TÔI VỀ GIỮA PHỐ ĐÊM NAY

nguyenlamthang

Sương chảy máu dọc con đường
Gió về, cứ ngỡ sông Hương chết rồi
Còn tôi, chạy với tôi thôi
[Ngày mai, chắc chắn trên trời có mây]
Tôi về, chạy dưới tàn cây
Đèn khuya mắc cỡ trên vai gái già
Lên Thiên Mụ, xuống Đông Ba
Ngược xuôi, xuôi ngược cũng là nhân gian
Con ve vừa thoát miệng hang
Trời ơi! đã chết trên bàn tay ai
Vòng xe đo đoạn đường dài
Vòng đời đo những hoạ tai bất thường
Có thương thì giữ lời thương
Chết rồi, tiễn một nén hương thôi mà!
Về đi, chạy chậm thôi nha!
Ngày mai, gặp lại thì ta cùng cười.

Nguyễn Lãm Thắng

BÓNG ĐỔ THỜI GIAN

lethuydat

chẳng còn gì cho nhau từ đó
ký ức mờ sương
ngày tháng ngùi thương
đời trôi đi thảng thốt

ngày đi không lời từ biệt
em tung cánh chim trời
xứ người mãi miết
tăm cá mù khơi

anh thăm cội cây già
đoạn lìa dĩ vãng
tình không buộc nỗi chân em
bể dâu đời tạc nỗi chìm…
…bể dâu…

LÊ THỤY ĐẠT
phanrang 3/2015

tối tháng năm tại quán ăn đường fifth

nguyenythuan

tặng Cao Xuân Huy

– Hình ảnh cuối của tao về cuộc chiến là cái xác cụt đầu nằm vắt ngang bờ ruộng. Hai bàn chân trắng bệch gác lên mặt đường.
– Của…
– Chẳng biết của ai. Vỏn vẹn một cái quần đùi với những vệt máu đặc bám quanh cổ.
Họ nhìn nhau rồi cùng quay sang hướng khác. Người có râu xoa cằm. Những sợi râu xoắn lại làm vệt bọt bia bám trên mép loang xuống, lấp lánh ánh đèn hắt vào. Ðám râu như khuyết một lỗ.
– Thảo nào…
– Thảo nào cái gì?
– Ít khi nghe mày kể chuyện lính.
Người không râu không trả lời. Khuôn mặt trắng xanh có đôi lông mày rậm, giao nhau giữa trán. Trừ đôi lông mày, hắn trông hiền như người chỉ biết bốn bức tường và các dụng cụ văn phòng. Hắn bưng ly bia lên uống cạn, buông một tiếng “khà” khoan khoái khi nhìn qua khung cửa kính. Bên kia đường là bãi đất trống cạnh con đường nhỏ, sâu, yên tĩnh với hai hàng cột điện sáng vàng vọt. Một vài chiếc xe vụt qua, ánh đèn loé lên rồi tắt như chưa từng có.
Từ ngã tư, đèn đường thay từng lúc hắt lên mặt người có râu những vệt màu. Hung hãn đỏ. Mệt mỏi xanh. Rồi màu da hòa vào vàng. Khuôn mặt biến theo nhịp đèn, chỉ còn đám râu với vệt bia bẩn không đổi. Ðôi mắt hắn nheo lại, những nếp nhăn nổi lên.
Người không râu bật cười.
– Mặt mày lúc xanh, lúc đỏ như con cắc kè.
– Mày cũng thế.
Họ nâng ly.
– Mừng những con cắc kè.
– Và hai con cắc kè tại đây.
Họ cười lớn, chạm hai chiếc ly vào nhau làm những gợn bia sóng sánh. Vài người tại bàn khác nhìn sang nhưng cả hai không để ý. Quán đã thưa khách. Đám nhậu bàn giữa ồn ào cười nói, bát đũa ngổn ngang trước các khuôn mặt đỏ gay. Tận góc quán, cạnh cửa bếp, đôi trai gái thầm thì nói chuyện. Người đàn bà ngồi trong quầy thu tiền nhìn đám khách, lơ đãng như đang nhìn từng lọ tương, chai mắm. Bề mặt tỵ nạn trong xã hội lạ thành một thứ bột bánh riêng trộn với các loại bơ, muối, đường. Người không râu nói ý nghĩ này với bạn. Người có râu gật đầu. Đám râu lay động, hất vệt bọt bia lăn xuống.
– Dĩ nhiên. Như tao, như mày. Cùng là lính mà lại nghĩ và làm khác nhau.
– Tao không thích nhắc quá khứ. Nói ra thật xấu hổ. Tao vào lính vì thất tình.
– Tao biết, mày đã kể. Nhưng với tao, đoạn đời lính gắn bó từng ngày, từng con người của đơn vị. Quá khứ của tao là một kỷ niệm để sống.
– Tao biết. Mày đã kể nhiều lần.
Người không râu lập lại lời bạn với một tiếng “nhiều” thêm vào rồi cười. Người có râu vẫn xoắn đám râu bằng các ngón thô, rám.
– Nhắc lại quá khứ là điều lố bịch, nhưng đôi lúc cần thiết. Tao… Nhưng thôi, bọn mình đang nói chuyện gì nhỉ? A! Cái còn lại! Mà không! Hình ảnh còn lại sau cuộc chiến. Nói đi, tại sao lại nhắc chuyện này khi mày là thằng ghét chuyện lính tráng?
– Phải. Trong trí tao luôn hiện ra cái xác cụt đầu, nằm vắt ngang bờ ruộng trên đường từ Long An về Sàigòn mỗi khi nghĩ hoặc có ai nhắc đến cuộc chiến.
– Chỉ vậy thôi?
– Vậy thôi là quá đủ cho cuộc chiến vừa qua.
– Tao không hiểu.
– Thật giản dị. Ngày hai tháng năm bảy lăm, sau khi dắt nửa đại đội còn lại chạy vòng vòng miệt Long An, Bình Ðiền, tao chỉ thấy toàn cờ tụi nó với từng đám người reo hò những khẩu hiệu lạ.
– Sao lại đến mùng hai?
– Mày đâu biết, đêm ba mươi tháng tư tao vẫn tỉnh queo giữ tuyến ở vòng đai Long An. Sáng mùng một, ông đại đội trưởng và tao bàn chuyện chia hai đại đội. Mỗi người chạy một ngả vì mất liên lạc với tiểu đoàn. Mẹ kiếp. Bấy giờ bọn tao nhìn nhau cùng hiểu trò chơi khốn nạn lúc chạy làng tại liên tỉnh lộ 7B đang lập lại nhưng không dám nói.
– Tao hiểu. Lúc chạy tại Quảng Trị, Thuận An bọn tao cũng thế. Tháng ba của tao là tháng tư của mày.
Người không râu xoay chiếc ly trên tay. Dưới đôi lông mày rậm, mắt rực lên sắc máu của những sợi gân nhỏ. Chỗ lông mày giao nhau trũng xuống trên các vết nhăn. Ánh đèn từ ngã tư tình cờ hắt tia đỏ vào. Khuôn mặt chợt dữ và man rợ.
– Liên lạc với tiểu đoàn không được, tao bẻ cò sang liên đoàn nhưng cái máy vẫn câm, không một tín hiệu trả lời. Tụi tao nằm dưới lòng kinh cạn suốt ngày mùng một. Ðêm đó hai đứa chia tay. Ông ta về Mỹ Tho, tao về Bình Ðiền. Mỗi người một nửa đại đội, chạy lung tung trong khoảng ruộng ven vòng đai Long An. Sau cùng tan hàng hôm mùng hai. Tao dẫn thằng đệ tử ruột về, trên người chỉ còn cái quần đùi. Ngang qua nhà máy xay lúa Long An, thằng đệ tử tạt vào xin hay cướp tao không rõ, được hai bộ quần áo dân sự. Bọn tao mặc thường phục vào Long An. Hình ảnh đầu tiên là cờ ba màu, là những khuôn mặt hân hoan. Tao biết mình thua từ lúc nghe radio, nhưng bấy giờ, lạc giữa đám người đó, tao muốn khóc…
Người không râu bỏ lửng câu nói, bưng nhanh ly bia đưa lên. Lại một tiếng “khà”. Bàn tay với những ngón nhỏ, trắng quệt nhanh trên mép thô bạo. Chất lính đã lộ.
– Lang thang tại Long An đến chiều mùng hai, bọn tao đón xe về Sàigòn. Và cái xác…
Giọng chùng xuống, hắn nhìn bạn, mắt dịu đi. Ánh đèn đường tình cờ hắt sắc xanh vào khiến nước da trắng chợt xanh mét. Chỗ hũm giữa cặp lông mày như sâu hơn. Tối đen một chấm. Khuôn mặt đang chìm vào ký ức. Cửa ngõ của một ngày tháng năm cũ đã mở.


Hai người đàn ông nhìn nhau lo ngại khi chiếc xe đò chật người ngưng lại. Người lớn tuổi mặt khắc khổ với các nếp nhăn trên trán.
– Thiếu úy…
– Mẹ kiếp úy với tá cái gì! Im đi mày.
Người trẻ cắt ngang, giọng khó chịu.
– Chắc trạm kiểm soát.
Người lớn tuổi lại nói, giọng thấp hơn trong tiếng ồn ào của một bọn người chen nhau lên xe. Người lơ xe bám vào cửa trước, thân đong đưa, miệng không ngớt la. Hai người đàn ông nhích vào trong nhường chỗ cho một người đàn bà. Bên ngoài ngập gió và nắng. Người trẻ hít một hơi dài, cảm giác khó chịu tan dần. Người lơ xe vẫn oang oang.
– Hòa bình rồi bà con ơi. Nhường nhau chút đỉnh. Bà con xích dzô dùm… Rồi… rồi, lên đi anh Hai. Dạ, hòa bình rồi… hết đánh nhau rồi, hết trạm kiểm soát rồi…
Người trẻ ngả đầu vào thành ghế, mắt nhắm nghiền trong cái ngột ngạt của các thứ mùi trộn lẫn. Xe chạy tiếp, những luồng gió hắt vào. Người lớn tuổi bắt chuyện với người đàn bà, loáng thoáng những tiếng “giải phóng”, “hòa bình”, “làm ăn”, “đoàn tụ” trong câu chuyện. Người trẻ nắm chặt bàn tay. Những sợi gân xanh nổi lên khi hình ảnh cũ loáng thoáng hiện trong trí. Một chỗ đóng quân ven vòng đai Long An có đám lính mệt mỏi nằm trong hầm đếm đạn 122 ly cạnh vài cái xác nát bét dưới lớp bao cát. Chiến trường gần. Chiến trường xa. Những tiếng nổ. Dãy núi T4, T5 của miệt biên giới với độ cong yên ngựa. Con suối hòa bình có trạm treo súng của hai bên. Từng địa danh trôi theo thời gian. Vỏn vẹn chỉ còn cái chết của đồng đội để đánh dấu. Thằng Do chết ở làng Gia An, Bình Ðịnh, vết đạn xuyên từ trán làm vỡ toang mảng đầu phía sau. Thằng Tâm lãnh nguyên trái 75 vào ngực, xương thịt vãi bung tại một góc liên tỉnh lộ 7B. Thằng Hùng, thằng Nam… Những cái chết làm thời gian nhạt nhòa, chỉ còn địa danh gợi nhớ. Tên người và tên đất. Cái chết và không gian. Ðời lính trôi trong ranh sống chết. Những người lính ngơ ngác khi chiếc máy PRC 25 u u từng hồi lúc liên lạc với cấp trên, không một tín hiệu trả lời. Ðạn 122 ly vẫn rót trên đầu. Mỗi giờ thêm 60 quả pháo. Mỗi phút lại một lần tưởng mình được sinh ra. Rồi bùi ngùi chia hai đơn vị. Ðứa nào theo tao? Ðứa nào đi với ông Truyền? Tôi. Em. Tôi. Em. Thằng thì tôi, thằng thì em. Thằng nào cũng là lính. Thằng nào cũng sống chết với nhau. Thôi, tôi đi với thằng một, thằng ba. Ông đi với thằng hai, thằng bốn. Ráng về Saigon xem sao. Tôi sẽ ráng. Cái vỗ vai cuối cùng. Rồi mất hút. Người trẻ tuổi chà mạnh tay vào mặt. Có giọt nước mắt vừa nhoè trong kẽ tay.
Xe lại ngừng. Người lơ xe vẫn trong thế đứng đong đưa lại lải nhải.
– Hòa bình rồi, hết đánh nhau rồi, bà con vui lòng xích dzô một chút…
Trong xe, người chật cứng và nồng mùi hôi. Người đàn bà và người lớn tuổi đã thân mật hơn, đã anh anh, em em và hỏi về gia cảnh nhau. Người trẻ ngáp lớn, chán ngán nhìn ra cửa sổ. Cảnh tượng bên ngoài hiện bất ngờ. Một xác người nằm vắt ngang bờ ruộng sát quốc lộ. Một cái xác cụt đầu.
Người trẻ chăm chăm nhìn cái xác. Những vết máu vừa đông và cái bụng trắng nhợt chưa kịp trương. Hẳn bị giết chưa lâu. Một cái xác của giờ thứ hai mươi lăm. Bi thảm với những rẻ sườn cong trước lỗ rốn sâu. Cái cổ như vươn dài, loang lổ máu với những vết gân xanh nổi rõ. Cái xác quay đầu về phía ruộng, hai tay thõng xuống bùn, chân vắt lên đường nhựa. Dưới nắng, cái xác cụt đầu trần trụi như trăm ngàn cái xác khác.
Người trẻ tuổi nhìn không xúc động. Cái cổ, cái bụng, vệt máu, những rẻ sườn, lỗ rốn, hai tay, chiếc quần đùi đỏ… Tất cả thành hình ảnh bình thường của chiến tranh, mỗi ngày. Cụt đầu hay vỡ ngực cũng thế. Ðạn hỏa tiễn hay mã tấu cũng vậy. Cũng đưa đến cái chết cho con người.


– Chẳng có gì lạ, dù mày “miêu tả” hơi kỹ.
Người có râu riễu cợt.
– Ðúng. Chẳng có gì lạ. Chỉ là một cái xác trong chiến tranh. Ngày ấy tao cũng nghĩ như mày.
– Vậy có gì phải nhớ?
Người không râu dụi mạnh điếu thuốc vào đĩa thức ăn bỏ dở. Một sợi khói mỏng bay lên, tỏa đi.
– Nhớ chứ. Vì đó là ngày mùng hai tháng năm. Và cái xác với cái bụng chưa kịp sình thối đủ để tao hiểu… Cả mày nữa. Không lẽ bọn Thủy Quân Lục Chiến tụi mày chưa bao giờ thấy xác, không phân biệt được xác đã chết lâu hay mới chết? Ðiều tao muốn nói là cái chết sau khi ngưng bắn. Một cái xác đang tìm về gia đình, sau chiến tranh.
Người có râu im lặng, rót thêm bia vào hai cái ly đã cạn.
– Trước khi mất đầu và sau khi mất đầu là điều tao muốn nói với mày.
– Có gì khác? Cũng chỉ là xác người.
– Không giản dị thế. Lúc còn đầu là còn căn nguyên, còn nguồn gốc, còn nơi về để được nhận, biết. Khi mất đầu thì hoàn toàn không còn gì, chẳng thể biết từ đâu đến, sẽ về đâu và có ai, của ai. Không một dấu nào ngoài cái thân trần trụi nằm vắt ngang bờ ruộng.
Bia rót tiếp. Mắt người không râu đỏ, mệt. Cặp tình nhân đã bỏ đi. Ðám nhậu bàn giữa chỉ còn vài người.
– Hôm nay đúng ngày tao trông thấy cái xác.
– Ờ. Hôm nay mùng hai tháng năm.
Người không râu gật gù, vài lọn tóc xõa xuống trán, bàn tay lại xoay xoay cái ly. Lanh canh. Những cục đá chạm thành ly. Tại bàn giữa, đám nhậu đã tàn, người đứng ngồi trao nhau từng cái bắt tay chuệnh choạng từ giã.
– Tại sao mày hay nhắc chuyện lính?
Người không râu chợt hỏi. Người có râu tắc lưỡi.
– Không kể sao được? Tao sống chết trong thời gian đi lính. Phần đời này gắn lấy tao. Bây giờ và cả cuối đời.
– Tao cũng sống chết với đoạn đời lính. Nhưng nhắc lại tao chúa ghét… Xấu hổ nữa là khác.
Người có râu mỉm cười trước sự bướng bỉnh của bạn.
– Bọn mình khác nhau chỗ đó.
– Khác thế nào? Mày Thủy Quân Lục Chiến. Tao Biệt Ðộng Quân. Thằng nào cũng sống, chết, đi tù và vượt biển. Sao sang đây lại khác nhau?
– Có lẽ tại cuộc sống.
– Cuộc sống? Tao không nghĩ cuộc sống tại đây lại làm tao thay đổi. Như mày biết, tao đã tỉnh bơ đón nhận mọi thứ. Mà hôm nay…
– Mùng hai tháng năm.
– Ờ, mùng hai tháng năm.
Người không râu gật gật.
– Hôm nay là… Bao nhiêu năm rồi kể từ ngày tao gặp cái xác.
– Lại cái xác.
Người có râu mỉm cười. Người không râu gằn giọng.
– Vẫn cái xác? Ðúng, nhưng hôm nay đã thành biểu tượng cho cuộc chiến bọn mình đã tham dự.
– !!!
– Cái xác không đầu lúc nằm bên bờ ruộng chỉ biết mình là cái xác. Tự cái xác đã là sự bi thảm nhưng chính nó không biết. Tự phơi cái bi thảm mà nó chẳng ngờ. Từ đâu đến? Sẽ về đâu? Cuộc chiến này là thế. Chỉ lộ rõ thực thể, còn căn nguyên và mục đích thì ngay cả người trong cuộc cũng mù tịt…
– Mày say rồi đó.
– Mẹ kiếp!
Người không râu chửi thề rồi nói lớn.
– Bây giờ tao lại thấy mày giống cái xác cụt đầu. Chẳng còn gì ngoài những rẻ sườn lộ trên cái bụng lép mà cứ phơi sự bi thảm ra.
Người có râu lắc đầu nhìn bạn. Ðôi mắt người không râu đờ hẳn, giọng líu lại.
– Tao… tao… thấy mày cầm cờ hôm ba mươi tháng tư vừa qua thật buồn cười. Bộ quân phục quen thuộc bỗng lạ hoắc. Còn đôi giày nữa chứ. Mũi giày to, tròn, u lên. Trông kỳ lắm.
– Tao thấy cần phải làm vậy.
– Thì cứ làm. Nhưng có đúng là cần như mày nói không? Hay chỉ là những cái xác cụt đầu chẳng biết sẽ về đâu. Hết rồi mày ạ…
Người không râu kéo dài tiếng “ạ” chán chường, vẫy người đàn bà tại quầy. Người đàn bà uể oải đi về phía hai người. Ðôi giày cao gót có mũi nhọn theo mốt mới. Người có râu liên tưởng đến những đôi giày trận mũi tròn, thô, lạc tại xứ người. Ðột nhiên máu nóng dồn lên mặt, người có râu buông tiếng chửi thề. Người đàn bà ngạc nhiên nhíu mày.
– Mấy anh cần gì?
– Mấy… mấy giờ cô đóng cửa?
Người không râu lè nhè. Người đàn bà nói mà không nhìn.
– Dạ, còn sớm mà anh.
– Lấy thêm bia đi… Hai, mà không… bốn chai nữa.
Người đàn bà quay vào. Hai người bạn im lặng, tránh mắt nhau. Mãi đến lúc người đàn bà trở lại, để bia lên bàn.
– Uống đi.
– Uống chứ.
Lại im. Mẩu đối thoại tắc. Người có râu nhìn về phía cột đèn, những ánh xanh, đỏ, vàng vẫn đổi đều. Con đường vẫn vắng, sâu. Ðêm đã khuya.
– Tại sao mày nghĩ thế?
– Mày buồn?
Người không râu hỏi lại. Người có râu nhún vai.
– Buồn chó gì!
– Phẫn?
– Phẫn chó gì! Tao chỉ lạ vì sự đổi thay của mày. Cũng là dân tác chiến, cũng sống chết một thời với cuộc chiến, dù tham dự chỉ vì thất tình như mày nói, nhưng sự thay đổi thật lạ. Nếu không biết, chẳng ai có thể nghĩ mày là một thằng thiếu úy Biệt Ðộng. Chẳng còn dấu gì của đời lính ngoại trừ tấm chứng chỉ tại ngũ mày còn giữ. Ðôi lúc, tao nghĩ mày còn riễu cợt cả những thằng lính.
Người không râu ngả lưng vào thành ghế, mệt mỏi buông từng tiếng.
– Tao cũng là một cái xác cụt đầu của cuộc chiến, chỉ còn vỏn vẹn cái quần đùi đỏ trên thân. Không thể biết của ai, từ đâu đến và về nơi nào. Một cái xác bi thảm hơn tụi mày là chẳng còn nguồn gốc.
– Mày có vẻ say.
– Say thật chứ có vẻ gì! Mẹ kiếp, lại buồn mửa…
Người không râu gục mặt xuống, trán tựa vào mép bàn. Một giòng thức ăn trộn nước ào ra, bắn tung xuống mặt đá hoa. Cổ họng cay và đầu luỡi chua. Cảm giác quay quay trong đầu, rồi nặng chĩu với cánh tay buông thõng.
Người có râu mỉm cười đứng dậy, đi về quầy tính tiền. Người đàn bà ngước lên.
– Anh ấy say hả anh?
– Vâng, nó bắt đầu ăn vạ, cô tính tiền hộ.
Người có râu quay lại bàn, đỡ bạn dậy. Người đàn bà đã mở cửa sẵn.
– Anh về.
– Vâng. Cám ơn cô.
Không khí bên ngoài hắt vào mặt. Trời tháng năm thoáng và mát. Người có râu xốc nách bạn, vắt cánh tay bạn ngang cổ, hít sâu một hớp không khí. Không gian vắng lặng với ánh đèn đường hắt xuống. Bãi đậu xe không còn ai, chỉ còn chiếc xe cũ của họ đậu bên một chiếc xe mới. Người có râu thở dài nhìn cảnh vật. Hai chiếc xe cũ, mới cạnh nhau. Hình ảnh đôi giày trận mũi tròn bên đôi giày cao gót hiện về. Lẩm bẩm những tiếng vô nghĩa, người có râu dìu bạn đi từng bước. Bóng hai người đổ dài, ôm choàng nhau thành một vệt đen. Ngang qua cột đèn, người có râu giật mình nhìn xuống. Dưới ánh điện, bóng của hai người thun lại, phình to bề ngang. Như một cái xác cụt đầu đã sình thối.

nguyễn ý thuần

cơn mưa bay ngang

nguyenmannhien

nhưng điều kỳ lạ chỉ là một ngày mưa
con đường đất ẩm ướt vết son môi trên mặt
bóng người đàn ông chạm vào tường
có mùi hương nào trên gối cô sáng nay
những giấc mơ quay trở lại

trở lại một lần nữa, các ghế trống
mỗi lần, ông đợi cho đến khi cô vô tình, đôi khi mười, đôi khi mười lăm phút
hoa cúc vàng ấm áp không gian màu xám mưa buổi chiều
ông ngủ thiếp đi thời điểm này hoặc sẽ vẫn im lặng
nghe âm thanh của bệnh gỉ sắt
đếm những giọt cà-phê nhỏ giọt

cô từ chối lời mời của mình, một món quà đặc biệt
hoặc là không có ai mời cô để được lựa chọn ngồi bên cửa sổ, trống rỗng
một ngụm trà gừng hoặc ấm, đủ để nói về một cái gì đó
khuấy cà-phê và mỉm cười nhấp chuột phải

em là một cô gái không thể dừng lại sống
cô nói dối, ông nghĩ, trước khi tâm trí mình là một mớ hỗn độn
nhanh chóng lướt qua chỗ ngồi, không phân biệt cổ áo màu đen
mái tóc đen, trang phục màu đen, tất cả các màu đen
nhạc chuông, như mong đợi những lời cuối cùng
sự lão hóa của nó làm ông hạnh phúc

bất kể ngày và đêm, thành phố ồn ào, yên tĩnh, mộc mạc hoặc lãng mạn
không bao gồm thời gian, không bao giờ biết đến thiên hà, chỉ một giọng nói thì thầm cho mỗi số phận
rủi ro trong ghế bành của mình, cô sợ hãi nhìn nghiêng về phía cửa sổ
mấy con chim sẻ nhỏ xuất hiện và sau đó trở lại vỉa hè
bây giờ đã là hôm qua
nụ cười dường như không an toàn
như tiếng nói của họ trong mùa mưa, lạnh và ngột ngạt

nguyễn man nhiên

Nửa khuya tóc trắng

ngotinhyen

Ngày se cát, đêm dã tràng
đại dương cũng khóc lỡ làng đôi khi
ngày tạc dạ, đêm khắc ghi
thời gian cũng vội xóa đi đôi điều
ngày phách tận, đêm hồn xiêu
bóng ma đôi lúc cũng phiêu linh buồn
ngày sông cạn, đêm đá mòn
trăm năm đôi bận cũng còn phụ nhau
đôi lần nhổ sợi tóc sâu
thấy đêm ngày lướt trắng phau đời mình.

Ngô Tịnh Yên

KHÓI HUYỀN BAY LÊN CÂY…

lephuhai

Thuở còn là học sinh trung học, chúng tôi rất thích hai câu thơ ”Thơ viết chớ xong thuyền trôi chớ đỗ/ Cho nghìn sau… lơ lững… với nghìn xưa… “và cứ nhầm tưởng đây là hai câu thơ của thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Thật ra hai câu thơ này nằm trong bài thơ “Ngập ngừng” của Hồ Dzếnh với những câu thơ hay và ngộ nghĩnh thường được thế hệ chúng tôi thời ấy ưa thích và truyền miệng cho nhau nghe. Bài thơ được mở đầu bằng tứ thơ ngộ nghĩnh và dễ thương:
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé
Để lòng buồn tôi dạo khắp trong sân
Ngó trên tay, thuốc lá cháy lụi dần…
Tôi nói khẽ: gớm, sao mà nhớ thế!…

Có lẽ chúng tôi đã từng thích thơ Hồ Dzếnh trước hết bởi nét giản dị và không hàm chứa ý nghĩa triết lý cao siêu. Có vẻ như ông xúc cảm thế nào thì viết ra thế ấy. Thỉnh thoảng giữa mạch thơ nghiêm túc ông lại đưa ra một câu thơ tưng tửng khôi hài:
Có lần tôi thấy tôi yêu
Mắt nhung, cô bé khăn điều cuối thôn
Lâu rôi tôi đã… hơi khôn
Biết cô hang xóm có còn nhớ nhau?

(Quê hương)
Ổ rơm bác Xã thôi nằm
Chân đi guốc thấp, xỏ nhầm guốc cao
Mắt còn líu ríu chiêm bao:
“Với cho tao điếu thuốc lào, cu con!”

(Sáng quê)
Hay như trong bài “Rằm tháng giêng”:
Chị tôi vào lễ trong chùa
Hai chàng trai trẻ khấn đùa hai bên:
“Lòng thành lễ phật đầu niên
Cầu cho tiểu được ngoài giêng đắt chồng”
Chị tôi phụng phịu má hồng
Vùng vằng suýt nữa quên bồng cả tôi…

… Nghe nói mùa này bên đất Pháp
Ngày hè dài tới… chín giờ đêm
Hẳn vì cây cối xanh tươi lắm
Nên nắng quên đi, đắm đuối nhìn…
(Paris, mùa nắng)

Thật ra thơ Hồ Dzếnh khá trữ tình và không kém phần lãng mạn. Ở miền Nam trước đây học sinh không ai không thuộc và không từng nghêu ngao đôi ba câu trong bài thơ “Chiều” của ông đã được nhạc sĩ Dương Thiệu Tước phổ nhạc trên nền điệu tango nhịp nhàng và quí phái:
Trên đường về nhớ đầy
Chiều chậm đưa chân ngày
Tiếng buồn vang trong mây
Tiếng buồn vang trong mây
Chim rừng quên cất cánh
Gió say tình ngây ngây
Có phải sầu vạn cổ
Chất trong hồn chiều nay?
Tôi là người lữ khách
Màu chiều khó làm khuây
Ngỡ lòng mình là rừng
Ngỡ hồn mình là mây
Nhớ nhà châm điếu thuốc
Khói huyền bay lên cây…

Thể loại thơ năm chữ như bài “Chiều” trên đây của Hồ Dzếnh không nhiều. Có vẻ như ông sở đắc thể loại lục bát và thất ngôn nhiều hơn. Đặc biệt thơ lục bát của ông dù viết về đề tài gì đi nữa cũng không thể thiếu được yếu tố ngộ nghĩnh qua cách quan sát tinh tế. Ông đã tả về phố huyện và làng quê ông như sau:
Vài thanh đá dựng làm hè
Vài nhà tranh yếu vai kề sát nhau
Phố tôi trông dáng buồn rầu
Khó khăn của kẻ làm mầu vô duyên…

Khi vàng đứng bóng im trưa
Tiếng khô lá rụng làm thưa phố phường…

(Phố huyện)
Làng tôi thắt đáy lưng… tre
Sông dài, cỏ mượt đường đê tư mùa
Nhịp đời định sẵn từ xưa:
Ươm tơ tháng sáu, lên chùa tháng giêng…
…Trong làng lắm gái thưa trai
Nên thường có luật chồng hai vợ liền!…

(Lũy tre xanh)
Trên đường đê bé chạy dài
Bóng trâu trên nước bóng người trên cây
Ngoài trời mây sáng hây hây
Nước son tô loãng da ngày cuối thu
Đáy hồ mấy mắt sao lu
Và trên nón dạ sương mù quệt ngang…

(Sáng quê)
Ở thể thơ thất ngôn ông cũng rất có duyên trong sử dụng câu chữ để diễn đạt ý tình:
Trời đẹp như trời mới tráng gương
Chim ca, tiếng sáng rộn ven tường
Có ai bên cửa ngồi hong tóc
Cho chảy lan thành một suối hương…

Sắc biếc giao nhau cành bắt cành
Nước trong, hồ ngợp thủy tinh xanh
Chim bay, cánh trĩu trong xuân ý
Em đợi chờ ai khuất bức mành?
Giữa một giờ thiêng, tình rất đẹp
Rất buồn và rất… rất thanh thanh
Mày ai bán nguyệt, người ai nhỏ
Em ạ, yêu nhau… chết cũng đành!

(Xuân ý)
Đã có khá nhiều bài viết nói về cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Hồ Dzếnh. Cuộc đời ông vốn không bằng phẳng và hoàn cảnh riêng cũng có nhiều trắc trở, long đong. Tuy nhiên ông cũng đã sống trọn vẹn cho đến cuối đời và tác phẩm để lại cả văn và thơ là dấu ấn riêng của một thời ông đã sống và làm việc. Đối với thế hệ chúng tôi, nói đến Hồ Dzếnh là nghĩ ngay đến những câu thơ tình chan chứa và hình ảnh của một lãng tử yêu đời:
Tôi không chọn nắng, cầu mưa
Nhớ người không cứ về trưa hay chiều
Tôi yêu vì nắng cây reo
Bướm bay vô cớ, gió vèo tự nhiên…

(Lặng lẽ)
Và:
Chiều nào nghe xuống hoàng hôn
Tôi rười rượi nhớ, quay hồn về mơ
Chiêu Quân biệt Hán sang Hồ
Có buồn cũng đến như là… thế thôi!

(Buồn Chiêu Quân)

Lê Phú Hải

Thức Dậy Ði

trantrungdao

Mặt trời mới mọc bên kia biển
Hay lửa phương đông báo hiệu mùa
Thức dậy đi em giờ đã điểm
Mẹ khóc lâu rồi em biết chưa ?

Thức dậy đi hỡi rừng núi cũ
Nghe tiếng nghìn xưa vọng trở về
Ai đứng trông ai mùa lá đổ
Mà lòng thao thức mấy đêm khuya

Ai khóc đêm nay ngoài ải Bắc
Phải hồn sương phụ ngóng phương xa
Hay tiếng Phi Khanh trào nước mắt
Về đi, lấy máu trả thù cha

Thức dậy đi hồn thiêng sông núi
Gió Nam Quan xô sóng Bạch Đằng
Nửa đêm không bóng người bên suối
Sao tiếng gươm mài vang dưới trăng

Thức dậy đi hỡi lòng vô lượng
Ngại ngùng chi đau khổ điêu linh
Dù cho nước vẫn còn nhơ đục
Nhớ giữ cho nhau một chút tình

Thức dậy đi đồi cao dốc sỏi
Đất đá mòn theo mỗi vết chân
Gã tù lặng đứng nhìn mưa đổ
Đâu biết xuân qua chỉ một lần

Thức dậy đi màu nâu của đất
Màu xanh trong ánh mắt của em
Bao nhiêu năm ngồi nghe nhau khóc
Đã đủ chưa máu chảy ruột mềm ?

Thức dậy đi từng trang lịch sử
Những chuyện buồn vui lẫn tủi hờn
Như mắt mẹ nghìn đêm không ngủ
Thương đám con khờ chưa lớn khôn.

Trần Trung Ðạo

THÔI

maithanhvinh

Đành thôi tiếng khóc từ xưa
thôi giông bão
thôi nắng mưa
một đời
thôi chiều lặng lẽ rong chơi
thôi con chim hót
những lời phù du
thôi trăng tỏ
phía xa mù
thôi hàng me đợi
lời ru ngọt ngào
thôi long lanh bởi chiêm bao
thôi nhành lan tím
đậu vào môi xuân
thôi thì thầm
lệ rưng rưng
thôi đêm
dẫu đã ngập ngừng bàn tay
đành thôi
buông
níu
bóng bay
ơi con chim sáo
một ngày như quên…

MAI THANH VINH

THÁNG TƯ ĐEN, THÁNG TƯ SÁNG: TỪ ĐẮNG CAY HẬU CHIẾN ĐẾN BÌNH AN TÂM HỒN

trangdaiglassey

Trangđài Glassey-Trầnguyễn thực hiện Dự án “Tháng Tư Đen, Tháng Tư Sáng” © về những ảnh hưởng của tang thương và mất mát trên đời sống tình cảm của người Việt hải ngoại qua sự bảo trợ của tiểu bang California cho Chương trình Báo chí về Y tế Sức khỏe (CEHJF), và do Trường Báo chí và Thông tin Annenberg của Đại học University of Southern California tổ chức. Cô sử dụng phương pháp lịch sử truyền khẩu, cùng kinh nghiệm dấn thân cộng đồng, và tư duy trải nghiệm.

CHỦ TRƯƠNG CỦA NGƯỜI THỰC HIỆN:

Từ năm 1976 đến nay, mỗi Tháng Tư là một thời gian hồi tưởng, truy niệm, và gìn giữ một biến cố lịch sử đã thay đổi vận mạng quê hương và dân tộc Việt Nam. Tháng Tư Đen đã trở thành một biến cố thiêng liêng cho người Việt hải ngoại từ nhiều thập niên qua, cũng thiêng liêng như ngày Tết Nguyên Đán của dân tộc. Và sẽ tiếp tục là một dấu chỉ của sự hiện diện của dân tộc da Vàng nơi viễn xứ.

Qua dự án này, tôi muốn quy nhận truyền thống tưởng niệm này của Cộng đồng người Việt hải ngoại. Đồng thời, tôi cũng muốn đón nhận và đưa lên giá cao những ngọn đèn đã làm cho Tháng Tư 1975 không chỉ còn là một ngày của bạo lực và mất mát. Chúng ta đã xây dựng những Tiểu Việt Nam khắp dọc dài thế giới. Chúng ta đã nuôi dạy nhiều thế hệ trẻ thành nhân tại xứ người. Chúng ta đã xoay ngược thế cờ, dùng sức mạnh của thế giới và tư duy đương đại để gìn giữ lịch sử và phát triển tương lai. Những ngọn đèn đó vẫn tỏa sáng giữa chúng ta – là chính ông bà, cha mẹ, anh chị em, con cái của chúng ta – đang thắp lên một bình minh mới trên những đổ nát hôm qua. Chúng ta không chỉ có một Tháng Tư Đen, mà chính mỗi chúng ta cũng là hiện thân của một Tháng Tư Sáng.

PHẦN 1: MƯỜI BA NĂM KHỔ SAI

Bà Nguyễn Thanh Thủy cùng ba con tại quê ngoại Mỹ Tho trước 1975.

Những ngày sau 30 tháng Tư, 1975 chắc chắn là những ngày kinh hoàng nhất cho rất nhiều gia đình tại miền Nam Việt Nam. Nhưng đối với một số người, những ngày ấy kéo dài tưởng như vô tận, đến mười mấy năm, mà mỗi ngày là một thế kỷ của nhọc nhằn và mỗi đêm là một trường canh của kinh sợ.

Cái giai đoạn lịch sử ấy – tuy man rợ và đầy tang thương – nhưng vẫn là một di sản được những người trong cuộc ôm ấp và gìn giữ. Bởi vì, cái lịch sử ấy chính là một dấu chứng cho niềm tin vào điều thiện và sự vượt qua của những ai còn sống sót sau kinh nghiệm hỏa lò. Đó có lẽ là lý do mà khi đến Mỹ, Cựu thiếu tá Thiên Nga Nguyễn Thanh Thủy đã mang theo 3 vật rất quan trọng đối với mình. Một đôi găng tay may từ vải vụn, bà đã dùng trong thời gian 13 năm tù cải tạo. Hai chiếc áo tù – một bằng vải thô, và một bằng len, do chính bà đan lại từ hai chiếc áo lạnh cũ đã chật của hai con gái, do mẹ bà gửi vào. Và một cơ thể đã bị phá hủy, thương tật.

Bà Nguyễn Thanh Thủy và những vật chứng từ tù cải tạo.

Nhưng bà cũng mang theo một gia tài quan trọng hơn cả những vật chứng này – một gia tài không ai có thể tịch thu, đấu tố, hay phá hủy: một ý chí để sống, một nghị lực phục vụ gia đình và xã hội, và một niềm tin mãnh liệt vào Chúa. Chính gia tài này đã là cứu cánh cho bà trong suốt 13 năm tù, và quãng đời sau đó. Trên hai chiếc áo tù đó, số tù – cũng là ‘nhân diện’ của bà trong mười ba năm khổ sai – đã bắt đầu phai nhạt theo năm tháng. Nhưng những đau đớn về tinh thần lẫn thể xác vẫn còn hằn sâu. Có lẽ những thế hệ một và một rưỡi còn nhớ và biết cái bi kịch hỏa lò tại Việt Nam, nhưng thế giới và những thế hệ Việt ngoại biên vẫn cần một văn khố chính thức về bi kịch này.

Điều quan trọng là chúng ta không để cho những sự thật về bi kịch này phai nhạt – như những số tù trên áo những người tù khổ sai năm nào. Chúng ta cần ghi lại những đau thương – không vì hận thù – nhưng vì để đấu tranh cho Công lý, Hòa bình, Tự do, Bác ái. Đến bao giờ, người Việt hải ngoại mới có một tác phẩm như Quần Đảo Ngục Tù của Aleksandr Solzhenitsyn, người đoạt giải Nobel Văn Chương 1970 với những tác phẩm vạch trần cái hỏa lò của Cộng Sản Xô Viết? Những quần đảo ngục tù vẫn còn hoành hành trên cơ thể của nhiều con dân Việt và ngay trên đất Việt qua những hậu quả khốc liệt của nó. Đến bao giờ chúng ta mới có một Solzhenitzyn của Việt Nam? Vì nếu những đau thương này đã đến từ bất công, thì chúng cũng là một mối đe dọa cho con người ở tất cả mọi nơi – như nhà tranh đấu dân quyền Martin Luther King đã nói, “Bất công ở bất cứ nơi nào là bất công ở khắp mọi nơi.” Xã hội con người không tách rời nhau bởi biên giới hay ngôn ngữ, mà cộng thông trong lý tưởng công bằng, bác ái, và dân chủ.

Chiếc áo tù ngày nào, tuy nay không còn ấm lạnh trên người Nguyễn Thanh Thủy nữa, nhưng kinh nghiệm mười ba năm tù khổ sai là một chiếc áo đầy gai, vẫn châm chích và làm đau đớn tâm hồn và thể xác bà. Hai mươi bốn năm sau khi ra khỏi trại tù, bà vẫn còn oằn oại trong những bệnh tật do giai đoạn oan nghiệt này tạo ra, và những kinh hoàng của bốn tháng biệt giam vẫn bám riết tâm trí bà. Chúng ta thử cùng bà ngồi trước màn ảnh của quá khứ, chứng kiến lại những điều mà trước nay bà chưa nói được với ai, vì nó quá kinh hoàng và khó khăn để thuật lại.

Bà Nguyễn Thanh Thủy trước 30 tháng Tư 1975

Nguyễn Thanh Thủy nhớ lại, “Vài hôm sau ngày 30 tháng Tư, 1975, tôi bị gọi đến nơi làm việc của Ủy Ban Quân Quản của chế độ Cách Mạng (tức Văn Phòng Khối Đặc Biệt, đường Cộng Hòa cũ) để hỏi cung từ 8 giờ sáng đến 4 giờ chiều. Cán Bộ Cộng Sản cho biết, lẽ ra giam cầm tôi luôn, nhưng vì các con tôi còn quá nhỏ, nên mỗi ngày tôi đến đây ‘làm việc’ rồi về. Họ cho tôi xấp giấy, cây viết, và muốn tôi viết lại quá trình hoạt động. Mỗi ngày tôi chỉ viết lý lịch của mình, rồi tôi nộp, nhưng họ không bằng lòng. Tôi có cho họ biết là tôi không nhớ gì cả, và yêu cầu họ cho tôi thời gian để tập trung trí nhớ. Sau đó, họ giúp tôi bằng cách dẫn tôi đi vòng quanh khối Đặc Biệt, vào những phòng làm việc của Khối để nhìn từng nơi xem thấy cái gì còn, cái gì mất. Tôi chú ý đến Văn phòng của Trưởng Cơ Quan E4, nơi còn những bản sơ đồ vẽ hệ thống hoạt động, những bản thuyết trình có ám danh công tác, bí số nhân viên, nhưng không có tên tuổi thật. Tôi nghĩ trong đầu m

Ba con dại phải chịu cảnh xa cha và mẹ sau 1975.

Nguyễn Thanh Thủy không chỉ là một người tù cải tạo. Bà còn là vợ một người tù cải tạo. Chồng bà, Cựu Đại Úy Võ Bị Lê Thành Long, cũng vào tù sau ngày 30 tháng Tư 1975. Ba người con nhỏ của ông bà được gửi gắm lại cho ông bà Ngoại tại Mỹ Tho. Tuy nhiên, những cố gắng để kéo dài thời gian hỏi cung của bà cũng không giúp bà được ở gần gia đình mãi. Đến 15 tháng Sáu, 1975 thì bà bị tập trung vào tù cải tạo. Theo lời bà, thì “Tôi ở chung trại với tù cải tạo nam, học tập chính trị ở hội trường, học quốc ca của Cộng Sản và những bài hát đấu tranh chống Mỹ Ngụy, làm những bài thu hoạch, phê và tự phê, kiểm điểm, nộp cho họ. Tất cả mọi người phục vụ cho chế độ Việt Nam Cộng Hòa đều có tội nhiều hoặc ít. Đó là cách luận tội của Cộng Sản. Tôi vào trại tù cải tạo Long Thành, với một túi xách đeo vai, một chiếc chiếu nhỏ cho một người nằm. Thiếu đủ mọi thứ. Tôi phải xuống hố rác cạnh dãy nhà chúng tôi ở, để tìm chai, lọ, mấy tấm tôn để đựng nước, đựng cơm, thức ăn… Nước chỉ đủ uống, không đủ tắm. Trời tháng sáu mưa dầm dề. Chờ trời mưa, tôi gội đầu tắm giặt nhờ những dòng nước mưa chảy theo mái nhà.”

Trong suốt thời gian bị giam một mình, bà đã canh cánh sợ bị bọn võ trang muốn làm hỗn nên không bao giờ dám chợp mắt, đã nơm nớp khiếp sợ mỗi đêm khi cai ngục lẻng kẻng xâu chìa khóa đâu đó giữa rợn rùng thăm thẳm tối. “Vì đêm trước có ai bị đưa đi, thì sáng hôm sau coi như mất tích,” bà nói. Hơn nữa, phương tiện vệ sinh căn bản nhất cũng không có. Bà hồi tưởng, “Nói đến nơi tiểu tiện bằng những cầu dã chiến ngoài trời, mưa dầm là nó lầy lội, và những con dòi trắng lềnh bềnh mà nữ thì làm sao dám ngồi để tiểu tiện, nên tôi đành nín, nhịn khát, đợi tối mới ra cái nhà tắm che bằng bốn vách lá, đi xong cho vào hố rác. Nhớ tới cảnh này, tôi luôn rùng mình, sao tôi chịu nổi dơ bẩn như thế.”

Bà nói tiếp, “Đầu tháng 10 năm 1975, tôi bị chuyển về trại giam Thủ Đức (tức 16NV). Chỉ có một người nữ bị chuyển là tôi. Tôi ở một mình trong phòng giam và bắt đầu các cán bộ thẩm vấn, điều tra từ trung ương đến. Tôi bị kêu lên đêm có, ngày có, bị hỏi liên tục, hỏi xong rồi bắt viết, thu bài. Những tháng ngày này, đầu óc tôi quá căng thẳng. Cả đêm không buồn ngủ, tựa lưng vào vách tường, kê túi quần áo và gối nằm để làm điểm tựa viết bài họ điều tra.”

Bà nhớ lại, “Tôi phải cải tạo khổ sai ở đây nhiều năm, không đủ vệ sinh và thiếu thốn. Ăn thì độn khoai mì có vỏ đỏ quấy, gọi ‘bột ngàng phệt,’ hột bo bo, mì sợi luộc có cả con chuột chết vớt ra bỏ đi, lại tiếp tục chia mì sợi cho người một phần để ăn, không thì đói. Cả ngày cuốc xới mỏi mệt, tối đến vào phòng ngủ gần người lao phổi (xuất huyết phổi tới thời kỳ chót), bệnh giang mai thời kỳ thứ ba, phổi có nước thời kỳ chót. Tôi phải sống chung với họ cho tới khi họ được tha, và không bao lâu thì họ chết. Tôi phải may những nệm ngồi bằng vải vụn riêng để tránh lây nhiễm. Lúc ngủ, các bạn khỏe xếp gần nhau, chừa một chiếu cách người bệnh, xây đầu khác hướng với người bệnh và xây lưng về phía người bệnh để tránh lây nhiễm.”

Vì Nguyễn Thanh Thủy đã giữ một vai trò khá quan trọng khi phục vụ dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa, bà đặc biệt bị quản lý nghiêm ngặt và tra khảo liên tục, làm bà chóng mặt, căng thẳng đến ngã bệnh. Cán bộ không bao giờ rời mắt khỏi bà, ngay cả về đêm. Bà kể, “Tôi là người tù bị chỉ định nằm ngay cửa ra vào hoặc ngay cửa sổ phòng tù để họ dễ kiểm soát hành vi về đêm của tôi. Cửa sổ tù không bao giờ có cửa để đóng lại, nên rất lạnh. Đêm đêm đói bụng quá, các bạn tù kể món ăn này, món ăn kia cho đỡ thèm đỡ đói. Nhớ chồng con kể chuyện hạnh phúc ngày nào thì có bà lên tiếng, kêu đừng kể nữa, vì rờ hai bên toàn chiếu không. Tới ngày thăm nuôi được gặp thân nhân gia đình, là lúc lấy dạ dày an ủi trái tim.”

Trong hoàn cảnh lao tù khổ sai, người nữ tù chịu nhiều khó khăn và khổ sở hơn người tù nam, nhất là về phần vệ sinh hằng tháng, và sự an toàn bản thân. Không chỉ những nữ tù cải tạo mới bị dòm ngó và hãm hiếp, mà những phụ nữ bị bắt vì vượt biên cũng bị lính gác bạo hành về tình dục. Sự căng thẳng của người tù nữ, vì vậy, cao gấp nhiều lần so với bạn tù nam. Bà lại kể, “Trại giam có nước máy, nên vệ sinh cá nhân cũng đỡ, nhưng vấn đề phụ nữ hằng tháng, không có băng giấy, tôi phải dùng quần áo cũ xé ra để lót, rồi giặt không xà phòng (vì không được thăm nuôi). Ăn uống, mỗi buổi sáng được một ly nước nóng, trưa một phần khoai độn, buổi chiều nửa chén cơm, một chút rau muống luộc với nước muối. Lễ lớn có một miếng thịt bằng ngón tay. Hơn một năm, một số tù cải tạo chuyển đi Bắc, một số tù cải tạo ở nơi khác chuyển tới, lúc đó mới có một số chị em phụ nữ ở trại Long Giao, trại giam Chí Hòa, Phan Đăng Lưu tới. Đa số là tù phản động. Tôi mới thoát cảnh ở một mình mà sống tập thể với bạn tù cũ, bạn tù mới. Tôi bắt đầu đi lao động, làm cỏ chung quanh trại giam, và trồng rau muống.”

Cảnh lao động vất vả của trại tù, dù sao, cũng cho người tù cơ hội được thấy ánh sáng mặt trời, mà không bị vây hãm gò bó giữa bốn bức tường bức bối. Nhưng trồng rau bằng phân người và nước tiểu người là những cực hình mà người tù phải gánh chịu, và ăn rau do chính mình trồng nhưng không được rửa sạch làm cho người tù bị tiêu chảy kinh niên. Nhu cầu nha chu hay y tế căn bản cũng không được đáp ứng, nên bạn tù phải mượn kềm của tù nam hình sự, khi họ về ăn cơm trưa trong một tiếng, để nhổ răng cho nhau, khi răng đã hư quá nặng và không thể giữ được. Họ phải cầm máu bằng nước muối, vừa rát, vừa đau.

Bà kể tiếp, “Hai năm sau, tức tới tháng Bảy, 1977, chúng tôi chuyển lên trại tù cải tạo Căn Cứ 5 Rừng Lá, tức trại Z30D Hàm Tân, Thuận Hải. Đã di chuyển xa, nên việc phải gặp chấp pháp ít hơn, vài ba tháng một lần. Mà chủ yếu là lao động, cả đội mấy chục cô cầm cuốc, cầm xẻng, thùng tưới nước, chia nhau công tác để làm. Mới đầu chẳng biết cuốc, cả ngày trời cuốc một khoảng cỏ trước sân cơ quan mà thấy vẫn y nguyên. Lần lần gánh tranh, trồng rau muống, khoai lang, củ cải. Rau tưới bằng một lon nước tiểu pha một thùng nước suối, phân người bỏ dưới rãnh, lấp đất, trồng rau lên.

Tôi yếu sức nên đứng múc nước tiểu, pha cho người khỏe trẻ tưới. Cả ngày làm lao động mệt, chiều hết giờ chạy về bờ suối tắm 20 phút, vừa giặt giũ vừa tắm, không có quản giáo nữ canh gác. Cán bộ nam và võ trang canh gác khi đội nữ tắm. Bọn cai tù nói, “Các chị cứ coi chúng tôi như các chị, cứ thế mà tắm.” Thật là trơ trẽn. Chúng tôi cứ nhúng cả người xuống nước rồi lên giống như ‘vịt rỉa long.’ Những ngày mưa, nước suối đục ngầu, vẫn phải tắm, vì nước tiểu và phân dính cả người. Tới mùa nước suối cạn, bọn Cộng Sản chuyển đội nữ về lại trại cải tạo Long Thành. Nơi đây là trại hình sự, máy nước bị hư, không tiền sửa chữa. Mỗi ngày phát một gô nước uống, một tuần lễ mới ra suối cạn tắm một lần, giặt giũ rồi xách nước về. Về tới trại rửa cát bụi đi đường là thấy hết sô nước. Trại ngày trồng táo Thái Lan, dền, rau muống, cũng dùng nước tiểu, phân người làm phân bón. Chỉ trồng táo mới tưới bằng phân urê.”

Nhưng sau đó, bà bị chuyển trại, và bị đưa vào biệt giam hơn một năm để hỏi cung. Đây là gian đoạn gian nan nhất trong thời gian mười ba năm khổ sai của bà. Tuy nhiên, bà vẫn luôn giữ trong đầu một điểm đến: cố sống sót, đối diện với nghịch cảnh, để có ngày đoàn tụ với con. Bà ôn lại, “Ăn thiếu thốn, đói khát, bị vây quanh mấy tên cán bộ chấp pháp, tôi muôn điên lên vì thần kinh quá căng thẳng. Tôi sẽ gặp đau thương khi đối đầu với địch nên trước ngày cuối, để bảo mật, tôi đã hủy hồ sơ của Biệt đội Thiên Nga. Tôi cũng được bọn Cộng Sản đưa đi xem các văn phòng có liên hệ. Nhưng tôi vẫn lo lắng cho các nhân viên. Tôi muốn bảo toàn cho các bạn nữ đồng khóa, các nhân viên, và cộng tác viên. Tôi tâm niệm trong lòng mỗi lần phải gặp mặt cán bộ, tôi đều thầm nhủ đây là địch, đây là Việt Cộng, làm cho tôi thêm nghị lực, bình tĩnh hơn, mạnh dạn hơn để trả lời. Tôi ở biệt giam một mình hơn một năm, vì phải làm việc bằng đầu óc, trại giam gọi là động não quá nhiều, ăn uống thiếu thốn, ngủ nền xi-măng, tôi bị liệt một chân, phải lần vách. Tôi mới xin lau chùi quét dọn hành lang và xin phơi nắng nửa giờ mỗi ngày trừ thứ Bảy và Chủ Nhật. Tôi tập ‘dịch chân kinh’ và tự xoa nắn lấy chân bị liệt teo cơ do suy dinh dưỡng gây ra. Tôi tự nhắn nhủ, không nhớ con nhiều nữa, phải ráng chịu đựng mọi khó khăn để có sức khỏe trở về với con.”

Thời gian biệt giam này đã dài như thế nào? Những chi tiết về gian đoạn này sẽ khiến nhiều người không thể tưởng tượng ra được, bà Nguyễn Thanh Thủy đã làm thế nào để sống sót. Bà nói, “Tháng 4 năm 1981, tôi bị đưa từ trại tù cải tạo Long Thành về trại tù biệt giam X4 (Bộ Công An Cộng Sản đường Võ Tánh, Sàigòn). Tôi ở xà lim, chung quanh tối om, ngoài một bóng đèn điện cho cả dãy xà lim, mỗi xà lim có một khoảng trống bằng một cục gạch trên sát trần nhà để thở. Trời tháng Tư ở Việt Nam, nóng bức, mồ hôi chảy như tắm, quần áo vo cao cho bớt nóng. Tuần lễ đầu tiên tôi bị xỉu, thiếu dinh dưỡng, thời tiết quá nóng. Cán bộ trại giam phát hiện do người ở cạnh xà lim đập tường hỏi thăm sức khỏe, không thấy tôi trả lời, họ đập tường gọi cán bộ cấp cứu. Sau lần cứu tôi tỉnh dậy, trại giam đưa một lọ thuốc tim nhỏ giọt để khi mệt nhỏ vào miệng và gọi cấp cứu.

Về ăn uống, sáng để gô ra, họ cho một gô nước nóng. Trưa và chiều để ít cơm trong cái thau và một chén canh ngoài song sắt xà lim, rồi tự mình mang cơm canh qua song sắt để ăn. Phải kiếm thế nghiêng thật nhanh, mang tất cả cơm canh vào. Vì không có muỗng, nên phải ăn bốc bằng tay.

Lúc mới tới, Cán Bộ chấp pháp cho biết tôi sẽ được ăn tiêu chuẩn quốc tế, dành cho người về làm việc, ngày 3 lần: sáng, trưa, chiều. Nhưng tôi chưa bao giờ nhận được buổi ăn nào như thế. Các tù nhân đi với Cán Bộ trại giam giao phần ăn không được mặc áo, phải ở trần và bận quần xà lỏn (quần đùi), họ không được nói bất cứ lời nào. Muốn hỏi gì, họ chỉ tay về phía Cán Bộ, người Cán Bộ mới có quyền nói chuyện với tù nhân.

Về phần vệ sinh cá nhân, mỗi ngày được tắm một lần, 20 phút. Tù không bao giờ gặp mặt nhau, cứ người này tắm xong, mới mở cửa phòng khác cho tù ra tắm. Tiểu tiện đi vào thùng sắt đựng đạn của Mỹ, cứ đi tắm mang ra đổ, rửa sạch dùng lại.

Đưa tôi về nơi này, bọn Cán Bộ chấp pháp làm áp lực để tôi viết cam kết, với chồng hồ sơ thu thập được của nhân viên Thiên nga, cấp chỉ huy, bạn bè để trước mặt, cho thời hạn suy nghĩ là 3 ngày. Trên đường trở về xà lim, tôi nhờ chấp pháp trình lại với lãnh đạo của họ, ‘6 năm tù cải tạo đủ để suy nghĩ, không cần thêm 3 ngày. Tôi trả lời: Không, không bao giờ.’

Thế là tiêu chuẩn ăn hàng ngày bị giảm đến mức tối thiểu, chỉ còn một chút cơm với vài hột muối hột. Thời gian này, bệnh nặng không được chữa, có lần ói từ nửa đêm đến sáng. Khi họ kiểm tra thấy nằm ói toàn mật xanh, Bá sĩ y tá tới, cho thuốc uống liền tại chỗ. Người y tá đưa thuốcd nói thật nhanh, thật khẽ, “Đừng uống.” Tôi vội nắm chặt thuốc trong lòng bàn tay, đưa tay giống như bỏ thuốc vào miệng và vội vàng uống nước. Sau này, tôi gặp người y tá đó khi khám sức khỏe đi Mỹ tại Bệnh viện Cảnh Sát. Người ấy mới kể, trước là y tá Bệnh viện Cảnh Sát Quốc Gia VNCH, có thân nhân liệt sĩ, nên được giữ làm lại, biết tôi và tránh cho tôi bị thuốc.

Họ giữ tôi tại cơ quan X4 bốn tháng nhưng không khai thác được gì. Bọn chấp pháp đem cán bộ nữ ra dụ dỗ vì thương con tôi, mới khuyên tôi cam kết để tha về. Tôi khẳng định tôi về khi nào có chính sách của lãnh đạo nước, chứ về riêng lẻ không bao giờ có. Thấy tôi kiên quyết không khai, bọn chấp pháp biểu tôi đứng xa họ ba thước, nghe đọc lệnh án. Lệnh án có nội dung như sau: Do quyết định ngày… tháng… năm, Tên Nguyễn Thanh Thủy có thái độ ngoan cố không chấp hành cải tạo lao động nên tuyên án tập trung cải tạo tiếp 3 năm và quyết định có hiệu lực vô thời hạn.

Hai chân tôi bị nhốt ở xà lim, nên bị liệt không đi nổi. Trở lại xà lim, lấy quần áo chiếu mền theo họ chở về trại tù cải tạo Long Thành. Trước khi lên xe, họ đưa cái giỏ nhỏ nói là quà gia đình gửi. Sau này gặp chồng tôi, anh kể mấy ngày trước khi tôi trở lại trại cải tạo Long Thành, họ đưa một miếng giấy có chữ viết của tôi, vỏn vẹn, “Thăm anh và các con. Em vẫn khỏe mạnh.” Xong họ dặn chồng tôi mua cho tôi ít quà khô. Họ biểu đem đến cổng. Anh không biết chỗ, hỏi thăm gác cổng, họ bắt anh nhốt cho tới tối mới thả anh ra.

Sáng hôm sau là tôi chuyển trại. Họ phải xách tất cả một xách quần áo, sô đựng vài thứ linh tinh, một giỏ thức ăn. Vì tôi đi không nổi, mặt mày xanh xao, không ánh nắng mặt trời bốn tháng, màu da vàng của người VN rất đúng không sai tí nào. Nói đến hình phạt kỷ luật cho nữ, cái nhà kỷ luật là nhà có 2 lớp, giống như cái hộp có hai lớp, một lớp là phòng giam nóc bằng, cách khoảng chừng 1 thước, lớp ngoài cũng xi măng cốt sắt.

Mỗi phòng giam kỷ luật có một cái bệ. Cuối bệ có cây sắt thông ra ngoài để khóa bằng ống khóa sắt. Trên cây sắt có những cái cùm. Cái bệ xi măng có một cái lỗ để thùng đạn của Mỹ. Thùng trống không, làm chỗ tiểu tiện. Đặc biệt là kể từ ngày vào phòng giam kỷ luật cho đến ngày ra không được tắm. Không được tắm từ 1 tuần cho tới 3 tháng, 6 tháng, hay cả năm, chỉ những ngày kinh nguyệt phụ nữ mới được 40 phút thay quần áo.

Tùy theo hình thức phạt, đa số hai chân đều phải cùm lại, hỏng trên cái bệ, nên rất đau đớn vì tê chân và sét ăn vào cườm chân. Muỗi đốt suốt ngày đêm, bóng tối cả ngày đêm… Những hình thức này tôi đều trải qua, hằn sâu trong da thịt tôi.”

Chính thời gian biệt giam này đã gây ra nhiều tổn thương trên thân thể bà nhất, từ việc bị bại liệt một bên người, phong thấp, các chứng bệnh đường ruột và tiêu hóa, cho đến sự căng thẳng đầu óc đến cao độ. Từ việc bị giam trong phòng tối cả ngày lẫn đêm, cho đến việc bị điều tra hỏi cung 24/24, cho đến việc bà bị trừng phạt không cho ăn uống, chỉ có chút nước và ít muối hột, hay bị phạt không được tắm, những ngày có kinh nguyệt bà cũng chỉ được 40 phút thay quần áo rồi bị cùm lại – tất cả đã khiến bà rụng gần hết răng và cơ thể bà hoàn toàn kiệt sức, không đứng được.

Tôi thắc mắc, sau những đằng đẵng đói lạnh và lao động quá sức, không biết trong những lúc quá cùng cực và bị bệnh thập tử nhất sinh, Nguyễn Thanh Thủy có bao giờ cảm thấy tuyệt vọng không? Mười ba năm khổ sai đã cho bà nhiều kinh nghiệm đắt đỏ và một cái nhìn thấu đáo về chế độ chính trị đang nắm quyền trên quê hương bà. Và khi bà rời nhà tù nhỏ của trại Hàm Tân Z30, bà tiếp tục bị dồn bức cho đến giây phút gia đình bà đứt ruột rời bỏ người thân và quê hương để đi Mỹ qua diện H.O.

Bà kiên trì, giữ vững tôn nghiêm của người lính, giữ tinh thần lạc quan. Cho nên “Cả 13 năm tù, tôi không muốn kẻ địch thấy giọt nước mắt của tôi. Nên khó tìm thấy nét buồn, cho tới ngày em tôi lên trại, báo tin Ba tôi mất, tôi xỉu ngay tại phòng thăm nuôi và tôi rơi nước mắt.”

Nhưng dù không biết tương lai mình ra sao, Nguyễn Thanh Thủy vẫn luôn nghĩ đến người khác, những người bạn tù của bà. Chính vì nghĩ đến người khác, nên ngay từ đầu, bà đã không khai những bí mật Thiên Nga khi bị hỏi cung, mà mới bị trừng phạt nặng nề và chịu nhiều tổn hại về sức khỏe. Đến những ngày cuối cùng, bà vẫn giúp các bạn tù, “Mấy năm trước ngày ra trại, tôi làm đội trưởng kỹ thuật may, chỉ cho các em hình sự án cao biết may gia công để đỡ cuốc đất trồng rau cực khổ trong thời gian thụ án, sau có tay nghề may.”

Là người nữ tù cuối cùng rời trại cải tạo vì bị cho là ngoan cố, Nguyễn Thanh Thủy rời tù nhỏ, về tù lớn của xã hội Việt Nam hậu 1975, với hai hàm răng đã rụng, nên các con không dám tới gần bà. Con gái bà bảo, “Kỳ quá, Mẹ không có răng!”

Bà Nguyễn Thanh Thủy sau 13 năm tù cải tạo.

Tôi tự hỏi, đối với bà, đâu là nỗi đau lớn nhất trong 13 năm này: những đau khổ về thân xác trong trại cải tạo, hay nỗi đau tình cảm phải chia lìa với gia đình và con dại? Thời gian có xoa dịu được những nỗi đau này không? Hay mất mát sẽ vĩnh viễn là mất mát? Lần đầu tôi phỏng vấn Cựu thiếu tá Nguyễn Thanh Thủy là từ thập niên 1990, cho Dự Án Việt Mỹ (còn gọi là ‘Vietnamese American Project,’ do tôi dùng tiền student loans để sáng lập tại CSU Fullerton, và sau được sự hỗ trợ của Đại học Nhân Văn và Khoa Học Xã Hội của trường và các tổ chức khác). Cho nên trong các cuộc thuyết trình chuyên môn về người Việt hải ngoại tại các trường đại học khắp nơi trên thế giới trong suốt gần hai mươi năm qua, tôi vẫn đặt câu hỏi: Ai sẽ trả lại cho Nguyễn Thanh Thủy và gia đình bà 13 năm chia lìa vì tù ngục cải tạo? Chứng từ của Nguyễn Thanh Thủy trong các cuộc phỏng vấn lịch sử truyền khẩu mà tôi đã thực hiện với bà sẽ tiết lộ câu trả lời của bà cho những câu hỏi này trong các kỳ tới.

Trangđài Glassey-Trầnguyễn

CẦM LẠI ĐÀN

tranvietdung

hiên nhà tìm lại chính ta
giấu trong thùng gỗ bài ca thiếu thời
khi không bỗng nhớ môi người
serénade rụng những lời mỏng manh
quạnh hiu vây giữa âm thanh
bàn tay chảy máu xuống cần đàn xưa
trầm trầm khúc nhặt khúc thưa
bóng mình cúi xuống say sưa với đàn
giọng người xa lắc còn vang
hồn ta ngói vỡ hoang tàn lên rêu
chiều nay ngồi nhớ một chiều
tiếng rơi rơi . chậm dần đều .. ru ta .

Trần Viết Dũng