NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, “Chúng chỉ là những thằng bé đó thôi”

nuocmattruocconmua

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, nguyên tác Anh Ngữ “Tears Before The Rain” là một tập sử liệu về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam, do Larry Engelmann, Giáo Sư Đại Học San Jose State thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn nhiều thành phần: người Mỹ, người Việt, kẻ thắng người bại …Những cuộc phỏng vấn này khởi sự từ 1985, sách xuất bản năm 1990. Bản dịch Việt Ngữ do nhà văn Nguyễn Bá Trạc thực hiện năm 1993, xuất bản năm 1995 tại California.

BRIAN ELLIS
(Hãng tin CBS)
“Chúng chỉ là những thằng bé đó thôi”

Mùa Xuân 1975 tôi đang điều khiển văn phòng hãng tin CBS tại Saigon, nên đã phải dính líu vào việc di tản nhân viên hãng tin cùng với gia đình quyến thuộc họ. Khi những nhóm đầu tiên bắt đầu ra đi là tin tức lọt ngay ra ngoài. Những tin tức về người ra đi được loan truyền rất nhanh trong cộng đồng người Việt. Chính vì thế, tôi bắt đầu phải tiếp đón những người khách lạ với những cuộc thăm viếng lạ lùng, đến nỗi cuối cùng tôi phải thuê bốn căn phòng trong bốn khách sạn khác nhau. Ban đêm tôi đổi khách sạn, vì người ta săn đuổi, bám theo tôi suốt đêm ngày, mà tôi vẫn phải lo công việc điều khiển hãng tin.

Một đêm kia, Đại úy Anh – người thông dịch của phòng báo chí chính quyền Việt Nam – đến thăm tôi tại khách sạn Continental. Ông ta bảo có nghe nói về kế hoạch này, ông ta biết một số nhân viên người Việt đã ra đi, một số khác nữa cũng sẽ đi. Tôi bảo “Tôi không hiểu ông đang nói chuyện gì”.

Ông ta nói: “Tôi muốn ông thu xếp đưa Trung tá Hiền và tôi ra đi”. Tôi bảo: “Tôi không nghĩ có thể làm như thế. Ông là quân nhân. Tôi không liên hệ chuyện này. Thực ra, nếu tôi biết có ai lo liệu được, họ cũng chỉ đưa các dân sự ra đi thôi”.

Lời nói ấy không hiệu quả. Đêm sau, ông ta trở lại. Lần này ông ta đeo một khẩu súng lục. Ông ta vào phòng tôi, ngồi xuống. Rút khẩu súng để lên lòng. Tay vỗ nhẹ khẩu súng, ông ta bảo việc ông và viên Trung tá của ông ra đi là việc rất khẩn thiết.

Thông điệp đưa ra thực rõ ràng. Nếu khôn hồn phải rán lo cho họ đi.

Bây giờ tôi suy nghĩ: Quả là một vụ phiền phức lớn: Vì nếu giúp họ đi thì làm sao biết họ sẽ mang theo những ai? Tôi sẽ phải di tản toàn bộ quân đội miền Nam Việt Nam hay sao? Tôi bèn tìm đến Đại sứ Martin, yêu cầu một cuộc hội kiến khẩn cấp. Tôi nói: “Tôi đang gặp một vấn đề nghiêm trọng với Đại úy Anh và Trung tá Hiền. Tôi không biết giải quyết ra sao. Bây giờ xin đặt trách nhiệm vào ông Đại sứ. Mấy người này làm cho chính phủ. Tôi nghĩ, nếu họ biến đi, thì đó sẽ là một sự cáo giác sinh tử. Hãy nhớ rằng chưa ai chứng kiến việc di tản. Chưa ai tuyên bố gì về sự cáo chung của miền Nam. Chưa ai nói năng gì về việc ra đi cả”. Bấy giờ chúng tôi đang thực hiện việc di tản một cách bí mật vì lẽ Đại sứ Martin đã khẩn khoản yêu cầu chúng tôi đừng gây ồn ào náo loạn.

Đại sứ Martin nói: “Để tôi lo chuyện ấy”. Tôi không rõ ông đã làm gì, nhưng sau đó, tôi không bị Đại úy Anh và Trung tá Hiền phiền nhiễu nữa. Ngày cuối ở sân tòa Đại sứ, tôi có thấy họ. Tôi biết Graham Martin đã lo liệu cho họ rồi.

Có một số chính khách và quân nhân cũng chạy lòng vòng, đề nghị với tôi đủ thứ, từ vàng cho đến con gái họ. Tôi ở địa vị hết sức khó chịu vì phải quyết định, phải chọn lựa, phải tự hỏi việc mình làm có đúng hay không. Người ta có thể bảo “Chà, thực là một địa vị đáng thèm”, vì lẽ tôi có thể kiếm khối tiền, có thể chơi bời thoả thích, nhưng tôi không dính vào những chuyện này. Tôi nhớ có lần một người mang đến cho tôi một bộ quân cờ bằng ngà tuyệt đẹp. Trời mới biết bộ cờ này trị giá bao nhiêu. Họ đề nghị tặng bộ cờ nếu tôi đưa họ đi. Trước đó, họ đã đề nghị đưa tiền và tôi có nói “Tôi không cần tiền, tôi không ham thứ ấy”, thì họ cho rằng tôi thích thứ gì khác, đồ cổ chẳng hạn, bởi lẽ nhiều người thích sưu tập đồ cổ. Hôm sau, người này đợi tôi ở cửa khách sạn từ sáu giờ rưỡi sáng. Anh ta cặp dưới cánh tay cái hộp bọc giấy. Anh ta đến gần, theo tôi vào phòng đợi khách sạn Caravelle, nói: “Xin cho tôi trình ông cái này”. Anh ta mở hộp. Trời đất, món đồ ngà hết sức đẹp. Tôi không thể đoán trị giá bao nhiêu. Hẳn đây phải là một món đồ cổ của gia đình họ vì họ là một gia đình khá giàu có.

Thế rồi lại những ông nhà báo Mỹ nhờ vả cho các cô bạn gái ra đi. Tôi nhớ một gã điện thoại cho tôi, hắn có cô bồ, muốn nhờ tôi đưa đi. Tôi bảo “Rắc rối quá”, nhưng rồi tôi cũng đã giúp cô ta. Tôi không biết cô ta là ai. Tôi đã mở một cánh cửa mới: nếu tôi bắt đầu đưa các cô bạn gái ra đi là tin tức lộ ra ngoài ngay. Vâng, đôi lúc tôi cũng làm một vài ngoại lệ. Tôi đã bẻ gãy một số quy luật của chính tôi. Tình trạng thực phức tạp. Tất cả đều khó khăn. Trong vài trường hợp, người ta cứ giản dị đến doạ dẫm tôi. Một lần, có một tay – giờ đây đang ở Hoa Kỳ – dọa giết tôi. Anh ta muốn mang đi nào là cha, mẹ, mẹ vợ, đủ thứ thân thuộc khác, một nhân số quá đáng: mười một con người không phải là trực hệ của anh ta (1). Tôi bảo: “Chúng tôi không thể làm thế được. Nhưng cứ cho tôi tên mấy người ấy”. Anh ta là nhân viên của một cơ quan khác. Tôi nói: “Nếu anh quyết định như vậy, tùy ý, nhưng tôi không thể phá lệ. Nếu tôi làm cho anh thì tôi cũng phải làm cho những người khác. Nếu anh mang các thân nhân đi thì tất cả những người khác cũng phải được mang đi. Tôi không làm thế được”. Chuyện xảy ra khá gay go.

Đến đêm, anh ta trở lại. Anh ta bảo nếu anh ta không đưa gia đình đi được thì sẽ không ai đi nổi. Kể cả tôi… Anh ta bảo anh ta sẽ chặn tất cả lại bằng cách chặn tôi. Tôi bảo: “Anh muốn nói cái gì?” Anh ta nói: “Tôi sẽ giết ông”.

Lúc ấy, tôi không xem chuyện ấy quan trọng. Anh chàng này chỉ quá lo lắng cáu giận. Nhưng bây giờ nghĩ lại, tôi e biết đâu lúc ấy hắn dám làm ẩu. Làm sao biết. Tôi không muốn nghĩ đến chuyện ấy nữa.

Cho đến ngày cuối cùng, ông Ba, một trong bốn tài xế của hãng CBS chúng tôi, biết rằng tất cả mọi người đã đi hết, tất cả những nhân viên người Việt đều đã đi cả. Ông Ba bảo: “Ông phải đưa tôi đi”. Ông này có một gia đình mười ba mạng người, mười một đứa con, chẳng rõ còn những ai nữa. Tôi bảo: “Ông Ba ạ, tôi rất muốn giúp ông, nhưng tôi không có quyền. Mang mười ba người trong gia đình ông lên máy bay là một chuyện không thể làm nổi”. Nhưng tôi vẫn cố gắng. Cho đến tận buổi sáng hôm chúng tôi ra đi, tôi hãy còn cố đưa người di tản. Sáng hôm ấy tôi hoàn thành một chuyến nữa là hết sức. Nhưng ông Ba vẫn nhất định đòi tôi phải đưa đi cho được. Tôi không biết ông ấy sẽ phản ứng thế nào.

Tôi làm việc ở văn phòng. Chúng tôi vẫn làm tin. Đêm hôm ấy đối phương pháo vào Tân Sơn Nhất. Khi về phòng ngủ, tôi không vào được. Cửa khoá. Tôi nhớ tôi không hề khóa cửa. Tôi lấy chìa khóa ra, vẫn không mở được. Tôi gọi xuống lầu dưới yêu cầu nhân viên lên mở, họ cũng không mở được. Họ bảo: “Có người trong phòng”. Tôi hỏi: “Ai vậy”? Họ đáp: “Ông Ba và toàn thể gia đình”. Tất cả mọi người đều ngồi trong ấy, họ từ chối mở cửa không cho tôi vào lấy đồ, trừ phi tôi hứa đưa họ đi.

Ông Ba đã nhờ một người bồi đưa vào. Tôi không bao giờ khóa cửa. Không rõ có đủ mười ba người trong ấy không, nhưng chắc chắn ông ta đang có mặt trong phòng với các thân nhân của ông. Sau khi tôi đã ra đi, ông vẫn cứ ở trong căn phòng ấy.

Ông ta tin rằng tôi phải đưa ông đi nếu tôi muốn vào phòng. Vì thế, tôi bỏ quách đồ đạc. Khi tôi rời khỏi Saigon rồi, ông ta vẫn còn ở trong ấy.

Sau này, năm 1985 tôi có trở lại Việt Nam. Tôi cố kiếm ông mà không gặp. Một người đáng thương, tôi cảm thấy tội nghiệp cho ông.

Khoảng 28 tháng Tư, tôi chắc chắn kết cuộc đã đến, vấn đề là chỉ trong vòng vài ngày. Bấy giờ tôi có dịp vào căn cứ David trong phi trường Tân Sơn Nhất, có gặp mấy tay đại diện Chính phủ Cách mạng Lâm thời. Hôm ấy, nhằm phiên họp hàng tuần, trước khi Thiệu từ chức, tôi nghĩ thế. Khi cuộc họp ngắn đã xong, vài người chúng tôi đang đứng nói chuyện thì một tay đại diện chính phủ Cách mạng Lâm Thời đến hỏi tôi rằng tôi đã định chương trình đi nghỉ phép năm nay chưa. Cuộc đàm thoại với anh ta đủ cho tôi hiểu nếu tôi muốn đi, bây giờ đã đến lúc rồi. Chúng tôi cớt nhả chút đỉnh, tôi hỏi: “Chừng nào quân đội miền Bắc kéo tới?” Anh ta nói: “Thưa ông Ellis, ông biết mà. Làm gì có quân đội Bắc Việt tại miền Nam”. Vẫn cái lưỡi không xương lắt léo. Tuy nhiên với những điều anh ta nói, tôi đi đến kết luận là nếu có gì không chắc chắn cần phải kiểm chứng, tôi chỉ việc vào căn cứ David là xong.

Bây giờ tôi quan tâm đến một điều: tôi muốn ở lại đến tận ngày cuối cùng. Tôi nghĩ sẽ còn nhiều chuyện hay, tôi không sợ sệt gì cho tính mạng tôi cả.
Nhưng sau khi nghe chuyện Ed Bradley và Mike Marriott bị cảnh sát xua đuổi, tôi bắt đầu lo lắng. Vài lần ra phi trường tôi đều bị cảnh sát làm khó dễ. Rõ rệt, họ đang phẫn nộ. Mọi người đang ra đi, họ nghĩ họ bị bỏ rơi. Tinh thế bắt đầu bất tiện. Tôi lởn vởn ý định ở lại, nhưng là một người có gia đình, tất nhiên tôi có bổn phận với gia đình tôi. Vì thế tôi gửi một điện văn sang Nữu Ước, lúc ấy điện thoại không sử dụng được nữa, người ta chỉ còn có thể đánh điện. Và Dick Salant, Chủ tịch CBS ra lệnh cho tất cả ra đi: “Tôi không muốn ai làm anh hùng”. Ông đánh thêm một điện văn nữa: “Không cần anh hùng. Đây là quyết định của tất cả các hệ thống thông tấn”.

Rõ rệt đã có một cuộc họp ở Nữu Ước. Họ quyết định không cho ai ở lại, tất cả phải ra đi. Nếu có người nào ở lại thì mọi bài vở của người này sẽ được đem ra “tổ hợp”, và đó là chuyện tôi không khoái chút nào. Nói cách khác, tức là mọi bài vở tin tức của người này sẽ được đem chia cho cả ba hệ thống thông tấn cùng sử dụng. Việc đó đối với tôi là bất công và bất khả thi.

Thế rồi đến lúc di tản. Đại sứ Martin cho biết khi nào nghe bản nhạc “Giáng Sinh Trắng” trên Đài phát thanh là phải hiểu giờ ra đi đã đến. Nhưng làm sao tôi quay về để bảo mọi người: Khi nghe thấy bản “Giáng Sinh Trắng” thì phải biết ấy là lúc đi đến các địa điểm di tản được ấn định?

Bây giờ là tháng Tư, họ lại chơi bản “Giáng Sinh Trắng”. Họ nghĩ họ lừa được ai? Trước tiên, bọn Bắc việt tất chẳng biết gì chuyện này. Thứ đến, việc chọn nhạc xem chừng quái gở, ít ra cũng phải nói như thế. Bấy giờ ở Saigon, còn cái gì bí mật nữa. Đến giây phút này có ai trong thành phố mà không hay biết. Người ta huýt gió bản “Giáng Sinh Trắng”. Chúng tôi đều cười cợt chuyện ấy. Thế rồi, tôi nhớ lúc ngồi trong văn phòng thì chợt người ta phát thanh bản nhạc này. Một người đột ngột nói: “Tốt lắm. Đến lúc phải đi”. Người ta đứng dậy, xuống thang. Tôi nhớ Ed, Mike, Keyes Beech, Bob Shaplen, và một số người nữa cố len vào chiếc xe buýt. Họ chạy ra Tân Sơn Nhất, gặp trở ngại, rồi chạy ra Cảng. Đã có một danh sách liệt kê những địa điểm di tản được ấn định trước. Danh sách này chỉ dành cho người Mỹ.

Tới thời điểm ấy, tôi chẳng rõ sẽ đi đâu. Mặc dầu giữ chức vụ Trưởng phòng, nhưng tôi không phải là công dân Mỹ. Tôi là “Công dân đệ tam quốc gia”, nên không được quyền lên xe buýt. Tôi cũng chẳng có thể ra Tòa Đại sứ Hoa Kỳ. Người Mỹ không có trách nhiệm gì về tôi cả. Thế là tôi cứ ngồi thườn ra nghĩ ngợi: “Ai xui tôi đến chốn này? Hữu thân hữu khổ kêu ai bây giờ! ” Tôi biết người Anh đều đã ra đi từ lâu, và chắc chắn tôi sẽ không đến cầu cạnh nhờ vả bọn Pháp, mặc dầu phải nói là bọn họ cũng khá tử tế với mấy ông ở Nam Vang.

Tôi xuống Tòa Đại sứ Mỹ. Tôi để một ông bạn người Anh ở lại văn phòng CBS, anh ta tên là Eric Cavalero, cảm ơn tấm lòng tốt của anh bạn. Anh đã từng ở Việt Nam rất nhiều năm, là một thứ linh hồn lập dị Ăng Lê, luôn có những câu châm biếm hết sức quái gở. Anh là người trực đêm, thường trông coi văn phòng. Chúng tôi chia tay nhau theo kiểu rất Ăng Lê, tôi chúc anh mọi điều tốt đẹp nhất. Tôi bảo anh là tôi xuống Tòa Đại sứ Mỹ, tôi sẽ cố, nhưng không rõ có vào được hay không. Anh ta nói: “Tốt. Tôi sẽ đợi đây khi anh về lại”. Chả khác như anh muốn bảo: “Cái ấm đun nước vẫn hâm sẳn. Chúng ta sẽ nhấm với nhau một chung trà”. Thế là tôi đến Tòa Đại sứ. Hàng ngàn người vây quanh. Quân cảnh đòi xem thông hành, tôi đưa tấm thông hành Anh quốc. Họ bảo thông hành này không ích gì, họ khuyên tôi nên về tòa Đại sứ Anh Quốc. Đúng lúc ấy, tôi thấy có người vào, không nhớ rõ ai, hình như John Hogan. Tôi gọi anh ta qua cổng, bảo: “Tôi cần nói chuyện với anh”. Anh ta nói: “Được, được, ô kê, ô kê”.

Vì thế họ hé cửa ra. Tôi bảo: “Này, tôi đã quyết định khôn hồn thì tôi phải đi khỏi xứ”. Anh ta nói: “Họ bảo anh không vào đây được, không có chỗ cho anh đâu”. Anh ta giải thích tràng giang đại hải về chuyện không có chỗ dành cho giới báo chí. Thế rồi tôi trông thấy Bob Simon cùng với David Green và toán quay phim đang thu hình những người cuối cùng ra đi, có một người nào khác nữa, đang ở cả trong sân. Vào lúc này trực thăng đã bắt đầu.
Mấy chiếc trực thăng hạ xuống sân tòa Đại sứ, họ đang thu hình người ra đi, trong lúc tôi vẫn còn bị nghe giải thích và khuyên nên sang tòa Đại sứ Anh. Tôi bèn đi quanh, cố ý tìm Đại sứ Graham Martin. Cuối cùng tôi lọt được vào trong tòa Đại sứ bằng cách leo qua tường. Lúc vào được bên trong thì có một túi xách tay đựng đầy phim ảnh do người nào đó ném qua tường. Do linh tính, tôi cố với tay nhặt lấy, đeo lên vai. Cái túi này có lẽ cần phải được đưa đến một nơi nào đó, chỉ phiền là phải vất vả đeo kè kè trên vai. Bên trong, Tòa Đại sứ trở nên náo động khi trực thăng bay đến, người ta chạy, cố trèo qua tường.

Phần tôi cuối cùng lên được tầng sáu để gặp Graham Martin. Tất nhiên ở đây cũng đang náo động, người chạy ra, chạy vào tấp nập.

Tôi gặp Đại sứ Martin. Chúng tôi đưa đẩy vài câu ngắn ngủi, rồi tôi nói: “Ông xem, tôi nghĩ tôi không có phương tiện nào để đi khỏi xứ”. Ông ta bảo: “Cứ ở đây, chúng tôi sẽ đưa ông đi”. Thế là tôi loanh quanh ở đây, rồi đi xuống dưới sân ngắm trực thăng. Bấy giờ bắt đầu sẩm tối. Số người còn lại chẳng bao nhiêu, những chuyến trực thăng bay vào sẽ là những chuyến cuối. Vài tay Thủy quân Lục chiến nói: “Những ai muốn đi, tốt hơn hết nên chạy lên từng thượng trong vòng 15 phút, hoặc kể như hết đi”.

Thế là tôi lại tất tả chạy vào Tòa Đại sứ, leo cầu thang lên mái nhà. Tôi ngồi bệt ở đấy chờ, nhưng không thấy gì. Chỉ vài người im lìm lặng lẽ. Rồi chiếc trực thăng đến. Một chiếc Huey của hãng Air America. Viên phi công vẫy ngón tay làm hiệu. Chúng tôi không rõ anh ta muốn nói gì vì không có vô tuyến truyền thông, chiếc này không thuộc quân đội. Không có một tần số nào để anh ta nói chuyện được với Thủy quân Lục chiến. Chiếc trực thăng đậu xuống nóc thượng tòa Đại sứ. Thủy quân Lục chiến kéo cánh cửa xuống. Bấy giờ tôi là người duy nhất đứng đấy. Những người khác đã kéo nhau xuống đợi dưới sân rồi.
Lính Thủy quân Lục chiến nắm lấy tôi, nói: “Nếu muốn đi thì nhấc đít lên mà vào”, họ ném tôi vào chiếc trực thăng. Vừa lọt, tôi thấy ít nhất đã có ba người Việt ngồi phía sau. Viên phi công cho cất cánh. Ba gã Việt Nam đã cướp chiếc máy bay!

Đây là một chiếc trực thăng của Air America đang sắp rời Tân Sơn Nhất thì ba người lính Việt Nam Cộng Hòa nhảy vào với mấy khẩu súng lục. Tôi nói: “Tôi mày mò mãi mới vào được đây, thế mà bây giờ lại chui phải chiếc trực thăng đang bị không tặc uy hiếp!”

Chúng tôi bay ra. Tôi ngồi giữa viên phi công và mấy cha lính. Viên phi công quay lại bảo: “Chào mừng quý khách đã vào chiếc phản lực 707 đi Havana (Cuba). Tôi không dám cả quyết sẽ đi đâu, nhưng mấy chú này đang đòi ra mấy chiếc tàu của chúng tôi”. Viên phi công la lên. Tôi nghe câu được câu mất, khó khăn lắm mới hiểu mọi chuyện đang xảy ra. Rối cả đầu.

Chúng tôi nhìn thấy những chiếc trực thăng khác đang bay ra, vì chúng tôi phải ngồi ném hỏa châu để tránh hỏa tiễn tầm nhiệt. Chúng tôi qua sông, bắt đầu hạ cao độ. Chúng tôi bay qua một bãi biển nhỏ, dưới ấy có trực thăng đậu, chúng tôi xuống rất thấp, gã Việt Nam đang nói gì đó với viên phi công. Chúng tôi vòng lại bãi biển nơi có mấy chiếc trực thăng đậu, rồi tiếp theo tôi nhìn thấy mấy chiếc trực thăng ấy bốc lên khỏi bãi biển. Mấy cha này đang tìm cách bay theo một người nào đó. Họ không biết tàu Mỹ đậu ở đâu. Tôi đoán họ không phối hợp gì với ai. Sau này mới suy ra được, nhưng lúc ấy tôi không biết điều này.

Ánh sáng bấy giờ còn lờ mờ, vẫn có thể nhìn thấy được. Tôi thấy đằng sau là cả một đoàn lũ trực thăng bay theo. Chúng tôi định điểm một Hàng không Mẫu hạm, đó là chiếc U.S.S. Hancock. Chúng tôi bắt đầu hướng đến, viên phi công liên lạc được với chiếc tàu.

Khi trực thăng hạ xuống vừa chạm sàn tàu thì lính Thủy quân Lục chiến đã đứng ôm súng chờ lăm lăm. Viên phi công đã báo với họ “Chúng tôi có người với vũ khí trên trực thăng”. Nên khi vừa bước ra thì đám lính Mỹ thổ tả ào tới bắt tôi nằm úp xuống đất, hai tay dang thẳng như chim bay cò bay để lục lọi khám xét. Một tên lục cả vào đít tôi, tưởng có giấu giếm gì trong đó. Đây là chuyện lố bịch nhất chưa từng xảy cho tôi. Mọi sự làm tôi vừa giận vừa ngượng. Tôi luôn miệng nói: “Tôi không liên can gì đến chuyện này sất cả”. Vì thế họ mới kéo tôi sang một bên rồi vặn hỏi mấy cha kia. Đến lúc này tất nhiên các trực thăng khác bay đầy tới, không còn chỗ trên sàn nữa, người ta phải xô sang một bên, đẩy xuống biển. Tình trạng hỗn độn như cái sở thú. Một chiếc đậu xuống mũi chiến hạm. Chiếc này quạt bay hết mọi thứ ở mũi tàu, nó đậu nhào xuống một chiếc trực thăng khác.
Một chiếc chở theo xe gắn máy. Nhiều chiếc mang theo cả những đồ lộn xộn đại loại như vậy mà móc trên lưới. Không phải chỉ trên chiến hạm chúng tôi mà cả trên những chiếc khác người ta cũng phải xô trực thăng xuống biển vì không còn chỗ. Sau cùng, chúng tôi xuống từng dưới, nơi đây chật ních người. Tôi vào một phòng riêng, nơi đây có một số thông tín viên. Ken Kashiwahara đang ngồi đấy. Tôi bước vào: Cái túi đựng phim chính là của anh ta.

Tôi chưa hề bao giờ tranh cãi về việc báo chí đã dự phần vào việc làm cho nước Mỹ thất trận. Các cuộc biểu tình đã diễn ra từ lâu, cả trước khi tôi đến Việt Nam. Có rất nhiều cuộc biểu tình phản đối chiến tranh xảy ra và cứ tiếp tục lan rộng. Tôi không rõ chúng tôi có thể hành động gì ngõ hầu làm cho người ta có thể chấp nhận được cuộc chiến ấy. Song le, chiến tranh quả là một chuyện xấu xa bỉ ổi. Và người ta có thể hỏi tại sao chúng tôi không viết về những chuyện chiến thắng? Vâng, chúng tôi không phải luôn luôn chỉ viết về những tin chiến bại, có thời chúng tôi đã làm những bản tin rất tốt về người Mỹ và người Việt, những loại bản tin được gọi là tin tích cực.

Tuy nhiên, nếu quan sát kỹ mọi chuyện ở đây thì người ta không thể nào tích cực nổi. Chúng tôi đã chứng kiến quá nhiều lầm lẫn. Chúng tôi phải làm gì bây giờ, phải nhìn các sự kiện ở một chiều hướng nào khác mà bảo các sự kiện ấy không bao giờ xảy ra hay sao?

Tôi không nói nhiều về chuyện Việt Nam. Đã có quá nhiều quyển sách được viết, trong đó họ nhắc đến tôi, trích dẫn việc tôi đã nói câu này, câu kia. Tôi cảm thấy phiền về những điều ấy, chắc chắn thế. Có nhiều lần tôi đã từng ao ước phải chi tôi có thể làm khác hơn, cả về phương diện cá nhân lẫn phương diện chuyên nghiệp. Đã có thời tôi từng nhìn lại dĩ vãng mà nghĩ tất cả đều chỉ là một sự uổng phí thôi.

Tôi không đến đấy với hành trang dư thừa như những người khác. Tôi không mang súng ống bắn chác ai. Tôi không phải giáp mặt chuyện ấy. Nhưng tôi cũng đã trải qua ba năm ở đất nước này. Tôi đã mất nhiều bạn tốt người Việt, trong đó có một nhân viên quay phim mà tôi rất yêu mến, anh ta đã bị giết. Thực chẳng vui sướng gì khi phải khiêng xác nạn nhân về để thông báo với gia đình anh. Những người ấy bị sát hại vì họ đã làm tin cho truyền hình Mỹ. Họ chết trong các cuộc tấn công. Trong khi ấy gia đình họ nào có ý niệm truyền hình Mỹ là gì, nào biết chồng họ làm gì.

Tôi đã tới viếng Đài Kỷ Niệm Chiến Sĩ Trận Vong Việt Nam lần đầu tiên với một Cựu chiến binh. Mọi người thường tưởng người tù binh chiến tranh bị giam lâu nhất là Edward Alvarez, nhưng thật ra có một người khác bị giam lâu hơn nhiều. Anh này ở dưới vùng Key West. Anh mới bị chứng trúng phong cách đây không lâu. Năm 1985 khi đang làm một chương trình truyền hình, tôi vẫn cố tìm những cựu chiến binh Mỹ trở lại thăm Việt Nam, đến lúc ấy tôi vẫn chưa hề viếng Đài Kỷ Niệm Chiến Sĩ Trận Vong. Anh chàng này tới Hoa Thịnh Đốn, tôi gặp anh trong một tiệm ăn. Hiển nhiên tôi không thể nào phỏng vấn anh: Anh đã bị trở ngại trong việc phát âm. Tôi nói: “Ngày mai có muốn đi thăm Đài Chiến Sĩ Trận Vong không?… Anh đã đến thăm chưa? Anh có muốn đi không?” Anh ta bảo: “Ừa”.

Hôm ấy anh ta thắng bộ quân phục. Tôi không rõ đã bao nhiêu năm anh không mặc quân phục, nhưng hôm đó anh đã cảm thấy phải mặc quân phục để tới thăm Đài Kỷ Niệm. Chúng tôi đi bộ đến. Nó giống như một bức tường với đầy những cái tên. Tôi không lấy gì xúc động lắm với bức tường này. Chúng tôi bước lần qua, anh ta không ngừng nhìn bức tường. Anh không ngừng lắc đầu nói: “Những cái tên này…. Tất cả những cái tên này!” Rồi chúng tôi bước đến chỗ bức tượng, anh ta đứng đấy nhìn. Và anh bắt đầu khóc. Anh nói “Chúng nó toàn là mấy thằng bé, những thằng bé tử tế tốt lành đó thôi…” Đột nhiên điều ấy đập mạnh vào tâm khảm tôi, những gì anh nói, chúng chỉ là những thằng bé. Người ta thường phân biệt một đàng là những người lính, những người được trả lương, được huấn luyện để đi giết chóc, một đàng là những đứa trẻ con. Nhưng những người lính này, họ cũng đều là những đứa trẻ. Vào giây khắc ấy, tôi chợt nhận ra rằng chi chít trên bức tường kia chỉ là một lũ trẻ con. Điều ấy làm tôi choáng váng. Và đây, người lính đứng đây, người đã từng kéo lê gần mười bốn năm trời trong tù ngục, anh đang tiếc thương cho họ. Anh đứng lặng lẽ, nước mắt chảy dài xuống má. Và lúc ấy, tôi cũng đứng nhìn thời gian trở ngược lại bao năm tháng đã trôi qua.

Về nhiều mặt, may mắn cho tôi vì đã không có một cái tên nào trên bức tường ấy là người mà tôi quen biết riêng tư. Nhưng dẫu thế nào, bức tường vẫn có một sự gắn bó với tôi. Vì về một mặt khác, chính nó đã là một mảnh đời của tất cả chúng tôi.

(1) Quan niệm gia đình trực hệ của người Tây phương chỉ là vợ chồng con cái.

SẮP HẾT THÁNG TƯ SAO EM ?

macphuongtu 

phải không em nhỉ, tháng tư sắp hết
Sao ta nghe đời mới thoáng đâu đây !
Ký ức hôm nào, gầy guộc dưới trời mây,
chiều hạ trắng, chưa phai màu dâu bể.

Phải không em, tháng tư sắp hết
Bên thềm xưa, chưa nhạt dấu rêu xưa !
Sương khói còn vương bên bờ áo lụy
Nên ta còn phiêu bạt đến bây giờ !

Có phải không em, sắp hết tháng tư
Quay quắt lòng ta chớm mùa lựu đỏ
Khi cánh én giã biệt trời sương gió,
Khuất non ngàn, chiều xuống vết tàn dư.

Thuở ấy gió về kéo nắng qua sông
Gió và nắng ngập chiều hương quê mẹ.
Đời rát mặt, ta rát nỗi niềm thật khẽ,
Đàn xưa nhịp loạn phím tơ chùng.

Có những cung đường hoang vu hồn cát bụi
Có những dòng thơ sủng ướt bến điêu tàn.
Nhưng hoa cỏ vẫn còn thơm tình sông núi
Ta gối lòng đêm lên giấc mộng quan san.

Tháng tư bây giờ,
Hay thuở ấy… tháng tư ?
Lời mộng vỡ
Hay mộng còn dang dỡ… !
Cây trẩy lá cho sắc mùa rực rỡ
Đời trẩy mầm thêm nghĩa sống của con người.

Nước mây hội ngộ niềm vui
Cho trang tình sử ngọt lời quê hương,
Cho nghìn thu bạt khói sương
Cánh chim Hồng-Lạc về phương trời hồng.

Tháng tư sắp hết rồi, phải không em ?
Nhớ thuở lòng ta còn phơi phới gió
Khi ngoài kia mới chớm mùa hoa lựu đỏ
Hắt hiu lòng vườn cũ tiếng ru đêm.

Đời ta nay dẫu bóng xế chiều nghiêng
Nhưng lòng ta phải đâu hoàng hôn định ước
Dấu rêu cũ còn xanh bên thềm mùa xuân truớc,
Phía bình minh hương trời đất trăm miền.
Sắp hết tháng tư sao em !
Nỗi lòng cát bụi lên đêm tạ từ
Bây giờ sắp hết tháng tư
Nghe lời vàng đá mùa dư âm về.

 (Louisiana, New Orleans, tháng 4. 2015.)

MẶC PHƯƠNG TỬ.

CŨNG CHỈ LÀ MỘNG MỊ

vungocgiao
tặng chính tôi

ta trở về nơi đã bỏ mà đi
con đường cũ giờ không còn bóng mát
dãy phố xưa đứng cau mặt lầm lì
sao vườn em hương dạ lan thơm ngát ?

hơn mười năm , ta sống đời khinh bạc
rất ngông nghênh ( dù đói rách kinh niên )
hơn mười năm , ta hóa thân trôi giạt
sáng , ngóng vĩa hè – đêm , trọ mái hiên ..

hơn mười năm , ta thắp sáng muộn phiền
bằng thơ , nhạc ( cũng như bằng chén rượu ..)
hơn mười năm , ta đã sống như điên
và , nhăng nhố nói cười như con khướu

ta trở lại một nơi không chỗ trú
vườn hồn em cửa khép tự lâu rồi
ngồi giữa chợ một mình nghe gió hú
rượu cạn vò sao chưa thấy mềm môi ?

phía cuối trời còn một đám mây trôi
chiều tắt thở níu chân ngày hấp hối
“ thôi , về đi ..! ” – ai hát điệu ngậm ngùi
giữa hiu quạnh ngỡ như lời trăng trối

mai lỡ nhớ , xin em đừng khóc nuối
giữa bụi hồng – lạc một dấu chim di
mai lỡ quên , cũng xin đừng bối rối
đời chỉ là mộng mị – có hề chi !

ta trở về nơi đã bỏ mà đi
con đường cũ giờ không còn bóng mát
dãy phố xưa vẫn cau mặt lầm lì
nhưng , vườn em hương dạ lan thơm ngát !

vũ ngọc giao

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, “Tôi mơ một lễ Giáng Sinh màu trắng”

nuocmattruocconmua

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, nguyên tác Anh Ngữ “Tears Before The Rain” là một tập sử liệu về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam, do Larry Engelmann, Giáo Sư Đại Học San Jose State thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn nhiều thành phần: người Mỹ, người Việt, kẻ thắng người bại …Những cuộc phỏng vấn này khởi sự từ 1985, sách xuất bản năm 1990. Bản dịch Việt Ngữ do nhà văn Nguyễn Bá Trạc thực hiện năm 1993, xuất bản năm 1995 tại California.

CHUCK NEIL
(Đài phát thanh quân đội Hoa Kỳ)
“Tôi mơ một lễ Giáng Sinh màu trắng”

Tôi ở Việt Nam từ 1967, làm việc cho nhiều công ty khác nhau. Đến năm 1973 lúc đang làm cho FEC-TTT (Công Ty Điện Lực) thì một tên bạn bảo: “Này bọn quân đội sắp đi. Họ đang kiếm nhân viên dân sự vào thay thế trong đài phát thanh. Sao không đưa đơn? Tôi xem hồ sơ, thấy bạn có nhiều kinh nghiệm về phát thanh và truyền hình lắm”.

Tôi đáp: “Được, nhưng tôi chỉ đứng chạy máy thu hình TV thôi. Còn phát thanh thì cũng có làm xướng ngôn, nhưng lâu quá rồi”.

Tên bạn nói: “Cần quái gì, thử đi. Điện thoại cho Đại tá Hutchinson ở đài phát thanh xem”. Ông là quản đốc đài phát thanh quân đội.

Tôi gọi điện thoại Đại tá Hutchinson. Ông ta cho một cái hẹn. Đúng ngày giờ, vác mặt đến phỏng vấn. Ở đấy có một Trung sĩ nhất, một trong những Giám đốc chương trình. Một cha dễ thương hết sức. Hắn ngồi vào bàn máy. Tôi ngồi vào bàn xướng ngôn đối diện. Hắn đưa cho tôi một tập tài liệu đọc thử, trong đó có một trang đầy tên người, địa danh, có cả tên Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, tên mấy nơi như thủ đô Cairo ở Ai Cập và tỉnh Cairo ở Tiểu bang Illinois. Hắn muốn xem tôi có biết cách phát âm khác nhau không. Rồi hắn đưa tôi đọc một bản văn, loại thông báo. Hắn yêu cầu đọc thử vài đoạn tin. Bây giờ có ba nguồn tin viễn ký: của hãng AP, hãng UPI, và của AFRTS (Truyền hình và phát thanh quân đội tại Hoa Thịnh Đốn).

Tôi quên bẵng vụ phỏng vấn này, cho đến suốt mười ngày sau. Điện thoại reng. Họ bảo “Anh được nhận vào làm”. Thế là tôi đến Đài phát thanh. Ở đấy, tôi gặp E.M. Turvett, từng làm việc ở FEC. Tôi nhận ra anh vì có quen với anh ta. Rồi lại có một tay trẻ, trước là Thiếu úy quân đội, tên là Mike Monderer. Anh ta cũng được nhận với tư cách xướng ngôn viên như tôi. Tay này khá sắc bén, xuất thân Đại học Colorado, từng làm việc bán thời gian cho đài phát thanh bên ấy. Truyền thông là môn học chính của anh ta.

Rồi có một kỹ sư trưởng. Như thế tất cả là bốn nhân viên dân sự Mỹ. Kỹ sư dự khuyết thì có Ed Powers. Trường hợp kỹ sư chính vắng mặt trong giờ phát tuyến, Ed là người thay thế để lo liệu những trục trặc xảy ra.

Tất nhiên khi chúng tôi mới đến, các nhân viên quân đội hãy còn. Họ làm cặp để hướng dẫn chúng tôi trong thời gian vài tuần. Khi các nhân viên này đi vào tháng Ba, họ giữ lại một binh nhì Mỹ, người này làm cho đài đã mấy năm rồi. Họ giữ anh lại giúp việc trong thời gian chuyển tiếp. Anh được xem là nhân viên vô hình, vì trên nguyên tắc lính Mỹ đều đã phải ra đi cả. Nhưng anh ta, cùng một vài nguời nữa, đã được giữ lại một hay vài tháng gì đó sau ngày ra đi chính thức. Họ trở thành những bộ mặt trong bóng tối. Vài người vẫn mặc quân phục, bởi lẽ có thể nại cớ họ thuộc Văn phòng Tùy viên Quân sự, mà trong thực tế thì không.

Thế là bốn dân sự Mỹ chúng tôi vào chiếm lấy Đài phát thanh Quân đội. Đúng ra chúng tôi đã đổi danh xưng đài này. Ian và tôi bàn nhau xem nên gọi tên đài này là gì? Chúng tôi không thể để tên là Đài Phát thanh Quân đội Hoa Kỳ, hoặc Đài phát thanh Quân đội. Sau cùng, chúng tôi giản dị đặt tên là: Đài Phát Thanh Hoa Kỳ tại Việt Nam

Chúng tôi lập một chương trình thường lệ gồm tin tức, âm nhạc, thể thao, phát thanh 24 giờ mỗi ngày trên băng tần FM, vói công suất một trăm ngàn watts.

Chức vụ của tôi là: “Xướng ngôn viên tin tức”. Nhưng khi mới đến thì thượng vàng hạ cám, cái gì cần là làm. Trong mấy tuần đầu chúng tôi cho phát khá nhiều chương trình trực tiếp truyền thanh. Tin tức, chương trình sống: phát ngôn thẳng vân vân. Những nhân viên người Việt thông thạo Anh ngữ đã làm cho đài Quân đội, chúng tôi đều cho lưu dụng. Về chương trình, có nhiều mục đã được thu sẵn vào băng gửi đến. Chúng tôi gọi là những băng “Thời sự”, những băng thu âm các lời tuyên bố của dân biểu nghị sĩ vân vân.

Nhưng ưu tiên là nguồn tin chuyển qua hệ thống vệ tinh đến Phi Luật Tân, từ đó chuyển vào Việt Nam mỗi ngày 24 giờ. Đài chúng tôi có làn sóng ngắn, cũng có một trữ iượng băng phát thanh do Hoa Thịnh Đốn cung cấp, chỉ việc lấy ra sử dụng.

Địa chỉ Đài Phát Thanh là số 9 đường Hồng thập Tự. Ngay trung tâm thành phố, cách Tòa Đại sứ có sáu khu nhà, nằm trong một khu vực riêng biệt, rộng chừng một phần tư hoặc nửa mẫu Anh.

Rồi khoảng năm 1974, chúng tôi bắt đầu cảm thấy Quốc Hội muốn buông tay khỏi Việt Nam. Sau đó họ làm thật. Tôi không rõ chuyện này có tác dụng nghiêm trọng mãi cho đến vài tháng trước khi miền Nam sụp đổ. Lúc ấy chúng tôi lúc ấy không ngừng hy vọng Quốc Hội sẽ tháo khoán một số tiền để giúp miền Nam tồn tại. Nhưng họ từ chối. Đó chính là lý do đã gây nên sụp đổ miền Nam Việt Nam.

Vài tháng cuối, chúng tôi đều biết tình hình khốn nạn đến nơi, nhưng không rõ miền Nam có thể sụp đổ nhanh như thế. Chúng tôi cũng nghĩ Vùng I sẽ mất trước, sau đó có lẽ sẽ là Vùng cuối phiá Nam châu thổ, còn phạm vi vài trăm dặm bao quanh Saigon chắc sẽ giữ lại được một thời gian. Nhưng mọi việc không xảy ra như vậy.

Qua Văn phòng Tùy viên Quân sự, chúng tôi biết một nguồn tin riêng là người ta sẽ bỏ cao nguyên. Chúng tôi sửng sốt lặng người. Chúng tôi nghĩ thôi thế là xong. Hồi kết cuộc bắt đầu đây. Tôi bảo: “Không chừng họ sẽ tái hợp ở phía Nam mà lập hàng rào phòng thủ”. Nhưng đó chỉ là mong ước. Chuyện ấy không xảy ra. Nên sau đó chúng tôi biết mọi chuyện chỉ còn là vấn đề thời gian.

Tôi không phải là người có sáng kiến đưa các tín hiệu thông báo di tản qua Đài phát thanh. Đó là ý kiến của Ann Bottorf, nhân viên ngoại vụ thuộc văn phòng Tùy viên Quân sự. Ann Bottorf đã là người quá cố. Cô ta đi chuyến máy bay C-5 A chở cô nhi, khi cánh cửa bật mở, cô đã bị sức hút kéo tung ra ngoài.

Tôi không nhớ chính xác các tín hiệu báo động lúc đầu được đặt ra thế nào, nhưng rõ rệt cần phải thông báo cho các người Mỹ ở Việt Nam. Tại đó, lúc ấy có rất nhiều kiều dân Mỹ liên hệ đến chính phủ Hoa Kỳ. Họ làm việc cho các hãng tư, các nhà thầu do chính phủ Hoa Kỳ đưa sang. Họ không có phương tiện để biết lúc nào ra đi. Bấy giờ gần như một trăm phần trăm người Mỹ đều nghe đài phát thanh Mỹ, bởi đó là đài duy nhất. Cũng có một vài đài Việt Nam nhưng phần lớn đều chơi nhạc Việt hay Tàu. Thực tế, rất đông thính giả Việt cũng nghe đài Mỹ, vì chương trình nhạc rất hay. Mỗi khi tản bộ trên đường qua các biệt thự hay các chung cư Việt Nam, tôi vẫn thường nghe người ta mở đài chúng tôi và nghe tiếng nói của chính tôi xướng ngôn.

Lúc ấy Ann và một số nhân viên an ninh họp lại, bàn rằng chúng tôi cần phải có tín hiệu báo động. Vì vậy Turvett và tôi điện thoại đến phòng an ninh tòa Đại sứ để xem chúng tôi có thể làm gì qua làn sóng phát thanh, ngõ hầu báo động cho mọi người đến các địa diểm di tản? Tôi bảo: “Tại sao mình không chơi một bản nhạc mà mọi người Mỹ đều có thể tức khắc nhận ra?” Thêm vào đó, phải kiếm một bản nhạc nào không thích hợp, nó trái khoáy giữa mùa hè nóng nực để báo cho người ta biết là phải ra đi. Vậy tại sao không chơi bản “Tôi đang mơ một lễ Giáng Sinh màu trắng?”. Tất nhiên khi đề nghị như thế, tôi nghĩ ngay tới cái điã hát nổi tiếng của ca sĩ Bing Crosby. Nhưng đến lúc sục sạo cái kho chứa cả ngàn dĩa hát và băng nhạc của đài, thì không tìm đâu ra được cái đĩa của Bing Crosby. Tôi đành tạm lấy cái dĩa của Tennessee Ernie Ford, cũng hát bài này. Chả hệ trọng gì, vì sau đó đọc sách của Frank Snepp và những người khác, ai nấy đều nói là đĩa hát của Bing Crosby cả.

Thế rồi sau khi chơi đĩa hát, tôi loan báo: “Nhiệt độ Saigon hiện giờ 105 độ, đang tiếp tục lên cao”. Đó, tín hiệu di tản bắt đầu – chúng tôi thâu âm vào một cuốn băng để sẵn.

Kế hoạch như thế, nhưng rồi người Việt nào cũng biết. Thiếu gì các cậu trẻ Việt Nam nói được tiếng Anh, và những người làm cho Mỹ đều thông thạo tiếng Anh. Tuy nhiên, tín hiệu loan báo này không dành cho người Việt, mà dành cho Mỹ.

Thật khó tả mấy ngày cuối cùng. Chả khác một buổi hội hóa trang, không ai biết chuyện gì sẽ xảy ra. Người ta di tản mỗi ngày, xe buýt chở đầy Mỹ chạy ra phi trường Tân Sơn Nhất. Người ta chứng kiến mấy cha Mỹ đã Đông phương hóa, lấy vợ Việt, đẻ ba bốn đứa con, đèo bồng cả gia đình Việt Nam ra đi trên những xe buýt Mỹ với tay nải hành lý ngổn ngang.

Đêm 28 tháng Tư, ngay hôm 27 cũng vậy, chỉ toàn tin xấu xảy ra. Những vụ nổ đã gây chấn động. Chừng ngày 28, một số nhân viên Đài phát thanh, đa số là nữ nhân viên cùng với gia đình đã được di tản. Họ phải chầu chực ở Tân Sơn Nhất từ ba, bốn ngày trước. Chỉ còn một số người tận tụy được chọn ở lại giúp chúng tôi trong những ngày cuối. Khoảng ba hoặc bốn người Việt. Vào hai ngày chót những người ấy đều đưa toàn thể gia đình vào trong Đài Phát thanh bởi vì ai cũng biết có lệnh ra đi, nhưng không biết chắc lúc nào. Họ lo bị bỏ, nên cứ chắc ăn là đưa cả gia đình vào ngủ trong đài.

Nhưng một gia đình Việt Nam không phải là nhỏ. Họ mang theo cha mẹ, bà nội, bà ngoại, cô dì chú bác, chỉ bốn, năm người ấy đã lôi kéo theo hàng trăm thân nhân, chưa kể bạn bè thân hữu và những người khác chả biết cách nào cũng lọt qua cổng mà vào.

Thế là khoảng hai trăm người đã kéo vào đài phát thanh. Các tiện nghi vệ sinh của đài chỉ được xây cho vài chục người. Họ kéo nước tràn lan bừa bãi. Cả khu vực nồng nực, khủng khiếp, nhưng chúng tôi làm gì được?

Sáng 29 tháng Tư, khoảng 11 giờ 40, một Đại tá gọi đến từ văn phòng Tùy viên Quân sự. Tôi trả lời điện thoại: “Tôi là Chuck, nghe đây”. Ông ta bảo: “Chuck, ở đấy có bao nhiêu người Mỹ?” Tôi đáp: “Bốn”. Ông ta bảo: “Tốt, bạn được lệnh di tản tức khắc. Hãy xuống Tòa Đại sứ bay đi ngay”. Tôi nói: “Lạy Chúa!” Tôi biết quân đội Bắc Việt đã tới Tân Cảng rồi, nghiã là chỉ còn cách vài dặm đường. Ô kê, xong, như thế đấy.

Tôi bỏ điện thoại, đến nói vói Turvett: “Này lan. Xong. Di tản ngay bây giờ”. Lúc đầu, quả chúng tôi đã có một kế hoạch đưa mấy người Việt ra đi, vì chúng tôi đã hứa với họ khi chọn họ ở lại làm việc. Nhưng chúng tôi đành phải chuồn êm không muốn làm cho những người Việt ở đấy náo động vì chúng tôi chẳng cách gì đưa đi được cả hai trăm con người. Chúng tôi có một chiếc xe thùng và một chiếc vận tải nhỏ. Chúng tôi đưa xe vòng sang bên cạnh rồi báo cho mấy kỹ sư Việt Nam biết: “Đừng nói gì với ai. Sang bên cạnh, vào trong xe”. Chúng tôi nói, họ làm theo. Chúng tôi cũng báo cho những người Mỹ, và một thủy thủ thương thuyền chẳng hiểu sao cũng lờ ngờ có mặt ở đấy. Hắn sợ són trong quần vì không biết đi đâu, nên chúng tôi đưa đi theo.

Trong đài có một hệ thống phát thanh tự động. Tôi trở vào, lấy cuốn băng “nóng 105 độ, đang tiếp tục lên cao” và “Tôi đang mơ một lễ Giáng Sinh màu trắng”, tôi bỏ vào máy rồi bấm nút. Đó là động tác cuối cùng của tôi tại đài phát thanh. Nhưng chúng tôi cũng không vội Tôi bảo: ”Ê, có lẽ bọn mình cũng cần có ít vũ khí thổ tả chớ. Tối thiểu cũng phải lấy một khẩu đạn ria”. Mấy hôm trước tôi đã phải mặc áo giáp, giữ một khẩu đạn ria Winchester nòng 12 khi xảy ra mấy vụ nổ mà tôi tưởng là đối phương tiến vào. Mấy thứ đó vẫn còn, tôi chạy vào lấy. Nhưng rồi tôi nhận ra chẳng ích gì. Với một khẩu súng trường đạn ria, làm sao chống nổi cả đạo quân Bắc Việt?

Tôi ném cái áo giáp, nhưng cảm ơn Chúa, vẫn giữ khẩu súng. Trên đường đến Tòa đại sứ chúng tôi phải chấp nhận nhiều thách đố. Lúc này lính Việt Nam Cộng Hòa đã trở nên cáu kỉnh, tỵ hiềm và điên cuồng vì việc chúng tôi ra đi. Người Mỹ đang “de de mau” và bỏ họ lại. “De de mau”, tiếng người Việt Nam nói. Nó có nghiã là: “Biến đi cho lẹ lên!”. Đi đi mau.

Thế đấy, chúng tôi giữ khẩu súng trường đạn ria. Tôi có một khẩu súng lục .38 Colt Cobra. Ian Turvett có một khẩu Walter 380 tự động. Một tay nữa có khẩu colt 45. Chúng tôi trang bị đầy đủ vũ khí từ đầu đến chân. Tôi chui vào cái xe thùng. Bấy giờ đã có hàng trăm người khác đến bám chung quanh đài phát thanh. May nhờ có một thứ giữ cho họ đừng lọt vào, đó là cái hàng rào xích sắt to tổ bố. Chúng tôi hãy còn một vài vệ sĩ người Việt vẫn thi hành nhiệm vụ. Chúng tôi đặt vệ sĩ ở đấy để ngăn người bên ngoài trèo vào. Vậy mà vẫn có người thành công.

Chúng tôi cho xe ra. Trước hết, phải bấm còi để người ta tránh chỗ mới lọt ra được. Họ không thể nhìn sâu vào để thấy có mấy kỹ sư Việt Nam và mấy người Mỹ ngồi bên trong. Phần tôi, ngồi im với khẩu súng dắt cạp quần. Chúng tôi không sợ lính Bắc Việt, nhưng ớn lính Việt Nam Cộng Hòa. Thật trái ngược. Nhưng mấy hôm cuối cùng ấy, đôi khi họ đã chặn người Mỹ để làm khó dễ tại những trạm kiểm soát.

Chúng tôi cho xe ra đường – chỉ cách tòa Đại sứ sáu khu nhà, nhưng ngay ngã tư là một trạm kiểm soát. Họ soát xét, họ không muốn thấy ai đưa người Việt nào đi cả. Mấy cha lính đều có súng M16 cầm lăm lăm, đạn lên nòng sẵn sàng. Không hiểu quý vị có nghe nói chăng, chứ lính Việt Nam Cộng Hòa bóp cò rất lẹ. Mặc dù chỉ bắn lên trời, cũng lẹ lắm. Bọn họ mặt mày rất dữ dằn.

Lúc ấy Turvett lái xe. Tôi ngồi bên ghế hành khách, phía tay phải anh ta. Thế là chúng tôi dừng lại, nói dăm ba câu. Tôi thò tay vào hộc xe, lôi ra một cây thuốc lá Salems. Tôi thảy cây Salems xuống, bọn lính nói “Cám ơn” rồi vẫy chúng tôi.

Tiến thẳng trên đường, dần dà chúng tôi thấy có hàng ngàn người đang vây quanh tòa Đại sứ. Chúng tôi đều nghĩ: “Lạy Chúa, làm thế nào chui lọt đây?” Vâng, thế mà chúng tôi vẫn lọt. Chúng tôi quẹo trái sang con đường nhánh bên cạnh Bộ Tổng Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia, và cánh cổng tới là Tòa Đại sứ. Có một lối vào bên hông, chúng tôi đã vào bằng ngả này. Tại đây tua tủa những nhân viên bảo vệ Tòa Đại sứ với đủ mọi thứ súng ống: Súng máy, súng đạn ria, kể không hết.

Tôi nghĩ xe chúng tôi là chuyến chót được phép vào tòa Đại sứ. Xe chúng tôi có máy phát tuyến làn sóng ngắn, với cây ăng ten to bự sự.

Đầu tiên lính gác chặn lại, không cho vào. Họ bảo: “Vứt cái xe thùng này bên ngoài mà vào”. Xe cộ bấy giờ bỏ ngổn ngang khắp nơi. Chúng tôi bảo: “Không được. Chúng tôi có điện đài khẩn cấp mang theo đây”. Họ nói: “Ô kê, thế thì được. Xem có lọt không”. Bên trong cũng đã chật đầy xe cộ vì người ta phải chừa sân trống cho trực thăng đáp xuống.

Khi chúng tôi vào được thì người ta đang chặt mấy cái cây mọc giữa sân. Chúng tôi vừa đậu xe thì một cha lồm cồm ôm khẩu súng trường, vung vẩy nhảy ra. Tôi kêu lên: “Giải giới đi cha nội!” Tôi nâng khẩu súng dộng cho đạn rơi ra. Thằng chả lờ quờ ôm khẩu súng, chỉ e nó nổ bậy. Trong khu vực này chúng tôi không được giữ vũ khí, nhưng nhiều người vẫn khư khư giữ lấy. Một cha bên hãng Air America phân bua: “Trời đất, khẩu tự động 45 này ăn ở với tui đã sáu năm trường. Tui hổng thể bỏ nó đâu”. Phần tôi, tôi mang khẩu Cobra .38 bé bỏng của tôi đưa ra cho một cậu phòng vệ Thủy quân Lục chiến. “Này, một món quà tặng cho anh bạn”. Cậu lính rối rít: “Giêsu Ma lạy Chúa tôi, cảm ơn đàng ấy nhé”.

Thủy quân Lục chiến và vệ binh tòa Đại sứ đã bố trí một số súng máy nòng 30. Một khẩu đặt ở khu giải trí, nơi có cái hồ bơi. Khẩu này chĩa họng ra cổng đường Hồng Thập Tự. Từ một tuần lễ trước ngày di tản cuối cùng, họ đã hàn những tấm thép che các song sắt. Bên trong, lại dựng thêm sườn sắt cứng. Thế mà, tin tôi đi, cánh cổng vẫn cong vèo vì hàng ngàn con người đè lên nó. Tuy nhiên, bên trong, họng súng máy đã chiã thẳng vào cánh cổng. Chưa hết, người ta còn lăn những thùng dầu rỗng 100 ga lông chận dọc theo cổng và bờ tường, đứng trên ấy trông chừng ra và cũng để nếu cần thì đỡ tay kéo phe ta – những công dân Mỹ – vào trong Tòa Đại sứ. Biết bao cánh tay người Việt cũng dơ lên van nài xin kéo vào. Nhưng người ta không thể làm được. Lạy Chúa, bên trong sân đã đầy nhóc. Chúng tôi đã có đến 3,000 người tỵ nạn, không phải chỉ người Việt mà còn những người đệ tam quốc tịch như Phi Luật Tân, Đại Hàn và tất nhiên, người Mỹ. Khi chúng tôi đến nơi, chừng 12 giờ 15 trưa hôm đó, chỗ này đã chật ních người.

Trong khu giải trí, mặc dầu đông, nhưng người ta vẫn còn tỏ ra khá trật tự. Một vài vệ binh đứng ở hồ tắm. Họ đang thu lượm vũ khí. Họ cầm mấy khẩu tự động, mở cơ bẩm ném xuống hồ. Còn súng lục họ cầm lộn ngược, dốc đạn xuống ngay hồ tắm, súng thì ném vào mấy cái thùng đã đầy nhóc đủ thứ vũ khí. Lúc này người đã tràn vào nhà hàng thuộc khu giải trí. Nhân viên chả có ai. Quản lý có đấy, nhưng anh ta chỉ đứng lơ mơ bên mấy cái tủ lạnh. Vài người lấy thịt bò bít tết ra nướng trên lò, cái kho rượu mở trống hoác. Hàng trăm chai không vứt ngổn ngang, người ta đã mở uống phè phỡn cho đến lúc chả còn gì sót lại. Khoảng ba cho tới bốn giờ trưa hôm đó, bọn Việt Nam ở bên ngoài đã khoá hết nước trong khu vực Tòa Đại sứ. Chúng tôi không còn nước. Ai nấy khát bỏng họng. Tôi kiếm được một chai nước khoáng Vichy, vừa mở xong thì một bé gái Việt nam chừng mười bốn tuổi ngỏ lời xin uống. Tôi trao cái chai, lập tức nó chuyển ngay cho em trai, em gái, tía, má, một lúc quay lại chỉ còn cái chai không. Giê Su Ma, khát chết luôn. Tôi không được nhắp một giọt nước nào cho mãi tới khi Thủy quân Lục chiến kéo đến. Cái trực thăng đầu tiên đến lúc bốn giờ, tôi nhớ chừng như thế. Nó hạ xuống ngay trong bãi đậu xe.

Người Mỹ là ưu tiên một. Bấy giờ họ đang ngồi, bèn đứng cả dậy sắp hàng dài quanh hồ bơi. Những người Mỹ này là những người Mỹ cuối cùng rời Việt Nam, ngoại trừ dăm anh lạc lõng đâu không kể. Tôi không nhớ tất cả bao nhiêu. Không nhiều. Chừng vài trăm người Mỹ. Số còn lại là người Việt, người đệ tam quốc tịch. Giêsu Ma, bây giờ tôi vẫn thấy cảnh này hiện rõ trước mắt. Dĩ nhiên, lúc ấy thời tiết nóng bỏng còn hơn địa ngục.

Chỉ một lúc sau đó, trước khi trời đổ tối, những tiếng nổ chợt vang động. Vài Thủy quân Lục chiến thét lên. Đây là lần đầu tiên tôi nghe Thủy quân Lục chiến thét: “Bỏ mẹ, chúng nó tấn công”. Lúc ấy tôi đang ở bên trong Tòa Đại sứ. Tôi vào trong tòa nhà được vì tôi có thẻ thông hành. Giữa khu giải trí và tòa nhà Đại sứ có một cái cổng và một hàng rào ngăn. Tại đây tôi thấy Đại sứ Martin đang ở trong hành lang. Tôi thấy ông bước ra từ văn phòng của một thuộc hạ. Đúng như người ta có thể hình dung, ông có vẻ khá sợ hãi. Vì một vài lý do, tôi cần lên phòng truyền tin của tòa Đại sứ, đâu đó trên từng ba hoặc từng bốn. Tất nhiên mọi thứ thực lộn xộn. Một số lớn nhân viên Tòa Đại sứ đã ra đi, bỏ vũ khí lại bừa bãi. Những khẩu súng lục đẹp đẽ vứt khắp nơi. Có lẽ Thủy quân Lục chiến sau đó sẽ thu nhặt trước khi rời khỏi xứ.

Trời đổ tối. Không biết đại liên hoặc rốc kết, nhưng có những tiếng nổ rầm rì. Tôi không biết địch quân có định sáp tới Tòa Đại sứ không, tôi thì tôi tin họ sẽ để yên cho chúng tôi đi. Nhưng đôi lúc, có những loạt súng nhỏ bắn vào. Tôi nghĩ là của đám lính Việt Nam Cộng Hòa rã ngũ, nhưng tôi không thể xác định. Cũng có một tiếng nổ lớn bên bờ tường. Lúc đầu tôi nghĩ địch quân sắp đến. Ngay cả khi đi rồi tôi cũng nghĩ vậy.

Mãi một giờ sáng, tôi mới ra khỏi xứ. Tôi là một trong vài người Mỹ cuối cùng di tản.

Chúng tôi leo cái cầu thang khốn khổ ấy lên nóc thượng, từ đó nhìn xuống thấy toàn khu giải trí chật ních người Việt và những người đệ tam quốc tịch. Chiếc trực thăng đang đợi. Có khoảng bốn mươi kỹ sư Việt Nam cùng đi chuyến này với chúng tôi.

Tôi biết chuyến này là ra đi mãi mãi, hoặc ít ra cũng là cho một tương lai rất xa. Thành thực mà nói, tôi cảm thấy ghê tởm mọi thứ. Tôi cảm thấy chúng ta đã bỏ rơi rất nhiều người.

Sau hết, tôi ở nơi này đã nhiều năm, đất nước này đã trở nên gần như quê hương tôi. Và tôi cũng nghĩ đến nhiều thanh niên thiếu nữ tôi quen biết. Vài cô bán ba. Vài cô chiêu đãi viên. Một vài người trong đám là những người tử tế. Tôi không nói về các cô điếm. Tôi biết một cô đã thành hôn với một người bạn tôi. Tôi không ngừng tự hỏi chẳng biết họ ra sao, liệu họ sống sót nổi hay không? Tôi gần như muốn quyết định ra khỏi Tòa Đại sứ mà ở lại.

Chiếc trực thăng trở chúng tôi bay đi không trở ngại nhưng có nhiều chiếc phía dưới sân gặp khó khăn mới lọt qua tường. Mấy chiếc ấy chở nặng quá. Họ phải ném bớt hành lý. Nhiều người phải nhảy ra bớt mới bốc nổi.

Tất cả có chừng bốn mươi ba hoặc bốn mươi tư người trên chiếc trực thăng chúng tôi. Trong lúc bay, chúng tôi thấy Long Bình bốc cháy. Lửa khói khắp nơi.

Nhiều người ngồi trong trực thăng xao xuyến lo âu. Nhưng lên đủ độ cao, chúng tôi chỉ bay có khoảng trăm dặm là đến hạm đội. Chỉ bốn, năm mươi dặm là đến Vũng Tàu, và chừng sáu mươi dặm từ đấy đến tầu Hancock. Như vậy tôi nghĩ chuyến bay khoảng một giờ rưỡi đồng hồ. Trong lúc bay ra, tôi có thể nhìn thấy ánh đèn ở Vũng Tàu.

Tôi thấy biển, thấy những cuộn sóng bạc đầu. Và tôi nghĩ Chúa ơi, tôi vẫn chưa sẵn sàng rời khỏi nơi này. Tôi cảm thấy còn bỏ lại nhiều người quá.

Vào giây phút rối rắm ấy, tôi có đầy cảm xúc lẫn lộn. Một mặt, tôi sung sướng đã an toàn đi thoát, không sứt mẻ gì. Một mặt, lại luyến tiếc phải ra đi vội vã như thế.

Ngày hôm sau, lúc mười một giờ sáng tôi hãy còn nghe tiếng chính tôi trên máy phát thanh đang loan: “Bây giờ là mười hai giờ đêm ở Saigon, tại đài phát thanh Hoa Kỳ,” Giêsu Ma, tôi nghĩ. Ở đó có cái máy phát điện chạy dầu cặn. Cái máy vẫn tiếp tục chạy, nên phát thanh vẫn tiếp tục. Tôi tự bảo: “Tức cười là đối phương vẫn chưa chịu đến mà tắt hoặc cho nổ phứt cái đài này đi”. Nhưng họ đâu có muốn nổ đài. Họ muốn giữ nguyên các khí cụ còn để lại.

Khi trực thăng vừa chạm xuống, bọn hải quân kéo ngay chúng tôi sang một bên tàu. Tôi đang đứng đó với mấy cha kỹ sư Việt Nam thì chợt họ hô: “Ô kê, tụt quần xuống”. Tôi bảo: “Ơ kìa, không được”. Nhưng mấy cha Việt Nam đã tuân lệnh tụt hết quần xuống, lại còn ngúc ngoắc ngón tay vẫy vẫy. Họ muốn khám vũ khí. Tôi nghĩ, mẹ kiếp, chả biết người ta giấu được vũ khí gì trong hậu môn? Chả lẽ giấu dao? Tôi bảo lan: “Giêsu Ma, mấy cha nội Việt Nam chắc hẳn phải nghĩ rằng đây là một… phong tục rất lạ của người Tây phương!”

Sáng hôm sau, các máy bay trực thăng của Không quân Việt Nam bay đến hạm đội, chừng nửa tá Thủy quân Lục chiến ôm súng M16 lăm lăm quỳ xuống chĩa vào trực thăng. Một Thủy quân Lục chiến tiến lên, kéo khẩu súng máy nòng 30 từ trên giá vứt qua thành tàu, rơi tõm xuống biển. Rồi họ ra lệnh cho nguời ta đứng dang chân tựa người vào trực thăng để soát vũ khí. Đó là những phi công Việt Nam. Nếu thấy được võ khí, người ta ném qua thành tàu. Người ta cũng kéo mấy chiếc xe Honda, vứt xuống biển. Bọn Việt Nam nhìn với cặp mắt khiếp hãi. Bởi lẽ thay vì chở người tỵ nạn, họ đã cố dành chỗ trên trực thăng mà nhồi nhét mấy chiếc Honda này, nhưng bây giờ mấy cái xe gắn máy lại bị Thủy quân Lục chiến kéo ra, ném xuống biển. Âu thế cũng phải. Và rồi người ta cũng xô cả những chiếc trực thăng, họ đẩy luôn xuống biển khơi. Đám sĩ quan Việt Nam lúc ở trong nước vẫn có bộ dạng dương dương tự đắc, cáu kỉnh gắt gỏng. Nhưng thái độ của họ thay đổi rất nhanh sau khi bước chân lên tàu Hancock.

Và người ta lùa họ xuống phía dưới, hệt như mọi người khác. Nhiều người trong bọn họ bèn tháo bỏ phù hiệu, lon lá ra.

Cho đến hôm nay, tôi vẫn nghĩ về Việt Nam. Tôi luôn luôn nghĩ đến Việt Nam. Dầu sao chăng nữa, tôi cảm thấy hình như đó vẫn còn là một vấn đề chưa hoàn tất. Việt Nam là một công chuyện dở dang.

CHÁO LÚ.

caovantam

Chưa qua hết tháng tư, trời vội nóng,
Chợt thèm ăn cháo lú quán âm hồn
Húp cho hết để vượt cầu sinh tử…
Ngoảnh lại nhìn chưa qua hết tháng tư…

Cao Văn Tam

GIỮA NHỮNG ỒN ÀO CỦA THÀNH PHỐ

nguyenhaithao

Giữa những ồn ào của thành phố
anh lặng im
Giữa những xô bồ cuộc sống
anh ẩn sâu
trong thế giới riêng
Trái đất và tầng ô-zôn hôm nay
En Ni-nô, La Ni-na
Lụt lội – bão giông – nắng mưa… bất chợt
Thiên tai
xáo động lòng người!

Năm 2015 có gì vui?
Tình yêu nối mạng
Hạnh phúc sấm chớp
Áp thấp trái tim mỗi ngày
Đêm và anh
chập chờn những giấc mơ phù phiếm
Ngày và anh
nhọc nhằn
gạo – tiền – cơm – áo

Bài thơ viết tặng em
bỏ dở nửa chừng…
Còn lại một trái tim
lắt lay nhịp đập
ngoài hiên
giữa những ồn ào của thành phố…

NGUYỄN HẢI THẢO

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, “Chiếc xe buýt chạy nghiến lên đứa trẻ sơ sinh.”

nuocmattruocconmua

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, nguyên tác Anh Ngữ “Tears Before The Rain” là một tập sử liệu về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam, do Larry Engelmann, Giáo Sư Đại Học San Jose State thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn nhiều thành phần: người Mỹ, người Việt, kẻ thắng người bại …Những cuộc phỏng vấn này khởi sự từ 1985, sách xuất bản năm 1990. Bản dịch Việt Ngữ do nhà văn Nguyễn Bá Trạc thực hiện năm 1993, xuất bản năm 1995 tại California.

KEN KASHIWAHARA,
(Hãng tin ABC)
“Chiếc xe buýt chạy nghiến lên đứa trẻ sơ sinh.”

Tôi có mặt ở Việt Nam để làm công tác cho hãng tin ABC trong sáu tuần lễ cuối cùng của cuộc chiến. Tôi đã ở đó từ giữa tháng ba cho đến cuối tháng tư năm 1975.

Khi đến đó, tất nhiên tôi đã chứng kiến cảnh hỗn loạn, nhưng tôi không có cảm giác xứ sở này sẽ sụp đổ. Tôi không hiểu tại sao, có lẽ tôi đã nhiễm tinh thần lạc quan, nó kéo dài đến tận ngày cuối cùng. Rất nhiều người trong giới phóng viên chiến tranh cũng đã lạc quan như thế. Họ đều tin tưởng sẽ có những vụ dàn xếp vào phút chót, có lẽ sẽ có những vụ chia đất.

Một trong những công tác mà tôi phụ trách vào cuối tháng Tư bấy giờ là lấy tin từ phía Quốc hội Việt Nam. Họ đang tranh cãi việc Tướng Minh nắm quyền. Nhiều người lúc ấy rất lạc quan về việc Tướng Minh làm Tổng thống, họ tin ông ta sẽ được Bắc Việt chấp nhận, Bắc Việt sẽ ngừng các cuộc tấn công và thương thảo.

Khi mới đến Việt Nam, tôi đi ngay ra Qui Nhơn. Máy bay vừa hạ tôi đã thấy dân chúng rời thị xã, lếch thếch hàng trăm người, hướng về phía Nam. Ngủ đêm tại nhà một người Mỹ, sáng hôm sau chúng tôi đi thu hình dân chúng di tản, rồi quay trở lại phi trường. Một chiếc máy bay thuê bao đáng lẽ phải có mặt để đón chúng tôi, nhưng chiếc máy bay này không bao giờ đến. Sau này chúng tôi được biết các nhân viên trong đài kiểm soát không lưu đã bỏ chạy, phi công từ chối hạ cánh vì không rõ Bắc Việt hay Nam Việt đang trấn giữ nơi này. Vì thế, chúng tôi cứ ngồi lì mà chờ ở phi trường.

Ngồi như thế suốt mấy giờ đồng hồ, cuối cùng tôi tự bảo “Thế này thực lố bịch.” Nhìn một máy bay đang bốc người trên phi đạo, tôi nghĩ “Phải đi chuyến này thôi.” Tôi bèn chạỵ lại phía phi công, bảo anh ta: “Này bạn, chúng tôi làm cho hãng thông tấn ABC. Chúng tôi đang cần về Sàigòn. Cho đi được không?” Anh ta nói: “Được. Nhưng các ông phải ngồi trên sàn.” Chúng tôi nhảy vào máy bay, ngồi bệt trên sàn phi cơ, cứ thế về Sàigòn.

Hôm sau, Qui Nhơn rơi vào tay Cộng sản.

Bấy giờ tại Việt Nam, hãng ABC có chừng bốn hoặc năm thông tín viên phụ trách những loại tin khác nhau. Loại tin tôi phụ trách chủ yếu thuộc vùng ngoại vi Sàigòn, thu tin về các cuộc hỗn loạn tại vùng quê. Bấy giờ dân chúng đang chạy khỏi các tỉnh lỵ, hướng về ven biển hoặc về phía Nam, chỗ nào cũng đầy hỗn loạn.

Sau khi Qui Nhơn mất, tôi ngược ra Nha Trang. Khi chúng tôi đến, mọi việc vẫn có vẻ khá bình thường. Trên đường phố, không có cảnh đám đông dắt díu tay xách nách mang. Chúng tôi ngủ một đêm trong thành phố, hôm sau lái xe vào Vịnh Cam Ranh vì nghe nói có một số Thủy quân Lục chiến từ Đà Nẵng đổ vào. Chúng tôi muốn gặp họ. Tại Đà Nẵng, một số lính Việt Nam đã nổi điên. Họ bắn giết thường dân. Hãm hiếp phụ nữ. Họ hoàn toàn điên loạn. Chính phủ Nam Việt Nam bốc nhiều Thủy quân Lục chiến lên tàu, đưa họ vào Cam Ranh. Nhưng họ đổ xuống một khu vực cấm, chúng tôi không được phép đến gần. Sau đó chính phủ (Nam Việt nam) lại lùa họ xuống một chiếc tàu khác, đưa vào Vũng Tàu.

Trưa hôm ấy khi chúng tôi trở lại Nha Trang, tình trạng đã thay đổi ghê gớm. Toàn tỉnh lâm vào cơn hoảng hốt. Dân chúng bồng bế, mang vác mọi vật dụng, ùa khỏi tỉnh, chạy về hướng Nam. Toà lãnh sự Mỹ bị đám đông vây kín. Chính phủ Mỹ đã thuê máy bay để chở một số người đi, hàng ngàn người Việt Nam muốn tràn vào mấy chiếc máy bay này.

Chúng tôi vào toà lãnh sự sắp đặt chuyến bay. Khi ra phi trường, tại đấy đã có hàng ngàn người. Phần lớn các máy bay thương mại ra Nha Trang bị hủy, người mắc kẹt cả ở phi trường. Chúng tôi thu xếp lên được một chuyến do chính phủ Mỹ thuê bao. Chúng tôi đi kịp thời. Hôm sau, Nha Trang mất.

Khi quân Bắc Việt tiến đến càng gần Sàigòn thì sự di chuyển của chúng tôi càng bị nhiều cấm đoán. Chúng tôi tìm cách ra được Vũng Tàu vài lần để thu tin về các biến cố xảy ra ở đấy. Có một số tàu từ phía bắc đổ tới, chúng tôi thu được hình những người Việt đổ xuống, bị quân đội chính phủ tịch thu khí giới.

Vào những ngày ấy, nỗi bực bội đối với giới thông tín viên gia tăng, chúng tôi e bất cứ lúc nào quân đội cũng có thể quay súng lại chúng tôi. Vì đó chúng tôi dè dặt, không quá xông xáo để lấy tin. Thí dụ thấy lính đưa một số Thủy quân Lục chiến lên xe buýt, chuyến xe hướng về phía Sàigòn. Chúng tôi chỉ chạy theo. Đến một trạm gác trên đường, tất cả Thủy quân Lục chiến đều phải ra khỏi xe để khám xét, rồi lên xe trở lại.

Chính phủ (Nam Việt Nam) không muốn chúng tôi thu hình những cảnh ấy. Nhưng tôi có một nhóm thông tín viên người Việt, và phần tôi cũng thường bị người ta lầm tưởng là người Việt, người phụ trách thâu hình của tôi bèn tìm cách nói với mấy người lính ở Vũng Tàu rằng chúng tôi là đoàn quay phim của chính phủ. Vì vậy họ mới để cho chúng tôi thu hình đám Thủy quân Lục chiến.

Tôi vẫn nhớ vụ dội bom dinh Tổng thống ngày 8 tháng tư. Hôm ấy tôi đang ở trên phòng làm việc tại khách sạn Caravelle, đứng ngay cửa sổ nhìn ra thành phố Sàigòn. Tôi chứng kiến một chiếc máy bay bay rất thấp trên thành phố. Việc này làm tôi kinh ngạc chú ý, vì thường thành phố không có máy bay bay qua, nhất là máy bay chiến đấu. Chiếc máy bay có vẻ sà xuống, tôi thấy những vật từ máy bay rơi ra. Tôi nghe tiếng nổ. Những cột khói lớn bốc lên. Tôi tự nghĩ “Trời ơi, gì đây” chúng tôi ra xe, đua nhau chạy đến dinh Tổng thống. Bấy giờ đủ loại súng đang nhả đạn lên trời, lính chặn hết các ngả đường dẫn đến dinh. Tôi băn khoăn không hiểu chuyện gì. Sau đó, mới khám phá là một phi công Nam Việt Nam đào ngũ lái một máy bay của Không quân Nam Việt Nam dội bom lên dinh Tổng thống. Việc này trở thành đáng sợ vì ở Nam Việt Nam người ta không hề lo máy bay dội bom. Người ta chỉ lo các loại súng cá nhân, rốc-kết hay súng cối. Nhưng bây giờ chúng tôi phải nghĩ đến chuyện máy bay thả bom, tôi sợ nếu đã có một chiếc máy bay dội bom dinh Tổng thống thì chắc chắn sẽ có những chiếc khác nối theo. Nên tôi không còn muốn quanh quẩn ở dinh Tổng thống nữa. Không thể biết chuyện gì có thể xảy ra kế tiếp.

Thế rồi hãng tin ABC bắt đầu rút nhân viên. Họ đưa nhân viên người Việt đi trước. Giữa toà Đại sứ Mỹ và giới truyền thông đã có thoả thuận, nên các hãng thông tấn đã rút nhân viên Việt Nam ra đi rất an toàn. Họ dư dã thì giờ và việc di tản được thực hiện tốt đẹp. Hãng ABC quyết định rút tất cả nhân viên, ngoại trừ hai thông tín viên và hai nhóm làm tin. Tôi là một trong những người được chọn ở lại.

Trách nhiệm mới của tôi là làm tin di tản. Tôi phải bám sát tất cả những gì xảy ra từ phía chính phủ (Nam Việt Nam). Vào ngày 28, chúng tôi đi làm tin vụ tấn phong tướng Minh, diễn ra lúc buổi trưa. Bấy giờ người ta đều có cảm tưởng ông sẽ là nguồn hy vọng duy nhất của Nam Việt Nam, chỉ mình ông mới có thể cứu vãn được xứ này. Chúng tôi chạy đến tư gia ông vào ngày 27 để thu hình, rồi khám phá là ông đã quyết định không làm lễ tấn phong, vì ngày xấu, “không đúng mấy ngội sao”. Thế đấy, vào lúc Bắc quân tới sát cửa ngõ Sàigòn, vào lúc lễ tuyên thệ của Tân Tổng thống là hy vọng duy nhất của xứ sở thì ông Minh hoãn tất cả lại chỉ vì không gặp được ngôi sao tốt. Thực không tin nổi!

Sau lễ tấn phong, chúng tôi quay lại văn phòng. Về đấy khoảng thời gian ngắn thì đột nhiên tình trạng khiếp đảm bung ra. Hầu như tất cả các họng súng ở Sàigòn đều khạc đạn. Không một ai trong chúng tôi rõ tại sao. Sau chúng tôi mói biết Bắc quân đã bỏ bom và pháo kích Tân Sơn Nhứt, nên lính tráng đều vác súng cá nhân cứ thế nã đạn lên trời với hy vọng hạ mấy chiếc máy bay kia xuống. Từ văn phòng, chúng tôi nghe như có một trận đánh khốc liệt sát dưới đường phố với những họng súng đang nhả đạn. Vì vậy chúng tôi ra ngoài xem, tôi mang theo người nhân viên quay phim. Chúng tôi xuống dưới đường thì gặp một đám lính đang nã súng bắn lên trời. Thấy chúng tôi tiến lại, họ quay súng về phía chúng tôi. Thấy thế tôi bảo: “Phải ra khỏi đây ngay không thì tiêu mạng”. Chúng tôi vội vượt qua nửa khu đường, tránh xa đám lính. Tôi vẫy tay về phía lính, la lớn “Chúng tôi đi đây.” Họ nhìn chằm chằm đến khi chúng tôi qua phía khác.

Trở lại văn phòng, các đường dây điện thoại đều đã bị cắt. Chúng tôi gửi một bản báo cáo bằng máy vô tuyến rồi leo lên giường ngủ.

Sáng sau, tiếng súng trên đường phố làm tôi choàng dậy. Quân Bắc Việt lại một lần nữa pháo kích phi trường. Lính một lần nữa khạc đạn trên đường phố. Tôi đưa nhóm làm tin vào xe chạy quanh thành phố xem chuyện gì. Vào phút này, Sàigòn hỗn loạn rồi. Trực thăng quần trên thành phố, sành sạch bay tới bay lui. Người ta đang được di tản từ toà Đại sứ (Mỹ) và từ vài căn cao ốc khác. Chúng tôi chứng kiến cảnh một chiếc trực thăng bốc người từ sân thượng một căn cao ốc và đã chụp được tấm hình nổi tiếng ghi lại cảnh những người đứng ở cầu thang dẫn lên sân thượng chờ vào trực thăng.

Chúng tôi lái xe chạy đến cửa hàng hợp tác xã Mỹ. Khi chúng tôi đến, dân chúng đã ùa vào hôi của. Bất cứ cái gì mang đi được họ đều lấy, từ vật dụng nhỏ cho đến bếp điện, tủ lạnh. Ngay cửa ra vào vẫn còn một người lính miền Nam đứng gác, hắn đã để cho mọi người vào hôi của, nhưng vì lý do nào, hắn ta vẫn đứng đấy gác cửa ra vào. Bấy giờ tinh thần chống Mỹ lên rất cao, tôi có thể cảm thấy rất rõ. Khi chúng tôi bước vào, tên lính gác chặn chúng tôi lại hỏi “Người Mỹ phải không?” Người quay phim của tôi đáp anh ta là người Nhật. Tên lính quay lại tôi hỏi: “Người Phi Luật Tân à?” Tôi đáp “Phải,” hắn cho chúng tôi vào.

Chúng tôi thu hình toàn bộ vụ hôi của trong hợp tác xã, rồi quay lại trụ sở. Khi về đến nơi, cuộc di tản đã diễn ra. Mọi người đều được dặn phải đến một địa điểm ấn định để đón xe buýt, chiếc xe này sẽ có nhiệm vụ đưa chúng tôi ra phi trường lên máy bay rời xứ. Nhưng mấy chiếc xe buýt biến đâu mất. Chúng tôi vẫn tin mọi thứ đã được dự trù và được tổ chức, nên không có gì cần lo ngại cả.

Cho nên chúng tôi dồn hành lý tại khách sạn, xuống cầu thang. Trong lúc ra, tôi thấy một người Mỹ đứng ở quầy quản lý trả tiền phòng. Hắn ta đang thanh toán hoá đơn, to tiếng cãi vã với người thư ký khách sạn. Tôi tự bảo “Thiệt lố bịch hết sức. Cả xứ đang sụp đổ, thế mà hai cha này vẫn đứng đây cãi cọ mấy đồng bạc!” Tất cả cảnh tượng diễn ra chẳng khác nào có một hòn đảo điên cuồng đang nằm trong toàn bộ của một thế giới điên cuồng khác. Không nghĩa lý gì nữa. Thêm vào sự điên cuồng toàn bộ ấy, là tín hiệu mật báo lệnh di tản. Đó là bài hát của ca sĩ Bing Crosby: “Tôi đang mơ một lễ Giáng Sinh màu trắng.” Bài hát này phát ra trên đài phát thanh quân đội. Bấy giờ là ngày 29 tháng Tư, họ cho chơi bài: “Lễ Giáng Sinh màu trắng!”

Chúng tôi đến điểm chờ xe buýt. Lúc ấy, tất cả đã vỡ ra, toàn thành phố chìm vào cơn hỗn loạn, hoảng hốt. Người Việt Nam đã cảm thấy được việc người Mỹ di tản, vì người Mỹ đều tụ tập đến những điểm hẹn, do đó họ ùa đến những nơi này, họ tin rằng họ có thể leo lên xe buýt mà đi với Mỹ. Cứ mỗi lần xe buýt đến là xô lấn dằng co, người Việt cố nhảy vào. Vì hỗn loạn, tôi tránh ra nên chiếc xe buýt chở tôi chạy đi mất. Tôi lọt lại. Tôi nghĩ “lố bịch quá. Tôi sẽ không đánh nhau để nhảy vào xe buýt đâu.” Thế là tôi đứng đợi. Tôi lạc mất người quay phim và người trưởng phòng. Cả hai lấn được vào xe, còn tôi thì không. Nhưng tôi vào được chiếc xe kế. Chúng tôi chạy đến Tân Sơn Nhứt. Nhưng lúc ấy lính gác Nam Việt Nam ở cổng phi trường quyết định không cho xe buýt vào nữa. Tôi nghĩ họ hết sức bực tức chuyện người Mỹ ra đi. Họ cảm thấy người Mỹ bỏ rơi họ, họ muốn làm một điều gì để chặn chúng tôi lại. Tài xế xe chúng tôi là nhân viên toà Đại sứ. Anh ta bước khỏi xe, đến nói với mấy người lính yêu cầu cho chúng tôi vào. Cãi vã xảy ra. Mấy người lính chứng tỏ quan điểm bằng cách chĩa súng bắn xuống chân người tài xế và la lớn “không được vào.” Anh tài xế lại lên xe buýt, rồi cứ thế lái chúng tôi đi vòng quanh.

Tất cả diễn trình di tản của chúng tôi thế là gãy, tài xế không còn biết làm gì. Hắn ta lại không biết lái xe cho ra hồn. Hắn chưa từng bao giờ lái xe buýt, điều ấy thực hiển nhiên khi hắn ta lái chúng tôi đi quanh. Hắn ta cứ cho xe lòng vòng trong thành phố cố nghĩ xem có chỗ nào cho chúng tôi xuống, xem có ai giúp đỡ gì không. Trong lúc lái quanh như thế, hắn ta đụng hết xe này đến xe khác trên đường, đụng cả mấy sạp trái cây ở những góc đường. Khi thấy chúng tôi chạy ngang, dân chúng trên đường la thét những khẩu hiệu chống Mỹ, như “Bọn Mẽo cút đi”, họ ném đủ thứ vào xe buýt.

Cuối cùng, tài xế chở chúng tôi xuống dưới Cảng để đưa chúng tôi lên tàu. Tới cảng, chúng tôi ra khỏi xe, nhưng vẫn thấy cùng cảnh tượng chúng tôi đã chứng kiến ở những khu vực khác trong thành phố. Hàng ngàn ngàn người đang chờ tàu và xà lan để chạy ra khỏi xứ. Họ đều hoảng hốt. Nhìn cảnh hỗn loạn vô trật tự ấy chúng tôi quyết định không nên ở lại. Chúng tôi bắt đầu quay lui để lên xe buýt. Đúng lúc ấy, người Việt trông thấy, họ ùa đến, tìm cách leo vào xe. Náo động xảy đến, xui xẻo thay, tôi lại là người lọt phía ngoài xe buýt.

Tài xế bắt đầu cho xe chạy trong lúc tôi vẫn còn ở bên ngoài và đang cố tìm cách vào lại trong xe. Đám đông thấy tài xế rồ máy chạy thì nổi giận, họ nắm lấy tôi. Họ cố lôi tôi lại phía đám đông, không rõ tại sao vậy. Trên lưng, tôi có đeo mấy cái túi xách, người ta níu lấy mấy cái túi, kéo tôi lại. Cố vùng vẫy không thoát, tôi quay nhìn mấy người đang níu lấy tôi. Tôi nhớ, lúc quay lại đối diện những bộ mặt giận dữ ấy, tôi thấy hận thù đầy trên mặt họ. Tôi cố lết về chiếc xe buýt lần nữa, chiếc xe chạy vọt đi. Cuối cùng, tôi cởi tuột mấy túi xách, vứt ra, đuổi theo chiếc xe buýt. Tài xế mở cửa. Tôi nhảy vào. Tôi mất tất cả mọi thứ cần mang khỏi Sàigòn. Mất hết.

Rồi chiếc xe rồ máy chạy, tôi nhớ rất rõ một chuyện xảy ra, chuyện này suốt đời không khi nào tôi có thể quên: Một người đàn ông Việt Nam cố chạy theo chiếc xe. Ông ta bế một đứa bé sơ sinh. Ông ta chạy theo xe, chìa đứa bé ra cầu khẩn: “Van ông, van ông, giữ lấy con tôi! Van ông, giữ lấy con tôi.” Chiếc xe buýt tiếp tục chạy. Người đàn ông ngã nhào xuống. Hiển nhiên đứa bé cũng rơi xuống. Người đàn ông buông đứa con. Mấy bánh sau của chiếc xe nghiến lên. Chiếc xe buýt cán qua đứa bé sơ sinh.

Trên xe, tất cả chúng tôi đều chết sững. Người ta rú lên. Vài người cực kỳ kích động. Người ngồi sau thét lên, họ la chiếc xe vừa cán một đứa trẻ. Nhưng tài xế vẫn tiếp tục chạy.

Tôi sẽ không bao giờ quên. Lúc ấy tôi ở trong tình trạng điếng người. Tôi đã ngồi trên chiếc xe buýt chạy quanh mấy tiếng đồng hồ. Bây giờ mới bắt đầu cảm thấy sợ hãi – Lần đầu tiên trong suốt thời gian ở Việt Nam tôi mới cảm thấy thực sự sợ hãi. Đột nhiên, tôi nhận ra có thể tôi không còn thoát khỏi xứ này được. Tất cả mọi người trên xe có thể sẽ không ai rời khỏi chỗ này được nữa. Bấy giờ đã có nhiều dư luận về các cuộc tắm máu xảy ra khi Bắc quân tiến vào Nam. Không ai có thể rõ chuyện gì xảy ra khi Bắc quân tiến vào Sàigòn. Người ta đã đồn về việc sẽ có hành quyết tập thể. Sau này không có cuộc tắm máu nào xảy ra, tuy nhiên lúc ấy, những cảm giác kỳ lạ và vô danh ập đến thực mau chóng. Chúng tôi đều tự hỏi số phận chúng tôi ra sao nếu không đi được khỏi xứ này. Cho nên chúng tôi cứ cho xe chạy lòng vòng mãi không biết đi đâu. Bất cứ chỗ nào chúng tôi chạy qua cũng nghe người ta la ó chửi Mỹ. Tôi tự bảo “Lố bịch quá. Mình phải nói tài xế dừng lại mà ra khỏi xe thôi. Cứ về văn phòng, ngồi đó chờ Cộng sản tới. Không thể tiếp tục chịu đựng thế này nữa.”

Nhưng trước khi tôi kịp nói, trong lúc chiếc xe vẫn tiếp tục rời khỏi cảng, tôi nhớ tôi nhìn lên trời, đột nhiên tôi thấy những chiếc trực thăng khổng lồ Jolly Green bay vào, với những chiến đấu cơ F4 và Cobra bay hộ tống. Thực là một cảnh tượng đẹp đẽ. Nó làm tôi nhẹ người, cất đi tất cả gánh nặng, vì tôi nghĩ: “Đây, chính đây sẽ là phương tiện đưa tôi ra khỏi xứ.” Những chiếc trực thăng Hoa Kỳ đáp xuống ngay trong thành phố. Cùng lúc, mấy người trong xe la lên: “Đi tới toà Đại sứ!” Tài xế bèn chở chúng tôi đến toà Đại sứ. Nhưng khi đến nơi, cũng lại gặp cảnh đám đông nghẹt người. Toà Đại sứ bị bao vây bởi một đám đông khổng lồ đầy những người Việt điên cuồng đang tìm cách trèo qua tường. Vì thế, chúng tôi ra khỏi xe, chạy vào mấy sân quần vợt phía bên kia đường đối diện toà Đại sứ. Trong sân quần, có máy điện thoại. Chúng tôi quyết định thử gọi toà Đại sứ xem chúng tôi nên làm cách nào vào. Thực không tin nổi. Cú điện thoại trót lọt, chúng tôi liên lạc được với toà Đại
sứ.

Một người trong toà Đại sứ trả lời, bảo chúng tôi không thể nào đi vào bằng các cửa nhỏ hoặc cửa chính được. Nếu họ mở cửa, đám đông người Việt sẽ ùa vào. Họ bảo chúng tôi vòng phía sau toà Đại sứ, cố chen qua đám đông rồi leo lên tường. Thủy quân Lục chiến sẽ để chúng tôi vào.

Thử tưởng tượng quang cảnh xảy ra lúc này. Tất cả đều cực kỳ hỗn độn, hoảng loạn tuyệt đối. Có vài người lính miền Nam Việt Nam đứng canh đâu đó phía ngoài, bên những chỗ đại khái như mấy trạm gác, nhưng hoàn toàn vô hiệu. Họ bắn chỉ thiên, cố làm đám đông dịu xuống, lại chỉ làm cho rối loạn hơn. Chúng tôi đi xuyên mấy trạm gác, vòng qua phía sau toà Đại sứ, nhưng nơi đây, cũng lại một trùng vây đông nghịt đang cố leo tường ùa vào.

Trên đầu tường, Thủy quân Lục chiến Mỹ đang đá người ta xuống. Chúng tôi vượt qua được đám đông, tới điểm ấy thì bắt đầu lo. Bởi vì, suốt thời gian ở Việt Nam, người ta thường lầm tôi là người Việt, tôi đã có lợi thế cho đến lúc ấy. Tuy nhiên, lúc này, mọi việc đảo ngược. Khi leo được đến đầu tường, Thủy quân Lục chiến Mỹ tưởng tôi là người Việt, chắc chắn tôi sẽ được dộng mấy chiếc giầy bốt vĩ đại vào giữa mặt.

Tôi loay hoay suy nghĩ, tìm cách sẽ nói thế nào với lính Mỹ hầu chứng tỏ cho họ biết tôi là ngưòi Mỹ. Vào lúc xung động rối bời đó, mỗi một việc có thể nghĩ ra được, là tôi sẽ la lớn : “Đội khúc côn cầu Dodger đã thắng!” Ngày nay nghĩ lại, thực lố bịch. Nhưng bấy giờ, tôi dự định la lên như thế nếu Thủy quân Lục chiến đạp tôi khỏi tường. Nhưng tôi đã không phải sử dụng đến biện pháp ấy, vì có mấy ký giả Mỹ khác và lính Thủy quân Lục chiến nhận ra chúng tôi. Khi leo lên được đến đầu tường, thay vì đạp chúng tôi xuống, một người đã nắm lấy kéo tôi qua.

Lọt vào, mới hiểu tại sao họ cố chặn người Việt lại. Sân toà Đại sứ đông nghẹt người chen chúc giữa mấy bức tường. Trong toà Đại sứ có hàng mấy trăm người Việt cùng những người đệ tam quốc tịch, nhân viên chính phủ Mỹ và rất nhiều cơ quan khác. Họ đứng ngồi đông đặc quanh hồ tắm đợi trực thăng bay vào bốc họ đi.

Khi đã được an toàn trong toà Đại sứ, tôi mới cố tìm những phim ảnh mà chúng tôi thu hình trong buổi sáng hôm ấy. Một người trên xe buýt đã giữ những phim ảnh này, chúng tôi tìm ra anh để hỏi phim ảnh đâu.

Anh ta nói anh mang cái xách tay đựng phim, đã ném vào toà Đại sứ qua bờ tường, nhưng nay không thấy đâu nữa. Đó là suốt một ngày công trình làm việc của chúng tôi, những cuốn phim đặc sắc không tin nổi. Chúng tôi chạy hỏi quanh, khám phá ra là có người đã giao cái xách tay ấy cho một nhân viên hãng tin CBS, người này đã lên trực thăng bay đi rồi. Chúng tôi không rõ có thực thế không. Không biết rồi có thể tìm lại được không.

Chúng tôi vào văn phòng toà Đại sứ, cố kiếm máy điện thoại để gọi báo cáo tin tức xảy ra trong ngày. Nhưng tại đây chỉ có một máy điện thoại duy nhất hoạt động được, và đã có một ký giả đang sử dụng để báo cáo bản tin, chắc chắn anh ta sẽ không rời chiếc máy. Vì thế, tôi tràn đầy bực bội về tất cả những gì xảy ra trong ngày: phim ảnh biến mất, điện thoại không sử dụng được.

Chúng tôi đứng thành hàng chờ trực thăng. Đến chập choạng tối, một chiếc bay tới. Tưởng thế là xong. Nhưng vẫn chưa hết. Chiếc trực thăng hạ xuống bãi đậu xe. Cửa sau hạ xuống, người ta vội ùa vào – chiếc trực thăng bốc đi. Mãi đến khi chiếc của chúng tôi hạ, thì tất cả chen nhau chạy vào, cánh cửa đóng xuống. Chiếc trực thăng cố bay lên. Nhưng được khoảng 20 đến 30 bộ Anh thì ngưng, chiếc trực thăng rơi xuống đàng sau. Đông người quá. Họ mở cửa, xô bớt một số người, thử cất lên lần nữa. Chiếc trực thăng bốc lên được cao hơn một chút, rồi lại rơi xuống lần nữa. Vẫn đông người quá. Ba lần xảy ra như vậy. Tôi tự bảo “Chúa ơi, đã thoát đến đây, vậy mà phải chịu trận ngay tại toà Đại sứ này sao.” Cuối cùng, họ lại bỏ thêm một số người nữa, chiếc máy bay mới đủ nhẹ để cất cánh lên.

Bấy giờ mặt trời đang lặn. Tôi nhìn ra cửa sổ khi máy bay bốc lên. Suốt một vùng quê hình như đang chìm trong biển lửa. Tôi không diễn tả quá đáng. Cả một kho đạn ở Long Bình nằm phía ngoài Sàigòn bốc cháy, mặt trời hạ xuống, và tại một vài khu vực trong thành phố, những ngọn lửa đang dâng cao đến tận trời. Không tin nổi. Khi chiếc trực thăng bay ra hướng biển Nam Hải, tôi có thể nhìn thấy những đám cháy khác nữa chung quanh vùng Sàigòn và Vũng Tàu. Cảnh tượng hệt như toàn thể nước Việt Nam đang bốc cháy.

Bấy giờ tôi rất sợ chiếc trực thăng có thể bị bắn hạ, hoặc do người miền Nam, hoặc do người miền Bắc. Người miền Nam tức giận cực độ vì chúng ta đã ra đi bỏ rơi họ. Nên suốt đường bay, tôi cứ trông chừng rốc-kết, tự hỏi chẳng biết lúc nào phóng tới. Tôi chắc mẩm người miền Nam sẽ bắn chúng tôi bất cứ giây phút nào. Suốt lúc ấy.

Cho đến khi ra đến biển, tôi mới thực cảm thấy thoát nạn. Và đến khi hạ xuống chiếc tàu U.S.S. Hancock tôi tự bảo: “Bây giờ mới là xong.”
Nhưng cho đến lúc ấy, vẫn chưa có thời giờ nghĩ ngợi gì. Tất cả chúng tôi hãy còn căng thẳng cao độ suốt một ngày dài đáng sợ. Vừa khi ra khỏi trực thăng, tức khắc tôi nghĩ: “Thử viết tất cả câu chuyện này xem.” Tôi làm ngay. Ngoài ra, trên tàu Hancock, cuối cùng chúng tôi tìm được mấy cuốn phim. Một người bên hãng CBS quả đã mang ra được cho chúng tôi.

Sáng hôm sau, dù vẫn chưa đủ thì giờ nghỉ ngơi suy nghĩ, thì tôi lại nghe có chuyện xảy ra, tất cả Thủy quân Lục chiến trên tàu đều được báo động chạy lên boong. Các thông tín viên cũng vội lên trên ấy. Nhìn trời, chúng tôi thấy đầy trực thăng. Giống hệt một đàn ong đang tiến lại. Quyết định được đưa ra trên tàu là để cho họ hạ cánh xuống từng chiếc một. Những người trên trực thăng đều là người tỵ nạn Nam Việt Nam. Khi họ hạ cánh, Thủy quân Lục chiến Mỹ đến tước lấy khí giới, rồi xô chiếc trực thăng xuống. Cảnh tượng này cũng không tin nổi. Chúng tôi đều lên boong làm việc, xô những chiếc trực thăng xuống biển, hết chiếc này đến chiếc khác. Trên tàu chúng tôi, cũng như trên tất cả những chiếc tàu khác có mặt, mọi sàn tàu đều chật ních.

Khi công tác di tản hoàn tất, tàu chúng tôi hướng về Vịnh Subic Phi Luật Tân. Trước khi cập bến Subic, nhiều thông tín viên đã bay đi trước để đánh tin. Ed Bradley bên hãng CBS bay đi trước nhất, anh mang theo những cuốn phim của chúng tôi. Phần tôi đi trực thăng từ tàu Hancock sang Blue Ridge. Tất cả những người thuộc nhóm làm tin của tôi đều ở cả bên tàu Blue Ridge. Vừa khi hạ xuống chiếc Blue Ridge, viên trưởng phòng của chúng tôi bảo: “Bạn phải lấy một chiếc trực thăng khác đi khỏi đây ngay. Bạn ở đây không ích gì cho chúng tôi, bạn không thể kể được các câu chuyện đã chứng kiến. Chúng tôi không chắc có kiếm được máy bay cho bạn không, nhưng chúng tôi sẽ cố.” Vì thế tôi được tống vào một trực thăng khác, mang theo mấy cái túi vĩ đại đựng đầy phim ảnh của hãng tin. Tôi bay sang chiếc U.S.S. Coral Sea. Từ tàu này, tôi xoay sở tìm cách vào được một chiếc máy bay, và đây lại là một kinh nghiệm khác nữa. Tôi ngồi trên máy bay, hướng mặt về đàng đuôi, và khi chiếc máy bay được bắn ra khỏi tàu, ngồi ngược như thế tôi cảm thấy như toàn thể mặt mày tôi bị kéo tuột ra ngoài. Cuối cùng, tôi đặt chân xuống phi trường Clark ở Phi Luật Tân. Tôi mang phim ảnh đến một đài truyền hình, tại đấy họ chuyển tất cả hình ảnh về Mỹ qua vệ tinh.

Những ngày cuối ở Việt Nam là những kinh nghiệm mãnh liệt, khó quên nhất đời thông tín viên của tôi. Trong suốt thời gian ấy tôi có khuynh hướng không nghĩ ngợi gì về các biến cố xảy ra. Tôi bị tràn ngập với việc chuyển tin, không thì giờ suy nghĩ gì. Nhưng giờ đây, nhìn lại, tôi có thể thấy những ngày cuối cùng trong tháng Tư năm ấy quan hệ xiết bao. Chính đấy là lịch sử. Chính lịch sử đã được làm nên ngay chỗ ấy. Chúng tôi không những chỉ báo cáo tin tức, mà chính chúng tôi cũng đã dự phần.

Mười lăm năm thấp thoáng trôi qua, nay tưởng chừng tất cả những gì xảy ra như vẫn mới vừa đây. Thường ký ức của tôi không khá, vậy mà hai ngày cuối cùng ấy ở Sàigòn vẫn hoàn toàn in đậm trong trí tôi. Làm sao tôi có thể quên? Làm sao bất cứ ai có thể quên? Cho đến hôm nay, nhắm mắt lại, tôi vẫn thấy tất cả mọi thứ xảy ra trở lại: Những xung động hỗn loạn điên cuồng, những tràng đạn bắn ra, những con người cố gắng trèo qua bức tường toà Đại sứ. Và người đàn ông với đứa con bé bỏng sơ sinh…

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, “Tắt ánh sáng ở cuối đường hầm”

nuocmattruocconmua

Bản dịch Việt Ngữ do nhà văn Nguyễn Bá Trạc thực hiện năm 1993, xuất bản năm 1995 tại California.NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, nguyên tác Anh Ngữ “Tears Before The Rain” là một tập sử liệu về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam, do Larry Engelmann, Giáo Sư Đại Học San Jose State thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn nhiều thành phần: người Mỹ, người Việt, kẻ thắng người bại …Những cuộc phỏng vấn này khởi sự từ 1985, sách xuất bản năm 1990.

FOX BUTTERFIELD
(Báo New York Times)
“Tắt ánh sáng ở cuối đường hầm”

Tôi đến Việt Nam lần đầu vào năm 1962 với tư cách sinh viên cao học đi du lịch,tôi đã dừng lại đấy vài tuần để thăm viếng loanh quanh. Bấy giờ tôi đang ở Đài Loan với học bổng Fulbright, tôi ghé Việt Nam, ở tại nhà vài người Tàu. Chiến tranh đang tiếp diễn. Mấy người bạn Tàu đưa tôi đi thăm một vùng quê. Nơi này rất quyến rũ, nhưng tôi hơi e sợ vì không rõ chuyện gì có thể xảy ra. Lúc ấy sự hiện diện của người Mỹ đã rõ rệt. Lính và cố vấn Mỹ đã ngồi quanh các quán rượu và mấy tiệm ăn. Tôi bị mê hoặc vì đất nước này, tôi rất thích ở lại, nhưng mấy ông thầy ở Đại học Harvard bấy giờ không ngừng thúc dục tôi mau trở về, do đó tôi phải về lại trường. Lãnh vực học vấn của tôi là môn Lịch sử Trung Hoa, và tôi cũng đọc khá nhiều về Việt Nam, do đó tôi trở nên quan tâm đến đất nước này. Tôi từng cầm đầu nhiều cuộc biểu tình phản chiến tại Đại học Harvard.

Bấy giờ về phương diện chính trị, tôi có quan điểm tả khuynh. Tôi đã tiếp tay thiết lập một nhóm hoạt động tên là TOCSIN, vài năm sau, trở thành SDS -(1) Chúng tôi là nhóm hoạt động chống chiến tranh nguyên tử. Vào khoảng năm 1960-1961, chúng tôi nỗ lực kêu gọi ngưng thử nghiệm nguyên tử trong bầu khí quyển. Hoạt động của chúng tôi có kết quả, Kennedy đã ký với Khruschev một thoả hiệp cấm thử nghiệm nguyên tử trong bầu khí quyển.

Kinh nghiệm trực tiếp của tôi sau đó về Việt Nam là vào năm 1969. Ông của tôi là Cyrus Eaton, một thứ Armand Hammer (2) của thời bấy giờ nhận được giấy của một số bạn hữu người Nga mời đến thăm Hà Nội. Lúc ấy, tôi đang làm luận án cao học tại Đài Loan, đồng thời cũng làm việc phụ cho báo New York Times. Ông tôi gọi điện thoại hỏi cháu có muốn đi Hà Nội không. Tôi trả lời muốn lắm, tuy nhiên tôi không xem việc này nghiêm chỉnh. Thế rồi, một tuần lể sau, ông tôi điện thoại đến, bảo: “Mọi việc sắp đặt xong xuôi, đến Nam Vang gặp ông.”

Chuyến đi này đã ảnh hưởng tôi theo một chiều hướng ngược lại với những người khác. Sau khi đã đọc nhiều bài báo của ký giả Harrison Salisbury, tôi đinh ninh sẽ chứng kiến nhiều cảnh tàn phá vì các cuộc dội bom ở Hà Nội. Thực tế, tôi không tìm thấy gì. Tôi trở nên hoài nghi. Tôi không ngừng yêu cầu người ta đưa tôi đi xem những chỗ bom tàn phá, nhưng chẳng ai có thể làm được chuyện đó. Tôi thấy thiệt hại do bom gây ra không đụng chạm gì đến thành phố. Nó dừng lại ở ngoại ô. Như thế những tuyên bố của Hoa Kỳ về việc đánh bom trên căn bản là đúng. Một số thiệt hại nhỏ người ta chỉ cho tôi mà nói do bom gây ra, thực tế chỉ do rốc-kết của chính họ bắn lên, rồi rơi xuống thành phố mà thôi. Tôi nghĩ Salisbury và nhiều ký giả khác đã đánh lừa độc giả với những tin tức sai lạc. Các thông tín viên sau này sang bên ấy vào những ngày cuối của cuộc chiến cũng nói như thế. Thực tế, những tàn phá do bom gây ra không đúng như những gì Bắc Việt tuyên bố. Hoa Kỳ đã rất thận trọng trong việc đánh bom Hà Nội. Họ quả đã đánh nát khắp nơi, nhưng trừ Hà Nội.

Kết luận do tôi thu lượm được trong cuộc thăm viếng Hà Nội là tôi đã tiếp xúc với một chế độ cực kỳ độc đoán. Tôi cũng thấy là họ nghèo khó đến độ không tin nổi. Về một mặt, tôi có thể thấy đây là do hậu quả chiến tranh. Về mặt khác, một trong những việc đập vào trí tôi, là họ đã quyết tâm theo đuổi chiến tranh, bất kể đến việc phát triển xứ sở. Các thủ lãnh Bắc Việt không quan tâm gì đến phát triển kinh tế, không quan tâm đến sự no đủ của dân chúng. Họ chỉ quan tâm đến một mục tiêu quốc gia duy nhất, đó là phải nắm được toàn bộ quyền hành.

Trong chuyến đi này, chúng tôi trở thành những người đầu tiên, ngoài Kissinger ra – đã nói chuyện với Lê Đức Thọ, người bấy giờ đang bí mật thương thảo với Kissinger. Chúng tôi đã gặp Phạm Văn Đồng và chừng nửa tá các thủ lãnh khác của miền Bắc. Tôi thấy họ là những người vừa cứng rắn, vừa thông minh. Họ không quá quan tâm đến con người. Tôi có một ấn tượng mạnh mẽ về quyết tâm đạt đến mục đích của họ, đó là chiến thắng miền Nam, thống nhất xứ sở. Họ kiên định chấp nhận trả bất cứ giá nào để đạt mục tiêu ấy.

Tôi xin kể một việc làm tôi phát sốt. Đó là việc tù binh chiến tranh, bấy giờ đã trở thành đề tài lớn. Bắc Việt không hề cung cấp thống kê, tên tuổi, hay bất cứ gì liên hệ đến tù binh Mỹ, nên không một ai hay biết gì nhiều về chuyện này. Bên Mỹ, dân chúng xúc động về chuyện tìm hiểu tin tức tù binh, nên tôi lợi dụng cơ hội có mặt tại đấy để đặt vài câu hỏi. Tôi không đòi đi gặp tù binh, nhưng tôi có đặt vấn đề là người Mỹ thành thực quan tâm đến việc muốn tiếp nhận một danh sách tù binh. Vì lẽ Hà Nội xem đây là một đề tài không khoan nhượng, nên tôi nói, nếu họ có thể cung cấp một danh sách như vậy, có lẽ họ sẽ đạt được nhiều hỗ trợ ở Mỹ.

Phản ứng lời tôi là những cái nhìn nhạt nhẽo. Họ hỏi: Tại sao người Mỹ phải quan tâm về chuyện này? Sau đó tôi có đề cập với một vài nhà ngoại giao Đông Âu, người Đông Đức và người Hung Gia Lợi, và chúng tôi có vài buổi họp với viên Đại sứ Nga về đề mục này. Tôi nhớ một người Hung Gia Lợi bảo chúng tôi rằng: “Anh biết, người Bắc Việt giản dị không hiểu tại sao người Mỹ lại quan tâm đến các tù binh của mình. Hãy nhìn chung quanh mà xem. Anh có thấy một thương phế binh nào ở đây chăng?” Câu nói làm tôi bàng hoàng. Tại Hà Nội, không hề thấy một thương binh nào. Không hề thấy một người què cụt nào. Tôi hỏi: “Tại sao vậy?” Ông ta bảo “Nếu suy nghĩ thì anh sẽ thấy câu trả lời hết sức giản dị. Đường mòn Hồ Chí Minh là con đường một chiều. Tất cả những người được gửi đi sẽ chiến đấu đến chết, hoặc là sẽ bị bỏ lại đấy.

“Không hề có một ai trở về.” Tại miền Bắc, lệnh nhập ngũ là một bản án tử hình. Họ cũng cho tôi biết có rất nhiều người đã cưỡng lại việc nhập ngũ ở miền Bắc, vì người ta đều hiểu một khi vào bộ đội là sẽ chẳng bao giờ trở về. Cũng đừng quên, gần như không có dịch vụ thư tín ở miền Bắc. Gia đình ở Bắc không bao giờ nhận được thư của người con hoặc người cha vô Nam. Khi vô Nam, kể như người ta chết rồi.

Tại miền Bắc đã xảy ra nhiều việc cưỡng chống lệnh nhập ngũ. Rất nhiều. Nhưng chuyện ấy không bao giờ được nói trên báo chí. Những việc như vậy làm tôi rúng động, về một mặt, tôi nghĩ, người ta đã thi hành những hy sinh cao quí. Nhưng mặt khác, thực đáng sợ! Tôi có cảm tưởng về một mặt các thủ lãnh người Việt miền Bắc thực sự tin tưởng vào nhiệm vụ của họ, là thống nhất đất nước. Nhưng mặt khác, những người dân bình thường ở miền Bắc không hề bao giờ có nhiệt tình đặc biệt gì với cuộc chiến tranh này.

Hà Nội nghèo khó khủng khiếp. Thật khủng khiếp. Nơi này mang nặng một nỗi buồn. Chiến cuộc kéo dài quá, những hy sinh to lớn quá, làm cho con người bình thường trở nên quá sức bơ phờ. Họ kiệt quệ, thiếu thốn từng miếng ăn. Tôi đã từng du lịch qua rất nhiều quốc gia nghèo khó, nhưng chưa hề bao giờ chứng kiến một nơi nào nghèo khó như vậy trên khắp thế giới này.

Các thủ lãnh miền Bắc đã vận dụng nhiều khí cụ văn hoá để theo đuổi cuộc chiến: Lòng trung với đất nước, lòng trung với đảng Cộng sản được vận dụng khéo léo, và đã có kết quả với những người dân ấy. Sau này khi phỏng vấn tù nhân Bắc Việt tại miền Nam, tôi khám phá được họ là những thiếu niên bất hạnh. Trong hàng ngũ họ, nhiều người bỏ trốn, nhiều người đào ngũ. Ngày nay, người ta lại có thể chứng kiến một lần nữa sự bất hạnh nơi những thuyền nhân, nơi kinh tế Việt Nam bây giờ xáo trộn tới đâu.

Các ký giả đến Bắc Việt là một nhóm người được lựa chọn cẩn thận. Họ trở về với những hào quang rực rỡ, giống như những người đã đến Trung quốc vào thời Cách mạng văn hoá. Nhưng những người Đông Âu biết rõ các thủ lãnh Bắc Việt đều hỏi: “Bọn khùng nào thế?” Họ đã chứng kiến những gì xảy ra.

Khi tôi nói chuyện với Lê Đức Thọ và Phạm Văn Đồng về các tù binh chiến tranh, họ chăm chăm nhìn tôi với cặp mắt lạnh lẽo mà hỏi: “Anh nói cái gì? Hai, ba trăm con người à? Kể gì chuyện ấy. Chúng tôi tổn thất cả 200,000 người ở miền Nam, và sẽ không bao giờ gặp họ nữa, vậy có ai quan tâm không?” Thái độ ấy rất nhẫn tâm, và cùng một lúc, cũng làm người ta nghẹt thở. Nó bật sáng những ngọn đèn trong đầu óc người ta. Sau này tôi bảo: “Tất nhiên, làm thế nào họ có thể hiểu tại sao chúng ta quan tâm đến vài trăm tù binh, trong khi họ không có cách gì biết được số phận hàng triệu người của họ?” Đời sống của họ là như thế. Tôi tự bảo: “Chúa ơi, kinh khủng quá.” Thế nên ý tưởng của tôi về “cái lý do thần thánh” đã sứt mẻ nghiêm trọng vì chuyến đi Hà Nội. Tôi là một kẻ đáng tức cười. Khi đi, tôi là người chống chiến tranh. Lúc về, tôi thành người chống Bắc Việt. Tôi nghĩ những người như Jane Fonda đến Bắc Việt đã không chịu quan sát. Những người ấy hoặc chưa được huấn luyện đầy đủ, hoặc căn bản là không nhìn ngó. Họ bị thôi miên vì tiệc tùng, vì những cuộc nghênh đón hoan hô, mấy chuyện như vậy thôi.

Tôi trở nên một phóng viên báo chí trong thời gian này. Tôi viết một loạt bài về chuyến viếng thăm Hà Nội cho báo Times. Sau khi bài đầu tiên xuất hiện, viên Tổng giám đốc phát hành cho gọi chủ bút lại hỏi “Butterfield là ai vậy? Hắn làm gì ở Hà Nội? Tiểu sử thế nào? Hắn là ai?” Một thời gian ngắn sau đó, tôi làm cho tờ New York Times ở New York. Tôi bỏ chương trình lấy Tiến sĩ vì một số lý do. Trước nhất, đề tài luận án mà tôi soạn là thứ đề tài chẳng đi đến đâu. Thứ hai, tôi đã theo ban cao học quá lâu. Thứ ba, bấy giờ là thời của những tay tranh đấu. Tại các Đại học Mỹ bấy giờ người ta chỉ muốn tham dự vào hành động. Cho nên việc lấy bằng không hấp dẫn tôi nữa. Và khi bắt đầu viết cho báo Times, ngày hôm sau nhìn thấy bài của mình in trên báo, thì Chúa ơi! Còn gì thích cho bằng.

Mùa Xuân năm 1971 tôi được gọi đến phụ giúp việc thực hiện “Tập tài liệu Ngũ giác đài.” Sau khi tập tài liệu này phát hành, báo Times gửi tôi đi Newark chừng một tháng, rồi gửi tôi sang Sàigòn. Được nhận công tác này quả là một phần thưởng cho việc biên soạn tập tài liệu Ngũ giác đài ấy.
Về các cá nhân đã đi Hà Nội với tư cách thông tín viên, không một ai sau đó đến Sàigòn, ngoài tôi. Những người đã đi Hà Nội cho rằng “Chúng tôi đã biết tất cả những gì cần biết về Việt Nam rồi.” Harrison Salisbury là một ví dụ về việc này. Ông ta quá tệ trong vấn đề Việt Nam. Hãy đọc các cuốn sách của ông. Hãy đọc các bản tin của ông mà xem. Ông ta đã sai lầm trong tất cả những đề tài trọng yếu về Việt Nam.

Sàigòn là một thành phố sung túc, dân chúng tương đối tự do, vậy mà người ta đã mô tả một cách xấu xa với đầy rẫy cô nhi trên đường phố. “Vâng, đúng như vậy”, tôi có thể bảo họ, “nhưng thử ra Hà Nội mà xem tình trạng xấu đến đâu.”

Tại miền Nam, quả có những người tù chính trị, nhưng ở miền Bắc lại có nguyên những nhà tù to lớn để giam biết bao tù nhân chính trị. Tôi đã nói chuyện với một số ký giả Đông Âu ở miền Bắc, họ đều nghe nói việc ấy.

Lúc tôi đến Việt Nam lần này, lính Mỹ đã trở nên bê bối, lường biếng và bất cần. Đó là năm 1971. Tôi nỗ lực gặp gỡ và gần gũi càng nhiều người Việt càng tốt, thay vì gặp gỡ người Mỹ.

Lần này, tôi đến với một viễn tượng cụ thể. Trước kia, những người đến Việt Nam đều tin tưởng vào chính nghĩa Hoa Kỳ. Sau này, các thông tín viên đến Việt Nam để hoạt động chống chiến tranh. Rất ít người như trường hợp tôi: Khởi đầu bằng các phong trào chống chiến tranh, rồi đã có những thay đổi trong suy tưởng, trong các kết luận. “Việc ấy không phải đơn giản như thế.”

Vì chương trình học vấn của tôi, tôi muốn tìm đến một ngôi làng Việt Nam có nhiều tiếng vang, tôi muốn kiếm một ngôi làng Cộng sản. Tôi xuống Long An. Trước đấy, tôi đã có đọc một cuốn sách của Jeffrey Race nhan đề là “Long An trong chiến cuộc,” một cuốn sách hay nhưng sai lầm từ đầu đến cuối. Thật ra cuốn sách đúng 100 phần trăm, nhưng tới khi tác giả viết xong thì quyển sách đã mất nội dung thực tế. Quyển sách được viết cho đến thời điểm Mậu Thân 1968, và sau cái Tết này, mọi việc đã hoàn toàn thay đổi. Tất cả du kích trong vùng vào Sàigòn chiến đấu đều tử trận. Rồi sau đó Sư đoàn 9 Hoa Kỳ càn đến vùng này, đã quét sạch tất cả cán binh Cộng sản còn sót lại. Cho nên tôi đã bình thản đến làng này mà đi quanh. Quả đó là một ngôi làng từng có cơ sở ủng hộ Cộng sản, nhưng lần này khi đến, tôi có thể tản bộ và ngủ đêm tại đây. Tôi mang theo một thông dịch viên, Nguyễn Ngọc Lương, và tôi đi lại nơi ấy đến mấy lần.

Kết luận của tôi về ngôi làng này là các lý do chính trị của cuộc chiến đã mất rồi. “Suốt những năm chiến tranh khủng khiếp, những hy sinh, bắn giết đã ảnh hưởng nặng nề trên dân chúng, làm cho họ thực sự không còn quan tâm gì nữa. Họ chỉ muốn sinh tồn. Họ khinh bỉ chính phủ Sàigòn về tình trạng nhũng lạm và sự bất tài của chính phủ này, nhưng họ lại sợ hãi Cộng sản về đường lối nặng nề tàn bạo chỉ kêu gọi mộng tưởng mà không kể gì đến bản tính con người. Đối với dân chúng, cái đúng cái sai của một chuỗi mâu thuẫn dài dặc, đã hoàn toàn bị vất bỏ, mà vấn đề thiết yếu chỉ giản dị là làm sao để sống còn thôi.”

Cuộc chiến này không tốt hơn mà cũng không xấu hơn tất cả những cuộc chiến tranh khác. Tướng Weyand có nói rằng bài học chúng ta nhận được tại Việt Nam đó là: Chiến tranh thực bỉ ổi, nhưng đã lâm chiến thì phải dấn mình vào tất cả mọi khía cạnh cuộc chiến. Chiến tranh là giết hại, chết chóc, kinh tởm. Chiến tranh là những gì tuyệt đối xấu xa, nhưng người ta không thể nghĩ khác hơn. Còn nếu không chấp nhận được chuyện ấy, hãy tránh ra.

Nhiều người cho chúng ta có những ác tâm hiểm độc ở Việt Nam, chúng ta xấu xa, người Cộng sản Việt Nam là những người lương hảo. Điều đó là tin tức sai lầm về những chuyện khủng khiếp của cuộc chiến này. Chiến tranh Việt Nam cũng chẳng kém gì những cuộc chiến khác mà chúng ta đã tham dự, tuy nhiên nó đã quá dài so với cuộc đệ nhất hay đệ nhị thế chiến, chúng ta nên nhớ như vậy thôi.

Việc miêu tả về những vụ đánh bom là một ví dụ. Tôi nhớ khi chính tôi tuyên đọc những bài diễn văn phản chiến về các vụ dội bom tại Việt Nam, tôi đã nói về hàng tấn bom mà chúng ta dội xuống. Thế rồi, khi đến Việt nam, đầu tiên tới Hà Nội, tôi cố tìm những chỗ bom tàn phá mà chẳng thấy đâu, thành thực mà nói. Và rồi khi đến miền Nam, tôi sửng sốt về hàng tấn bom chúng ta đã dội nhưng cũng lại chẳng thấy những chỗ tàn phá ở đâu. Chúng ta quả đã dội hàng triệu tấn bom, nhưng chúng ta dội ở trong rừng. Có lẽ, chúng ta đã giết hại một ít người, nhưng chúng ta không hề tiêu hủy các thành phố. Những mô tả về các vụ đánh bom là không chính đáng. Người ta dội bom ở trong rừng, chứ không dội ở đâu khác.

Đến thời điểm 1972, tôi không lấy làm lạc quan nữa. Sau khi hiệp định Ba Lê ký kết, người miền Nam cần phải được Mỹ tiếp tục viện trợ mới giữ cho miền Nam sống sót về phương diện kinh tế, và phải được Mỹ tiếp tục hỗ trợ không lực, thì mới sống sót về phương diện quân sự.

Vào tháng Chín năm 1973, tôi rời khỏi xứ. Tôi nói với người đến thay tôi rằng: “Bạn hãy nhớ, cuộc chiến này sẽ có một kết thúc quân sự. Chớ quên điều ấy. Bạn sẽ phải ra đi và phải nắm lấy những tin tức ấy.”

Tôi sang Tokyo năm 1973, cho đến tháng Ba năm 1975, người ta yêu cầu tôi trở lại Việt Nam.

Tôi lên Pleiku tháng ba năm ấy, nơi đây tôi đến tìm gặp người sĩ quan báo chí tại Bộ Tư lệnh quân đoàn II. Người sĩ quan này luôn luôn giữ một cuốn sổ báo chí nho nhỏ, mỗi lần có các thông tín viên đến, anh ta yêu cầu mỗi người ký tên vào quyển sổ. Lần này khi anh mang cuốn sổ cho tôi ký, tôi thấy người thông tín viên cuối cùng đã ký vào đấy lại chính là tôi đã ký năm 1972. Từ đó đến nay không hề có ai. Không một thông tín viên nào đến cao nguyên, họ đã quên bẵng cuộc chiến vùng này.

Sau năm 1973, các phóng viên tin ở hiệp định Ba Lê, họ đều bị mê hoặc và chú ý vào việc Sàigòn và Bắc Việt đã có các nhân viên tề tựu trong cái căn cứ nhỏ ở Tân Sơn Nhứt. Không ai buồn ra ngoài chứng kiến cuộc chiến thực sự thế nào nữa.

Ở Pleiku, tôi đến thăm một số người Việt. Tôi biết nhiều người ở đó. Tôi gặp một người Việt làm liên lạc cho Trung ương Tinh báo Mỹ, một tay khá lanh lợi, và thăm một số người làm cho tình báo của văn phòng Tùy viên Quân sự Mỹ. Những người Việt và người Mỹ tại đây vạch rõ cho tôi thấy một cách chính xác những gì đang diễn ra. Những người tại đây trên căn bản đều biết rõ quân đội Bác Việt đóng tại đâu, số hiệu các đơn vị, vị trí và mục tiêu của họ. Tôi lên vùng ấy chính là để được nghe những trình thuyết này.

Tôi bèn viết một bài nói về kế hoạch Bắc Việt đang sửa soạn tổng tấn công. Tôi vạch ra mối hiểm nguy của cuộc tấn công này đang treo lơ lửng trên đầu chúng ta, tôi nói cao nguyên sẽ sụp đổ và không một ai có thể lường trước được những hậu quả tàn khốc đến đâu.

Tôi cũng tìm ra một sự kiện nữa trên vùng cao nguyên là giá bán bạch phiến hạ xuống rất thấp sau khi lính Mỹ rút đi. Những tay buôn người Tàu đang kẹt một khối lượng bạch phiến khổng lồ mang từ Thái Lan vào. Những binh sĩ vùng cao nguyên không có việc làm nhiều thường mắc phải bạch phiến. Loại bạch phiến này gần như hoàn toàn nguyên chất, rất mạnh, không pha chế.

Binh sĩ rất xuống tinh thần, lúc bị căng thẳng họ trở nên hoàn toàn vô hiệu quả. Tại một sân bắn nọ, không ai làm gì, suốt ngày chỉ ngồi một chỗ say lơ mơ. Sau khi nói chuyện với họ, tôi tìm ra được là có một tỷ số rất cao trong hàng ngũ binh sĩ chiến đấu tại vùng cao nguyên đã trở nên nghiện ngập. Riêng tại Pleiku, việc này đặc biệt chính xác vì đầu nậu bạch phiến chính lại là con trai viên tỉnh trưởng. Người này làm tại trung tâm hành quân, giá bạch phiến của anh ta rất thấp, rất dễ mua. Vùng này ở trong điều kiện tệ hại, lính tráng lại đầy nhược điểm như thế nên rất dễ tấn công.

Tôi đi thăm khắp cao nguyên, viết thêm một số chuyện nữa, sau đó xuống đồng bằng để viết một số chuyện khác, tôi luôn luôn tìm hiểu các lực lượng quân đội căn bản ra sao.

Dân chúng Hoa Kỳ đã quay lại chống đối chiến tranh. Bất cứ việc gì xảy ra trong cuộc chiến đều bị coi là hoàn toàn không thích đáng. Thế rồi chúng ta rút đi. Việc rút quân của Mỹ chẳng những gây các hậu quả chiến thuật mà còn gây nhiều tác hại tâm lý. Nay binh sĩ Nam Việt Nam mỗi lần đi tuần tiễu đều đinh ninh trong đầu rằng: “Chúng tôi không còn không quân yểm trợ, cũng chẳng có pháo binh yểm trợ, và các tư lệnh địa phương chỉ còn bắn hai loạt mỗi ngày.”

Đúng như vậy. Những phương tiện chủ yếu đều mất. Chẳng hạn việc đi cao nguyên, người ta chỉ có thể đến đó và trở ra mau chóng bằng đường hàng không. Nay khi các yểm trợ không quân của Mỹ không còn, người ta chỉ trông nhờ vài chuyến trực thăng mỗi ngày. Như thế làm sao có thể chống đỡ cho hai sư đoàn? Làm sao nổi, trong khi tại miền này Bắc Việt có đến bốn, năm, sáu Sư đoàn?

Tôi đã chứng kiến những hậu quả vụ tấn công tháng chạp tại vùng đồng bằng. Kể từ sau Mậu Thân, trận tấn công lớn đầu tiên của Cộng sản tại đồng bằng xảy ra tháng chạp 1974. Sự thành công ở trên mức mong đợi của họ. Nam Việt Nam mất một khoảng đồng bằng mà họ đã từng không bị mất kể từ Tết Mậu Thân. Thực rõ rệt, người miền Nam không còn ý chí ngăn chận Bắc quân nữa.

Tôi ở Việt Nam trong ba tuần lễ vào tháng Ba 1975, đã chứng kiến nhiều điều đáng kinh ngạc. Bắc quân mở cuộc tiến quân quy mô và Nam quân đã xuống tinh thần một cách cực kỳ bi thảm. Ở cao nguyên họ là một mục tiêu dễ dãi – họ ngồi như vịt, không hành động gì, không kế hoạch gì. Tôi viết một bài về chuyện này, nhưng không ai chú ý. Không người nào chú ý đến việc ấy cả.

Tôi trở về Tokyo. Sau đó, sang Áo trượt tuyết, kỳ nghỉ này đã được định trước. Khi đang đi trượt tuyết được ba ngày thì Ban Mê Thuột bị tấn công. Tôi đọc tin này trong tờ International Herald Tribune.

Tôi điện thoại cho viên chủ bút phụ trách phần hải ngoại của tôi mà nói: “Chuyện này có vẻ như cái khởi đầu của chung cuộc đã xảy ra đây. Nếu ông cần người, tôi sẽ về bên đó.” Tôi muốn biết chuyện gì sẽ xảy ra, tôi nghĩ tôi vẫn có thể làm công việc một cách tốt đẹp. Một vài ngày sau, cuộc triệt thoái cao nguyên bắt đầu.

Tôi điện thoại lần nữa. Lần này viên chủ bút bảo “Được rồi. Đi đi.” Tôi nhảy lên tàu lửa sang Zurich, bắt một chuyến bay sang Sàigòn mang theo cả đôi giầy trượt tuyết.

Khi tôi đến, Pleiku đã mất, cuộc tấn công bắt đầu thành tựu. Tôi khám phá ra viên trưởng phòng của tờ báo Times là Jim Markham đã lánh sang Bangkok và không bao giờ thò mặt quay lại Việt Nam nữa. Tuy nhiên viên trưởng phòng cuối cùng này đã làm được một việc lỗi lạc. Ông ta tìm được một chiếc máy bay thuê bao. Chiếc máy bay này thuộc hãng dịch vụ hàng không Continental,ở đó hãng này có vài chiếc máy bay. Đây là loại máy bay gián điệp, do một tay nguyên ở Lực lượng Đặc biệt lái, một tay lớn con lúc nào cũng đeo kè kè khẩu súng lục. Trong sáu tuần lễ cuối cùng của cuộc chiến, chúng tôi đã được anh ta lái quanh với chiếc máy bay ấy.

Chuyến đầu tiên tôi đi với anh ta là chuyến ra Đà Nẵng, chính xác đó là ngày cuối cùng Đà Nẵng còn ở trong tay người miền Nam Việt Nam. Rồi tôi bay đến Nha Trang, cũng là ngày cuối mà người miền Nam còn kiểm soát được. Rồi tôi lại đi Phan Rang. Chúng tôi đi rất nhiều nơi, luôn luôn là người cuối cùng rời khỏi những nơi ấy vì lẽ chúng tôi có máy bay riêng.

Tôi trở nên liên hệ mọi chuyện xảy ra với đầy xúc cảm. Cái ngộ nghĩnh là trong vài tuần lễ đầu tiên của cuộc tiến công, người Sàigòn vẫn không thể tin là những tệ hại nhất sẽ xảy ra. Nhưng người Mỹ ra vùng ngoài, đã chứng kiến những gì xảy ra ở Huế, Đà Nẵng, đã chứng kiến những vụ hỗn loạn, đều biết chung cuộc đến rồi. Và những vụ hỗn loạn bắt đầu lan rộng, nhưng cũng phải mất một thời gian ba, bốn tuần mới đến Sàigòn. Chẳng bao lâu, tất cả những người Việt quen biết đều tới yêu cầu chúng tôi giúp đỡ. Tại văn phòng, chúng tôi đã trả lời họ rằng chúng tôi sẽ chỉ làm được những gì trong khả năng chúng tôi thôi.

Bấy giờ giới thông tín viên rõ rệt chia ra làm hai nhóm. Một nhóm theo quan điểm của toà Đại sứ cho rằng sẽ có thương thảo. Một nhóm khác không tin là sẽ có sắp đặt thương thảo gì. Phần tôi nghĩ đời nào người miền Bắc chịu nhận nửa ổ bánh mì trong khi họ có thể lấy trọn ổ. Đồng thời tôi cũng không tin chiến thắng của Bắc Việt sẽ cải thiện Việt Nam hoặc cải thiện gì thế giới.

Nhưng người Mỹ không có sự lựa chọn. Không cách gì chúng ta có thể làm cho Bắc Việt trả giá và ngưng lại nữa. Một khi chúng ta đã quyết định, làm sao có thể thay đổi. Cái bi đát là chỉ người Việt Nam đã thua thiệt xiết bao.

Cuộc di tản cuối cùng trở nên lộn xộn đến độ khôi hài. Tôi có một căn phòng trên tầng thượng khách sạn Caravelle. Tôi là người khách duy nhất trên tầng thượng, nơi đây có một quán rượu. Chỗ này làm tôi bồn chồn vì nếu Bắc quân pháo thành phố, nếu có quả rốc-kết nào rơi xuống phía đường trước khách sạn, cái tầng thượng này sẽ bị thổi tung.

Đêm cuối cùng tại đó, tôi ngủ một giấc không yên, thỉnh thoảng giật mình. Mặt trời vừa lên là tôi đi ngay đến văn phòng, chỉ cách đấy một khu đường. Tôi viết đi viết lại những câu chuyện từ đêm trước, thêm các chi tiết cập nhật, ghi việc hai người lính Thủy quân Lục chiến Mỹ tử thương tại Tân Sơn Nhứt, và việc lính Bắc Việt bây giờ đã có mặt trong thành phố này rồi.

Những bài viết đó chiếm một khoảng thời gian. Thế rồi, tôi nghe bảo lính Bắc Việt đã tiến đến khu vực gần ngay Sở thú Sàigòn. Tôi và thông dịch viên Lương định đến đấy xem sao. Tôi chạy xuống thang, cái xe của văn phòng đã đi mất, nhưng Jim Markham còn bỏ lại một chiếc Volkswagen. Tôi nhảy vào xe, xe không nổ. Tôi mất chừng mười lăm phút cố mở máy, xe vẫn không chạy. Cuối cùng Bal Browne ra đường, rồi vào nói: “Rút dây rồi. Chúng ta sẽ phải di tản. Đi thôi.” Bấy giờ tôi đang ở phía ngoài văn phòng. Bấy giờ giới nghiêm 24 giờ, không ai được ra đường. Tôi quay vào văn phòng, mở ngăn kéo, bốc mớ hồ sơ giấy tờ của tôi. Tôi nghĩ nếu cần phải bảo vệ cái gì quý báu, thì chính là những giấy tờ này. Rồi tôi quay lại khách sạn Caravelle, lấy một cái túi hàng không cỡ nhỏ của tôi. Tôi bỏ hết giấy tờ vào túi, xuống thang. Chúng tôi đi bộ đến điểm hẹn, nơi chúng tôi đã được dặn trước, ở phía dưới đường Tự Do. Chúng tôi đến chờ xe buýt, nhưng không một chiếc xe buýt nào đến. Chúng tôi đợi đấy không lâu, nhưng hiển nhiên, không có gì xảy ra ở đấy. Chúng tôi cuốc bộ tới một khu bịnh xá, lại chờ buýt, xe buýt lại không đến. Chúng tôi đợi chừng một, hai giờ đồng hồ nữa thì lúc ấy người Việt đã kéo đến đông hơn người Mỹ. Gần đấy có một khu chung cư, chúng tôi nẩy ý nghĩ là có thể trực thăng sẽ đến đậu trên nóc mà đón chúng tôi. Tuy nhiên cửa khoá, chẳng có lối nào vào chung cư này. Vì thế chúng tôi cứ đợi, rồi (các ký giả) Keyes Beech và Bob Shaplen đều đến nhập bọn với chúng tôi.

Tôi bắt đầu lo. Cái lo lắng nhất của chúng tôi là làm sao đương đầu với các thường dân Việt Nam trên đường phố lỡ có chuyện gì xảy ra. Lẽ tự nhiên trong một tình trạng như thế, họ rất dễ mất bình tĩnh. Trong thực tế, không kể xiết số người Việt đang cố len vào xe buýt, và quả có một số cũng đã vào được.

Khi đến Tân Sơn Nhứt, trong lúc cố vào bên trong thì nghe tiếng súng nổi lên. Cổng vào được cản lại, bên trong có lính. Họ đang tức tối giận dữ. Họ chận chúng tôi một lúc, cuối cùng cho phép chúng tôi vào. Chúng tôi đi xe vào, vừa đến ngang căn cứ Mỹ bên phía trái chúng tôi, thì một quả rốc-kết bay ngang, chúng tôi có thể nghe tiếng rít rồi xé nổ tung căn cứ Mỹ, chỉ cách xe buýt chưa đầy 50 thước. Miểng đạn và các thứ văng qua xe. Rất gần. Chúng tôi có thể nhìn rõ những chiếc trực thăng bên trong bốc lửa.

Giây phút ấy khá kinh hãi. Cuối cùng, chúng tôi rút vào căn cứ văn phòng Tùy viên Quân sự. Chúng tôi đứng thành hàng dài, chia từng nhóm, mỗi nhóm 50 mươi người mà lính Thủy quân Lục chiến Mỹ gọi là mỗi “cột.” Họ có súng máy, súng cối, họ đang bắn. Tôi bước đến hỏi họ bắn cái gì. Họ trả lời họ đang bắn “bọn bất hảo.” Nhưng tôi không thấy có ai ở đấy cả. Trong lúc đứng xếp thành hàng dài và chuyển dần lên, có nhiều người pha trò. Họ bảo: “Này, mấy bạn đứng phía cuối. Khi đi, xin vui lòng tắt cái ánh sáng ở cuối đường hầm nhé!”

Khi chúng tôi tiến lên được đầu hàng, một viên Đại úy Thủy quân Lục chiến nói “Vứt hết mọi thứ xuống, chạy cho kịp!” Vài người vội vã vứt tất cả xuống đất, có người lễ mễ ôm cái máy đánh chữ, vân vân. Tôi chỉ có cái túi xách quần áo lót, mấy đồ vặt, ném hết, chỉ giữ những tấm giấy ghi chú. Và khi họ hét: chạy, là chúng tôi chạy. Tôi đợi cho tất cả mọi người trong hàng “cột” vào cả trực thăng, thì tôi nhảy vào.

Tôi vẫn cầm bằng là mình không đi thoát trong lúc bay ra. Tôi tự hỏi không biết đối phương sẽ nã rốc-kết lúc nào. Trên đường vào Tân Sơn Nhứt, chúng tôi đã chứng kiến một máy bay của không quân Nam Việt Nam, một chiếc C-119 vừa cất lên được từ 600 đến 1000 bộ Anh thì đụng ngay một trái rốc-kết, vỡ tan tành. Chiếc máy bay chở đầy người. Tôi lo nghĩ: nếu họ có thể hạ chiếc ấy thì họ cũng có thể hạ chúng tôi. Tôi tiếp tục có cảm giác bất an như thế cho đến khi bay tới biển Nam Hải.

Trên đường bay ra khỏi Việt Nam, tôi cảm thấy buồn bã cho những người đang mất nước. Khi theo học về Trung Hoa, tôi biết những gì đã xảy ra ở đấy sau năm 1949. Bây giờ, những gì tương tự chắc chắn sẽ xảy ra ở miền Nam Việt Nam. Tôi biết tất cả cung cách của đời sống cũ sẽ chấm dứt, và những người trước đây từng liên hệ đến chúng ta, nay thế là tuyệt đối kết thúc.

(1) Students for a Democratic Society – Sinh viên tranh đấu cho Xã hội Dân chủ.
(2) Arm and Hammer là một tỉ phú Mỹ nổi tiếng. Ghi chú của dịch giả.

30-04-1975

 

300475lich-1

Trang sử nội chiến vừa khép lại .
Một chương khác lại mở ra: Trang sử của di dân lưu đày biệt xứ và lưu vong trên chính quê hương mình…
Phải chăng dân tộc ta vốn đã mang một định mệnh lưu vong từ ngày lập quốc ?

MỘT NGÀY…

phamkhanhvu

( tặng tiểu di bạn nhỏ, tháng 5/1975)

Nhắm mắt không thể ngủ
Đứng dậy không thể đi
Ngồi im không thể động
Coi như không có gì

Tâm dỗ dành miệng nín
Miệng hát ru tâm yên
Sợ chút tình khơi động
Phá tan ngày thần tiên

Đưa bàn tay lên ngắm
Những ngón dài chưa thôi
Một chút mây tản mạn
Bay dạt trong hồn người

Lòng cuồng như cầm thú
Rat rứt không nên lời
Không thể làm gì cả
Ngoài những tiếng thở dài

Ngó hoài lên trời rộng
Sao đời không thấy xanh
Sao chỉ màu tím dại
Lăn vòng quanh vòng quanh

Sao thấy chiều tán loạn
Quay hối hả một mình
Chừng như tim hết thở
Xác và hồn nín thinh

Một chút lòng chua xót
Thì thầm như cầu kinh
Nhắm mắt không thể ngủ
Sầu đầy không thể quên

Làm sao rơi nước mắt
Tim cằn như đá khô
Khi tay cào cấu mặt
Tan nát ngày mộng mơ

Khi ngồi thu xếp bóng
Vào trong một nấm mồ
Chiều lên xanh cỏ dại
Hồn cuồng bay phất phơ

Ngồi im không thể nói
Nằm trong bóng tối mờ
Cố dỗ lòng đau xót
Khác một ngày thuở xưa…

PHẠM KHÁNH VŨ