gì cả. Trong sự suy đoán của tôi: Những việc xảy ra đó là do tướng Phú hiểu lầm những gì Tổng thống Thiệu nghĩ trong đầu, rồi tự khởi xướng một kế hoạch hành động, không biết việc ấy trong thực tế sẽ khó khăn đến đâu. Thực tế cuộc di tản ấy không thành công. Mọi cuộc triệt thoái sớm hay muộn đều là một sự thất bại khủng khiếp.

Quân đội Bắc Việt bắt kịp cuộc di tản của tướng Phú. Chiến xa của họ đâm ra từ các đường nhánh, gặp đoàn quân tại Phú Bổn. Cuộc tàn sát đã diễn ra ở đấy.

Trước buổi họp Cam Ranh, tôi liên lạc với Hoa Thịnh Đốn để ghi nhận cuộc chơi đã xong. Tôi nhớ tôi nói chuyện với một viên chức có liên hệ khá chặt chẽ với tôi (xin miễn đưa tên), ông ta bảo: Nam Việt Nam không thể nào tiêu hoá nổi việc mất Ban Mê Thuột cùng với cái hậu quả tất yếu của nó là mất toàn thể cao nguyên. Ống là một sĩ quan cấp tướng.

Lúc ấy vẫn chưa có gì xảy ra ở vùng I. Rồi tai họa bắt đầu. Thiệu quyết định rút cả Thủy quân Lục chiến lẫn Nhảy dù khỏi vùng I. Quyết định này giống như chợt rút đi cái chiếu trong lúc tướng Trưởng còn đang đứng trên ấy, nó làm ông ta hổng cẳng. Tiếp đến, mất cả sư đoàn Thủy quân Lục chiến. Họ trở nên vô dụng, vì đầu tiên người ta ra lệnh triệt thoái, sau lại ra lệnh “quay đàng sau, quay,” để quay trở lại! Đó là chuyện bất khả thi về phương diện quân sự. Sư đoàn Thủy quân Lục chiến mất rất nhiều chiến cụ vì không thể nào lấy ra được trong cái dòng người tỵ nạn tràn lan. Lúc này ông Thiệu đang ngoi ngóp trong biển nước, ông cố bám lấy vài cọng cỏ. Nhưng lúc này ông có làm bất cứ cái gì cũng không còn có thể thay đổi tình thế lại được nữa. Cuộc chơi đã xong.

Tôi tin tưởng chắc chắn rằng khi người Việt Nam có cảm tưởng chúng ta sắp chạy, tất cả sẽ sụp đổ. Điều này, tôi hoàn toàn đồng ý với đại sứ Martin. Ông đại sứ lúc ấy đã rời Việt Nam sang Mỹ cùng với phái đoàn quốc hội. Ông nghĩ ông có thể vận động được một vài dân biểu, ông sẽ cố ra điều trần trước quốc hội. Đến Hoa Thịnh Đốn, người ta phát hiện tình trạng sức khoẻ của ông cần giải phẫu, việc này đã làm chuyến về của ông chậm trễ. Không muốn mọi người phải quan tâm nhiều, ông đi xuống North Carolina mổ, ngay Bộ Ngoại giao cũng không biết liên lạc với ông ở đâu. Ông là một người kín đáo. Ông trở lại Việt Nam cuối tháng Ba, trước khi Đà Nẵng mất và chuyến C-5A bị rơi.

Về vụ chiếc C-5A thì thoạt đầu đề nghị chuyển vận các cô nhi đi bằng máy bay hoàn toàn chỉ có mục đích vận động nhân tâm. Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Y tế, cũng là bác sĩ y khoa-Bác sĩ Đán cảm thấy cần phải làm một cái gì về các cô nhi. Đại sứ Martin và vài cố vấn cũng cảm thấy nếu đưa được các cô nhi sang Mỹ hàng loạt thì việc này có thể vận động tình cảm công chúng Mỹ, nó sẽ là một câu chuyện khích động lòng xót xa con người. Cùng lúc ấy, Văn phòng Tùy viên Quân sự lại có nhiều nhân viên phụ nữ sẵn sàng di tản, nhưng người ta không thể cấp thông hành cho họ vì Hoa Kỳ chưa chính thức di tản. Như thế ai sẽ trả phí tổn di chuyển bằng đường hàng không từ Việt Nam, Hoa Kỳ chăng? Nên tôi nghĩ có thể xếp đặt cho họ vào những chuyến máy bay quân đội còn trống, xem họ như những người đi kèm các cô nhi, như thế khỏi lo liệu vấn đề lộ phí, tiền bạc. Chính vợ tôi cũng đi với tư cách người kèm cô nhi, nhưng rồi vợ tôi tình cờ đã lên một chiếc máy bay dân sự thuộc hãng Cathay Pacific, đúng một ngày với chuyến C-5A bị rớt.

Tôi có hai bác sĩ thuộc Trung ương Tinh báo, nhân viên của tôi, khi máy bay rớt đã đi khiêng xác chết, xác của những đứa trẻ nhỏ bé này, vào bệnh viện Cơ Đốc ở Sàigòn. Một trong hai bác sĩ ấy mang theo máy ảnh, chụp rất nhiều hình. Khi tôi đưa những tấm ảnh này cho đại sứ coi, ông suy nghĩ khá lâu xem có nên công bố hay không. Nhưng ông kết luận những bức ảnh này quá rõ ràng, quá đẹp, màu sắc sống động, với hình ảnh các thân thể nát vụn của đàn bà trẻ con, thay vì khích động lòng thương xót, lại tạo ảnh hưởng xấu, nên người ta quyết định không công bố nữa.

Vài ngày trước hôm Thiệu từ chức, một nhân viên cao cấp người Hung Gia Lợi thuộc ủy ban quốc tế kiểm soát đình chiến đến gặp tôi, anh ta nói: “Này ông bạn, phải thực tế chút chứ? Ông phải biết các ông đã thua trận chiến này.” Tôi bảo: “Ô kê, tôi nhìn nhận: Trận chiến đã bại rồi.” Anh ta nói: “Mỗi cuộc thất trận đều tạo nên nhiều hậu quả chính trị.” Tôi bảo: “Đồng ý.” Anh ta nói: “Hiển nhiên những hậu quả chính trị này sẽ gây nhiều cay đắng. Nhưng bên phía mà tôi đại diện…” Anh ta bỏ lửng, không nói đại diện cho ai “…Không có ý định hạ nhục Hoa Kỳ một cách quá mức. Có lẽ, có thể tìm ra được một giải pháp nào-Không phải để thay đổi cuộc diện trận chiến, vì nó đã xong, nhưng để thu xếp cho một cái chung cuộc mà..” Một lần nữa, anh ta sử dụng những chữ này: “Không hạ nhục Hoa Kỳ một cách quá mức.”

Tôi hỏi: “Ông có ý nghĩ gì trong đầu vậy?” “À vâng.” Anh ta nói: “Ông biết chúng tôi đã ra Tân Sơn Nhứt thảo luận với các đồng nghiệp Bắc Việt của chúng tôi. Chúng tôi có người ở Hà Nội. Tôi có cảm tưởng có lẽ chúng ta có thể tìm được một cách giải quyết trong lúc tình hình đang diễn tiến thế này-Thiệu bắt buộc phải từ chức. Hoa Kỳ cần phải tuyên bố bất can thiệp vào nội tình Nam Việt Nam, ngoại trừ việc duy trì ở đây một cơ cấu sứ quán bình thường. Và chính phủ Nam Việt Nam cần bao gồm một số người Bắc Việt có thể chấp nhận. Đấy là những vấn đề chủ yếu.” Tôi đáp: “Vâng, tốt lắm, cảm ơn ông bạn nhiều. Đương nhiên, tôi sẽ báo cáo cuộc nói chuyện của chúng ta hôm nay. Tôi sẽ thảo luận với đại sứ chúng tôi để chuyển về Hoa Thịnh Đốn, rồi tôi sẽ gặp lại ông. Trong lúc chờ Hoa Thịnh Đốn trả lời, xin ông vui lòng đi gặp các bạn của ông một lần nữa để tìm hiểu xem ai sẽ là những người mà họ có thể chấp nhận được trong chính phủ ấy?”

Vài ngày sau, Thiệu từ chức. Tôi trở lại gặp người bạn Hung Gia Lợi của tôi mà nói: “Đấy, tôi đã chuyển đạt và thực hiện xong điều thứ nhất của ông. Chúng tôi vẫn chưa nhận được hết câu trả lời dứt khoát. Còn ông đã có đề nghị nào về những tên người mà tôi hỏi hay chưa?” Anh ta đáp: “Vâng, thực ra tôi đã có. Nhưng tên người Việt, tôi dở lắm. Để tôi viết ra.” Anh ta lấy một quyển sổ tay con, bắt đầu viết một số tên. Tôi đáp: “Thú vị nhỉ. Tất nhiên tôi sẽ tiếp tục xúc tiến câu chuyện lần trước giữa chúng ta, tôi sẽ trở lại gặp ông.” Nhưng anh ta nói: “Tôi có thêm vài lời nữa từ các đồng nghiệp của tôi ở đây. Họ nói khi họ bảo mọi chuyện cần phải thu xếp cho sớm, điều ấy có nghĩa là trong vòng vài ngày, chứ không phải vài tuần đâu.” Ông đại sứ tỏ ra có thiện cảm với chuyện này. Ông nghĩ có thể chúng tôi thực hiện được một cái gì chăng. Nhưng chúng tôi đã gặp phản ứng tiêu cực của Kissinger, là người không muốn có chuyện thương thảo gì hết.

Đến ngày 26 hoặc 27 tháng Tư, chúng tôi gặp nhau lại, lần này anh chàng Hung Gia Lợi nói: “Tôi nghĩ muộn quá rồi.” Đấy, tôi kể cho các bạn nghe mấy chuyện này bởi vì tôi muốn nhấn mạnh thật ra không bao giờ chúng tôi thương thảo với đối phương, cũng không bao giờ làm điều gì đối phương đòi hỏi. Việc ông Thiệu từ chức là vì những lý do hoàn toàn khác, không liên hệ đến mấy chuyện này, nhưng tôi đã vờ vịt với họ, làm như chuyện ông Thiệu từ chức có liên hệ đến mấy chuyện ấy mà thôi.

Thiệu từ chức ngày thứ hai 21 tháng Tư. Ông đại sứ không yêu cầu Thiệu từ chức, nhưng vào ngày 19 tháng Tư sau khi ông đại sứ nói chuyện với Thiệu, thì hiển nhiên Thiệu đã mất hết tin tưởng vào mọi người, vì mọi người xem Thiệu như chướng ngại vật trong cuộc dàn xếp, trong các thủ tục ngưng chiến, mọi người không có thể cục cựa gì nếu Thiệu cứ luẩn quẩn bên cạnh.

Một bữa đại sứ gọi tôi vào văn phòng nói ông mới gặp Tổng thống Hương, Tổng thống không được thoải mái vì sự tiếp tục có mặt của Thiệu ở trong xứ. Ông cụ Hương nghĩ sự hiện diện của Thiệu làm giảm uy quyền của ông, chừng nào Thiệu còn ở đây thì ông cụ tê liệt không làm gì được cả. Ông cụ khẩn thiết yêu cầu đại sứ Martin lo liệu hộ vì lẽ chỉ Hoa Kỳ mới ở vị thế giúp được chuyện này. Việc đưa Tổng thống Thiệu ra khỏi xứ cần thực hiện tuyệt đối trong vòng “Tối mật!” Vâng, đại sứ Martin là người đầy lý trí, khi nghe cái gì “Tối mật” tất ông nghĩ đến “CIA Trung ương Tình báo,” thế là ông hỏi: “Anh làm được không?” Tôi bảo “Thưa đại sứ, tôi làm được. Với một điều kiện. Ấy là: để yên cho tôi lo. Cứ giao việc để tôi xoay sở, nhưng đừng đem cả một ủy ban dính vào đây.” Việc này xảy ra ngày 24 tháng Tư thì phải.

Mọi sự được xúc tiến nhanh chóng ngay sau đó. Tôi biết tôi có thể thu xếp máy bay ở đâu. Tôi lấy tướng Timmes là điểm liên lạc chính. Vào lúc này Thiệu đã rời căn nhà trong Tổng Tham mưu. Các tướng lãnh cao cấp Việt Nam đều có nhà trong căn cứ Tân Sơn Nhất. Chúng tôi đồng ý là với một kế hoạch hành động, cũng có đôi điều cần phải quan tâm: Phải quan tâm công luận. Phải lo ngại chuyện một số quân nhân vô kỷ luật của Nam Việt Nam có thể can thiệp, vài sĩ quan cao cấp có thể manh nha trong đầu cái ý nghĩ làm lịch sử. Cũng phải lo ngại cả chuyện cảnh sát chặn trên đường ra Tân Sơn Nhất, việc này tuy không liên quan gì đến chuyện Thiệu đi, nhưng cảnh sát thường có những điểm chặn trên đường, nên chúng tôi phải bày việc đi dự tiệc trong căn cứ Tham mưu Liên quân. Chúng tôi lấy vài chiếc xe Mỹ kiểu tiêu chuẩn, màu đen, gồm cả xe đại sứ, xe tôi, xe phụ tá của tôi, đủ để chở từ mười đến mười hai người, kể cả các tài xế, tướng Timmes, tôi, và các hành lý- Chúng tôi dặn rõ mỗi người chỉ được mang một vali. Chúng tôi dàn xếp tất cả sẽ gặp nhau tại nhà thủ tướng Khiêm, bởi vì đây là căn nhà lớn nhất, ít bị chú ý hơn là nhà ông Thiệu. Chúng tôi đồng ý sẽ cho máy bay đi Đài Loan, nơi người anh của Thiệu làm đại sứ, như thế ông ta sẽ thu xếp được với nhà cầm quyền Đài Loan để mọi người được nhập nội. Thủ tướng Khiêm cũng từng là đại sứ ở Đài Loan, như thế ông ta cũng có nhiều liên hệ. Khi chọn Đài Loan làm điểm đến, tôi cũng cân nhắc rằng chuyến máy bay DC-6 chỉ có thể bay xa nhất bấy nhiêu, mà khỏi cần đổ thêm xăng.

Tôi chọn vài người làm tài xế mà tôi xem như những tay bảnh nhất, đáng tin cậy và vững chãi nhất. Tôi không lựa tài xế người Việt-Frank Snepp là một trong các tài xế ấy. Tướng Timmes, vì cấp bực của ông, không thể lái xe, tôi cũng thế, cấp bực của tôi không cho phép tôi lái xe. Tôi kiếm một đại tá cảnh sát, cũng là đại tá quân đội, tôi nói: “Cần phải có một người với cái vẻ chỉ huy lẫm liệt.” Tôi dự phòng trường hợp lính gác hạch hỏi gì chăng. Phòng xa thế, chứ tôi biết khi lính gác nhìn thấy bốn cái xe Mỹ do Mỹ lái thì họ sẽ bảo “Các tay tổ đây,” khi nhận ra xe Đại sứ, họ sẽ bảo “Ông đại sứ đi họp” chắc chắn thế, chả trở ngại gì, nhưng phải có một đại tá quân đội cảnh sát để dự phòng cho vững. Chúng tôi không biết Thiệu sẽ mang theo những ai. Chỉ biết một mình ông Thiệu sẽ đi, Khiêm sẽ đi, không biết còn ai khác. Cho nên cứ mang theo một số giấy tờ để trống, rồi tướng Charlie Timmes sẽ điền tên họ vào bằng tay.
Chúng tôi đưa cả cho viên đại úy trên máy bay, bảo: “Khi đến Đài Loan chúng tôi sẽ thông báo cho các giới chức quân sự Mỹ. Anh cứ yêu cầu gặp các sĩ quan cao cấp, và đưa tận tay chiếc phong bì này. Tất cả giấy tờ ở trong ấy.” Trong lúc đó một xe khác chở đại sứ chạy thẳng đến chiếc máy bay vì đại sứ muốn đến chào tạm biệt Thiệu. Tôi nói với đại sứ: “Tôi không muốn đi cùng một xe với đại sứ trong thành phố vì chỉ tạo thêm nhiều rủi ro phiền phức.” Cho nên tôi nhớ chúng tôi đã đổi xe. Tất cả diễn ra chính xác như một cái đồng hồ Thụy Sĩ, cũng như khi chúng tôi thực hiện các điệp vụ. Chúng tôi đã đưa mọi người đến máy bay an toàn, vào máy bay an toàn, sau đó sẽ cất cánh an toàn.

Tôi ngồi chung xe với thủ tướng Khiêm, chứ không ngồi với Thiệu. Tôi nhớ tướng Timmes ngồi với ông Thiệu. Mọi người đều kiềm chế cảm xúc, không ai khóc. Gia đình họ đều đã đi cả. Thực ra, có một điều làm tôi ngạc nhiên. Tôi ngạc nhiên vì trong tất cả các cộng sự viên thân tín gần gũi, ông Thiệu không mang theo ai, trừ thủ tướng Khiêm. Điều này rất lạ vì chỉ mới vài năm trước tại khắp các quán cà phê ở Sàigòn người ta sì sào bàn tán chuyện chia tay giữa Thiệu và Khiêm, chuyện ông này sẽ hất ông kia vân vân…Tất nhiên tôi không đánh giá cao mấy chuyện ấy vì lẽ tôi có liên hệ rất tốt với thủ tướng, tôi luôn luôn coi ông như một viên chức tận tụy trung thành với Thiệu. Tổng cộng gồm mười bốn người đi ra chuyến bay đêm ấy. Tất cả đều là đàn ông.

Tôi luôn dè chừng trường hợp có người nhận ra ông Thiệu ở các trạm kiểm soát, nhưng tôi cũng tính toán: Người ta đã quen cách di chuyển cố hữu của ông Thiệu trong thành phố bằng một chiếc xe Mercedes cũ kỹ, khác với đây là bốn chiếc xe Hoa Kỳ của toà đại sứ có bộ dạng quan trọng. Bấy giờ trời tối, việc chặn xét bốn chiếc xe Hoa Kỳ là việc ít khi xảy ra. Dẫn đầu là chiếc Chevrolet Caprice của đại sứ có vỏ chắn đạn, tôi ngồi trong xe này, có viên đại tá cảnh sát đi kèm. Mối e ngại nhất của tôi là lỡ ở trạm gác, cảnh sát soát căn cước, bật đèn pha soi vào chúng tôi thì sao? Như thế họ sẽ nhận ra ông Thiệu và thủ tướng. Nhưng rồi việc xảy ra là khi thấy bốn chiếc xe với bộ dạng quan trọng như thế chạy đến trạm, mấy người lính canh nghiêm chỉnh giơ tay chào. Đúng là điều tôi mong đợi. Có lần tôi đã đưa một nhân vật trọng yếu đào thoát từ Tây Bá Linh bằng một chiếc xe lớn tựa như vậy, tôi cũng tính rằng lính Liên Sô sẽ chào kính khi họ thấy chiếc xe, và quả thật họ đã làm y vậy.

Đêm hôm ấy, Thiệu không hề đem theo vàng xuất ngoại. Câu chuyện ấy chỉ là chuyện cứt khô! Ai điên khùng gì mà lại gói vàng bỏ lỏng lẻo trong va li, trời đất. Tôi muốn nói, tôi có một người bạn Việt Nam đã mang vàng đi, tôi biết vàng phải được bọc chặt chẽ cẩn thận, quấn bằng vải, bằng dây cao su, bằng băng keo, đủ các thứ. Có ai lại để cho vàng kêu lách cách trong hành lý bao giờ. Thực ra số vàng dự trữ của Việt Nam vẫn ở trong xứ, khi quân Bắc Việt đến, vàng vẫn ở đấy. Số vàng dự trữ của ngân hàng quốc gia Việt Nam trị giá từ 18 đến 20 triệu mỹ kim. Trị giá thực sự của số vàng ấy đúng ra cao hơn nhiều, vì lý do giá vàng chỉ được tính có 35 mỹ kim một ounce (0.28g). Đó là cái giá tại Việt Nam trước thời Nixon phá giá đồng mỹ kim. Còn vào năm 1975, giá vàng thực ra ở mức 170 Mỹ kim một ounce. Bấy giờ đã có lúc Nam Việt Nam không còn tín chỉ trên thế giới nữa, quốc hội Mỹ thì lừng khừng từ chối yêu cầu viện trợ, và như thường lệ, đại sứ Martin đã đưa ra sáng kiến nóng hổi: Ông nghĩ Nam Việt Nam nên gửi số vàng ấy sang quỹ dự trữ Liên bang Hoa Kỳ, dùng sổ vàng ấy ký quỹ mà mua chịu võ khí. Vâng, Thiệu đã chấp thuận đề nghị. Tình cờ có chuyến bay chở hàng của Thụy Sĩ thuộc hãng Basel Air đang ở Sàigòn, Nam Việt Nam thương lượng với Basel Air mang số vàng này đi dưới hình thức hàng hoá thương mại thông thường. Mấy người Thụy Sĩ suy nghĩ một hai ngày rồi từ chối không nhận chở, vì lý do bảo hiểm. Họ bảo không cách gì kiếm ra ai chịu bảo hiểm số 70 triệu Mỹ kim vàng ra khỏi Sàigòn. Người ta lại phải tính đến không quân Hoa Kỳ. Việc này được đem thảo luận tại Hội Đồng An ninh Quốc gia. Chở một tấn rưỡi vàng đối với không quân Hoa Kỳ không khó, nhưng tìm đâu ra mối bảo hiểm thương mại khi người ta lại sử dụng máy bay quân đội; chấm hết!

Cái củ khoai nóng nuốt không trôi lại được ném lên bắp vế mấy anh trạng sư ở Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. Suốt thời gian này đống vàng vẫn nằm yên tại Ngân hàng Quốc gia ở Sàigòn. “Làm thế nào kiếm cho ra mối chịu bảo hiểm chuyến hàng này nếu chúng ta chở đi bằng máy bay quân sự?” Đó vẫn là cái đề tài làm bù đầu mấy anh trạng sư suốt mấy hôm. Trong lúc ấy Thiệu từ chức, một tốp người mới vào nắm quyền, cụ Hương hôm đầu thì bảo ừ, chở đi, hôm sau lại bảo đừng, đừng chở nữa. Cuối cùng cụ kết luận thôi tốt nhất cứ giữ lấy vàng ở Sàigòn, bởi vì kể từ khi đại sứ Martin bắt đầu nói chuyện này, cho đến lúc ấy tình hình đã biến đổi, dẫu cho có ký thác vàng để lấy vũ khí Mỹ, vũ khí không còn đến kịp và cũng chả giúp ích gì nữa. Ngoài ra họ cũng còn giữ được thể diện khi để lại số vàng ở trong xứ. Như thế, số vàng đã được để lại.

Đêm hôm ấy, cũng là đêm tôi dự buổi dạ tiệc quốc tế cuối cùng ở Sàigòn. Buổi dạ tiệc được tổ chức tại tư thất đại sứ Ba Lan nhân dịp giới thiệu viên Trưởng ngành chính trị Ba Lan với các ngoại giao đoàn. Mọi người đều có mặt. Tất cả các đại sứ còn ở tại Sàigòn đều được mời, và ông Ba Lan mới đến nói ông ta rất mong mỏi gặp tôi. Ông ta bảo rõ rệt chúng tôi đang ở vị trí lưỡng tương hoán chuyển, ông ta muốn biết quan điểm của tôi đối với tình hình. Chúng tôi bèn hẹn nhau một buổi ăn trưa vào một tuần lễ sau ngày hôm ấy. Ngày ấy sẽ là nhằm ngày mùng một tháng năm! Giữa tất cả những chuyện trông ngóng, tôi đã trông ngóng đến ngày mùng một tháng Năm ấy để gặp mặt ông bạn đồng nghiệp người Ba Lan của tôi!

Đại sứ Martin không phải là người thích tiệc tùng, nhưng trong trạng thái bồn chồn của thành phố đêm hôm ấy, ông bảo: “Tôi sẽ đi dự, nhưng đi riêng xe nhé.” Vì vậy tôi quay trở lại căn phòng gửi một điện văn. Điện văn này tôi đã viết sẵn, chỉ cần dùng điện đài để đánh mật mã mà phụ tá của tôi và tôi đã giao ước trước. Suốt một ngày làm việc, đấy là tất cả những gì tôi cảm thấy sau khi hoàn tất việc đưa ông Thiệu ra đi.

Ngày rời Sàigòn là ngày tôi buồn rầu cùng cực, chỉ thiếu điều muốn sụm.

Đoạn kịch cuối mở màn ngày thứ hai. Chiều thứ hai là một buổi chiều rất xấu. Dương Văn Minh nhậm chức đêm hôm ấy. Ông vừa đọc xong bản diễn văn nhậm chức, thì giông bão khủng khiếp ập đến Sàigòn. Mưa rơi xối xả. Những cơn mưa đến sớm, lúc ấy chưa đến mùa mưa. Rồi xảy ra vụ chiếc phi cơ phản nghịch, tức là chiếc phi cơ Mỹ với bình xăng phụ 50 ga-lông do mấy phi công dưới sự điều động của Bắc Việt dội bom lên Tân Sơn Nhất. Lúc ấy chúng tôi còn ở tại văn phòng. Mặc dầu đã khoảng bảy giờ đêm, chúng tôi vẫn còn ở đấy vì lúc này Sàigòn ban đêm chẳng có gì khác để làm, thứ nữa Sàigòn và Hoa Thịnh Đốn cách nhau mười hai tiếng, lúc ấy buổi sáng ở Hoa Thịnh Đốn, chúng tôi cố chuyển càng nhiều điện văn càng tốt, để khi bắt đầu làm việc, Hoa Thịnh Đốn đã có đủ thông báo của chúng tôi.

Khi nghe tiếng nổ, chúng tôi đâm bổ xuống núp dưới gầm bàn. Bấy giờ, tôi nhớ tôi đang ở trong phòng viên Trưởng ban Truyền tin. Nhân viên truyền tin là những người lo phụ trách các báo cáo tình báo để gửi đi bằng điện đài.

Chúng tôi rất thận trọng việc soạn thảo các điện văn này, luôn luôn sử dụng Anh ngữ một cách văn vẻ, sửa chữa kỹ càng, dù phải vội vã trong các trường hợp khẩn cấp, y như các phóng viên nhà báo vậy. Lúc ấy chúng tôi đang lom khom núp dưới gầm bàn, tôi sẽ không bao giờ quên kỷ niệm này: Một cô nhân viên truyền tin xinh đẹp hấp dẫn nhổm lên, kéo cái máy chữ xuống, cô ta bắt đầu đánh: “Sàigòn gửi Hoa Thịnh Đốn, bản báo cáo tình hình lúc 19 giờ địa phương. Một vụ pháo kích không xác định được xuất xứ đang phát nổ trong thành phố. Vụ pháo kích đang tiếp diễn quanh chúng tôi, vẫn chưa có ai biết chuyện gì xảy ra!”

Không bao lâu, chúng tôi xác định được chuyện ấy. Chúng tôi chắc chắn đây là câu trả lời của quân đội Bắc Việt phản ứng lại bài diễn văn nhậm chức của ông Minh. Trong bài diễn văn này, ông ta nói ông sẽ tiếp tục chiến đấu, nói đủ thứ lảm nhảm mà một tháng trước đấy ông ta không hề nói. Tôi nghĩ cái hình ảnh chính xác để mô tả ông là hình ảnh một người không đủ tài cán được đặt vào một chức vụ quá khả năng, làm mọi người phải mệt với sự bất lực của ông ta.

Trong tuần lễ cuối cùng, Sàigòn vẫn sinh hoạt tốt đẹp mặc dầu có trận không kích xảy ra. Điện, điện thoại, thực phẩm vẫn đầy đủ, có lẽ chỉ hơi thiếu chút rau xà-lách. Tối ấy tôi đi ngủ muộn, bốn giờ rưỡi sáng đã bừng dậy vì lại có tiếng nổ, lần này nổ lớn dữ dội. Tôi điện thoại cho nhân viên trực của tôi ở toà đại sứ, một nhân viên tình báo; ở đấy, ngoài lính Thủy quân Lục chiến, chúng tôi luôn có hai nhân viên trực suốt ngày đêm. Tôi hỏi anh biết có chuyện gì xảy ra không? Anh ta nói lúc ấy chưa biết rõ, nhưng có pháo kích vào Tân Sơn Nhất, Thủy quân Lục chiến đã trèo lên nóc nhà nhìn thấy có lửa cháy, anh ta đã liên lạc văn phòng Tùy viên Quân sự, họ cũng chưa biết gì đích xác. Nhưng đã có một số thiệt hại đáng kể, hai lính Thủy quân Lục chiến tử thương. Tôi bảo: “Được rồi, tình trạng nghe có vẻ tệ, nhưng có anh đang ứng trực ở đấy là tốt lắm.” Tình cờ, chính nhân viên này cũng là sĩ quan trưởng phòng tài chánh. Tôi bảo: “Sửa soạn mấy cái phong bì khởi hành.” Phong bì khởi hành là những phong bì có đựng một số chỉ dẫn, số điện thoại của những toà đại sứ Mỹ các nơi và tại vùng Đông Á. Mỗi phong bì được bỏ vào số tiền 1500 đô la bằng mỹ kim và bằng một số ngoại tệ các nước khác. Mỗi người sẽ được trao tay một phong bì này để phòng vệ an toàn, dự phòng trường hợp thất lạc. Tôi bèn nói với anh nhân viên trực: Tôi sẽ đến toà đại sứ ngay.

Tôi là người đến sớm nhất. Lúc ấy Thủy quân Lục chiến đã nhận thêm báo cáo từ văn phòng Tùy viên Quân sự. Dựa vào đấy tôi cảm thấy toà đại sứ cần phải được huy động. Tôi điện thoại cho Đại sứ, tôi nói: “Rất tiếc phải gọi Đại sứ vào giờ này- Ông còn có thể được ngủ đến hơn 3 tiếng đồng hồ nữa. Nhưng tôi nghĩ Đại sứ cần phải vào gấp.” Ông Đại sứ bảo ông sẽ vào. Lúc ấy, chúng tôi có một hệ thống tổ chức: cứ một người gọi bốn người, mỗi người lại phải liên lạc gọi bốn người khác v.v…Nên tôi bắt đầu huy động mọi người qua hệ thống này. Buổi sáng sớm hôm ấy, tình trạng sức khoẻ của Đại sứ rất bết bát. Ông đau ốm khặc khừ, và sau này, lúc lên đến chiến hạm, người ta mới khám ra là ông bị viêm phổi. Giọng ông khản đặc, khào khào không ra tiếng. Tinh thần bị kích động trăm phần trăm. Khi Kissinger gọi điện thoại, Martin không nói nổi, ông thì thà thì thào rồi tôi phải nhắc to lên cho Kissinger nghe rõ.

Đại sứ đã ra tận phi trường Tân Sơn Nhất, bởi vì ông ta là Graham Martin mà, bạn hiểu không, mặc dù đã có đến mấy ông tướng Không quân phụ trách ngoài phi trường, ông vẫn không chịu tin các lượng giá của họ về việc phi cơ không còn đáp xuống được nữa. Ông đòi phải đích thân đến phi trường xem xét rồi mới chịu!

Ngày hôm ấy khi trời sáng, ngoài Đệ Thất Hạm đội các phi công đã sẵn sàng, trực thăng xăng nhớt đầy đủ, mọi người chuẩn bị xong. Nhưng chừng tám giờ rưỡi, chúng tôi lại được bảo không di tản nữa! Họ bảo chúng tôi sẽ phải thu hẹp số nhân viên, nhưng vẫn giữ toà Đại sứ ở Sàigòn. Họ bảo nhân số toà đại sứ sẽ còn lại 180 người, trong số ấy 50 người sẽ là nhân viên tình báo, nhóm nhân viên tình báo này có nhiệm vụ phụ trách toàn bộ các đường truyền thông của toà đại sứ. Họ bảo các trưởng ban, trưởng phòng khác sẽ nhận lệnh sắp xếp: kinh tế 8 người, chính trị 16 người, y tế, tài chánh, hành chánh…do nơi Hoa Thịnh Đốn xếp đặt. Người ta đoán chừng lệnh này do Kissinger chuyển đến ông đại sứ. Tôi không bao giờ nhìn thấy lệnh ấy trên văn tự, nhưng lệnh ấy được chuyển đến tôi sáng hôm ấy do đại sứ nói. Do đó tôi về văn phòng, tập họp các nhân viên cao cấp của tôi, lúc ấy tôi còn chừng 250 nhân viên tình báo tại chỗ. Tôi nói: “Quý bạn, chúng ta sẽ rút nhân số xuống 50 người, và sẽ phải đương đầu với một số lượng truyền thông nhiều hơn thường. Nào, bây giờ tính thử 50 người nào sẽ ở lại, bắt đầu là tôi!” Chuyện này không dễ dàng như thay lính Thủy quân Lục chiến bởi lẽ nhiều khi nhân viên tình báo không thể hoán chuyển. Mỗi người có những khả năng chuyên biệt. Người là nhân viên truyền tin. Người là nhân viên điều hành. Người là phân tích viên.

Tôi lại cần người với các khả năng ngoại ngữ khác nhau. Tôi cần phải giữ vài người nói được tiếng Việt. Phải có vài người nói được tiếng Ba Lan, để giao dịch với nhân viên Ba Lan tại ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến. Về tiếng Hung Gia Lợi thì khỏi lo, chẳng ai khác ngoài tôi nói được thứ tiếng này. Cứ như thế, suốt mấy tiếng đồng hồ loay hoay xếp đặt. Lại còn phải cân nhắc trường hợp những người đã mãn hạn, có người sắp được hồi hương vào tháng năm, cho dù anh ta mãi đến tháng Bẩy mới mãn hạn, cũng không nên giữ anh ta lại. Có người gặp tình trạng gia đình. Nhiều thứ phải cân nhắc, không để giống như hồi năm 1954 ở Hà Nội, toà lãnh sự Mỹ và các nhân viên ở đấy dù không bị giữ làm con tin, nhưng họ đã tự phong tỏa, tự khoá cửa và phải ở trong khuôn viên hàng mấy tháng, không liên lạc đuợc với ai.

Cái khẩu lệnh ấy cũng đã được chuyển ra ngoài hạm đội: Toà Đại sứ sẽ ở lại. Tư lệnh hạm đội, đề đốc Noel Gayler, tất nhiên không phải là chuyên viên phân tích chính trị. Nghe thế, ông ta bèn nói “Vậy à, toà
Đại sứ ở lại. Phi công! Trở về giường mà phè một giấc!” Thế là xăng lại được hút khỏi trực thăng, vì người ta không được phép chứa trực thăng có xăng ở trên tàu. Người ta lại phải chuyển trực thăng khỏi sàn máy, đưa xuống tầng dưới.

Bấy giờ là 9 giờ sáng, hoặc giả trễ hơn một chút. Rồi đến 11 giờ 30, cuối cùng lại có lệnh ban ra: Tất cả mọi người phải di tản. Tôi không rõ lệnh này chuyển đến đề đốc hạm đội lúc nào. Đại sứ Martin nhận lệnh lúc 11 giờ 30. Xem như cố vấn an ninh Brent Scrowcroft phải thông báo Ngũ Giác đài, nhưng bấy giờ là đang đêm ở Hoa Thịnh Đốn, có lẽ người làm việc không có mặt. Tôi không rõ đề đốc nhận lệnh ấy lúc mấy giờ. Sau này tôi hỏi ông ta trên chiến hạm: “Chuyện gì xảy ra vậy?” Ông ta đáp: “Chẳng có chuyện gì. Khi nhận tin di tản, tôi cho trực thăng đổ xăng, tôi gọi phi công, rồi lại được yêu cầu phải gửi một lực lượng an ninh Thủy quân Lục chiến vào Sàigòn trợ giúp di tản, nhưng lính không có mặt trên những tàu chở trực thăng. Vì thế lại phải lo đưa lính từ khắp các tàu khác đến mấy chiếc tàu chở trực thăng. Mấy công tác ấy phải tốn thì giờ.”

Nếu bạn hỏi, tôi sẽ nói: Tôi chả ngạc nhiên gì việc này. Tôi rất hoài nghi khả năng quân đội Hoa Kỳ khi cần đương đầu tình trạng khẩn cấp. Họ làm việc kiểu con rùa hành chánh: chậm chạp, lè phè. Lấy đấy mà xem, họ đã được thông báo tình hình Sàigòn như vậy từ hai giờ trước, mà lính không đặt gần những tàu chở trực thăng, lại đưa tản mác trên những con tàu rải rác khắp mặt biển, thế là làm sao!

Còn một việc nữa cũng không được dự liệu trước. Đó là việc một khi tin tức người Mỹ rời Việt Nam truyền ra, là đông đảo người ta sẽ tụ khắp chung quanh toà đại sứ, việc di chuyển sẽ trở nên vô phương. Do đó làm sao còn có thể sử dụng xe hơi, xe buýt chở người qua lại giữa toà đại sứ và văn phòng Tùy viên Quân sự được, vì hễ mở cổng đủ rộng cho xe đi thì dân chúng sẽ như cuồng phong tràn vào.

Buổi sáng hôm ấy, chúng tôi bắt đầu thiêu hủy tài liệu. Trung ương Tình báo có một thể lệ rất tốt, đó là tất cả hồ sơ đều phải có một phó bản giữ ở Hoa Kỳ, cho nên nếu có một trạm tình báo nào mất hồ sơ thì chẳng hề gì, chỉ mất công chút đỉnh. Vì vậy chúng tôi tiêu hủy tất cả, chúng tôi đi khắp các văn phòng một cách có phương pháp để phá bỏ bất cứ tài liệu nào về những người Việt có liên hệ chặt chẽ với chúng tôi.

Về cái cây me nổi tiếng thì trong tất cả những buổi họp ở toà Đại sứ, qua mọi cuộc thảo luận, tôi chưa hề nghe ai nói, bàn gì về chuyện cưa cái cây này xuống. Tôi có nhiều tình cảm với cái cây me này chỉ vì đấy là một biểu hiệu đẳng cấp trong toà đại sứ: Dưới cái cây là một bãi đậu xe, đậu dưới bóng cây thì mát mẻ, đậu ngoài nắng nhiệt độ như lò lửa. Cho nên được đậu xe dưới bóng cây me ấy tức là biểu hiệu đẳng cấp cao của toà đại sứ! Nhưng trang nghiêm mà nói, chưa bao giờ tôi nghe cái cây này có liên hệ gì đến chuyện di tản. Còn hiển nhiên, chúng tôi sẽ phải mang trực thăng lớn vào bãi đậu xe, cái cây này mọc chính giữa bãi đậu, tất là sẽ phải hạ cái cây thế thôi.

Sáng hôm sau, khi đại sứ đã ra đi, không có chuyện gì để tôi ở lại nữa. Còn các nhân viên truyền tin của tôi không thể đi nếu tôi hãy còn nấn ná ở lại. Viên phụ tá của tôi và mấy người khác cũng bảo nếu tôi còn ở đấy, họ cũng chưa chịu đi. Tôi xếp đặt cho mọi người ra đi theo các thứ tự cần thiết, nói thế không phải là giảm giá người này người nọ, nhưng có người công việc đã xong thì đi trước, ví dụ nhân viên truyền tin không còn gì để làm nữa, những người phụ trách công tác vùng I, II, III cũng thế, các nhân viên hành chánh và quản trị nhân viên cũng có thể đi trước. Nhưng nhân viên lo việc vùng châu thổ vẫn còn cần, vì tôi chưa rõ hết tình hình vùng IV ra sao.

Theo phương pháp ấy tôi quyết định ai đi, đi lúc nào, mọi sự trôi chảy, không gặp phiền phức, không bị tràn ngập. Tuyệt đối tốt. Tuyệt đối không trở ngại gì. Có lẽ những chuyện cuối cùng đáng kể là chuyện chúng tôi kéo người Việt ở bên ngoài vào toà đại sứ qua bức tường. Lúc ấy quanh toà đại sứ có cả vạn người, đúng số là như vậy, với đám đông vây quanh, thật khó cho người ta đến gần toà đại sứ . Nhưng bên ngoài còn có những người mà chúng tôi bắt buộc phải đưa họ di tản, ví dụ người trưởng ngành tình báo, ông phụ tá Cảnh sát Đặc biệt mà thực tế là Cảnh sát Chính trị. Vợ và con của Trung tướng Tổng cục Trưởng Chiến tranh Chính trị. Ông Tổng Trưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn. Ông Trưởng ban Nghi lễ và Gia đình. Tất cả đều ở ngoài toà đại sứ. Làm sao chúng tôi có thể mang họ di tản đây? Tôi không còn thể nào liên lạc được với họ. Nhưng phần ông Đôn cũng thu xếp vào được một chiếc trực thăng đậu đại trên một nóc cao ốc (nóc nhà này không được xây cất để trực thăng đáp, riêng đây tự nó cũng là một câu chuyện).

Còn một số người khác khoẻ mạnh, quả quyết hơn, lấn được đến rào, chúng tôi nhấc bổng được họ, đưa vào toà đại sứ. Bấy giờ trong đám đông bên ngoài có một số sĩ quan quân đội mà chúng tôi đã thỏa thuận: Nếu họ đưa vào được một số người mà chúng tôi muốn, thì sau cùng chúng tôi sẽ kéo họ vào cho họ đi. Chúng tôi cũng tìm được cách chuyển người đi qua đường phố Sàigòn bằng cách giao dịch, thỏa thuận với cảnh sát, chúng tôi bảo họ: “Cho gia đình các ông vào cùng với mấy người này, chừng nào các ông đưa được họ vào máy bay hay xe buýt an toàn, chúng tôi sẽ bốc các ông đi luôn.”

Những cuộc sắp đặt với cảnh sát có vẻ thần hữu hơn vì chúng tôi biết họ, tin họ, họ cũng tin cậy chúng tôi. Buồn cười nhất là vào ngày cuối cùng, người ta đã đưa một nhóm người di tản như thế bằng cả một đoàn xe mô tô màu trắng oai vệ của liên đoàn an ninh phủ tổng thống, nối đuôi nhau đi.

Tại sân toà Đại sứ, chúng tôi dùng xe hơi cho châu đầu vào phía giữa để khi trời tối thì chạy máy, rọi đèn pha lên, rồi cứ để như thế, hễ còn xăng, còn bình điện thì còn ánh sáng.

Rồi có lệnh chúng tôi phải đi và ông Đại sứ cũng được bảo: “Ngài phải vào chiếc máy bay này.” Còn chúng tôi, lúc đầu họ bảo trực thăng đậu dưới sân, tất cả chúng tôi xuống thang nhưng không thấy trực thăng đâu vì họ đã đổi chương trình, rồi họ lại bảo: “Trực thăng sẽ bốc từ nóc sân thượng.”

Tôi không có một gắn bó tình cảm nào quá lớn đối với Việt Nam như vài bạn đồng nghiệp của tôi đã quả tình yêu mến đất nước này. Nhưng đến giây phút cuối, nhìn thấy chung cuộc xảy ra thế ấy, tôi nghĩ chúng ta đã làm một việc tồi tàn đối với dân tộc này, đáng lẽ họ được khá hơn nếu đừng bao giờ chúng ta đến đây. Ngay từ lúc đầu.

Khi chúng tôi ra đi, trời đã rất tối. Phía Tân Sơn Nhất thấy vài đám cháy, nhưng nói chung ban đêm thành phố vẫn có vẻ bình thường. Đường vẫn sáng đèn, xe cộ vẫn sáng đèn. Thực kỳ dị, đó là một điều lạ lùng trong những ngày cuối cùng. Không phải chỉ những ngày cuối cùng mà suốt cả mấy tuần lễ cuối cùng, mọi sự đều có vẻ không thực, bởi vì tất cả vẫn cứ hiện ra một vẻ rất bình thường. Nó không giống như cuộc vây hãm ở Warsaw, bạn hiểu không. Một ngày trước hôm sụp đổ, bạn vẫn còn có thể ra nhà hàng kéo ghế, còn thưởng thức được một bữa thịnh soạn, vẫn có thể ngồi nhấm nháp một cốc rượu vang ngon lành.

Không có ai nã đạn khi chúng tôi ra đi. Đó là một chuyện khác nữa. Người Bắc Việt là những người có lý trí. Họ không giống những người Hồi giáo cực đoan cuồng tín. Họ không dại gì tạo ra một biến cố nào nữa để có cớ cho người Mỹ can thiệp trở lại; và nếu họ sát hại ông Đại sứ, việc này sẽ trở thành đại sự, ngay cả đối với quốc hội.

Việc tiếp nhận chúng tôi trên tàu Blue Ridge chứng tỏ quân đội Mỹ là hạng bét. Họ bắt đầu lục soát hết thảy mọi người. Tôi nghĩ có lẽ Đại sứ là người duy nhất họ không lục soát. Vào lúc bình thời, cấp bực của tôi còn trên xa cả đề đốc chỉ huy chiến hạm.

Nhưng không một ai phản đối gì. Chúng tôi đều mệt mỏi. Chúng tôi đều trầm lại. Và chúng tôi quả là một đoàn quân chiến bại.

TRÊN ĐỒI TRĂNG HÁT BÀI CA LÃNG TỬ

vuhytrieu

rượu đầy vơi theo tiếng hát thâu đêm
gỏ chén ca rằng-ừ trăng sáng
gió lộng trời cao mây bay lãng đãng
bạn bè dăm đứa chuếnh choáng say
nhắc chuyện ngày xưa nói chuyện nay
đứa mất đứa còn chân trời phiêu bạt
tang bồng hồ thỉ đã nên danh?

gỏ chén ca rằng-ừ trăng lạnh
danh vọng chi mà-giấc mộng phù vân
hà cớ gì ta lại buâng khuâng?
nhấp chén rượu cay mừng tao ngộ
hát bài lãng tử trên đồi trăng
một mai sương gió lòng thấm lạnh
vạn dậm đường xa nhớ cố nhân

gỏ chén ca rằng-ừ trăng mộng
rượu đã vơi chưa-ừ trăng tàn
bạn hữu mấy khi cùng uống cạn
uống cả trăng vàng sao chẳng say?
gối ánh trăng khuya bàn tay ngửa
nghe lòng ấm lại một đêm nay…

VŨ HY TRIỆU

Phục Sinh

tranvietdung

những ngày ngồi chờ cơn mưa
những ngày ngóng còi tàu nơi sân ga mang yêu dấu trở về
những ngày âm u tuyệt vọng cài những ngón tay lướt trên phím gỗ, trơ khô

buổi sáng
bước ra khỏi cơn mơ
chân trần em dẫm bờ cát ướt
cỏ lại xanh
vàng hoa ly rải mềm gót tình nhân
bầy chim yến trở về chao nghiêng sóng
tiếng cười của các em trong trẻo như tiếng thủy tinh ly đá chanh đường

những viên đá im lìm giữ lửa niềm tin từ nấm mồ
mở ra
tình yêu nguội lạnh

người sẽ hân hoan
phố sẽ xanh hơn cao hơn

thơ lại phục sinh trong lòng phố cũ.

TRẦN VIẾT DŨNG
(Phát Diệm, 4/ 2015)

Hải Hạc

haihac

Loài Hải Hạc được sinh ra sau một cơn đại hồng thủy. Chúng là những đứa con không hôn thú. Chúng sinh ra từ nỗi sợ hãi của mẹ Âu Cơ. Chúng bay ra từ ánh mắt thất thần của nàng – người phụ nữ xinh đẹp kiều diễm đã bị con rồng biển chín đầu phương Bắc dùng sức mạnh mà cưỡng bức. Đôi mắt đẹp của nàng lúc này đã biến thành một cái hồ, người ta gọi nó là Hồ Ma. Một cái hồ màu đỏ chết chóc nằm giữa thung lũng sâu, bao quanh là những dãy núi đen thẫm. Theo truyền thuyết, người ta nói rằng, Hồ Ma mang lại điều ác mộng cho muôn loài, nếu sinh vật nào nhìn trực diện vào nó thì ngay lập tức bị chúng biến những bộ hài cốt màu trắng bạch. Nếu ai đó lỡ cơn khát uống nhầm giọt nước mắt của Hồ Ma sẽ chỉ còn vài phút để sống, sau đó vĩnh viễn trút làn hơi tàn mà chưa kịp thấy đau đớn. Nhiều ý niệm khủng khiếp bắt đầu hình thành từ cái màu đỏ chết chóc của Hồ Ma ấy. Người ta muốn bỏ chạy mà không được, đành phải tự tử. Những thây xác vừa trút làn hơi cuối vội biến thành những hài cốt cứng như đá vôi, quắt queo cả lại trong chớp mắt. Người dân nơi đây nói với nhau rằng: “Hồ Ma đã bị một lời nguyền của loài quỹ dữ”, nếu không làm thế thì những đứa con Hải Hạc của nàng sẽ rời xa, vĩnh viễn biến mất khỏi thế giới này.

Hồ Ma là khắc tinh của muôn loài. Cứ trời chạng vạng thì nó phát ra một thứ ánh sáng ma quái, xanh nhợt nhạt cả núi rừng, mặt hồ máu thẫm đen. Các loài sinh vật bị nhòa bởi thứ ánh sáng ma quái ấy nên không tìm được lối về. Chúng vừa dừng chân lại thì ngay lập tức bị bất động và hóa đá. Những bức tượng sống của chúng la liệt khắp nơi. Tượng khi chúng vừa chợp mắt ngủ, khi chúng vừa há miệng uống nước, tượng chúng đang rỉa cánh, tượng bà mẹ đang mớm cho đứa con còn đỏ hỏn, tượng khi chúng còn nhìn nhau bằng ánh mắt yêu thương….Tất cả co rút lại. Méo mó. Hãi hùng. Quái dị đến mức không làm người ta sợ hãi mà làm người ta cứ nhìn trân trối cho đến chết.

Những đứa con Hải Hạc của nàng hàng ngày vẫn làm tổ trên những đụn cát chứa đầy những chước quỷ ác độc. Nàng đang cố bảo vệ chúng. Thời tiết ngày càng khô và khắc nghiệt. Hải Hạc luôn khát, khát rất nhanh, cơ thể luôn bị mất nước. Hàng ngày chúng phải sà xuống uống nước mắt của mẹ, chỉ trong chớp mắt, chúng biến thành những bức tượng hài nhi thật đau thương. Nàng khóc thật nhiều. Nước mắt nàng rơi xuống những bức tượng bằng xương khô. Chúng rã cả ra, tan rất nhanh trong đất. Hôm sau, lúc bình minh vừa dậy, lũ Hải Hạc đã lên đường đi kiếm ăn. Chúng bay đi rất xa, cả mấy trăm km về hướng Tây địa cầu. Chúng bay thành từng đàn, loài này rất thương yêu nhau, không có con nào bị bỏ rơi lại trong đói khát.

Chúng bay lên, từ trên cao, chúng nhìn thấy ở bên dưới: những hình hài bất động của đồng loại đang phơi trắng lóa quanh miệng hồ. Đường bờ vòng quanh, không có lối thoát nào cả. Chúng nhìn thẳng vào mắt của mẹ: “con mắt ấy không còn con ngươi”. Tử huyệt của mẹ đang nằm gọn trong bàn tay của con quái thú phương Bắc ấy. Chúng bất lực, khẩn cầu. Bộ lông của chúng ngày càng đỏ hồng rực rỡ, nhất là khi chúng xòe đôi cánh ra và cất lên những giai điệu mang bóng dáng của mặt trời trầm tử lúc hoàng hôn. Màu đỏ hồng của chúng tựa như loài san hô tuyệt vời từ đại dương. Khi mặt trời vừa tắt hẳn thì màu san hô đỏ ấy bị hòa tan theo những dòng cuộn trào của thủy triều đỏ – cơn cuồng thú của con rồng ác độc. Những dòng máu chảy cuộn trào dâng cao thành những cái cột lớn. Hồ Ma lúc này một màu đen thẫm. Những hình hài lại tiếp tục gieo mình xuống hồ và ở lại ở đó vĩnh viễn. Những bộ xương co rút, những bức tượng méo mó kì dị lại mọc lên. Tất cả chúng không nhớ gì về nỗi đau đớn trước khi đi vào cõi chết. Người ta bảo: “ cái chết ở đây êm ái nhất hành tinh, đó là một thiên đường của sự chết chóc”. Dưới đáy hồ vẫn cuồn cuộn những lời tung hô hả hê mừng cho những hình hài hóa thạch mới. Không một tiếng hú mang dại nào để báo hiệu cho sự chết. Mọi thứ nơi đây đều tuyệt đối diễn ra trong yên lặng, kể cả tiếng rên rỉ vì yêu thương.

Loài Hải Hạc vẫn tiếp tục sinh sôi trên những đụn cát nóng bỏng chết chóc. Chúng tiếp tục kiếm ăn, chúng có thể ăn bất cứ cái gì có thể: tảo đỏ, xác chết của loài chuột dơi, đại bàng , bồ câu hay là loài mèo chó từng rất thân thiện với chúng. Chúng vẫn uống nước mắt của mẹ ở Hồ Ma và hóa thành những bức tượng đài vĩnh cửu màu trắng bạch giữa mặt hồ màu đỏ.

HẢI HẠC  (17.4.2015. )

THÌ THẤM

daolam

có mùa sương
lãng đãng chảy theo ta
có tơ mật
ngấm vào lòng gỗ mục
có dịu êm
mơn man trên bờ ngực
cho thanh xuân
ngập nắng lụa hồng đào
tiếng ru buồn
chầm chậm rót đời nhau
đêm quấn chặt
lên nụ hôn tì vết
môi mực tím
xanh xao bờ trăng khuyết
để lá tương tư
khép kín môi cười
có nụ hồng
ngan ngát mỗi chiều vơi
có dấu chấm
cuối một dòng nước mắt
có Anh đi qua đời ta
dù khoảnh khắc
rưng rức đau…
to nhỏ tiếng thì thầm
có một thời
thoi thóp chuyện trăm năm
có nguồn ngọn
trôi về miền cổ tích
có bóng núi
tan vào đêm trừ tịch
để một đời…
khâm liệm nỗi buồn ta!

MỘT NGÀY
VÓ NGỰA MÙ XA
NGHE HƯ HAO VỌNG…
TIẾNG TA THÌ THẦM

DaoLam

hạt muối đã gầy

tranthienthi

cám ơn giọt rượu ngọt ngào
bao nhiêu năm ủ rót vào cơn say
cám ơn hạt muối đã gầy
bỏ thêm vào biển một ngày hư hao

ừ em uống với tôi nào
chén mùa đông lạnh rót vào mùa xuân
đêm nằm như thể chưa từng
sáng ra nhìn mặt lạ lùng chiêm bao

tập cho quen
một cơn đau
sau này đời nuốt mất nhau cũng thường
tập cho nhau một lần thương
cầm vàng đến giữa con đường đánh rơi

một ngày em nhặt được tôi
và tôi thì ngỡ em rơi vào mình
hồ hồ mộng giữa bình minh
cũng may còn cuộc thất tình làm vui

trần thiên thị

NGÀY BUỒN DÀI QUÁ.

thuyvi

Grand Rapids, ngày… tháng… năm…
Nguyệt Cầm ơi Nguyệt Cầm,
Hôm tuần rồi khi đưa người bà con ra phi trường, sẵn rảnh rỗi mình loanh quanh trong khu bán đồ kỷ niệm. Bỗng mình chú ý đến một người phụ nữ trước mắt. Nhìn một hồi… Trời ạ, mình gọi lớn “Mai Anh!” Người đó lập tức quay lại nhìn mình im sững một hồi rồi mừng rỡ kêu lên rối rít “Tương Như… Tương Như… ” Mình với Mai Anh ôm chặt nhau nghẹn ngào tưởng như đây là một giấc chiêm bao…
Sau khi Mai Anh làm thủ tục dời chuyến bay rồi theo mình về nhà. Mình định gọi cho bồ để báo tin vui này, nhưng Mai Anh yêu cầu giữ kín vì trong hoàn cảnh hiện tại cô rất ngại ngùng chưa muốn gặp lại những người quen. Mình hiểu và thông cảm cho hoàn cảnh éo le của bạn mà lại thấy thương bạn mình nhiều hơn.
Lần đầu tiên gặp người bạn thân của mẹ nên hai đứa con mình vui lắm, cứ ríu rít và hỏi Mai Anh những chuyện ở nước ngoài, nhất là mẹ mình, bà lăng xăng làm những món mà ngày nhỏ khi đến nhà chơi, Mai Anh cứ nhõng nhẽo đòi mẹ nấu.
Chắc bồ đang nóng ruột lắm vì tò mò muốn biết Mai Anh giờ sao phải không? Mai Anh của chúng ta vẫn còn y nguyên nét dễ thương với mái tóc cắt ngổ ngáo như thưở nào, tuy nhiên có lẽ chịu nhiều áp lực từ những tai tiếng của người cha một thời quyền uy, lại thêm chuyện tư riêng tan nát do cuộc hôn nhân bất ý, nên cô nàng thiếu mất đi vẻ dí dỏm ngày xưa, Mai Anh trầm mặc hơn, tuy nhiên cái nét tư lự u ẩn kia mình lại thấy cô bạn của mình thật đẹp, cái đẹp đằm thắm làm nao lòng người, bây giờ Mai Anh lại có thói quen hút thuốc, dáng dấp mignone càng thấy cô thật Tây. Về chuyện riêng cô cho biết cô cảm thấy bằng lòng với cuộc hôn nhân hiện tại với một người Ý, cả hai là quản trị viên và có cổ phần trong một hãng rượu vang nhỏ tại một miền quê nước Pháp.
Nguyệt Cầm biết đó, dù cả gia đình trong lúc này đều rất ý tứ không dám nhắc đến những năm tháng bi thảm sau ngày mất nước, sợ nhắc đến Mai Anh ngại ngùng nhưng lúc ngồi ăn, chợt thấy di ảnh của ba mình trên tủ, Mai Anh chựng lại, ngạc nhiên, hỏi han rồi chép miệng thẫn thờ “Không ngờ bác lại mất sớm, mình nhớ ngày xưa bác trai khoẻ lắm!” Lời của Mai Anh như chạm đến nỗi đau của những người ngồi quanh bàn. Chỉ tội Mai Anh, cô thật lúng túng khi nhìn thấy những khuôn mặt chợt lặng lờ ủ ê và giòng nước mắt âm thầm của mẹ.
Đêm đó cả nhà đi ngủ sớm vì dự định ngày mai sẽ đưa Mai Anh đi chơi xa, viếng vài cảnh đặc biệt nơi vùng Bắc Mỹ. Nhưng mình biết đêm nay hai đứa làm sao ngủ được, mấy mươi năm mất hút lạc nhau, hai đứa có biết bao nhiêu chuyện để nói với nhau, anh Nam như đồng cảm đi pha một bình trà rồi tế nhị tránh mặt.
Mai Anh nói rất ngắn về gia đình, cô bạn của chúng ta dường như không thích kể lể cũng như không muốn bào chữa về những quyết định của cha mình, một vị tột đỉnh uy quyền. Là một trong những người đã giao miền Nam Việt Nam vào tay CS.
Sau kết cục của ngày 30 tháng 4 năm 1975, một kết cục đưa đất nước vào nơi tận cùng bất hạnh. Mấy mươi năm vừa qua là mấy mươi năm u buồn, cha mẹ và những người trong gia đình của Mai Anh sống gần như tránh mặt với tất cả mọi người, họ sống ê chề ngột ngạt như bị nhận chìm trong những lời nguyền rủa. Họ gần như nghẹn thở trong cái thòng lọng mênh mông thù hận, họ sống giấu mặt trong những tủi hổ ăn năn và tâm hồn của họ có lẽ chưa có một ngày yên ổn bởi những trăn trở, ân hận và thất vọng cứ dằn vặt không thôi. “Cái bi kịch của gia đình mình là Papa không đủ can đảm chết. Ông cũng không đủ can đảm sống” Mai Anh ngừng lại một chút rồi nói tiếp với giọng thật cay đắng “Mình may mắn không có đứa con nào, nếu có, thì tội nghiệp cháu vô cùng vì phải chịu chung cái hệ lụy oan nghiệt này, phải không?”.
Mình tránh cái nhìn hiu hắt của Mai Anh, thẫn thờ lướt mắt qua khung cửa sổ, cố giấu tiếng tiếng thở dài. Bên ngoài, trời đêm mùa hè vùng Bắc Mỹ ánh sáng lấp ló còn soi rõ những tàng cây kiểng Nhật thấp lè tè ngoài kia, chung quanh là những tảng đá sù sì, thô nhám nhiều góc cạnh không rõ hình thể nằm rải rác, đó là những đam mê mà ba mình đã góp nhặt cho khu vườn tĩnh lặng đầy nghệ thuật lãng đãng chút triết lý thiền học của ông và không gian đầy sách vở là nỗi vui đơn giản cuối đời của một người lính già thua trận.
Mai Anh nhắc tên những người bạn xưa, hỏi thăm từng người một, khiến lòng mình chùng xuống nôn nao nỗi buồn. Mình nhớ thật rõ cảm giác ngơ ngác, ngỗn ngang, sợ hãi, hồi hộp, não nề trong những ngày đầu mất nước, cái cảm giác đó cứ lì lợm bám chặt không rời cũng như những hình ảnh thê lương ngày hôm đó như còn tươi nguyên trong trí nhớ. Mình dường như còn nghe được những tiếng súng vang lên từ hướng phi trường, cũng như tiếng ầm ĩ của những chiếc trực thăng lên xuống từ phía bên kia đường. Mình còn như thấy rõ những khuôn mặt thiểu não, rã rời, thất thần, méo mó của mọi người, mình còn nhớ rõ dáng trầm ngâm và nét mặt của ba, có lẽ ba đau đớn lắm khi nhìn những người lính vừa bỏ ngũ tan hàng trần trụi không súng ống đi gầm mặt bơ vơ ngoài kia, cho nên ba lặng lẽ khép cửa quay lại nhìn mẹ, cả hai không nói gì, đăm đăm nhìn nhau, chảy nước mắt. Chứng kiến cảnh đó, không hiểu sao mình không khóc, nhẹ nhàng trở vào phòng ngủ, ngồi xuống dỗ dành hai đứa em …
Rồi, những năm tháng tả tơi kéo theo trùng trùng tai ương đổ xuống mọi gia đình, lúc đó hình như mỗi gia đình là một bi kịch. Mình hồi tưởng lại những bi kịch và sụt sịt kể cho Mai Anh nghe chuyện thương tâm của gia đình Ngự Hương…
… Mấy tháng sau ngày mất nước, ba của Ngự Hương là thầy Đạt giáo sư dạy trường Lê Qúi Đôn, bất ngờ – có gia đình người bà con xa đi tập kết ngoài Bắc về ghé thăm, đó là gia đình ông năm Phước, quê ở Xoài Hột, tỉnh Mỹ Tho. Ngày đầu tiên bước chân đến nhà thầy, họ ngẩn người há hốc trước ngôi từ đường xưa cổ kính nóc bánh ít mà họ cứ trầm trồ khen đó là một dinh thự nguy nga tráng lệ.
Ở được vài ngày, họ thật thà thố lộ những mơ ước trong lòng, cái ước muốn thôi thúc nhất là bà cụ mẹ vợ ông Năm Phước, trong suốt cuộc đời, cụ luôn luôn thèm thuồng có được một cái mùng may bằng vải tuyn mát rượi mềm mại, cũng như gia đình ông Năm Phước cái ước mơ đầu tiên là cả nhà được ăn cơm đựng trong những cái chén sành trắng vẽ những bông hoa sặc sỡ. Nghe những mơ ước đơn sơ của họ, thầy cô Đạt thương tình chu cấp cho họ nhiều hơn những gì một đời họ ước mơ tưởng rằng không bao giờ với tới.
Trong khi chờ đợi nhà nước phân phối nhà, gia đình ông Năm Phước được thầy Đạt thù tiếp rất chí tình chí nghĩa, ấy vậy mà… Hôm vợ chồng ông Năm Phước về Xoài Hột thăm gia đình thì bỗng dưng nửa đêm ủy ban Quân Quản kéo tới bao vây nhà thầy, họ nói được mật báo nhà thầy có tài liệu phản động chống phá chính quyền cách mạng. Họ lùa mọi người vào góc phòng rồi họ lục lọi khắp nơi, để chỉ thấy nhà toàn sách vở, những bộ sách quí tiếng Pháp, những bộ từ điển, những bộ sách nghiên cứu, văn học, lịch sử… họ lôi ra xé nát quăng tung toé, cuối cùng họ tìm được cuốn sổ, trong đó có bài thơ viết tay mà họ nói đây là bằng chứng thầy Đạt chống chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa!
Bài thơ mà họ vịện cớ bắt thầy là bài thơ thất ngôn, tựa “vịnh con khỉ”, bài này thầy cảm tác lúc đi dạo vườn bách thú. Họ chụp cho thầy tội danh “phản động” và anh Trọng chồng của Ngự Hương đang dạy tại trường Mạc Đĩnh Chi vì ở chung nhà với thầy cũng bị gán tội đồng lõa?!
Sau khi bắt nhốt thầy Đạt và anh Trọng, họ tới niêm nhà, đuổi cô Đạt, Ngự Hương và cháu Triết ra. Gia đình bên anh Trọng cưu mang ba người khốn cùng này. Ngôi từ đường của thầy bị tịch thu, người chủ mới nghiễm nhiên là ông năm Phước – người em bà con tội nghiệp, ngày nào.
Tai ương như cố tình đeo đẳng gia đình cô bạn Ngự Hương của chúng ta. Sau mấy năm bị giam cầm, thầy Đạt, anh Trọng lần lượt được họ thả cho về, anh Trọng vì mang án nên mất việc, thầy Đạt đã lớn tuổi cộng thêm mấy năm lao tù vì thế sức khoẻ rất kém, nhưng vì cũng muốn đỡ đần với con cháu cho nên thầy ra ngồi bán vé số nơi đầu hẻm, còn anh Trọng thì sửa xe đạp ngoài lề đường. Trong hoàn cảnh cô liêu tịch mịch của đất nước, lúc đó đứa học trò nào gặp lại thầy cũng chảy nước mắt, chỉ biết thương thầy mà có giúp gì được đâu, chung quanh dân tình ai nấy đều khổ như nhau cực cùng đói ăn thiếu mặc đủ bề.
Cuối cùng, ba má anh Trọng lo cho vợ chồng anh cùng cháu Triết đi vượt biên. Chiếc tàu lọt được ra biển, bất ngờ lại gặp hải tặc, bọn chúng cướp của và hãm hiếp phụ nữ. Ngự Hương bị làm nhục trước mặt anh Trọng, anh không chịu nỗi nhào lại cứu vợ, tụi nó lia một dao đứt cuống họng, anh gục xuống chết ngay. Ngự Hương đau đớn sảng sốt như người điên, vùng vẫy kháng cự, tụi nó ôm người đàn bà này liệng xuống biển mất xác. Tội nghiệp bé Triết, chưa đầy mười tuổi phải chứng kiến người ta giết cha giết mẹ của mình, đứa bé này không mất trí là một kỳ tích.
Chiếc ghe bi thảm như chiếc quan tài nhấp nhô trôi nổi trên biển Đông, như có phép lạ, nó cập bến và cháu Triết được một mục sư người Mỹ nhận làm con nuôi.
Mẹ của Ngự Hương, dòng dõi hoàng phái, được tin rể và đứa con gái chết thảm, như sét đánh, bà uất hận lên cơn đau tim, không bao lâu thì qua đời. Thầy Đạt bị khủng hoảng đến ngẩn ngơ, cuối cùng nhờ những người bạn cũ vận động với các hiệp hội nhân đạo bảo lãnh thầy định cư tại Pháp.
Cháu Triết là một đứa bé rất mỏng manh so với cái thế giới rộng lớn này, và cháu là người bất hạnh thiếu thốn tình cảm, khao khát gia đình hơn bất cứ đứa trẻ nào, nhưng ai ngờ ý chí của cháu thật ghê hồn, cháu tự vượt lên số phận và hiện là một sinh viên ưu tú của trường đại học tiểu bang Michigan.
Nói về ông Năm Phước, một tay phá tan nát gia đình thầy Đạt, lại là một cán bộ “tiếp thu” thật nhanh, ông cướp nhà thầy Đạt không bao lâu thì ông được giữ chức vụ hiệu trưởng trường đại học Tổng Hợp thành phố HCM. Nghe nói ông Năm Phước đã chê ngôi từ đường cũ kỹ của thầy Đạt, gia đình ông đang “ngự” trong một toà nhà cao tầng thật lộng lẫy hiện đại của một nhà tư bản bị tịch thu.
Mai Anh lặng lẽ hút thuốc trong gian phòng ngập tràn bóng tối, hai đứa như chìm giữa đêm khuya trong không gian im ắng ngoài kia. Qua đốm lửa đỏ rực, mình thấy đôi mắt cô bạn đầm đìa nước mắt.
Trong những ngày thảng thốt đó, mạng sống của những người thua trận như chỉ mành treo chuông. Có người bạn thân rủ ba thoát đi, thoát một mình – chuyến bay chót, hình như chung chuyến với gia đình một nhân vật lẫy lừng trong ngành tình báo, ba kiên quyết lắc đầu, ba cam lòng cùng với vợ con đón đợi những điều xấu nhất. Ông nội của mình lúc đó đang nằm tại bệnh viện và yếu lắm. Tuy nhiên ông nội cứ nài ép năn nỉ đứa con trai duy nhất hãy kiếm đường ra đi. Ba chỉ vâng dạ cho ông nội yên tâm, chứ ba đâu thể nào một mình ra đi trong hoàn cảnh này. Ngày ba của mình quẩy cái túi nhẹ bổng đi trình diện ở trường Taberd là ngày ông nội qua đời. Cả nhà sợ ba đau lòng nên cố tình dấu kín. Họ đưa ba ra Bắc, ba ở tù đúng tám năm ba tháng, rồi khi được thả ba yếu lắm phải chống gậy trở về. Tuy nhiên ba còn may mắn về gặp vợ con trong khi nhiều người bạn tù của ba phải nằm lại.
Kể lại, lúc ba vừa đi tù là Thành Ủy đến tịch thu ngay ngôi nhà của gia đình. Mẹ sợ đi kinh tế mới nên dắt díu ba chị em mình về bên ngoại ở Rạch Kiến, quận Bình Chánh. Mặc dù nơi đây gần Saigon nhưng ngày trước là vùng xôi đậu, không điện, không nước, lại là vùng đất phèn nên đất khô cằn không trồng được cây ăn trái, chỉ có bờ tre bao quanh nhà với vài cây me, ô môi. Mỗi nhà đào một cái hào sâu để tắm giặt và một dãy lu dành đựng nước mưa để uống.
Trong những năm tháng không có ba ở nhà, mình mới thấy cái dũng cảm đáng kính nể của mẹ mình. Mẹ như người bị dồn tới đường cùng và sẵn sàng đương đầu, không khóc lóc than van. Là một công chức yểu điệu sống và làm việc tại Sài gòn. Bây giờ mẹ điềm nhiên xăn cao ống quần lội xuống ruộng làm cỏ lúa, cấy lúa, trồng cải, nuôi gà, nuôi heo, như một nông dân thực thụ.
Trong thời gian bốn mẹ con tá túc dưới ngôi nhà hương hỏa của ngoại, ngôi nhà mênh mông với những hàng cột bằng gỗ quí lên nước đen mun, mẹ không nệ cực nhọc ra công chăm sóc tươm tất trong ngoài và cư xử đẹp lòng bà con chòm xóm. Mẹ lại âm thầm tất tả ngược xuôi sắp xếp và nghiến răng gửi gấm cho Quỳnh Như và Tố Như đi vượt biển.
Lúc nhận được tin hai đứa em gái tới đảo bình yên, mình sững người vì thấy tóc mẹ gần như bạc trắng.
Mai Anh và mình đón buổi sáng với ly cà phê nóng hổi và một tâm hồn thời trẻ nhỏ thân tình. Ánh mặt trời nhô lên tít tắp đàng kia như mỉm cười độ lượng chào hết thảy nhân sinh. Một ngày với những rộn ràng tiếng chân khua vang của những đứa con, tụi nó bây giờ vào lứa tuổi “bỗng nhiên mà chợt lớn” như bọn mình ngày xưa đến không ngờ, mới biết chúng ta giờ bắt đầu già thật rồi.
Ngày hôm đó anh Nam đưa cả nhà đi chơi thật vui, đến những bờ hồ thật đẹp, như thầm khoe với cô bạn những thắng cảnh nổi tiếng của tiểu bang Michigan thật hiền hòa. Lúc cả nhà mướn xe đạp chạy dọc theo bờ cát có những ngọn đồi quanh co trên hòn đảo nhỏ còn giữ nguyên vẹn nét thiên nhiên, vắng bặt mọi tiếng động cơ, chỉ còn lại trong không gian hùng vĩ thơ mộng lồng lộng nắng và gió. Hai đứa ngồi riêng với nhau như cùng níu lại những giờ phút gần gũi còn lại thật hiếm hoi, cùng phóng tầm mắt ra khơi, phía xa kia cây cầu treo nổi tiếng như cọng dây mỏng manh trên vạt nước màu xanh trãi rộng tới chân trời.
Mai Anh nhắc mình xin tấm hình của gia đình Nguyệt Cầm, cô nàng đặc biệt thích thú về đứa con trai “Trời cho” của bồ, trong những mẫu chuyện về cậu bé nay tròm trèm bảy tuổi được mình kể đi kể lại cho Mai Anh nghe còn có những mẫu chuyện về ông ngoại của cháu là một trong những nhà văn nổi tiếng thời đó đã không chịu nỗi sự đói lạnh đã kiệt sức chết trong tù, trong khi bên ngoài gia đình của Nguyệt Cầm luôn luôn phải đối diện với những bất công tàn bạo, đành gạt nước mắt bỏ lại ông bố nằm quạnh hiu trên một cánh rừng hoang sơ nào đó để trốn đi ra khỏi nước. Vài năm, sau khi cuộc sống định cư ổn định và trong sự tận lực kiếm tìm, mẹ của Nguyệt Cầm đã cải táng ông cụ và ôm tro cốt của ông qua Úc để đoàn tụ cùng với con cháu. Đặc biệt cậu bé con hiếm quí muộn màng của Nguyệt Cầm được mang tên ông ngoại.
Ngày mai, hai đứa phải chia tay. Mai Anh cứ căn dặn mình đi đâu thì đi nhưng cũng nên qua Pháp thăm nhau, cũng như người cha đỡ đầu của mình là thầy Lê Bá Sằng, dạy trường đại học Minh Đức ngày xưa cứ nhắn nhủ “con gái, nên đến Paris một chuyến nghe con” khiến mình bồi hồi, cảm động, lòng tràn ngập yêu thương và thầm nghĩ: nhân gian đâu chỉ là giọt lệ, phải dành nhiều thì giờ với nhau hơn nữa, kẻo rồi, không kịp.
Và, trong đống hành lý ngổn ngang của Mai Anh, mình sẽ gửi theo vài cuốn tạp ghi, bút ký của hai bác Trà Lũ và Phan Lạc Phúc cũng không quên kèm theo vài cuốn thơ của ông Trần Vấn Lệ. Có phải đến tuổi này, chúng ta mới thấy thời gian thật gấp rút?..
Tạm biệt,
Tương Như

thụyvi

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, “Vâng, chúng tôi đã chiến đấu”

nuocmattruocconmua

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, nguyên tác Anh Ngữ “Tears Before The Rain” là một tập sử liệu về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam, do Larry Engelmann, Giáo Sư Đại Học San Jose State thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn nhiều thành phần: người Mỹ, người Việt, kẻ thắng người bại …Những cuộc phỏng vấn này khởi sự từ 1985, sách xuất bản năm 1990. Bản dịch Việt Ngữ do nhà văn Nguyễn Bá Trạc thực hiện năm 1993, xuất bản năm 1995 tại California.

 

NGUYỄN PHÚC HẬU
(Phó Chủ Tịch Hội Đồng Thị xã Nha Trang)
“Vâng, chúng tôi đã chiến đấu”

Tôi nguyên là Phó Chủ Tịch Hội đồng Thị Xã Nha Trang và Tỉnh Khánh Hòa. Tôi được bầu vào chức vụ ấy năm 1970, sau đó tái đắc cử năm 1974 với nhiệm kỳ bốn năm.
Chính trị có sẵn trong huyết quản tôi. Tôi mong tham gia chính trị để phục vụ dân tộc tôi. Tôi sinh năm 1931, thế hệ tôi chính là một thế hệ của chiến chinh. Khi tôi còn nhỏ, bấy giờ là thời Thế giới đệ nhị Thế chiến. Chúng tôi đã chiến đấu chống Nhật. Đến khi tôi trưởng thành, người Việt chúng tôi chiến đấu chống Tàu, chống Pháp, chống Mỹ và chống cả lẫn nhau. Chiến đấu không ngừng.

Tôi thực rất mong có ngày được nói chuyện với Mike Mansfield. Sau khi Saigon sụp đổ, lúc đang ẩn náu ở Saigon, mở đài Tiếng Nói Hoa Kỳ tôi có nghe Mike Mansfield tuyên bố: “Đất Việt Nam không đáng giá mảy may cho một sinh mạng Mỹ!! ” Lời tuyên bố ấy làm tôi rất buồn, vì tôi nhớ đến sự dũng cảm của những cố vấn Mỹ của tôi trong cuộc chiến, những người mà tôi đã có lòng thương mến. Tôi nghĩ những người Mỹ tham dự vào cuộc chiến Việt Nam mà tôi biết, họ đều hiểu rằng họ đã chiến đấu cho một lý do cao cả: Bảo toàn Tự do. Mike Mansfield không hề biết gì về việc đã có bao nhiêu người bỏ mình tại đất nước Việt nam trong công cuộc chiến đấu chống Cộng, ông ta không xem truyền hình để thấy hàng bao nhiêu ngàn con người tháo chạy khỏi các Tỉnh khi Cộng sản tiến vào. Ông ta cần phải biết vì đâu họ chạy. Ngay từ năm 1954 đã hơn một triệu người Việt bỏ chạy từ bắc vào Nam. Mike Mansfield cần phải biết tại sao.

Tôi ở Nha Trang ngày Thị xã này thất thủ. Tôi đã bảo vợ tôi nên vào Phan Rang với người chị cho an toàn, phần tôi ở lại Thị xã Nha Trang vì nhiệm vụ của tôi. Tôi là người đứng tổ chức cứu trợ đồng bào tỵ nạn từ các thành phố khác đến. Hai ngày trước khi Nha Trang sụp đổ, chúng tôi đã gửi một lá thư cho Tướng chỉ huy quân đội đóng quanh Thị xã, chúng tôi yêu cầu một buổi họp với ông nhằm tổ chức phòng thủ Thị xã. Chín giờ sáng, vào ngày Thị xã thất thủ, tôi đến văn phòng tham dự cuộc họp với những người trong tổ chức cứu trợ tỵ nạn và đợi viên tướng đến. Nhưng mười một giờ, vẫn không thấy. Chúng tôi điện thoại cho tòa Tỉnh, ở đó không ai có mặt. Chúng tôi điện thoại cho các viên chức khác. Cũng không có ai. Thế rồi có người đến cho biết tất cả đều đã đi. Họ đều đã ra đi mà không hề mở miệng nói một câu nào.

Tôi không còn tin nổi. Mới tuần trước, tôi với ông Chủ tịch cùng với ông Tỉnh Trưởng hãy còn đi Khánh Dương, nằm ở ranh giới hai tỉnh Ban Mê Thuột và Khánh Hòa, nơi lính Nhảy dù đóng. Chúng tôi đưa thực phẩm và đồ tiếp tế đến khích lệ anh em binh sĩ. Chúng tôi nói chuyện với họ, bảo toàn thể dân chúng trong tỉnh đứng sau lưng họ, nhiệm vụ anh em là tiếp tục chiến đấu, giữ vững, đừng để khu vực này rơi vào tay Cộng sản. Chúng tôi hãnh diện vì anh em đã chiến đấu kiên cường, chúng tôi tin tưởng anh em vẫn có thể tiếp tục chiến đấu. Nhưng ngày hôm ấy, thực đáng buồn.

Sau này tôi nghe nói hầu hết những chiến sĩ nhảy dù ấy đã tử trận. Ngày Cộng sản tấn công, họ không hay hậu tuyến đã rút chạy. Họ tiếp tục gọi yểm trợ, gọi không quân, gọi tiếp vận, nhưng không ai trả lời. Bị Cộng sản bao vây, họ vẫn tiếp tục đánh, không chịu hàng nên bị Cộng sản giết sạch. Nhảy dù là những người lính thiện chiến. Những chiến sĩ ưu tú nhất.

Tôi là người rất bướng bỉnh. Có lần vợ tôi đến bảo rằng: “Ông ạ, tôi nghe nói Mỹ đã rút, mình thất trận rồi” Bà ấy hỏi: “Ông định chuyện gia đình thế nào, có chạy đi đâu hay không?” Tôi nói: “Tôi không tin mấy chuyện ấy. Ngu ngốc quá!” Bấy giờ hãy còn là vào khoảng đầu năm 1975. Tôi nói: “Chúng ta vẫn còn có thể đánh Cộng sản được”. Vợ tôi lại bảo đã có nhiều gia đình dọn vào Saigon cả rồi. Tôi vẫn nói “Kệ xác cho họ dọn. Mình cứ ở lại”

Tôi đã tin tưởng rằng ngay cả trong trường hợp mất các Tỉnh khác, người ta vẫn giữ được Nha Trang, chúng tôi vẫn được an toàn.

Nhưng sau các Tư lệnh, các Tỉnh trưởng, Thị Trưởng bỏ chạy thì Nha Trang hỗn loạn. Tù nhân thoát ra, đập phá hàng quán, đốt cháy chợ búa.

Cách thất trận của chúng tôi thực hết sức lạ lùng. Có một gã gác dan trong một ngôi trường dòng ở Nha Trang vốn là Cộng sản, hắn chứa vũ khí Cộng sản trong trường, chính hắn dẫn Cộng sản vào Thị xã. Sau này hắn bảo chúng tôi Cộng sản ở Nha Trang không biết các chỉ huy quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã rời Thị xã rồi. Nếu họ biết thì họ chiếm ngay hôm ấy, như thế đã tránh được việc hỗn loạn trong Thị xã. Hắn kể hắn đi Tuy Hòa báo cáo với Trung đoàn trưởng Trung Đoàn Sao Vàng: “Ổn thỏa rồi, thị xã Nha Trang đã trống rỗng. Dân chúng và các cấp chỉ huy quân đội đều đã chạy. Ta nên vào chiếm lấy thôi”. Nhưng viên Trung đoàn Trưởng vẫn không tin nổi. Hắn kể rằng viên Trung đoàn trưởng vẫn cho hắn báo cáo láo. Hắn phải thuyết phục viên Trung đoàn trưởng cho người theo hắn vào Nha Trang quan sát tình hình. Bọn trinh sát trở lại, báo rằng quân đội Việt Nam Cộng Hòa quả đã rút hết, do đó họ mới vào chiếm thị xã. Chúng tôi chỉ buông xuôi mà bỏ đi.

Chúng tôi đã bỏ đất nước Việt Nam cũng như đã bỏ Thị xã Nha Trang. Chúng tôi đã có thể thắng trận chiến này, nhưng chúng tôi đã buông mà tháo chạy. Việc sụp đổ Nha Trang và việc Cộng sản tiến chiếm thị xã này chính là điển hình cho tất cả cuộc chiến Việt Nam vậy.

Tôi không hiểu được tại sao. Khi ở Vũng Tàu, tôi đã vào Saigon dự phiên họp các cấp chỉ huy Hội đồng Tỉnh để duyệt lại tình hình mỗi Tỉnh. Bấy giờ tôi có liên lạc với một số nhân vật chính trị, chúng tôi đều quyết định là chúng tôi muốn tổ chức và quay lại: Một tổ chức để giữ vững miền Nam Việt Nam. Thắng hay bại không quan hệ. Chúng tôi đã có kế hoạch di chuyển chính quyền xuống Cần Thơ, bỏ trống Sài Gòn cho Cộng sản, chúng tôi sẽ chiến đấu, cố giữ một chính quyền, như thế sẽ có tiếng nói hợp pháp với thế giới bên ngoài.

Kế hoạch này làm tôi thấy phấn khởi. Tôi phát biểu rằng: “Chúng ta sẽ gửi một thông điệp. Bất cứ ai muốn chiến đấu chống Cộng đều có thể xuống mạn Cần Thơ, chúng ta sẽ tổ chức tại đó một tiền tuyến để đánh Cộng sản và giữ cho chính quyền được an toàn”.

Một tuần lễ trước khi Sài Gòn hoàn toàn sụp đổ, tôi quay trở lại xem xét tình hình thì bạn tôi bảo: “Không được nữa rồi. Bọn Mỹ không chịu.”

Trong năm 1975, tôi đã từng có rất nhiều cơ hội để ra khỏi nước. Tôi có rất nhiều bạn bè từ Nha Trang vào, họ có tàu; nhưng vì tôi rất thất vọng với người Mỹ, tôi bảo: “Tôi sẽ ở lại”. Đấy là một lỗi lầm đeo đẳng suốt đời tôi. Lỗi lầm ấy gây ra cái chết cho người con trai lớn của tôi.

Bấy giờ chiến trận mỗi lúc một gần Vũng Tàu, nơi tôi đưa gia đình vào. Ở đấy hãy còn Thủy quân Lục chiến Việt Nam, họ vẫn tiếp tục chiến đấu. Vào hôm mất Vũng Tàu, tôi chứng kiến hai người lính Mỹ cùng với Thủy quân Lục chiến bị Việt cộng bắt. Tôi không rõ số phận họ ra sao.

Vợ con tôi và tôi họp lại cầu nguyện và cùng khóc. Toàn thể đất nước sụp đổ rồi. Cộng sản là bọn sát nhân. Một người bạn tôi rất kinh hoảng. Anh vào một Trung tâm tỵ nạn ở Vũng Tàu, mở buồng tắm khóa chặt cửa lại, suốt ngày ở bên trong. Anh sợ Cộng sản vì anh đã suýt bị Cộng sản chôn sống trong kỳ Tổng công kích Tết Mậu Thân ở Huế. Tôi đến gọi anh ra, mang cho anh ít đồ ăn. Cuối cùng anh ra, rồi chạy mất. Tôi không rõ sau đó anh ra sao.

Sáng 30 tháng Tư, có tiếng súng máy nổ bên khách sạn gần chỗ chúng tôi. Vẫn còn những trận đánh diễn ra, mặc dù nghe đài phát thanh chúng tôi được biết tại Saigon người ta đã trao quyền cho Cộng sản.

Tôi mong ông sẽ kể lại chuyện này cho công chúng Mỹ: Đó là vào buổi trưa ngày 30 tháng Tư, sau khi chính phủ đã chuyển giao quyền hành cho Cộng sản rồi, thì tại một địa điểm ở Thị xã Vũng Tàu vẫn còn một cuộc chiến đấu cho đến tận hai giờ ba mươi phút. Bởi những thiếu nhi. Những thiếu nhi theo học quân trường. Những thiếu nhi, những trẻ em con cái các tử sĩ đã hy sinh trên chiến địa. Các em vẫn tiếp tục chiến đấu sau khi tất cả những người khác đều đã đầu hàng! Các em thiếu nhi của trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu.

Rất nhiều em trong đó đã bị sát hại. Một ngày sau đấy tôi có gặp một em trong nhóm giữa lúc thị xã này náo loạn. Tôi không quen em, nhưng tôi nhận ra nhờ mái tóc cắt rất đặc biệt của các Thiếu sinh Quân. Tôi hỏi thăm: “Chuyện ra sao? Ở đấy các em vẫn còn tiếp tục đánh à?” Em nói: “Vâng, chúng tôi đã đánh với Cộng sản” Em rất hãnh diện đã chiến đấu chống Cộng.

Tôi hỏi thăm thì em kể lại rằng một ngày trước khi Việt cộng vào Thị xã, cố vấn Mỹ đã đến trường đưa Đại tá Chỉ huy trưởng lên trực thăng đi mất với ông ta. Do đó, người chỉ huy kế tiếp là một Đại úy đã tập họp tất cả Thiếu Sinh Quân lại mà bảo: “Được, bây giờ chúng ta sẽ đi đến một địa điểm”. Các Thiếu sinh quân đều đi với Đại úy, nhưng chẳng biết đi đâu. Đại úy không có chỉ thị chính thức nào của Đại tá nên cũng chẳng biết làm gì. Cuối cùng ông cho các em dừng lại, nói rằng ông muốn đưa các em ra khỏi Thị xã, nhưng cũng chẳng biết đi đâu. Vậy bây giờ tất cả phải giải tán mà đi đi. Nhưng các Thiếu sinh quân cũng chẳng biết đi đâu nữa. Có em ở Vũng Tàu. Có em ở Cần Thơ. Chẳng em nào có tiền bạc gì mà đi.

Vì thế các Thiếu sinh quân lớn nhất đã tập họp tất cả các Thiếu sinh quân khác trên đường phố, quyết định rằng những em lớn sẽ quay về lại trường, tổ chức phòng tuyến đánh Cộng sản. Còn các em nhỏ hãy chạy đi, biết đâu có thể may mắn kiếm được gia đình nào nuôi dưỡng các em. Thế rồi khoảng năm mươi em lớn nhất trong bọn, tuổi chừng mười hai mười ba, đã phá kho quân dụng của trường Thiếu Sinh Quân, lấy được một khẩu súng máy, tổ chức phòng tuyến, lập đồn chiến đấu khi Cộng sản đến. Và quả khi Cộng sản đến, các Thiếu sinh quân đã chiến đấu chống lại. Cộng sản không thể nào lọt vào trường. Khi kể lại chuyện này, các Thiếu sinh quân rất kiêu hãnh. Trưa hôm ấy, chính phủ đã trao quyền tại Saigon, nhưng các em Thiếu sinh quân vẫn tiếp tục cuộc chiến. Cho đến hai giờ ba mươi trưa, Cộng sản loan báo là nếu các em không ngừng đánh, chúng sẽ bắn rốc kết vào trường tiêu diệt hết.

Tôi hỏi thế khi Cộng sản vào được trong trường thì chuyện gì xảy ra. Các em bảo chúng tập họp các em trong sân rồi nói các em về nhà.

Phần tôi cùng gia đình cũng chẳng biết đi đâu. Cuối cùng chúng tôi quyết định lấy một chiếc xe vận tải đi Saigon. Trên đuờng đi Saigon, chúng tôi gặp tai nạn chết một người con lớn. Chiếc xe vận tải của chúng tôi bị sa vào hố do rốc kết cầy lên. Bánh trước bể. Đó là một cái xe tải, phần sau trống. Xe lật nhào. Con trai tôi tử nạn.

Tại Saigon bấy giờ tình hình đang hỗn loạn. Người nào cũng ngơ ngẩn, chẳng ai còn hiểu chuyện gì. Chẳng khác nào khi bị xúc động quá mạnh, người ta không còn cảm thấy gì và tin gì nữa.

Chúng tôi chôn cất đứa con đã mất, và cuộc chiến đã tàn.

LÃNG TỬ VỀ ĐÂU TÊN NGỤY TẶC

linhphuong

Lên đường về đâu ? .Ôi ! Lãng tử
Lòng cứ buồn thắt ruột thắt gan
Sinh bất phùng thời nên ta khổ
Trời ơi ! Đã mấy chục năm ròng

Rượu uống mềm môi sao không khóc ?
Chưa say mà lệ cứ rơi đầy
Trượng phu ta chết ngày giông bão
Còn kẻ phàm phu sống lất lây

Oán ư ? Ta oán đời dâu bể
Trường an thất thủ sớm mai nào
Hận ư ? Ta hận đời chó đẻ
Cởi giày saut-nón sắt mà đau

Lên đường về đâu ?. Ôi ! Lãng tử
Không cửa,không nhà biết về đâu ?
Thua trận ta làm tên ngụy tặc
Trả nợ máu xương với đồng bào

Đồng bào lặng lẽ lau nước mắt
Nhìn ta chịu nhục lúc sa cơ
Vô rừng đốn củi rồi ra biển
Vá lưới ngồi mơ bóng lá cờ

Người yêu ta mất hôm Xuân Lộc
Khói trắng quanh trời mảnh khăn tang
Khăn tang ta quấn trên đầu súng
Hồn em ẩn hiện khóc Sài Gòn

Lên đường về đâu ?. Ôi ! Lãng tử
Mất quê. Ta xuôi ngược giang hồ
Lưu lạc. Ờ ! Thì ta lưu lạc
Qua bến sông đầy nước tháng tư

Tháng tư ta đứng bên góc phố
Ngơ ngác tìm hoài tuổi hai mươi
“… Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi… ”

LINH PHƯƠNG