THƠ VIẾT TRONG VƯỜN CŨ

vungocgiao

ta lang thang giữa phố đông
như , rong rêu giạt theo dòng phù sinh
em dong ruổi cõi điêu linh
tóc che kín mặt – gọi tình hắt hiu !
ta ngồi nốc rượu – quên chiều
nhớ em , mắt dại chân xiêu nửa đời
ngật ngừ – ngửa mặt nhìn trời
ngậm cành hoa héo , hát lời thản nhiên !
ta về , ôm hết muộn phiền
nằm nghe gió hú bên triền đá xưa
em đi , nghiêng hết nắng mưa
dấu chân ma mị chưa vừa chiêm bao !
thôi em , tình lỡ hư hao
mai sau , xin nhớ cuộc lao đao này !

vũ ngọc giao

ĐỜI CÒN LẮM KIỀU

nguyenvanthien

Đời còn lắm Kiều, Nguyễn Du ơi có biết?
Tâm không còn máu lệ đủ cho thơ
Tạm mượn Cổ Thi khóc nỗi-bây-giờ
Đạm Tiên lại về trong mơ… đòi nợ cũ
Bút rè mực khô, tim bọng mủ
Vô duyên bất tài tự thú lạy hồn thơ
Đâu phải lòng mình như gỗ đá trơ trơ
Chỉ tiếc trên tay thanh gươm Từ Hải gảy
Đêm đêm chong đèn thẹn cùng bút giấy
Dăm câu thơ hờ tim đỡ nhức vết thương
Sông quê hương sao dậy sóng Tiền Đường
Nơi cắt rốn chôn nhau mười mấy năm lưu lạc?
Oán Hoạn Thư hờn ghen trò quỷ ác
Giận Thúc Sinh, nghĩ lại thẹn lòng mình
Đàn đứt dây đêm trắng gãy tang tình
Thương Kiều xưa mười ngón tay nhỏ máu
Khi còn lắm quan Hồ quanh ngai báu
Biết ai còn ai mất buổi đoàn viên?
Thuý Vân liều thay chị chắp hờ duyên
Có nguôi ngoai nỗi đau lòng Kim Trọng?
Đời còn lắm Kiều, Nguyễn Du sao khuất bóng
Nghiêng trăng khuya ta giở lại Đoạn Trường
Từng câu từng vần rỉ máu những vết thương
Thập loại chúng sinh oan hồn kêu đứt ruột
Mạn phép Nguyễn Du,
thay Kiều xin chấp bút
Đạm Tiên lại về hồn gió …
khóc đòi THƠ…

NGUYỄN VÂN THIÊN

Một Ngày Trong Đời Của Ác-min-xô-vít.

luuthy


Lời giới thiệu:
.
Thơ có nhiều loại thơ, thơ lục bát, thơ bốn câu, thơ năm chữ, thơ cổ điển, thơ hiện đại, thơ hậu  đại, thơ hài cú, thơ tự do, thơ lung tung và thơ tân hình thức.

Truyện thì có truyện ngắn, truyện dài.

Thơ ngắn là thể thơ thuộc dòng thơ cụt ngủn.

Thơ dài thuộc họ thơ lòng thòng.

Truyện đã dài thì phải có truyện quá xá là dài. Quá xá dài nên truyện mới dài dòng.

Không muốn dài dòng thì phải ngắn. Ngắn hơn truyện ngắn là truyện cực ngắn.

Đừng tưởng bở cứ ngắn quá thì không đi sâu đi sát đi vào quần chúng. Đừng tưởng bở cứ viết ngắn mà không dở thì là mà dễ. Tác giả viết truyện cực ngắn phải có vốn sống thật dài, phải thông kim bác cổ, phải thấm nhuần triết lý cao siêu, phải đạt đạo trải đời.

Cứ hãy đọc thử một cái truyện cực ngắn sau đây rồi sẽ thấy:

Hắn.
Thức dậy.
Ăn sáng.
Đi làm.
Về nhà.
Ngủ.
Đứng tim.
Chết.


Đọc xong là ta thấy ngay trong cái truyện cực ngắn hàm chứa biết bao nhiêu là triết lý cao siêu của đạo Phật. “Đời là vô thường, hạnh phúc mong manh, nghiệp báo trùng trùng…“

Ngoài cái ngắn dài cụt ngủn lòng thòng dài dòng còn có truyện dài nhiều kỳ.
Truyện dài quá là dài nên phải chia ra nhiều kỳ cho người ta đọc cho đỡ ngán, mỗi kỳ mỗi ít để cho người ta thèm thuồng. Đọc ít nhớ lâu đọc nhiều quên tuốt luốt.

Truyện dài nhiều kỳ đầy dẫy khắp nơi nhưng truyện ngắn nhiều kỳ thì hầu như chưa có.

Chưa có nên giờ tôi mới cho nó có. Tôi sẽ là người founder cho một trường phái mới, trường phái truyện ngắn nhiều kỳ. Đã là truyện ngắn mà lại đăng nhiều kỳ nên một kỳ có thể 10, 20 hàng hoặc có thể chỉ một hàng với một chữ “Vâng”, “Ờ…” hay nhiều hơn một chữ “Thế rồi…”

Chỉ mới là thử nghiệm nên thế nào cũng có sai sót, xin độc giả niệm tình tha thứ. Sai chỗ nào, sót chỗ mô, hay hay dở cứ thành thật mà phê bình thẳng thắn. Phê bình theo trường phái “vuốt lá” hay trường phái “vạch lá”, cũng nhớ “Like” cho một cái.

“Like” là cái chữ độc quyền của Facebook. “Like” cực kỳ sâu sắc và thông minh.

Trả lời cho cái tin buồn người thân của Friend trang facebook vừa mới mất: “Thành kính phân ưu, xin chia buồn cùng anh, chị, em, đồng chí, đồng hương,…” xong cho ngay một cái “Like”.

Nghe friend than vừa mới bị thất nghiệp, vợ bỏ, con đi hoang, hay con chó cưng vừa mất tích. Cũng chia buồn một cái, an ủi một câu rồi cũng “Like”.

“Like” như thế mà “Friend” cũng vậy. Hai Friend ngoài đời như hai kẻ thù không đội trời chung, giờ đây nhờ có Facebook mà hai Friend chung cùng chia vai sát cánh trong cái nhóm Friend của Friend.

Ôi! Facebook! Facebook! Không có nơi đâu mà tuyệt vời như vậy.

Friend của Friend ta là Friend ta. Bốn phương tám hướng tứ hải giai huynh đệ tương tàn.

Chuyện Facebook là cái chuyện dài… dòng.

Chuyện là kể cái điều có thật, còn truyện thì không, nhưng vẫn có nhiều người cứ hay muốn lẫn lộn giữa thực và hư, giữa không và có, giữa chuyện và truyện.

Muốn biết thực hư xin mời trở lại cái truyện ngắn nhiều kỳ.

Kỳ thứ nhất của cái truyện ngắn nhiều kỳ:

MỘT NGÀY TRONG ĐỜI CỦA ÁC-MIN-XÔ-VÍT.
Truyện ngắn nhiều kỳ.
__________________

KỲ 1.

Reng…

Tiếng chuông điện thoại đầu tiên 3 giờ sáng.

“Hắn được mời lên phát biểu. Bao nhiêu con mắt đổ dồn về phía hắn”

Reng…

Tiếng chuông điện thoại lần thứ hai.

“Trang Bang Chủ! Trang Bang Chủ! Bao nhiêu cái miệng phía dưới sân khấu hò hét.”

Reng…

Tiếng chuông điện thoại lần thứ ba kêu.

“Muôn Năm Trường Thọ! Sáu Cõi Phiêu Linh!” Hắn sướng rên sướng rỉ, mắt lim dim đê mê tiến về phía khán giả…

Reng…

Tiếng chuông điện thoại réo lần thứ tư cùng với “rầm” một cái. Hắn ngã từ trên giường xuống nền nhà. Cơn mơ tan biến và tiếng reng lần thứ năm đánh thức giấc mơ đẹp như… mơ.

“Alô? Alô?”

“Anh Ác-min-xô-vít ơi! Em Sushi đây!”

Cúi xuống nhìn phía dưới, hắn giật mình vơ vội vơ vàng cái C.K màu đỏ thẫm.

“Anh đang làm gì đó? Có tiếng gì sột soạt trong máy?”

“Ơ… ơ… Anh đang chuẩn bị bài vở để post cho ngày hôm nay. Gớm! Thời đại bây giờ mà còn có người không chịu email, còn làm thơ trên trang giấy trắng, bỏ bì thư, dán tem, ra bưu điện rồi gửi về đây. “

…………………………………………

KỲ 2.

Nhìn về phía bà vợ tròn trịa phốp pháp còn đang say nồng trong giấc điệp, Ác-min-xô-vít rón rén mở cửa phòng đi về phía nhà bếp. Tay áp sát cái điện thoại vào tai lắng nghe tiếng léo nhéo của Sushi, tay kia mở tủ lạnh với lấy hộp sữa Vinamilk.

“Cả đêm hôm qua em không ngủ được anh Ác-Min à. Em cứ ôm cái màn hình có cái bài thơ của em trên đó thức suốt đêm chờ sáng canh có ai vô là “giao lưu” ngay. Em vui quá anh Ác-Min à. Giờ em cũng có thơ đăng báo mạng… Em thích mấy anh Xu Xu, Ka Ka, Ki Ki, Ke Ke nào đó ghê… Ơ, anh Ka Ka xuất hiện rồi… Ảnh đang hỏi em ngủ có ngon hông… Thôi em bye anh Ác-Min nghen… để em “giao lưu” với anh Ka Ka… A, lại có em Xi Xi nữa… Vui quá anh Ác-Min ơi… Bye anh nghen…”

Ác-min-xô-vít đưa mắt nhìn đồng hồ treo tường. 5 giờ 12 sáng. Bên ngoài tiếng xe cộ, tiếng rao hàng, tiếng cửa sắt mấy căn nhà hàng xóm đang bắt đầu mở.

Một ngày mới mới bắt đầu. Ngày mới bắt đầu của Ác-min-xô-vít đã bắt đầu từ lâu, bắt đầu từ tiếng chuông điện thoại lần thứ nhất. Tiếng chuông điện thoại của Sushi lúc 3 giờ sáng.

…………………………………………..

KỲ 3.

Làm xong nghĩa vụ vệ sinh thân thể đầu ngày, Ác-min-xô-vít tay cầm lược còn nấn ná trước gương sửa lại vài sợi tóc mai. Bôi chỗ này tí gel, xịt chút dầu thơm hai bên cổ, tay phải quẹt quẹt, tay trái vuốt vuốt, xong cùng đưa lên mũi ngửi ngửi.

“Bà vợ giờ này vẫn còn chưa thức giấc. Thay cái áo vía đổi cái quần xịn là tới gặp tụi nó là vừa. Hôm nay có chụp hình post lên mạng, phải o bế chút chút cho nó chỉn chu chỉnh tề chu đáo đàng hoàng lịch sự”

Ác-min-xô-vít cười hà hà, liếc nhìn vô gương nhéo mắt, miệng méo xẹo méo mó điếm đàng.

……………………………………………..

KỲ 4.

“Cô cho ly cà phê sữa đá như thường lệ”

“Anh có thể chờ khoảng 10 tới 15 phút được không?”

Ác-min-xô-vít ngẩng đầu lên nhìn cô chủ quán ngạc nhiên nhướng mắt dò hỏi. Cô chủ quán cười cầu tài phân bua:

“Anh cảm phiền chờ một lát. Em mới sai con nhỏ đi mua hộp sữa Cô Gái Hà Lan pha cho anh, quán giờ chỉ còn có sữa Ông Thọ và Con Chim”

Ác-min-xô-vít gật đầu đồng ý. Cô chủ quán cảm ơn xong quay về phía quầy.

Chỉ khi nào có chuyện thật quan trọng cần bàn bạc, Ác-min-xô-vít mới chọn cái quán này mà tới. Cái quán thì cũ kỹ chẳng có gì là đẹp, nhưng được cái kín đáo, nằm khuất lấp loay hoay trong con phố hẹp với triền dốc xuống lên. Cà phê thua xa mấy cái quán khác nhưng cà phê sữa đá ở đây là số một không đâu bằng. Mà sữa phải pha đúng với sữa Cô Gái Hà Lan Ác-min-xô-vít mới chịu, pha với Ông Thọ hay Con Chim là hỏng cả cái mùi cà phê.

Trong khi chờ đợi Cô Gái Hà Lan, Ác-min-xô-vít lục cái xắc tay lấy ra cái laptop đặt ngay ngắn lên bàn, nhìn cái laptop lắc đầu ngao ngán:

“Đã nói bóng nói gió đến mức đó rồi mà vẫn không chịu hiểu. Đại gia với doanh nhân thành đạt gì mà chậm tiêu. Chả lẽ nói trắng ra là tui muốn được tặng cái iPad.”

“Sao tới cái giờ này mà vẫn chưa có đứa nào ló cái mặt ra vầy hè?”

Ác-min-xô-vít đưa mắt nhìn xuống dưới cổng ra vào. Khách bắt đầu lục tục lai rai kéo vào quán. Có người dớn dác kiếm tìm người quen. Có cô bé hầu bàn tay cầm bao ny lông đựng mấy lon sữa Cô Gái Hà Lan hối hả đi vào. Có hai thằng mặt mày cô hồn giơ tay vẫy vẫy chào Ác-min-xô-vít…

……………………………………….

KỲ 5.

“Ới ới cô nàng xinh xinh… Ới ới cô hàng cà phê ơi… Cho anh xin hai ly cà phê sữa đá…”

Ka Ka nói xong cả ba cùng cười ồ. Cô hàng cà phê không cười mà còn trừng mắt nhìn cả ba hỏi cộc lốc:

“Sữa gì?”

“Một Ông Thọ cho nó còn anh cho anh Con Chim.” Xu Xu nói xong nhìn Ác-min-xô-vít:

“Đại ca lúc nào cũng Cô Gái Hà Lan, lâu lâu anh cũng nên đổi món cho đời nó lên hương.”

“Tao đây tới chết cũng không bao giờ thay. Cái thằng Ki Ki khốn kiếp đang làm cho tao bực cái mình đây. Bài phóng sự tham quan Niu-Ót của nó, tao đã dặn rồi mà cứ chứng nào tật nấy, thấy sao là viết vậy, giờ đây tao mới nhức cái đầu không biết sửa ra làm sao. Hai đứa có ý gì góp giùm tao chút.”

Ka Ka với Xu Xu ngạc nhiên vô cùng. Từ xưa đến giờ có đời nào mà Ác-min-xô-vít hỏi ý tụi nó đâu. Chìa khoá Ác-min-xô-vít giữ khư khư một mình, muốn xoá muốn sửa, muốn thay muốn đổi, hai thằng chỉ biết đưa mắt mà ngó, ngồi đó chịu trận chờ Đại ca về giải quyết. Đại ca chỉ toàn ra lệnh với ra tiền. Hai thằng có đề nghị cái gì hay hay là bao giờ cũng nghe cái câu trả lời quen thuộc “Tao biết rồi” “Tao đang tính làm.” Lần này Ác-min-xô-vít mà phải hỏi ý tụi nó là có chuyện gay go lắm đây. Xu Xu đưa mắt nhìn Ka Ka rồi quay qua Ác-min-xô-vít hỏi:

“Chuyện gì vậy đại ca? Góp được thì tụi em góp.”

“Chuyện là thế này, trong bài viết hắn ghi là tượng Nữ Thần Tự Do. Tụi mày biết đó, hai cái chữ này thuộc diện nhạy cảm, bỏ đi thì câu văn bị què và vô nghĩa. Tao không biết sửa sao cho hạp tình hạp sách. Còn cái câu có chữ “chủ nhân ông vô thức”, “vô thức” thì bỏ đi không sao.

“Sao đại ca không sửa thành Nữ Thần Tự Dzo?”

“Tự dzo là văn còm, còn trong bài thì phải dùng văn viết. Hiểu chưa?”

Xu Xu lắc đầu, dụi điếu thuốc thứ nhất, châm lửa mồi tiếp điếu thứ hai, mắt lim dim suy nghĩ tay cầm ly cà phê đưa lên miệng. Ly cà phê chưa tới miệng, Xu Xu đã sáng mắt dằn mạnh ly cà phê xuống bàn, cười khà khà la lớn:

“Em tim ra rồi. Đại ca sửa như thế này là ô kê ngay con gà quạ.”

Ác-min-xô-vít trố mắt nhìn thằng em, không tin hất đầu hỏi:

“Sửa sao? Nói nghe coi.”

“Đại ca sửa là Tượng Nữ Thần Ly-bợt-ty. Em nhìn thấy cái ly cà phê là em nhớ tới cái chữ Ly-bợt-ty trong English for Today.”

Ác-min-xô-vít cười ha hả khoái chí, đưa ly cà phê lên cao. Ba ly cà phê cụng nhau nghe cái cốp.

“Chuyện gì khó có cà phê.” Cái câu nói ngày hôm đó của Ác-min-xô-vít sau này trở thành danh ngôn, lời hay ý đẹp, được biết bao nhiêu là trang mạng nắn nót tô điểm trang hoàng đóng khung trịnh trọng để ở đầu trang. Ác-min-xô-vít nổi tiếng như cồn cũng từ đó mà ra.

…………….~ “C h u y ệ n   g ì   k h ó   c ó   c à   p h ê.”  ~……………….

………………………………~Ác-min-xô-vít~……………………………………

…………………………………………..

KỲ 6.

Từ khi Xu Xu giải quyết được cho Ác-min-xô-vít cái chữ Tự Dzo dễ ghét, Ác-min-xô-vít hết còn cơn bực dọc ban đầu khi dự tính kêu hai tên đàn em tới để dủa cho một trận cái tội để cho trang mạng đi xuống. Hai ngày nay, số lượng người truy cập mất gần cả ngàn lượt, trang mạng từ vị trí top ten tụt xuống gần áp chót. Ngày đầu tiên lấy lý do lễ lạc mọi người ham vui quên nhiệm vụ trả lời Anh Lớn nghe còn hợp lý, còn ba ngày nay đây tí nữa phải trả lời Anh Lớn ra làm sao. Hai cái thằng này, có bao nhiêu đó mà vẫn không làm nên cơm cháo. Ác-min-xô-vít quay nhìn Ka Ka hỏi:

“Sao mấy ngày nay mấy con số cứ càng ngày càng xuống vậy?”

Ka Ka nghe hỏi, giật mình mới đầu còn ấm a ấm ớ rồi sau mới thú thiệt:

“Thằng con em nó đòi thêm, em không chịu. Mấy ngày đó chỉ có mình em trực máy nên không xuể. Hồi nãy trước khi đi em với nó đã thoả thuận xong, anh yên tâm. Để rồi anh coi, ngày mai sẽ lên ào ào gấp đôi gấp ba.”

“Hơn chút chút thôi, đừng nhiều quá… Bộ không thấy cái còm thét ma thét mét sao. À, mà này, hai đứa đã vô cái facebook của thằng Lui Xui chia buồn chưa? Rồi hả? Giỏi! Phải nhớ luôn luôn giữ quan hệ tốt với cộng tác viên. Ờ… mà hai thằng mày có Like chưa?”

Nghe Ác-min-xô-vít hỏi, Ka Ka và Xu Xu mới sực nhớ chưa Like cái tin buồn, hối hả mượn Ác-min-xô-vít cái laptop…

Ác-min-xô-vít nhìn đồng hồ trên tường. 12 giờ đúng. Ngoài đường xe cộ đã bắt đầu nhộn nhịp. Mấy cái quán ăn phía bên kia đường đông nghẹt người. Mùi thịt nướng từ bên đó bốc qua bên này làm cho bao tử Ác-min-xô-vít trở nên khó chịu. Đói quá rồi, hết chịu đựng nổi, sẵn có hai thằng này ở đây, hôm nay mình chiêu đãi cho tụi nó một chầu.

“Hai đứa bay đói chưa? Like xong thì cùng với tao đi ăn. Tao bao, khỏi phải kiếm cớ chối từ.”
………………………………….

KỲ 7.

MENU:

1. 3 Khăn Lạnh.
2. 3 Ly Cối.
3. 3 Đôi Đũa.
4. 3 Cái Chén.
5. 24 Lon Heineken.
6. Bánh Bèo Qui Nhơn.
7. Chả Gối Gò Bồi.
8. Chạo Cá Nướng Sả.
9. Giò Heo Chiên Giòn.
10. Lẩu Tôm Hoàng Sa.
11. Kem Flan.
12. Trái Cây: Cam, Nho, Kiwi, Cantaloupe.
13. Phiếu Tính Tiền.

………………………………………..

KỲ 8.

Chia tay hai tên cốt đột, Ác-min-xô-vít nhìn đồng hồ. Đã hơn 4 giờ chiều. Sắp có cái hẹn với Sushi lúc 5 giờ rưỡi. Với cái giờ này, với cái lượng xe và người như thế này, với bao nhiêu cái mũ bảo hiểm đủ màu đủ kiểu đang trồi lên trụt xuống lạng qua lạng lại ngoài kia, chen được vô đó mà tới cái địa chỉ Sushi nhắn trên điện thoại cũng phải mất gần tiếng đồng hồ. Ác-min-xô-vít than thầm, tấp xe vô cửa hàng bán hoa kế bên tiệm ăn, chọn một bó hoa hồng đỏ thẫm, rồi ghé vô cái ngõ hẻm  bấm số gọi về nhà.

“A lô! Em đó hả?… Không… không… Tí nữa anh phải đi gặp đối tác. Ờ… ờ… Vừa mới họp xong với Hội đồng Quản trị Công ty… tưởng đâu được về sớm ai ngờ phải thay mặt công ty đi gặp ngay đối tác làm ăn mới. Bao lâu hả?… Ơ… ơ… Chưa biết, gặp xong rồi còn phải về công ty… giải quyết cho xong đống hồ sơ. Không… không… Có thể anh sẽ ngủ ở công ty. Khỏi… khỏi… Em đừng chờ. Bye cưng. Bye.”

Ác-min-xô-vít phóng xe thiệt lẹ điền vô cái chỗ trống ngoài kia. Ác-min-xô-vít đang ở đâu, chỗ nào, X là bao nhiêu Y là mấy trong cái đám hỗn độn trên con đường nào đó của cái thành phố gần 8 triệu dân vào cái giờ thứ 17 một ngày trong đời Ác-min-xô-vít thì chỉ có trời mà biết được.
………………………………………

KỲ 9.

[ Nội dung bài viết có nhiều chi tiết không lành mạnh, bạo lực, nóng bỏng, quá nhạy cảm với độc giả vị thành niên, không theo đúng điều lệ của trang mạng nên bị kiểm duyệt xoá bỏ ]

………………………………………………

Kỳ 10.

Gần 12 giờ đêm Ác-min-xô-vít mới về được tới nhà. Rón rén mở cửa vào nhà, mở tủ lạnh nhón lấy hộp sữa Vinamilk uống vài hớp xong tiện tay mang ra phòng khách. Ác-min-xô-vít ngồi trong bóng tối không buồn bật công tắc mở đèn. Trong phòng ngủ, bà vợ vẫn đang say nồng trong giấc điệp, lúc ú ớ, lúc khò khò, lúc lại nghiến răng ken két. Cái điệu nhạc quá quen thuộc với Ác-min-xô-vít từ ba mươi mấy năm nay. Lúc nào thì ú ớ, lúc nào thì khò khò, rồi khò bao nhiêu giây, dừng tới lúc nào thì bản nhạc trở lại từ đầu, Ác-min-xô-vít thuộc nằm lòng. Bà vợ được cái hiền khô, dịu dàng, nói sao nghe nấy, không đua đòi hàng hiệu Louis Vuitton với Gucci. Bạn bè nàng không nhiều, thú vui lại không có, chỉ trừ cái niềm đam mê độc nhất là ngủ. Hễ nằm xuống là nàng ngủ, ngủ ngay lập tức, không ác mộng hay mộng mơ nhiều như Ác-min-xô-vít.

Ác-min-xô-vít ban đêm thì ác mộng, ban ngày thì mộng mơ. Cái mơ mộng từ mấy chục năm nay tới giờ này vẫn còn chưa chấm dứt. Ác-min-xô-vít mơ nhiều thứ, mộng nhiều điều, đụng cái gì cũng mê, nhỏ không tha già không thải, lớn bé nhỏ to xìu xìu ển ển gì gì cũng được hết. Ác-min-xô-vít mơ tiền, mơ tình, mơ tiếng, mơ tài và chỉ mơ tù mơ tội trong những cơn ác mộng.

Đêm nay thế nào Ác-min-xô-vít cũng gặp ngay một cơn ác mộng. Một cơn ác mộng rất là cực kỳ khiếp đảm. Sẽ không có giấc mơ đẹp như mơ “Trang Bang Chủ Muôn Năm Trường Thọ Sáu Cõi Phiêu Linh” của ba giờ đầu tiên khởi đầu một ngày trong đời của Ác-min-xô-vít.

23:59:59

HẾT.

Lưu Thy

Tiễn đưa.

caovantam

Ngày em thắp sáng môi xinh.
Gieo muôn nghìn hạt bình minh chân trời.
Ngày em hé nụ chơi vơi.
Thềm rêu tỏa nắng mù khơi tím màu .
Ngày em ánh mắt dao cau.
Là gây trăm nỗi thương đau mơ hồ…

Bởi ta ngựa chứng chạy thồ.
Chở người trĩu nặng sông hồ quá giang.
Biết là tai ách giữa đàng.
Cũng xin đưa tiễn trái ngang một lần…

Một lần dẫu chỉ một thôi.
Ta xin tiễn biệt bờ môi xuân thì…

caovantam

KHÚC CHIỀU RƠI

 

tonnuthudung

Ai gọi tôi về chốn cũ
Tiếng sóng hoang vu thở dài
Một con dế buồn trong cỏ
Ngậm sương chờ đợi dấu hài.

Ngồi xuống cùng tôi -thơ dại –
Trái tim bong bóng vỡ rồi
Bàn tay nào che khuất mặt
Nụ cười một thuở mưa bay.

Cùng đếm giùm tôi giấc mộng
Bao năm nắng rớt bên đồi
Chiều rơi…cuối cùng mất bóng
Đêm tàn…lạnh một chia phôi.

Tôn Nữ Thu Dung

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA :CHUYẾN BAY CUỐI CÙNG TỪ ĐÀ NẴNG

larryengelmann

Screen Shot 2013-04-13 at 5.54.57 PMJan_Wollett

JAN WOLLETT

(Nữ Trưởng Tiếp Viên Hàng Không)

“Tại sao họ bắn? Chúng tôi là những người bạn tốt”

Ngày 29/3/1975 đáng lẽ nhân viên khách sạn Sài Gòn phải đánh thức tôi dậy lúc 5 giờ sáng . Tôi là tiếp viên trưởng của một chuyến bay khứ hồi ra Đà Nẵng . Nhưng 5 giờ sáng hôm ấy không có ai đánh thức tôi dậy. Khoảng 6 giờ sáng mới có điện thoại của Val Witherspool, một nữ tiếp viên khác. Cô ấy bảo: “Chị xuống ngay phòng đợi khách sạn trong vòng 5 phút.” Khoác bộ đồng phục, tôi lập tức chạy xuống cầu thang. Ông Ed Daly và Val đang chờ tôi ở dưới nhà. Bruce Dunning, làm việc cho hãng tin CBS cũng đã có mặt. Tôi bảo Bruce: “Bọn này phải ra Đà Nẵng”. Anh ta nói: ’’Có tin thành phố này rơi vào tay Bắc Việt rồi” Tôi nói: “Nếu thành phố này đã mất thì chúng tôi đâu có đi” Bruce yêu cầu được đi theo chuyến bay. Ông Daly bảo: “Muốn đi thì đi. Có mặt ở phi trường Tân Sơn Nhất trong vòng một giờ đồng hồ nữa.”

Bruce tập họp Mike Marriotte, chuyên viên quay phim và Mai Văn Đức, chuyên viên âm thanh, rồi chở họ ra phi trường. Chúng tôi bước lên chiếc World Airway Boeing 727. Là tiếp viên trưởng, tôi được thông báo là sẽ có một hay hai tiếp viên người Việt đi thông dịch, sẽ có binh sĩ bảo vệ để đương đầu với đám đông. Hôm trước, chúng tôi đã gặp khó khăn ở Đà Nẵng, và chúng tôi cũng sẽ phải mang theo nước ngọt, nước cam, bánh mì săng-uých cho hành khách.

Vừa vào phi cơ, tôi nói với Val và Atsako Okuka, một nữ tiếp viên khác: “Các bạn hãy xem xét ngay mọi thứ.” Chúng tôi thấy không có đồ ăn thức uống. Đó là dấu hiệu đầu tiên cho biết một cái gì bất thường đang xẩy ra…Không nước ngọt, không nước  cam, không bánh mì, không đồ ăn thức uống trên phi cơ. Cũng không có tiếp viên người Việt, cũng chẳng có binh sĩ bảo vệ nào hết.

Chúng tôi thảo luận xem có nên bay ra hay không. Lúc ấy Daly và phi hành đoàn đã lên phi cơ rồi. Dunning và toán làm tin CBS cũng vậy. Hai nhân viên cơ quan  USAID leo lên. Họ trấn an chúng tôi là mọi việc ở Đà Nẵng cũng tốt thôi, không cần gì đến binh sĩ bảo vệ Tiếp tục đọc

Bài Thơ Tháng Tư

trantrungdao

Mỗi năm vào dịp tháng tư
Tôi lại giống như một ông đồ già
Loay hoay bày ra giấy bút
Cố viết một bài thơ về đất nước
Chuyện bên nhà và cả chuyện lưu vong
Nhưng đã bao lần bút gãy mực loang
Bài thơ tháng tư tôi chưa hề viết được.
Phải chăng khi đến tận cùng khổ nhục
Con người bỗng trở nên
Bình thản tự nhiên
Có những chuyện buồn nhức nhối con tim
Vẫn có kẻ
Có thể bật cười
Dù là cười chua chát
Bài thơ nầy chắc sẽ dài
Vì đời tôi nhiều lưu lạc
Và cũng chắc sẽ buồn
Vì là chuyện nước non.
Phải chăng tôi nên bắt đầu
Khi những chiếc trực thăng
Sắp sửa rời thành phố
Trong đám người đang bon chen lố nhố
Tôi thấy dường như
Nhiều con chuột cống ở Sài Gòn
Cũng cố kiếm đường đi
Chúng cõng trên mình những chiếc va-li
Chứa đầy đô la vàng bạc
Dành dụm từ thời đi buôn gạo lậu
Dấu diếm từ thời lo bão lụt miền Trung
Tôi thấy chúng nghiêng mình
Hai gối run run
Trước những anh cảnh binh người Mỹ
Chúng nói những gì tôi nghe không kỹ
Chỉ thấy họ lắc đầu
Rồi bước vô trong
Có lẽ lại là chuyện hối lộ
Ðể dược đi đông
Ngòai chuyện ấy chúng còn biết gì hơn nữa
Tôi đứng nhìn qua đôi cánh cửa
Cầu mong cho chúng được đi mau
Những con chuột cống nầy
Gặm nhấm đã lâu
Và bán nước từ khi còn rất trẻ
Thuở Tây qua chúng đầu quân rất lẹ
Tây bỏ đi chúng theo Mỹ vì đô-la
Những chuyện về chủ nghĩa quốc gia
Hay dân tộc thiêng liêng
Chúng đọc biết bao lần
Nhưng chưa hề hiểu nghĩa
Tôi đứng nhìn qua đôi cánh cửa
Thầm cầu mong cho chúng được đi nhanh.
Phải chăng tôi nên bắt đầu
Khi những chiếc xe tăng
Lăn xích tiến vào thành phố
Tôi đứng lặng nhìn Tự Do vừa sụp đổ
Cây Dân Chủ chưa xanh
Ðã héo úa bên đường
Mới giã từ một bọn bất lương
Lại phải đứng nhìn những tên ăn cắp
Chúng đang nhân danh
Hòa bình
Tự do
Thống nhất
Ðể biến con người thành con vật ngây thơ
Chỉ biết lắng nghe
Chỉ biết cúi đầu chờ
Chỉ biết Ðảng
Ðảng trở thành tất cả
Lịch sử, tình yêu, tổ tiên, mồ mả
Chỉ còn là những chuyện phù phiếm, viễn vông
Chúng biến những nương dâu bãi mía cánh đồng
Thành những nông trường hoang vu tập thể
Biến nhà máy thành những nơi hoang phế
Biến học đường
Thành những nơi để thầy trò tố cáo lẫn nhau
Biến cả bình minh thành những tối thương đau
Biến tình yêu
Thành hận thù
Bon chen
Nghi kỵ
Từ thôn quê cho đến nơi đô thị
Ðã mọc thêm nhiều nhà cách mạng thứ ba mươi
Những bạn bè thân thiết thuở rong chơi
Bỗng một sáng thành những têm chém trộm
Chế độ đã dạy cho chúng
Một con đường tồn tại
Con đường phản bội lương tâm
Phản bội gia đình tổ quốc nhân dân
Phản bội chính tâm hồn vốn rất đáng yêu của chúng
Tôi đứng nhìn non sông đang phủ xuống
Một màu đen tang tóc đau thương
Người lính bộ binh buông súng đứng bên đường
Ðang cúi mặt cố che niềm tủi nhục
Anh không khóc
Sao trời như bão động
Anh không cười
Sao chua chát nghẹn trên môi
Về đâu anh nắng đã tắt trên đồi
Sương đang xuống trên cuộc đời còn sót lại
Ðời của anh
Ðời một tên chiến bại
Có gì vui để lại mai sau.
Phải chăng tôi nên bắt đầu
Khi những chiếc xe bộ đội nối nhau
Mang gia đình tôi đến vùng kinh tế mới
Ðến Ðồng Xoài trời vừa sập tối
Lại phải sắp hàng nghe nghị quyết triển khai
Gia đình tôi bảy người
Chen chúc tránh mưa
Căn nhà nhỏ một gian không vách
Mẹ tôi ngồi đôi tay gầy lạnh ngắt
Vẫn cố nhường chỗ ấm cho con
Gạo lãnh lúc chiều không đủ nấu cơm
Nên đêm ấy cả nhà ăn cháo trắng
Mỗi giọt cháo là một liều cay đắng
Chảy vào vết thương đang ung mủ trong hồn
Tôi, đứa con đầu trong bảy đứa con
Hơn hai mươi tuổi vẫn hai bàn tay trắng
Nuôi tôi lớn
Mẹ một sương hai nắng
Học ra trường lương không đủ nuôi thân
Mẹ tôi chưa hề trách cứ phân vân
Nhưng tôi đọc những buồn lo
Từ trong ánh mắt
Ðêm hôm ấy tôi ngồi nghe mưa rót
Vào lòng tôi những chua xót căm hờn
Bao năm rồi trong cảnh cô đơn
Mẹ tôi sống
Ðôi mắt buồn hiu
Chưa bao giờ khô lệ.
Phải chăng tôi nên bắt đầu
Khi chiếc ghe nhỏ
Máy hư
Ðang thả lênh đênh trên biển
Bốn phương trời chưa biết sẽ về đâu
Biển vẫn vang lên những khúc nhạc sầu
Ðược viết bằng những cung trầm
Ðong đưa vào vô tận
Như để tiễn đưa tôi
Một người Việt Nam bạc phận
Ði về bên thế giới hư vô
Chiếc quan tài mong manh trên sóng nhấp nhô
Ðang tiếc nuối những gì còn sót lại
Biển một màu đen
Tang chế
Buồn man dại
Và âm u như số phận con người
Ngồi một mình yên lặng trên mui
Cố nghĩ một câu thơ để làm di chúc
Dù biết chẳng còn ai để đọc
Chẳng còn ai thương tiếc tấm thân tôi
Hai mươi sáu năm lưu lạc trên đời
Sống chưa đủ nhưng đã thừa để chết
Lòng tôi an nhiên không hề sợ sệt
Bỗng thấy ung dung thanh thản lạ thường
Tôi chợt hiểu tại sao
Con người ai cũng khóc khi sanh
Nhưng nhiều kẻ lại mỉm cười khi nhắm mắt
Hai mươi sáu năm
Ðời tôi buồn hiu hắt
Chẳng còn gì để lại cho nhân gian
Tuổi thanh xuân với chút mộng vàng
Ðã vụt tắt ngay trong ngày nước mất
Nếu tôi có chết hôm nay
Cũng chẳng phải là người thứ nhất
Và hẳn nhiên không phải kẻ sau cùng
Trên vùng biển nầy từ độ tháng tư đen
Ðã thắm máu bao nhiêu người Việt Nam mất nước.
Phải chăng tôi nên bắt đầu
Bằng những ngày đầu tiên trên Mỹ quốc
Bước chân hoang trên xứ lạ quê người
Ngỡ ngàng nhìn cuộc sống nổi trôi
Không dám khóc
Chẳng dám cười
Chỉ biết xót xa
Ngậm ngùi
Ngơ ngác
Thiên hạ nhìn tôi một người tỵ nạn
Dăm kẻ đã sớt chia
Cũng đôi kẻ khinh thường
Tôi hiểu ra rằng khi rời bỏ quê hương
Là chối bỏ những gì yêu quí nhất
Hai chữ tự do tôi vô tình đánh mất
Cứ tưởng rằng mình đang giữ nó trên tay
Tự do là gì tôi đã hiểu sai
Nó vô nghĩa đối với một người không tổ quốc
Ðêm đầu tiên tôi nằm nghe thương nhớ
Chảy vào tim đau nhức tận linh hồn
Mẹ tôi giờ nầy còn khóc nữa không
Hay cố ngủ để chiêm bao giờ hạnh ngộ
Em tôi đứng thập thò trên góc phố
Ðợi anh về dù chỉ mới ra đi
Người con gái tôi yêu đang tuổi xuân thì
Có về lại một lần thăm xóm vắng
Sài Gòn bây giờ trời mưa hay nắng
Ở bên nầy tuyết vẫn trắng như tang
Nhìn thành phố nguy nga tôi thấy ngỡ ngàng
Thấy tội nghiệp cho Sài Gòn tăm tối
Tôi nhớ cả những con đường lầy lội
Những con đường ngày hai buổi tôi đi
Tôi nằm mơ làm một cánh chim di
Bay trở lại một lần rồi sẽ chết
Hai tiếng quê hương sao vô cùng tha thiết
Học lâu rồi nhưng mới hiểu ra đây
Quê hương là những gì tôi không có hôm nay.
Mười bảy năm đã trôi qua
Sài Gòn xưa vẫn thế
Vẫn những đau thương dằn vặt kiếp con người
Mười bảy mùa thu
Bao độ lá vàng rơi
Tóc mẹ trắng
Bạc theo từng nỗi nhớ
Mẹ tôi đã bỏ vùng kinh tế mới
Về lại Sài Gòn tìm một chỗ che mưa
Cuộc sống bây giờ đã đỡ hơn xưa
Bởi vì có tôi
Chứ không phải nhờ có đảng
Em tôi lớn không làm người Cộng Sản
Nên suốt đời phải lam lũ kiếm ăn
Tuổi hoa niên chỉ có một lần
Chúng đã bỏ quên trên vùng Kinh Tế Mới
Mười bảy năm đường Sài Gòn vẫn tối
Mưa vẫn rơi hoài
Trên lối cũ thân quen
Người phu quét đường vẫn dậy sớm mỗi đêm
Ôm chiếc chổi lạnh lùng khua góc phố
Bác xích lô trên đoạn đường loang lỗ
Bao năm rồi vẫn đi sớm về khuya
Chiếc lưng trần trầy trụi với nắng mưa
Không dám trách ai
Chỉ đổ thừa số mạng
Cậu bé đánh giày ngày xưa
Bây giờ đã trở thành tên du đãng
Học thêm nghề đâm mướn chém thuê
Tương lai em biền biệt sẽ không về
Cơn gió lốc cuốn đi thời thơ dại
Những con chuột cống ra đi
Một số hình như đang tìm đường trở lại
Vì tham nhũng lâu ngày nên đã hóa thành tinh
Chúng đang biến thân làm lãnh tụ anh minh
Tung bùa phép để thu hồi quyền lực
Tội nghiệp đồng bào tôi
Ðã bao đời khổ cực
Sẽ thêm một lần ngậm đắng nuốt cay
Ở tại Việt Nam trong mười bảy năm nay
Ngoài tham nhũng
Năng xuất chẳng có gì tăng nhanh hơn là nghị quyết
Ðảng Cộng Sản vẫn tự khoe khoang
Là muôn đời bất diệt
Vẫn le lói giữa đêm mưa một bóng sao vàng.
Và tôi
Bao năm rồi vẫn những bước chân hoang
Rất mệt nhọc như giòng sông chảy ngược
Baì thơ tháng Tư tôi chưa hề viết được
Mười bảy năm dài đâu chỉ kể dăm trang
Trước những đau thương của đất mẹ điêu tàn
Ngôn ngữ của tôi đã trở thành vô nghĩa
Ðời của tôi dù buồn bao nhiêu nữa
Cũng không buồn bằng chuyện nước tôi đau
Baì thơ nầy dù viết đến năm sau
Cũng chỉ là bài thơ dang dở.

Trần Trung Ðạo

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA.

larryengelmann

Cuối tháng giêng 1975, một đàn ong đông đảo bất thường chợt bay xuống Sài Gòn. Đàn ong đậu trên hai tòa cao ốc làm mọi người trong nhà sợ hãi chạy ra. Sau đó vài người bạo dạn quay lại tính xông khói đuổi ong đi.

Lúc ấy, có người bàn: Biết đâu đàn ong chẳng đến báo trước một điềm gì? Nhiều thầy tiên tri từng bảo: Số mệnh dân Việt Nam chẳng bao lâu cũng không khác đàn ong lũ kiến. Quả báo , mình đối với chúng thế nào, lượt mình cũng thế.

“Điềm trời”, lời bàn được mọi người mau chóng tin theo. Không ai đốt khói xua ong nữa. Dân chúng lũ lượt kéo đến, kinh ngạc nhìn. Không ai bước vào tòa cao ốc. Nhưng rồi chỉ một ngày sau đàn ong rời đi. Chúng bay túa về hướng đông nam, phía Vũng Tàu và biển Nam Hải. Dù chẳng ai xác quyết được lời tiên đoán, nhưng hơn bao giờ hết. người ta đâm lo âu thắc mắc cho tương lai.

Vài ngày sau khi đàn ong rời Sài Gòn, lại một đàn lũ bất thường  nữa xuất hiện, gần Phan Rang. Hướng Tây Bắc Sài Gòn. Lần này một đạo quân sâu rầy cực kỳ đông đảo chẳng rõ đâu ra, lúc nhúc di chuyển về hướng tây nam, che kín các mặt đường, cánh đồng. Lúc đầu, xe hơi, xe đạp chỉ giản dị cán lên chạy, bộ hành dẵm lên đi. Có sao, dẫu hơi phiền một chút. Nhưng một lần nữa, các nhà bói toán huyền bí thận trọng bảo:”lại điềm trời, chẳng chóng thì chầy ,mình có khác gì bầy sâu ,đám bọ”. Họ cảnh cáo:” Đừng hại chúng, mình đối với chúng thế nào, lượt mình cũng bị như thế”. Rồi lại như đàn ong, đám rầy cũng biến mất.

Vào khoảng thời gian ong và rầy xuất hiện, Miền Nam Việt Nam bước vào năm thứ hai của cái mà tổng thống Nguyễn Văn Thiệu mệnh danh là CUỘC CHIẾN ĐÔNG DƯƠNG LẦN THỨ BA. Trong cuộc chiến này. Quân đội Miền Nam Việt Nam tiếp tục chiến đấu chống quân phiến loạn Việt Cộng và đồng minh Bắc Việt của họ. Nhưng vắng mặt trong cuộc chiến này là Hoa Kỳ. Hơn thập niên trước, Tổng Thống John F.Kennedy tuyên bố :” Phải tạo niềm tin quân sự và phải bảo vệ tự do “. Ông kết luận:”Việt Nam chính là nơi để thực hiện cả hai mục tiêu” Song vào năm 1973, dân Mỹ và các thủ lĩnh lại quyết định:” Nơi ấy không phải là Việt Nam.”Họ đòi hỏi “ Không một người Mỹ nào nên chết ở Việt Nam nữa”.

Như vậy , đầu năm 1973, sau hơn bốn năm thương thảo ở Ba Lê, cuối cùng đến lúc Mỹ ký với Bắc Việt cái gọi là “ Hiệp Định Ngưng Chiến Và Tái Lập Hòa Bình Ở Việt Nam”. Miền Nam Việt Nam gượng gạo ký vào hiệp định sau hàng chuỗi áp lực dọa dẫm cắt đứt viện trợ của Hoa Kỳ. Bản Hiệp Định giúp Mỹ rút chân ra, triệt thoái quân chiến đấu khỏi Miền Nam Việt Nam và trao đổi tù binh chiến tranh. Bản  Hiệp Định cũng tạo nên các ủy ban liên hợp điều hành việc thả tù, việc rút quân Mỹ cùng các quân đồng minh khác.Một ủy ban liên hợp quân sự khác được thiết lập để điều tra số phận người Mỹ mất tích trong cuộc chiến. Hiệp định còn dự  liệu việc tổ chức một hội nghị nhằm thống nhất Nam Bắc Việt Nam một cách hòa bình.

Chỉ một phần của Hiệp Định ấy đã được chặt chẽ thi hành, đó là phần triệt thoái quân lực Mỹ. Ngày 29/3/1973 đơn vị chiến đấu cuối cùng của Mỹ rút khỏi Nam Việt Nam. Bộ tư lệnh MACV- chỉ huy Quân viện cũ đặt tại phi trường Tân Sơn Nhất-trở thành trụ sở DAO-Văn Phòng Tùy Viên Quân Sự Mỹ-. Văn phòng này chỉ có nhiệm vụ điều hợp việc cung cấp, sử dụng tiếp vận cho Quân Đội Miền Nam Việt Nam. Nhân viên DAO bị cấm ngặt không được giữ một vai trò cố vấn quân sự gì ở Nam Việt Nam.

Một trong những điều khoản  đáng tranh luận nhất của Hiệp Định Ba Lê là đã cho phép Bắc Việt duy trì khoảng từ  80.000 đến 160.000 quân chính quy ở Nam Việt Nam. Chỉ với điều khoản ấy, nhiều người miền Nam hiểu ngay : Đây không phải là một hòa ước  mà là bản án tử hình…

Hiệp ước dù không cho phép Bắc Việt tăng thêm quân số ở miền Nam, nhưng họ được duy trì nguyên trạng, họ có thể được tiếp vận và thay quân. Nhằm xoa dịu nỗi hoài nghi và sợ hãi của Nam Việt Nam- là phía được yêu cầu buộc phải chung sống hòa bình với sự hiện diện của Bắc quân, cả hai ông : Tổng Thống Richard Nixon và Ngoại Trưởng Henri Kissinger , là những người đích thân thương thảo hiệp định, đều đoan quyết : Mỹ sẽ không khi nào đứng ngoài , mặc cho Bắc Việt cưỡng bức Hiệp Định, bành trướng sự hiện hữu của họ tại miền Nam . Đúng thế , họ đều hứa với Tổng Thống Thiệu là Hoa Kỳ sẽ đáp ứng bằng một lực lượng quân sự mạnh mẽ, nếu có sự vi phạm hiệp định của Bắc quân . Khả năng quân sự của Hoa Kỳ, họ trấn an ông Thiệu-SẼ TRIỆT ĐỂ BẢO VỆ SỰ VẸN TOÀN LÃNH THỔ VÀ NỀN ĐỘC LẬP CỦA ĐỒNG MINH-. Ngay sau lễ nhậm chức vào mùa hè 1974, Tổng Thống Gerald  Ford  cũng xác nhận lần nữa lời cam kết  với  Nam Việt Nam và sự gắn bó với  Hiệp Định Ba Lê như vậy.

Nhưng sau cùng , lời thề hứa của hai Tổng Thống Mỹ chỉ là rỗng tuếch. . Thời gian đã đem đến những vấn đề mới và lãnh đạo mới cho Hiệp Chủng Quốc. Vụ tai tiếng Watergate trước hết đem đến sự bất tín nhiệm , tiếp theo đến việc Tổng Thống Nixon từ chức taọ thế yếu cho Hành pháp Mỹ. Đây là điềm bất tường cho Nam Việt Nam vì Hành pháp Mỹ ủng hộ Nam Việt Nam, còn Lập pháp Mỹ đối kháng sự ủng hộ ấy… Rồi cuộc chiến Trung Đông , việc OPEC ( Tổ chức các quốc gia xuất cảng dầu) xiết chặt nguồn dầu làm giá dầu tăng vọt. Những việc ấy làm người Mỹ gia tăng mối quan tâm là ngoài khu vực Đông Nam Á , Mỹ cũng còn phải gắn bó với các Quốc gia đồng minh khác nữa…

Và ở Việt Nam , chiến cuộc vẫn tiếp diễn. Hiệp định Ba Lê không tạo ra hòa bình. Nó chỉ biến đổi cục diện và số quân tham chiến…CUỘC CHIẾN VIỆT NAM RÒNG RÃ ẤY, ĐẾN SAU MÙA XUÂN 1973 ẤY CHỈ CÒN THUẦN TÚY LÀ NGƯỜI VIỆT NAM GIẾT NGƯỜI VIỆT NAM, VỚI MỘT BÊN LÀ MỸ, BÊN KIA LÀ CÁC NƯỚC THUỘC KHỐI CỘNG SẢN CUNG CẤP CÁC PHƯƠNG TIỆN CẦN THIẾT ĐỂ ĐÁNH NHAU VÀ CHẾT.

Nhưng rồi vì : giá cả gia tăng, Quốc hội cắt giảm ngân sách một cách trầm trọng , vấn đề tham nhũng ở Việt Nam , ảnh hưởng bởi các phong trào “ vận  động hòa bình” ở Mỹ , cường độ mâu thuẫn ở Việt Nam gia tăng mạnh mẽ…tất cả đưa đến việc thiếu hụt nghiêm trọng các phương tiện tiếp vận quân sự cần thiết sống chết của Nam Việt Nam…những thiếu hụt này gây hoang mang sợ hãi cho cả quân đội lẫn thường dân. Dù Đại Sứ Graham Martin và các nhân viên quân sự cố trấn an, người ta vẫn tin Mỹ sắp bỏ Miền Nam vào tay quân Miền Bắc – những kẻ chẳng có mấy lòng thương xót- Mỹ chịu đựng đã lâu, giờ đây. Họ kết luận MỸ XÓA SỔ NAM VIỆT NAM !

…Tuần lễ đầu của năm 1975, Bắc Việt chiếm Phước Long. Hạ thủ tỉnh này là một ý định trắc nghiệm. Bằng sự vi phạm Hiệp định một cách trắng trợn như vậy , miền Bắc muốn xem phản ứng của Mỹ ra sao. Nhưng không có phản ứng nào của Mỹ cả. Nói cho đúng, Mỹ có vẻ không quan tâm đến việc Bắc quân làm gì ở miền Nam nữa. Tháng sau đó, khi Phái đoàn Quốc Hội Mỹ đến viếng miền Nam. Bắc quân hoạt động rất ít. Phái đoàn này đến để lượng giá tình hình quân sự, tư vấn cho Quốc Hội và Tổng Thống Mỹ về việc tiếp tế Quân viện và viện trợ nhân đạo. Vài ngày sau khi phái đoàn Quốc hội Mỹ rời Việt Nam, Bắc quân đi nước cờ kế tiếp.

Ngày 10/3/1975 Bắc quân tung một trận tấn công mãnh liệt tối hậu. Họ đã biết chắc là Mỹ mất ý chí chiến đấu và cũng không muốn tài trợ cho sự độc lập của Nam Việt Nam nữa. Không còn e ngại Mỹ can thiệp, quân đội Bắc Việt khẳng định được rằng sau gần 30 năm dai dẳng. chiến thắng của họ và  cuộc thống nhất Việt Nam bằng vũ lực đã đến lúc hoàn tất.

Trên đường mòn Hồ Chí Minh, miền Bắc chuyển xuống 100.000 bộ đội mới mẻ khỏe khoắn. Con đường , trước chỉ là lối mòn len lỏi giữa rừng già Việt Miên Lào, giờ đây đã trở thành một xa lộ nhộn nhịp với cả một hệ thống ống dẫn dầu chạy kèm theo đến tận tâm điểm miền Nam Việt Nam. Con  đường này giờ đây không còn bị các trận bom của máy bay B 52 đe dọa nữa.

Ban Mê Thuộc, thành phố cao nguyên rơi vào tay Bắc quân giữa tháng 3 . Cuộc kháng cự của Nam quân bị đè bẹp.

Ngày 14/3/1975 Tổng Thống Thiệu làm một quyết định quân sự bất hạnh nhất trong suốt cuộc chiến dài ở Việt Nam. Ông ra lệnh bí mật triệt thoái các lực lượng  miền cao nguyên trung phần xuống vùng Duyên Hải , sau đó chỉnh đốn để chuẩn bị phản công Ban Mê Thuộc. Nhưng cuộc triệt thoái chiến lược biến thành cuộc tháo chạy tán loạn. Những vụ chuyển quân khỏi  Pleiku , Kontum – vì không được loan báo , giải thích- đã tạo nên nhiều suy đoán và những lời đồn đại khiếp hãi. Nhiều binh sĩ và thường dân cho rằng có mật ước chia lại ranh giới Bắc Nam, lần này vùng cao nguyên trung phần và những tỉnh phía Bắc của miền Nam Việt Nam sẽ thuộc về Cộng sản.Vì vậy , cuộc rút quân từ cao nguyên đã trở thành ĐOÀN XE CHỞ NƯỚC MẮT… Vài chục ngàn thường dân nhập vào cuộc rút quân rối loạn này. Họ làm nghẽn đường, cắt đứt dòng di chuyển của các đoàn. quân xa . Những đơn vị tiền phương  Bắc quân chặn đoàn quân xa, tiêu hủy rất nhiều xe. Cuộc phản công Ban Mê Thuộc không bao giờ xảy ra : Các lực lượng cao nguyên đã hoàn toàn tan rã khi đến được miền Duyên Hải.

Lực lượng cao nguyên xóa sổ. Tổng Thống Thiệu tìm cách rút các lực lượng những tỉnh phía Bắc, dàn lại trận thế. Cố gắng này cũng thành thảm họa , các sư đoàn ấy cũng tan rã. Hằng hà sa số dân chúng và các đơn vị quân sự còn sót lại tràn đi trên các con đường dẫn đến những thành phố hướng Nam- về phía Nha Trang , Sài Gòn, hoặc về hướng Đông , nơi có những hạm đội chờ di tản họ bằng đường biển.

Giờ đây, cả mạng lưới quân sự và xã hội của miền Nam Việt Nam bắt đầu bị tan rã. Cùng một lúc. Tại nhiều nơi. Miền Nam thua trong phút chốc. Nhanh hơn cả cái khả năng chiến thắng của miền Bắc. Quân lực miền Nam như nổ tung về hướng  Sài Gòn. Thị trấn , tỉnh lỵ bỏ không cho Bắc quân , không kháng cự. Tại nhiều nơi , điên lên vì sự hèn nhát và bất lực của các cấp chỉ huy, lính miền Nam đổ vấy nỗi giận dữ lên đầu dân chúng bằng những vụ bạo hành bắn giết xấu xa. Chiến thắng của quân đội Bắc Việt , ở nhiều địa điểm chiến lược trọng yếu CHỈ LÀ DIỄN HÀNH VÀO MÀ TIẾP THU.

Ngày 29/3/1975, tình trạng tuyệt vọng hỗn loạn ấy được ghi nhận một cách sống động bởi nhóm phóng viên CBS trên chuyến bay World  Airways Boeing 727 ra chở người di tản từ Đà Nẳng- thành phố lớn thứ 2 của Việt Nam-.Máy bay bị binh sĩ bao vây xô lấn, họ bắn loạn vào cả đàn bà trẻ con, họ bắn lẫn nhau. Họ cố gắng điên cuồng lọt vào phi cơ để chạy trốn quân Bắc Việt. Phi cơ cất cánh, người còn lủng lẳng bám trên bánh xe , lính đứng dưới đất nổ sung bắn theo , lựu đạn tung lên nổ toác một bên cánh. Chiếc tàu bay chao đảo khập khểnh về được Sài Gòn.

Ngay chiều ấy , cuốn phim về chuyến bay được chiếu trên mục “CBS,TIN BUỔI CHIỀU”. Khán giả Mỹ vào cuối tuần lễ Phục Sinh đã chứng kiến cái khủng khiếp không tin được về một đạo quân biến thành kẻ giết người hèn hạ và một quốc gia thất trận vô vọng thống khổ với những cái chết bạo tàn.

Tại Sài Gòn, những người Mỹ gồm doanh nhân , thông tín viên, viên chức chính phủ bắt đầu di tản nhân viên và gia đình quyến thuộc. Máy bay thương mại và phi cơ quân sự chở hàng ngàn người sang Phi Luật Tân , Thái Lan , Hồng Kông, Hoa Kỳ. Nhưng chuyến bay đặc biệt chở cô nhi từ Sài Gòn sang Mỹ kết liễu thảm khốc ngày 4/4/1975. Chiếc phi cơ khổng lồ của không quân C 5A rơi nát khi cất cánh, giết hại 135 cô nhi và những người đi theo coi sóc các em. Người Mỹ ở Việt Nam và người Mỹ ở Hoa Kỳ đang theo dõi sự tan rã của Việt Nam trên truyền hình hết sức xúc động vì vụ cô nhi tử nạn , vì đây là sự tàn sát những đứa trẻ thơ vô tội. Hoa Kỳ lúc ấy như bất lực , không bảo đảm được ai, không cứu được ai, kể cả những đứa bé  ra khỏi cơn đại hỏa tai xảy đến cho tất cả dân chúng Nam Việt Nam.

Sự sụp đổ gia tăng xung lượng. Ngày 21/4/1975, dưới áp lực của Hoa Kỳ và chính của các nhân viên chính phủ của ông, Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu từ chức sau khi đọc một bài diễn văn đầy nước mắt trên truyền hình Việt Nam. Trong bài diễn văn , ông đặt trách nhiệm sụp đổ dưới chân Hoa Kỳ. Vài ngày sau , ông rời nước, Phó Tổng Thống Trần văn Hương lên nắm quyền.

Chừng để xác quyết thêm việc Hoa Kỳ bất can thiệp vào Việt Nam , chiều 23/4/1975 trong một diễn từ quan hệ tại Đại Học Tulane, Tổng Thống Gerald  Ford loan báo :” ĐỐI VỚI NƯỚC MỸ  CHIẾN TRANH VIỆT NAM ĐÃ CHẤM DỨT.”. Các thính giả sinh viên đứng cả dậy hoan hô ông.

Ngày 28/4/1975. Tổng Thống Hương từ chức, Đại Tướng Dương văn Minh kế vị . Có một niềm tin khá phổ thông và cũng khá sai lầm rằng ông Minh sẽ được người miền Bắc chấp nhận. Rằng giữa tất cả các khuôn mặt chính trị miền Nam  , chỉ ông Minh mới thương thảo được với Bắc quân đang tiến đến. Điều này nữa , cũng chỉ là ảo ảnh, chẳng ai muốn thương thảo gì . Đối với quân đội miền  Bắc ông chẳng có gì để cống hiến ngoài việc đầu hàng. Với tư cách Tổng Thống trong thời gian hết sức ngắn , hành động quan trọng nhất của ông là đầu hàng vô điều kiện.

Sáng 29/4/1975, chiến dịch GIÓ CUỐN ( Frequent Wind) bắt đầu. Đây là chiến dịch di tản người Mỹ , các nhân viên quân sự , dân sự Việt Nam từ phi trường Tân Sơn Nhất và từ Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ ra đệ thất hạm đội đậu ngoài khơi Nam Hải. Chiến dịch chấm dứt sáng sớm 30/4/1975 , vài giờ trước cuộc đầu hàng của miền Nam. Khi người Thủy quân lục chiến Mỹ sau cùng được trực thăng bốc từ nóc tòa đại sứ Mỹ sáng 30/4 , họ bỏ lại phía sau hơn 400 người Việt đợi chờ di tản. Ngày hôm trước và ngay đêm hôm đó. Những người này đã được  HỨA ĐI HỨA LẠI RẰNG HIỆP CHỦNG QUỐC KHÔNG BAO GIỜ BỎ RƠI HỌ.Họ đứng im. Lặng lẽ nhìn chiếc trực thăng Mỹ cuối cùng rời khỏi mái Tòa Đại Sứ. Đối với Việt Nam, đến cả lời hứa sau cùng NGƯỜI MỸ CŨNG PHẢN BỘI.

Sáng 30/4/1975 trên chiến thuyền Đệ Thất Hạm Đội người ta nhìn thấy xuất hiện một thứ gì giống như cả đàn ong che tối bầu trời, bay từ bờ biển Việt Nam hướng ra Nam Hải. Đén chừng cái đàn lũ bí mật kia đến gần , người ta nhận ra hàng trăm chiếc trực thăng từ Duyên Hải, từ Trung châu, từ vùng phụ cận Sài Gòn, những trực thăng lái bởi các phi công Việt Nam chở gia đình họ hàng và thân hữu. Nhiều chiếc tìm cách đáp xuống tức thời. Sàn tàu chật ních , do đó cứ sau khi trực thăng đáp, người tuôn ra hết, chiếc trực thăng lập tức bị đẩy xuống biển lấy chỗ cho chiếc khác . Trên sàn bay chiếc tàu Midway. Để giữ cho những người Việt bé nhỏ yếu đuối không bị gió thổi ra khỏi thành tàu , hay bị cánh quạt chặt phải, người ta dùng nhiều  đoạn giây, dài khoảng 10 feet để dìu họ đi. Các đoạn giây trao cho người tỵ nạn trong trực thăng, họ nắm vào và được  người Mỹ dắt qua sàn bay , đưa xuống các tầng dưới làm thủ tục. Những hàng người  bám víu sợi dây , dắt díu nhau , cố bước nhanh trên sàn tàu khổng lồ , cảnh nhìn ấy từ một khoảng cách giống như những con sâu to lớn đủ màu.

Đã mười lăm năm trôi qua kể từ khi miền Nam Việt Nam sụp đổ và đầu hàng. Kể từ khi giải phóng , người miền Bắc đã củng cố quyền lực , sửa đổi kinh tế, xâm chiếm rồi rút khỏi Cam Bốt, đụng một trận chiến với Trung quốc, mở vịnh Cam Ranh cho hạm đội Liên Xô  , đổi tên Sài Gòn ra thành phố Hồ chí Minh , làm cho tổ quốc họ biến thành một nước nghèo khó nhất thế giới. Đã hơn một thập niên, Việt Nam rỉ máu “ thuyền nhân” , những người  liều mạng  sống , cố thoát khỏi cái tàn lụi của “ giải phóng”. Khi đối diện việc cưỡng bách hồi hương, những người này thà chịu chết còn hơn trở lại Việt Nam.

Và trong mười lăm năm qua, đông đảo người Việt đến Hoa Kỳ cùng nhiều nước khác  với tư cách tỵ nạn. Họ đã hội nhập vào các xứ sở mới. Họ trở thành công dân các quốc gia khác. Hy vọng trở lại Việt Nam dần phai. Con cái người tỵ nạn đã lớn , học đại học, kết hôn , lập gia đình, tách biệt ra với nhau trong các công ăn việc làm khác nhau. Và họ đã trở nên MỸ HÓA.

Cựu chiến binh Mỹ cũng thế, về nhiều mặt , họ đã tái nhập đời sống dân sự. Một đài kỷ niệm những người bỏ mình trong chiến tranh Việt Nam đã trở nên đài Kỷ Niệm nhiều người thăm viếng nhất nước. Phim , sách, truyền hình  cống hiến nhiều cố gắng- đứng đắn có , giật gân cũng có, để giúp tìm hiểu đâu là sự thật. Cái gì đã xảy ra. Và điều ấy có ý nghĩa gì !!!

Đầu mùa xuân 1985. Tôi bắt đầu nói chuyện với các cựu chiến binh Hoa Kỳ và các cựu quân nhân Nam Việt Nam. Hỏi họ về kinh nghiệm , về cuộc chiến, và về những thời gian sau đó. Tôi tiếp tục làm phương án ấy trong 5 năm kế tiếp, thăm vài chục thành phố Mỹ, sang Mã Lai , Thái Lan, Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, Hồng Kông… phỏng vấn người thắng , kẻ bại, trẻ con , người lớn , binh sĩ , dân sự, các chính trị gia, hỏi họ nhớ gì về những ngày cuối cùng của cuộc chiến Việt Nam. Hỏi họ về cuộc sống sau mùa xuân định mệnh của 15 năm trước.

Những gì tiếp theo đây là hồi tưởng và quan niệm của hơn 300 cá nhân mà tôi phỏng vấn trong 5 năm qua… Những gì họ nói cho tôi biết, không phải chỉ giản dị là về mùa xuân 75 , nhưng còn là việc họ liên hệ thế nào đến Việt Nam vào lúc ấy. Cách họ nhìn các biến cố mùa xuân năm ấy vén mở thế nào. Nay họ đã thích ứng cuộc sống mới ra sao. Còn nhớ gì về Việt Nam trong 15 năm qua. Những gì đã kể cho con cái nghe về Việt Nam. Những gì đã thấy trong giấc mơ,

Trong ấn bản Việt Ngữ dành cho độc giả Việt Nam, tác giả xin được ghi như sau : “…TÔI MUỐN ĐƯỢC TẶNG CHO NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM CAN TRƯỜNG , NHỮNG PHỤ NỮ , NHỮNG TRẺ EM ĐÃ HY SINH ĐỜI SỐNG CHO VIỆT NAM…”

LARRY ENGELMANN .

THÁNG BA ĐOẠN ĐÀNH

daolam

Đà nẵng xa rồi
trời tháng ba
mù khơi khói sóng
biển kêu gào
trong tôi
là cả trời giông bão
những bàn tay vẫy …
biệt từ nhau
Đà Nẵng tháng ba
trời khói sương
tán cây trơ bóng
hứng tang thương
những hàng xe
nối dài vô tận
người khóc người
tôi với buồn thương
Đà Nẵng tháng ba
ta mất nhau
người đi hun hút
bóng sa mù
người đi biền biệt
trời viễn xứ
tôi dỗ dành tôi
nỗi đớn đau
Đà Nẵng tháng ba
chít khăn tang
những vành sô trắng
liệm tan hoang
tôi trở về
với hàng bia trắng
chôn cả đời mình
lên tháng năm

TÔI VỀ
KHÂM LIỆM THÁNG BA
MỘT VÀNH SÔ TRẮNG
CHIA XA ĐOẠN ĐÀNH

Dao lam

Sắp Tới Lễ Phục Sinh

tranvanle

Sắp tới Lễ Phục Sinh, nhớ quá thời dạy học, xa học trò, xa lớp, xa cái mặt sân xanh…

Sân xanh cỏ long lanh / sương bình minh mỗi sáng, học trò đôi ba bạn / nhặt mù sương như chim…

Rồi buổi sáng lặng, im, khi học trò vào lớp. Hồi chuông rơi xuống đất / nổi lên những dấu hài…

Tôi đang nghĩ tới ai / mà dấu hài lấp lánh? Mấy hôm nay trời tạnh, Lễ Phục Sinh nhớ ơi…

Nay, đời đã đổi đời. Học trò hết nghỉ Lễ, ngôi trường hết vắng vẻ. Tôi, cũng hết làm Thầy…

Mặt sân cỏ đâu đây, sương mờ và cỏ lợt, học trò tôi thuở trước, gót bùn ai rửa chân?

Quả thật tôi bâng khuâng / từ ngày vào Cải Tạo. Quả thật tôi rướm máu. Dấu hài xưa, nhớ, lem…

Chúa thì có Phục Sinh, người thì thôi, tàn tạ. Em ơi, Thầy nhớ quá / áo dài em gió bay…

Thôi, không có một ngày / người trở về ngơ ngẩn. Những chiếc áo dài trắng, cái mặt sân trường xanh…

Tôi cất bước đi quanh. Đi quanh cây Thánh Giá. Có tiếng chim rất lạ, nghe như là tuyết tan…

Trần Vấn Lệ