TÌNH GIÀ

 

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc trong khi bàn về cái gọi là già sao cho sướng, có đưa ra một lời khuyên: hãy bắt chước ông già lấy le bà già/ chiều chiều dắt ra bờ sông. Lãng mạn thật đấy! Nhưng hai người cũng sẽ rớt xuống sông là cái chắc. Xe cấp cứu sẽ hú còi inh ỏi và thiên hạ sẽ xầm xì rằng, đã già mà sao còn dại!

Dù được thân thiết gọi là bạn già, nhưng tôi chẳng dám đâu. Hãy để cái chuyện dắt ra bờ sông dành cho nhà văn Kiệt Tấn, thưở 17, đã cùng một em tên Tuyết lăn lóc đến nỗi rớt xuống sông (ướt cái quần ni lon) mà vẫn tỉnh queo đèo vespa đưa em về nhà, dọc đường còn tí tởn yêu nhau chút chút.

Vẫn bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc kể kể rằng, nhà âm nhạc học Trần Văn Khê, ở thì tít trên tầng cao của một chung cư, mà ăn thì lấy cơm từ trong tủ lạnh ra hấp trong lò điện, mặc dù tiếng tăm lừng lẫy nhưng giữa lòng Paris hoa lệ mà sống quạnh hiu như vậy, rất là đáng thương.

Nhưng bác sĩ Thân Trọng Minh lại bảo, tuy vậy,  ông vẫn sống rất hạnh phúc vì cuối đời còn có một người yêu ông. Chỉ vào bức ảnh nằm lọt thỏm giữa những chồng sách đụng tới trần nhà, bậc trưởng thượng bảo rằng, đây là mối tình già của hai người, bà yêu ông từ lâu nhưng chỉ sống với ông được vài tháng, rồi mất vì bệnh ung thư. Đương nhiên ông yêu bà không phải vì tóc em ướt mắt em ướt mà vì bà là kẻ tri âm, và hơn thế nữa, ông đã có những bữa ăn với cơm nóng canh sốt rất ấm áp nghĩa tình.

Thưở còn lang thang, có một dạo tôi sống với một đôi vợ chồng già ở Tùng Nghĩa. Hai người không con cháu, sống trong một căn nhà gỗ ọp ẹp tận bìa rừng xa hút.

Ông trước kia, con một điền chủ ở đồng bằng Bắc bộ, theo lời bà, chỉ có mỗi một việc là ăn và chơi. Còn bà là con một vị quan đầu tỉnh ở Thanh Hóa, mẹ mất sớm, rất được cưng chiều.

Những lúc rảnh rổi bà kể, ông nhà tôi ngày trước ghen đáo để. Được bố mẹ chồng mua cho một căn phố, tôi ra đó nấu cơm tháng. Có một anh làm quan huyện còn trẻ đến ăn, thế là ông uống rượu rồi thuê xe kéo chạy quanh suốt buổi, đợi khi anh ta đến, ông bảo phu xe dừng lại trước nhà, rồi nằm gác cẳng lên mà nhìn vào. Anh quan huyện hoảng quá không đến ăn nữa và tôi cũng dẹp tiệm luôn.

Khi di cư vào nam, nhất định không chịu sống ở thành phố, bảo rằng đến đâu cũng phải bỏ giày dép ngoài cửa, mất tự do, nên mua một cái rẫy và chôn chân từ đó đến giờ.

Bà cụ hồi ấy 60, hơn ông những 6 tuổi, vẫn đẹp ngời ngời và rất mực quý phái, khi đi ăn cưới, trang điểm vào trông như người 40, nhưng ông cụ không ghen nữa, chỉ đứng ngắm vợ và cười.

Cái mối tình vừa già vừa nghèo ấy, tình không ở đầu mày cuối mắt mà là ở những bữa ăn, đúng hơn là những bữa nhậu. Gọi là nhậu, chứ thực ra chỉ có nửa góc chai rượu, nửa trái cật hay vài trái chuối già, được bà chế biến rất khéo. Ông ngồi nhậu một mình, thỉnh thoảng hát chèo và đánh trống miệng thì thùng.

Bà tôi, cũng yêu ông tôi bằng cái bánh tráng nướng, mấy miếng bánh hỏi mua về cho ông sau khi bán được cau, chuối trong vườn. Trong những đêm đông lạnh, chẳng những bà nhường cho ông tấm mền duy nhất trong nhà, mà còn đốt than ủ tro lót dưới gậm giường cho ông nằm. Khi còn sống bà thường càm ràm ông để râu nhúng vào canh và hay bỏ quên khăn ở nhà người khác khi đi chúc Tết.

Vậy thì, xem ra cái tình của những người già ở xứ mình, nhất là những người đã thuộc về người của muôn năm cũ, nó tĩnh đến nỗi tưởng chừng họ là những kẻ xa lạ, chẳng những đã không lấy le đưa nhau ra bờ sông mà cũng chưa hề thốt ra một lời nào âu yếm. Chỉ có cằn nhằn và cằn nhằn!

Không như ở Mỹ sáng ông I love you, bà me too, rồi chiều có thay đổi chút ít, bà I love you và ông me too! Ở mình mà ỏn ẻn như vậy thế nào cũng bị mắng cho “biết rồi! khổ lắm! nói mãi!”

Bồ Tùng Linh có viết một truyện với cái nhan đề tình già, rất ngồ ngộ như sau: có một ông cụ nọ chết đi chưa kịp chôn đã sống lại, hỏi sao, cụ bảo trên đường xuống âm phủ, nghĩ thương bà vợ già, sống lủi thủi với đám con cháu, thế nào chẳng bị chúng nó tiếng nặng tiếng nhẹ, buồn lắm!. Thế là đòi quỷ dẫn về và gọi vợ ra cùng chết. Cả nhà ai cũng che miệng cười, bà cụ thì mắc cỡ vì trước mặt con cháu mà lại nằm chung giường với chồng coi sao được. Nhưng thấy ông cụ nghiêm sắc mặt, đành phải nằm kế bên. Thế là xuôi tay đi luôn.

Hóa ra, cái chữ tình của người già ít nhiều đều gắn với cái chết. Sống bên nhau mà bảo là oan gia, nhưng khi một người chết đi, người còn lại mới thấm thía thế nào là cái lẻ bóng.

Thật khác xa với cái xứ Macondo ở Nam Mỹ. Có

một ông già đã 90 tuổi, ham sống đến nỗi muốn rằng, trong đêm sinh nhật thứ chín mươi của mình phải là một đêm nhớ đời với một em hãy còn trinh. Và nhà chứa đã cho ông qua đêm với một con bé mà theo lời bà chủ, là hãy còn mang tã lót. Thấy cô bé có dáng nằm của đứa bé còn nằm trong bụng mẹ, đang ngủ say vì được bà chủ cho uống hợp chất đồng với lá cây gì đó để em khỏi hoảng sợ, thế là ông không hề động đến, chỉ hát ru cho em ngủ. Sau nhiều đêm như thế, ông mới nhận ra rằng dù đã chung giường với hơn 500 người đàn bà, nhưng ông chỉ ăn bánh trả tiền chứ chưa hề biết đến tình yêu là gì. Giờ ông mới thực sự yêu em, biết ghen tuông như trai 17 và nguyện đem hết của cải và những ngày còn lại để làm cho em hạnh phúc.

Ở xứ mình mà còn sung đến thế sẽ bị mắng cho là già mất nết, hay già dịch, già dê.

Mà thôi, nói chơi vậy thôi, chứ già cúp bình thiếc như tôi mà nói tới chữ tình, nó lụp cụp giống như nhai bắp rang vậy.

KHUẤT ĐẨU

10/2019

 

Advertisement

MỘT MÌNH QUA PHỐ

 

Bốn chữ này tôi mượn của Trịnh Công Sơn, không phải để âm thầm nhớ nhớ tên em nào, mà để nhớ lại một thời để yêu và một thời để chết.

Đó là thời của những năm sáu mươi, bảy mươi, thời của hai mươi năm nội chiến từng ngày, thời mà nằm ngủ trên giường, ngồi quán cà phê hay đi xe đò cũng chết huống gì ra mặt trận.

Thời đó, những người con trai mới lớn, vừa bước chân vào đời đã phải đối diện với cái chết, thì tổ quốc, tương lai…chỉ là những tên gọi mơ hồ, tuyệt vọng… chỉ có em, chỉ có tình yêu dù đơn phương, mới là tất cả.

Em là chút mầm xanh của cây đời đang gãy đổ. Em là đóa hoa súng trên mặt hồ lạnh lẽo. Em mong manh, nhưng quý hóa biết chừng nào.

Thì đúng là may mà có em, cuộc đời mới dễ thương, nếu không, Vũ Hữu Định trên đường ra biên giới khác nào tử tội ra pháp trường.

 

 

Một mình, đương nhiên là chỉ một người. Nhưng không phải một mình trên đường lớn rất triết của Tô Thùy Yên, cũng không phải một mình đứng giữa quãng chơ vơ  rất cô đơn của Trần Tế Xương. Lại càng không phải một mình mình một bơ thờ vịn cây cây ngã vịn bờ bờ xiu rất tuyệt vọng như trong ca dao.

Một mình qua phố, tuy mình ên, nhưng rất xôn xao vì còn có tên ai đó để nhớ, còn có ai tan trường về để lầm lũi bước theo sau.

Một mình có thể là anh học trò nghèo bụng lép kẹp nhưng hồn đầy mộng mơ, có thể là nhà tu dù đã tu qua chín kiếp nhưng vẫn chưa rũ hết mùi tục lụy, cũng có thể là một cô học trò lãng mạn đang fall in love viết nên bài thơ này:

Tôi đi trên đường nắng
Thương những buổi trưa vàng
Những bờ hoang xa vắng
Đôi tâm hồn lang thang

Kiếm tìm trên lối ngõ
Bàn chân yêu thương qua
Nhà ai in ngói đỏ
Trời xanh ôm mái nhà*

 

Chữ phố, đứng một mình, không có thành, không có khu  phía trước, cũng không có vắngxa phía sau, rất trơ trọi, nhưng có thế phố mới trở nên thân quen ấm áp. Phố bỗng trở thành một người bạn cùng bước song hành để cho ta rù rì tâm sự.

Mặc dù xe ngựa ồn ào, kẻ đi người lại bon chen, ta vẫn thấy phố thật vắng, thật yên, phố vẫn đi theo ta lặng lẽ như bóng với hình.

Kìa là những cột đèn, những ban công, những mái lầu, rồi tháp chuông và trên cao là mây trắng…

Phố có mùi hương, có thể là của hoa dã quỳ vàng rực, có thể là của hoa ngọc lan đài các, hay hoa sữa nồng nàn, và nếu trời đang mưa, ta có thể nghe ra mùi của hương nước mưa mát lạnh.

Vì đi chỉ để mà đi, cần gì phải ngang qua những con phố sang trọng với cửa hiệu sáng choang, hàng hiệu đắt tiền hay những ba những bảy xập xình…

Thế rồi, trên những con phố nghèo, bỗng dưng dưới một mái hiên hay một khung cửa nào đó, e ấp một mái tóc nghiêng nghiêng, mộng mơ một đôi mắt đuôi dài, thì dù lộn xộn, dù nhếch nhác đến đâu, ta vẫn thấy con phố bỗng trở nên giàu có sang trọng và sao mà nó lại sạch sẽ thơm tho đến như vậy.

Từ đây con phố có linh hồn, và ta bỗng trở nên chàng thi sĩ có thể làm thơ dù là thơ con cóc.

Vậy đó, cứ thế lửng thửng mà đi, vô tình mà bước, không cứ gì phải tìm ai, gặp ai, cứ đi như sông là phải chảy, mây là phải bay và mưa là phải rơi xuống.

 

Cái thời mới lớn của tôi đó, nó nhà quê, nó cả ngố làm sao! Nhưng dù đã xa thật xa, tận cùng trong quá khứ nhạt mờ, tôi vẫn thấy cậu ta bước đi chân không hề mỏi, mắt nhìn đâu đâu, tưởng chừng như đang lạc bước vào chốn thần tiên. Và khi trông thấy con gái bay nhiều quá, những cánh tay mềm như cánh chim**, cậu tưởng chừng cũng sắp bay lên. Ôi chao cậu muốn được ôm tất cả vào lòng chứ không chỉ  một riêng ai.

Tham lam quá phải không, nhưng có như vậy mới đáng để cậu ta một mình qua phố chứ.

 26/9/2019

Khuất Đẩu

* thơ của Nguyễn thị Hoàng

** thơ của Hoàng Trúc Ly

NHỮNG CHIẾC LÁ

 

Nhà viết kịch Lữ Kiều, từng có lần muốn viết một vở kịch không lời. Bối cảnh chỉ có một chiếc ghế dài.

Màn một: Có hai đứa bé, một trai và một gái ngồi trên ghế, phía sau là những khóm cây xanh non. Âm nhạc trẻ trung, tươi vui.

Màn hai: Một chàng trai, một cô gái, cùng ngồi trên ghế, những khóm cây bắt đầu lớn lên, ra hoa. Rất nhiều hoa. Âm thanh có thêm, tiếng trống, tiếng kèn.

Màn ba: Chàng và nàng đã là hai người đàn ông và đàn bà. Âm thanh nỉ non réo rắt bỡi tiếng violon. Những khóm cây trĩu quả.

Màn bốn: Một ông già, một bà già. Vài chiếc lá rơi. Rồi lá đổ muôn trùng. Lá phủ kín cả người họ, ngập tràn cả sân khấu trong tiếng nhạc trầm buồn của contre bass.

Vở kịch nếu được trình diễn, có thể coi như nghệ thuật sắp đặt và tên của nó là cuộc đời.

 

Cũng có một câu chuyện về những chai rượu như thế này:

Một nhóm bạn ở Mỹ trong thế chiến thứ hai, trước khi ra mặt trận, hẹn nhau ngày trở về sẽ gặp nhau một ngày nào đó, ở một nơi cũng nào đó, mỗi người nhớ mang theo một chai rượu để uống mừng.

Chiến tranh chấm dứt. Rất may là hãy còn đủ cả và không một ai bị thương. Họ gặp nhau rất vui, uống hết những chai rượu đã được mang tới.

Năm sau và nhiều năm sau nữa, họ vẫn gặp nhau, có cả vợ con, cùng uống mừng được sống thêm một tuổi.

Rồi có người chết, những chai rượu cứ ít dần đi. Sau còn hai, cuối cùng chỉ còn một. Người chủ của chai rượu buồn quá, không uống nổi. Ông ta dặn con, khi ông chết hãy mang chai rượu chôn theo ông.

Cũng vẫn là cuộc đời, vẫn là nghệ thuật sắp đặt, nhưng người nghệ sĩ dấu mặt kia chính là tạo hóa.

 

Những năm gần đây, bạn bè như những chiếc lá cứ rơi rụng dần. Cái chết của họ dù có tiếng khóc của vợ con, cũng chỉ gây nên một tiếng động rất khẽ như khi lá rơi chạm đất.

Cho dù nhạc sĩ Trịnh Công Sơn được đưa tiễn đông đến hàng vạn người, hay cả ngàn người lặng lẽ đứng chào theo kiểu nhà binh nhạc sĩ đại tá Nguyễn Văn Đông, thì đối với cuộc tồn sinh cũng chẳng hơn gì nhạc sĩ Trúc Phương, chết trong đói nghèo và quên lãng.

Buồn là buồn cho những chiếc lá cứ rơi rụng dần, cho những chai rượu cứ ít dần đi. Nếu sau một trận chiến khốc liệt, chỉ còn một mình mình sống sót, thì đó là cái may hiếm có. Nhưng trong cuộc tồn sinh, nếu là chiếc lá cuối cùng, hay chai rượu cuối cùng, thì không còn nỗi buồn nào buồn hơn.

Vậy nên, giả sử 20 năm nữa mà vẫn còn sống, trong khi bạn bè đã về nước Chúa ráo trọi, thì dù cho chế độ này có tiêu tùng, cũng đâu có gì vui. Đâu có còn ai nữa để mà nâng ly chúc mừng. Một ly mình mà nhiều ly không thì uống để lam gì!

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, người viết rất hay về tuổi gió heo may, về già sao cho sướng, một hôm bàng hoàng nhận ra giờ mọi sự sao trở nên nhạt nhẽo, rồi lẩn thẩn tự hỏi xếp lại cái kệ sách này để làm gì, lục tìm những bức thư cũ, những bức ảnh cũ, cũng để làm gì? Suốt ngày ba tiếng để làm gì cứ gõ đều như tiếng kêu tích tắc của đồng hồ. Để làm gì?! Để làm gì?!

Thế, có nghĩa là đã tới lúc hết muốn sống nữa rồi, mới đó mà đã thấy mình đứng bên bờ huyệt chênh vênh. Cho nên nhiều người bảo sao mà muốn chết quá, là nói thiệt chứ không phải nói chơi.

Thế nhưng cắc cớ bảo những người muốn chết đó, thôi thì một hai ba chúng ta cùng chết, ai cũng bảo để coi lại đã, tưởng đã thu xếp xong xuôi từ lâu rồi mà hình như vẫn chưa, có vẻ như đâu đó còn có tiếng nức nở, ông ơi (hay bà ơi), ông chết đi thì tôi biết sống với ai!

Rắc rối là vậy đó. Con người có thể ví như chiếc lá, nhưng chết không như lá. Lá đổ muôn chiều nhưng con người thì xin đừng rơi rụng cùng một lúc.

 

27/8/2019

Khuất Đẩu

Khuất Đẩu: NGHĨ VẨN VƠ, CUỐI ĐỜI (bài 2) – Quê ngoại của các con tôi

 

 

Tôi không đủ đức tính ngang tàng và bạo mồm bạo miệng như nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn, để có thể tặng vợ bốn câu thơ trời ơi đất hỡi như thế này:

Ta vốn ghét đàn bà như ghét cứt

Nhưng vì sao ta lại yêu em?

Ôi mắt em nhìn như là bẫy chuột

Ta quàng xiên nên đã sa chân.

Tôi cũng sa chân nơi quê ngoại của các con tôi, nhưng không phải vì mắt em nhìn như là bẫy chuột, mà vì nơi đây có những hàng cau rất giống với quê nhà và vì lỡ kẹt không chịu trình diện quân dịch nên không thể rút chân đi đâu được.

Ở quê tôi không hiểu cái nước uống nó thế nào mà khi nói ai cũng ngửa cổ lên như khướu hót, cứ “dẩy na? dẩy na?”. Còn ở đây thì cổ như mắc nghẹn giống nhái kêu, các từ chứa âm a đều biến thành e, rằng đừng có nói léo, hãy đưa teo tờ béo!

Tuy nhiên ngẫu nhĩ trùng phùng cũng có được cái may, miền đất này rất thái hòa nên được gọi là Ninh Hòa, Khánh Hòa. Nhà thơ Quách Tấn còn gọi một cách rất thơm tho là xứ trầm hương.

Đúng là rừng núi ở xứ này từng có một thời lừng danh vì có rất nhiều trầm kỳ.

Có một loại cây tên cây  chỉ mọc ở rừng sâu, khi bị gió bão làm cho cành cội tơi bời, liền tiết ra một chất nhựa quý có vị cay cay đăng đắng, chữa bệnh hay một cách thần kỳ, nhất là đau bụng gió, nên được gọi là kỳ nam. Ngoài kỳ, còn có trầm, tuy không chữa được bệnh, nhưng đốt rất thơm. Cụ Nguyễn Du viết “đốt lò hương ấy so tơ phím này”, là đốt trầm.

Xưa, các cụ thường xông trầm khi đọc sách, thưởng trăng. Trung thu còn có thêm hương hoa cúc và hương mạch nha, lễ mễ công phu như trong Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân.

Những người đi tìm hương liệu cực kỳ quý hiếm ấy trong rừng sâu gọi là đi điệu. Điệu là phải mang tất cả đồ đoàng trên lưng như các bà mẹ Ra đê địu con, chứ không phải ăn chơi sành điệu. Họ là những người nghèo thường đi từng nhóm từ 3 đến 5 người, lặn lội trong rừng sâu núi cao cả tháng mới về.

Không phải người nào cũng trúng, tức là được ông bà thương cho gặp cây dó có kỳ. Thường là chỉ mót được chút ít của những người gặp may để sót lại. Có người đi cả đời vẫn chưa một lần gặp được. Rồi thương tật, rồi bệnh chống nước từ núi rừng mang về, kiếm được bao nhiêu trầm đều phải đổ ra mua thuốc, nghèo lại hoàn nghèo. “Ăn của rừng, rưng rưng nước mắt” là vì vậy

Xưa nhiều người đi lạc, đồn rằng để sống sót trong rừng phải ăn thịt sống, nên hóa thành …cọp! Tiếng đồn “cọp Khánh Hòa, ma Bình Thuận” biết đâu là từ những câu chuyện huyền hoặc như thế.

Có thể nói, đi tìm trầm không khác gì đi tìm cái chết, vì phải đối mặt với biết bao gian khổ, chết chóc. Ngoài việc tin vào “ông bà”, tin vào ở hiền gặp lành, còn phải tin vào bùa ngải, nên mới có thành ngữ ngậm ngải tìm trầm.

Nhưng đó là chuyện trước đây, giờ ít ai chịu khổ làm nghề đi điệu nữa. Một phần vì bao nhiêu cây dó, có kỳ hay không cũng bị chặt phá, đào cả gốc rễ, nên đi cả năm cũng chưa chắc “trúng”. Và phần lớn vì các tay đầu nậu vừa ăn trên đầu trên cổ họ, vừa ăn gian nói dối với người mua, đem chút ít kỳ thiệt đun ra nước rồi ngâm với gốc cây duối giả làm kỳ, hay nhét đinh nhét chì vào cho nặng cân. Các tay buôn kỳ từ Hồng Kông, Ả rập vì thế đều no no chạy dài.

Khánh Hòa chẳng những có rừng sâu mà còn có núi cao. Trên đỉnh nam Trường Sơn thường lẫn trong mây mờ, có hai tảng đá khổng lồ, nhìn xa trông giống như hai mẹ con đang đứng nhìn ra biển nên được gọi là đá Vọng Phu. Nhạc sĩ Lê Thương trong một lần đi ngang qua Khánh Hòa, trông thấy , đã đem xúc cảm từ Chinh phụ ngâm mà sáng tác nên trường ca hòn Vọng Phu bất hủ.

Trong số các con tôi có một đứa bảo với mẹ rằng, mỗi lần về quê nhìn thấy núi Vọng Phu con đều muốn khóc. Tiếc rằng cu cậu không có chút năng khiếu nào về âm nhạc và thơ thì bảo rằng làm cho lắm cũng chỉ nổi tiếng được vài câu mà thôi.

Nơi đây còn nổi tiếng với tháp Bà linh hiển ở Nha Trang. Tháp nằm bên bờ sông Cái, ngó xuống cầu Xóm Bóng và nhìn ra biển Đông sóng vỗ. Xưa, dân Chiêm rất giỏi nghề đi biển, sau khi vượt trùng khơi trở về, từ xa nhìn thấy ngọn tháp, là biết đã về đến quê hương.

Cũng giống như ở Bình Định, tháp là của người Hời. Khi chúa Nguyễn vượt qua ranh giới tại núi Đá Bia do Lê Thánh Tôn áp đặt, để dần dần chiếm trọn đất nước Chiêm, thì tháp Bà biến thành tháp của người Việt, thờ mẫu đọc theo giọng Việt là Thiên Y A Na.

Khi tôn tạo, để ra vẻ Hời, người ta xây thêm một cổng chào khum khum bằng gạch mộc, chẳng ra Hồi mà cũng chẳng phải Phật, trông rất nhếch nhác dị hợm.

Tượng của Po Anagar bằng trầm hương bị Pháp lấy mất đầu được thay bằng xi măng sơn phết lòe loẹt, mặc áo đội mũ như đồng bóng ngồi giữa khói hương mù mịt cho khách thập phương, phần lớn là vợ các quan to đương chức, xì xụp bái lạy xin giữ được ghế càng lâu càng tốt. Bên ngoài, một đám gái nõn nường phấn son diêm dúa giả Chiêm nữ uốn éo múa may, trong tiếng  trống mẹ trống con lum tum lắc cắc và phèn la não bạt tùng xèng…

Bảo rằng đấy là văn hóa truyền thống ngàn xưa, thì truyền thống ba rọi này đâu phải của người Chiêm!

Những dân Hời sống sót sau cuộc bại trận ở Đồ Bàn, chạy dạt vào miền đất sau núi Đá Bia ở Phú Yên, một lần nữa lại bị các đời chúa Nguyễn và nhất là vua Minh Mạng tận diệt, ai nộp được nhiều đầu lâu là được thăng cấp, nên có từ thủ cấp nghe rất rùng rợn

Giờ, chỉ còn co cụm một dúm tại các vùng đất đai khô cằn ở Phan Rang, sống còm cõi với những con dê và cừu ốm đói, không tìm ra cỏ phải ăn cả gai bàn chải. Thử hỏi có ai trong số họ đủ tiền và đủ quyền để được bước vào ngôi tháp của tổ tiên?

Càng nghĩ tôi càng thấy, những kẻ cầm quyền hiện giờ còn ác hơn cả vua chúa ngày xưa. Họ trâng tráo đến nỗi coi việc cướp đất như chuyện đã rồi, không cướp không được, và giả dối gọi dân tộc Hời là dân tộc anh em, như cách nhà họ Tập gọi Việt Nam là nước anh em. Thà gọi đích danh là dân tộc ít người còn dễ nghe hơn.

Vậy nên, nào có mong chi một lời xin lỗi!

Nhiều người bảo, đất Khánh Hòa như một nước Việt Nam thu nhỏ. Rất giàu và đẹp. Có rừng nhiều gỗ quý, có biển nhiều cá tôm, có ruộng lúa mênh mang, mà người dân lại hiền hòa. Dưới con mắt các nhà quân sự, còn có cảng Cam Ranh vừa sâu, vừa kín gió, mà Nga Mỹ và cả Trung Nhật đều thòm thèm. Về kinh tế, vịnh Văn Phong là nơi rất béo bở để xây dựng khu chế xuất, cho thuê đất lấy vàng.

Nếu không có cuộc xuống đường gần như cả nước ngày mồng 10 tháng sáu năm ngoái, thì mấy trăm vị dân biểu đã bấm nút ô kê rồi và nhiều tay cò đất đã trở thành đại tỷ phú!

Bãi biển Nha Trang và Dốc Lết, cát trắng và mịn, đi bên nhau dưới bóng dừa thật nên thơ. Giờ thì từng đoàn xe to kềnh và dài ngoằng từ Trung Quốc chạy sang, đổ xuống bãi biển hàng ngàn kẻ giàu mà chưa sang, có 6000 năm văn hiến nhưng thiếu văn hóa, quần cộc bụng mỡ nị nị ngộ ngộ ồn ào như cả một bầy chim cánh cụt.

Ai cũng kêu trời, chỉ có một nữ văn nhân xa xứ đến hơn 50 năm, về nước khen Việt Nam mình rất khôn ngoan biết cách moi tiền từ túi anh nhà giàu. Rằng, các em từ đây không phải xuống ruộng bị đỉa cắn, rằng ngày làm hai job trong nhà hàng máy lạnh mát mẻ, rằng Hoàng Sa, Trường Sa, giờ thêm bãi Tư Chính có bị lấy mất cũng được thôi, vì miếng ngon nằm phơi ra như thế ai mà chẳng thèm.

Còn có kẻ, chắc như đinh đóng cột là dư luận viên, thì tin những gì nị nói chứ không tin những gì nị làm, bảo rằng chỗ nào có Quảng là của ngộ lớ. Đã có Quảng Đông, Quảng Tây, thì Quảng Yên, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi không của nị thì là của ai. Cũng như Vũng Tàu thì đứt đuôi con nòng nọc là của Tàu rồi!

Khom lưng quỳ gối hít đàn anh như thế, thì thôi rồi, con cháu tôi chắc sẽ thành dân Hời. Và khi đó, đúng là anh em vì cả hai cùng bị mất nước!

Khuất Đẩu

 

Khuất Đẩu: NGHĨ VẨN VƠ, CUỐI ĐỜI (bài 1) – QUÊ HƯƠNG TÔI, XỨ DÂN HỜI

 

 

 

Tháp Đôi (Qui Nhơn)

Quê tôi, một miền quê thuần nông, nghèo nhưng không đến nỗi đói, nằm cạnh sông Kôn, con sông lớn nhất tỉnh Bình Định chảy qua thành Đồ Bàn với rất nhiều huyền thoại.
Từ hiên nhà nhìn ra, sáng chiều và ngay cả trong những đêm tối trời, tôi vẫn thấy tháp Bánh Ít ở trước mặt, như hai búp măng non mọc lên từ lòng đất.
Xa hơn về phía tây, vượt hẳn khỏi những lũy tre ở quê ngoại, là tháp Cánh Tiên rực vàng trong nắng sớm và đỏ thắm trong những buổi chiều tà.
Bên kia sông, cái bóng đồ sộ của một ngọn tháp không rõ tên ở xã Nhơn Thành lại in xuống nước rực rỡ như một khối ngọc khổng lồ.
Và khi đi vào cửa ngõ thành phố Qui Nhơn, lúc nào tôi cũng có cảm giác tháp Đôi như hai anh em song sinh dễ thương đang đứng đón chào.
Như vậy, bốn mặt đông tây nam bắc ở quê tôi đều có tháp. Tháp thờ những ai không biết vì trong lòng tháp trống không chỉ có những mảnh gạch vỡ và những con dơi bay lượn. Nhưng trong cảnh điêu tàn hiu hắt ấy nó vẫn không mất đi cái vẻ thiêng liêng rất hùng vĩ.
Những ngọn tháp đều xây trên những ngọn đồi thấp nhỏ, thuở ấy hãy còn hoang sơ lắm. Nhìn từ xa, trông giống như bầu vú của một người mẹ đang nằm mà tháp là cái núm be bé xinh xinh cho các con bú mớm.
Sự liên tượng ấy càng làm cho những ngọn tháp trở nên thân mật, gần gũi chứ không bí hiểm xa lạ.
Có vẻ như người xưa chung sức chung lòng, xây tháp là để ngợi ca cuộc sống bất diệt, chứ không phải vì sự bất tử của các pharaon như kim tự tháp ở Ai Cập.
Họ đổ mồ hôi, nhưng không đổ máu. Họ ca hát và nhảy múa sau khi hoàn thành chứ không khóc than rên rỉ dưới đòn roi.
Những ngọn tháp vì vậy hãy còn vươn lên mạnh mẽ dưới trời xanh, dù rằng những chủ nhân thật sự đã phiêu tán tận đâu đâu.
Dù là nơi chôn nhau cắt rốn, nhưng tôi chỉ thấy ngậm ngùi chứ không dám tự hào. Vì những ngọn tháp đó là của dân Hời, đâu phải của ông cha tổ tiên tôi.
Cũng như tháp Eiffel là của người Pháp, tháp Big Ben là của người Anh, tượng Nữ thần Tự Do là của người Mỹ…Những di dân bất đắc dĩ người Việt cho dù nhận những nơi ấy làm quê hương thứ hai, cũng không thể và không nên tự hào. Con cháu họ 500 năm sau chắc vẫn còn thao thức tự hỏi quê hương đích thực của mình ở đâu?
Lần theo vết xe của lịch sử, tôi kinh hoàng nhận ra kinh thành Đồ Bàn, cách đây trên 500 năm, (1471) đã bị vua Lê Thánh Tôn cho quân lính san bằng, để lại ba mươi vạn thủ cấp và bắt đem đi hai mươi vạn nô lệ.
Có thể các nhà viết sử thời ấy đã thêm thắt thổi phồng để làm vừa lòng nhà vua. Nhưng dù thế nào, cũng đến non một nửa dân Hời bị bắt và bị giết. Vị vua được coi là anh minh nhất hóa ra là một kẻ xâm lược tàn bạo.
Sau cuộc chinh phạt, về nước vua liền xá tội cho các tù nhân bị án tử, đưa họ vào đất Đồ Bàn đầy những con ma không đầu, coi như tha chết nhưng lại bị lưu đày biệt xứ. Họ rất có thể là ông cha tổ tiên xa xôi của tôi.
Hình ảnh những thân người gầy còm, cổ mang gông chân mang xiềng, kết lại thành từng chùm, lê lết qua đèo qua phá, nhiều đêm lướt qua tâm trí tôi như những oan hồn trong thập loại chúng sinh của thi hào Nguyễn Du.
Cũng có thể, ông cha tổ tiên tôi là những dân nghèo từ các ruộng đồng chiêm trũng, từ những vùng sơn cước hay từ những miền nắng gió bão bùng ở châu Hoan châu Ái, bị vua quan ép buộc phải rời bỏ quê hương để vào nam khai phá vùng đất vừa mới chiếm được.
Họ cũng giống như những cư dân ở các thành phố miền nam bị chính quyền CS đưa đến các vùng rừng thiêng nước độc với mỹ danh rất kêu là đi kinh tế mới.
Số phận của ông cha tổ tiên tôi phải nói là cực cùng bi thảm. Không kể chết đường chết sá, chết bờ chết bụi, chết sông chết biển, nếu đem được tấm thân tàn tới được Đồ Bàn còn tanh mùi máu, thì còn phải chết vì đói, vì bị dân Hời nửa đêm mò tới cắt cổ để trả thù.
Trong số hàng vạn những con người cùng khổ ấy may ra chỉ còn sống sót được vài ngàn người.
Suốt ngày, dưới cái nắng cháy da cháy thịt hay trong cái lạnh thấu xương họ phải chôn lấp những xác chết đang thối rữa, thu nhặt những xương trắng phơi đầy đồng, rồi từ đó làm ra hạt lúa củ khoai, sống còm cõi trong nỗi nhớ quê da diết.
Đồ Bàn xưa cũng như Sài Gòn nay, một khi đổi chủ là bị thay tên đổi họ. Đã không còn là Chà Bàn của Chế Bồng Nga mà là Quy Nhơn biên trấn xa xôi của dòng họ nhà Lê, rồi của chúa Trịnh*.
Nhờ Trạng Trình mách bảo, Nguyễn Hoàng đã xin vào Hoành sơn, trở thành chúa Nguyễn chia đôi bờ cõi bắc nam. Được các hậu duệ chiêu dụ, các nhân tài miền bắc lần lượt trốn vào nam, biến Quy Nhơn trở thành nơi đất lành chim đậu. Trong số đó có Đào Duy Từ người đã xây lũy Thầy và lũy Trường Dục bên bờ sông Gianh và Hồ Phi Phúc lập nghiệp ở Tây Sơn thượng đạo, sản sinh ra Tây Sơn tam kiệt.
Khi đại binh của vua Quang Trung tiến ra đất Bắc, chắc thế nào cũng có cháu con của những người tù biệt xứ . Dù đã trải qua bao đời, nhưng cái giấc mộng về thăm cố hương cũng vẫn còn, nếu không muốn nói là cháy bỏng hơn bao giờ. Có lẽ nhờ vậy mà cuộc hành quân trở nên thần tốc: chỉ mới 5 ngày mà đã vào đến Thăng Long. Được bước đi trên đất cố đô giữa lúc máu quân thù chảy thành sông, xác thù chất thành gò, trong khí xuân thơm mùi thuốc súng, là cả một thoáng huy hoàng của họ.
Tôi nói một thoáng, vì sau đó Tây sơn sụp đổ, đất Qui nhơn lại máu chảy đầu rơi còn hơn cả lúc vua Lê chiếm được Đồ Bàn.
Thành Quy Nhơn lại bị đổi tên thành Bình Định và ấp Tây Sơn của Nguyễn Huệ bị đốt phá san bằng, chỉ sót lại một cây me con nay đã trở thành cổ thụ.
Nguyễn Ánh và triều Nguyễn sau đó đã tiến hành một cuộc trả thù tàn khốc và dai dẳng. Ngoài việc truy lùng những danh tướng như Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân và tất cả những ai cầm giáo theo Tây Sơn, còn cấm tiệt không được ai nhắc nhở đến họ.
Mãi 200 năm sau, bà tôi vẫn phải sợ hết hồn khi đứa cháu nhỏ là tôi, lúc học bài sử đã “rống” lên thật to: vua Quang Trung Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh…
“Gọi là ngụy chớ sao dám gọi là vua”, bà tôi khẽ khàng dặn cháu.
Cái từ “ngụy” đầy hận thù và khinh miệt ấy sau này được bên thắng cuộc tròng lên đầu lên cổ bên thua cuộc, xuất phát là từ đó.
Khi tôi được sinh ra và lớn lên, cái nỗi đau nhớ quê của tổ tiên cũng đã phai mờ dần. Và dân Hời cũng không còn một người nào sinh sống ở đất Đồ Bàn nữa. Nhưng cái tiếng Hời vẫn không mất đi. Nào hời hời khi mẹ ru con, nào ma Hời, mả Hời, vàng Hời, giếng Hời…
Tuy chưa hề trông thấy những con ma Hời sờ soạn dắt nhau đi như Chế Lan Viên đã thấy, nhưng tuổi thơ tôi vẫn luôn ám ảnh về bóng dáng của dân Hời. Tôi như thấy họ đang đóng gạch xây tháp, xuống sông lấy nước đi thành hàng dài, và mỗi lần soi mặt xuống giếng vuông của họ, tôi đều giật mình tưởng chừng như họ đang trốn núp đâu dưới đó…
Một đôi khi, có một vài người da nâu thẫm, mặc toàn đồ trắng, quấn khăn trắng đến các phiên chợ ngồi bán thuốc làm bằng rễ cây. Họ cười nói chào mời, nhưng trong đôi mắt họ vẫn chất chứa một nỗi buồn sâu thẳm, nỗi buồn của những kẻ đã bị cướp mất quê hương.
Không ai viết lại được lịch sử, có nghĩa rằng, không ai có thể thay vua Lê trả lại thành Đồ Bàn cho họ. Nhưng sao không ai dám, như chính phủ New Zealand và Australia có một lời xin lỗi chân thành với thổ dân, vì ông cha họ đã tàn sát và xâm chiếm đất đai bạt ngàn của người bản xứ.
Chẳng những chúng ta nợ họ một lời xin lỗi, mà còn chịu ơn họ đời đời.
Chịu ơn những ngọn tháp, những tượng Chàm. Chịu ơn những những nỗi buồn và cả những nỗi nhục.
Để không bị như họ, chúng ta phải rút ra bài học mạnh mẽ hơn.
Rằng, đừng khóc cho quê hương, mà phải đứng dậy.
Lúc này, khi bọn Tàu phù đang lăm le xâm chiếm vùng trời vùng biển nước ta, ai có súng thì dùng súng, ai có dao thì dùng dao. Ai không có gì hết thì xuống đường và già như tôi, thì dùng bút.

Khuất Đẩu
5/9/2019

*Thành phố Qui Nhơn hiện giờ nằm cách thành cũ Đồ Bàn khoảng hơn 20km.

KẺ LẠ

1.
Bỏ chiếc khung xe đạp chưa sơn xuống thềm nhà, anh ôm con búp bê bằng nhựa, ngồi chờ. Đây là con búp bê anh mua được với một cái giá gần như cho không trên đường phố Sài Gòn sau ngày Miền Nam giải phóng. Đương nhiên nó không đẹp như búp bê của Nga, nhưng vẫn đẹp hơn những búp bê bằng gỗ hay đất sét ở Hà Nội. Chân tay nó hồng hào, mũm mĩm, mà mắt lại biết nhắm biết mở nữa. Để nằm là nó ngủ, để ngồi là nó thức. Nhất định con gái anh sẽ reo lên, bố ơi, bố ơi, con yêu bố lắm.
Và vợ anh, chắc chị sẽ ôm lấy anh mừng mừng tủi tủi. Chị sẽ khóc, khóc nghẹn ngào vì mừng vui chứ không phải vì lo sợ, như 5 năm trước khi tiễn anh lên đường đi B.
Năm ấy, người ta đã không cho chị khóc. Trong buổi liên hoan, chị phải tươi cười, phải hát hò, phải hô khẩu hiệu để động viên anh. Nhưng khi về đến nhà, chị đã rũ xuống như một cọng rau héo. Có bao nhiêu nước mắt là chị để nó tuôn ra hết bấy nhiêu. Cả anh cũng vậy, khóc mùi mẫn, khóc dầm dề, khóc gần như suốt đêm.
Mãi đến khi đã đeo ba lô lên vai, hai người mới nhận ra rằng, sao ngu dữ vậy, sao cứ khóc lóc than thở hoài mà không yêu nhau đi.
Thế là, cũng trên thềm nhà này, chính chỗ anh đang ngồi này, anh vật chị và chị cũng vật anh, nên cả hai cùng ngã xuống một lúc để cho những thứ cần có nhau tự tìm đến nhau. Những thứ đó không thèm dỗ dành, không cần an ủi, cũng không hứa hẹn, cứ trần trụi xông thẳng vào nhau, hùng hục cắn xé như ăn tươi nuốt sống lẫn nhau, khiến cả anh và chị cùng quằn quại, rên siết một cách hả hê đến nỗi người hàng xóm thức giấc chỉa miệng sang: “định giết nhau đấy à?!”.
Chính lần “yêu” tưởng chừng đã chạm đến gót chân của cái chết ấy mà trong những trận đánh khốc liệt nhất, anh đã sống sót một cách thần kỳ. Và cả trong những cơn sốt rét rừng bải hoải, trong những lần bị thương thịt da thối rữa dòi bò lỏm ngỏm, anh cũng vượt qua khi nhớ tới tiếng kêu đắm đuối “em chết mất anh ơi”!
Rồi chốc nữa đây, chỉ nghĩ tới thôi đã thấy sướng ran, thì hãy cứ để mặc cho con bé chơi với con búp bê nhắm mắt mở mắt, cả hai sẽ lén đưa nhau vào buồng, sẽ không dữ dội điên cuồng như buổi sáng hôm ấy, nhưng nhất định không có cuộc ăn mừng hòa bình nào thắm thiết và no say bằng.

2.
Anh chưa hút xong điếu thuốc thì chị dẫn con gái đi vào sân gạch. Ôi, đúng là con bé xinh đẹp và dễ thương làm sao! Nó xúng xính đi cạnh mẹ, miệng lí nhí hỏi nói gì kia, chắc là hỏi có phải bố về rồi, phải không mẹ? A, dường như nó đang chạy tới bên anh. Và anh rướn người lên để dang tay ra, đón bé.
Nhưng không, nó bấu chặt lấy ống quần của mẹ, rồi giấu mặt vào đó.
Nó sợ! Đúng rồi, nó chưa gặp anh lần nào, sợ là phải.
Nhưng mẹ nó, sao lại nhìn anh với cái nhìn lạnh lẽo, khó chịu như nhìn một người lạ.
Anh đang lúng túng, chưa kịp thốt lên hai tiếng “chào em”, thì đã nghe đau nhói vì những tiếng nói khô lạnh, như đá sỏi ném xuống cái mặt hồ đang nổi sóng của lòng anh.
‘Ông gì kia, sao lại ngồi trước hiên nhà tôi?”
Anh ú ớ, : tôi là …là…là sao vậy trời? anh thoáng nghĩ, vợ mình đây sao, người mà mình thường nghĩ tới cứ như Phật như tiên, sao lại có bộ mặt mắt xanh nanh vàng của một bà chằng hé?! Chắc là đùa đấy thôi, phải không nào, cũng có thể là làm mặt lạnh chứ giữa ban ngày ban mặt mà mình đè ra thì xấu hổ chết!
Nghĩ thế, anh lấy lại bình tĩnh, nói như vuốt ve, dỗ dành:
“Thôi mà em, đừng trêu anh nữa, anh đây mà!”
“ Ông là ai mà dám xưng hô anh em với tôi?”
Thế này thì không phải là đùa dai nữa rồi! Anh điên tiết phun ra:
“ Là chồng cô, rõ chưa?”
Chị cũng không vừa, nói như tạt cả một thau nước vào mặt.
“Đồ điên! Bước ra ngay khỏi nhà tôi!”
Như thế này thì trời đất đảo điên hết rồi! Anh phanh ngực ra, gào to:
“ Cô dám đuổi tôi đấy à? Đây là nhà tôi, nếu cô không còn muốn nhận tôi làm chồng thì cứ việc cút xéo đi, nhưng kia là con tôi, con gái tôi”.
Anh lao xuống thềm, giằng lấy đứa bé. Cả hai đều cố sức kéo về mình khiến đứa bé dài ngoằng ra, ngất lên ặc ặc như sắp đứt làm đôi.
Thấy vậy, người hàng xóm bước qua can ngăn. Rồi cả xóm cùng kéo tới chở che cho đứa bé. Anh phân bua:
“ Làng nước có thấy lạ lùng chưa? Tôi sinh ra ở làng này, là thằng Trần Mạnh T. này, thế mà ma xui quỷ ám khiến con mụ này bảo tôi không phải là chồng, con bé này không phải con tôi, nhà này là của cha mẹ tôi chết đi để lại cho tôi, mà dám bảo tôi không phải chủ nhà, đòi đuổi tôi ra, thế là thế nào, thưa bà con làng nước?!”
Tuôn ra cả một hơi dài những người thật việc thật tưởng sẽ được nghe mọi người cùng kêu lên: thì đúng là ông chứ còn ai vào đây nữa, không ngờ những người đứng vây quanh đều im lặng, không một ai nói ra lời nào.
Anh lại gào lên hoang dại: không phải tôi là chủ nhà này sao? Tôi đã chết đâu, tôi là người thật đây mà, tôi bị thương cùng mình nhưng vẫn sống để về với vợ con, tôi đâu phải là ma hiện hồn về, phải không?
Đúng lúc ấy, một người đàn ông rẽ vào. Ông ta quát:
“Mày là thằng chó nào mà dám bảo là chủ nhà này?”
Một tay ông thộp ngực, một tay ông co lại thành nắm đấm dí sát vào mặt anh. Mặc dù vậy, anh vẫn thoát ra được và gằn giọng:
“Tao cũng muốn hỏi mày là thằng nào mà đến đây cướp nhà, cướp vợ con tao?”
Lúc này ông hàng xóm mới lên tiếng:
“Thôi tôi xin. Dù gì, hai đồng chí cũng là bộ đội phục viên. Đồng chí Trần Mạnh T. này (chỉ người đàn ông), thì đúng là người của làng này, ở sát cạnh nhà tôi, trước khi vào Nam còn qua chào tôi thì không thể là ai khác được. Nhưng đồng chí gì đây, chắc cũng có điều chi ẩn ức, hoặc là bị thuốc độc khai hoang của Mỹ nó làm cho đầu óc không còn sáng suốt nữa, nên mới có thể nhận lầm quê quán vợ con người khác là của mình. Tôi đề nghị hãy đem nhau ra đồn công an để làm sáng tỏ mọi việc chứ không nên hầm hầm muốn giết nhau như thế này.

3.
Tại đồn, trưởng công an nói:
“Đồng chí Trần Mạnh T. cấp bực thượng úy, tình nguyện đi B ngày…tháng, tham dự hơn mười trận đánh, trong đó có trận tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân, bốn lần bị thương, được trao huy chương chiến công hạng ba, huy chương anh hùng diệt Mỹ, ngày …tháng…phục viên, được tái nhập hộ khẩu, nhận sổ mua gạo… ”.
“Đó là lý lịch của tôi, anh nói, tuy chưa được nhập hộ khẩu và nhận sổ gạo vì người lạ mặt này (chỉ người đàn ông), đã nhận vơ là tôi, chiếm đoạt tất cả”.
“Tôi không nhận vơ, rõ ràng tôi là con dân của làng này, là thừa kế của dòng họ Trần nhà tôi, là chồng của Nguyễn thị Y. vợ tôi, là cha của con gái tôi tên là Trần thị Tiểu Quyên, yêu cầu đồng chí công an, căn cứ vào hồ sơ lý lịch, giải quyết việc này một cách mau chóng, trả lại danh dự cho tôi. Đồng thời tôi cũng đề nghị điều tra làm rõ âm mưu đen tối của tên Mỹ ngụy CIA này đội lốt bộ đội ta, trước mắt làm tan rã gia đình tôi, sau đó là lót ổ cho đế quốc Mỹ trở lại lần nữa để đánh chiếm nước ta”.
“Tôi còn muốn yêu cầu nhiều hơn nữa, anh nói. Phải đối chiếu chỉ tay và thử ADN của bố và con”.
Sự việc có hai người cùng một lý lịch, cùng một màu tóc, cùng một màu mắt tranh nhau nhà cửa vợ con quả thực chưa hề xảy ra ở làng này. Chỉ có một người biết rõ ai là thật ai là giả, chính là người mẹ. Chỉ cần nghe tiếng bước chân thôi cũng đã biết ai là con của bà, nhưng tiếc thay bà mất rồi. Rối mù như thế nên công an thôn không giải quyết được phải đưa lên các cấp cao hơn.
Trong quá trình điều tra, đồng đội và các cấp chỉ huy đều xác nhận người mà tác giả đang kể chuyện, chính là Trần Mạnh T. Trong khi tại cơ sở, chính quyền và dân làng, nhất là vợ anh, lại khẳng định người đàn ông mà anh tin là ma quỷ đó, thực sự là chồng của mình.
Nhiêu đó đủ điên cái đầu rồi, mà chỉ tay hai người lại giống nhau, ADN cũng phù hợp với ADN của con gái!
Vụ án vì thế thật khó để tuyên bố ai là thật ai là giả. Dẫu có kiện lên tận Trung ương, Đảng cũng bó tay mà thôi. Hồ sơ đành phải xếp lại, Người ta không làm tội anh, nhưng cũng không thừa nhận anh.
Từ đó, anh không nhà cửa, không vợ con, không hộ khẩu, không sổ gạo, sống lang thang vất vưởng như hồn ma bóng quế.
Anh không tài nào hiểu được, bằng phù phép ma thuật nào mà một thằng lưu manh như hắn có thể làm mờ mắt cả làng nước, và vợ anh, người đã chia xương xẻ thịt cho nhau đến nỗi tưởng không còn gì để cho nhau hơn được nữa, lại có thể nhận hắn làm chồng!
Sau này, trên những dặm dài lưu lạc, bới rác kiếm thức ăn, ngủ dưới gậm cầu, anh cũng đã gặp chục hàng trăm, những người đàn ông đi xa một hôm trở về, bỗng thấy trong nhà mình có một kẻ lạ hươ lạ hoắc mà vợ mình lại âu yếm gọi là chồng, con mình lễ phép thưa là cha.
Và cũng không ít những người vợ mất chồng theo cách có một con mẹ nào đó ngang nhiên chui vào giường, làm cái chuyện ấy miên man, rồi má má con con với lũ con mình ngọt xớt.

Phải rất nhiều năm sau nữa, anh mới hiểu được rằng đây là thời của lú, của mê, thời của bọn lộn sòng lộng giả thành chân. Một thời mà nước còn có thể mất, khi có kẻ lạ cứ lăm le nhảy vào làm vua, thì chuyện anh mất cả nhà cửa, mất cả vợ con chỉ là chuyện nhỏ.
Thôi nhé, hãy tìm một chị mất chồng nào đó mà làm lại cuộc đời. Một khi cả hai đều bầm dập thì chẳng còn thằng cha con mẹ nào thèm cướp nữa đâu.

MIẾNG MO CAU

Trong những kỷ vật hiếm hoi mà cô tôi để lại, ngoài đôi bông tai màu đỏ bằng đồng, một chiếc kẹp tóc bằng bạc, những thứ trang sức dành cho một cô gái nghèo, còn có một miếng mo cau hình tam giác to bằng bàn tay, mỗi góc nhọn đều có cột sợi dây dài chừng nửa mét. Tất cả đựng trong một chiếc hộp phủ khăn nhiễu đỏ, chỉ đến ngày giỗ cô, bà tôi mới mở ra lau chùi một cách nâng niu trìu mến.
Vào cái thời mà một miếng trầu cay được đưa vào miệng thường ngày sau miếng cơm, thì cây cau cũng được coi như một loại cây thân thiết của dân quê chỉ sau cây lúa.
Nhà tôi, nhờ vườn rộng nên bà tôi trồng đến cả trăm cây cau. Khi tôi được sinh ra, chúng đã lớn lên cao vút. Những thân cau xám bạc, mảnh mai, đội trên đầu những tàu lá xanh đen, trông từ xa cứ như có hàng trăm người khách đội dù đang đi cà khêu đến thăm nhà tôi vậy.
Vườn cau đối với bà không chỉ vui mắt, phong nhã, đẹp thanh tao mà còn là một nguồn lợi đáng kể trong số thu nhập ít ỏi của gia đình.
Dù đã nhịn ăn đến nỗi cả nhà, ngay cả khi đau bệnh cũng không một ai dám động đến hạt gạo, mà lúa vẫn không đủ để đóng thuế nông nghiệp, vì ông tôi bị quy là địa chủ.
Thực ra, ruộng ông tôi chưa đến hai mẫu ta, dù công cấy và công cày phải trả đến hai mươi công. Nhờ chút danh của ông anh con người bác làm thơ lại ở huyện, mà trong một lần bầu lý trưởng, ông tôi đã được dân làng dồn phiếu cho.
Cái gốc rễ đôn lên địa chủ là từ đó.
Nhưng, nguồn cội sâu xa là từ cái đầu óc đen tối của một tay bần cố nông cốt cán. Hắn ở sau lưng nhà tôi, trong một cái lều xập xệ nhỏ như lỗ mũi. Ngoài cái rẻo đất đó ra, hắn chẳng còn có cục đất nào nữa để ném chó ỉa như cách người ta mỉa mai.
Hắn sống bằng cái nghề mà ai cũng ghét nhưng chẳng dám nói ra. Người ta sợ, cũng đúng thôi, vì hắn thông thuộc hết mọi ngõ ngách của từng nhà, biết chỗ nào cất giữ của quý, biết ai nằm đâu ngủ đâu…
Dù phải tiết kiệm dầu đèn, nhưng mỗi tối bà và mẹ tôi vẫn phải thắp lên soi rọi khắp nhà, vì trong lúc chạng vạng hắn có thể lẻn vào đu người trốn dưới gậm giường, đợi cả nhà ngủ say là khoắng sạch những thứ đồ thờ và nồi chảo làm bằng đồng thau.
Ngoài ra, hắn còn có cái tật ban đêm thích lẻn vào vườn sau nhà tôi để rình xem cô tôi tắm. Cô tôi rất ghét, dù khi tắm vẫn để nguyên cả quần áo. Trong một lần thấy hắn thập thò sau bụi chuối, cô tôi đã lôi cả ông bà tổ tiên nhà hắn ra mà đổ cả xuống sông xuống biển.
Đó là lúc chưa có chính sách thuế nông nghiệp và chưa phát động cải cách ruộng đất. Khi được đảng ủy đưa vào ngồi một trong năm cái ghế chủ tịch đoàn, thì người đầu tiên mà hắn quy địa chủ chính là ông tôi.
Chuyện đó hãy nói sau, giờ xin trở lại với những cây cau của bà tôi. Dù những năm kháng chiến, chẳng còn mấy ai ăn trầu nữa, ngay cả những người già, nhưng cau khô vẫn được mua rất đắt. Người ta bảo cau có thể trị sốt rét và nhất là cầm máu khi bị thương. Ngoài cau sấy khô, bà tôi còn tướt tàu cau bó thành chổi để bán cũng khá được tiền. Mo cau kết thành gàu múc nước, cắt thành quạt mo hay đựng cơm vắt đem ra đồng, rất tiện lợi. Thế nhưng cái miếng mo cau be bé của cô tôi dùng để làm gì, hỏi thì bà chỉ mếu máo cười không nói, ra dấu bảo đi chỗ khác chơi.

Trở lại chuyện trả thù của tay bần cố nông cốt cán.
Dạo ấy là cuối năm 54. Cả làng rùng rùng trống mõ, không đêm nào là không học tập phóng tay phát động quần chúng, tố khổ địa chủ. Ông tôi và cả chục địa chủ phú nông trong làng bị đem ra cho mọi người mắng nhiếc, chửi rủa…tức là đấu lý trước khi đấu lực. Mà đấu lực là bị đánh cho dập mình dập mẩy, ngoan cố thì bị đánh cho đến chết!
Pháp đi càn, đốt nhà hãm hiếp, mổ bụng trẻ con, sợ lắm! Nhưng chưa sợ bằng những cảnh đấu lực khủng khiếp sắp diễn ra! Vì vậy, trong một đêm, ông tôi đã leo lên cây cau cao nhất, định nhảy xuống tự tử. Nhưng khi trông thấy cô tôi đứng dưới gốc gào khóc thảm thiết, ông không còn lòng dạ nào mà chết nữa, đành phải tụt xuống và cả hai cha con cùng ôm nhau ngồi khóc.
Cô tôi, người rất thuộc Kiều, đã nói với ông tôi:
“Thôi xin cha, hãy để cho con bán mình mà chuộc cha!”
Mãi một lúc, ông tôi mới hiểu ra cớ sự, hỏi:
“Bán à, nhưng bán cho ai?”
Cô tôi nói: “bán cho thằng Còn!”
“Thằng Còn nào?”
“Thằng Còn sau nhà chứ còn thằng nào nữa!”
“Thằng ăn cắp đó à?”
“Dạ!”
“Không đời nào! Thôi để cha chết phứt cho rồi! Cha chết là hết chuyện!”
“Không đâu cha! Cha chết, hãy còn mẹ và con. Nhất là con. Nó thèm muốn con từ lâu, nếu lấy được con làm vợ, chắc nó sẽ tha mạng cho cha!”
“Không được! Vậy thì cả cha và con cùng chết, sống như thế nhục nhã lắm!”
“Không sao đâu cha, con có cách sống được mà!”
Ngay từ sáng sớm, cô tôi đã qua báo cho hắn biết cái tin không bao giờ hắn ngờ được, là sẽ lấy hắn làm chồng, thì ngay tối hôm đó, ông tôi đã không bị điệu ra đứng trước nhân dân nữa.
Và, liền hôm sau là động phòng mà không cần cưới hỏi.

Trước cái quyết định như đi vào hang cọp của cô con gái út, thay vì khóc lóc than thở, bà tôi bỗng trở nên im lặng như đất trời trước cơn bão lớn. Bà lấy một cái mo cau còn mới, gọi cô tôi vào buồng, rồi hai mẹ con rầm rì làm những gì trong đó mãi đến chiều tối mới bước ra.
Cô tôi mang theo một bọc áo quần, lặng lẽ ra sau vườn, vạch rào chui qua nhà hắn. Hồi đó chó đã bị giết sạch, nên khi thấy cô tôi bước vào, hắn giật mình kêu ớ ớ, lúng túng không biết gọi cô bằng gì.
Không đèn lồng, không pháo nổ, không đưa dâu, không đón dâu, một đời con gái mà lấy chồng trốn chui trốn nhủi như thế, ông bà tôi rất xấu hổ đau lòng. Ông thì nằm dài trên phản như chết đã ba ngày mà chưa chôn, bà thì cứ ngồi ngoáy mãi cái cối giã trầu đến nỗi làm nó thủng một lỗ mà chưa chịu đưa miếng trầu lên miệng.
Suốt đêm hôm đó hai ông bà không hề ngủ, nín thở chờ đợi mà chẳng biết chờ gì. Có thể là tiếng khóc, cũng có thể là tiếng thét, để cả hai có cớ mà ôm nhau khóc cho đứa con tội nghiệp của mình.
Mặc dù đảng ủy bảo như thế này là sai quan điểm lập trường, là không đúng với đấu tranh giai cấp, nhưng hắn bảo các nữ bần cố có ai chịu làm vợ hắn đâu!
“ Thưa thiệt với các đồng chí, hắn vừa nói vừa cười, con nít thì em biết, nhưng lớn lên thành đàn bà thì em không biết cái đó nó nằm ngang hay nằm dọc, thôi hãy nhắm mắt thông qua giùm cho. Mà nhà đó chiếu theo tiêu chuẩn thì cũng chỉ là trung nông thôi. Địa chủ là do em đẩy lên đấy!”
Vì cần một tên trơ khất có lý lịch đến bảy đời là cố nông để cơ cấu vào trong đội cải cách, nên đảng ủy cũng đành phải bớt cố chấp mà gật đầu. Một trong các vị liền vỗ vai nháy mắt, bảo sắp lên tiên rồi đấy nhé. Sướng thế!
Suốt buổi chiều hắn ngâm mình dưới sông kỳ cọ và vuốt ve cái của nợ, rủ rỉ nựng nịu: “mày sắp sướng ngất trời rồi đấy con ạ. Dài ra hơn nữa đi, to ra hơn nữa đi, cứng lên nào! Đấy, thế đấy, chưa chi đã thấy sướng điên lên rồi!”
Khi cô vợ bước vào, hắn liền đóng kín cửa, và như bọn trai làng cười cợt, chắc là hắn đè nghiến ra như hổ đói vồ mồi. Nhiều người, mặc dù sợ hắn như sợ cọp, nhưng vẫn tỏ ra bất bình và xót xa thương cảm cho cô tôi hoa nhài cắm bãi cứt trâu. Họ bảo bị Tây đen hiếp mà còn ít nhục hơn là làm vợ hắn!
Sáng ra, ai cũng tưởng vớ được con gái nhà địa chủ da trắng tóc dài, là coi như giai cấp vô sản đã chiến thắng, thế nào mặt hắn cũng câng câng, đã dễ ghét lại càng dễ ghét hơn nữa. Rồi thừa thắng xông lên, hắn sẽ đấu cho các nhà khác cũng phải nôn ra hết của cải vòng vàng, nếu muốn giữ lại chút danh tiết của vợ con.
Nhưng không, mặt hắn bỗng trở nên ỉu xìu như một miếng giẻ lau vừa mới đem nhúng nước. Thay vì vác mặt lên hiu hiu tự đắc thì hắn cụp đuôi tiu nghỉu như chó mất chủ. Đêm đấu lý hôm đó, hắn ngồi im re bỏ cả hai chân lên ghế, không còn xỉa xói hò hét, đánh đánh, giết giết như mọi đêm trước nữa.
Chẳng ai hiểu vì sao, nên khi tan buổi đấu lý, nhiều kẻ tò mò liền đi theo hắn về nhà để rình xem. Cả bọn vô cùng kinh ngạc khi thấy hắn bò xuống sàn nhà, vừa van xin vừa rên rỉ như một tên đầy tớ đang chịu tội, trong khi cô vợ nằm lặng thinh trên giường như một bà chủ uy nghiêm khó tính.
Người ta xì xào nhỏ to bàn tán. Có kẻ bảo hắn đã từng đào mồ lên lấy trộm đồ, giờ cùi tận mạng nên bị cô vợ hất xuống giường là phải lắm. Nhưng cũng có người thâm trầm hơn thì bảo, cái giống lưu manh bần tiện nó hùng hùng hổ hổ là vậy, nhưng khi đứng trước một nhan sắc trời cho lại run bắn lên. Làm bậy thì dễ chứ làm chồng một người cách xa mình cả một trời một vực đâu có dễ.
Chẳng biết đâu mà lần. Nhưng cô tôi dù đã sa chân vào hang cọp, cũng vẫn không mất đi cái cốt cách đằm thắm tự nhiên của một người đã được bà tôi dạy dỗ một cách cẩn thận. Mặc cho thằng chồng mặt lúc nào cũng nhăn như khỉ ăn ớt, cô tôi vẫn bình thản, coi như không có chuyện gì xảy ra.
Thế rồi, mấy tháng sau, xệch xạc như một manh chiếu rách, hắn thất thểu bước lên tàu Ba Lan đi tập kết ra Bắc. Cô tôi trở lại nhà, coi như vừa mãn hạn tù.
Khi chính quyền quốc gia đến tiếp thu, có một trung úy muốn ra tay nghĩa hiệp cưới cô làm vợ, nhưng cô lắc đầu từ chối. Cô tâm sự với mẹ tôi: “dù gì, em cũng đã mang tiếng chung chạ với một thằng cán bộ bẩn thỉu, thì chồng và con em nếu có sau này, cũng sẽ chỉ xấu hổ lây mà thôi. Em nhất định ở vậy, thề sẽ không lấy ai nữa!”
Cô sống đến năm ba mươi tuổi thì mất vì một căn bệnh hiểm nghèo.

Phải nhiều năm sau, trong một bữa giỗ cô, cha tôi vừa nhìn lén mẹ tôi vừa giải mã cái bí mật của miếng mo cau do cô tôi để lại.
“ Có gì khó hiểu đâu, ông nói, cô mày đeo cái miếng mo cau ấy vào, giống như cái đai trinh tiết của lính La Mã thời xưa đeo cho vợ trước khi ra trận, thằng Còn chỉ có nước ngồi khóc mà thôi! Nó héo ruột héo gan là vì thế!”
Mặc dù mẹ tôi nguýt dài tưởng chừng vung một đường dao sắc hơn cả dao cau, cha tôi vẫn đưa ly rượu lên môi, uống cạn. Xong, ông khà một tiếng, vuốt chòm râu lơ thơ một cách đắc chí, nói lớn:
“Giỏi thiệt! Chống cọng mà bản lĩnh mưu trí như bà nội và cô mày, đúng là giỏi hơn cả Mỹ!”


QUÊ NGOẠI

Thưở bé, được về ngoại là không gì thích bằng. Mà tôi lại có đến những ba nơi gọi là quê ngoại: một của tôi, một của cha và một của ông nội.
Hai tiếng quê ngoại lúc nào nghe cũng dịu ngọt, ấm áp. Và những chuyện bên ngoại nghe cứ như chuyện cổ tích.
Quê ngoại của tôi ở làng Thuận Thái, một ngôi làng bao quanh những tre là tre nằm dọc phía hạ lưu của sông Kôn, con sông chảy qua thành Đồ Bàn, nơi mà bóng dáng Huyền Trân tưởng chừng vẫn còn thấp thoáng đâu đó bên tháp Cánh Tiên.
Quê ngoại giáp ranh với quê nội, nên tôi có thể chạy một mạch từ nhà nội thẳng đến cổng nhà ngoại, chỉ chừng mười lăm phút. Bà ngoại đã mất sau khi sinh mẹ tôi, nên chỉ có ông ngoại râu trắng và dài tận ngực, ra đón cháu với một miếng đường phèn ngọt lịm.
Tôi nói có thể là sau này lớn lên, chứ lúc ấy tôi mới có bốn tuổi và mẹ tôi phải bồng, tôi mới có thể qua được con đường rẽ vào nhà tối om, đầy gai tre mục.
Nhà ông tôi nằm cạnh nhà ông nghè, là em họ của ông. Ông ấy đậu cử nhân thứ nhì nhưng không ra làm quan, nên vẫn là nhà lá mái lợp tranh, chỉ cửa ngõ xây gạch có đắp hình ông Lã Vọng ngồi câu. Ông là hình ảnh của nạn nhân đấu tố qua nhân vật cụ nghè Nhã của Những tháng năm cuồng nộ.
Làng có một ngôi chợ rất nhỏ lèo tèo vài chiếc lều chỏng chơ, gọi là chợ Rượu, nhưng dạo ấy cấm bán rượu, chỉ nhóm vào buổi sáng và là nơi bà tôi thường đem cau chuối trong vườn nhà lên bán.
Vào dịp Tết, chín cái chòi bé tí mỗi cái chỉ đủ chỗ cho một người ngồi được dựng lên giữa chợ, rồi trống kèn, hò hát, để mọi người từ khắp nơi kéo đến thử vận may. Những ông Ầm, Nọc Đượng, Sáu Cẳng, Bạch Huê …trong trò chơi đánh bài chòi ấy đã in vào đầu óc tôi từ đó. Và cũng không bất ngờ khi nó đi vào tác phẩm Lão tiền bối.
Dân làng, trong một lần đốt rác sau khi dựng chòi xong, đã bị máy bay Pháp trông thấy ném xuống một trái bom giữa chợ. Miểng văng vào tận vườn sau nhà ngoại, giết chết cô cháu gái tám tuổi con dì cùng một tuổi với tôi. Chị ấy mắt đen, da rất trắng, chẳng hiểu sao có tên là Quạ. Đến thời chống Mỹ, một trái nữa lại rơi ngay cạnh nhà, giờ hãy còn một cái hố sâu thẳm không bao giờ cạn nước.
Những ấn tượng đó ít nhiều làm mất dần cái vẻ ngọt ngào đầy yêu thương của quê ngoại, chỉ còn là những vang bóng lạnh lẽo của thương đau mà thôi.
Cái hình ảnh đẹp nhất còn để lại trong tôi, chính là bộ râu dài của ngoại. Trông nó rối rắm nhưng chưa bao giờ làm bối rối những ngón tay bé bỏng của đứa cháu nhỏ, mỗi khi nó được ông cho phép vuốt thử. Cũng may, trong những bài tập làm văn dù đã được nhồi nhét, tôi vẫn không một lần nào đem ra so sánh râu của ông với râu…Bác Hồ!

Quê ngoại thứ hai là của cha tôi. Dù đi bộ phải mất hơn nửa ngày, nhưng tôi vẫn thích theo bà về thăm trong những lần cúng giỗ hay Tết đến.
Mỗi lần như thế, tôi được dịp đi chơi xa, thoát khỏi sự dạy dỗ nghiêm khắc của con trai bà. Tôi lại được những người cháu gọi bà bằng cô chìu chuộng, cho rất nhiều quà bánh và tiền lì xì. Làng tên Lục Thuận, gần ngã ba sông có bắc một cây cầu chữ Y. Bên kia cầu là quê chồng của người chị ruột ông tôi. Ở đó, lính Đại Hàn đã dồn những người đàn ông mà bọn họ nghi là cọng sản vào trong một căn nhà, bên ngoài tưới xăng rồi châm lửa đốt. Một người cháu gọi ông bằng cậu may mắn thoát được nhờ nằm dưới một tấm vách bị ngã đổ.
Con đường đi qua làng của bà là con đường liên xã khá rộng và bằng phẳng, dạo sau này có xe ngựa, đi rất thích. Không gì vui bằng những ngày đầu năm, xúng xính trong bộ quần áo mới, giày mới, được ngồi bên cạnh bác xà ích nhìn cái bờm ngựa vàng hoe phơ phất và nghe tiếng nhạc ngựa leng keng ngọt ngào. Và càng thích hơn nữa, khi trong xe có một cô bé áo tím kiềng vàng cũng theo mẹ đi chùa hay về thăm quê ngoại. Đừng tưởng lấy cớ xe chật mà đụng tay đụng chân như bây giờ, cả hai ngồi im như pho tượng bằng đất sét, chỉ có trái tim, nếu tượng có một trái tim, là nhảy choi choi như muốn vọt ra khỏi lồng ngực. Nhưng cũng hơi buồn là chẳng có một cái liếc mắt nào dù là liếc trộm, chứ nếu có thì chắc đã nhớ nhau từ độ lâu rồi.Quê ngoại thứ ba là của ông nội tôi. Xa, rất xa, tận chân núi Chuông mây phủ, nơi có hai hòn đá một lớn một bé giống hình người mẹ đang ngồi bắt chí cho con. Từ đó phát sinh câu chuyện huyền hoặc: hòn vọng phu. Vẫn là chờ chồng hóađá, nhưng người chồng lại là người anh ruột bỏ đi sau khi biết mình phạm tội loạn luân! Câu chuyện ấy khiến quê ngoại của ông trở nên huyền bí và hấp dẫn. Tôi từng ao ước được một lần leo lên, tận mắt ngắm và tận tay sờ thử cái da thịt kia một khi đã thành đá nó như thế nào. Mãi đến năm đình chiến, ông tôi lần đầu và cũng là lần duy nhất đưa tôi về thăm quê mẹ của ông.Đứa cháu ngoại già đương nhiên không còn mong gặp ông bàngoại, cũng không mong gặp cậu mợ, chỉ mong gặp những người anh giờ cũng đã già như ông. Họ đứng mãi bên thềm, xúc động không nói lên lời. Mãi một lúc sau mới bước vào nhà. Ông tôi khoe đứa cháu trai mười bốn tuổi và họ xem mắt xemmũi tôi thật lâu như thể cố tìm trên đó một chút gì của nhà họPhạm còn lưu lại ở đứa cháu đời thứ tư. Rồi đó, hết nhà ông bác này đến nhà ông bác nọ mở tiệc đón mời. Chưa bao giờ tôi được ăn nhiều thịt như thế. Các mâm cỗ đầy ắp thịt, có cả thịt nai và heo rừng.
Trong bữa ăn, họ hỏi nói đủ thứ chuyện, nhất là chuyện cải cách ruộng đất vừa qua. Họ cũng không quên nói chuyện đi săn, chuyện cọp trả thù và chuyện bắt rết rừng trong những cơn mưa đầu mùa để làm mồi nhậu. Không ai nói chuyện hai mẹ con trên núi Chuông, không biết có phải vì quá quen thuộc hay vì đó là nơi linh thiêng có đầy âm khí.Nhà họ Phạm khá giàu, đã chia một phần gia tài cho cô em, và bà cố tôi đã đem số của cải ấy về tậu ruộng ở quê chồng. Ruộng sát vườn nhà, gọi là đám Ngõ. Lúc bé, mùa lụt tôi thường ra ngồi câu, đến mùa gặt xem thợ gặt và mùa cấy xemthợ cấy. Hình ảnh những cô thợ cấy trên đồng, tuy lam lũ, nhưng theo tôi là dịu dàng và xinh đẹp nhất. Ruộng vừa bừa xong, nước bùn lênh láng, biến thành một tấm gương thật to in cả mây trời long lanh nắng. Các cô gái mười tám đôi mươi, quần đen xắn lên quá gối, nón trắng nghiêng nghiêng, xếp thành hàng dài như những con thiên nga đen trong vở ballet Swan lake. Khi con đầu đàn dứt một câu hò là cả đám cùng cất tiếng hế hò hê nghe thật êm ái.Nhưng, giống như quê ngoại của tôi và của cha, quê ngoại của ông cũng không tránh khỏi bất hạnh do chiến tranh.Một người có cha đi tập kết, mà con lại bị Thượng cọng bắn chết trên đèo Mang Giang, khi bác ấy chạy xe đò trên đường Quy Nhơn An Khê.Một người nữa, là gái, tôi gọi bằng cô, một mình lái xe geep đưa mẹ tôi vào Ninh Hòa trước khi chạy vào Sài Gòn, đến Phan Thiết thì bị lính di tản cướp mất xe. Nghe nói cô ấy ngã xuống bất tỉnh dù không bị bắn, vì trong bánh xe secours có chứa đầy vàng! Quê ngoại buồn như thế đấy! Mà quê nội cũng không ít buồn hơn. Ông tôi đã bị bắn chết bên bờ dậu sau khi ngôi nhà đã bịđốt cháy. Thật không may, thế hệ của chúng tôi, ai cũng có một tuổi thơ ít nhiều ngậm ngùi. Ngậm ngùi hơn nữa nếu mai đây, chẳng những không còn quê nội quê ngoại, mà cả thành phố cũng trở nên xa lạ, nếu đất nước này biến thành một tỉnh của những con chó sói
phương bắc. Đi đâu, dứng đâu, ngồi đâu cũng chỉ thấy rặt một giống tàu, tàu và tàu!Thì thôi, hãy khóc lên đi hỡi quê hương yêu dấu*!

mượn tựa tiểu thuyết nổi tiếng của Alan Paton


Khuất Đẩu

Đầu năm 2019

ĐÔI KHI NẮNG LÊN

Đôi khi nắng lên làm tôi nhớ
Trịnh Công Sơn

Mưa!

Không chỉ một cơn mà nhiều cơn. Không chỉ một ngày mà nhiều ngày. Mưa gần như suốt mùa đông. Có một nhà thơ đã phải kêu lên:

Mưa chi mưa mãi
Mưa mãi mưa hoài
Lòng biết thương ai
Trăng lạnh về non không trở lại.

Đó là những cơn mưa xứ Huế, mưa dầm dề, mưa lê thê. Mưa như một người đàn bà ghen ngồi tỉ tê kể tội chồng mình suốt đêm dài không cho anh ta ngủ.Đất trời chìm trong màn mưa trắng đục, lạnh cả chiếu chăn, lạnh cả hồn.

Thế rồi bỗng dưng mây tan, và nắng lên. Ôi nắng mới ngọt và ấm làm sao. Nắng xối xả, nắng vàng tươi, nắng trên mái nhà, trên đường phố, trên bãi cỏ ven sông… nắng cũng có âm thanh trong veo như tiếng cười. Mọi người đều đổ ra đường kể cả những cụ già suốt ngày ngồi ôm lồng ấp trước ngực. Tiếng người nói, tiếng guốc khua, tiếng còi xe sau bao nhiêu ngày như mất tăm trong mưa bỗng dưng xuất hiện đông vui, rộn rã.

Nhưng cũng chỉ một ngày, có khi chỉ một vài giờ, rồi lại mưa, mưa dầm dề mưa lê thê, mưa như để bù lại cái bất chợt nắng lên.

Lại lạnh cả chiếu chăn. Và, lại lạnh cả hồn.

Nhưng, đôi khi, hay chỉ là một vài khi, như thế cũng đủ ấm lòng người. Trịnh Công Sơn hát:

Đôi khi nắng lên làm tôi nhớ

Nhớ gì nào?

Nhớ những buổi sáng đầy sương mù trên sông Hương, những con thuyền hư ảo như trôi trong mơ, những tà áo trắng của nữ sinh Đồng Khánh biến thành mây trên bến Thừa Phủ.

Và những chiều tím với bao tà áo màu tím than rất riêng của Huế, nhớ tiếng rao hàng ngọt ngào nũng nịu, đã nghe là y như rằng không thể không muốn ăn.

Nhớ sen nở trắng như tuyết quanh hồ thành nội, những mảng tường rêu xanh ở cữa Thượng Tứ, nhớ những quan văn quan võ bằng đá cung kính đứng chầu trước sân đại nội cho dù các ông vua triều Nguyễn đã đi vào thiên cổ, nhớ chợ Đông Ba trên bến dưới thuyền và cầu Trường Tiền như một nét mày cong duyên dáng của giai nhân.

Có lẽ, người ta chỉ thật sự yêu Huế khi đã đi xa. Và cũng chỉ một đôi lần nhớ Huế khi mùa mưa tới. Nhất là một đôi khi nắng lên.

Tôi chỉ ở Huế một mùa thu và nửa mùa đông. Tôi không có một chút ấn tượng nào của núi Ngự, dù rằng Bùi Giáng đã rất thực và cũng rất dí dỏm khi viết:

Thưa rằng: xứ Huế bây giờ
Hãy còn núi Ngự bên bờ sông Hương

Ngọn núi trở thành bình phong của kinh thành nhà Nguyễn ngày nào đã không còn thông reo vi vu xanh ngắt, giờ trơ trụi với mồ mả chênh vênh trồi sụt. Tôi cũng không ưa những lăng tẩm tàn phai buồn hiu hắt. Lăng Gia Long khiến tôi nhớ đến cuộc hành hình tàn bạo đối với mẹ con nữ tướng Bùi Thị Xuân, lăng Minh Mạng nhớ tới cái chết của lão thần Nguyễn văn Thành, lăng Tự Đức nhớ tới giặc Chày Vôi, còn lăng Đồng Khánh thì nửa Tây nửa Tàu rất dị hợm.

Cái còn đọng lại trong tôi ấy là, gần như các gốc cây cổ thụ trong thành nội đều có những ngôi miếu nhỏ lúc nào cũng khói hương ấm áp. Người Huế đã không quên cái đêm kinh thành thất thủ khiến mấy ngàn người chết. Và lại càng khó quên những người chết trên bãi Dâu trong trận Mậu Thân.

Tôi cũng không quên được cái rạp hát bội cũ nghèo nàn trên đường Phan Bội Châu, chỉ lèo tèo một vài chục khách mà đêm nào cũng sáng đèn hự hự ứ ư, quán thịt dê bên cạnh với những con dê chờ chết suốt đêm kêu be be như oán như than.

Và lại càng không quên những chiếc bánh nậm mỏng như chiếc lá, bánh bột lọc trong vắt như kiếng trông thấy cả con tôm nằm im bên trong, chén nước mấm ngon dầm ớt xanh vừa cay vừa thơm ngát.

Hỏi rằng có nhớ riêng cô gái Huế nào không, thì thưa rằng không dám. Nhưng bảo rằng quên thì thực khó mà quên được những chiếc nón bài thơ e ấp, nép bên trong là những mái tóc thề. Gần như các cô gái Huế chưa chồng không cô nào chịu phi dê. Các cô chỉ ra khỏi nhà khi đi học và chỉ đi bộ hay đi xe đạp tới trường rồi lặng lẽ ra về, không tụm năm tụm ba ăn quà vặt hay dung dăng dung dẻ lang thang trên đường. Cho nên cô nào cũng có vẻ tiểu thư con nhà khuê các.

Những cô gái ấy, sau này trở thành bà quận trưởng, bà đại úy lại nói rất nhiều và ghen đáo để.

Tôi có anh bạn, bảo rằng anh đã lầm cái vẻ khuê các đó trong nhiều năm và ngao ngán chịu đựng suốt cả một đời.

Mà thôi, hãy yêu Huế một đôi khi và nhớ Huế một đôi lần, để thấy mình giàu có thêm đôi chút, vậy là vui rồi.

Khuất Đẩu

Diễn từ của nhà văn Khuất Đẩu ( vắng măt)

 Chúc Mừng Nhà Văn Khuất Đẩu Nhận Được Giải Đặc Biệt Của Văn Việt Lần 3 năm 2017

Thưa các bạn

Thật vinh hạnh khi được đứng ở nơi đây trong tiết xuân mát mẻ và trong tình thân hữu ấm áp để nói một đôi lời.

Tôi có người bạn bảo cầm bút bây giờ còn nguy hiểm hơn cả Kinh Kha cầm con dao chủy thủ đi vào đất Tần bất trắc. Vì đất Tần lúc này không chỉ có một, mà có đến những hàng trăm hàng ngàn bạo chúa còn tàn bạo hơn cả Tần Thủy hoàng.

Biết vậy, nhưng tôi vẫn phải cầm lấy bút để viết về những tháng ngày mà thế hệ chúng tôi đã sống và đã chết, trong suốt cơn mê dài của lịch sử với những cuộc bắn giết kinh hoàng, những chia ly mất mát.

Tôi gọi đó là Những tháng năm cuồng nộ.

Qua cuộc đời của một đứa bé bị thả trôi sông, tôi muốn nói đến thân phận của người nông dân Việt Nam, trong gần 100 năm qua, thời nào cũng bị lợi dụng, bị phỉnh gạt, sau cùng là bị bỏ rơi trong đói nghèo và tuyệt vọng.

Nhưng họ vẫn sống, đùm bọc nhau, nương tựa nhau mà sống.

Một cô Sáubằng tình thương, một chị Thảo bằng tình yêu, hai người đàn bà một già một trẻ đã đưa nhân vật tên Được vượt qua những đoạn đường gập ghềnh khi phải lăn theo vòng quay của bánh xe lịch sử.

Nhờ vậy mà anh ta sống đến năm 2000, năm mà Chúa bảo là tận thế, để được nghe chào cha đi con như tiếng gọi từ trong mơ hay từ một cõi trời nào đưa lại.

Dù không thoát khỏi cái bóng quá lớn của lịch sử, nhưng khi viết Những đêm trắng là tôi viết về mối tình của Nguyễn Thái Học và Nguyễn Thị Giang chứ không phải lịch sử của Việt Nam Quốc Dân đảng.

Một mối tình theo tôi là bi tráng nhất của thế kỷ 20. Ở đó, ngoài tình yêu tổ quốc còn có tình đồng chí, tình chồng vợ và tình mẫu tử. Cô Giang, sau khi chứng kiến người đảng trưởng và cũng là người chồng của mình bị chặt đầu, đã có một đêm thức trắng trên cánh đồng Thổ tang với bao trăn trở: chết theo chồng cho trọn lời thề, hay cố sống để sinh con là những phút giây vật vã đau đớn còn hơn cả Hamlet thao thức “to be or not to be”.

Truyện Những con đom đóm, một người mẹ bất đắc dĩ phải làm cái nghề đáng xấu hổ, đã quyết định từ bỏ nghề để sống sao cho xứng đáng với linh hồn trong sáng của con.

Truyện Ai đã giết A.Q, một cô gái miền Tây chỉ với 500 đô đã trở thành nạn nhân của nô lệ tình dục, còn bi thảm hơn cả cô Kiều khi rơi vào tay Mã Giám Sinh.

Những nhân vật nói trên đều có một sức chịu đựng thầm lặng vô cùng bền bỉ. Họ bị đàn áp, bị đọa đày, nhưng không hề oán than số phận, cũng không cả căm thù. Họ không muốn nổi loạn, chỉ muốn tháo bỏ chiếc gông trên cổ mình chứ không muốn chặt tay kẻ đóng gông.

Nhưng không phải vì thế mà bảo rằng họ yếu hèn bạc nhược. Không có sự dũng cảm nào phi thường bằng sự chịu đựng, cũng không có sức mạnh nào đủ sức đánh bạt cái ác, cái xấu, bằng tình yêu thương.

Thưa các bạn,

Trước năm 2000, tôi chưa hề cầm bút. Và giờ tôi cầm bút nhưng chưa phải là nhà văn.

Tôi không có một hạt giống tư tưởng nào để gieo, không có một học thuyết nào để rao giảng. Tôi chỉ là một công dân bình thường và tầm thường, kể lại những điều đã thấy, đã nghe, nhưng không phải để mua vui một vài trống canh, cũng không phải để khóc than, mà để chứng tỏ một điều rằng, dù nghiệt ngã cay đắng đến đâu, tôi vẫn yêu cuộc sống này và trước khi giã từ tôi muốn được nói lời cảm ơn.

Trước hết, tôi xin cảm ơn Bà tôi mà hình ảnh của cô Sáu có nhiều nét giống bà, nhất là cách kể chuyện và tính tình nhân hậu.

Tôi cũng xin cảm ơn quê hương tôi, một làng quê nghèo gần thành Đồ Bàn với những Thủ ngữ Đực, những Khứ vừa có thật vừa không thật, là những con rối ngô nghê trong chín năm kháng chiến, thời mà người ta gọi là ấu trĩ cách mạng.

Xa hơn, rộng hơn, tôi đặc biệt cảm ơn trí tuệ vô tận của loài người, đã tạo ra một bầu trời mới lạ vô cùng rộng lớn, đó là Internet.

Nhờ có Internet, mà những kẻ cầm bút hôm nay không phải còng lưng ra thồ từng con chữ như Trần Dần, hay phải mòn tay viết văn lên đá như Phùng Quán.

Có thể nói cuộc cách mạng tin học đã hoàn toàn cởi trói cho chúng ta. Rất tự do, rất đường hoàng, như tháp Bút “tả thanh thiên”, chúng ta viết lên bầu trời ảo hàng tỷ trang viết, mà không một Tần Thủy hoàng nào, không một Hitler nào có thể dùng ngọn lửa phần thư mà thiêu hủy được.

Cho dù không được in ấn trên giấy trắng mực đen, không được nâng niu cầm trên tay, nhưng chúng ta biết những con chữ mang hơi thở của cuộc sống vẫn sáng lấp lánh trên màn hình của bạn đọc như những vì sao.

Sau cùng, tôi xin bày tỏ lòng kính phục đối với Ban Vận động Văn đoàn Độc lập, dù bị văn đoàn ồn ào cấp nhà nước cô lập hòng xóa sổ, vẫn dũng cảm và gan lì tập hợp những cây bút nhân bản trong nước và ngoài nước ngày càng đông đảo, hùng hậu.

Với cách nhìn đúng đắn và trân trọng về nền văn học miền Nam, Ban Vận động cũng đã bước đầu kết nối tình tự dân tộc để bắc cầu cho hai bờ tư tưởng Bắc Nam.

Xin gửi đến Ban Biên tập lòng biết ơn sâu đậm, trong suốt một năm qua đã tải lên Văn Việt những tác phẩm bé nhỏ của tôi để mỗi lần lên mạng, tôi đều xúc động vì biết rằng, dù viết trong cô đơn nhưng tôi không hề cô độc.

Xin cảm ơn các bạn có mặt trong buổi sáng hôm nay.

Xin chúc các bạn sức khỏe dồi dào để viết nhiều và viết hay hơn nữa.

KHUẤT ĐẨU

NGƯỜI TÌNH GIÀ

 

 

Tôi yêu văn ông trước khi yêu con người thật của ông. Chuyện đó giống như yêu một mùi hương lạ trước khi biết được nó từ đâu tới.
Trong khi ông thai nghén và sản sinh ra tác phẩm đầu tay của mình, thì ở một nơi cách xa trên bốn trăm cây số cũng có một người đàn bà đang hoài thai đứa con gái đầu lòng. Mẹ tôi khi đó yêu những tác phẩm tinh thần của ông, đâu biết rằng 40 năm sau ông lại yêu tác phẩm bằng xương bằng thịt của bà.
Có một truyện ngắn của ông được bà cứ tấm tắc khen hoài. Truyện kể một người đàn bà sống đến 80 tuổi mà không được ai yêu, mãi đến khi chết mới có một người bạn cũ đến khóc và than rằng, “tôi yêu em mà em đâu có hay”! Truyện đó cứ ám ảnh tôi mãi, biết đâu cũng có thể, chính là truyện của đời mình!
Tôi sinh ra và lớn lên bên bờ biển đầy cát trắng. Từng đêm tôi nghe tiếng sóng vỗ miên man. Và, cũng miên man từng ngày, tôi nghĩ đến những con sóng của cuộc đời. Sóng cứ ngày đêm xô mãi như thế, thì thứ gì dù cứng đến mấy rồi cũng sẽ vỡ tan. Bao nhiêu cát trắng xóa kia phải chăng là những mảnh vỡ của cuộc đời?
Có lẽ vì thế mà tôi trầm ngâm ít nói. Dưới cái nhìn của mọi người tôi có vẻ xa cách, lạc lõng. Ngay từ khi còn bé, tôi đã không chơi trò chơi của những đứa cùng tuổi. Lớn lên, trong khi bọn họ chuyền tay nhau thơ văn của các nhà văn thời thượng, thì tôi âm thầm đọc hết những tác phẩm của ông mà mẹ tôi đã có được. Văn của ông so với các nhà ấy, cứ như cơm nhà nghèo so với cao lương mỹ vị. Nó mộc mạc, đơn sơ, rất đời thường nhưng lại hợp với khẩu vị của mẹ con tôi.
Ông thường khen tôi đẹp, đương nhiên rồi, người đàn ông nào mà chẳng khen người yêu của mình đẹp, nhất là khi người đó là nhà văn thì lại càng không tiếc lời. Tôi rất thích nhưng tin chỉ một nửa hay nhiều hơn một chút. Nếu đẹp như ông nói, tôi đã có chồng từ những năm 20 chứ đâu mãi đến năm 40 mới được ông “tuyển vào hậu cung!”
“Tuyển vào hậu cung”, là cách chúng tôi đùa cợt khi đã yêu nhau.
Cái đêm mà Ôn Như Hầu không biết gọi “đêm ấy là đêm gì” tôi đã đem cái “nghìn vàng” ra “phụng quân vương”*. Khi biết tôi hãy còn trinh, ông nửa ngạc nhiên thích thú, nửa ngại ngùng xót xa.
“Nếu biết thế này, anh đã không làm thế!”, ông nói.
“Nghĩa là sao?”, tôi hỏi.
“Nghĩa là phải để dành”
“Để dành cho ai?”
“Cho chồng em chớ cho ai nữa!”
“Thế anh không phải là chồng em sao?”
“Không, anh chỉ là một người tình già!”
“Anh là một quân tử Tàu thì có!”

Ông sống mực thước cũng như văn của ông. Từ tóc tai đến áo quần không một thứ gì ra vẻ, hay cố làm ra vẻ, của một nhà văn. Lại càng không giống với những kẻ lập dị râu tóc dài thậm thượt hay cạo trọc nhẵn thín như sư cọ. Ông như một công chức mẫu mực, lúc nào tay áo cũng cài cúc, cổ thắt cà vạt nghiêm chỉnh. Tuy không phải che dấu ai vì vợ ông đã ly dị, nhưng ông cũng rất ít khi cùng tôi đi dạo ngoài phố. Nếu có phải đi mua sắm, ông cũng không cho tôi khoát tay và thường rảo bước thật nhanh để tôi theo không kịp. Ông cố tạo ra một khoảng cách giống như khoảng cách tuổi tác giữa ông và tôi. Mặc dù tôi cố tình làm cho mình già trước tuổi bằng cách búi tóc, một đôi khi ăn trầu, nhưng ông bảo, dù làm cách gì chăng nữa, thì em cũng vẫn là em, một công nương trẻ và đẹp. Còn anh, dẫu có cưa sừng cũng khó mà thành nghé được.
Bốn mươi năm sau ngồi nhớ lại, tôi thấy ông nói khá đúng, nhất là khi ở trên giường. Trong khi tôi tuôn trào như một con suối sau cơn mưa rừng, thì ông như một con sông lững lờ khi đã ra tới biển. Dù vậy, chúng tôi vẫn là hai người tình gắn bó tưởng chừng không thể nào xa nhau. Tôi thì phơi phới thật sự khi yêu và được yêu lần đầu, còn ông thì ngậm ngùi tiếc nuối vì cái quỹ thời gian còn lại quá ít ỏi.
Nên ông rất đỗi dịu dàng, rất đỗi nâng niu.

Sinh nhật thứ 40 của tôi được ông tổ chức ở một nhà hàng sang trọng. Có hoa hồng vàng, có rượu vang đỏ, có nến trắng và cốc thủy tinh trong veo. Ngồi đối diện trên hai chiếc ghế bọc nhung, chúng tôi có vẻ như hai ông tây bà đầm nào đó ở Paris.
“Mời em”, ông nói khi ra hiệu cho tôi thổi nến.
Tôi phải thổi đến hai lần mới tắt hết 40 cây nến nhỏ cắm đầy trên chiếc bánh sinh nhật. Đến khi cắt bánh, tôi run tay đánh rơi con dao, ông phải cắt giúp. Rồi ông khéo léo và ân cần đưa phần bánh đã cắt sang đĩa tôi.
“Mừng sinh nhật em”, ông nói.
“Cảm ơn anh”, tôi nói.
Chúng tôi nâng ly, trong khi bản nhạc Happy Birthday ở đâu đó vang lên êm ái và bên ngoài trời thì mưa.
Thực là lãng mạn nếu có thêm một nụ hôn. Nhưng ông không hôn, dù tôi rất muốn, điều đó thật quá khó đối với ông lúc này.
Rồi tiệc tan, mưa tạnh.
Đêm đẹp và thơm tho vì hãy còn mùi hương của nước mưa. Tôi muốn đến một quán cà phê nào đó để nghe nhạc, nhưng ông bảo cà phê khó ngủ, nên đưa tôi về. Đến lúc này ông mới kéo tôi lại gần, hôn một cách hờ hững, hôn cho đúng thủ tục vậy thôi.
Hóa ra, tiệc mừng sinh nhật cho tình nhân mà tinh khiết quá cứ như tiệc mừng sinh nhật của con gái.

Đến khi xa nhau, tôi tự hỏi có phải vì cái khoảng cách 20 năm sâu quá không lấp nỗi chăng, hay vì cái ý tưởng trông như cha và con đã khiến cho cả hai không thể đi chung một con đường?
Có thể như thế lắm.
Cách ông chăm sóc, cách ông yêu thương khiến cho tôi xúc động, nhưng chỉ vì tôi không có cha chứ không phải vì ông là một người tình. Còn ông, chỉ có hai người con trai, một theo mẹ, một ở với cha. Tôi là hình bóng đứa con gái ông mong muốn mà không được sinh ra chứ đâu phải là “thứ phi”.
Thế nên, cái ly rượu tình tưởng là nồng nàn uống vào sẽ say ngây ngất hóa ra càng uống càng thấy đắng, càng uống càng thấy tỉnh ra, để biết rằng “phải sớm liệu mà xa nhau ”.*
Những buổi hẹn hò thưa dần.
Những phút giờ trên giường ngắn lại.
Chẳng ai đến cướp mà vẫn cứ mất đi từng chút một.
Và rồi, đến lúc không còn gì nữa ngoài chút dư vị ngẩn ngơ.
“Quả thực anh đã làm hại đời em, một hôm ông nói. Chính vì cái tham lam của đàn ông đã khiến anh muốn chiếm đoạt em dù biết rằng không giữ được. Dù sao, mọi sự cũng đã rồi, anh không thể nói lời xin lỗi mà chỉ muốn nói cảm ơn. Cảm ơn em đã đến với anh như một bất ngờ tuyệt hảo. Cảm ơn em đã cho anh trẻ lại dù không phải cưa sừng”.
“Anh đang ca vọng cổ đấy à?” tôi cay đắng mỉa mai.

Sự tham lam của ông giống như một người đã rụng gần hết răng nhưng thấy đồ ăn ngon vẫn cứ muốn động đũa. Ăn không được thì bỏ mứa. Tôi là món ăn ông động vào rồi bỏ đó, đến nỗi ế thiu ế chảy đến tận bây giờ.
Cảm ơn!
Cảm ơn!
Tôi sợ hai tiếng đó cho tới già.
Nhưng rồi, nhớ tới người đàn bà bất hạnh trong truyện của ông, chẳng những tôi hết giận mà còn biết ơn, chứ không phải cảm ơn, rằng nhờ có ông mà tôi cũng có được một người ngõ lời yêu khi còn sống chứ không phải đợi đến lúc chết mới nói, “anh yêu em mà em đâu có hay”!
Tôi viết những dòng này thay cho bó hoa tưởng niệm đặt trên mộ ông. Xin hãy yên nghỉ, hỡi người tình già của em.

Khuất Đẩu
Những ngày đầu năm 2018
*mượn chữ của Đoàn Phú Tứ
*mượn thơ Phan Khôi

MONG ĐƯỢC MỘT LẦN!

 

 

Chị ơi, em viết những dòng này khi chỉ còn một tuổi nữa là đã 80, và chắc chị cũng đã không còn trên cõi đời này nữa.

Năm ấy, chị trên 30, một góa phụ trẻ, sống với hai con, một trai một gái. Chị đi làm ngày hai buổi, một mình, dù nắng hay mưa chị đều cuốc bộ. Buổi sáng, khi chị rời khỏi nhà, tháp chuông trên nhà thờ đá giục giã đổ hồi. Buổi chiều, chuông cũng ngân nga khi chị bước ra khỏi sở. Chiếc đồng hồ bốn mặt trên tháp cao vẫn cứ âm thầm đếm bước thời gian. Không biết có khi nào chị đếm những bước chân lẻ loi của chính mình.

Cuộc đời chị nhỏ nhoi quá, lặng lẽ quá. Có thêm một nụ cười cũng chẳng ai biết, thêm một giọt lệ cũng chẳng ai hay.

Cho đến khi có bé Tr.

Bé Tr. đến với chị như một nụ hồng ân sủng. Tiếc thay hoa hồng nào mà chẳng có gai. Trong khi chị nâng niu bé Tr. thì trái tim chị rướm máu. Bên hiên nhà, khi ánh trăng lọt qua kẽ lá rải những đốm sáng như những nụ hoa vàng, chị khóc và kể cho em nghe mối tình oan nghiệt của chị.

Người đàn ông ấy, có một thưở là thư ký riêng của vua Bảo Đại, rất mực hào hoa và cũng rất mực đa tình. Chị bảo, ông ta có lạ gì những người trẻ và đẹp khắp bốn phương, cuộc đời tình cảm của một viên chức cao cấp đâu chỉ có mỗi một bà vợ cho dù rất đẹp, mà còn có những mối tình thoáng qua với phấn son ngào ngạt. Những người đẹp dễ dãi ấy qua tay ông nhạt nhòa như nhấp thêm một ly rượu, hút thêm một điếu thuốc.

Ông chẳng yêu ai cả.

Cho đến khi gặp chị.

Một nữ nhân viên chỉ hơn một nữ lao công, thầm lặng không phấn son, đơn giản với chiếc áo dài màu tím và guốc mộc.

Chỉ vậy thôi mà ông điên đảo.

Cũng có thể là ông điên thật, nên nhiều đêm ông một mình lái xe qua đèo Hải Vân chìm trong mây mù, vào thành nội âm u chỉ để lặng lẽ đứng yên bên khung cửa sổ đã đóng kín.

Ông nghe tiếng chị thở, tiếng chị trở mình, thương tấm thân mỏng manh bé nhỏ của chị co ro trong chiếu chăn lạnh lẽo. Rồi ông trở về để kịp sáng ra có mặt trước vợ con đề huề, ăn sáng như thường lệ, xong đến sở ngồi đĩnh đạc trên chiếc ghế giám đốc dành riêng cho ông.

Không chỉ một đêm mà nhiều đêm.

Không chỉ những đêm đầy sao mà cả những đêm mưa.

Ông đứng như trời trồng, trong khi những cơn mưa mùa đông của xứ Huế cứ rỉ rả kéo dài lê thê.

Ông đứng đó cho đến khi chị bất ngờ mở cửa sổ, thấy ông toàn thân ướt sũng.

Thế là ông đã biết yêu và cõi lòng lạnh lẽo của một góa phụ cũng đã bắt lửa, để rồi kết trái là  bé Tr.

Có bé Tr. chị bỗng nhiên sống trong lo sợ. Không sợ chiến tranh mà sợ bà chị  có thể vào bắt cháu để cắt đứt một cuộc tình hoang dại.

Em đến nhà chị cũng vì vậy, đến để có thêm một người đàn ông cho rậm cửa rậm nhà chứ không chỉ để dạy kèm hai con nhỏ đang còn học tiểu học.

Rồi mọi sự cũng qua đi. Không một người đàn bà nào có thể cấm cản được một người đàn ông đang yêu. Bé Tr. cứ phơi phới lớn lên, mặc cho đàm tiếu, mặc cho bom đạn, mặc cho những kẻ không mời mà đến cướp mất nhà em, đẩy mẹ con em xuống thuyền vượt biên chỉ với hai ổ bánh mì và một lon sữa.

Thuyền ra khơi cứ như đi picnic. Đến ngày thứ ba thì hết cả đồ ăn và nước uống. Ai cũng đi vội nên chẳng mang theo được gì nhiều.

Khát!

Phải uống nước tiểu của nhau. Mà nước tiểu cũng cạn dần. Chỉ còn mỗi một cách là lạy trời mưa xuống! Nhưng trời cũng rất không độ lượng, chỉ có mây đen nghìn nghịt vần vũ mà ngóng mãi cũng chẳng có giọt mưa nào rơi xuống.

Nước không có, tàu các nước qua lại như mắc cửi nhưng chẳng tàu nào chịu dừng. Sau mười bảy ngày đêm lênh đênh trên biển, đành phải quay vào bờ.

Thuyền tấp dưới chân đèo Cả, có công an biên phòng chờ sẵn. Đàn ông đi tù một lũ, đàn bà con nít được đưa vào nhà thương rồi được tha.

Chưa bao giờ chị trải qua những ngày giờ kinh hãi đến thế. Sợ nhất là bé Tr. cứ muốn lao xuống biển vì khát.

Mặc dù vậy nhưng sau đó ít năm Tr. muốn thử đi lần nữa. Tr đi một mình. Và thoát.

Em đến được Pháp, được gặp bố dù đã rất già, được học nghề rồi đi làm với lương đủ sống thoải mái. Hình em chụp gửi về, mặc áo pull đỏ ngồi trên lan can trông khỏe mạnh và rất xinh.

Rồi em biết yêu và được yêu. Chàng là một thanh niên Pháp, rất đẹp trai. Cả hai đều rất trẻ trung, gần như là một cặp đôi hoàn hảo. Chàng đưa em đi thăm thú khắp nơi rồi đưa về nhà chào bố mẹ. Ông bố đã có một thời ở Việt Nam, khen Nha Trang thanh bình và đẹp. Ông cũng rất quý em, thầm khen con trai đã tìm được một ý trung nhân phương đông xinh đẹp.

Rồi một buổi chiều, trong khi tiếng chuông nhà thờ Đức Bà ngân nga, chàng quỳ gối xin cầu hôn và em đã chìa tay ra cho chàng trao nhẫn. Cả hai ôm nhau hôn thắm thiết rồi bay về phương nam đầy nắng ấm để ăn mừng.

Đẹp quá phải không chị và lòng người mẹ bấy lâu buồn lo bỗng sáng bừng lên niềm vui chờ đợi. Chị vội vã lo mọi thủ tục để sang dự lễ cưới của con.

Thế nhưng, một hôm cả hai rủ nhau về một miền quê. Trên ngọn đồi xinh có một nhà tu kín. Em bỗng muốn xin vào thăm và được Mẹ bề trên vui vẻ mời vào.

Em chơi ở đó suốt ngày, được Mẹ dẫn đi thăm mọi chỗ, được mời ăn trưa, và khi chiều đến em bỗng dưng không muốn về!

Thế là em được ân phước của Chúa, như Mẹ nói, và em đã nguyện dâng mình cho Chúa suốt đời.

Trước khi bước vào cánh cửa đóng kín, em được phép gặp mẹ một lần. Và chỉ một lần rồi thôi.

Chị tất tả đi qua Pháp để gặp con. Chị chỉ nghe em nói, bonjour maman rồi xách giỏ theo các bạn đồng tu đi xuống đồi hái nho. Đã tự bao đời, các nữ tu quần quật chặt cây khiêng đá biến ngọn đồi đầy đá sỏi thành những vườn nho. Rồi họ làm rượu không phải để uống mà để bán, tự mưu sinh chứ không có một nguồn trợ cấp nào khác.

Em rồi cũng sẽ như vậy, ăn ngủ thức đều theo giờ giấc nghiêm ngặt, làm việc bằng chân tay chứ không có máy móc nào trợ giúp. Và tối đến, sau giờ đọc kinh chỉ được ngã lưng trên bệ xi măng cứng lạnh.

Chị khóc và âm thầm quay về. Từ đó, chị coi như mình đã đánh mất cả cuộc đời.

Tr. nay cũng đã lớn, không hiểu khi bỏ cả người chồng sắp cưới, bỏ cả người mẹ khổ đau để dâng mình cho Chúa thì đã được những gì. Nước Chúa ư? Xa xôi quá nếu không muốn nói là rất ảo tưởng, và có phải là thiên phước chăng khi chung quanh chỉ có một bầy chiên ngoan đang quỳ dưới chân Chúa?!

Chị ơi, em viết những dòng trên đây như một nén hương thắp cho linh hồn tội nghiệp của chị. Nếu có một cõi khác, em cầu mong chị được một lần gặp lại con.

Khuất Đẩu

Noel 2017