NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, “Mình ơi, ít nhất mình được cùng chết bên nhau.”

nuocmattruocconmua

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, nguyên tác Anh Ngữ “Tears Before The Rain” là một tập sử liệu về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam, do Larry Engelmann, Giáo Sư Đại Học San Jose State thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn nhiều thành phần: người Mỹ, người Việt, kẻ thắng người bại …Những cuộc phỏng vấn này khởi sự từ 1985, sách xuất bản năm 1990. Bản dịch Việt Ngữ do nhà văn Nguyễn Bá Trạc thực hiện năm 1993, xuất bản năm 1995 tại California.

CLINTON J. HARRIMAN, JR.
(Thủy thủ tàu Greenville Victory)
“Mình ơi, ít nhất mình được cùng chết bên nhau.”

Tôi bắt đầu làm cho Bộ Chỉ huy quân Hải vận kể từ 1967. Trước đây tôi đã ở trong nghề đi biển này nhiều năm rồi. Dạo đang làm hoa tiêu dẫn tàu vào bến cho một hãng tư ở Virgin Island, tôi bỗng khoái đi Việt Nam. Tôi đã đến Viễn Đông nhiều lần, nhưng chưa từng tới Việt Nam bao giờ. Dạo ấy là lúc xảy ra trận tổng công kích Tết Mậu Thân, nhưng nói cho ngay, khi tôi đến Việt Nam, tình hình đã tốt rồi.

Như vậy là tôi đến Việt Nam lần đầu vào năm 1968 với tư cách đệ nhất sĩ quan của tàu Robinson. Sau tôi trở thành thuyền trưởng tàu này. Công việc chúng tôi là chuyên chở đạn dược võ khí từ Hoa Kỳ sang Việt Nam. Chúng tôi đã đi vài chuyến như vậy. Tôi lấy vợ Việt Nam. Vợ tôi tên Trần Thị Tất. Hôm đám cưới, có ông Hội đồng làng đến chủ tọa, rồi ghi vào gia phả, thế là xong. Ở xứ ấy, đấy là hợp pháp, nhưng việc ấy chẳng giá trị khỉ mốc gì. Sang đến Mỹ, sau này chúng tôi phải cưới lại. Chúng tôi có một đứa con gái đặt tên là “Thu Hồng,” nghĩa là “đoá hoa hồng mùa thu,” nó sinh ngày 10 tháng 2, 1970. Một đứa con trai tên Minh, cha nó là chồng trước của vợ tôi. Còn đứa con trai út của chúng tôi sinh ở Mỹ, chúng tôi đặt tên là “Chiến Sĩ,” có nghĩa là “anh hùng đánh giặc.”

Vào lúc tình hình đang tanh bành ra vào mùa Xuân 1975 thì tôi đang ở Mỹ. Vì vợ con ở cả Việt Nam, tôi cố về lại mà không được. Tôi kẹt ở Nữu Ước. Tôi hiểu cái tình thế khốn nạn này tuột dốc nhanh lắm, cho nên tôi tìm gặp viên Chỉ huy hải cảng, xuống nước năn nỉ để xin một chân đi Việt Nam trên chiếc tàu Greenville Victory. Đây là chiếc tàu duy nhất của chúng tôi ra đi và chiếc tàu duy nhất tôi có hy vọng đi theo.

Nhưng vào tháng Ba, lúc sắp sửa đi, tôi đạp nhằm một cục nước đá, gẫy giò. Tôi vẫn cứ cố đi. Tôi khập khễnh bước, mặc dù đau thấu trời. Nhưng đến lúc cái cẳng sưng vù lên, tôi đành tới Bác sĩ Hải quân. Ông này thấy thế, bảo: “Cái cẳng như vầy, làm việc sao được? Ông không thích hợp với công tác.” Tôi nói: “Khỉ mốc! Tôi bắt buộc phải đi chuyến này.” Ông ta bảo: “Không, tôi không cho phép anh đi.” Tôi vẫn nói: “Tôi phải đi,” tôi giải thích lý do cho ông ta hiểu. Nghe xong ông ta bảo: “Lạy Chúa, anh chịu đựng nổi chớ?” Tôi nói: “Được mà. Trời đất ơi, tôi là sĩ quan trợ y trên tàu này chớ bộ.” Vì thế ông ta đành để cho tôi đi.

Hôm lên tàu, Thuyền trưởng Ray Iacobacci cõng tôi trên lưng, bước lên cầu mà vào chiếc Greenville Victory. Suốt tuần lễ, tôi chả làm được công việc khỉ mốc gì.

Chiếc tàu chở đầy đạn dược đến Cát Lái. Sau đó, đi Đà Nẵng, rồi rỡ hết hàng ở Cam Ranh. Rồi chúng tôi đi Thái Lan và cứ ở ì một chỗ ấy. Chúa ạ, có đêm ở trên tàu đúng là chỉ có mỗi một mình cha thuyền trưởng ngồi chỏng chơ. Thành phố này là chỗ ăn chơi động trời mà. Đến lúc nhận được lệnh trở lại Việt Nam di tản người, thì Thuyên trưởng phải chui vô xe taxi sục sạo khắp thành phố mới kiếm đủ người đưa về tàu.

Tôi có một căn trong chung cư tại Sàigòn và một căn nhà ở vùng ngoại vi Tây Ninh. Căn nhà này ngon lành hết xẩy. Vợ tôi là gái quê, khi nào tôi đi biển thì mụ vợ lui cui ở nhà. Khi tàu đến thả neo ở Vũng Tàu, tình hình đến lúc cận kề lắm rồi. Tôi bảo thuyền trưởng Ray Iacobacci rằng: “Đây là cái cơ hội hiếm hoi để tôi đưa vợ con đi đây”. Ray bảo: “Ô Kê, Harry, đi đi.”

Cái cớ để tôi đi là tháo cái băng bó bột ở chân. Mỗi ngày tôi phải đứng từ mười bốn đến mười sáu tiếng, cái băng bột mềm èo, cẳng tôi đã sưng phồng lên rồi.

Tôi đến bịnh viện Cơ Đốc với mụ vợ để tháo cái băng bột chết tiệt này ra. Mấy cha ở đấy bảo: “Chúng tôi không cho phép ông xuất viện, trừ phi ông bước được từ đây đến cuối phòng.” Tôi nói: “Lạy Chúa, tôi không dám nghĩ là tôi bước nổi.” Nhưng rồi tôi cũng bước được.

Khi tôi ở Sàigòn, Thuyền trưởng Iacobacci đã đem tàu ngược lên hướng Bắc để thi hành công tác. Bấy giờ là lúc bọn “cứt” tiến đến. Chúng tôi có một căn chung cư rất đẹp bên kia sông, trong một nhánh nhỏ của sông Sàigòn, và vợ tôi nói: “Hổng có chuyện gì đâu, rồi cũng êm thôi,” vân vân, vân vân… Tôi thì tôi biết không thể êm được. Tôi đi gặp một người bạn, Đại tá Vọng, một cha ngon lành hết xảy, ông ta đề nghị cho chúng tôi ra Tân cảng. Ông ta là Chỉ Huy trưởng căn cứ ấy, ông ta có một căn nhà rất to lớn đẹp đẽ. Chúng tôi ở đấy mới được một đêm thì họ hàng nhà ông đại tá kéo đến, nào mẹ, nào chị em, cô chú đủ thứ. Người Việt Nam lạ lùng hết chỗ nói, bất kể trí thức hay nông dân gì cũng vậy, cái chuyện mười lăm con người ngủ chung một phòng, họ coi như không. Tôi tự bảo: “Lạy Chúa tôi, cha này dễ thương hết sức, nhưng tôi chỉ là khách ở đây. Thôi xuống tỉnh kiếm cái khách sạn mà ở.” Với cái chân sưng to như cái cột cắm dù, chúng tôi đến khách sạn Majestic, thuê một phòng rộng thênh thang. Rồi cứ ở đấy chờ tàu. Tôi tự bảo: “Mẹ kiếp phải vọt khỏi đây thôi.” Bà má vợ tôi vì đã trải qua hai trận giặc Pháp và Nhật Bổn, cứ cho rằng đây chỉ là một trận giặc nhỏ của hai trận ấy thôi, không có gì đáng sợ, mấy chuyện như thế ông hiểu không.

Nhưng tôi biết chắc chắn kỳ này là cáo chung. Chắc chắn đến tận mạng rồi. Vì thế tôi đi kiếm cho được một người bạn nữa tên là Brit, hắn điều khiển một công ty thuyền bè nhỏ. Cha này thu xếp được cho tôi một cái xe Renault, đời 39,40 gì đấy. Cái xe coi bộ ngon lành lắm, với một tay tài xế già.

Chúng tôi dùng xe chạy đi tìm chiếc tàu Greenville Victory khi tàu này trở lại Vũng Tàu. Đường đi mỗi lúc một xấu, nhiều chướng ngại vật. Có khoảng năm hay sáu dặm đường, chiếc xe chỉ rì rì chạy được với tốc lực mười lăm dặm một giờ. Nhưng rồi cũng tới nơi. Chúng tôi đến cổng hải cảng, nhìn bừa bãi heo lợn, rổ rá bỏ lại. Mấy chiếc xe Lambretta đổ lăn kềnh sang một bên. Tôi đã có thể nhìn thấy cả chiếc tàu đậu trong cảng. Nhưng khi xe tiến đến gần hàng rào chướng ngại, thì một thằng lính chết tiệt mặt đầy mụn tiến đến dí khẩu súng vào cửa xe, chỗ tài xế lái. Tôi và vợ con ngồi cả ghế sau. Thằng lính nói: “Ra khỏi xe, đi bộ!” Giêsu ma lạy Chúa tôi, làm sao tôi đi cho nổi? Lợi dụng việc thằng lính không hiểu tiếng Anh, tôi bảo vợ tôi là: “Nói với cha tài xế quay mẹ cái xe khốn nạn này mà về lại Sàigòn.” Người Việt Nam họ nói tiếng còn dịu hơn là người Ái Nhĩ Lan. Vợ tôi nghiêng người sang nói rất nhẹ, đến nỗi tôi cũng không nghe thấy tiếng. Cha tài xế già lúc ấy đang hoảng sợ tận mạng, vội vọt chiếc xe vòng trở lại, chỉ trong gang tấc suýt đụng một chiếc xe vận tải. Thế là vèo một cái chúng tôi quay ngoặt trở lại đường cũ.

Đó là một con đường khá đẹp, do Mỹ làm. Nó chẳng khác gì cái xa lộ bốn lằn, ở giữa có rào ngăn hai chiều: một chiều chạy hướng Bắc, một chiều chạy hướng Nam. Bấy giờ ở chiều bên kia, xe đạp, xe lam, xe gắn máy, xe vận tải, xe nhỏ xe lớn lũ lượt nối đuôi nhau. Còn chiều bên này trống như bãi tha ma, chạy thả dàn. Trên đường bên này chúng tôi chạy được chừng đâu hai mươi lăm dặm, thì bắt đầu thấy mấy cha để một mớ thùng xăng loại 55 ga-lông làm chướng ngại vật chặn đường. Đến lúc ấy tôi tự bảo “Rồi, tới lúc rồi.”

Ông tài xế già rút tốc lực lại. Trong xe, tôi để sẵn trên sàn một thùng lựu đạn tay, một khẩu tự động 45. và một khẩu 38 đến bây giờ tôi vẫn còn giữ. Tôi còn có bốn năm hộp đạn 45, thêm hai ba hộp đạn 38. Tôi bảo vợ tôi: “Hãy nói với lão già này…” – Mặc dầu xin ông tin cho, tôi không bao giờ thích chạy xe tốc lực nhanh, nhưng ngày hôm đó, có lẽ trên đời không còn thứ xe nào có thể chạy cho đủ nhanh như tôi muốn “…Nói lão già này dậm ga tối đa. Chúng ta phải vọt qua mấy cái thùng mắc dịch kia đi. Tôi không muốn kẹt ở cái chỗ khốn kiếp này đâu!”

Cha tài xế già nói với vợ tôi: “Chèn đét, họ bày mấy cái thùng kia, tui làm chi được bây giờ?” Tôi bảo: “Nói với chả nếu không vọt qua là tôi để ngay một phát đạn này vào đầu chả.” Tới lúc này, gã nhấn ga.

Chúng tôi bay trên đường, phóng đến. Mấy cha lính bấy giờ đang lấy sỏi dưới bờ đường để đổ vào trong thùng, nếu họ đổ vào thùng rồi mà chúng tôi đụng tới là tiêu thôi… Thế là cha tài xế già hung hăng phóng tới chả khác tướng Grant ào ạt đánh chiếm thành Richmond, nhưng chả chỉ đụng cái thùng chút đỉnh. Cái thùng bay lên không trung. Lúc này mấy cha lính nằm trườn lên bờ đường, mỗi cha chơi hai ba phát, nhắm vào chiếc xe. Chả biết lý do nào, hoặc vì chiếc xe đang quay vòng trở lại, hoặc vì mấy chả bắn tồi quá, nhưng chúng tôi không mảy may xây xát gì.

Bấy giờ cha tài xế nói: “Nè, nghe tui nói nè, hình như họ cắt đường rồi. Hồi trẻ tui có đi làm đồn điền cao su, hổng xa đây lắm đâu. Ở đó có con đường nhỏ. Nếu đi chậm lại, rẽ tay trái, lấy đường ấy mà đi cũng được.”

Tôi nghĩ: “Mẹ kiếp, vô bẫy rồi sao đây?” Nhưng trên đường chính mấy thằng cha lính mắc dịch vẫn chờn vờn đó, nên tôi đành biểu chả đi đi. Chả phóng qua khỏi con đường mấp mô thì đến một con đường nhựa rất nhỏ, có lẽ đã làm từ đời những năm 1920. Chả cho xe vào đường ấy. Nhìn sang tay phải, qua cửa sổ xe, chúng tôi thấy xa lộ chính, chúng tôi thấy có hai chiếc trực thăng đậu, trông không có vẻ gì là của phe ta.

Bất kể mấy cha sử gia của trận chiến này sẽ nói chuyện khỉ mốc gì với ông, nhưng bấy giờ, trong cái xe ấy, tôi biết chuyện gì đang xảy ra sờ sờ trước mắt: Tôi thấy rõ bọn lính Bắc Việt mặc quân phục ôm súng AK 47 đang bước ra khỏi trực thăng.

Tôi bảo vợ: “giờ phút này mình có thể vĩnh biệt bất cứ lúc nào,” và tôi tự bảo: “Mẹ kiếp, tôi mà tiêu thì cũng phải mang vài thằng cùng xuống địa phủ!” Vợ tôi lúc ấy can đảm bảo tôi rằng: “Mình ạ, ít nhất mình được cùng chết bên nhau.” Bả nói câu ấy làm tôi vững bụng trở lại. Tôi chẳng rõ bả có hiểu mình nói cái gì không, nhưng nghe vậy cũng mát lòng.

Chúng tôi bèn cho xe chạy rù rù xuống con đường nhỏ dọc dòng sông, rồi chạy vụt vào ẩn trong rừng một lúc. Sau đó chạy khoảng tám mươi dặm nữa, chúng tôi đến được một cánh cổng có bốt gác, nơi này có mấy thằng cha lính khốn kiếp, người nhỏ thó, cực kỳ khó chịu. Bọn lính ít khi ưa chuyện đàn bà Việt Nam đi với đàn ông da trắng. Chúng tôi bèn trình đủ thứ giấy tờ có hình tôi, hình vợ tôi, thông hành Mỹ của tôi, mấy tờ thông hành có chữ ký của Đại tá Vọng. Chữ ký của Đại tá Vọng làm cho chúng chú ý ngay lập tức, tôi xin nói rõ như thế. Nhờ vậy chúng tôi đi được vào cổng, một nơi mà tôi vẫn chưa rõ là đâu. Hoá ra chúng tôi đã vào một căn cứ, nơi đây bây giờ vắng hoe. Quanh quẩn tôi nhìn ra cái câu lạc bộ thủy thủ, một cái câu lạc bộ đẹp đẽ to lớn. Đến lúc này cẳng tôi đau thấu trời, tưởng sắp gẫy lìa đến nơi. Bấy giờ, vợ tôi nói: “Mình ơi, ông già muốn uống nước ngọt!” Tôi bảo: “Lạy Chúa, mụ vào kiếm cho ổng một chai.”

Vợ tôi bước vào, đến cánh cửa gương thứ hai, bả dòm vào rồi bước trở ra nói: “Vô trỏng tui sợ lắm.” Tôi hỏi: “Sao vậy?” Bả nói: “Hổng có ai trong đó cả.” Tôi chụp khẩu súng, đi cà nhắc bước vào. Đây là một toà nhà rất lớn, bấy giờ êm lặng như tờ, đánh rơi cái kim cũng nghe tiếng. Mấy cha trước làm việc ở đây đã biến đâu hết. Tôi tự bảo: “Cách nào tôi cũng kiếm được một món uống chùa, khỏi phải trả tiền.” Cái quầy rượu nằm cuối phía dưới, tôi đi xuống dưới ấy và Chúa ơi, trong máy tính tiền còn vương vãi cả tiền bạc đủ thứ. Không một bóng ma. Bồi bàn, đầu bếp, không một người ở đấy.

Tôi vòng ra sau quầy rượu, tự rót cho mình một cốc Vốt-ka ngon lành, đầy nhóc, ực một cái. Vào giây phút ấy chẳng cần rượu thì kích thích tố đã bốc rạo rực rồi. Tôi rót cho mình một cái Vốt-ka nữa, kiếm cho ông già taxi một chai nước ngọt, rồi đi cà nhắc trở ra. Đưa chai nước cho ông ta. Vợ tôi bảo: “Cho ổng ít tiền.” Chà, tôi còn lại sáu trăm đô trong túi, làm sao cưu mang mụ vợ với đứa con gái nhỏ đến tận Thái Lan với sáu trăm bạc đây?

Tôi bèn hỏi: “Hai chục đủ không?” Vợ tôi nói: “Hai chục được rồi.” Tôi đưa cho ông già hai chục bạc. ông quay ra chiếc xe Renault, rút chìa khoá, đề máy. Cái máy xe chó đẻ không nổ. Sau một trăm sáu mươi dặm với tốc lực rì rì như thế, có lẽ đã hết nhớt rồi.

Hình ảnh cuối cùng tôi thấy là lão già cuốc bộ ra cửa, vừa đi vừa ực chai nước ngọt. Tôi không rõ sau đó chuyện gì xảy ra cho ông ta.

Tôi vẫn còn lại 580 đô và hai khẩu súng ngắn. Thế cũng đủ dễ chịu. Bấy giờ mọi việc có một vẻ lắng dịu trước cơn bão tố sắp xảy ra. Tôi điện thoại cho Bill Ryder, hoá ra hắn ở ngay trong căn cứ này. Đúng ra, hắn chỉ cách chỗ chúng tôi vài trăm thước thôi! Tôi bảo vợ: “Thả bộ xuống chỗ ấy nào!”

Văn phòng Bộ Chỉ huy quân Hải vận đầy nhóc bọn con gái Việt Nam coi hết sức ngon lành làm việc ở đấy. Các cô này không muốn ở lại. Thời bấy giờ bất cứ cô nào làm việc cho Mỹ cũng chỉ cho yêu mà không được hôn. Vui chơi thôi, không tình nghĩa gì. Tin tôi đi, bấy giờ xứ ấy đang ở vào một giai đoạn đầy náo động.

Ryder là một gã tuyệt vời hết sức. Hắn cố thu xếp cho tôi đi bằng chiếc Pioneer Contender để ra Vũng Tàu. Tàu ấy được điều khiển bởi một thằng cha thuyền trưởng tên là Flink. Cái văn phòng của Ryder đầy bọn con gái Việt Nam ngồi rỉ rả cắn móng tay, mặc những bộ áo dài đẹp nhất của họ, trong lúc máy vô tuyến cứ phát tin ra, nhận tin vào.

Thế là họ thu xếp cho chúng tôi một cái xe hơi to tổ bố, có lẽ là xe Buick thì phải, với tài xế đàn bà lái để chở chúng tôi đến chiếc tàu chuyển vận tư nhân Hoa Kỳ, chiếc Pioneer Contender. Đường lên cầu tàu dài dằng dặc, vì cái cẳng khốn kiếp của tôi giờ đây sưng phù như cái ống bễ rồi.

Thường thường vợ tôi vẫn cho con mặc quần áo Mỹ vì mỗi lần về nước tôi lại đem sang ít quần áo. Nhưng hôm ấy, Chúa ạ, đứa con gái của tôi lại mặc bộ bà ba Tàu. Con gái tôi rất trắng, nhưng bộ quần áo khốn nạn nó mặc hôm ấy như thế là sai lầm.

Tôi lên tàu, ở đó thằng cha thuyền trưởng Flink đang ngồi sau bàn làm việc của Công ty Chuyển vận mắc dịch này. Tôi nói: “Bill Ryder gửi tôi xuống đây nhờ ông chở tôi và con gái tôi đi.” Vợ tôi lúc ấy ở trên cảng bà ấy sẽ phải đi tìm thằng con trai. Tôi nói bả cứ chờ đó với người tài xế cho đến lúc tôi ra hiệu hãy đi. Tôi rất sợ không có xe, với cái cẳng của tôi như thế mà leo được vào phòng thuyền trưởng là đã chả khác leo lên tận Hy Mã Lạp Sơn.

Vậy mà thế đấy, vào giờ phút Sàigòn sắp đổ, mà hai thằng Mỹ là cha Flink và tôi vẫn còn ở đây, và cái thằng thuyền trưởng mặt mẹt vênh váo ngồi chành bành sau bàn giấy ấy lại bảo tôi rằng: “À há, còn phải đợi chớ. Tôi không thể nhận ông làm hành khách được.” Tôi nói: “Chúa ơi, ông không có ý định bỏ chúng tôi lại cái cảng khốn nạn này chớ?” Hắn nói “Nè! Còn phải có luật lệ? Công ty chúng tôi làm ăn có luật lệ đàng hoàng.”

Ông biết không, sau này không lâu cái công ty chuyển vận hàng hải ấy phá sản. Lúc đó tôi đã nói với hắn: “Cứ theo cách làm việc của mấy người như ông thì công ty ông đến phá sản thôi.” Tôi quả không thể tin nổi thái độ làm việc của mấy thằng cha như vậy.

Tôi đành quay lại văn phòng tìm Ryder, nhưng khi nghe có vài phát súng, cô tài xế đã chở vợ tôi đi mất. May tôi không phải cuốc bộ. Tình cờ gặp được một cậu lính Việt Nam có xe gắn máy, tôi bèn nhờ chở tôi với đứa con gái thẳng tới văn phòng. Bill Ryder vẫn còn ngồi đấy với lũ con gái cắn móng tay. Bill hỏi: “Mày làm cái con mẹ gì mà còn chờn vờn ở đây thế?” Tôi đáp: “Cái thằng chó dưới ấy không chịu đưa đi.” Bill Ryder nói: “Bố tiên sư nó.” Thế là hắn lấy một cái xe khác đưa tôi chạy lại tàu, leo lên phòng thuyền trưởng. Bill Ryder bảo: “Nè, anh phải đưa người này đi ngay.” Thằng cha Flink lúc ấy ấp a ấp úng vì có Bộ Chỉ huy quân Hải vận thì các công ty hàng hải này mới sống nổi, cho nên Bill Ryder bảo: “Mấy anh nghe tôi nói đây. Nếu anh không chịu, tôi cho các anh treo giò.” Treo giò có nghĩa là không được trả tiền, mỗi ngày khoảng 27,000 đô la. Chà, nghe như thế thằng cha Flink nhẩy nhổm. Cuộc đời thuyền trưởng của hắn kể như xong. Hắn lắp bắp: “À, trong trường hợp này thì…” Thế là chỉ trong vòng nửa giờ sau mọi chuyện êm thắm. Hắn đưa chúng tôi ra sông, nhắm hướng Vũng Tàu mà đi.

Thằng cha thuyền trưởng Flink bấy giờ có lẽ đã đái trong quần, hắn cho tàu chạy hết tốc lực ra Vũng Tàu. Thuyền trưởng Iacobacci phái một xuồng cấp cứu chạy đến bốc chúng tôi. Vợ tôi bấy giờ đã về nhà quê đón con trai. Đại tá Vọng cũng giúp đỡ sắp xếp cho mọi việc. Bả đi, tay vác cái va li, tay dắt con lội bộ hơn hai mươi ba dặm đường. Phải đi qua nào rừng cao su, nào rừng dừa, đủ các thứ cứt ỉa như vậy, khó khăn lắm mới qua được, cũng đều nhờ Đại tá Vọng cả. Bả về được đến Sàigòn. Vào căn cứ, tại đó bả là người đàn bà duy nhất. Nhờ có mấy tấm giấy với chữ ký của Đại tá Vọng, bả đi được bất cứ chỗ nào. Đại tá Vọng là tổ sư luật pháp ở đây mà.

Phần tôi và con gái đi tàu Greenville Victory, đến Phi Luật Tân. Vợ tôi và con trai đi tàu Boo Heung Pioneer, chuyến tàu cuối cùng.

Tôi còn nhớ khi tàu đậu ở bến có một cha mặc bộ vét đen coi trịnh trọng lấm, hắn leo lên tàu, rồi chạy sục sạo khắp nơi. Hắn đi kiếm con chó của ông Đại sứ! Thực thế đấy. Trong lúc người ta đang bận rộn bốc đi 11,000 người di tản, thì thằng cha hình như là đệ nhị bí thư – Chức tước mả mẹ gì không rõ – Cứ chạy sục sạo từ tàu này sang tàu khác để kiếm con chó của ngài Đại sứ Martin!

Chúng tôi đến Phi Luật Tân, ở đó tôi gặp một cha thuyền trưởng tên là Ruebasmen, quen biết từ trước. Cha này là tay tổ bên Bộ Chỉ huy Quân Hải vận thì phải. Lúc ấy tôi đang ngồi trong câu lạc bộ sĩ quan tại căn cứ Hải quân ở Vịnh Subic, cha này tiến đến chào hỏi, hắn nói: “Tiện thể xin cho bạn biết, vợ bạn đang ở East Le Grande. Bả vừa mới tới bằng tàu Boo Heung Pioneer.” Tất nhiên như thế tôi biết vợ tôi đã đón được Minh ra đi. Cả Bill Ryder và Đại tá Vọng đã giúp bả ra đi trên tàu này, bả còn được ngủ ngay trong phòng thuyền trưởng. Bấy giờ đã mười giờ rưỡi đêm rồi. Ruebasmen nói: “Sáng mai bạn có thể lấy xuồng của tôi mà chạy đi tìm vợ.” Thế là mọi sự đã ổn. Sáng hôm sau, tôi phóng đi tìm bả. Nhưng bả lại đi mất. Họ đã mang bả sang Guam. Ít nhất tôi cũng yên tâm là bả đang ở trên đường sang Mỹ. Tiếp theo, tôi nghe tin bả được đưa đến trại tỵ nạn Indian Town Gap, ở Pennsylvania. Tôi gọi ngay điện thoại tới bảo: “Không nhúc nhích đi đâu hết! Ở đâu ở nguyên đó!”

Tôi xin kể thêm cho ông nghe một việc; Căn nhà của chúng tôi tại ngoại vi thành phố Tây Ninh là một căn nhà rất thần tiên. Một toà nhà đẹp tuyệt trần. Bọn Cộng sản ngày nay cứ gọi Việt Nam là “Cộng Hoà” này, “Cộng Hoà” nọ, “Nhân dân” này, “Nhân dân” kia, đều là chuyện cứt khô! Mấy thằng cán bộ cao cấp trong chính phủ Cộng sản còn sống đế vương hơn cả hoàng đế Nga! Ông có biết mẹ vợ, các anh chị em vợ tôi ngày nay ở đâu không? Họ đang ở trong mấy cái nhà kho. Thế ông có biết ai đang ở trong căn nhà đẹp đẽ của chúng tôi không? Thằng cha tỉnh ủy Cộng sản. Tụi nó chỉ đổi cái huy hiệu trên cái mũ. Thế thôi. Đ.M. Bọn nó gỡ cái huy hiệu cũ ra, gắn lên một cái ngôi sao, rồi dọn ngay vào ngôi nhà mắc dịch của chúng tôi mà ở, thế thôi.

Nhưng chả sao. Chúng tôi được an toàn, hạnh phúc êm ấm tại đây. Đứa con trai lớn là con riêng vợ tôi, bả lấy một người chồng Việt Nam đã chết trong chiến tranh. Khi tôi gặp bả, thằng bé chỉ lớn hơn ổ bánh mì chút xíu, hắn không biết ai là cha hắn ngoài tôi. Cho đến năm hắn mười lăm tuổi, tôi mới kể chuyện cho hắn nghe, bởi vì một lần tôi có nói với hắn rằng: rồi đến lúc mười bảy tuổi nhìn vào gương hắn sẽ nhận ra tôi không phải cha đẻ của hắn. Hắn có vẻ mặt rất Á Đông, nhưng hắn ngoan lắm, như con ruột tôi vậy. Ngoài ra chúng tôi cũng có hai đứa con đẻ.

Các ký ức chiến tranh không làm phiền tôi vì tôi đã trải qua nhiều chuyện rồi. Hồi đệ nhị thế chiến tôi đã sống sót trong một vụ đắm tàu ngoài khơi biển Ba Tây. Tôi cũng không nói là tôi không sợ, vì suốt một hai tuần lễ đầu khi trở về Mỹ cứ nghe chuông điện thoại là tôi ớn, chả khác gì còi báo động. Nhưng chỉ một vài tuần là hết. Rồi tôi lại làm một chuyến đi nữa trên tàu Mayaguez vào năm 1975, nhưng đấy lại là một chuyện khác.

Nếu phải bắt đầu tất cả mọi sự, tôi sẽ không ngần ngừ một phút. Nói thẳng ra, trong thực tế, bây giờ chả có gì khoái trá hơn đối với tôi trong cõi đời mắc dịch này là: Được bước về căn nhà của chúng tôi ở Tây Ninh, đá đít cái thằng cha Tỉnh ủy Cộng sản mắc dịch, cho nó đi chơi chỗ khác.

Ngày Dài Nhất

truongnghiaky

Thau nước để ngoài trời,
một ngày thôi đã cạn.
Nước bốc hơi vì nắng.
Bốc hơi cả khi mưa…

 

Mắt lệ lại không khô,
bốn mươi năm còn chảy!
Bốn mươi năm còn, đấy,
giọt lệ người Việt Nam!

 

Hòa bình ai cũng ham.
Thống nhất ai cũng thích.
Mà thấy kia, quá mệt:
một dân tộc chia ly!

 

Đảng đã làm được gì?
Không có gì làm cả!
Câu biểu ngữ thật lạ:
Không Có Gì!  Trời ơi!

 

“Sông có thể cạn, núi có thể dời”.

Hồ Chí Minh nói hoài:
Cuộc tang thương hiển hiện!
Mới thấy đó, mất biến…
con thuyền vượt biển, chìm!

 

Mới nghe đó mà im
những tiếng mừng chào hỏi.
Biết bao nhiêu chờ đợi,
nghĩa tình tan khói sương!

 

Việt Nam hết dễ thương
trong lòng người Nam Bắc.
Việt Nam đầy nước mắt,
nước mắt không hề khô!

 

Vẻ vang thay Bác Hồ,
con cáo già chễm chệ,
xung quanh bầy xã xệ
quyết tâm “Hồng Hơn Chuyên”!

 

Bốn mươi năm đảo điên:
cái thau nước cạn nước,
giọt lệ thì thẳng đuột
rơi xuống tới gót chân!

 

Ai cũng biết khó khăn,
khó khăn thì khắc phục!
Hỡi ơi một nỗi nhục:
người sống thua chó trâu!

 

Kìa triệu người cúi đầu,
cuốc đưa cao quá núi!
Kìa triệu người lủi thủi
như loài dế tha ma…

 

Bốn mươi năm trôi qua trong một ngày tàn tạ.  Ngày đó dài, dài quá như nước mắt đang lăn!

 

Đừng hỏi còn bao năm!
Hãy đi tìm Chúa Phật
hỏi sao sầu chất ngất,
hỏi sao buồn liên miên…

 

Tôi, từ một thanh niên,
bây giờ đang già lão.
Đừng bắt tôi nói láo…
một Việt Nam Quê Hương!

Trương Nghĩa Kỳ

Q…

nguyentancu

Như mặt hồ xanh trong
mắt em vờn hiu quạnh
Tôi soi gương đời mình
bờ mi râm lá úa
Tôi tự hủy đời mình
Trên môi em
Ngọt lịm

Có giấc mơ nào lạ hơn
Khi tuổi đời chất ngất
Đêm đêm tôi vẫn mộng
Đêm đêm tôi vẫn buồn
Tóc xanh rêu cổ lục
Em như sông lờ lững lưng trời

Tôi biết mình chỉ là
Một con đường xa xa
Ở trên đồi cao cao
cho cỏ hoa em nhánh mọc
Cho tay em ngơ ngác
Nhè nhẹ bồ công anh
Bay lên cùng với gió
Vàng rưng cùng thiên thanh …

nguyễn tấn cứ

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, “Tôi là người độc nhất còn lại để kể chuyện cho quý vị.”

nuocmattruocconmua
NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, nguyên tác Anh Ngữ “Tears Before The Rain” là một tập sử liệu về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam, do Larry Engelmann, Giáo Sư Đại Học San Jose State thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn nhiều thành phần: người Mỹ, người Việt, kẻ thắng người bại …Những cuộc phỏng vấn này khởi sự từ 1985, sách xuất bản năm 1990. Bản dịch Việt Ngữ do nhà văn Nguyễn Bá Trạc thực hiện năm 1993, xuất bản năm 1995 tại California.

ĐẠI TÁ LÊ KHẮC LÝ
“Tôi là người độc nhất còn lại để kể chuyện cho quý vị.”

Vào năm 1974 có lần tôi đến trình diện tướng Phạm Văn Phú tại tư thất của ông ở Pleiku. Tướng Phú gọi tôi đến thảo luận một số kế hoạch. Điều đầu tiên ông nói là ông muốn di chuyển Bộ Tư Lệnh Quân Khu II tại Pleiku xuống Nha Trang. Ông hỏi tôi nghĩ thế nào? Tôi trả lời: “Tôi nghĩ đây không phải là một ý kiến tốt. Tôi ở vùng này khá lâu, đủ để hiểu tại sao chúng ta đóng Bộ Tư Lệnh tại đây. Chính Tổng thống Ngô Đình Diệm là người đã cho khai phá và phát triển vùng này. Ông Diệm có nhiều lý do chính đáng. Ông có ý đưa ảnh hưởng quân đội lên trấn ngự vùng cao nguyên. Đây là một khu then chốt, một khu vực chiến thuật trọng yếu, một khu vực canh nông với đất đai màu mỡ. Muốn đất nước giàu mạnh, phải sử dụng vùng này. Nay nếu Thiếu tướng rời khỏi đây, dân chúng sẽ di chuyển theo. Vùng này bỏ trống, Cộng sản sẽ đến. Khi kiểm soát được vùng này, chúng sử dụng làm căn cứ thì chúng ta sẽ mất tất cả miền Nam. Vậy nếu Thiếu tướng ở lại, dân chúng sẽ ở lại. Cộng sản có đến chăng nữa cũng phải khốc liệt lắm mới lấy được vùng này khỏi tay chúng ta. Thiếu tướng không thể cho không bọn Cộng sản vùng đất này!”

Quân Khu 2 là một vùng rất rộng, trong đó chúng tôi có mười bốn tỉnh. Nhưng chúng tôi chỉ có hai Sư đoàn, Sư đoàn 22 và Sư đoàn 23. Vùng bình nguyên thuộc Quân Khu 2 cũng là một vùng rất trọng yếu về kinh tế và kỹ thuật.

Nhưng tướng Phú muốn di chuyển. Ông bảo: “Đóng ở đây là đóng Bộ Tư Lệnh quân đoàn ở tiền phương, mà binh đội lại đặt ở hậu cứ.” Tôi nói “Điều ấy rất đúng! Nhưng bây giờ nếu Thiếu tướng rục rịch gì ở Bộ Tư Lệnh là dân chúng cũng sẽ hoảng sợ mà di chuyển theo Thiếu tướng ngay.”

Sau hiệp định Ba Lê 1973, dân chúng luôn xem chừng quân đội. Hễ quân di chuyển đến đâu, dân di chuyển đến đấy. Họ thấy hiệp định Ba Lê không phải là một hiệp định ngưng chiến. Có điều gì dối trá ẩn giấu đàng sau. Dân Việt Nam biết kế hoạch của Kissinger. Họ biết tại sao Kissinger đã ký hiệp định này, dù không có thuận ý của chính quyền miền Nam. Dân chúng luôn tụ tập ở những địa điểm có đặt trụ sở các Bộ Tư Lệnh cao cấp. Khi các Bộ Tư Lệnh cao cấp di chuyển, mặc dầu vẫn để lại các trụ sở cấp dưới, nhưng đại đa số dân chúng sẽ vẫn cứ di chuyển theo bộ tư lệnh cao cấp, bỏ địa điểm cũ thành những nơi gần như hoang vắng.

Cao nguyên có một khối lượng dân đông đảo. Nếu họ di chuyển, Cộng sản sẽ có nhiều cơ may tiến vào. Dân không muốn bị bỏ lại với Cộng sản. Họ xem chừng và để ý tướng Phú rất kỹ. Nhưng tướng Phú thường hay ở Nha Trang. Nhiều người bảo tôi rằng ông ấy sợ. Tôi nghĩ có lẽ đúng. Ông từng bị bắt làm tù binh trong trận Điện Biên Phủ 1954, cho nên cứ nghĩ đến Việt Cộng là ông ấy đã đủ sợ. Tôi không có lòng tin nơi tướng Phú mỗi khi chúng tôi đụng trận.

Lúc ấy, ông quyết định không rời Bộ Tư Lệnh Quân khu nữa, nhưng cá nhân ông đã chuyển một số lớn của cải và đưa cả gia đình đi Nha Trang, hầu hết nhân viên cũng đi theo với ông. Tôi là người phải điều động mọi việc ở Pleiku. Đây là sự thực. Tôi không hề có ý khoe khoang.

Tướng Phú có mâu thuẫn cá nhân với hai ông tướng khác: Tướng Trần Văn Cẩm, trước là Tư lệnh Sư đoàn 23 dưới quyền tướng Nguyễn Văn Toàn. Khi tướng Toàn đổi đi, ông Cẩm trở thành phụ tá hành quân cho tướng Phú. Một người nữa là tướng Phạm Duy Tất, trước là Sư đoàn Trưởng Sư đoàn 21. Sau trở thành phụ tá Bình Định ở Nha Trang. (*)

Tướng Phú không thích cả hai ông này. Không có sĩ quan chấp hành, tướng Phú bèn tự đặt ra một số nhân viên riêng. Trưởng phòng Tổng quản trị của tướng Phú, Trung tá Trần Tích là người phụ trách bổ nhiệm sĩ quan vào các chức vụ thân cận của tướng Phú. Trung tá Tích làm việc rất chặt chẽ với vợ tướng Phú. Còn tôi chỉ biết lo điều động những chuyện hành quân, tình báo và tiếp vận của vùng cao nguyên mà thôi.

Tôi nghe quá nhiều dư luận về những chuyện bổ nhiệm này, trong ấy có điều đúng, cũng có điều thổi phồng. Tôi đã nghe nhiều chuyện về việc người ta đưa tiền cho vợ tướng Phú để mua chức vụ. Những chuyện này rất nản, làm người ta xuống tinh thần, nhưng làm gì được bây giờ? Báo cáo cho Tổng thống Thiệu chăng, nhưng như thế cũng chẳng kết quả gì, vì lẽ chính ông Thiệu cũng đã bị mua chuộc. Tôi bảo với các sĩ quan của tôi rằng tôi bịt miệng, che tai. Tôi chỉ cố làm cho tròn bổn phận một cách tốt đẹp. Tôi không muốn quan tâm đến các chuyện khác.

Về vụ tấn công Ban Mê Thuột: Chúng tôi biết chuyện ấy sẽ xảy ra. Tuy không biết đích xác lúc nào, và lực lượng Cộng sản có bao nhiêu, nhưng chúng tôi biết chuyện ấy sẽ đến. Đại tá Trịnh Tiếu, sĩ quan tình báo của tôi – hiện đang ở trong trại cải tạo tại Việt Nam – lúc ấy đã thảo luận với tôi về sự kiện một sư đoàn Bắc Việt có mặt tại vùng cao nguyên đang di chuyển. Chúng sẽ tấn công một địa điểm nào đó. Nhưng khi báo cáo tướng Phú, ông cho rằng chúng sẽ tấn công Kontum hay Pleiku. Ông đã tập trung quân lực để phòng vệ những vùng này. Ông Tất, Chỉ huy Biệt Động quân Vùng II, bạn đồng khoá với tôi, hiện cũng đang ở trại cải tạo tại Việt Nam, là người trách nhiệm phòng thủ Kontum và Pleiku. Kontum rất dễ tấn công. Còn Pleiku là căn cứ Bộ Tư lệnh Quân đoàn. Tấn công những địa điểm này sẽ là một chiến dịch tuyên truyền chính trị thuận lợi cho địch quân. Tuy nhiên sĩ quan tình báo của tôi và cá nhân tôi hoài nghi giả thuyết này. Nếu địch muốn tuyên truyền, họ sẽ tấn công vào các toà hành chánh tỉnh. Nếu đánh Pleiku, họ không thể tấn công toà tỉnh. Và nếu họ tấn công chúng tôi, là sẽ có ngay các lực lượng tăng cường đến từ Sàigòn. Vì thế chúng tôi đặt Ban Mê Thuột lên đầu bảng liệt kê các mục tiêu mà Cộng quân có thể tấn công tại vùng II.

Nhưng khi tướng Phú quan sát Ban Mê Thuột, ông vẫn cho rằng Ban Mê Thuột có thể giữ được nếu bị tấn công. Ông tin địch quân không thể vào tỉnh. Phần tôi, không thấy có đặc công ở đấy. Còn chiến xa Bắc Việt, đối với chúng tôi không quá quan trọng, vì lẽ chúng tôi có không quân, Bắc Việt thì không.

Cuối cùng khi Cộng sản tấn công Ban Mê Thuột, ai nấy hoảng hốt. Khi chúng tấn công vào, tướng Phú đang ở Nha Trang. Vì thế tôi quyết định dàn quân lên Ban Mê Thuột. Tại đấy chúng tôi đã có Trung đoàn 53, và chúng tôi cho Biệt động quân tăng cường.

Trong một cuộc không kích của phi cơ chúng tôi, chẳng may đụng lầm Bộ chỉ huy tiền phương Sư đoàn 23, phá tan tất cả hệ thống truyền tin. Khi phải tái phối trí trận truyến, chúng tôi chiếm được một nửa thành phố. Vì Bắc quân quá mạnh trong thành phố, chúng tôi tiến chiếm thành phố một cách chậm chạp. Chúng tôi sợ bị mai phục. Rồi chính lúc ấy Sư đoàn Trưởng Sư đoàn 23 đã cho lính giữ an ninh để trực thăng đáp xuống bốc vợ ông và gia đình ông. Thật sỉ nhục. Trách nhiệm ông là chỉ huy chiến dịch tái chiếm Ban Mê Thuột, nhưng chỉ vì lo lắng cho sự an nguy của vợ mà ông đã đặt bãi đáp, ra lệnh cho binh sĩ tấn công phải quay lại bảo vệ vùng này trước! Quân Bấc Việt đã quan sát được. Khi ông ta làm thế thì Bắc quân khép chặt thành phố. Ông đã cho địch quá nhiều thời gian. Ông cho chúng một cơ hội tốt, rồi sau đó ông đã tiến quân rất chậm!

Đó là một lỗi lầm đáng trừng phạt. Ông đã bất tuân thượng lệnh. Nhưng ai sẽ là người quyết định về ông ta? Tướng Phú, hay Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham mưu Trưởng liên quân? Sau này tôi đối diện với ông ta. Ông bảo trực thăng của ông bị bắn tỉa, ông bị thương. Ông giải thích tất cả binh sĩ đã ra khỏi trực thăng đi lo cho gia đình riêng của họ. Ông không thể kiểm soát họ được. Chúng tôi là bạn lâu năm, tôi bèn nói: “Tướng Tường, ông là Tư lệnh Sư đoàn, tại sao ông không bắn chúng nó?”. Ông ta không trả lời.

Phần Tướng Phú thì bay trở lại Pleiku quan sát tình hình. Lúc ông ở trong trung tâm hành quân với tôi thì nhận được một cú điện thoại từ Sàigòn do Tổng thống Thiệu gọi. Ông Thiệu bảo muốn gặp tướng Phú ngày hôm sau, tức là 14 tháng 3/1975 tại Cam Ranh.

Tôi bèn chuẩn bị các đồ biểu thuyết trình, các bản báo cáo tình hình cho buổi họp. Chúng tôi nghĩ Tổng thống Thiệu muốn biết diễn tiến các cuộc hành quân ra sao. Sáng hôm sau, ông Phú bay xuống Cam Ranh gặp ông Thiệu.

Sau khi gặp tổng thống, đêm ấy ông Phú trở về triệu tập một buổi họp tại Pleiku. Hiện diện trong buổi họp gồm có: Tướng Phú, tướng Cẩm, tướng Phạm Ngọc Sang Tư lệnh Sư đoàn 6 Không quân, ông Tất và tôi. Vừa bước vào phòng họp, điều đầu tiên ông Phú nói là ông đã được ông Thiệu chấp thuận thăng chức cho ông Tất. Ông gắn sao cho ông Tất. Chúng tôi vỗ tay.

Xong, ông loan báo: “Chúng ta sẽ triệt thoái khỏi Pleiku và Kontum!”

Nghe ông nói như vậy, tôi mở mắt thật lớn. Tôi nghĩ có lẽ mình nghe không rõ. Nhưng ông giải thích: Chúng ta rút lui chiến thuật để tái phối trí chiếm lại Ban Mê Thuột. Ông Cẩm, ông Sang, ông Tất và tôi đều ngồi sững. Chúng tôi véo nhau. Tôi tự nghĩ: “Cần phải hỏi xem chúng tôi sẽ triệt thoái cách nào.” Tôi lên tiếng hỏi. Ông Phú đáp: “Quý ông sẽ sử dụng đường 7B.” Phản ứng tức khắc của tôi là bảo: “Thưa Thiếu tướng, không thể được!” Ông Phú bảo: “Tổng thống đã quyết định. Chúng ta không có sự lựa chọn, bởi vì chúng ta cần đạt yếu tố bất ngờ với địch quân.”

Tôi bảo: “Thưa Thiếu tướng, tôi sống khá lâu ở đây. Tôi biết rất rõ vùng này. Đường 7B đã bỏ phế từ lâu. Lực lượng Đặc biệt Mỹ, Lực lượng Đặc biệt Việt Nam, và cả địch quân đều đã hành quân trong khu vực ấy. Họ đã gài mìn khắp nơi. Nếu phải triệt thoái với các quân cụ quân dụng nặng nề, trước tiên phải khai quang mìn trên đường, nay ai còn có thể biết mìn đặt chỗ nào? Rồi lại phải sửa đường, làm gì có thời gian sửa chữa? Ngoài ra khi chúng ta quyết định triệt thoái là mọi người sẽ biết, chẳng còn gì bất ngờ nữa! Xin đề nghị Thiếu tướng nếu phải triệt thoái, hãy sử dụng quốc lộ số 19 mà đi thẳng. Sẽ phải chấp nhận một số tổn thất, nhưng như thế chúng ta mới có thể qua được.”

Tướng Phú bảo: “Không. Tất cả quyết định rồi! Quý ông không lựa chọn gì nữa. Sáng mai tôi bay đi Nha Trang. Quý ông sẽ có ba ngày để lo triệt thoái!” Tôi bảo: “Thưa Thiếu tướng, làm sao được? Chúng ta có bao nhiêu binh sĩ, bao nhiêu là đồ tiếp liệu và quân cụ. Phải ít nhất ba tuần lễ chúng tôi mới hoạch định nổi.”

Ông ấy bảo: “Tất cả những điều ấy cũng đã quyết định xong.” Tướng Cẩm và tôi bèn hỏi thế còn Địa phương quân, Nghĩa quân, các nhân viên hành chánh xã, tỉnh và dân chúng thì sao? Tướng Phú nói: “Quý ông đừng phải lo gì cho họ cả. Quên đi!”

Tôi hỏi ông ấy đã nói chuyện với người Mỹ, các nhân viên Trung ương Tình báo và văn phòng Tùy viên Quân sự của Hoa Kỳ trong vùng chưa? Và tôi không bao giờ quên điều này: Ông nhìn thẳng vào tôi mà bảo “Hãy quên bọn Mỹ đi. Đừng nói với gì với người Mỹ cả.” Đó là đích xác những lời ông ấy nói. Tôi rất xấu hổ mà kể cho quý vị nghe sự thực đã xảy ra ở Pleiku như vậy. Tôi không tin nổi chuyện ấy. Tướng Phú đã dự định bỏ rơi cả những người Mỹ, không báo động cho họ biết về cuộc rút quân này.

Lệnh thực ra là từ Tổng thống Thiệu. Tất cả những gì tướng Phú nói với tôi, ông bảo đều do ông Thiệu nói. Trong năm người tham dự buổi họp, giờ đây chỉ còn lại một mình tôi để kể câu chuyện này tại Mỹ. Ông Phú tự sát. Ông Sang, ông Cẩm, ông Tất giờ đây đều bị giam tại các trại cải tạo ở Việt Nam. Còn lại tôi là người độc nhất để kể câu chuyện này cho quý vị.

Ông Phú nói ông phải làm như vậy vì ông tuân hành lệnh. “Quý vị khỏi lo lắng gì chuyện này,” ông nói. Ông có vẻ rất bối rối khi nói và hiện rõ vẻ bất đồng ý kiến với lệnh trên.

Tôi được chỉ định làm sĩ quan chỉ huy triệt thoái. Ông Tất phụ trách các lực lượng chiến thuật, toàn bộ hệ thống truyền tin và tiếp vận. Tôi tự bảo “Trời! khổ cho tôi.”

Tám giờ sáng hôm sau, tướng Phú ra đi. Ông dùng máy bay, bay đi. Còn lại mình tôi lo liệu. Một lát sau, từ Sàigòn tướng Đồng Văn Khuyên, Tham mưu Trưởng liên quân điện thoại, hỏi: “Tướng Phú đâu?” Tôi bật cười vì sự thể quá lố bịch. Tôi tự hỏi “Nói gì bây giờ? Nên nói thực hay nên chống chế cho ông Phú đây?”

Tôi bèn bảo: “Tôi không được rõ. Hiện tôi không có liên lạc gì với Tướng Phú cả.” Trung tướng Khuyên tiếp tục gọi nhiều lần nữa. Cuối cùng tôi đành bảo: “Vâng, xin Trung tướng cứ gọi Nha Trang để nói chuyện, ông ấy hiện ở đấy.” Tướng Khuyên hỏi: “Tại sao ông ấy lại ở Nha Trang.” Tôi bảo: “Thưa, tôi không được rõ. Trung tướng cứ hỏi thẳng ông ấy. Tôi hiện đang trách nhiệm điều động công tác ở đây, còn Tướng Phú đang ở Bộ Tư lệnh mới, đặt tại Nha Trang.”

Nhiều Tiểu đoàn Trưởng các binh chủng, nào Thiết giáp, Pháo binh, Quân vận đều đến gặp tôi, họ kêu ầm lên: “Tại sao lại rút? Chúng tôi đánh được, tại sao lại rút? Có việc gì xảy ra vậy?” Tôi chỉ còn có thể trả lời: “Tôi đồng ý với các bạn. Nhưng đây là lệnh Tổng thống và Tổng Tham mưu. Là quân nhân chuyên nghiệp, chúng ta làm gì được bây giờ? Bất tuân lệnh hay sao? Tất nhiên là không. Tôi biết là sai, nhưng đây là lệnh. Chúng ta muốn khởi loạn hay sao?”

Lúc ấy tôi tin thượng cấp đã có một kế hoạch mật mà chúng tôi không được rõ. Họ không thể ngu xuẩn đến như thế. Có lẽ đã có một sách lược mà vì không ở cấp chỉ huy tối cao, nên chúng tôi không được biết. Tướng Cẩm và tôi bàn bạc về cuộc rút quân điên rồ này. Chúng tôi ngồi cười. Ông Cẩm bảo: “Tôi cá với ông: đã có thỏa thuận rồi, mình khỏi đánh giặc nữa. Tôi cá là chiến tranh đã xong!” Tôi bảo: “Tôi ngờ lắm.” Nhưng ông ta nói: “Tôi suy đoán như vậy vì ở đây dẫu xảy ra bất cứ một cuộc tấn công nào, chúng ta cũng có thể đương đầu ít nhất ba tháng. Cho nên tôi cá với ông là đã có thỏa thuận, lần này mình có hoà bình thực sự. Tôi không rõ, nhưng tôi cũng cảm thấy như vậy.”

Tướng Cẩm cũng dùng máy bay, bay đi. Chỉ còn ông Tất và tôi trong Bộ Tư lệnh. Tôi tự nhủ người Mỹ đã là đồng minh chúng tôi trong bao năm trời. Diễn tiến này rất trọng hệ, mà họ lại không được biết gì. Tại sao chúng tôi không cho họ hay? Đó là lý do tại sao tôi đã gọi cho họ, bảo họ chúng tôi sắp triệt thoái. Họ hoàn toàn không hay biết gì.

Tôi báo cho các nhân viên Trung ương Tinh báo và Tổng Lãnh sự Hoa Kỳ trong vùng là chúng tôi sắp rút quân. Họ không tin nổi khi tôi nói với họ như thế. Họ liên lạc Sàigòn, kiểm chứng, rồi tìm ra đó chính là sự thật. Nhờ vậy, họ đi thoát bằng máy bay, nên tôi đã được coi là có công trạng với Trung ương Tình báo Hoa Kỳ tại Sàigòn, tên tôi được lên đầu danh sách những người sẽ được giúp đỡ nếu Sàigòn sụp đổ.

Cuộc triệt thoái khởi đầu tiến triển tốt. Vào giây phút cuối, trực thăng của tôi bị hỏng máy, nên tôi đã đi cùng với đoàn xe ra khỏi Pleiku. Triệt thoái luôn luôn là một chiến dịch khó khăn, đòi hỏi nhiều tính toán cẩn thận, tỉ mỉ. Tôi chỉ có ba ngày để rút 100,000 người, và tôi không thể bỏ ai được. Dân chúng sinh sống chung quanh đáng được chúng tôi phải lo lắng săn sóc cho họ. Và dù tôi không bảo vệ nổi, họ vẫn đi theo. Rồi chỉ trong một thời gian ngắn, mọi sự bắt đầu ra ngoài khả năng kiểm soát của tôi. Các Tiểu đoàn trưởng thuộc quyền tôi không thể nào kiểm soát nổi tất cả mọi người được nữa. Đoàn người tan tành trên đường đến Tuy Hoà. Với thời hạn ba ngày, chúng tôi không thể đủ thì giờ làm được gì. Với thời hạn ngắn ngủi như thế, người ta chỉ còn có thể quyết định: Ai đi trước, ai đi sau, ai đi kế tiếp, thế thôi.

Bây giờ, hàng đêm tôi tưởng như tôi vẫn còn nhìn thấy cả đoàn xe ấy trước mắt. Nào chiến xa, thiết vận xa, xe vận tải nối đuôi nhau, biết bao binh sĩ với gia đình thân quyến vây quanh. Những cụ già ngồi lắc lẻo trên mui xe, những bà mẹ, những trẻ thơ ngủ trong lòng mẹ, nằm duỗi trên tay mẹ. Đôi lúc vài người xấu số chẳng may ngã xuống trong lúc đoàn xe tiếp tục chạy. Họ kêu la thảm thiết, thân hình bị nghiền nát dưới bánh xe. Tôi đã nghe những tiếng kêu la ấy. Tôi đã thấy một chiếc xe vận tải sức chở chỉ có nửa tấn đã nhồi nhét đầy người nên bị lật, những con người bị xe đè xuống nát xương. Tôi đã nghe tiếng xương gẫy. Tôi bất lực chẳng giúp gì được họ. Tôi đã thấy những con người bỏ xác bên đường. Thực là một cơn ác mộng kinh hoàng.

Đến phía tây thị xã Cheo Reo, đoàn xe bị oanh tạc nhầm bởi chính không quân chúng tôi, vô số người thiệt mạng. Tôi vừa vào được căn cứ Cheo Reo thì quân Bắc Việt đã kéo đến vây quanh. Chúng rót trái phá vào. Chỉ còn mỗi một máy truyền tin để gọi Nha Trang trong lúc tôi nằm dưới cơn mưa pháo.

Đơn vị truyền tin của tôi cố liên lạc với tướng Phú ở Nha Trang, thì ông Phú lại đang đi loanh quanh đâu đó. Tôi sử dụng Anh ngữ nói trên máy truyền tin với sĩ quan của tôi, vì lúc ấy địch quân chỉ còn cách căn cứ chúng tôi có khoảng một cây số. Tôi bảo anh ta: “Trình với Thiếu tướng là tình hình ở đây nguy kịch lắm. Hiểu tôi muốn nói gì khi tôi bảo tình hình nguy kịch chứ? Thế thôi! Không thì giờ nói nhiều. Tôi sẽ cố sức. Địch xiết chặt rồi.” Tướng Phú hiểu. Và hai mươi phút sau ông gọi tôi trên máy truyền tin, báo động cho tôi biết một lực lượng địch tại Phú Bổn đang khép chặt vòng vây. Ông Tất cùng với binh sĩ đang ở cách tôi ba cây số. Không quân được lệnh mang tôi ra bằng trực thăng. Thiết giáp được lệnh mở đường bất kể thiệt hại, và ông Tất sẽ đưa quân hỗ trợ.

Ông Phú gửi hai trực thăng đến, để đưa chúng tôi ra Nha Trang. Hỏa lực địch bắn lên dữ dội khi trực thăng hạ cánh. Chiếc trực thăng chở tôi tính ra tổng cộng chở đúng hai mươi bảy người, trong khi chỉ được chế tạo để chở mỗi lần bảy người. Chiếc kia gồm mười chín người. Rồi cũng cất cánh lên được, bay thoát về Tuy Hoà. Chúng tôi rất may mắn đã thoát. Trong lúc ấy tướng Phú vẫn ở Nha Trang.

Sáng hôm sau, tướng Phú điện thoại ra lệnh gọi tôi vào Nha Trang. Tôi bay vào, tổ chức lại Ban Tham mưu và ở đấy mười hai ngày. Rồi một lần nữa, ông Phú lại bỏ tôi cuốn gói đi. Ông dọn sạch nhà cửa, lấy máy bay đưa toàn gia đình đi, không hề nói với tôi một lời. Một hôm, viên Đại úy đến văn phòng tôi gõ cửa nói: “Đại tá, chỉ còn có Đại tá và tôi ở đây! Chẳng còn ai nữa cả!” Tôi bảo “Anh nói gì thế?” Lúc ấy vào buổi trưa, tôi vẫn đang cắm cúi làm kế hoạch tái phối trí binh sĩ. Tôi rất mệt, đang muốn ngả lưng. Nghe nói thế tôi bèn ra khỏi văn phòng, xuống thang gác. Hai nhân viên của tôi đang làm việc, họ báo cáo cho tôi là tướng Phú đã đi mất. Tôi lại nhà tướng Phú, không một ai. Nhà cửa trống rỗng. Tôi hỏi một Thiếu tá Tiểu đoàn Trưởng đang ở đấy là tướng Phú đâu rồi? Anh ta đáp: “Chẳng hiểu chuyện gì. Hiện nhà này không có ai cả, nhưng binh sĩ của tôi vẫn phải giữ an ninh căn nhà. Tôi không biết làm gì đây nữa.”

Tôi tập hợp sĩ quan, binh sĩ vào năm cái xe jeep. Làm gì được bây giờ? Ai nấy đều đã bỏ đi. Người ta bảo có người thấy tướng Phú ngoài phi trường. Chúng tôi lái ra phi trường. Đầu tiên, quân cảnh không chịu cho tôi vào. Sau, họ mở cổng. Khắp chung quanh tôi là lính không quân, tôi gặp cả ông tướng không quân cũng đang dáo dác tìm tướng Phú. Ông ta bảo: “Ông Phú đã đi, rồi ông Lý cũng đi thì tại sao chúng tôi còn ở lại đây. Đi thôi!” Nhưng lúc ấy tôi nào có đi đâu. Tôi chỉ đi tìm người chỉ huy của tôi thôi!

Rồi tôi nhận điện thoại của đại tướng Cao Văn Viên tại phi trường. Ông bảo: “Tướng Phú đâu?” Tôi nói “Tôi không được rõ, chính tôi cũng đang tìm ông ấy!” Ông nói: “Vậy anh cứ ở lại phi trường để kiếm ông ấy cho tôi.” Tôi bảo: “Vâng, tôi sẽ ở đây.”

Chúng tôi đợi chờ trông ngóng mãi vẫn chẳng thấy tướng Phú đâu. Sau bảy ngày không ăn không ngủ, tôi qụy xuống vì suy nhược. Lính và các sĩ quan của tôi bèn đẩy tôi vào một chiếc máy bay trong khi các toán lính khác rút đi. Chiếc máy bay thay vì đi Phan Rang để thiết lập bộ chỉ huy ở đấy, đã bay thẳng về Sàigòn. Khi tôi tới Sàigòn thì tướng Phú đã ở đấy rồi. Tôi về nhà. Hôm sau đi tiểu ra máu, sức khoẻ sa sút. Tôi đi khám bệnh. Bác sĩ cho thuốc, bắt tôi nghỉ ngơi, nhưng tôi vẫn đi làm.

Một lần nữa tôi cố liên lạc tướng Phú để xem phải làm gì. Câu đầu tiên ông ấy bảo tôi là: “Lý ơi, chúng ta bị phản bội rồi.” Tôi hỏi: “Bởi ai vậy?” Ông ta nói: “Bởi Thiệu. Thiệu đã cho chúng ta vào bẫy. Ông ta đã đẩy mọi chuyện cho chúng ta. Ông ta bảo tất cả là lỗi chúng ta. Chính ông ấy ra lệnh cho chúng ta rút quân, bây giờ ông ấy lại tuyên bố mọi sự đều do lỗi chúng ta cả!” Ông Phú muốn chuẩn bị một tờ trình để chứng minh chúng tôi chẳng có tội lỗi gì, để giải thích rõ chúng tôi đã điều khiển các chiến dịch ấy như thế nào, tại sao chúng tôi không lấy lại Ban Mê Thuột, tại sao chúng tôi triệt thoái.

Vì thế tôi sửa soạn một tờ trình dầy cộm cho tướng Phú.

Tôi đến thăm tướng Phú và tướng Trưởng, Tư lệnh vùng 1, bấy giờ đang ở trong bịnh viện. Tướng Trưởng ôm lấy tôi mà khóc. Ông bảo: “Lý ơi, chúng ta mất hết fôi!” Tướng Trưởng yêu đất nước, yêu đồng đội và yêu Quân đoàn I của ông. Nhưng bây giờ, tất cả không còn gì nữa.
Khi gặp lại tướng Phú, tôi thấy ông đang giận dữ. Đây là lần đầu tiên tôi chứng kiến ông giận dữ tổng thống. Sau khi trao cho ông tập báo cáo tôi đã soạn xong, ông ký tên, tôi đi gặp tướng Khuyên để đưa tờ trình này cho ông Thiệu và ông Cao Văn Viên. Nhưng sau đó, không bao giờ tôi nghe nói gì về tờ trình này nữa.

Tôi hỏi tướng Khuyên: “Chúng ta phải làm gì bây giờ. Chúng ta đã mất tất cả chưa?”. Ông nói: “Không. Chúng ta sẽ tập trung lại, vạch lại ranh giới, ông sẽ nắm lại Quân đoàn II.”

Nhưng tôi tự nghĩ ông tướng này không nói hết sự thật. Bây giờ chúng tôi không còn có thể làm như vậy được nữa. Nếu ông ấy bảo thế từ lúc tôi còn ở Pleiku, thì còn có thể được. Bây giờ tôi chỉ huy được ai. Lính thì không, địch đầy rẫy, chỗ nào cũng có địch quân.

Tướng Khuyên hỏi: “Nếu ông ở địa vị tôi, ông sẽ làm gì?” Câu hỏi đột ngột làm tôi chấn động, vì tôi nhận ra rằng tôi không còn có thể nghĩ được bất cứ giải pháp khả thi nào để giải quyết vấn đề của chúng tôi lúc này nữa.

Khi vê nhà, vợ tôi và tôi nghe tiếng phi cơ liên tục cất cánh mỗi đêm. Chúng tôi biết văn phòng Tùy viên Quân sự Hoa Kỳ đang di tản người ra khỏi xứ. Tin tức đưa đến chúng tôi mỗi ngày do đó chúng tôi đều biết những ai đã ra đi. Tôi đến gặp một người bạn là Tư lệnh Sư đoàn 2(?) Ông ta và tôi vẫn cố gắng thu thập lại lính tráng để tái tổ chức Sư đoàn 22 và Sư đoàn 23.(?) ()

Nhưng bỗng lúc ấy, chúng tôi lại nhận được những tin tức toàn là tin tổn thất. Tôi đi gặp tướng Hiếu một cấp chỉ huy cũ của tôi và là một tướng lãnh hết sức lương thiện trong quân đội.

Tôi hỏi tướng Hiếu tình hình Quân khu III ra sao. Ông trả lời: “Chúng ta phải tái tổ chức và nỗ lực mà chặn những cuộc tiến công chiến xa của địch quân”. Vài ngày sau, ông bị giết.

Tôi đi ra đi vào từ Vũng Tàu đến Sàigòn nhiều lần, cuối cùng liên lạc được một số bạn hữu của tôi bên tòa Đại sứ Mỹ. Họ điện thoại bảo tên tôi đã có trên danh sách những người ra đi. Tôi đến tòa Đại sứ Mỹ, vào bằng cổng hậu vì người ta quá đông, họ đã để cho tôi vào. Tôi gặp tướng Charles Timmes, một bạn rất tốt của tôi. Ông bảo ông đã nhận được lệnh Hoa Thịnh Đốn đưa Cao Văn Viên đi, tên tôi được sắp kế tên ông Cao Văn Viên, vì tôi đã cứu được nhiều người Mỹ trên cao nguyên.

Do đó tôi đưa gia đình trực hệ, gồm vợ và các con đến đợi ở điểm hẹn, rồi được đón vào Tân Sơn Nhứt bằng xe buýt tòa Đại sứ. Chúng tôi chờ ở phi trường cho đến hôm sau.

Chúng tôi rời Việt Nam bằng chiếc máy bay C-130, bay đến trại tỵ nạn ở Guam. Đó là ngày 25 tháng Tư.

Khi rời đi, tôi biết tất cả đã mất. Trước kia tôi nghĩ có thể Cộng sản và Mỹ có thỏa thuận, nhưng điều ấy sai. Chúng tôi nghe nói người Mỹ đã bán đứng chúng tôi để kiếm những đồng minh khác.

Tôi nghĩ khi Kissinger đi Trung Quốc bắt tay với Mao Trạch Đông, đấy đã là chung cuộc của Việt Nam. Tôi biết sau đó Việt Nam chẳng còn hy vọng gì. Sau khi người Mỹ đi Bắc Kinh bắt tay với Trung Cộng, họ không cần Việt Nam nữa.

Đối với tôi, đấy là chuyện người ta đã bán đứng chúng tôi. Chúng tôi chẳng có gì để nói về chuyện ấy cả. Tôi nghĩ đáng lẽ Tổng thống Thiệu phải thấy được điều này mà chuẩn bị từ trước. Nhưng ông đã không thấy, do đó đối với tôi, Thiệu không phải là một lãnh tụ giỏi.

Bây giờ đây quý ông thử nghĩ: Nếu quý ông là người Việt Nam và quý ông yêu quê hương xứ sở mình, tất nhiên sẽ phải hỏi tại sao người Mỹ hành xử như thế? Đây chính là câu hỏi mà tôi đặt ra cho người Mỹ: Tại sao người Mỹ đã đối xử với bạn hữu của mình như thế?

Nhiều người bảo chúng tôi đã bị bán đứng. Tôi đành phải buồn bã mà đồng ý đúng là như vậy.

Mùi

nguyendinhbon

Ngồi xuống đó nhìn nhau thêm chút nữa
Quán bên sông mùa hạ đỏ trên đầu
Em tiều tụy da như màu lá rữa
Mới biết tình hành hạ đến thương đau…

Tay đeo nhẫn cầm bàn tay gầy guộc
Ngửi ngón tay hương khói thuốc năm nào
Sông đang chảy dưới chân mình thân thuộc
Thời gian nào là mộng mị chiêm bao…

Ngồi xuống đó nhìn nhau thêm chút nữa
Mùi khói thơm mùi hương tóc ngọt ngào
Lòng dậy sóng mà tay buông vội vã
Mùi gia đình sừng sững một thành cao…

NGUYỄN ĐÌNH BỔN

CHẠM MẶT SÔNG TIỀN

href=”https://tuongtri.com/wp-content/uploads/2013/01/nguyenhaithao.png”>nguyenhaithao

Anh chạm mặt sông Tiền
Chiều mùa hạ lung linh bóng nắng
Dòng sông bình thản
Ngửa mặt nhìn anh…

Ơi sông Tiền sóng vỗ mênh mang
Vẫn nồng nàn hạt phù sa thắm đỏ
Tóc ai bay trong chiều lộng gió
Thoang thoảng hương trái ngọt đầu mùa
Thoang thoảng chút kỷ niệm ngày thơ

Anh đón em mỗi chiều tan học
Anh – cậu học trò quê “hôi trâu, khét nắng”
Thương em – cô bé “xóm trên” có nụ cười hiền

Chiều nay chạm mặt sông Tiền
Vô tình chạm vào quá khứ

Cô bé “xóm trên” đâu?
Ôi, một – trời – tiếc – nhớ!
Chỉ dòng sông hiểu thấu được lòng anh…

NGUYỄN HẢI THẢO

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, “Thôi đi, các cậu – Cuộc chiến đã xong.”

nuocmattruocconmua

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, nguyên tác Anh Ngữ “Tears Before The Rain” là một tập sử liệu về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam, do Larry Engelmann, Giáo Sư Đại Học San Jose State thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn nhiều thành phần: người Mỹ, người Việt, kẻ thắng người bại …Những cuộc phỏng vấn này khởi sự từ 1985, sách xuất bản năm 1990. Bản dịch Việt Ngữ do nhà văn Nguyễn Bá Trạc thực hiện năm 1993, xuất bản năm 1995 tại California.

nguyenbatracnmtcm

NGUYỄN PHÚC THIỆU
(Thiếu úy Không quân, Nam Việt Nam)
“Thôi đi, các cậu – Cuộc chiến đã xong.”

Bấy giờ tôi là một phi công trực thăng. Tính đến năm 1975, tôi đã ở trong binh chủng Không quân được năm năm. Trước tôi đóng ở Đà Nẵng và Nha Trang, sau tại Tân Sơn Nhứt, Sàigòn. Không một ai trong chúng tôi có thể tin đất nước này sẽ sụp đổ.

Lúc ấy chúng tôi nghĩ Cộng sản có thể sẽ vào được Sàigòn, có thể chúng sẽ vào tận thành phố như đã xảy ra hồi năm 1968, nhưng chúng tôi sẽ lại đánh bật chúng ra. Chúng tôi dự liệu đất nước này có thể được phân ranh lại, ranh giới sẽ ở đâu đó khoảng Nha Trang.

Ngày 28 tháng Tư, máy bay Cộng sản dội bom ở Tân Sơn Nhứt. Chúng tôi nghe nói phi công là đào binh từ hàng ngũ chúng tôi. Việc ấy không có gì đáng ngạc nhiên. Với một không lực khá lớn như của chúng tôi, việc hai hay ba phi công đào thoát sang phía bên kia là việc có thể dự liệu được. Số còn lại, tất cả chúng tôi đều là những người trung kiên.

Ngày 29 tháng Tư, Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ đổ xuống, vây quanh văn phòng Tùy viên Quân sự. Họ bắt đầu di tản người tỵ nạn ra bằng trực thăng tại địa điểm này. Về phần chúng tôi cứ thế ở trong trại, đợi lệnh. Chúng tôi không biết những ngưòi chỉ huy chúng tôi đã bỏ rơi chúng tôi. Chúng tôi có năm chiếc trực thăng đợi sẵn, chúng tôi cứ nghĩ là sẽ sắp sửa tham dự phi vụ. Có lẽ các cấp chỉ huy chúng tôi đang đi họp mật với Mỹ, họ sẽ trở lại cho lệnh mới. Không ngờ các cấp chỉ huy của chúng tôi không bao giờ trở lại nữa.

Sau khi người Mỹ hoàn tất chương trình di tản của họ, họ cho nổ căn cứ Tùy viên Quân sự. Rồi Thủy quân Lục chiến Mỹ bỏ đi, chúng tôi vẫn cứ ở đấy đợi lệnh.

Đêm 29 chúng tôi nghe tướng Kỳ trên máy truyền thanh. Ông đọc bài diễn văn bảo sẽ ở lại, chiến đấu cho đến chết. Ông kêu gọi chúng tôi cũng làm như vậy. Thế rồi, ông bỏ đi.

Sáng 30 tháng Tư, chúng tôi quyết định không thể chờ ở Tân Sơn Nhứt lâu hơn nữa. Năm giờ sáng là lúc chúng tôi quyết định bay xuống miền Nam bằng trực thăng để tham gia các đơn vị vùng đồng bằng tiếp tục chiến đấu chống Cộng. Khi ra trực thăng, chúng tôi mới khám phá hầu hết đã bị phá hoại. Nhiều cơ phận mất, bình điện bị lấy cắp, xăng cạn gần hết. Chúng tôi tháo gỡ nhặt nhạnh các bộ phận chiếc này đưa sang chiếc khác, rồi dồn xăng, bình điện, lắp vào hai chiếc trực thăng để có thể sử dụng được. Tất cả chúng tôi dồn vào hai chiếc trực thăng này, bay xuống Cần Thơ. Chúng tôi cố gọi máy cho các đơn vị Cần Thơ, nhưng không ai trả lời. Khi đáp xuống, có vài binh sĩ chạy đến hỏi: “Các ông làm gì ở đây vậy? Bộ các ông không nghe điện văn của Mỹ hay sao?” Họ bảo chúng tôi là người Mỹ đã kêu gọi các trực thăng Việt Nam bay hết ra ngoài Đệ Thất hạm đội, giữ cho máy bay đừng rơi vào tay Cộng sản. Chúng tôi thảo luận với nhau, cuối cùng quyết định bay ra Đệ Thất hạm đội.

Chúng tôi bay qua Vũng Tàu. Bay thấp qua thành phố, có thể thấy cả bộ đội Cộng sản ở đây. Bấy giờ máy bay rất ít xăng, chúng tôi lại không rõ Đệ Thất hạm đội ở bao xa. Khi nhìn thấy tàu chiến Mỹ, chúng tôi chỉ có năm phút xăng còn lại trong bình.

Chúng tôi nghĩ khi đáp xuống tàu chiến Mỹ, họ sẽ tiếp tế xăng nhớt, sắp xếp lại đội ngũ. Rồi, sẽ quay về Việt Nam chiến đấu, và người Mỹ sẽ đi cùng với chúng tôi. Chúng tôi tưởng họ gọi chúng tôi ra lập kế hoạch mới mà phản công. Ý kiến ấy nghe khá tốt, chúng tôi vẫn sẵn sàng chiến đấu. Nhưng ngay khi đáp xuống, Thủy quân Lục chiến Mỹ tiến đến tước khí giới. Chúng tôi lấy làm lạ. Rồi họ đưa chúng tôi sang phía bên kia tàu. Rồi chúng tôi thấy họ bắt đầu đẩy chiếc trực thăng. Vài người trong chúng tôi la lên, họ chạy ra, cố ngăn mấy người Mỹ lại. Nhưng Thủy quân Lục chiến Mỹ chặn người của chúng tôi. Họ nói “Thôi đi, các cậu. Cuộc chiến đã xong.”

Vài người trong chúng tôi bật khóc. Khi thấy chiếc trực thăng của chúng tôi rơi xuống biển, biết rằng sẽ không còn trở lại Việt Nam được nữa, vài người cố nhảy xuống biển. Thủy quân Lục chiến Mỹ ngăn họ lại. Nhiều người trong chúng tôi còn gia đình ở lại Sàigòn, họ muốn trở về với gia đình. Nhưng giờ đây, chẳng còn cách gì nữa.

Tôi cảm thấy rất buồn khi nhìn chiếc trực thăng của chúng tôi chìm xuống. Khi thoạt thấy chiếc tàu chiến Mỹ, tôi cứ tưởng mọi việc sẽ ổn thỏa. Nhưng tôi đã lầm. Đối với chúng tôi, cuộc chiến đã xong.

Tưởng niệm thi sĩ Nguyên Sa

phambichhuyen
Tháng Tư có ngày giỗ Nguyên Sa, một nhà thơ lớn của nền văn học VN hiện đại.
Ngoài tài làm thơ, Nguyên Sa còn viết văn, làm báo, mở trường và dạy triết. Nhưng nói đến Nguyên Sa là nói đến Thơ, đến tình yêu đôi mươi, nói đến một vòm trời Tình ái với ngày tháng không thể làm mòn phai những lời đắm đuối.
Anh vẫn nhớ em ngồi đây tóc ngắn.
Mà mùa thu dài lắm ở chung quanh”

hoặc
Áo nàng vàng tôi về yêu hoa cúc.
Áo nàng xanh tôi mến lá sân trường”

…hoặc
“Vẫn hỏi lòng mình là hương cốm.
Chả biết tay ai làm lá sen”

Vâng, Biết bao nhiêu thế hệ đã yêu thơ Nguyên Sa!
*
Thập niên 1960, Những bài thơ tự do của ông xuất hiện tại Sài gòn, thấy cái phong triết học nằm ẩn sâu bên dưới những chữ dùng rất thông thường. Và hình ảnh trong thơ ông ngày càng mới mẻ, lấp lánh một trí tưởng tượng vô cùng phong phú. Thơ lục bát cũng vậy. Hình ảnh và cách sử dụng ý từ táo bạo rất bất ngờ , như bài thơ có tựa là Bất Ngờ sau đây…
Đêm mưa có chỗ bất ngờ
Chỗ thêm ấm áp chỗ thờ phượng nhau
Mai về mẹ hỏi đi đâu
Đắp chăn chùm kín ngang đầu nghe em
Thiên đường có chỗ màu đen
Anh nằm nghe thấy vẫn còn tiếng mưa
Tiếng trời gõ nhịp tiếng trưa
Tiếng cho sâu thẳm tiếng khuya tuyệt vời

Những năm đầu của Thập niên 60 ở Saigon, trong khi người ta còn loay hoay với những bài thơ tình tiền chiến của Xuân Diệu, Huy Cận… thơ Nguyên Sa ra đời đã mang đến một không khí thi ca mới, thổi vào trái tim những tình nhân thời đại những lời tình tự mới, một ngôn ngữ mới.
Thơ Nguyên Sa nói hộ cho tuổi trẻ thời ấy, những ngưòi yêu nhau rất nhiều điều mà họ có thể cảm nhưng không thể thốt nên lời.
Những bài thơ tình của NS đã làm cho tuổi trẻ miền Nam thời ấy thêm phong phú và giàu có.Thơ Nguyên Sa đã và đang làm thành kỷ niệm của những mối tình. Những bài thơ của ông chắc chắn sẽ còn ở lại với chúng ta lâu dài, trong nhiều thế hệ sắp tới.
Bao lâu trái đất này còn những người yêu nhau, thơ Nguyên Sa sẽ còn mãi mãi ở với chúng ta.
Em chợt đến, chợt đi, anh vẫn biết
Trời chợt mưa, chợt nắng chẳng vì đâu
Nhưng sao đi mà không bảo gì nhau ?
Để anh gọi tiếng thở buồn vọng lại ….
Em ở đâu, hỡi mùa Thu tóc ngắn?
Giữ hộ anh màu áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng

Ngôn ngữ của Nguyên Sa trong bài thơ tuy không mới nhưng hình ảnh thật mới được lồng trong khuôn thức của nhịp điệu làm người đọc dễ rung cảm .
“Mắt e ngại như từng con chỉ rối
Em sợ những ngày trời nắng như hôm nay
Em sợ những đường tàu vướng víu như chỉ tay
Không dám chọn lấy một ga hò hẹn…”

Đọc thơ Nguyên Sa như được thấy những ý nghĩ thầm kín của hồn mình. Nó gần gũi. Nó trẻ và sống. Nó chuyên chở từng dung nhan diễm tuyệt, ngay cả trong lo sợ. Thơ Nguyên Sa không nóng bỏng, suồng sã, đam mê, khăng khít như Xuân Diệu hoặc thâm trầm, tế nhị, kiêu sa như Huy Cận mà nó luân lưu, uyển chuyển giữa hai dòng thơ lớn đó của thời tiền chiến. Tuy đã sống ở Paris nhiều năm, đã am hiểu văn hóa Tây phương nhất là triết học, nhưng khi Nguyên Sa làm thơ, ông vẫn giữ được cái phong thái của thi ca Việt Nam
“Mai tôi đi dù hôm nay đang vào thu
Dòng sông Seine đang mặc áo sương mù
Đang nhìn tôi mà khoe nước biếc
Khoe lá vàng lộng lẫy lối đi xưa…”

Xuyên qua ngôn ngữ Nguyên Sa, người đọc hình dung thấy một khung cửa bỏ ngỏ. Từ khung cửa đó, có thể nhìn ra một khu vườn với màu sắc chói chang, với muôn vàn cánh bướm đang múa lượn chập chờn làm rung động những đài hoa ngát nhuỵ. Những cánh bướm của tình yêu, của khát vọng, của dự tưởng, Nguyên Sa dang rộng đôi tay bé nhỏ muốn ôm vào lòng mình. Cái vũ trụ nào đó, mà Nguyên Sa đoán biết hay tìm thấy không phải cái vũ trụ được đo lường và ước đoán bằng chứng nghiệm toán học, bằng những năm ánh sáng, bằng vệ tinh, bằng phi thuyền. Vũ trụ ấy chẳng ai chứng minh được vì nó là Vũ trụ của Tình yêu, do tình yêu hình thành.
Nguyên Sa đi vào thi ca với những bước chân mang nhiều ân tình cho ng ười khác. Người khác ấy , đương nhiên là người con gái, là Tình yêu. Tình yêu đối với Nguyên Sa như ân sủng, như nguồn thương vô tận, với ngọt ngào môi hôn, với rung động tâm hồn, với quấn quít vòng tay, với dịu hiền hơi thở. Mỗi âm thanh ngôn ngữ trong thơ như một lời kể lể, một đắm đuối yêu thương. Tình yêu là chuyện muôn thuở, tình yêu bao giờ cũngvẫn thế
Hãy dựa tóc vào vai cho thuyền ghé bến
Hãy nhìn nhau mà sưởi ấm trời mưa
Hãy gửi cho nhau từng hơi thở mùa thu
Có gió heo may và nắng vàng rất nhẹ

Thơ NS tô đẹp thêm cho tuổi đời mới
lớn:
“Không có anh lấy ai đưa em đi học về
Lấy ai viết thư cho em mang vào lớp học
Ai lau mắt cho em ngồi khóc
Ai đưa em đi chơi trong chiều mưa
Những lúc em cười trong đêm khuya
Lấy ai nhìn những đường răng em trắng
Đôi mắt sáng là hành tinh lóng lánh
Lúc sương mờ ai thở để sương tan
Ai cầm tay cho đỏ má hồng em
Ai thở nhẹ cho mây vào trong tóc…”

Đoạn thơ trên, Nguyên Sa đi rất gần Tế Hanh tác giả thi phẩm Hoa niên thời tiền chiến. Tuổi trẻ nào chả vậy, bước chân thứ nhất vào đời qua ngưỡng cửa nhớ mong, sầu mộng, qua “trời hải đảo”, “tóc bồng bềnh” với “lá gió trăm cây” với “mây trắng lênh đênh” để “lời ngỏ ý sẽ là kinh cầu nguyện”. Chiếc bong bóng tình yêu của thi sĩ thả lên trời cao để mặc cho gió đẩy đưa, mặc cho giông gió cuốn trôi trong nỗi bàng hoàng của biệt ly, thất bại:
Người về đêm nay hay đêm mai
Người sắp đi chưa hay đã đi rồi
Muôn vị hành tinh rung nhè nhẹ
Hay ly rượu tàn run trên môi…
Tôi muốn hỏi thầm người rất nhẹ
Tôi đưa người hay tôi đưa tôi?…”

Bài viết này, Bích Huyền xin phép được riêng kính tặng cô Thúy Nga, cựu GS trường nữ Nữ Trung học Trưng Vương Sàigon, phu nhân thi sĩ Nguyên Sa như một lời cảm ơn “Năm nào cô cũng nhớ đến đám học trò và cho Bich Huyền tham dự ngày tưởng niệm thầy”.

PHẠM BÍCH HUYỀN

SẦU KHÚC BI TRÁNG CA

tamnhien

 

Ngâm khúc Hồ trường Nguyễn Bá Trác
Hát khúc hùng tâm tráng khí ca
Dẫu khắp nhân gian buồn khủng khiếp
Cũng uống cùng ta chén nguyệt tà

Bước Hành phương Nam cùng Nguyễn Bính
Sinh bất phùng thời biết về đâu ?
Mặt đất bao la mà sao chật
Muốn hét gầm lên một tiếng sầu

Sầu thương em hỡi chiều tận thế
Cái ác đang tiêu hủy diệt đời
Trước bao tàn bạo… đành quy ẩn
Lui về tâm sự với mây trôi

Em hỡi ! Trời mây trăng lặng lẽ
Cuối ngàn trùng vẫn gặp trong tim
Niềm thơ ý nhạc ngời vi diệu
Ngay giữa lòng nhau chớ đâu tìm

Tâm Nhiên

CHIA TAY

caovantam

Cuối tháng này em về trên ấy.
Bỏ lại sau lưng những mắt buồn.
Thị trấn trở mùa nên mất ngủ.
Quán cũ ta ngồi trong mưa tuôn.

Những tách café buồn nhỏ giọt.
Em độ xuân thì ghé ở đây.
Trăm con mắt đỏ nhìn xao xuyến.
Nhớ nhỏ lên sầu gởi khói mây…

Em đã ra đi là biền biệt.
Mốt mai đâu dễ cuộc tao phùng?
Em về phương ấy rừng hoang vắng
Nơi này góc phố vọng người dưng..

caovantam