NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA: “NGẬP CỨT”MIKE MARIOTTE CHUYÊN VIÊN QUAY PHIM

larryengelmann

chientranh

(Hãng tin CBS)

“Bọn Mỹ phản bội”

Khi Ban Mê Thuột thất thủ, cuộc triệt thoái cao nguyên bắt đầu, tôi đi với thông tín viên Peter Collins để thu hình “Đoàn xe nước mắt” từ Pleiku đổ xuống theo con lộ 7B. Cả một đoàn quân tương đương với ba sư đoàn rút khỏi cao nguyên mà không nổ một phát súng. Lúc ấy, một người bạn bên sở Tình báo điện thoại cho tôi, anh ta nói: “Này Mike, cậu biết cao nguyên mất rồi chứ?”. Tôi bảo “Hả, Đ.M. không!” Anh ta bảo: “Nghe đây, tôi có một chuyến bay” – đó là chiếc Air America hai động cơ – “Tôi sẽ cho bay lên trên ấy đón người của tôi trước khi họ bị bắt. Nếu cậu đi với bọn tôi, sẽ bảo đảm cho cậu một ghế trở về. Sẽ có một trực thăng của Trung ương Tình báo đưa cậu đến khu vực quay phim. Đang có hàng ngàn, hàng ngàn người tháo chạy. Tôi sẽ cho cậu một máy vô tuyến, bỏ cậu xuống khoảng trước đoàn xe. Cậu có thể đợi đoàn xe đến mà thu hình, sau đó tránh khỏi đoàn xe, ra phía ngoài đồng, dùng vô tuyến gọi trực thăng đến. Chúng tôi sẽ tới bốc cậu.”

Thế là chúng tôi đổ đến khoảng giữa vùng cao nguyên. Ở đúng vào một chỗ chẳng đâu ra đâu, đột nhiên vào một tầm xa mà mắt có thể trông thấy, bỗng xuất hiện hàng trăm ngàn con người khốn khổ, lính tráng, xe tăng, thiết vận xa, hướng lại phía chúng tôi. Tôi thu hình tất cả, rồi chúng tôi rời đi Tiếp tục đọc

HOA THẠCH THẢO

tranthoainguyen

Em trao cho anh
Nhành hoa thạch thảo
Cánh tím mong manh
Hồn anh điên đảo!

Ôi ! Thuở ban đầu
Ngày ta gặp nhau
Trái tim rạng rỡ
Nụ cười mắt trao…

Mai vàng mùa xuân
Phượng hồng mùa hạ
Đường xanh nổi nhớ
Tình nồng giấc mơ!

Trăng vàng rừng thu
Cây lá tương tư
Em về nhỏ nhẹ
Bên anh : Nàng thơ!

Em trao cho anh
Nhành hoa thạch thảo
Canh tím mong manh
Tình yêu hư ảo!

Anh lặng nhìn hoa
Bóng em mờ xa!
Hương mùa thạch thảo
Thu hát tình ca!

TRẦN THOẠI NGUYÊN

ĐỪNG

nguyenhaithao

Đừng gọi cho anh đêm nay
Ngày mai và ngày mốt nữa!
Cho tim anh được hít – thở
Bầu trời thơ thới, tự do…

Cũng đừng nhá máy, nhắn tin
Đừng chờ anh trên facebook
Kể cả khi anh ẩn mặt
Vì anh không muốn lụy phiền!

Anh bây giờ thích bình yên
Hết thích nghe lời hờn dỗi
Những câu tỏ tình nhanh vội
Chỉ là “chót lưỡi đầu môi”!

Block anh ngay đi, em ơi!
Delete những comments cũ
Nói thương, nói yêu, nói nhớ
Chỉ là tình ảo vu vơ…

Cần gì like những status
Khi ta yêu chẳng thực lòng!
Cũng chẳng cần tặng hoa hồng
Và những icons… đùa nghịch!

Anh thích tình yêu chân thật
Không chỉ trên bàn phím thôi
Và yêu nhau phải thảnh thơi
Không mang đến bao stress…

NGUYỄN HẢI THẢO

Tản Mạn Tháng Tư

phamnga

1.
Hồi cuối tháng 3, anh Bảy đã nói là mấy năm trước, công ty anh cho lãnh thêm tiền lễ 30-4 khoảng trên dưới 300 ngàn, thật không nhiều nhặn gì so với lương căn bản 1 triệu mốt của anh. Đã vậy, năm nay tiền lễ ấy chắc chắn còn bèo hơn nữa vì công ty đã chuyển thành công ty cổ phần, phải “liệu cơm gắp mắm” kỹ hơn thời còn bao cấp, tức thẳng tay xiết lại tất cả các khoản lương, thưởng. Nhưng vì sang năm anh Bảy nghỉ hưu nên đối với anh, tiền lễ sắp lãnh dù có bèo bọt vẫn là món bổng lộc cuối cùng của đời công nhân, sẽ ý nghĩa lắm. Do vậy, anh tính xài thiệt là có lý, có tình – đó là bao anh em, bạn bè một chầu nhậu “chất lượng”.
Anh Bảy nói xong thì cười khục khặc. Anh vốn có thói quen hay cười, cười vài tiếng ngắn khi mở đầu một chuyện kể, cười hề hề kết thúc một nhận xét, cười ấm ứ ngưng ngang một ý kiến… Trước cái tánh cười dễ dàng như thế của anh Bảy thì ngoài trường hợp anh kể chuyện tiếu lâm, nhiều lúc tôi đã ngớ ngẩn, không hiểu nổi là anh cười về chuyện gì, vì lý do gì. Khi cười trước khi nói ra một ý kiến hay kể một câu chuyện, là anh muốn gây chú ý đối với người nghe hay tự phê phán trước về điều mình sắp nói? Khi cười kết thúc một thông báo, như vừa rồi là báo cho tôi biết sẽ đãi nhậu bằng tiền lễ, phải chăng anh cười chua chát đánh giá ý nghĩa của món tiền gọi là tiền lễ, hay anh cười như tự chế giễu cái sự “chịu chơi” đem tiền lễ nhậu hết, hoặc anh cười để trấn an tôi, cho tôi khỏi ngại chuyện anh đã nghèo mà còn tốn hao, bao biện anh em như thế?
Dù sao thì anh Bảy cũng đã vỗ vai tôi, cười nữa và nhắc trước: “Nhớ nghe, bữa 30 qua tui xỉn một bữa cho dui, khỏi si nghĩ gì cho mệt chú ơi! “.
Ông bạn vong niên, dễ mến, chất phác, cả đời chỉ sống bằng nghề lao động chân tay, lúc nào cũng ăn nói kiểu ruột để ngoài da này coi vậy mà vừa nói đúng chóc tim đen của tôi.
Nguyên là sau tháng 4 -75, trôi nổi, lưu lạc cả chục năm trời, rốt cuộc tôi về náu thân trong một xóm lao động gần ga Gò Vấp. Hàng xóm toàn dân nghèo, bà con kiếm sống bằng nghề làm làm mướn, bán hàng rong hay có làm cho Nhà nước cũng chỉ là công nhân quèn, bậc lương thấp. Ở khít vách tôi là anh Bảy, lớn hơn tôi vài tuổi, thợ cơ khí điện lạnh ở một công ty may bên Nhà Bè.
Ở chầu nhậu cóc, ổi sơ giao bên nhà anh Bảy, anh hỏi tôi làm nghề gì, tôi đáp vắn tắt là mình làm báo, đã nghỉ lâu rồi và chỉ còn viết lách vớ vẩn. Tôi nhớ anh Bảy đã cười, nhận xét ngay: “Chà, anh em diết báo chắc phải si nghĩ dữ lắm he? Thôi dô cái đi!”. Vô xong tua đầu, anh ân cần cầm một miếng ổi, chấm muối ớt đưa cho tôi, lại cười và hỏi câu nữa: “À quên, mình nghèo nên chỉ nhậu rượu đế hà, anh em chơi đế, rượu thuốc được hôn, mà uống khá hôn?”. Tới phiên tôi cười, đáp: “Dạ em uống rượu đế, rượu thuốc cũng quen rồi, gặp gì uống nấy anh Bảy!”. Vậy là ở ngay vòng đầu phỏng vấn lý lịch, anh Bảy đã phóng khoáng chíp bụng “kết” tôi mà chỉ cần thông qua hai điểm không có gì sáng giá, một là làm nghề viết, hai là biết nhậu.
Nay sắp đến là một dịp lễ lớn, nghỉ dài ngày, thì quả là một cái dịp quá đẹp để dân “biết nhậu” cùng uống. Đúng hơn, đâu đó chỉ mới đầu tháng 4, có thể nói toàn thể dân nhậu đều đã cùng nhau vạch, vẽ xong xuôi kế hoạch về địa điểm, thời gian, phần hùn hạp… cho độ nhậu vào ngày cuối tháng. Nếu có ai cắc cớ hỏi nhậu vì lý do gì, cho điều gì, thì tất nhiên sẽ dễ dàng nghe những câu trả lời tương tự nhau từ dân nhậu, đại loại là nhậu chơi, nhậu cho vui, nhậu để xã hơi… Nhưng có điều là dịp nhậu tới đây lại trúng vào thời điểm nhắc nhớ một biến cố lịch sử lớn lao, kết thúc một thời kỳ chiến tranh, chết chóc, đồng thời gây bao cuộc đổi đời – người thì lên, kẻ thì xuống – cho vô số thân phận. Người được thăng tiến, bỗng lộc, danh vọng đến tay, cả họ giàu lên…, nhờ biến cố này thì hả hê nhậu vui, nhậu mừng, “nhậu ăn lễ” chẳng hạn. Ngược lại, người bị thua thiệt, mất mát người thân, nhà cửa, nghèo mạt đi từ biến cố này thì nhậu buồn, cầm ly rượu mà ngậm ngùi, nuối tiếc dĩ vãng, tưởng nhớ người thân và bạn bè đã mất trong cuộc chiến…
Tất nhiên, thực tế thì tại các chầu nhậu kéo dài và hào hứng, cảm xúc kiểu vui, kiểu buồn nào rồi cũng lần hồi qua đi theo những lần xây tua hay dô trăm phần trăm liên tục. Người uống rượu chỉ còn vô tư uống cùng người khác, theo người khác, chẳng còn suy nghĩ gì nữa, hay tâm trạng gì nữa – cái từ ngồ ngộ mới xuất hiện sau này, trong cách nói, cách viết làm lơ chuẩn mực văn phạm, là cho các danh từ nhảy vô thay chỗ các tính từ/hình dung từ, như “bữa nhậu chất lượng”, “công nhân tài năng”, “nhà báo trí tuệ”, “lời lẽ tâm trạng quá!”…
Theo anh Bảy thì dân làm báo, viết lách như tôi, thế nào cũng phải suy nghĩ, thường xuyên suy nghĩ, nhậu xả xì-trét cho khỏe cái đầu cũng suy nghĩ. Riêng về cái từ suy nghĩ thì như nhiều người Nam bộ khác, anh Bảy lười cái vụ phải chu miệng, giựt hàm dưới vô, xì hơi ra để phát âm cho đúng chữ suy, cứ nói nhẹ tưng, nghe bắt cười là si. Tuy nhiên, tôi biết là anh Bảy, dù có chểnh mãng cái vụ phát âm, nhưng đúng là tình thương mến thương như giới nhậu bình dân thường tâm đắc, anh lại chú ý, ái ngại dùm cho bạn bè. Thấy tôi đã trót bị cái tật si nghĩ, động não như thể đó một khuyết tật đầy khổ ải thì anh Bảy – con người chơn chất, nghĩ suy đơn giản – dường như cũng có ý nể tôi chút ít nhưng tội nghiệp tôi thì chắc nhiều hơn.
Tôi đã trả lời ngay cho anh Bảy rằng, đến bữa 30 dù tôi vẫn trì độn, không lúc nào gỡ nỗi mình ra khỏi cái thói quen si nghĩ đi nữa thì bữa đó tôi cũng vẫn qua uống, vẫn vui thiệt tình với anh, không say không về.
Thì mọi năm, cũng vào mùa này, tôi chẳng đi kiếm rượu, kiểu như vô tâm có mặt ở một độ nhậu nào đó bất kỳ, để uống với bạn bè, dù ít dù nhiều, dù say dù tỉnh?

2.
Đã rõ là rất đông dân nhậu chộn rộn chú ý và tận dụng ngày cuối tháng 4 để gầy độ. Lại có một số ít người khác, bằng cách lặng lẽ thôi, chỉ chú ý vào ngày đầu tháng 4 – ngày giỗ Trịnh Công Sơn. Nhạc sĩ họ Trịnh vĩnh viễn rời bỏ cõi tạm – kiểu anh gọi tên cuộc đời – vào ngày 1 tháng 4 năm 2001. Cần nói thêm rằng họ Trịnh đã chết thật sự vào ngày này, chứ không phải chuyện bịa trong ngày “Cá tháng tư” của người phương Tây. Và rồi sau đó, không chờ đến đúng ngày giỗ anh hằng năm, ở Sài Gòn luôn có nhiều quán café nhạc sống và tụ điểm ca nhạc đồng loạt tổ chức những đêm nhạc chủ đề tưởng nhớ anh. Nổi bật nhất là cái hội quán nằm xa tít ở rìa đảo Thanh Đa, trong khu vực một làng du lịch sinh thái có kiểu phục chế lại khung cảnh đồng quê với nhiều cây xanh, bóng mát. Tại hội sở của những fans mến mộ TCS này có cái bảng ghi một câu nghe trúc trắc: “Nơi cất giữ những kỷ niệm về công chúng đối với nhạc sĩ TCS”. Dù sao cũng nên bỏ qua chuyện-nhỏ này vì nơi đây tổ chức khá tốt về loại ca nhạc “tưởng nhớ”, một dạng sinh hoạt văn nghệ rất thời thượng và ăn khách.
Lần tưởng niệm năm nào hội quán TCS cũng chơi rất gây ấn tượng. Có lần, ban tổ chức đã dặn khán giả mang theo nến, rồi may mắn gặp lúc trời ít gió, dưới khán giả chợt rực lên những ánh nến, lung linh, chập chờn, vô tình tạo nên một không gian thật huyền hoặc. Trên sân khấu thì xen lẫn vừa những câu chuyện nhắc nhớ kỷ niệm hay cảm nghĩ về người quá cố, vừa những ca khúc TCS cũ và mới (lấy mốc là tháng 4/75) bằng những giọng hát, ca sĩ cũng đủ mặt mới, cũ – trong đó có cả chất giọng rất đáng khuyến khích của một vài người Mỹ, người Âu hát tiếng Việt. Tôi nhớ là vào đêm đó, ông trời trên cao hình như cũng trầm tư theo dõi, không nỡ tuôn mưa…
Tiếc là vào một năm khác, gần đến kỳ người ta tổ chức nhạc tưởng nhớ TCS thì trời đất lại biến động vô chừng, động đất, sóng thần, bão lốc…, khiến tôi chạnh nhớ tới lời hát tuyệt đẹp “Tình yêu như cơn bão bay qua địa cầu…”. Trịnh Công Sơn viết nhạc tài hoa như thế, mà thú thật, tôi rất cảm phục anh. Tôi đã tâm đắc riêng cho mình phần sáng tác nhạc tình của anh, đặc biệt tôi yêu chuộng những tình khúc có trước tháng 4/75, ngay từ cái thời sinh viên – hồi đó bọn tôi còn bày đặt tự gọi là tuổi đá buồn, sống thở trong chiến tranh, chia lìa, mất mát… Một lần, trên một đài bá âm, nhạc sĩ Phạm Duy nêu nhận xét “TCS viết nhạc tình thì nhất rồi! “. Thiển nghĩ, không chắc rằng những ca từ ít nhiều mang tính triết lý, nhất là triết Phật, đạo Thiền của TCS có được quãng đại quần chúng hiểu/hiểu hết được không, nhưng đó là những ca từ có tính văn học cao, có chất trí thức mà tác giả đã đắn đo, chọn lọc, có lúc như xuất thần, như được khải thị mà viết nên ca từ thật hòa hợp với những giai điệu đẹp đẽ, bay bỗng. Đó cũng là cái phần dung mạo nhạc TCS tự phân biệt mình với một loại nhạc thời-nào-cũng-có, từng được đề cập trong chương trình văn học-nghệ thuật phát trên đài bá âm đã nêu, có chủ đề về lịch sử âm nhạc Việt Nam cận đại và hiện đại.Tôi nhớ là khi được nhà đài phỏng vấn, hỏi nghĩ gì về loại nhạc dễ dãi, được mệnh danh là nhạc sến ấy, nhạc sĩ họ Trịnh đã nhẹ nhàng bảo chỉ nên gọi đó là nhạc đại chúng, bởi được nhiều người ưa thích.
Có một lần, tôi lục lạo ở nhà sách P.N., vùng Phú Nhuận, vì chợt muốn tìm nhạc TCS in theo kiểu tập nhạc nho nhỏ, nhẹ mỏng như thời trước 75. Tôi thất vọng não nề. Ngày nay, các loại đĩa ghi âm, ghi âm+hình cùng với loại sách in nhạc khổ lớn, bìa cứng đã ngạo nghễ đẩy dạt loại tập giấy in nhạc, in ca khúc vào bóng tối quên lãng. Trên kệ hiệu sách chỉ thấy duy nhất có cuốn “Tuyển tập những bài hát không năm tháng”, nặng trịch vì khổ quá lớn và dày cộm, tái bản lần thứ tư, chứa 127 ca khúc của TCS. Còn đĩa CD, VCD nhạc họ Trịnh thì vô tư, nào là Ru Ta Ngậm Ngùi, Một Cõi Đi Về, Tình Khúc TCS – Giọng Hát Elvis Phương.v.v… Bìa, bao bì của sách nhạc, đĩa nhạc nào cũng được in rực rỡ, diêm dúa với kỹ thuật in ấn hiện đại thế kỷ 21.
Vậy mà những con nguời cũ kỹ như tôi thì lại quá lạc hậu với cái ý thích đi tìm mua những tập nhạc mỏng manh kiểu thế kỷ 20. Chẳng qua là khác với các loại sách nhạc, đĩa nhạc cao giá ngày nay, phải nâng niu, bảo quản kỹ lưỡng, loại tập nhạc đơn sơ, rẻ tiền như giấy học trò ấy cho phép tôi có được vài khoảnh giấy trắng mà phóng túng ghi nguệch ngoạc vài chữ tặng bạn bè hay ghi bừa bãi những cảm nghĩ lãng đãng cho chính mình, hay mạnh dạn gạch dưới, khoanh tròn các lời hát mà mình thích nhất. Chính với loại tập nhạc rất đáng yêu, mê nhưng không cần kính cẩn bảo quản ấy, tôi có thể thư thả lấy ghi-ta ra đàn, hát theo những dòng nhạc và ca từ tâm đắc, bằng cái giọng cây nhà lá vườn của mình, coi vậy mà đâu thua gì… giọng họ Trịnh!
Dù sao thì đối với tôi, nỗi buồn không tìm được tập nhạc TCS kiểu xưa cũ, trước 75, cũng không ray rức bằng một nỗi buồn khác, cũng liên quan đến nhạc TCS.
Sáng ngày 29 tháng 3 năm mà tôi còn nhớ chính xác là 2005, tôi đành bỏ thói quen thú vị là ngồi nhâm nhi ly café đầu ngày, để tức tốc, hối hả chạy qua Thanh Đa. Mẫu tin trên một tờ báo ghi rõ: “Vào lúc 8 giờ sáng 29/3, Hội quán TCS sẽ phát hành miễn phí 500 vé mời tham dự chương trình ca nhạc Từ khi trăng là nguyệt…, kỷ niệm 4 năm ngày mất của nhạc sĩ TCS”. Do bị kẹt xe, tôi đến cổng làng du lịch lúc 8 giờ 10 và thấy hơi đông người, đã có khá nhiều xe gởi trong bãi. Anh giữ xe ngăn tôi lại: “Vô hội quán hả? Hết vé mời rồi đó nghen!” Năm trăm vé được phát hết trong vòng chưa tới 10 phút? Trong lúc tôi còn ngỡ ngàng thì trong đám những người-người-ái-mộ-TCS-nhưng-đến-trễ-mười-phút còn đang đứng lố nhố, chưa chịu ra về, đã bật ra mấy câu: “Vậy mua… vé mời ở đâu vậy?” hay “Nói là 500 vé nhưng họ thủ lại hết rồi, chỉ phát ra đại khái mấy vé cho có thôi!”, hay “Hiểu ba cái vụ này quá mà! Vậy kiếm cho hai cặp vé đi, hét giá vừa vừa thôi nghe! “. Từ lâu rồi, người ta đã quá quen thuộc với cái nạn hết vé hay hết những loại giấy tờ được ban phát hạn chế, xét theo tiêu chuẩn, tương tự thứ vé mời xem ca nhạc này, như: vé xe lửa, vé bóng đá, bộ đơn xin cho con vô lớp 1, bộ đơn xin học bỗng du học.v.v… Có bỏ công ăn việc làm, khổ công đi thiệt sớm mà xếp hàng, chen lấn gì đi nữa thì cũng khó có lắm! Chỉ dễ dàng khi bỏ tiền ra mua giá cao từ “cò” hay do quen biết mà thôi.

3.
Tôi nhớ vào đầu tháng 4 năm ấy, tôi đã rất không vui khi không thực hiện được ý định đi dự đêm nhạc tưởng nhớ Trịnh Công Sơn. Thật lòng mà nói, đi nghe nhạc vừa là một thú vui tao nhã, nặng mang ý nghĩa tinh thần, đơn sơ mà nhẹ nhàng, lại vừa hợp với điều kiện kinh tế của tôi nếu như kiếm được vé mời (ở đâu vé xem ca nhạc cũng đều rất mắc). Tiếc làm sao! Và ngày cuối tháng 4 năm ấy, tôi đã tự an ủi – ru đời đi nhé, nói theo TCS – bằng cách không gì khác hơn là hẹn với vài người bạn cũ gầy độ nhậu. Nghĩa là tôi lại ngồi ở một góc đời vừa đông vui vừa hiu quạnh, là nơi tôi có thể lặng lẽ uống rượu cùng bạn bè khít bên hang ổ si nghĩ của mình.

PHẠM NGA
(Tháng 4/2015)

MỖI NĂM…BÓNG NGUYỆT BÊN THỀM.

trantrungta

Mỗi năm thêm! Mỗi năm thêm, Trời ạ!
Hăm sáu năm trời…tôi cái mả không bia!
Người lính đi sau cuộc chiến đã về…
với tù ngục rồi lưu vong biệt xứ!

Bốn mươi năm biết bao người tự tử,
biết bao người vùi nấm mộ…bình tro.
Tôi sống đây mà đã chết bao giờ,
như con chim lạc bầy, như con thuyền lạc bến!

Bao người chết, trước tôi, hiển hiện:
gió mù trời, đèn chớp nháy tha hương!
Đèn sáng soi sao đi cứ lạc đuờng?
Con cháu Lạc Long Quân, triệu triệu người lạc lõng!

Bà Mẹ Âu Cơ muôn đời vẫn sống
với Âu Lo, Phiền Muộn, phải không?
Con Rồng cháu Tiên huyền sử mịt mùng.
Đừng nhắc nữa! Ai điên khùng mới nhắc!

Mỗi năm thêm! Mỗi năm thêm muốn khóc.
Giặc chưa vào Tổng Thống đã buông gươm…
thì ba quân dù tay súng có gườm gườm
cũng chỉ là trò chơi của người thua cuộc!

Ngựa phi nước đại rồi thôi ngừng bước,
hí vang vang thành những hồi chuông Chùa,
thành những hồi chuông Nhà Thờ.
Thời mạt kiếp không ai ngờ, đã tới!

Tôi chưa nghe lãnh tụ nào nói trước dân: Tôi Có Tội.
Họ đổ thừa Lỗi Của Đồng Minh!
Và thế thôi, non nước Việt Nam mình
có tơi tả như lá cờ cũng phải!

Ôi Tổ Quốc! Bỏ đi không trở lại!
Ôi Thời Gian! Năm cứ mỗi năm thêm!
Mỗi ban khuya tôi hứng nguyệt bên thềm,
trăng không vỡ mà trái tim tôi vỡ…

Trần Trung Tá

Nước Mắt Trước Cơn Mưa, Joe Hrezo“Chỉ sung sướng vì còn sống sót.

larryengelmann

Hrezo

JOE HREZO

(Trưởng Trạm Hàng không)

 

Tôi là quản lý trạm World Airways ở căn cứ không quân Clark, Phi Luật Tân vào năm 1975. Tôi thi hành bất cứ công tác đặc biệt nào mà xếp Ed Daly muốn. Vì vậy khi một chiếc 727 của chúng tôi ở Việt Nam bị đạn, tôi nhận cú điện thoại bảo phải liên lạc với chủ tịch Philippines Airlines, cố thuê chiếc phản lực cơ Sydney Hawker 125. Tôi đoán hẳn Ed Daly có quen biết lớn với ông chủ tịch. Daly muốn thuê cái phản lực nhỏ này để chở một bộ phận thay thế cho phi cơ 727 ở Sàigòn. Tôi điện thoại nói chuyện với mấy người bên sở điều hành.

Họ đồng ý chuyến bay. Tôi gặp người trong căn cứ Clark, lấy được phép cho chiếc phản lực 125 hạ cánh. Chiếc máy bay đến Clark lúc 11 giờ đêm. Rồi tôi và cái bộ phận nặng 25 cân Anh kia bay đi Sàigòn trên chiếc máy bay này, đến Sàigòn khoảng 2 giờ sáng.

Khi đến nơi, tôi đoán có lẽ họ đã bắt đầu xài mấy chiếc phi cơ 727 để tải người từ Đà Nẵng vào rồi. Vụ này cũng ổn thôi. Vì vậy có hôm tôi đã leo lên làm một chuyến. Không lộn xộn gì. Ngày kế, tôi lại đi, có cả hộ tống bên toà Đại sứ đi cùng. Lúc hạ xuống Đà Nẵng vừa đến trạm Air America thì đám người ngợm khốn khổ tràn đến. Chúng tôi cho tàu bay vòng Iại, thả cầu, hai gã hộ tống bự con bước xuống, bắt đầu cho người lên. Người ta xô đẩy chen lấn, khi tàu đã đầy ứ họ còn cứ cố chui vào. Lính hộ tống có lựu đạn cay, đem ra xài. Chỉ báo hại bọn tôi hơn là cho đám dân: gió thổi ngược. Nhưng rồi cũng xong, bốc được người là chúng tôi về.

Nhưng hôm ấy khi toà đại sứ nghe Daly nói ông ta sẽ đi nữa thì họ bắt đầu nạo ông ta.

Daly đã đòi gặp Đại sứ Graham Martin từ 10 hôm rồi. Cuối cùng Martin mới chịu tiếp, có tôi đi cùng với Daly. Râu ria 3 ngày không cạo, Daly đội một cái mũ cao bồi tổ bố. Bước vào một cái, câu đầu tiên ông ta nói: “Bây giờ ông có thể tắt mấy cái máy ghi âm khốn nạn của ông đi!” ông Đại sứ bảo “Ô kê! Không có cái máy nào bật lên cả.” Daly nói: “Tôi chỉ cần thông báo trong vòng một, hai ngày là có thể gặp các giáo hoàng, quốc trưởng, tướng tá, vậy mà sao ông bắt tôi phải đợi đến mười bữa mới được gặp?” Daly sùng lắm. Ông ta bảo Đại sứ là Sàigòn sẽ sụp đổ trong vòng hai tuần lễ, còn Đại sứ thì cứ bảo “không, không đúng”. Daly hỏi thế ông định làm cái trò gì đây, bởi vì ông nên nói thẳng cho mọi người rõ tình hình đang xảy ra làm sao, hơn là cứ quanh co che đậy. Daly nói – tôi giật mình khi nghe ông ta nói – với ông Đại sứ khốn khổ: “Thứ người như ông chỉ là thứ đứng bán xe phế thải! Không hơn không kém!” Tôi bị lâm vào tình trạng như vậy. Hai ông này kiểm soát mọi thứ, Daly nắm được tiền, còn tôi cứ ngồi đực mặt mà nghe.

Ông Đại sứ không hẳn là người thô lỗ. Ông là tay ngoại giao. Nhưng Daly la lối lung tung. Tôi phải nói ông Đại sứ khá lịch thiệp, nhưng ông ấy cũng chẳng có thể nói gì được nữa? Tôi chắc ông ta đã cố làm những gì tốt nhất mà ông ấy tin rằng ông phải làm. Nhưng tôi cũng chẳng rõ thế nào. Mặc dầu vậy, chúng tôi vẫn không lấy được phép bay ra Đà Nẵng.

Daly bảo: “Đi như thường. Cho chúng biết bọn mình làm việc như thế nào.” Chúng tôi sẽ lấy cả ba cái máy bay rồi đi. Ông ta bảo “Rồi, cậu với tớ biến. Mình sẽ tổ chức vụ này.” Nhưng tôi nghĩ là toà Đại sứ đã nói ông đừng đi, vì không an toàn!”.

Khi làm việc cho Daly, người ta không ngủ được nhiều. Ông ta thích thức khuya dậy sớm. Vì vậy hôm sau mới tinh mơ đã có người đánh thức tôi dậy. Không nhớ ai. Họ nói Daly đang chờ. Phải sẵn sàng tất cả mấy phi hành đoàn trong vòng năm phút. Khi gặp Daly ông ta cộc lốc nói “Đi!” Thế là đi.

Tôi ngồi phía sau với Daly, Bruce Dunning và Mike Marriott. Daly ngồi trên cái ghế bên cạnh cửa, nói chuyện với họ. Daly nói “Tốt – Bọn mình sẽ ra ngoài ấy. Đến bến của Air America, Joe, cậu và tớ sẽ nhảy ra tổ chức công việc.” Tôi từ chối thế quái nào được?

Chúng tôi ra ngoài ấy, hạ cánh, phi trường rất yên. Nhưng ngay khi máy bay vừa chậm Iại, người ta đổ ra từ khắp phía. Bỗng nghe Daly bảo “Ô kê! Tớ lên nói Ken hạ cầu, mình sẽ ra.” Mẹ kiếp. Tàu bay dừng. Cầu hạ. Nghĩ là đã đến lúc rồi đây nên tôi nhảy ra. Nhưng ngay sau đó tôi thấy cái cầu rút lên, tàu bay tiếp tục lăn bánh. Khi rút cầu, Ken Healy quay tàu ra phi đạo, đánh một vòng rồi trở đầu Iại. Nhưng đó chính là lúc người ta bắt đầu ào đến. Một thằng cha đứng bắn vào máy bay. Tôi thấy Ken lệch tay lái sang một bên, làm như sắp cán lên hắn. Không biết tại sao mà cha này không bị đụng. Tôi có nhét một khẩu 38 ngắn nòng trong người. Nhưng tôi tính thầm: Nếu tôi nổ cha này thì tôi sẽ bị chơi lại văng cứt. Nên tôi giữ êm khẩu súng dưới áo.

Có một xe tải chở đầy ắp người chạy rượt bên cạnh máy bay. Đứng dưới đất một mình, tôi chứng kiến mọi sự, sợ vãi đái. Cả đám người ào ào chạy bên tôi, vài trăm mạng. Một xe jeep nữa đầy người chạy tới, một cha cầm khẩu M16 lăm lăm ria tưới vào. Cái xe jeep lật lộn vòng, người văng túa ra hết. Vậy là tôi cố thu mình tìm cách đi thoát về phía đài kiểm soát không lưu, vì chẳng cách nào lọt vào lại tàu bay được nữa. Nếu tôi là Ken Healy tôi đã cất cánh vọt rồi. Nhưng anh ta cũng không vọt nổi. Trên phi đạo, xe cộ ngổn ngang. Không lối chạy. Do đó anh ta mới cho tàu xuống cuối phi đạo, từ đó quay một vòng 180 độ phía xa tuốt dưới đường bay. Lúc ấy tôi lọt vào đài không lưu rồi, mấy người Việt Nam ở đấy cho tôi vào. Vào thì ô kê thôi! Liên lạc được với Ken trên điện đài, tôi bảo “Ê, Ken, tui sẽ chui ra chỗ bến Air America. Nhắm nổi không?” Anh ta nói “Ô kê! Canh chừng? Khi đến lưng cầu tôi sẽ xoay một vòng. Vừa dứt, phải lọt vào tàu bay ngay!”

May phúc, tôi vào lọt. Anh ta không dừng, cho phi cơ chạy taxi rề rề. Tôi thấy rõ Daly đang quật vào đầu người ta với khẩu súng và đá bọn đó. Lúc này phần tôi có ai bám lấy tôi cũng không cảm thấy gì. Chi có mỗi một chuyện là phải chui vào lại cái tàu bay. Nghĩ có mỗi một chuyện ấy thôi! Cuối cùng tôi lọt. Vừa khi tôi lên được, Ken rú máy. Máy bay bốc lên với cây cầu thang còn thả tòn ten. Tôi hãy còn đeo ở bực thứ hai. Daly đứng trên tôi một bực khi máy bay cất cánh.

Tôi biết khi tàu rú máy có vài người đeo lấy tôi. Tôi biết tôi đá một người văng ra, nhưng lúc ấy máy bay chưa cất lên. Phải chi lúc ấy máy bay đã cất cánh!

Nhìn lên tôi thấy Mike Marriott đang quay phim trên đầu cầu thang. Nhìn xuống tôi thấy mấy cái tàu thủy ở cảng Đà Nẵng bấy giờ bé tí, giống như đồ chơi. Phải nói suốt lúc ấy tôi sợ vãi cứt. Có một cha mắc kẹt vào cầu thang. Cầu này có một trục rút, không biết sao cha này lọt vào, nửa người trong tàu bay, cẳng thòi ra. Chúng tôi cố tìm cách lôi hắn, không nhớ cuối cùng khi kéo hắn ra được thì tàu bay đã lên đến cao độ nào. Chúng tôi cố rút cầu lên nhưng vô phương. Tôi rút thắt lưng, Daly cũng vậy, chúng tôi lấy thắt lưng buộc cái thành cầu vào nắm cửa. Vào đến trong tàu thì cảnh tượng hết tin nổi. Mỗi hàng ghế nhồi nhét bốn, năm, sáu người. La liệt, đa số đàn ông cả.

Thiệt khoan khoái hết sức là tôi trở vào được trong tàu bay. Mấy bà tiếp viên làm việc hết xẩy. Nhiều người trên đầu bị quật nặng, được mấy bà săn sóc chu đáo. Tôi đi vào phòng máy bảo Ken “Cảm ơn nhiều.” Anh ta nói “’Tất nhiên tôi sung sướng được thấy lại ông!” Lúc ấy Daly ở đó. Daly không tin nổi số người trên tàu. Phần lớn là binh sĩ. Ông ta nói “Nhìn bọn lính khốn kiếp. Nhìn đống súng kìa. Mong không có quả lựu đạn nào bung ra nhé?” Bấy giờ lựu đạn lăn long lóc trên sàn. Daly gọi người thu mang vào phòng lái. Chỉ một chốc, phòng lái đầy súng đạn.

Ken lo sốt vó vì tàu bay mất xăng. \/ì thế tôi biết anh ta cố vào Phan Rang. Nhưng khi bắt đầu đổi cao độ xuống Phan Rang thì họ gọi cho biết là không “an toàn.” Nhưng ai bảo đảm được chuyện đổ xăng. Bạn biết mấy cái chữ “thân thiện, bất thân thiện,’” “’an toàn, bất an toàn”” chứ? Nói cách khác, có thể xăng nhớt ở Phan Rang đã vào tay địch quân rồi. Họ không dám chắc. Vì thế Ken bảo “vô Sàigòn.” Tụi tôi bèn bay vào Sàigòn.

Tụi tôi bàn nhau về mấy cái bánh xe để hạ cánh. Chẳng ai biết rõ là chịu nổi hay không vì khi lui tàu bay, bánh bị lọt hố. Điều động bánh xe cũng không được vì có một cha đã lọt trong gầm bánh xe rồi.

Nhưng rồi cũng hạ cánh xong. Chưa bao giờ tôi thấy lính đông như thế. Đông hơn cả mặt trận. Họ vây lấy cái tàu bay.

Tôi ra phía sau lấy lại cái thắt lưng. Nó đã tự tuột ra từ hồi nào. Tôi khiêng một người mắc kẹt trong thang với cái cẳng nát. Giao cha này cho lính rồi cùng mọi người về khách sạn nơi Daly ở.

Đêm ấy trong phòng ăn khách sạn, lúc Daly đang nói chuyện với các phóng viên thì ở đằng sau, người ta cứ nói chuyện ồn ào. Vì vậy Daly đứng đậy nói “Xin quý vị lưu ý.” Ông ta rút khẩu súng đập lên mặt bàn, bảo “Tôi muốn quý vị lưu ý cho – hoặc là có kẻ ăn đạn ở đây – ngay bây giờ!” Mọi người im phắc. Vài phóng viên bỏ ra ngoài. Tôi muốn nói với bạn thế này: Ed Daly là một người đầy cá tính. Nhiều người không ưa ông, nhưng ông vẫn làm bất cứ cái gì ông muốn. Bất cứ khi nào ông thích. Và ông ta làm được việc. Ông không sợ nói thẳng những gì ông nghĩ. Ông có thể làm tổn thương nhiều người, nhưng ông ta không hại ai cả. Nếu bạn có lập trường tốt, bạn giữ vững lập trường, ông ta kính trọng bạn. Tôi đã đối xử với ông ta như vậy, phải, tôi làm như vậy.

Nhưng mà thôi, đêm hôm ấy tôi sung sướng là hãy còn sống sót. Chỉ sung sướng vì hãy còn sống sót. Vì vậy lát sau tôi băng qua bên kia đường vào một quán nhậu, kiếm một cô bạn gái để vui chơi chút đỉnh.

Bản dịch của nhà văn NGUYỄN BÁ TRẠC

dường như là bất tận …..

 10735644_826194720769236_378143114_n (1)

rơi
vàng non

trên cây ngày nhớ suối
rơi rơi
đời
ta nhớ
một tiếng em

ngày cứ tù tì trôi và ta thì ngu muội
em có nhớ ta không em em tàn nhẫn gì đâu
em chân bước qua cầu dép không thèm bỏ lại
đôi mắt cài sau lưng ngỡ tưởng cũng không mầu

rơi
ừ rơi
nữa đi
những tháng ngày thơ ấu
nằm phơi bụng trên đê tay dụi mắt khóc con diều
băng về đâu rớt về đâu phuong trời nào xa tít
để lớn lên như tình yêu ăn lựu đạn chết rất du côn
tuổi thơ không ồn ào tiếng rao hàng ngoài chợ
buồn cũng bình yên
vui cũng bình yên
chỉ gió xôn xao

con diều mất chết bụi bờ chôn nơi nào không đúng chỗ
làm khi lớn lên đời ta như chỉ để nhớ em
nhớ em tới lao xao áo xiêm mầu hạnh ngộ
hôm em đi ta trốn tuột vào đêm

rồi mặt trời mặt trăng thi nhau gõ vào phiên đá nhớ
ta để tuổi tên trên lá xanh chờ em gọi những hôm sương
nguòi con gái thành cát tư hãn
buông tiếng ngựa giữa con đường
tiếng bình bát vỡ nụ bi thương nở hôm sớm mai ai cài tóc

rơi
ô rơi
những vì sao mộng mỵ
máu trong tay ta phép lạ trong tay em
câu phù chú trên môi em muôn đời không muốn thuộc
kiếp nào xưa

đành hẹn một kiếp thêm…

NGÔ YÊN THÁI

HÔM ĐÓ

tranvannghia

Hôm đó xa em trời buồn lắm !
Buồn cả con đường lất phất mưa
Có giàn bông giấy rơi bông tím
Có gió lòng tôi gió chuyển mùa

Hôm đó xa em còn tháng chạp
Sắp giêng mà chẳng thấy ai cười
Má hồng đem gửi hồng xứ khác
Để lại nỗi buồn tôi đứng soi

Xa em chẳng biết sao hôm đó ?
Xe về tay lái lạc mất phanh
Nhà ai cuối phố trông quen quá
Chẳng giữ hộ nhau một chút tình

Xa em hôm đó , ngày hôm đó !
Đến giờ thui thủi dễ gì quên
Đôi lúc giật mình thêm oán trách
Phải chi đừng nợ tiếng láng giềng

TRẦN VĂN NGHĨA

NÀNG KHÓC

chuthuynguyen

mưa lâm râm mùa đông
mưa
trên đôi bàn tay không
gió về
đôi bàn tay nhỏ nhoi.

mưa khóc chiều
đôi bàn tay úp lên mặt lạnh
ràn rụa
hương tóc mùa chăn gối
khóc đi em

ta dìu nhau mùa đông
hãy khóc thật ngoan đi em
ngoài trời rụng trơ mùa đông
ôi xa mịt mù
đôi mắt ngóng trông

10 ngón tay gầy
thiếu phụ
đan vào trăm năm hư không
khóc đi em
hãy khóc thật ngoan đi em

mưa lâm râm mùa đông
tưởng giấc tình đã trăm năm
sao tan tác ?
gọi giục khúc hồ cầm
sao riêng lẻ bóng thiên di ?

mưa lâm râm mùa đông
góp dựng mùa hạt cũ
hạt đơm bông
ta mãi còn ngồi nhặt
nàng khóc

hãy khóc thật ngoan em yêu …

Chu Thụy Nguyên

Tử Tế và không Tử Tế

khuatdau

Gần đây, nhà đài VTV1 liên tục đưa lên sóng những điển hình người tốt việc tốt, gọi là việc tử tế. Rất nhiều việc làm cảm động. Như một anh công an dắt giùm xe cho nhiều người đi qua đoạn đường ngập nước vì triều cường. Rồi cũng một anh công an khác, đi gom các em nhỏ thất học, dạy cho chúng học chữ và chơi với chúng. Nhưng cũng có nhiều việc rất buồn cười. Như một ông nọ cho hàng xóm mượn heo đực giống, mà là heo đực rừng thứ thiệt, nhờ đó lai tạo ra hàng trăm con heo (nuôi gần) rừng, trong dịp tết ai cũng thu nhập đến cả trăm triệu.

Thực ra, những việc làm gọi là tử tế đó, ở các nước khác chỉ là việc bình thường, giúp nhau một chút có gì ghê gớm lắm đâu mà phải vinh danh trên TV. Ngay cả ngài tổng thống ở một nước nam Mỹ, tự lái xe cũ của mình đi đến dinh tổng thống, trên đường đi chở gúp một người không có xe phải cuốc bộ đến sở làm, đài quốc gia của họ cũng đâu có đưa lên.

Trong khi ở nước ta, chủ tịch nước đến thăm một bà mẹ anh hùng hay một đồn biên giới, liền có cả một đạo quân truyền hình tháp tùng để kịp thời đưa lên những cảnh ôm hôn, tặng quà. Nhất là phải cho cả nước và cả thế giới thấy được cái thùng quà vừa to vừa đẹp, tức là thấy được cái lòng tốt của ngài, cũng to và đẹp như thế. Tiếc rằng, tiền mua quà không phải tiền của ngài mà là tiền thuế của dân.

Thế còn những việc không tử tế? Nhà đài có cho kẹo cũng chẳng dám đưa lên, chỉ tìm thấy trên mạng. Như việc giải tán biểu tình, chẳng những ném lên xe chở tù mà còn thòng chân đạp vào mặt. Hay một bà dân oan tự lột truồng để chống lại những kẻ cướp đất nhà bà. Thay vì dùng một tấm vải (hay chăn, mền) quấn quanh như cách đối phó của nhân viên an ninh các sân bóng đá khi có một cô em hay một ông ngất ngưởng tồng ngồng chạy vào sân, thì người ta lại đè xuống để mặc quần cho bà trong khi hai chân bà chòi đạp lung tung. Có mà đến tết Maroc mới mặc lại được. Không phải người ta không biết rằng làm như vậy là quá khó. Chẳng qua người ta muốn câu giờ, ngầm cho thiên hạ và chính mình có dịp chiêm ngưỡng cái dung nhan rồng lộn.

Những chuyện không tử tế đó, ở nước khác, nếu có, không phải bình thường mà là bất bình thường. Báo đài làm ầm ĩ đã đành, mà tòa án cũng thực thi cái chức năng của tòa: bỏ tù những kẻ xúc phạm thân thể và danh dự của công dân. Ở ta thì ngược lại: bỏ tù những ai chống người thi hành công vụ. Như dám chửi lại công an hay cả gan lột huy hiệu trên áo mũ. Tức là bỏ tù những ai không tử tế với chính quyền.

Tôi cũng muốn một lần trong đời ra thăm đất ngàn năm văn vật (chứ không phải thăm lăng Bác vì đâu phải ai cũng được vào thăm), nhưng nghe đứa cháu kể câu chuyện sau đây, tôi hết muốn. Chuyện rằng: cháu đi ăn phở, bị tính tiền gấp đôi. Hỏi, sao người kia có ba chục mà tôi đến sáu chục, cũng một tô phở như nhau. Thì chú quán cười khẩy bảo: tại vì mày là người miền Lam! Kiểu như trước đây, Việt kiều phải trả tiền vé xe lửa gấp đôi, khách sạn cũng vậy. Đó là phở quát. Còn cháo chửi, bún mắng nữa. Chưa hết, các người đẹp chỉ cần chân dài chứ không cần đẹp nết, cứ mở miệng ra là đéo biết, đéo thấy, nghe mà phát run.

Có lẽ vì chuyện tử tế dưới thời xã hội chủ nghĩa nó cực kỳ hiếm nên nhà đài mới mở ra một chuyên mục hằng ngày. Cuối tuần, lại nhờ khán giả bình chọn để tặng quà và gắn huy hiệu cho những ai được khen là tử tế nhứt.

Tôi có anh bạn nhà văn ngoài luồng phủ sóng, sáng chủ nhật nào cũng được công an phường mời đi uống cà phê. Như thế là tử tế quá, chuyện này hiếm à nghen, đáng được bầu chọn. Nhưng anh thở dài, bảo, nó sợ mình đi biểu tình chống Trung Quốc, giam lỏng đấy thôi! Hóa ra, khi chính quyền cư xử với dân một cách tử tế thì còn đáng sợ hơn là không tử tế.Cái xứ mình nó là vậy đó.

Khuất Đẩu

20/3/2015