RĂNG ĐEN MàTẤU

khuatdau

Mẹ tôi, nhuộm răng đen. Như cô tôi, bà tôi. Một màu đen như tóc mọc trên đầu, như áo quần họ mặc. Chính hàm răng ấy đã nhai những hạt cơm trắng đầu đời mớm vào miệng tôi. Như chim cánh cụt mớm mồi cho con của nó. Nhớ về mẹ, tôi nhớ nhất hàm răng đen của bà.
Tôi nhớ me tôi, thuở thiếu thời
Lúc người còn sống tôi lên mười;
Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội,
Áo đỏ người đưa trước dậu phơi.
Hình dáng me tôi chửa xóa mờ
Hãy còn mường tượng lúc vào ra:
Nét cười đen nhánh sau tay áo
Trong ánh trưa hè trước dậu thưa.

Những câu thơ hiền hậu nói trên là của Lưu Trọng Lư, ra đời cùng lúc với con nai vàng ngơ ngác*. Những câu thơ không đẹp như trong bài Tiếng Thu, nhưng hình dáng mẹ trong bài Nắng Mới thì đẹp xiết bao. Nét cười đen nhánh sau tay áo ấy còn được nhà thơ của Lá Diêu Bông làm cho nó trở nên rực rỡ hơn:
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng

Trước đó hơn hai trăm năm, Nguyễn Huệ, không là nhà thơ nên không thấy mùa thu tỏa nắng, nhưng ông thấy hồn dân tộc sáng ngời trong chính màu đen từ thủa Hùng Vương cho đến đời anh em ông. Và giữ độc lập cũng chính là giữ cái quyền được để răng đen, được ăn trầu và để tóc dài, Đánh cho nó biết nước Nam anh hùng tri hữu chủ, là để nó biết hữu chủ ngay từ chuyện nhỏ nhặt như thế..
Có thể nói, răng đen là hình ảnh tượng trưng bình dị nhất của dân tộc ta, cho dù chưa được văn minh như người nhưng không thể nói là man rợ. Lại càng không phải là ác độc, tàn bạo, nhất là với chính cha mẹ, anh em, xóm giềng, làng nước.

Vậy mà, sau bốn lăm, cái màu đen ấy bỗng thêm một cái đuôi đáng sợ. Không còn đen nhánh sau tay áo, không còn mùa thu tỏa nắng, mà là răng đen mã tấu!
Tự đâu mà có bốn tiếng xa lạ dường ấy trong tiếng nước tôi, nghe lịch kịch xủng xoẻng như tiếng khảo tra?
Phải trở lại những năm sau cuộc cướp chính quyền, những năm mà xác chết cụt đầu nổi đầy sông. Chính những người cọng sản đầu tiên, thời ấy hãy còn nhuộm răng đen, đêm đêm vác mã tấu đi chặt đầu những ai không cùng đảng với họ, những ai làm việc cho Pháp, Nhật. Chỉ cần gắn cho hai tiếng Việt gian là đi đứt sinh mệnh của một con người. Rồi cũng chính họ, mười năm sau, nhảy lên xác bà Nguyễn Thị Năm đạp cho lọt vào hòm, mở đầu cho những cuộc đấu tố kinh hoàng đến cả mấy chục vạn người chết vì hai tiếng địa chủ.
Bốn tiếng răng đen mã tấu chắc là do thân nhân của những nạn nhân oan ức kia kêu lên trong kinh hoàng và khinh miệt. Nó gọi đúng tên một giai cấp mới, gồm những kẻ mông muội, chỉ biết tin theo Đảng.
Đến nay, họ cũng rơi rụng gần hết theo quy luật thời gian, dăm ba kẻ còn lại thì nghễnh ngãng tuy được tôn là tiền bối cách mạng.
Nhưng con cháu họ, đương nhiên răng trắng bóng, không mặc áo bà ba đen mà veste đen, không xách mã tấu mà xách cặp vi vu bay lượn khắp nơi. Giờ, họ văn minh không thua gì ai, nhưng cái bản năng răng đen mã tấu vẫn còn trong những đạo luật và nghị định mà họ đặt ra, làm chết dần chết mòn một thứ có màu đen muôn thủa là dân đen.

KHUẤT ĐẨU

Tháng tư, 2015
* Sau 75, Lưu Trọng Lư vào thăm chơi miền nam. Có người hỏi ông về con nai vàng trong bài Tiếng Thu, ông bảo nó không còn ngơ ngác nữa vì đã có Đảng lãnh đạo.

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, “Các ông ra khỏi tàu tôi ngay!”

nuocmattruocconmua|

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, nguyên tác Anh Ngữ “Tears Before The Rain” là một tập sử liệu về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam, do Larry Engelmann, Giáo Sư Đại Học San Jose State thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn nhiều thành phần: người Mỹ, người Việt, kẻ thắng người bại …Những cuộc phỏng vấn này khởi sự từ 1985, sách xuất bản năm 1990. Bản dịch Việt Ngữ do nhà văn Nguyễn Bá Trạc thực hiện năm 1993, xuất bản năm 1995 tại California.

Đại úy Nguyễn Quốc Định
(Sĩ quan hải quân)
“Các ông ra khỏi tàu tôi ngay!”

Tôi là sĩ quan hải quân Việt Nam, lúc ấy phụ trách một chiếc tàu tuần tiễu nhỏ, thủy thủ đoàn chỉ có sáu người. Chúng tôi có nhiệm vụ tuần tiễu dọc vùng duyên hải để chặn các tàu chở hàng lậu và tìm Việt Cộng chở vũ khí xâm nhập. Công tác không có gì nhiều. Việt Cộng chỉ mạnh dưới vùng đồng bằng, nhưng ở vùng duyên hải thì không.

Khi nhận chức với cấp bực đại úy năm 1969, tôi hãy còn rất trẻ. Tôi đã theo học trường đào tạo sĩ quan ở Hoa Kỳ. Lúc bấy giờ, khi tôi gia nhập hải quân, người ta đang cần nhiều sĩ quan, nhưng chỉ có một trường huấn luyện tại Việt Nam, nên người Mỹ đã giúp huấn luyện sĩ quan tại New Port, Rhode Island. Tôi được học Anh văn ở Việt Nam sau khi tốt nghiệp khoá huấn luyện căn bản. Họ gửi tôi đi học Anh văn tại một trường Sinh ngữ do các binh sĩ Hoa Kỳ phụ trách, tám tiếng một ngày.

Tôi không biết nhiều về chính trị, nhưng hiệp định Ba Lê làm tôi lo ngại. Sau khi quân đội Mỹ rút, người ta cắt giảm tiếp liệu, chúng tôi bắt đầu thiếu xăng nhớt đạn dược. Đôi khi có vài bộ phận trên tàu hư hỏng, chúng tôi phải chờ rất lâu mới có bộ phận thay thế. Rồi, vì thiếu nhiên liệu, chúng tôi phải rút bớt những chuyến tuần tiễu. Trước hiệp định Ba Lê, tôi có thể cho tàu đi tuần suốt ngày đêm. Sau hiệp định này, chỉ còn có thể tuần tiễu vài giờ mỗi ngày.

Mùa Xuân 1975, tôi ở Qui Nhơn. Sau vụ bỏ cao nguyên, tôi cho tàu đi bốc thường dân và binh sĩ dọc bờ biển, đưa họ lên tàu vào Cam Ranh, rồi chúng tôi lại rút thêm người đưa vào Sàigòn.

Tôi thấy tình trạng lúc ấy rất tệ hại. Không có kế hoạch gì đàng hoàng, binh sĩ phải vứt bỏ tất cả mọi thứ mà chạy.
Khi cuộc rút lui bắt đầu, tàu chúng tôi vẫn còn tiếp tục tuần tiễu. Nhiều người tỵ nạn đã ở vào hoàn cảnh thật khốn cùng. Một số binh sĩ lúc rút lui trở nên điên rồ, họ đã biến thành một bọn thô bỉ. Họ hãm hiếp cả những người đàn bà đi cùng tàu với họ.

Những người tỵ nạn đều chạy ra Phú Quốc. Tôi ở đấy, thấy tình trạng nơi này cũng rất xấu. Họ lại chuyển tôi ra Qui Nhơn. Vì địa bàn chiến tranh càng lúc càng thu hẹp, chúng tôi ngưng tuần tiễu. Từ đó, cấp trên bảo làm gì tôi làm nấy. Nếu họ bảo không làm gì, tôi chẳng làm gì. Các sĩ quan cao cấp có vẻ cũng không hiểu tình hình diễn tiến ra sao, nên họ chẳng ban lệnh lạc gì nữa. Họ giữ cho cấp dưới bình tĩnh bằng cách không làm gì cả, tôi nghĩ họ không còn biết hết mọi chuyện. Các thủy thủ trên tàu hỏi “Tinh hình ra sao” tôi trả lời “Chẳng biết ra sao. Chẳng người nào biết được tình hình ra sao cả.”

Thỉnh thoảng, bản thân tôi tự kiểm soát loanh quanh, xem chừng lỡ có người nhái của đối phương đến phá hoại tàu bè của chúng tôi chăng. Nhưng cũng chẳng có chuyện gì xảy ra.

Thế rồi đến ngày 29 tháng Tư, là lúc tôi hoàn toàn bối rối, không còn có thể hiểu chuyện gì xảy ra. Hôm ấy tàu của tôi đang phải sửa chữa, máy tàu bị hỏng. Chúng tôi ở cách Sàigòn mười dặm, trên sông Sàigòn. Lúc ấy tôi thấy trực thăng Mỹ bắt đầu bay vào.

Thực tình từ trước đến giờ tôi chưa hề nghĩ đến việc rời khỏi quê hương xứ sở. Ngay cả mơ đến chuyện ấy cũng không. Đến ngày 29, họ bảo Hải quân sẽ phải tái tổ chức. Họ bảo tôi phải ra đảo Côn Sơn để tái tổ chức. Sĩ quan Chỉ huy của tôi sẽ điều động hai mươi tàu, trong đó có cả tàu của tôi. Ông ta bảo sáu giờ chiều ngày 29 phải ra Côn Sơn. Khi nghe ông nói thế, tôi nghĩ có lẽ chúng tôi sắp mất nước rồi. Nhưng bấy giờ gia đình tôi còn ở Sàigòn, tôi không muốn bỏ gia đình tôi lại. Cho nên tôi nghĩ tôi phải về Sàigòn đón gia đình tôi trước.

Tôi bèn đi Sàigòn. Nhưng có vài người trong thủy thủ đoàn của tôi không muốn làm như thế. Vài người đi thẳng ra Côn Sơn. Vài người đi với tôi về bộ Tư lệnh Hải quân, nơi này chỉ cách nhà tôi có một dặm, tại Sàigòn. Mấy chiếc tàu lớn của Hải quân đã rời Sàigòn cả. Tôi không rõ mấy chiếc tàu lớn đã đi đâu, họ không cho một ai hay biết gì.

Tôi vào thành phố, lúc ấy nửa đêm. Tình trạng bấy giờ hết sức đông đảo chen chúc hỗn loạn, dân chúng ùa đến tìm mọi cách leo lên mấy chiếc tàu. Tôi lo người ta cướp tàu của tôi, nhiều người là binh sĩ. Thủy thủ của tôi chỉ có năm người, tôi bèn để lại tàu ba người canh gác. Tôi rời tàu với một người bạn, rồi về nhà.

Dân chúng ai nấy tràn ra ngoài đường. Tôi đi bộ qua toà Đại sứ Mỹ, thấy người bu đông nghịt xung quanh cổng chính. Tôi cố kiếm một chiếc xe gắn máy, bấy giờ xe hơi xe gắn máy bỏ ngổn ngang trên đường. Lúc ấy vẫn có giới nghiêm, nhưng thật ra chẳng hiệu lực gì. Trong đêm, tôi thấy có lửa, tôi thấy người đứng trên sân thượng toà Đại sứ, nhưng tôi không thấy trực thăng đáp xuống. Nhiều người cố tìm cách lọt vào trong toà Đại sứ, nhưng tôi nghĩ họ cũng biết không còn cách gì có thể lọt vào được nữa. Lúc ấy là hai giờ sáng ngày 30 tháng tư. Phải mất một tiếng đồng hồ đi bộ tôi mới về đến nhà. Tôi vẫn còn đội mũ sắt, mặc đồ trận, tôi cảm thấy hệt như mình đang sẵn sàng ra mặt trận.

Gia đình tôi hãy còn đầy đủ trong nhà, họ không biết tình hình ra sao. Họ đều sợ. Cha tôi, trước là cảnh sát Sàigòn, ông có quan tâm về việc ra đi, nhưng không biết làm cách nào ra khỏi xứ. Gia đình tôi gồm cha mẹ và tám đứa con nữa, tất cả là mười người tôi phải đưa đi. Trước đó, có một số phi công bên Không quân đã cố đưa gia đình sang Thái Lan, nhưng họ đều bị bắt, bị đưa trở lại Việt Nam. Người ta bảo chúng tôi rằng nếu chúng tôi đi, họ sẽ chặn lại nhốt tù.

Tôi mang về nhà vài quả lựu đạn, vài cây súng. Tôi bảo mẹ tôi nếu Cộng sản vào nhà, tôi sẽ giết và tôi cũng tự sát cùng với chúng. Mẹ tôi bảo tôi muốn làm gì thì làm. Tôi bảo tôi sẽ giết hết mọi người trong gia đình rồi cùng chết với nhau, mẹ tôi nói thế cũng được. Tôi không biết tôi có thể làm thế được không, nhưng tôi đã nói với cả gia đình như vậy. Cha tôi bảo thế cũng xong.

Lúc ấy, tôi không rõ đất nước mất hay còn. Nhưng trước đấy một tuần, tôi đã mang một số vũ khí về nhà, bởi tôi nghĩ nếu bất cứ chuyện gì xảy ra, sớm muộn tôi cũng chết và tôi muốn gia đình tôi có thể tự vệ được khi tôi không có mặt.

Tôi là người trụ cột trong gia đình. Cha tôi không làm gì được nữa. Phần tôi, lúc ấy thực tình không rõ phải đi đâu, hoặc nếu rời Sàigòn rồi làm gì.

Nhưng tôi quyết định phải đi. Tôi nói với cha mẹ tôi rằng nếu muốn đi thì đi với tôi. Tôi có một chiếc xe gắn máy, tôi chở dần hai đứa bé ra cảng, bỏ chúng đấy, rồi quay lại chở hai đứa nữa. Tàu của tôi vẫn còn đấy, có một đám đông bu lại gần nhưng họ không lấy được tàu, vì có lính canh. Tàu đậu giữa sông, mỗi lần tôi mang người trong gia đình đến thì tàu chạy vào, rồi chạy ra, cứ mỗi lần đến, tôi lại phải gọi.

Sau chuyến thứ hai, tôi nhờ người đi về đón số người còn lại trong gia đình tôi. Mấy thủy thủ đâm hoảng, họ lo nếu rời tàu thì tôi có thể bỏ họ mà đi. Tôi hứa bảo đảm vói họ là tôi sẽ đợi cho đến trưa. Vậy mà họ vẫn quyết định cứ ở lại hơn là rời tàu đi đón thân nhân.

Bảy người trong gia đình tôi ra đến tàu. Cha tôi cùng một người em trai và một cô em gái của tôi ở nhà. Họ không đi. Cô em gái tôi là giáo viên, nó và người chồng không muốn đi.

Trong lúc đợi gia đình tôi thì ở ngoài tàu đã có nhiều người lọt được vào trong tàu. Tôi phát điên lên. Mấy người thương gia đưa ra đô-la, đưa ra vàng. Tôi quát: “Các ông ra khỏi tàu tôi ngay!” Tôi rút súng bắn chỉ thiên, đuổi họ đi. Họ van vỉ khóc lóc, nhưng làm sao đủ chỗ cho họ đi. Tôi bảo thủy thủ của tôi ném họ ra khỏi tàu. Vài người có vợ, con, và cả hành lý. Nhưng tôi phải mang gia đình tôi đi. Tôi phải lo gia đình tôi trước.

Cũng nhiều người có súng, nhưng họ không lên tàu vì họ thấy tàu không đi nổi, lúc ấy đã có khoảng bốn chục người trên tàu rồi. Quá đông, chiều dài chiếc tàu chỉ có mười thước, chiều ngang ba thước và có hai tầng.

Chúng tôi đi khoảng 11 giờ sáng ngày 30 tháng Tư, chạy đường sông, ra biển Nam Hải. Chúng tôi phải qua Rừng Sát là nơi đầy Cộng sản, lòng sông rất cạn, qua đây hết sức nguy hiểm. Có hai chiếc tàu nữa cùng đi với chúng tôi. Lúc ấy tôi rất sợ vì lẽ chiếc tàu rất nhỏ, chỉ một quả rốc-két bắn đến là mọi người tiêu hết. Rồi chúng tôi thấy có một chiếc tàu lớn chạy đến, một chiếc tàu dân sự, trên tàu chở đầy những người giàu có. Chiếc tàu này tên là Vong Hong Ni, chở khoảng ba trăm người. Tôi cho tàu cập lại, bắt họ dừng. Tôi rút súng cầm tay, bảo họ nếu không dừng là tôi bắn. Họ sợ, nên dừng tàu, cho tất cả chúng tôi leo lên. Sau đó chúng tôi cắt dây, thả chiếc tàu nhỏ của chúng tôi trôi đi. Đêm hôm ấy chúng tôi đi ngang Vũng Tàu, nghe máy thu thanh nói Sàigòn đã đầu hàng. Tôi tự bảo “Thôi, thế là xong.”

Ra khỏi Vũng Tàu, chúng tôi nhìn thấy Đệ Thất hạm đội Hoa Kỳ. Chúng tôi nghĩ họ sẽ chờ sáng rồi cho chúng tôi lên, nhưng họ biến mất. Rồi một chiếc tàu Hải quân Việt Nam tiến đến, hai tàu chúng tôi cứ thế theo nhau mà đi suốt bảy ngày đêm.

Cuối cùng chúng tôi đến được Subic Bay, Phi Luật Tân, từ đây họ đưa chúng tôi sang đảo Wake rồi đến trại tỵ nạn Fort Chaffee. Sau, chúng tôi đến định cư ở thành phố Nữu Ước.

Sau đó tôi cố viết thư liên lạc vói cha tôi, nhưng không dám viết trực tiếp. Tôi gửi đến địa chỉ mấy người hàng xóm gần nhà để nhờ chuyển cho cha tôi, nhờ vậy em gái tôi biết tin chúng tôi đã tới nơi bình an. Cha tôi bị đưa vào trại cải tạo, ông bị ở đó năm năm. Cha tôi chỉ là một cảnh sát cấp đại úy, tôi không biết tại sao chúng bắt cha tôi đi lâu như vậy.

Ông được thả năm 1980. Ông muốn vượt biên cùng với cậu em trai và gia đình em gái tôi. Tôi tìm cách gửi tiền mua vàng cho họ đi. Nhưng cha tôi không thoát. Chuyến vượt biên ấy chở quá đông. Đáng lẽ chỉ chở được bốn mươi người, nhưng chủ tàu tham lam, hắn đã chở đến một trăm hai mươi người. Hắn tưởng chỉ mất hai ngày là đến được Mã Lai, ngờ đâu phải đi đến bảy ngày đêm. Tàu không có tài công nhà nghề, lại gặp bão trên biển. Cha tôi bị chết đói. Chú em trai, cô em gái tôi và hai đứa con gái của nó sống sót. Nhưng chồng nó chết. Tàu bị rỉ nước, chồng nó cố sức tạt nước cứu gia đình, nên đã chết vì kiệt sức.

Thú thực với ông, cuộc sống của tôi tại đây tốt đẹp hơn. Phần lớn bạn hữu của tôi cũng nói như thế. Nếu có cơ hội về nước thì thực tình tôi chẳng biết làm gì. Đôi khi ban đêm nằm ngủ ở thành phố Nữu Ước này tôi vẫn còn những cơn ác mộng. Tôi mơ thấy mình vẫn đang ở Việt Nam, bị Cộng sản bắt đưa vào trại cải tạo. Tôi bị mộng mị như vậy trong suốt mấy tháng.Bây giờ tôi không còn mộng mị như thế nữa.

_________________

(Ghi chú của tác giả: Sau cuộc phỏng vấn này chỉ một thời gian ngắn, Đại úy Định đã mất vì bị ung thư phổi vào mùa hè năm 1987)

NGƯỜI LÍNH SÀI GÒN BỊ BỨC TỬ

linhphuong

Anh đi qua cuộc chiến tranh
Bốn mươi năm chưa vơi mùi thuốc súng
Bốn mươi năm như ân sủng
Nằm trong ngực người lính tan hàng

Khóc đi hỡi những oan hồn
Bốn mươi năm vất vưởng
Khóc đi hỡi những phế binh còn sống
Đêm từng đêm buốt nhức vết thương xưa

Anh đi qua dâu bể một thời
Một thời đội khăn tang ra trận
Xương máu Việt Nam chảy dài theo con đường di tản
Bốn mươi năm chưa khô

Bốn mươi năm những nấm mồ
Lạnh tanh không nhang khói
Tấm thẻ bài nhìn đôi giày saut đau khổ
Nón sắt buồn ứa lệ khóc rưng rưng

Anh đi qua cuộc chiến tranh
Vành khăn tang còn đó
Người vợ lính năm nào còn đó
Nước mắt chảy ngược vào trong

Đứa con của Ngụy lớn lên đã biết mình mất quê hương
Từ tháng tư người lính Sài Gòn bị bức tử
Từ tháng tư thủ đô treo cờ rũ
Tưởng niệm anh hùng ” vị quốc vong thân ”

Một ngàn chín trăm bảy mươi lăm
Quân lệnh nào bắt VNCH buông súng
Quân lệnh nào bắt chúng ta rút lui không được đánh
Tổ quốc ơi !

Tháng tư người lính Sài Gòn bị bức tử rồi
Bốn mươi năm lòng vẫn mơ về hướng thủ đô

LINH PHƯƠNG

Phượng đầu câu thơ

truongdinhtuan

lạ cách biệt mấy phương trời
ai lên tiếng gọi ta đồi người sông
vui ngồi lên bữa chợ đông
tôi cầm tôi sẽ cầm lòng cho ai

dây nhùng mềm lạc dằng dai
buộc chi là lụa vào bài thơ xưa
con trăng khôi phục lại mùa
chỉ là con sóng cợt đùa thâm tâm

quen gần gũi mấy mưa dầm
tự bày yến tiệc trầm ngâm một mình
đương thánh thót rồi bặt im
là thiên thu hót tiếng chim lạ kỳ

tương tri chi lạ cố tri
cổ thi dở lại man di trở màu
người xưa đâu ngày xưa đâu
còn nguyên vị bữa phượng đầu câu thơ ?

truongdinhtuan

Nỗi đau sẽ không dứt nếu không biết tại sao đau

trantrungdao

 

11156284_972433636113956_6157350543267085527_n

 

Em học sinh Việt Nam nằm gối đầu lên cặp sách, im lìm như đang ngủ trưa trong một bức hình đăng trên một tờ báo Mỹ. Các nhân viên y tế cứu thương chỉ vì quá thương xót mà tưởng như em còn biết đau nên đặt đầu em cao trên chiếc cặp vậy thôi. Không, em không ngủ trưa, em chết rồi. Em là một trong 32 học sinh trường tiểu học Cai Lậy, Định Tường, bị VC pháo kích chết lúc 2:55 trưa ngày 9 tháng 3, 1974. Em bị giết chỉ hơn một năm trước ngày chấm dứt chiến tranh để từ đó dân tộc Việt Nam chịu đựng 40 năm trong độc tài đảng trị đến hôm nay.

Ai giết 32 em học sinh trường tiểu học Cai Lậy, Định Tường?

Các em chết vì đạn pháo kích của Việt Cộng. Vâng. Nhưng đa số tuổi trẻ VN sinh ra và lớn lên sau 1975 không biết sự thật đó. Các em chỉ được nhồi sọ về cái chết của “10 cô gái Ngã ba Đồng Lộc”.

Ngã ba Đồng Lộc thuộc xã Đồng Lộc, Hà Tĩnh, nằm trên con đường chiến lược nối vào dãy Trường Sơn nên trong thời chiến thường bị Mỹ ném bom. Ngã ba Đồng Lộc gắn liền với chuyện 10 nữ thanh niên xung phong bị bom của Không lực Hoa Kỳ ném trúng ngay miệng hầm. Tiểu đội gồm 10 cô gái trẻ. Tất cả đều cùng quê hương Hà Tĩnh và đều chết tức khắc. Người nhỏ nhất là Vũ Thị Hà chỉ mới 17 tuổi.

Ai giết 10 cô gái Ngã ba Đồng Lộc?

Nếu hỏi 100 em học sinh Việt Nam thì đúng 100 em sẽ trả lời do bom của “Đế quốc Mỹ”.

Nhưng nếu không có “đế quốc Mỹ” rồi 10 cô gái ở Ngã ba Đồng Lộc và hàng triệu thanh niên miền Bắc vô tội có chết hay không?

Nếu hỏi 100 em học sinh Việt Nam thì đúng 100 em sẽ trả lời “Không”.

Thật ra, không có Mỹ các cô gái thanh niên xung phong đó cũng có thể chết. Nếu không chết tại Ngã Ba Đồng Lộc rồi cũng một ngã ba khác, một con đường khác, một thôn làng Việt Nam khác. Mười phần trăm dân số Việt Nam đã chết để tham vọng CS hóa Việt Nam của lãnh đạo CSVN và Quốc Tế được hoàn thành.

Số phận Việt Nam vốn đã nằm trong sinh tử lịnh của Mao và các lãnh đạo CS Trung Hoa không chỉ trước Điện Biên Phủ, sau hiệp Geneve, hiệp định Paris, biến cố Hoàng Sa, Trường Sa mà ngay từ đầu thập niên 1920 khi đảng CSVN còn đang thai nghén trong nhận thức của Hồ Chí Minh.

Đường lối chiến tranh của Mao trong bài phát biểu tại Diên An: “Nhiệm vụ trung tâm và hình thức cao nhất của cách mạng là chiếm lấy quyền lực xuyên qua đấu tranh võ trang và giải quyết xung đột bằng chiến tranh. Đây là nguyên tắc cách mạng của chủ nghĩa Mác Lê-nin, và và phải được thực hiện một cách toàn diện tại Trung Quốc và toàn thế thế giới”.

Đường lối đó chi phối toàn bộ chính sách của đảng CSVN. Quan hệ giữa hai đảng CS có khi nắng khi mưa, khi ấm khi lạnh nhưng đường lối đó chưa hề thay đổi.

Đáp ứng lời yêu cầu của Hồ Chí Minh trong chuyến thăm viếng Liên Xô, Trung Quốc và Mông Cổ từ ngày 22 tháng 6 đến 22 tháng 7 năm 1955, các đảng CS đó đã bắt đầu gởi súng đạn ồ ạt đến miền Bắc Việt Nam. Tổng số viện trợ quân sự Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác giúp cho Hà Nội là 2 triệu 362 ngàn 581 tấn, trong đó bao gồm một danh sách dài của các loại vũ khí, từ 3 triệu 600 ngàn khẩu súng cá nhân cho đến 458 máy bay chiến đấu và hàng vạn đại pháo, hỏa tiển nhiều loại.

Tài liệu đó không phải được tôi trích dẫn từ tài nguồn tin của các “thế lực thù địch” hay “thành phần phản động” nào mà là tài liệu của Viện Lịch sử Quân sự Hà Nội.

Trong tác phẩm Trung Quốc lâm chiến: Một bộ bách khoa (China at War: An Encyclopedia) tác giả Xiaobing Li liệt kê các đóng góp cụ thể của 320 ngàn quân Trung Cộng trong chiến tranh Việt Nam:

“Mặc dù đang mạnh dần, Trung Quốc vẫn lo ngại sự hiện diện ngày càng mở rộng của Mỹ tại Đông Nam Á. Trong chiến tranh Việt Nam giai đoạn năm 1964 đến năm 1973, quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) đã lần nữa can thiệp. Tháng Bảy năm 1965, Trung Quốc bắt đầu đưa quân vào Bắc Việt, bao gồm các đơn vị hỏa tiển địa-không (SAM), phòng không, làm đường rầy xe lửa, công binh, vét mìn, hậu cần. Quân đội Trung Quốc điều khiển các giàn hỏa tiển phòng không, chỉ huy các đơn vị SAM, xây dựng và sửa chữa đường sá, cầu cống, đường xe lửa, nhà máy. Sự tham gia của Trung Quốc giúp cho Việt Nam có điều kiện gởi thêm gởi nhiều đơn vị Bắc Việt vào Nam đánh Mỹ. Giữa năm 1965 và năm 1968, Trung Quốc gởi sang Bắc Việt 23 sư đoàn, gồm 95 trung đoàn, tổng số lên đến 320 ngàn quân. Vào cao điểm năm 1967, có 170,000 quân Trung Quốc hiện diện”.

Từ năm 1955 và nhất là từ 1959, khi giới lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam quyết định mở đường Trường Sơn “giải phóng miền Nam bằng phương tiện võ lực”, số lượng cố vấn Mỹ tại miền Nam cũng chỉ là những nhóm nhỏ và tập trung vào việc bảo vệ và xây dựng căn nhà dân chủ vừa được dựng lên.

Hơn bao giờ hết, các nền dân chủ non trẻ tại Á Châu cần sự giúp đở của thế giới tự do. Cũng vào thời điểm đó, các nước Cộng Hòa ở châu Á như Mã Lai, Nam Hàn, Singapore, Đài Loan đang vượt qua quá khứ thực dân hay chiến tranh Quốc Cộng để vươn lên cùng nhân loại. Trên cánh đồng miền Tây nước Việt, trên bến cảng Singapore, trong nhà máy ở thủ đô Seoul, những con người với niềm hy vọng mới đang hăng hái dựng lại căn nhà mới.

Niềm hy vọng của nhân dân miền Nam Việt Nam vừa lóe lên đã vụt tắt vì đảng CSVN quyết định chiếm Việt Nam Cộng Hòa dù phải “đốt cháy cả dãy Trường Sơn”.

Người bình thường chỉ biết nhìn một biến cố từ hậu quả nhưng người có ý thức phải hiểu tận nguyên nhân, bởi vì mọi việc xảy ra trên đời, mọi sự vật có mặt trên đời đều có nguyên nhân.

Cả 32 em học sinh trường tiểu học Cai Lậy, Định Tường và 10 người chị Việt Nam của các em chết ở Ngã Ba Đồng Lộc chỉ chết vì một nguyên nhân: Tham vọng CS hóa toàn cõi Việt Nam của lãnh đạo CSVN và CS Quốc Tế. Dù có Mỹ hay không có Mỹ, dù bằng phương tiện hòa bình hay khủng bố thì chủ nghĩa cộng sản độc tài chuyên chính vẫn phải được thiết lập trên toàn cõi Việt Nam. Mục tiêu đó đã được đóng khung tô màu từ trong đề cương thành lập đảng CSVN 1930.

Do đó, không ai khác mà chính các lãnh đạo CSVN và CS Quốc Tế đích thực là thủ phạm đã giết 2.5 triệu dân Việt Nam trên hai miền Nam Bắc trong đó có 10 cô gái thanh niên xung phong ở Ngã ba Đồng Lộc và 32 em học sinh tiểu học Cai Lậy, Định Tường.

Giờ phút này, tôi tin rằng, trong căn phòng nhỏ ở Virginia, trong căn gát hẹp ở Paris, Santa Ana, Sydney, Berlin… bên những ngọn đèn heo hút ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn, hàng ngàn người Việt Nam quan tâm đến tiền đồ dân tộc vẫn còn canh cánh bên lòng một câu hỏi chưa tìm được cách trả lời trọn vẹn “Tại sao sau 40 năm CSVN vẫn còn tồn tại?” Bởi vì dân tộc ta yếu hèn, phân hóa? Bởi vì đảng CSVN còn quá mạnh? Bởi vì cả hai lý do trên?

Thật ra, dân tộc ta không yếu hèn và đảng CS cũng không quá mạnh, nhưng chính vì các thành phần có khả năng thúc đẩy sự chuyển hóa xã hội không có một nhận thức và tầm nhìn đúng về bản chất của cuộc chiến Việt Nam. Sau 40 năm, một bộ phận không nhỏ người dân Việt Nam vì bị tẩy não nên chưa nhận ra hay chỉ vì bàn tay dính máu đồng bào nên không đủ can đảm thừa nhận nguồn gốc sâu xa của cuộc chiến.

Không hiểu đúng tại sao chủ nghĩa CS đến Việt Nam sẽ không có một cách thích hợp để đẩy chủ nghĩa CS ra khỏi Việt Nam. Và tương tự, không hiểu đúng quá khứ sẽ không có hành động đúng vì tương lai đất nước.

Nỗi đau của dân tộc Việt Nam sẽ không dứt nếu không biết tại sao đau.

Trần Trung Đạo

NHỮNG ĐOẠN RỜI TRÊN THIẾT LỘ THÁNG 3/75

voduychung

DSC_2308-2

DSC_2309
1.
Quẻ ta tháng hạn năm xui
Tuổi ba mươi mốt hạn trời khai trương
Mệnh ta nằm cung ly hương
Suốt trong cuộc lữ bụi đường lấm lem…
2.
Tàu qua bỏ khói lại rừng
Trăm thân mây đụn một vùng lặng im
Thét còi tàu giết tiếng chim
( Tình tôi đá cuội nằm chìm biển xanh…
3.
Mặt ngày tiếp nhận tay mưa
Hồn đêm bôi vẽ, lạnh ùa phủ tôi
Đời chen chúc đủ mặt người
Tôi luôn đến muộn chỗ ngồi tai ương…
4.
Ngồi xuống, đứng dậy, bước đi
Thân quen tôi thiếu…
hồ nghi tôi đầy…

Võ Duy Chung

THÁNG TƯ

tachithan

Tôi cháy lòng tôi những tháng tư
Quê hương biệt dạng tự bao giờ
Nhiều đêm thức với vầng trăng ảo
Ai trả tôi về những giấc mơ

Không lẽ chỉ là mây trắng bay
Sao tôi chưa hết hạn lưu đày
Núi sông cách biệt lâu rồi nhỉ
Nhiều ngày tôi chết chỉ tôi hay !

TẠ CHÍ THÂN

CÓ KHI LÒNG TA

reu

Có khi lòng buồn như giòng sông
Trôi lang thang theo những nhánh rong
Bập bềnh trên nước không hạn định
Cùng những xuyến xao thả xuôi dòng

Có khi lòng mềm như trời không
Mây bâng khuâng năm sắc cầu vồng
Bềnh bồng trên phiến đời hoang vắng
Thương nhớ ơ hờ cõi mênh mông

Có khi lòng hiền như ánh trăng
Đêm sâu bàng bạc, giọt thuỷ ngân
Long lanh mặt nước ngàn ánh bạc
Ta khóc niềm riêng, trăng vỡ tan

Có khi lòng chùng nghe thương thân
Đời yêu hạnh ngộ được mấy lần
Hò hẹn, yêu đương rồi tiễn biệt
Tình động, bước đi không than van

Có khi lòng mềm như cơn mưa
Dạt dào mờ trắng lối tình xưa
Dang tay… nghe nước là thác đổ
Hỡi những ngày xưa, có tình cờ..

Và có khi lòng như chim quyên
Hoài yêu người … ngoan giấc cô miên
Dùm ta giữ chút hương tình nhé
Một chút rồi thôi, chẳng muộn phiền.

RÊU

CÀNG HUÊNH HOANG BỐC PHÉT VỀ ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN, CÀNG KHƠI DẬY NỖI ĐAU VÀ LÒNG HẬN THÙ Nhật ký mở lần thứ 137

tohai

23-04-2015

Kể từ ngày đi vào con đường bờ-lốc-bờ-liếc, mỗi năm cứ gần đến cái ngày 30 tháng 4, mình đều có bài bộc lộ nỗi buồn, nỗi đau, kể cả sự tức cười của mình về những “chiến thắng như chẻ tre”, “những cuộc tiến đánh, “chiếm lĩnh nơi này, căn cứ nọ của… “Mỹ-Ngụy”, những cuộc “tiến công thần tốc, thần tốc nữa” vô tận hang ổ cuối cùng của “ngụy quân, ngụy quyền”, cứ y… như là có thật vậy!

Không buồn cười sao được khi thấy mấy chú tuyên láo ra lệnh “tán rộng”, “hư cấu” về những chiến thắng chẳng đánh mà thắng, của “quân ta”, đặc biệt là sau sự “bỏ cuộc chơi của một bên” khi phía quân lực VNCH đã buông súng sau… Buôn Mê Thuột thì… Đà nẵng, Nha Trang, Phan Rang, Phan Thiết… có ma nào bắn lại đâu mà cứ vống lên là quân ta “anh dũng tiến thần tốc, đánh thắng nơi này, nơi khác”!

11150812_718933464895963_9094510566175435586_n

Các tướng cộng sản đánh chiếm Ninh Thuận như trò… rước sư tử (ảnh1)

Sự thật “cuộc tháo chạy của một bên này” đã được thế giới ghi chép quá nhiều từ ngay những ngày “quân đội VNCH bị phản bội” đó. Vậy mà, tuyên truyền tự sướng lấy được bất kể là vô lý, vô duyên, đến chết cười, cứ mỗi năm, mỗi được phóng đại thêm mà kẻ đại ngôn nhất trong những bài viết, trong những cuộc phỏng vấn đều, nếu không là mấy ông già tướng, tá lụ khụ, vô tên tuổi ở địa phương thì là mấy chú tiến sỹ, giáo sư, mặt non choẹt, óc chất đầy tài liệu tuyên truyền của “đảng họ, mà khi xảy ra “ngày đại thắng” thì đang còn… mặc quần thủng đít hoặc mới oe oe chào đời!

Đặc biệt, năm nay, kỷ niệm 40 năm, khi ở Trung Ương, người ta đã cố gắng bớt bớt những thứ “xấc xược kiêu binh cộng sản” như “Đánh tan quân xâm lược Đế Quốc Mỹ và bè lũ ngụy quyền tay sai” mà thay bằng các cụm từ có vẻ “lịch sự ngoại rao” hơn như “kỷ niệm 40 năm giải phóng (?) Miền Nam, Thống Nhất đất nước”, thì trái lại ở địa phương, thậm chí cả ở Sài-gòn, người ta vẫn không ngừng cho những tên chả đánh nhau với ai bao giờ, lên tivi tuyên truyền, dạy dỗ, kể công hộ, về “nghệ thuật quân sự của đảng ta” trong cuộc “chiến tranh chống Mỹ cứu nước”! Nghe xong lắm lúc tức hơn bị… bò đá!

Thế là mình lại hăm hở… mở computer, “viết thêm cho rõ” những gì mình đã viết về cái chủ đề 30 tháng 4 này suốt 8 năm qua (*)

Nhưng lần này thì mình cho qua các “nỗi đau 30 năm tay này chém tay kia” mà kẻ gây ra lại là những thằng “con hoang nước Việt” ăn phải bả của mấy thằng Tây khùng, muốn “nhân danh giai cấp vô sản đi giải phóng toàn thể loài người” cho nên đã “lạnh lùng nướng chả” cả triệu con em đất Việt để… “đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc!” (Lê Duẩn)

Mình cũng chả cần cãi với ông Võ văn Kiệt (dù hôm nay ông ta vẫn là “thần tượng lãnh tụ cộng sản tốt” với nhiều vị đảng viên đang đòi hỏi tí chút… rân chủ, nhân quyền) là “Không phải triệu người vui thì có triệu người buồn đâu!” Với tôi thì là chỉ có “triệu người các ông” vui thôi, chứ còn 80 triệu dân tôi, chẳng ai vui được! Khi thấy:

– Giải phóng gì, hòa hợp gì mà cả triệu con người, đa số là trí thức của đối phương mà ông tướng Trà, trong lúc bốc nhằng lỡ nói với tướng Dương văn Minh rằng thì là: “Người Việt chúng ta không ai thắng thua, chỉ có đế quốc Mỹ là thất bại mà thôi” còn in nóng sốt trên khắp các báo… thì lập tức, ngay sau đó, có lệnh của “kẻ to hơn ông Trà” cho gom tất cả cán binh cao cấp bên thua trận, vào các trại cải tạo nơi thâm sơn cùng cốc để chết dần chết mòn vì… “học tập” hoặc có sống sót mà về thì cũng chỉ còn là những tấm thân tàn, ma dại nằm chờ chết? (ngay gia đình mình, “gia đình cách mệnh” như lời ông Trần văn Trà tuyên bố hẳn hoi mà cũng có người phải đi học tập đến cả 11 năm vì trót làm…trung tá – luật sư Tòa án Binh).

11178297_718933784895931_250564100257576545_n
(hinh 2)
– Giải phóng gì hòa hợp gì mà nhà cửa, ruộng vườn, xưởng máy, xí nghiệp của bên “được giải phóng” đều rơi vào tay các ông cán bộ sử dụng cho đến tận ngày nay, (riêng cái giới “văn nghệ cách miệng” chuyên nghề ăn theo, nói leo, ở R ra hay từ miền Bắc vô, từ Liên Sô về, cho đến hôm nay nếu có chuyện kê khai sau này, cũng có thể lên đến 5,7 chục tên “đời lên hương”, nhờ được người khác giải phóng miền Nam hộ cho mình! Một số đã bán villa sang trọng lấy mấy ngàn cây vàng “di tản” ra ngoại thành sống… khiêm tốn trong một căn hộ loại trung lưu để lỡ sau này có “biến cố không hay” thì… sẽ thoát khỏi cảnh bị trả thù, treo cổ!

– Giải phóng gì, hòa hợp gì mà dân miền Bắc quanh năm xếp hàng kiếm mớ rau, miếng đậu phụ theo tem phiếu, bỗng… “giầu lên” nhờ “nhận họ nhận hàng” từ miền Nam bị Đế Quốc Mỹ kìm kẹp (!) chia xẻ cho cái xe máy, cái tủ lạnh, thậm chí ít “cây vàng” để cơi nới ngôi nhà đã quá sức chứa đến 3,4 thế hệ! Thế mà, chỉ một đêm, có lệnh của bác ĐM (chiến dịch Z 200 hay 500 gì đấy), đều bị “kiểm tra hành chính”, tịch thu tài sản không lý do, lý trấu gì xất!

– Giải phóng gì, hòa hợp gì mà cả nước bỗng trở thành… súc vật ăn bo bo tranh phần của ngựa, lừa nhưng vẫn phải hô to đảng ta vô cùng sáng suốt!

– Và đặc biệt vô nhị là giải phóng gì mà ba, bốn triệu người đều sợ hãi chạy suốt từ Bắc vô Nam rồi từ Việt Nam đi bất cứ nơi nào trên thế giới dù thân xác có làm mồi cho cá mập đại dương còn hơn là làm công dân của một chế độ, mà rồi đây con sẽ đấu cha, vợ đấu chồng, đồng chí đấu nhau, thậm chí bắn giết, chôn sống nhau để “đấu tranh này là trận cuối cùng”, để “bao lợi quyền ắt qua tay mình?!

11169922_718934058229237_6894001801182487875_n

(ảnh 3)

Chúng tôi không muốn được “giải phóng”!

Những chuyện, tưởng như sẽ được thời gian lấp vùi dùm này, không ngờ với sự phát triển của Internet lại càng ngày càng bị phanh phui khiến các nhà lãnh đạo to nhất phải có lệnh “màn màn” sự huênh hoang lại kẻo… hố to trong kế sách “hòa nhập với thế giới tư bản” nó đang chẳng chịu giãy nữa để…chết!

Đáng chú ý là năm 2015 này có chuyện lần đầu ông Tổng Trọng đưa ra con số 160.000 đảng viên của ông ấy, đã hy sinh cho 2 cuộc Kháng Chiến, nhân kỷ niệm 83 năm (chả biết có ai dám làm chứng không?) thành lập Đảng Cộng sản VN của họ!

Ngay sau đó, ngày 07/04/2015, ông thủ Dũng cũng lần đầu công khai con số 16.000 chiến sỹ (không phân biệt đảng viên hay “bạch vệ” hy sinh (3.000 mất xác cho đến nay chưa tìm được) khi ông tiếp đón đoàn “cựu chiến binh thành cổ Quảng Trị còn sống sót sau 81 ngày đêm chiến đấu rồi… rút! (nhưng vẫn chiến thắng oanh liệt, huy hoàng vì đã góp công cho mấy ông bà đàm phán thắng lợi ở Hội nghị Paris?)

Thôi thì, cứ cho là các ông ấy “phịa” ra để “kể công” với dân đi nhưng chí ít họ cũng phải công nhận là “quân ta” có chết (và chết nhiều chứ chẳng phải chết ít đâu), là “chúng tôi cùng các anh” đã “hy sinh cực kỳ to lớn” cho sự nghiệp “cộng sản hóa đất nước” của họ! Và… vì sự nghiệp của đảng họ thì “10 Ta”, đổi lấy “1 Nó” nào có ý nghĩa gì! Sao không thể gọi là đại thắng được cơ chứ?

Chỉ có điều khi chiến thắng tới mức “100 ta”, “1.000 ta” đổi lấy “1 nó” thì sáng tạo ra chiến thắng” quả là… hơi bị khó! Vậy thì nên giấu biến, lờ tịt nó đi là thượng sách.

Chính đây là trường hợp “tấn công đến tận hang ổ cuối cùng của Mỹ Ngụy” mà chẳng ai bị sứt mẻ đến một chân tơ kẽ tóc (!) rồi cứ lải nhải mãi cái chuyện: “xe tăng ta húc đổ cổng dinh lũy cuối cùng của ngụy quyền bắt sống nội các Dương văn Minh” suốt 40 năm thì… quả là vừa dại lại vừa ngu! Đại tiên sư ngu, tổ tiên sư ngu!

Và đây chính là hai vấn đề lâu nay còn óc ách trong tim, trong óc mình mà năm nay, nhân 40 năm thắc mắc để bụng, mình đã cất công tìm hiểu để biết thêm một loạt vấn đề, mong có một sự đóng góp khác tí chút cùng mọi người cái chủ đề nên có hay không 30 tháng 4!?

Đó là:

1- Sự lờ đi cái “bước chân thần tốc của quân ta” (vì không phải bị đánh nhau với bất cứ 1 đội quân nào!) bỗng… vì sao đến “Cánh cửa thép Xuân Lộc” lại bị “chôn chân” gần nửa tháng trời, dù chỉ còn cách Dinh Độc Lập chỉ có một ngày trên đà “tiến quân như…vũ bão”? Có ai dám bắt chước ông Trọng, ông Dũng nói lên một chút sự thật về cái vụ chạm trán trực diện giữa quân đội Bắc Việt với sự “phẫn nộ cuối cùng của một quân đội anh hùng bị phản bội”? (ảnh 4) Có ai dám nói lên sự trả đũa, khốc liệt bằng 2 quả bom Daisy Cut (còn gọi là bom “tiểu nguyên tử” hoặc “bom con heo”) đã biến bao nhiêu chú lính trẻ miền Bắc vừa rời ghế trường phổ thông, chưa một ngày tập quân sự đã được lùa hết lên tầu, lên các đoàn Molotova “đuổi theo quân địch” và rồi đã bị biến thành tro bụi hết cả, khi đang tập kết ở cuối quốc lộ 20, ngã ba Dầu Giây, khi trên môi vừa thoát ra câu ca tưởng chừng sẽ “át tiếng bom”: “Tiến về Sài Gòn ta quét sạch giặc thù”?

11193376_718936084895701_7260673600692030574_n(ảnh 4)

Nơi này 10.000 quân BV đã biến thành tro bụi sẽ mãi mãi không ai nhắc đến?
Theo những con số có được từ các nhân chứng, tướng tá còn sống “phía bên kia”, khi nói về cái sự “trả thù không mong muốn” này, mình đã phát rợn người về những thông số: Bom Daisy Cut (gọi nhầm là CBU) có trọng lượng 7 tấn, mang mỗi trái 15.000 cân Anh thuốc nổ TNT, khả năng tàn phá tới 3 dặm vuông, chuyên dùng để tạo một nơi đậu tạm thời cho máy bay… Và mình bỗng thấy thương cho những đoàn xe chở đầy lính mới tò te, miệng hát đến hết hơi “Giải phóng miền Nam chúng ta cùng quyết tiến bước” đã bị “bốc hơi” hết trên đường tiến quân “như vũ bão” về nơi mà chỉ còn 80 cây số nữa là có thể đánh dấu chấm hết chiến tranh, lập nên chiến công ở một thời khắc mà ai cũng muốn được ghi tên mình là người đầu tiên bước vào: Dinh Độc Lập hang ổ cuối cùng, bộ chỉ huy của “kẻ thù “!

Không nhiều người được biết rõ về cái bộ mặt ghê gớm của con quỷ chiến tranh hung ác, với hàm răng nanh lòng thòng máu đỏ và da thịt người, nó đã thật sự ăn sống nuốt tươi suốt 11 ngày, có chết chóc, có đổ máu thật sự trên mảnh đất có tên là “cánh cửa thép” Xuân Lộc này!

Về phía tự coi là đã đánh thắng Mỹ Ngụy và tay sai thì, ngoài một vài mẩu tin ngắn từ những ngày 9 đến 20/4/75 qua cuộc chiến đấu anh dũng cực kỳ của quân ta ở Xuân Lộc, kết thúc bằng một bản lên án Đế Quốc Mỹ đã phá hoại hiệp nghị Paris bằng cách “lại xử dụng bom B52 ở VN (?) rồi… im bặt cho đến nay thì… Xuân Lộc vẫn mãi mãi là một cuộc đọ sức thực sự như đã chưa từng xảy ra bao giờ!

2- Tại sao cái bộ máy tuyên truyền khổng lồ độc tôn của họ đã lờ đi cái kết thúc bi thảm của cuộc chiến có thật ở Xuân Lộc mà thay thế bằng một kết thúc “cực kỳ hoành tráng” nhưng chẳng có bao giờ! Đó là “đôn lên” tận trời xanh CUỘC TIẾN CÔNG NHƯ VŨ BÃO VÀO DINH LŨY, HANG Ổ CUỐI CÙNG CỦA BỌN NGỤY QUÂN NGỤY QUYỀN mà hình ảnh chiếc xe tăng T59 (ảnh 5) húc đổ cánh cổng sắt của cái hang ổ ấy, chẳng có một “thằng địch” nào canh gác, không ai ngăn cản, không ai giơ tay hàng, năm nào vẫn cũng được phóng lên báo chí, màn hình to nhỏ cứ như cảnh 16 sư đoàn quân Liên Xô tiến chiếm Reichtag của Hitler trong phim “Công phá Bá Linh” đã chiếu nát bét từ nhiều năm ở miền Bắc!

11193430_718937071562269_3380168829969646401_n

Ảnh chiếc xe tăng 390 trong số hàng loạt xe cùng số đang có khắp nơi
Ảnh chiếc xe tăng 390 trong số hàng loạt xe cùng sô đang có khắp nơi
Vẫn là: những “sự thật cần biết” thì bị giấu biến!

Vẫn là: những sự thật không hề có thì được phóng đại, thêu dệt hết lời!

oOo

Là một người luôn khổ sở vì thấy mình bị bịp, bị coi thường, nên mình đã để cả tháng để đi tìm đọc từ sách ta đến sách Tây, từ những tài liệu, những video clip, những hồi ký, lý luận của cả chục nhà báo, ký giả, tướng, tá có tên tuổi “phía bên kia” để hiểu thêm nhiều điều, để “vỡ lẽ” ra cái chuyện:

– TẤT CẢ NHỮNG AI LÀ CÔNG DÂN (TRUNG THÀNH THIỆT HAY… GIẢ VỜ) Ở CÁI NƯỚC XHCN DUY NHẤT TRÊN THẾ GIỚI NÀY, NẾU KHÔNG BIẾT GÌ ĐẾN INTERNET ĐỀU LÀ NẠN NHÂN CỦA SỰ BỊP BỢM CÓ HỆ THỐNG CỦA NHỮNG KẺ ĐANG NẮM QUYỀN UY COI DÂN CHỈ LÀ CON GIUN CÁI KIẾN!

– NGAY NHỮNG KẺ NẰM TRONG SỰ THẬT, NẮM BẮT SỰ THẬT, CŨNG KHÔNG MẤY AI VƯỢT QUA ĐƯỢC CÁI HÈN VÀ NỖI SỢ KHI CÓ Ý ĐỒ NÓI LÊN 1/100 SỰ THẬT MÀ MÌNH ĐÃ TRẢI QUA

Cụ thể là: Hơn 30 nhà báo, đạo diễn, quay phim nhiếp ảnh bạn cũ, người quen cũ của tôi, (trừ nhà báo Bùi Tín nay đã tị nạn chính trị ở Pháp”), chưa một ai còn sống mà dám há miệng nói lại cái câu của nhà báo Trần Dũng Tiến, khi ngồi chờ sự bàn giao (hay chấp nhận đầu hàng của chính quyền DVM?) từ sáng sớm 30/4 đã vừa ngán ngẩm, vừa sốt ruột lại… đói meo qua cả 2,3 tiếng đồng hồ chờ đợi quân ta lạc nơi mô không biết thì… “Rầm!” Cổng sắt của Dinh độc Lập đã bị húc đổ sập! Mới đầu không ít người cứ tưởng địch… lại phản công! Ai dè chỉ là hành động… “lấy le” mà ngay sau đó Trần Dũng Tiến đã tổng kết một cách hết sức súc tích: “Đúng là một hành động kiêu binh vừa vô duyên, vô học, vô ích và… rẻ tiền!”

Nhưng cái sự “vô duyên”, “vô ích” đó cứ tồn tại năm này qua năm khác mà không một ai “trong cuộc” dám vạch trần ra cho lấy nửa câu, để đến hôm nay không ít người trong nhóm “nhà báo cách mạng” này đã mang những sự thật đau buồn và nực cười đó theo mình xuống tuyền đài!

Vậy thì: Phải chờ đến bao giờ mới có dịp được công khai gọi đúng tên cái cuộc CHIẾN TRANH TÀN KHỐC MÀ NGƯỜI CỘNG SẢN VN GỌI LÀ GIẢI PHÓNG ĐÂY? (theo đề xuất rất quan trọng của nhà văn cựu đảng viên CSVN Phạm đình Trọng)

Bao giờ mới tới cái ngày, chính những người từng vỗ ngực TA LÀ NGƯỜI CHIẾN THẮNG dám nói ra:

1- ĐỂ CHIẾM ĐƯỢC TOÀN BỘ MIỀN NAM VIỆT NAM, NHỮNG NGƯỜI CỘNG SẢN ĐÃ “THÍ MẠNG” BAO NHIÊU TRIỆU NGƯỜI, CHIẾN THẮNG 30 THÁNG TƯ CÓ THẬT LÀ DỄ NHƯ LẤY KHĂN TAY TRONG TÚI QUẦN RA CHÙI MŨI ĐẾN THẾ KHÔNG? SỰ TRẢ GIÁ CHO CHIẾN THẮNG CỦA CỘNG SẢN CHIẾM ĐƯỢC CẢ MIỀN NAM VIỆT NAM LÀ BAO NHIÊU MẠNG NGƯỜI? AI TRẢ?

2- BAO GIỜ CHÍNH NHỮNG NGƯỜI CÒN SỐNG SÓT THUỘC QUÂN ĐOÀN 2 QĐNDVN, NHỮNG NGƯỜI CÓ MẶT TỪ SÁNG SỚM 30 THÁNG 4 NĂM 1975 TẠI DINH ĐỘC LẬP DÁM NÓI: CUỘC TIẾN ĐÁNH HANG Ổ CUỐI CÙNG CHỈ LÀ… CHUYỆN PHỊA?

Tất cả, tất cả đều phải được lịch sử ghi lại đúng như những gì đã xảy ra trên cái đất nước bất hạnh nhất trong các nước thuộc địa của bọn đế quốc tư bản cách đây cả gần một thế kỷ! Nhưng ai, ai sẽ làm cái chuyện vạch trần toàn bộ những dối trá, những bịp bợm về cuộc chiến tranh mà người cộng sản phát động để chiếm lãnh toàn bô Miền Nam Việt Nam ngày 30 tháng 4 năm 1975?

Và mình lại phải bắt buộc nhắc lại cái nhận định bất di bất dịch từ nhiều năm nay của mình. Đó là:

– KHÔNG BAO GIỜ CÓ ĐƯỢC SỰ THẬT CỦA CUỘC CHIẾN TRANH CHO CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN QUỐC TẾ NÀY CHỪNG NÀO CÁI TỔ CHỨC CỘNG SẢN VN KHÔNG BỊ XÓA SỔ!

– KHÔNG BAO GIỜ CÓ ĐƯỢC SỰ HÒA HỢP TRONG 90 TRIỆU CON HỒNG CHÁU LẠC NẾU NHỮNG KẺ CỘNG SẢN GÂY TỘI ÁC KHÔNG BỊ VẠCH TRẦN VÀ BỊ XÓA SỔ VĨNH VIỄN !

Và mình lại xin đóng góp sức mình trong bài viết có tên: CÀNG HUÊNH HOANG BỐC PHÉT VÊ ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN, CÀNG KHƠI DẬY NỖI ĐAU VÀ LÒNG HẬN THÙ là như rứa đấy!

(*) Để tìm hiểu thêm cái sự “ngừng bước chân thần tốc” hãy gõ vào google mấy chữ “Trận chiến Xuân Lộc” để mà … phát hoảng về cả triệu thông tin mà sau đây là một đường link mà mình muốn giúp các bạn trẻ, không có nhiều thời giờ “bám mạng” như mình: Có phải là Huyền Thoại …: 17.04.1975: Trận Chiến Xuân Lộc

Ảnh 1: Tiến đánh như trẻ tre hay như… trẻ con chơi đùa vậy?

Ảnh 2: Giải phóng cho mấy anh khỏi kiếp sống làm người dân nước….tư bản bóc lột

Ảnh 3: xin lạy các ông cả nón, chúng tôi không muốn được “giải phóng”!

Ảnh 4: Đây! nơi có đánh nhau thật sự, nơi đã có trên 10.000 người trở thành tro bụi bởi 2 quả bom Daisy Cut

Ảnh 5: Xe tăng nào là xe tăng “huyền thoại” mà nơi nào cũng có để triển lãm thành tích húc đổ dinh lũy, hang ổ cuối cùng của ngụy quân ngụy quyền nhỉ? Hiện nay đang có 4 chiếc trùng số khắp 2 miền!?

TÔ HẢI

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, “Đối với nước Mỹ, cuộc chiến đã xong”

nuocmattruocconmua

ROBERT HARTMANN
(Cố vấn của Tổng thống Ford)
“Đối với nước Mỹ, cuộc chiến đã xong”

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, nguyên tác Anh Ngữ “Tears Before The Rain” là một tập sử liệu về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam, do Larry Engelmann, Giáo Sư Đại Học San Jose State thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn nhiều thành phần: người Mỹ, người Việt, kẻ thắng người bại …Những cuộc phỏng vấn này khởi sự từ 1985, sách xuất bản năm 1990. Bản dịch Việt Ngữ do nhà văn Nguyễn Bá Trạc thực hiện năm 1993, xuất bản năm 1995 tại California.

 Tổng thống Ford đọc bài diễn văn ở Đại học Tulane ngày 23 tháng 4, 1975 xảy ra lúc Nam Việt Nam đang tan rã, lúc chúng ta đang cố đưa người rời Sàigòn. Vào thời điểm này, quan hệ duy nhất là tìm cách bảo vệ các đồng minh hãy còn đứng ở phía chúng ta, và đưa người của chúng ta ra khỏi xứ ấy được an toàn bao nhiêu, tốt bấy nhiêu. Việc di tản đã được quyết định trước khi xảy ra vụ đọc bài diễn văn này. Tuy nhiên cái thời điểm tuyên đọc bài diễn văn là một vấn đề: Nó tạo ra sự kiện đột nhiên chúng ta tuyên bố di tản, và chúng ta có rất nhiều lý do để tin rằng người miền Nam Việt Nam có thể quay ngược lại, ngăn cản không cho chúng ta rút khỏi xứ. Lúc ấy, họ vẫn đang còn kiểm soát phi trường và các đường lộ chung quanh Sàigòn.

Bấy giờ chúng ta ở vào một vị thế đình trệ. Trước đó, Tổng thống (Ford) đã ra Quốc hội xin thêm ngân khoản, mà căn bản chính là để chống đỡ cho chính phủ Nam Việt Nam ngõ hầu chúng ta có thể rút ra một cách trật tự. Nhưng Quốc hội đã không thấy cái quan điểm ấy, quốc hội đã từ chối cấp thêm tiền. Việc này xảy ra sau khi tướng Fred Weyand sang Việt Nam, ông trở về với một bản lượng giá khá u ám. Ông cho rằng: Nếu muốn giữ được bất cứ phần nào của Nam Việt Nam, ngay cả Sàigòn đi nữa, chúng ta cũng phải tăng cường thêm nhiều trợ giúp. Những trợ giúp ấy không phải bằng bộ binh, mà bằng không lực từ các hạm đội. Đây sẽ là một ràng buộc khá lớn lao mà Quốc hội và nước Mỹ sẽ không ủng hộ. Và, điều ấy cũng chỉ làm chậm lại phần nào những gì trước sau cũng xảy ra, trước sau cũng không tránh khỏi. Phần chúng ta thì không còn muốn phải bắt đầu tất cả mọi việc trở lại nữa, cho nên vào thời điểm ấy, vấn đề được đặt ra một cách giản dị: Chúng ta sẽ rút ra như thế nào, chứ không phải là chúng ta sẽ rút đi hay không.

Trước khi xảy ra vụ đọc bài diễn văn này, chúng tôi đã có một cuộc thảo luận. Trong buổi ấy, Tổng thống (Ford) bảo tôi rằng ông muốn đặt trọng tâm vào tương lai, chớ không còn muốn xoáy vào dĩ vãng. Cứ giả dụ bọn trẻ, bọn sinh viên ở Đại học Tulane mặc dầu không có tinh thần phản chiến quá khích như tại nhiều Đại học khác, nhưng lúc ấy tinh thần chống chiến tranh Việt Nam đã lan truyền khắp các Đại học. Cho nên thay vì tiếp tục gặm nhấm dĩ vãng để cố biện minh cuộc chiến, ông muốn nói với thế hệ này về những gì có thể làm cho tương lai. Ông muốn đặt cuộc chiến ra đàng sau. Ông bảo tôi trong buổi thảo luận rằng “Tôi không hiểu tại sao chúng ta cứ phải mất thì giờ lo lắng về một cuộc chiến mà cho đến nay, trong sự quan tâm của chúng ta, cuộc chiến đã xong.” Tôi bèn nói: “Vâng, vậy tại sao tổng thống lại không phát biểu như thế?” Bấy giờ chúng tôi đang tìm kiếm một luận đề căn bản cho bài diễn văn.

Ford bảo: “Tôi e Henry (Kissinger) không thích như thế.” Tôi nói: “Tại sao ông lại phải lo chuyện Henry thích hay không thích? Ông là Tổng thống, nếu ông cảm thấy thế, ông cứ phát biểu như thế. Đôi khi, đến một thời điểm phải nói, thì chính ông phải nói ra, vậy tại sao lại không nói ra lúc này?” Ông bảo: “Tôi sẽ suy nghĩ chuyện ấy. Nhưng ông cứ xúc tiến xem thử ông có thể viết gì trên giấy. Bây giờ thì đừng nói gì với ai về chuyện này cả.”

Hiển nhiên, ông có vẻ thích cái ý tưởng mà ông đã đưa ra. Nhưng ông vẫn còn muốn xem thử Henry (Kissinger) và một số nhân vật quân đội khác sẽ phản ứng như thế nào.

Người phụ trách soạn thảo bài diễn văn là Milton Friedman. Tôi là người duyệt lại. Đầu tiên, chúng tôi bỏ ra ngoài cái đoạn văn nói về “cuộc chiến đã xong.” Tất cả bài diễn văn chỉ nói về những cơ hội vô giới hạn sẽ dành cho bọn trẻ trong đại học để làm những chuyện tích cực hơn là xuống đường phản đối. Chúng tôi viết: Không còn chuyện gì nữa để mà phải phản đối, phải lo học tập để mà xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn. Thế thôi.

Trong toà Bạch ốc, chúng tôi có lệ luân chuyển bản thảo các bài diễn văn cho những người quan tâm, họ cần biết trước những gì Tổng thống sẽ đọc để khỏi bỡ ngỡ, hoặc để chuẩn bị phản ứng nếu có ai hỏi đến. Những người mà chúng tôi lưu chuyển bản thảo có thể sửa đổi tùy theo tính chất và đề mục các bài diễn văn. Tuy nhiên luôn luôn phải có một nhóm người duyệt đọc, họ phải ghi chú trên các bản sao. Nếu có gì họ muốn thay đổi, chúng tôi sẽ chuyển ý kiến đến cho Tổng thống quyết định. Trong toà Bạch ốc có một nhóm nhân viên tối cao, thường gồm những người liên hệ đến chính sách ngoại giao và quân sự, như là Bộ trưởng Ngoại giao và các thành viên Hội đồng an ninh quốc gia. Bấy giờ Bộ trưởng Ngoại giao là Kissinger, Cố vấn An ninh Quốc gia là Brent Scowcroft-. Cả hai đã làm việc chung với nhau từ lâu, sự suy nghĩ của họ rất tương đồng cho nên Scowcroft biết rất rõ những gì ông ta không cần đưa cho Kissinger xem, và những gì ông phải cho Kissinger biết.

Bản diễn văn này đã được lưu chuyển mà không có ai thắc mắc gì nhiều. Sau khi mọi người cho ý kiến, Milton sửa chữa, chúng tôi lên máy bay đi New Orleans. Chúng tôi đã đưa bản diễn văn cho nhân viên báo chí, nhưng trên máy bay, Tổng thống lại đem ra duyệt và sửa chữa lại. Luôn luôn ông thường tự tay sửa chữa các bài diễn văn đôi chút. Trong lúc ấy, Milton và tôi thảo luận để hoàn tất đoạn tuyên bố về Việt Nam. Đoạn ấy ghi là “đối với sự quan tâm của người Mỹ, cuộc chiến đã xong.” Tổng thống chấp thuận rất mau chóng. Chúng tôi sẽ cho đoạn này vào bài diễn văn. Chúng tôi đã làm như thế. Vậy đó, phần tuyên bố này vốn không có trong bản văn trước đấy chúng tôi lưu chuyển, nhưng đã có trong bài viết mà chúng tôi phát ra trước khi Tổng thống đọc. Đoạn ấy được bỏ vào giữa bài viết một cách vô tội. Nếu đọc nó trong toàn bài thì không có vẻ gì gây xúc động mạnh cả, và vào thời điểm này, còn ai chẳng biết chúng ta đang rút khỏi Việt Nam?

Đám cử tọa hôm ấy là một đám cử tọa rất nồng nhiệt. Họ nồng nhiệt chào đón Tổng thống. Và khi ông nói, thỉnh thoảng họ vỗ tay cổ võ. Đầu tiên, Tổng thống diễu cợt đôi chút về banh bầu dục hoặc một chuyện khôi hài gì đại khái như thế. Rồi đến đoạn về Việt Nam, ông nói: “Ngày nay nước Mỹ có thể lấy lại được niềm kiêu hãnh đã có từ trước khi xảy ra chiến tranh Việt Nam. Nhưng niềm kiêu hãnh đó không thể đạt được bằng cách tái tham dự một cuộc chiến mà đối với sự quan tâm của nước Mỹ, cuộc chiến đã xong…” Thế là cả thính đường bỗng bừng bừng lên tiếng hoan hô, làm cho Tổng thống không còn kịp nói dứt câu. Bọn trẻ nhảy dựng lên. Chúng la ó hò reo ầm ĩ làm cho các nhân viên báo chí cũng ngạc nhiên. Rồi tất cả các câu khác mà Tổng thống nói đều bị biến mất. Câu chuyện xảy ra là như thế. Tổng thống cố làm cho họ dịu bớt xuống, nhưng rồi đám cử toạ lại nhảy dựng lên, la ó hoan hô nhiều lần nữa, chẳng khác gì không khí của các buổi đại hội tranh cử quốc gia. Tôi thực lấy làm ngạc nhiên. Tôi ngạc nhiên về cái cường độ mãnh liệt như vậy. Quả nhiên, đó chính là điều mà tất cả mọi người đều đang mong đợi được nghe.

Tổng thống lộ vẻ hân hoan. Về việc này, ông lấy làm hết sức phấn khởi về thành quả của chuyến đi. Các Tổng thống đều thích được nghe hoan hô, ông cũng vậy. Thế rồi Ron Nessen chuyển lời lên phòng Tổng thống là báo chí muốn được phỏng vấn ông trên chuyến bay về Hoa Thịnh Đốn. Tôi cản việc ấy, nhưng Tổng thống gạt đi. Ông bảo ông sẵn sàng đấu với báo chí, và họ không phải là đối thủ của ông! Phần lớn các Tổng thống đều nghĩ như vậy, và trong hầu hết các trường hợp thì đúng như vậy. Thế là ông quay ra khu báo chí trên chiếc máy bay, tôi đeo theo ông. Các phóng viên bắt đầu đặt một số câu hỏi. Một trong những câu hỏi là: “Tổng thống có chắc chắn những gì ông tuyên bố không, và Tổng thống có biết trước đây không ai từng tuyên bố việc này không?” Ông trả lời: “Vâng, đến một lúc việc này tất phải chấm dứt, và mặc dầu kết quả không như ý tôi hy vọng, tuy nhiên, đây vẫn là chung cuộc.” Thế rồi có ngưòi hỏi “Kissinger có chấp thuận bản diễn từ không?” Ông trả lời: “Không!” Các Tổng thống đều không thích chuyện có người bảo phải nói cái này, nói cái kia, cái gì được nói, cái gì không được nói, mà đặc biệt vói Kissinger là người thường có khuynh hướng như thế.

Đấy là lúc chúng tôi quả đang bị phiền nhiễu. Tôi bèn cắt lời ông mà nói: “Thưa Tổng thống, chúng tôi đã luân chuyển để duyệt bản thảo bài diễn văn này theo thông lệ. Tôi nghĩ là tướng Scowcroft đã ký trên bản thảo. Chúng tôi cho rằng bài diễn văn cần phải được quý vị phụ trách về ngoại giao chấp thuận.”

Tôi nghĩ Kissinger không có mặt ở Hoa Thịnh Đốn khi chúng tôi luân chuyển bản thảo bài diễn văn. Nhưng việc đó chỉ là tình cờ, chứ thực ra, phần tuyên bố ấy đã không có trong bản thảo đầu tiên.

Tổng thống bèn phản ứng lại lời tôi với cái cách gần như là: “Câm mồm lại khi tôi họp báo! Tôi không cần ai phải dìu dắt cả!”

Sáng hôm sau điện thoại văn phòng tôi reo, Tổng thống gọi. Ông bảo: “Bob, Ngoại trưởng Kissinger đang có mặt ở đây…” Giọng nói của ông như chứa đựng một cái cười thầm giữa ông và tôi về một chuyện chúng tôi đều biết “…Xin ông đến đây và đưa Milton Friedman đến với ông.” Milton Friedman hôm ấy đang còn ngủ muộn, văn phòng tôi lại đặt ngay ở hành lang phía Tây, tôi bèn bảo: “Thưa Tổng thống, tôi đến ngay bây giờ.” Rồi tôi kéo theo Paul Theiss, Chủ nhiệm phòng Soạn thảo Diễn văn, mặc dù anh ta không liên hệ gì đến cái trò xiếc này, nhưng tôi cần có người đi theo mà làm chứng.

Kissinger không hăm he gì tôi. Tuy nhiên sau nữa, trong vụ này tôi biết rõ ai chịu trách nhiệm, nhưng tôi không thể nói ra. Cho nên nếu Kissinger cần nổi nóng với một người nào thì tất nhiên phải là nổi nóng với Friedman hoặc với tôi, nhưng tôi không thể phản bội lại Tổng thống được.
Thế là Theiss và tôi cùng bước vào phòng Bầu Dục. Kissinger đang đi lên đi xuống trên tấm thảm trước bàn làm việc của Tổng thống. Tổng thống Ford bảo tôi: “Bob, ông Ngoại trưởng đang quan tâm về một vài điểm gì đó trong bản diễn văn của chúng ta hôm qua mà ông ấy bảo là không được hay trước.” Tôi bèn nói: “Dạ, chúng tôi đã có chuyển cho Tướng Scowcroft. Chúng tôi không rõ ổng có đọc hay không, nhưng có chữ ký của ổng trên bản văn, chữ ký ấy chắc là có giá trị như bất cứ chữ ký của ai ở trong căn phòng này thôi.” Cả Tổng thống và tôi đều biết rõ câu tuyên bố ấy lúc đó không có trong bản văn, nhưng Kissinger không biết chuyện này. Và tôi nói: “Tất nhiên Tổng thống cũng có thay đổi chút đỉnh lúc ở trên máy bay, Tổng thống vẫn thường làm như vậy.” Thế là Henry Kissinger gầm lên: “Những chuyện thế này cần phải chấm dứt! Tôi không thể ngẩng mặt lên nhìn Đại sứ các nước về một lời tuyên bố quan hệ như thế mà tôi lại không được hay biết gì! Tôi thực mất mặt!” Đợi cho Henry Kissinger nói hả, Tổng thống nhìn tôi mà bảo: “Vâng, thực là một sự hiểu lầm đáng tiếc, có sơ suất đây. Bob, từ nay đừng để những chuyện thế này xảy ra nữa nhé!”

Tôi đáp: “Thưa Tổng thống, vâng!” Paul cũng nói: “Thưa Tổng thống, vâng!” Chúng tôi bèn ra vẻ ăn năn sợ hãi rất đúng cách, rồi rút lui.

Kissinger đang lúc khá cáu giận. Ông có ý quy trách Friedman là người biên soạn bản thảo gốc về việc đã lén đưa đoạn văn ấy vào phút cuối. Nếu tôi nhớ không nhầm ông ta đã đập bàn Tổng thống mà hăm he Friedman. Trong dịp này ông không hăm he tôi, nhưng trước đây ông ta đã từng làm tôi vài trận.

Tổng thống Ford đã trực tiếp điều động kế hoạch di tản cuối cùng vào lúc một giờ đêm, giờ Hoa Thịnh Đốn, nhằm ngày 28 tháng Tư. Đó là giây phút chót khi họ bảo Đại sứ Martin phải đi, lúc ấy ông ta còn chần chờ về chuyện cuốn cờ mà rút. Tôi có mặt tại toà Bạch ốc trong thời gian di tản này. Những ngày cuối ấy thực căng thẳng. Người Mỹ đến đông nghẹt ở toà Đại sứ, và đám đông dân chúng cứ bám quanh bên ngoài mà nện lên cửa. Lúc ấy tại đó chẳng có bao nhiêu lính Thủy quân Lục chiến để đương đầu cho đủ nếu đám đông trở nên mất kiểm soát.

Đám đông này không giận dữ bạo động, nhưng họ đều muốn được rời đi khỏi xứ.

Ford không hài lòng về tình trạng chiến cuộc. Kể từ thời Johnson làm Tổng thống, ông đã từng luôn luôn tỏ ra có thiện cảm với giải pháp tấn công toàn diện và chấm dứt chiến cuộc một cách nhanh chóng trong thời hạn một tháng. Tuy nhiên Mỹ đã thua trận chiến này từ trước khi Ford trở thành Tổng thống, cho nên mối quan tâm chính của ông về vấn đề Việt Nam chỉ là làm sao rút chúng ta ra với một phương cách hợp lý và chấp nhận được thôi.

Vào những giây phút cuối cùng, chúng ta đã đạt được một vài thỏa mãn trong việc triệt thoái mọi người ra mà chỉ thiệt mạng có hai người lính Thủy quân Lục chiến. Sau tất cả mọi sự việc này, một đề mục đáng quan tâm đã được đặt ra là chúng ta trở thành một đồng minh không đáng tin cậy. Tuy nhiên chính các đồng minh của chúng ta ở Âu Châu đã hò reo mà yêu cầu chúng ta rút khỏi Việt Nam. Chính chúng ta đã lưu ý đến các yêu cầu của họ đấy chứ?

Diễn trình rút khỏi Việt Nam cũng gắn liền với một cuộc vận động trên tầm mức rộng lớn hơn, đó là công cuộc bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Trung Quốc. Người Tàu muốn chúng ta rời Việt Nam để người Nga khỏi có lý do lộn xộn trong khu vực. Chúng ta đã chiến đấu một nửa cuộc chiến ở đấy với cái ấn tượng sai lầm rằng cả người Nga lẫn người Tàu đều nhiệt thành hỗ trợ Việt Nam.

Nhưng sự kiện hiển nhiên đã chứng tỏ: Chỉ người Nga mới thực sự hỗ trợ Bắc Việt, còn người Tàu chỉ biểu dương một bộ điệu hỗ trợ ngoài mặt mà thôi. Người Tàu không muốn người Nga có mặt trong vùng. Nhưng bây giờ người Nga vẫn hiện diện và người Tàu lại vẫn đang lo lắng chuyện này!