Thật lòng, người viết chưa biết gì về tác giả tập thơ cho đến trước khi nhận tuyển thơ đầy đặn “Bản thảo thơ Trần Thiên Thị”. Đọc và ngạc nhiên sao trước đây chưa từng biết đến “bản thảo” này ?! Người viết bắt gặp ở đây một lối tỏ bày giàu tính đối thoại, mở rộng trường liên tưởng và khéo léo dẫn người đọc chạm đến mạch ngầm văn bản. Tác giả chẳng cần cố công gọt bàn chân khoáng đạt của ngôn ngữ, hình ảnh cho vừa chiếc hài thi pháp hay cấu trúc ngữ pháp, thậm chí ngạo mạn cả với những vụn vặt chính tả như cái khoát tay cho qua. Nhưng độc giả thì chẳng nên xuề xòa như thế, mà hãy ôm bản thảo trĩu nặng suy tư bằng hai tay để mắt rơi vào từng trang sách cẩn thận, vì lẽ hợp tuyển gồm các tập thơ kết lại: 1. Đi gõ cửa tình; 2. Biên tập nụ cười; 3. Như cỏ đã từng xanh; 4. Nơi đám mây đã chết; 5. Lục bát già và nàng thơ trẻ; 6. Anh hàng xén và chị đồng nát.
Và nâng sách bằng đôi tay, tôi đọc trang đầu tiên của bản thảo trong một đêm rằm. Lại ngẫu nhiên chạm mắt vào đúng vầng trăng sáng lung linh giữa những câu thơ:
“Con trăng bạc cứ rằm lại đến
Em nói rằng thương
Mà như gió giữa trời”
Ừ thì lời nói gió bay ! Ừ thì, trăng thanh gió mát hợp cảnh hò hẹn! Chứ thi nhân thừa hiểu chẳng nên mong đợi gì ở lời thương. Cơn cớ chi mà đòi phẫu thuật thẩm mĩ cái cần cổ ?. Vì lẽ dài cổ trông đợi hay rát họng “mà gọi: người ơi” ? Hồ Dzếnh đã từng nhắn nhủ người nữ đấy thôi “Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé”. Thì cứ kiên trì chờ cho đến khi cần cổ ủ rũ như tàu lá héo thì hãy tìm nơi “Giải phẫu cái cần cổ” cho vừa lòng nhau:
“Ai chỉ dùm cho chỗ giải phẫu thẩm mỹ
Cần phải đi sửa lại cái cổ
Chờ nhau đã cạn tháng giêng rồi”
Thơ Trần Thiên Thị hiếm khi giản đơn, một chiều theo kiểu dắt tay độc giả. Nhà thơ không định co kéo trì níu người đọc nhưng biên độ tứ thơ giãn nở không cùng. Có khi lời thơ đã khép nhưng hồn thơ vẫn mở. Có khi ý thơ miên man dẫn người đọc đi khắp nẻo đường. Vừa mới thấy dáng em ở chợ mai – chợ chiều “Chợ mai bán một mặt trời/ con gà ngửa cổ bán lời o…o/ có em bán một hẹn hò/ và tôi bán cái ngây ngô của mình”, lại thoáng thấy bóng người ở Duy Sơn (Chiều Duy Sơn), vượt đèo Giàng đèo Gió ở Cao Bằng rồi xuôi đèo Ba Dội (Qua đèo Ba Dội mà yêu) … Thoắt cái đã thấy “đưa người về với Hội An”. Như một lãng tử cuồng hành túng chân, nợ nần những chuyến lên đường từ tiền kiếp, hình ảnh bàn chân gợi nhắc hành trình lên rừng xuống biển, du lãng đến thôn cùng xóm vắng cứ bày ra đều đặn trong cả mấy phần thi phẩm:
“Bàn chân nằm nhớ con đường
Tóc tai nằm nhớ gió sương cận kề”
(Lục bát chưa đặt tựa)
Ngỡ ngàng không chỉ vì cách gieo chữ hiệp vần hồn nhiên, người đọc còn bắt gặp điều giản đơn thần tình trong thi ảnh này đây: “Đường xa mấy suối mấy sông/ Đôi giày nằm ngó bàn chân mà buồn”. Chắc nhà thơ buồn chân muốn đi, chớ e chẳng buồn lòng. Còn người đọc đến đây hẳn hơi ngả đầu ra sau cho đỡ mỏi cổ (cần chi phải “sửa lại cái cổ” cho mệt !) và tủm tủm cười với hình ảnh đôi giày ngao ngán nhìn bàn chân quen nết rủ rê nhau. Ý tưởng xê dịch như là ẩn ức bẩm sinh, mời gọi tác giả lên đường. Không đi thì cùn chân đến nóng lòng bỏng dạ. Không đi không đành. Đến nỗi phải “chạm vào lòng bàn chân/ để người nhớ lối mà về”.
Vẫy tay mà biệt với rừng
Hai bàn chân nhớ đã từng qua đây
Thơ Trần Thiên Thị có những bài, những câu gai góc ngang tàng nhưng đây đó, người đọc vẫn lượm được đôi câu thủ thỉ ngọt ngào như mật nằm lẫn giữa thơm thảo lối hoa hay lấp lánh trên đường trăng: “Xin cúi xuống tạ ơn đôi hài nhỏ/ Như trăng vàng về thắp buổi buồn ta/ như lòng gần/ ngắn lại những đường xa/ (….) / Gót sen hồng/ đánh động những đường hoa ” (Mùng sáu thật trăng). Thật ra, vầng trăng xẻ đôi trong Truyện Kiều hay trăn trở chia ly đôi ngã trong ca dao đã quá đau xót :
“Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Đường trần ai rẽ ngược xuôi hỡi chàng”
Vậy mà thi nhân đòi cắn vỡ trăng (Tôi giật mình/ Tưởng đã cắn vỡ vầng trăng). Xẻ, chí ít trăng chỉ chia đôi mà vẫn còn nguyên mảnh. Trăng bị cắn vỡ bao nhiêu mảnh, thi nhân cũng nát lòng bấy nhiêu ! Can cớ chi mà vọng động, rồi mộng mị một vầng trăng lên ngôi viên mãn:
Dỗ dành tôi
“Vầng trăng vẫn còn nguyên vẹn
Một vầng trăng đầu mùa hò hẹn
Đang sáng dần thắp lại những đêm anh”
Say trăng hay chếnh choáng men tình, men rượu chỉ “gã làm thơ” họ Trần mới tỏ. Bởi chắc gì người thơ đã say mà có mấy câu thơ tỉnh đến thế ! “Điều khổ tâm thứ nhất/ Là khi con người quá đỗi chân thành/ Điều khổ tâm thứ hai/ Là giữa cơn say/ Gã làm thơ được khải huyền phong thánh”. Khổ tâm còn lại, không nói thành câu thành chữ được, phải chăng là ngoài làm thơ thi nhân còn biết làm gì ngoài sinh sự với mình ? Phải rã lòng nát dạ lắm mới ngán ngẩm chính mình, mà nói bằng giọng dửng dưng như thể bàng quan, xa lạ với cái tôi ngã mạn: “Và tôi cũng ớn tôi rồi/ Trách chi em bỏ lại người mà đi”. Làm sao vô ngã vô chấp khi thi nhân còn đau đời thương người đến thế !
Đời vẽ chi con ngựa hồng ?
Ta vẽ thêm vào ria với mão
Rồi ngồi mà khóc long đong
Vẽ thanh roi cày thành kiếm sắc
(….)
Không chỉ riêng ta đau đời
Không chỉ riêng ta một thời”
Tiệm cận hiện thực không có nghĩa là triệt tiêu cảm xúc thẩm mĩ mà có thể cảm nhận đối tượng ở những chiều kích khác nhau, để dò được độ sâu trong vẻ đẹp tiềm ẩn của sự vật, con người. Sáng tạo đích thực phải là khơi dậy trong đống tro than chút tàn lửa để nhóm lên ý thơ vừa mới tượng hình: “Khi người ta giơ nắm đấm/ đánh vào lồng ngực/ tiếng kêu vang/ tiếng trống bịt da người (…)/ không thể nhân danh ai/ để đánh lên tiếng trống bịt da người”. Những tiếng trống thơ dội vào thịt da đau tức !. Đánh vào tiếng trống hay cần gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh trước bạo quyền, nơi cái ác nhân danh những lời hoa mĩ sáo rỗng như “cứu cánh biện minh cho phương tiện” ? Nhà thơ bị vấp liên tục trước những nghịch lý mà hiện thực phũ phàng bày biện ra từ năm này qua tháng nọ:
“Thương chi con ngựa già sứt móng
Giữa truông dài một tiếng hí khan”
(Bài của năm trước)
Có thể vì niềm thương bi tráng nên “con ngựa già” chẳng cần chốn dừng chân cố định, chỉ muốn buông cương rủ bờm gõ móng, như thuyền lòng cứ chực chờ xuôi dòng hải lưu mà lướt sóng ra khơi “Không biết dòng sông sẽ chảy như thế nào/ trong lòng biển khơi/ thế mà những con nước muôn đời hăm hở/ rủ rê nhau căng buồm” (Biên dạng một hải lưu).
Thơ tình Trần Thiên Thị ngai ngái buồn, có sự hòa hợp giữa những trào cảm lẫn sầu muộn có ý thức. Hầu hết là những dùng dằng tình tứ “vịn vai”, “tựa đầu” “ôm mòn tay áo”, “ôm chân”, “vẽ vào tay” … mà ôi thôi vẫn bị dính mắc vào nỗi sầu dai dẳng:
Buồn em cộng với buồn ta
Hôm nay cộng với hôm qua cũng buồn
Thật ra, cũng nhờ nỗi buồn lay tỉnh mà thơ cùng cháy hết lòng với người. Như ngọn bấc tưởng đã lụi tàn được châm thêm dầu thêm lửa “Sầu đã đủ/ Năm cùng tháng tận/ Giữ lại trái tim nhịp đập yêu người”. Kệ thôi !
“Ừ thì
Buồn ấy không nói được
ừ thì
Buồn ấy không chia được” nên tôi
“trả lại em nguyên vẹn một em buồn”. Có sao đâu !. Sông vẫn sống đời sông. Gió vẫn nói lời gió. Can chi đến thời tiết nắng mưa mà đổ tại “nắng mưa rụng xuống bao nhiêu lần buồn”. Cứ mặc cho lòng nghiêng xuống đón bước người, gác ngoài tai chuyện sông hồ dâu bể: “Giang hồ ta chỉ thằng hóng hớt/ Chẳng thiết núi sông chỉ mê người” (Gối đầu vào đây mà ngủ). Mà, thì, là cớ gì người viết lại liên tưởng đến mấy câu hay thôi rồi của Phạm Hữu Quang:
Giang hồ ta chỉ giang hồ vặt
Nghe tiếng cơm sôi đã nhớ nhà.
Trần Thiên Thị không giang hồ vặt, bởi chất phiêu bạt đã hòa vào máu thịt. Trong bất cứ bài thơ nào, ta cũng bắt gặp thi sĩ đang rong chơi, đã hoặc sắp sửa lên đường. Thử chung toa tàu, chuyến xe với nhà thơ xem ông có thể lang thang đến đâu. Ai chẳng thích rong chơi đây đó khi “sầu đã đầy tháng ngày”: Chiều Duy Sơn; Qua đèo Ba Dội mà yêu; Đưa người về với Hội An; Viết ở rừng cổ chi; Tháng ba ở rừng Tân Hạnh; Ở một góc chợ mới ba xã; Gởi Pleiku; Rao em trên chợ Nổi (Cần Thơ); Mưa Sài Gòn; Viết trên vé xe 1; Về bến Cấm; Bữa đau ở Quy Nhơn; Ở chân đền Mỹ Sơn …
Thỉnh thoảng giữa hành trình xuôi ngược đa đoan, thơ Trần Thiên Thị đánh rơi dáng dấp ngang tàng cố hữu bên đường, chỉ còn lại trên vạt cỏ chú dế cơm, con thuyền giấy và bạn mèo hen tội nghiệp được đặt vào đãy thơ chừng đó món hành trang ít ỏi: “Em đã nhặt chiếc thuyền, chú mèo và con dế cơm bỏ vào câu thơ làm của riêng (…)/ Con dế cơm hồn nhiên hát ca giữa biềng cỏ biếc/ Ta và những con thuyền không thể ra khơi”. Những câu thơ, bài thơ trong tập “Bản thảo” gần như biết cách chừa một khoảng xanh cho thiên nhiên ghé lại. Khoảng xanh của bầu trời, rừng cây, đồi cỏ, dòng sông, … như tóc ai xanh, “như cỏ đã từng xanh”. Cần gì phải đặt lại tên cho cỏ ?! Đôi hài cỏ em đi tự nó đã gọi về những biềng cỏ đẫm sương đêm:
Một đôi dép cỏ mùa xuân
Đi từ dạo cỏ trên truông còn vàng
Người ta lãng mạn viễn vông với nhẫn cỏ, thi nhân mơ mộng “sến súa” (chữ dùng của Trần Thiên Thị) với cỏ áo phù dung buổi “ngã lưng bờ cỏ lạ”. Cỏ úa vì khô hạn thì đành tìm một khoảng xanh gần gụi mà xa vời khác “Quay về phía núi nhìn cây/ Bao nhiêu nắng/ Để lá bày biện xanh”. Thiệt tình mà nói, bài thơ “Nắm lấy tay mình” có những câu hữu ý, hữu tình kì lạ và hoang hoải dày dặt hơn cỏ xanh nhiều lắm. Ví như “Tôi ngồi gặm nhấm lại tôi/ Nhìn vai tìm dấu tay người đã vin (…)/ Ngày vui cắn lấy vai người/ Như giông đánh dấu xuống đồi cỏ khô”. Thì thôi đành “nắm lấy tay mình”, dẫu có ai nắm được bàn tay của mình thật lâu bền nên hãy tự nhiên như nhiên tựa lời hoa cỏ. Vì nỗi buồn không cần tư biện. Tự thân phiền trược sẽ thất lạc trên đường đời xa ngái, cần chi những tác động ngoại giới:
“Buổi chiều còn lại tôi và
Hồn nhiên cây cỏ nở hoa ven đường”
Tôi – hồn nhiên được kết nối mật thiết bởi chữ “và” nhờ cây cỏ. Dòng thơ ngẫu nhiên đột khởi tách hàng để lòng thơ chan hòa cùng hoa cỏ mùa xuân. Bạn đọc cho rằng những câu thơ dễ thương nhất của thi nhân không phải là những câu ca tụng người nữ (kiểu như “Này bàn chân hồng bé nhỏ”; “Gươm liễu liêu xiêu cặp chân mày”; “Da hồng ngọc cháy lời của lửa”…), mà là những dòng viết về cỏ, về những kỷ niệm tuổi thơ xanh trong, hồn hậu: “Một đôi cánh sáp vân vi/ Hoa trên đất trích/ Yêu vì ải mây/ Giá như cầm được trên tay/ Một mùa xuân/ Tặng em bày cuộc chơi” (Bay trên đôi cánh sáp). Trò chơi cò cò, ô ăn quan, oẳn tù tì … (Trả cho em hòn mạng) cứ tự nhiên rồng rắn kéo về những hồn nhiên trong ngần tuổi thơ, khiến cấu trúc bài thơ ở khổ cuối láy lại khổ đầu và mở ra mênh mang hoài niệm:
“Trả cho em hòn mạng
Để em quay về sân cò cò
Đi canh một canh hai (…)
Ta tặng em chiếc gương chiếc lược
Trả em về
Chơi tiếp cuộc cô dâu”.
Có những thi ảnh sáng tạo khiến người đọc giật mình bỡ ngỡ:
“Chở em đi trên chiếc thuyền vỏ trấu/ Qua lòng Ba Bể mênh mông” hoặc thả những ước mơ lên bầu trời cao rộng trong chuyến đi xa của con diều giấy “Lòng cứ muốn bay lên/ Nên tôi chép những vần thơ/ Có hình dáng một cánh diều …”.
Và cỏ, đã từng rất xanh:
“Con dế cơm hồn nhiên hát ca giữa biềng cỏ biếc
Ta và những con thuyền không thể ra khơi”
Và nỗi buồn tinh khôi, cũng đã từng biết mấy trong veo:
“Quá vãng lại về
Thơm tho mùi dủ giẻ
Ta thì rong ruổi trên con ngựa lá dừa
Phi hoài không tới đích
Em thì cầm cánh diều với sợi dây dài một sải tay
Chạy mòn vẹt bàn chân
Mà cánh diều chỉ bay ngang mái tóc”
(Nhớ về Mộ Dung Phục)
Những câu thơ ngọt như những viên kẹo óng ánh màu sắc mang ta về tuổi thơ vàng son, với trò hái lá mít làm mũ mão, kết lá dừa làm ngựa. Trong “Thiên long bát bộ”, họ Mộ Dung thuộc dòng dõi thế gia, khí chất hơn người. Mộ Dung Phục thiên tư thông minh nhưng tâm tính cao ngạo, chấp mê bất ngộ, nên kết thúc trò chơi chính trị (cùng giấc mộng phục quốc, mà tài năng và thời thế chưa chín muồi) y hóa rồ dại. Một người võ công cái thế, thiên bẩm sáng láng về cuối đời đội mũ miện làm bằng giấy, dùng kẹo bột dụ bọn trẻ trong làng làm quần thần, tôn y làm vua và tung hô vạn tuế. Người đọc bất giác xót xa thương cảm. Tuy thế, bài thơ là món quà tinh thần giúp ta tạm quên những phiền trược trong cõi hồng trần tục lụy, để lắng lòng đúc kết: “Chính trị, (…), chiến tranh/ Thực chất là trò chơi của bọn nhà giàu/ Và xương máu đổ ra cho cuộc chơi này là của người nghèo” (Này ngồi lại đây với tôi). Đôi khi phát điên như Mộ Dung Phục biết đâu lại hay không kém hành động lánh đời về làm “ngư, tiều, canh, mục” thời loạn. Làm mục tử cưỡi trâu như Lý Nhĩ, thành Tô Vũ chăn dê hay thất chí mà hóa dại như Mộ Dung biết đâu lại thanh thản ?!.
“Này ta tặng em khu rừng tháng tám
Cỏ đã lên xanh
Bầy dê non tình tự”
(Bài ca người chăn dê)
Dẫu biết rằng mai sau “Còn lại một tôi già/ Và cỏ xanh nguyên vẹn” (Nghé ngọ) thì độc giả mến thơ tình Trần Thiên Thị hẳn còn vì những câu thơ dễ thương như thuở nụ trà mi còn thơm lừng hương cỏ, hương xuân: “Tầm hương trên đóa trà mi/ Con ong mõn sức cũng vì mùa xuân”. Chỉ cần một chữ “Mõn” gieo đúng ở câu thứ hai, cả ý thơ đã chinh phục được những người đọc thơ cẩn trọng, khó tính. Thế nên, bạn đọc dễ gì ngán món thơ độc đáo mà nhà thơ đã mời tặng bằng cách tự trào:
“Bây giờ tôi ớn cả tôi
Trách chi chúng nó bỏ rơi một người”.
Có thể, người đọc thơ mải vui chân theo thi nhân mà lạc giữa cơn giông gió trái khoáy vào buổi chiều tháng năm, như đã từng lưu lạc theo dòng sông quê nhà tìm dấu vết cỏ xanh ngày trước. Nhưng chẳng bao lâu sẽ nghiệm thấy như tôi rằng: thơ Trần Thiên Thị không chỉ có vầng trăng huyền ảo mộng mị, những chuyến đi xuôi nam ngược bắc để thỏa chí tang bồng, những trò chơi trẻ thơ như chú dế cơm náu mình trong biềng cỏ non thanh lành, những câu thơ thỉnh thoảng cố ý không thành vần điệu, ẩn trong thi ảnh giàu cá tính sáng tạo là những thông điệp vô ngôn đầy ám ảnh … Đọc thơ Trần Thiên Thị, ta còn kịp thoáng thấy nỗi buồn thân phận u uẩn trong những cuộc rượu tàn canh, như trong thi phẩm “Uống nào bé nhỏ”:
Chiều nay uống với mây ngoài núi
Chén rượu như chừng có cả giông
Em uống với ta nào bé nhỏ
Sầu chi
Sầu chi
Mà đau lòng.
Còn bạn, có đau lòng cùng “ta” không ?
(P/S: Viết giữa cơn giông chiều tháng 5/ 2017.
Cảm ơn nhà thơ Trần
Thiên Thị)
*Chú thích: Nhan đề là tên một bài thơ trong tập “Bản thảo” của thi sĩ Trần Thiên Thị.