NGOẢNH ĐẦU

Hắn gọi điện thoại hỏi:
“Qua chở tao ra sân bay được hông, tối 7 giờ?”
Tui trả lời được, nhưng ngờ ngợ, thằng này có bao giờ lết tấm thân “lầm lì củ mì” ra đây đâu, và gặp chuyện lạ theo quán tính nên hỏi lại, chứ bình thường hắn nhờ điều gì, một là theo vậy, hai là không, không hỏi không han bởi hắn sẽ nói là chuyện của tao, không hé môi chi cả:
“Mày làm gì ở sân bay?”
Lần này hắn đáp không hằn học, thêm một chuyện rất lạ lùng:
“Qua đi rồi biết.”
Đúng giờ, tui tới. Hắn đã ngồi chờ sẵn. Thấy tui, hắn đứng dậy ôm từng người trong gia đình, “tam đại đồng đường” không đủ mặt hết cũng cỡ chừng mười lăm người đứng ngồi chậc cứng trong căn nhà bé tí tẹo. Song, hắn quẩy cái ba lô lên vai bước ra, leo lên xe nói gọn lỏn:
“Đi mậy.”

***

Chạy gần cuối đường Hồng Hà hay Bạch Đằng gì đó, tui chẳng nhớ nổi những con đường lằng ngoằng khu này, có nghĩa là sắp vô đường Trường Sơn, cũng có nghĩa còn chút xíu thôi là vô sân bay Tân Sơn Nhứt. Hắn dòm đồng hồ, rồi nói:
“Còn bốn chục phút. Tấp vô uống ly cà phê.”
Hắn vẫn “lầm lì củ mì” như bình thường, không tỏ một chút thái độ gì là khác thường. Tui định hỏi mày đi đâu hả? Rồi nghĩ… thèm hỏi hả mậy, nên thôi, chuyện của mày, nói hay… để tao sốt ruột kệ… tao đi hen.
Nhấm ngụm cà phê thì hắn mở miệng, rất may tui cũng vừa hết sức chịu đựng “thèm hỏi hả?”:
“Tao đi nước ngoài.”
Tui giựt mình cái tưng, trợn mắt ngó hắn cả chập, hồi sao mới trấn tỉnh, buộc phải hỏi lại:
“Mày đi nước ngoài?”
“Ừ.”
Tui lắc đầu:
“Cái thằng, hết biết. Đi nước ngoài mà làm như đi… chợ, tới giờ xách giỏ ra kêu đi là đi. Dẫu biết mày thuộc hàng nói cởi áo là cởi cái rột, chẳng lèm bèm lôi thôi, nhưng đi nước ngoài là đi biền biệt, có phải ngày một ngày hai chi đâu, sao hông báo trước vài ngày, dù gì cũng có vài anh em bạn bè góp mặt, làm bữa liên hoan nho nhỏ đưa tiễn.
“Vui vẻ gì mà liên hoan hở mậy?”
Tui… mủi lòng quá, nhứt là nghe lại được từ mà thuở nhỏ tụi tui hay xài. Có bịch sinh tố đá, cây cà rem mát lạnh chia nhau mút thì khen, và hỏi cũng là trả lời – Ngon hở mậy? Bực bội nhau cũng nói như vậy – Ngon hở mậy, muốn bặc co tay đôi hông mậy? Coi chung được bộ phim hay, bộ phim hài cũng thế – Hay hở mậy? Vui quá chừng hở mậy?… Cả đám lớn lên đi kèm với hở mậy? Từ xóm Chùa qua xóm Đình, từ xóm Đình lên xóm Miễu, từ xóm Miễu tới xóm Đạo, xa xa hơn là xóm Gà, xóm Cây Quéo, Cây Thị, Cầu Bông, Cầu Kiệu… từ con hẻm băng ra con đường, từ con đường chui vô hóc bà tó khác…
Tui nói tiếp:
“Thôi thì bạn bè có thể bỏ qua, cũng chẳng cần phải “thanh minh Thanh Nga” làm chi. Nhưng từ lúc qua chở mày, thấy mày bước ra là một mạch đi tới giờ, hông thèm ngoảnh đầu lại. Tao thấy quá bất nhẫn với mảnh đất, với ngôi nhà, chẳng một chút lưu luyến gì sao hở mậy?”
Hắn uống một ngụm lớn, tuy vẫn không tỏ thái độ nhưng tui nhận ra có chút nghèn nghẹn trong hắn, hắn nói nhỏ hơn:
“Có gì mà lưu luyến? Có khỉ mốc gì đâu?”
“Chí ít cũng vì nơi chôn nhau cắt rún chớ?”
Hắn quay qua dòm thẳng vào mặt tui với vẻ ngạc nhiên. Vốn dĩ bản tánh phớt tỉnh Ăng Lê như cố hữu trong máu, cùng với ngay từ đầu cho tới lúc này hắn vẫn lơ đễnh với tất cả, nên cái nhìn chăm chú và ngạc nhiên làm tui quá đỗi… ngạc nhiên. Hắn nhún thêm vai một cái:
“Chôn nhau cắt rún? Nó ở nơi đâu? Chắc mày nghĩ là ở ngôi nhà chút é đó chứ gì? – Rồi hắn chầm chậm lắc lắc đầu, trầm giọng xuống: Hông, hông ở đó, mà ở đâu tới bây giờ tao cũng chịu thua, chẳng biết ở chỗ nào. Địa danh ghi trên giấy khai sanh tao còn chẳng biết nó có tồn tại hay không. Ngôi nhà chỉ là địa chỉ trú ngụ mà thôi.
Rồi hắn kể rõ hơn về chuyện này. Cũng ngắn gọn, nhát gừng, đủ để hiểu.

***

Ba má hắn cưới nhau đã bốn năm, nhưng chuyện con cái, bầu bì thì cứ… bí rị. Lâu lâu ông bà nội, anh chị em phải nhắc khéo. Thiệt tình, không hẳn bị bí mà bởi họ muốn bí. Điều ba má hắn sợ nhứt là sanh đứa con ra chẳng giống ai, sợ bị què quặc, bị bịnh tật… thì rất tội nghiệp cho con trẻ. Ba má hắn rất bình thường, chẳng bị làm sao hết, nói trắng ra là chẳng phải yếu sinh lý gì cả nếu không muốn nói ngược lại là rất mạnh mẽ chuyện đó. Chuyện nghe có vẻ kỳ cục nhưng thiệt tình là vậy, trên đời có rất nhiều chuyện tréo ngoe.
Mấu chốt ở lúc… “làm chuyện đó”, những ngày mới cưới về họ còn chẳng dám nữa là, dần dà ráng đánh bạo nhưng cũng chẳng dám để xảy ra độnh tác mạnh chứ đừng nói là rên rỉ. Họ sợ lắm, họ ngại lắm, ai lại không sợ, không ngại khi dòm xung quanh đâu đâu cũng thấy người là người, người nằm sắp lớp như cá mòi, đến nỗi những chiếc xe đạp cũng không thể đem vào trong mà chằng chịt dây xích khóa ở bên ngoài. và nghe hơi thở trong đêm vắng phì phò phì phò như tiếng ong tiếng ve khá khó chịu. Thế hệ hắn chưa ra đời, có “nhị đồng đường” thôi cũng hai ông bà nội, bảy người con cùng bốn dâu rễ, tổng cộng đã mười ba con người. Đó là còn ba người chưa nên bề gia thất chứ không thì đã mười sáu. Mười ba người trong căn nhà hai chục mét vuông không cơi nổi cái gác, vị chi mỗi người chưa được hai mét. Mấy cái bếp lò lo cơm nước hay thau chậu giặt giũ đã để phía trước hiên để không chiếm diện tích, đúng hơn là lấn chiếm con hẻm bé tí của người ta qua lại. Chỗ nằm dành cho người “đi về nơi thiên cổ” cũng còn lớn hơn chỗ dành cho người “còn cựa quậy” này.
‘Chật chội nó… dội ra cái khôn’. Ba hắn có sáng kiến chờ có… xe lửa đêm khuya. Xe lửa rung chuyển và tiếng của nó át mạnh mẽ ai cũng biết rõ rồi. Ấy vậy mà, một ngày kia, ba hắn đang “ngon trớn theo nhịp – cạch cạch cạch, cạch cạch” của bánh xe lửa chạy qua khớp nối của đường rày, má hắn cũng “xả những uất ức” thì chú Út, người mới mười mấy tuổi đã chán học hành, theo bạn bè nhảy tàu đó đây, bị tiếng hú còi đập vào óc hay sao đó mà chú ta mơ màng hiệp sĩ, khi xe lửa vừa rầm rập chạy ngang, ba má hắn đang ráng “rầm rập” thì chú “tung một cước” hết sức để phóng lên nóc toa, xe lửa đi qua, người vẫn ở lại nhưng tấm ri đô xỉn màu cũ mèm thì không còn nguyên vẹn, đã bị xé toạt tanh bành. Ba má hắn một phen hoảng loạn, bà thu lu người về sát trong góc, ông xé tờ lịch bước ra ngoài để vấn điếu thuốc trấn tỉnh. Tờ lịch in ngày thứ sáu, ông lẩm bẩm phải chăng cưới vợ nhằm hợp thành con số mười ba xui xẻo? ‘Cái khó ló cái khôn’, cái khó còn ló cái nghi ngờ, nghi ngờ đủ thứ.
Ba má hắn ám ảm sự hoảng loạn, họ liên tưởng đến “anh chàng nòng nọc hoảng loạn bơi trong mê cung thì bị nàng trứng bắt”, anh chàng không thể đủ khỏe, anh chàng lưng tưng thì lớn lên dễ bị quặc quẹo tinh thần mà thôi. Như người ta cũng cảnh báo những kẻ nhậu say xà càng, “chàng nòng nọc say mèm” cũng chẳng thể làm nên “cơm cháo” chi. Vậy là bí lại hoàn bí rị.
Thế rồi để bí hoài cũng đâu có được, hơn nữa họ cũng muốn xóa con số mười ba gây nổi ám. Chỉ còn một cách, họ ráng dành dụm tiền để mỗi tuần kéo nhau ra… nhà trọ. Hình hài của hắn được kết tinh từ đó, nhưng biết ở nhà trọ nào? Và cũng biết để làm gì? Để tới vinh danh căn nhà trọ đó hay sao? Hay lại sỉ nhục căn nhà tồi tàn? Cho nên, với hắn nơi tạo ra hình hài chẳng còn mấy ý nghĩa.
Còn hai tháng ngày má hắn “khai hoa nở nhụy”, không chịu nổi sự ngột ngạt, bà phải về quê. Hắn lọt lòng trong căn nhà của bà ngoại giữa chốn đồng không mông quạnh, có bà mụ già túc trực đỡ đẻ chứ cũng chẳng tới được trạm xá.
Khoảng bốn tuổi, hắn một lần được trở lại thăm bà ngoại, thăm căn nhà giữa đồng. Trong mớ trí nhớ nhỏ nhoi lúc đó còn giữ được về sau thì đi được đến nơi là một kỳ công, đi xa lắm lắm, xa mút chỉ cà tha. Đi xe ôm bằng Honda từ chợ, tức từ trung tâm của của thị trấn băng băng qua cả chục cây cầu bắt qua những con kinh, rồi xuống chiếc ghe nổ lạch tạch chạy miết nữa, chạy trên sông lớn có, qua sông nhỏ có, song rồi còn lên bờ cuốc bộ thêm vài cây số. Đó cũng là lần duy nhứt hắn được trở lại, có lẽ sẽ được nhiều hơn nếu ngoại hắn không mất sớm.
Kể từ đó, cứ cuốn theo cơm gạo, theo áo quần, học phí cho con cái, theo xe cộ, theo nhà cửa cho đỡ hơn, mà ba má hắn chẳng bao giờ nhắc tới quê ngoại nữa. Hắn hoàn toàn mù tịt về nơi chôn nhau cắt rún của mình.
Chơi với hắn từ hồi còn nhỏ xíu, nhưng tới bây giờ tui mới vỡ lẽ được phần nào. “Lầm lì củ mì, phớt tỉnh Ăng Lê” của hắn tui không còn thấy bực bội mấy nữa.

***

Tui hỏi:
“Chừng nào mày về lại?”
Hắn lắc đầu:
“Chưa biết. Có lẽ rất lâu mà cũng có thể là hông bao giờ.”
Hắn nói càng lúc càng nhỏ. Tui hiểu cảm giác của người ra đi và chờ hắn giải thích thêm. Hắn ậm ừ:
“Đi làm… cu li thì biết có kiếm đủ tiền để trở về? Trở về chí ít phải thay đổi được điều gì đó chứ hông lẽ lại co người trong cái xó chưa đủ hai mét vuông? Để rồi nằm mơ mộng hảo huyền? Chẳng thay đổi được điều gì thì tốt nhứt là biền biệt.”
Hắn nói nghe có lý. Đó cũng là số phận của hàng triệu người nhập cư khắp chốn ở các thành phố lớn. Hắn thực tế hơn, không hứa hẹn trở về như bao nhiêu người ra đi để trở về. Cũng có trở về đó chứ, nhưng trở về lại để ra đi.
Bốn chục phút qua lẹ làng, tui đưa hắn vô tới cổng. Vẫn là một câu nhát gừng “Tao đi” vậy thôi, hắn xuống xe bước nhanh ào ào. Cái dáng thấy giống lơ lửng, bay bay, có lẽ hắn muốn vút đi thiệt nhanh, chốn chạy thiệt nhanh với mặc cảm một con người mang tội lỗi. Khi gần khuất dạng bỗng thấy hắn đứng lại, rồi… ngoảnh đầu…
Ừ, tui còn nhìn thấy đôi mắt hắn dòm xa xa tới căn nhà “tam đại đồng đường”. Và lúc kể tới đoạn cuối, “sợi dây rún” của hắn ngọ ngậy, đào xới trái tim tưởng chừng đã biến thành sắt đá!

LÊ ĐẮC HOÀNG HỰU

Advertisement

GIỮA HAI MIỀN VIỄN XỨ 5

Vỡ nát giấc mơ hoài
Chương ngón áp út NGỤC TÙ
Hết ưu tư – từ giã

Có những người dễ đắm mình vào các trạng thái , trạng thái tư lự, ánh mắt nhìn xa xăm, nhìn vô định, hoặc lim dim hay nhắm mắt nhưng không ngủ… thường những người này thuộc tuýp người sống nội tâm, họ suy nghĩ nhiều, họ tập trung suy tưởng để tìm một con đường giải quyết một vấn đề nan giải nào đó, hoặc tìm con đường đi cho mình, tìm con đường đi tốt đẹp cho những ai thấy nó là tốt, họ cũng thường thuộc tuýp người sống vì cộng đồng, vì xã hội.
Nhắm mắt mà tìm con đường ư?
Ừ, phải. Con đường đó là con đường hư ảo, chứ không phải là con đường để người ta bước đi hiện hữu. Nó giống con đường mơ ước, con đường ánh sáng của Việt.
Con đường ước mơ của Việt mãi mãi sẽ là con đường mơ ước. Anh nghĩ sẽ trở lại với nó nhung không bao giờ được. Con đường ánh sáng của Việt đã bị lọt, bị cuốn vào một lỗ đen như lỗ đen vũ trụ, một lỗ đen mênh mông, thăm thẳm do chính con người tạo nên, những con người có cái gọi là người Cộng sản.
Người Cộng sản với sự khát máu cuồng điên, bằng mọi giá, bằng mọi thủ đoạn đã tràn vào thôn tính miền Nam. Họ bắt đầu thiết lập nên một xã hội có cái gọi là xã hội mới.
Tiếp theo ngay sau đó, lỗ đen được hình thành từ những cái đầu đen tối của họ. Nó là một nấm mồ tập thể chôn tinh thần xã hội họ vừa thôn tính. Với họ đây là một xã hội mang toàn những định kiến sai lầm, một xã hội Mỹ – Ngụy độc ác, tàn bạo, xấu xa, dối trá… đó là điều dĩ nhiên được áp đặt. Họ chôn sống nó tức thì, chôn không để lại một dấu vết, không để lại một tàn dư.
Sự độc ác, độc tài càng lớn thì đi kèm song song là nỗi sợ hãi cũng lớn như vậy. Nỗi sợ vô hình, nhìn đâu cũng thấy kẻ thù, nơm nớp lo sợ bị trả thù, nỗi sợ thường trực mọi lúc mọi nơi, cho nên không thể để lại một mần mống nào cho sự sanh trưởng. Phải vùi lấp nó, phải thui cháy nó thành tro tàn, chôn cả tro tàn. Họ đã hành động để có được như vậy.
Hành động chôn không khác mấy ở bầu không khí chiến trường, cũng những người lính lăm le súng ống, hơn thế nữa còn có sự tham gia của du kích, của dân quân địa phương, cũng những gương mặt đằng đằng sát khí, cũng sặc mùi oi bức, sặc mùi nghẹt thở…
Những nhát búa báng bổ vào những bức tượng, vào những đền đài mang hình di chuyển của con lắc ngược hướng, con lắc hướng lên chứ không bị trọng lực kéo xuống, khi đường đi xé gió hướng tới chạm vào tượng, vào đền đài nó phát ra tiếng chát chúa, tiếng của tinh thần hăng say ầm ầm đập phá bằng bàn tay cần lao, khi đi ngược trở lại nó kéo theo tiếng dội vào quá khứ, thinh không vang vọng không ngớt tiếng kêu gào đau xót của lịch sử.
Người Cộng sản không cần lịch sử. Họ tự tiện chặn đứng bánh xe lịch sử đang quay, dùng bất cứ thứ gì có thể được để nghiền nát bánh xe lịch sử, chôn vùi luôn lịch sử. Nhưng không thể được, vì lịch sử còn khắc ghi trên bia miệng dân gian chứ không chỉ trên bia đá, dấu tích không thể phai mờ. Không thể nghiền nát thì bóp méo hết sức có thể, báng bổ lịch sử chân thực hết sức có thể, họ viết lại lịch sử cho riêng mình.
Cũng như thế, không thể chôn xác, thể xác sống của con người trong xã hội Mỹ – Ngụy, chứ nếu có thể thì họ cũng đã thi hành.
Điều này có quá đáng chăng? Suy nghĩ của kẻ không có lòng vị tha, của kẻ đầy hận thù, áp đặt chăng?
Việt cũng đã từng nghĩ như vậy. Anh đã từng nghe kể lại khá nhiều, nhưng chưa bao giờ tin hoàn toàn.
Chuyện những người già kể từ thời Việt Minh, ở những vùng thôn quê, nhứt là những vùng xa xôi, người Quốc Gia không quản lý hết, người Việt Minh dễ dàng trà trộn vào đây. Những vùng này còn gọi là vùng “xôi đậu” theo nghĩa bóng là vùng lẫn lộn, vùng ban ngày của Quốc Gia còn ban đêm thuộc về Việt Minh, về sau là Cộng Sản. Việt Minh tuyên truyền phủ dụ ráo riết ở những nơi này.
Những người không theo Việt Minh mặc dù không theo ai cả, họ chỉ lặng lẽ theo cuộc sanh tồn, sẽ có một kết cục không thể nào tệ hơn. Họ bị bắt và sau đó được tìm thấy thi thể có thể là bị một nhát cuốc vào đầu, có thể là một cây gậy vạt nhọn đâm xuyên người, có thể là những vòng kẽm gai trói quật tay rồi thả trôi sông, có khi hai ba thi thể trôi sông dính chùm bởi những sợi kẽm gai đâm xuyên lòng bàn tay tiếp nối…
Những người có chức sắc, ở vùng quê thì dĩ nhiên là các chức sắc nhỏ bé, chức sắc làng trở thành những kẻ ác ôn, những kẻ nợ máu với nhân dân. Những người khá giả thôi đã bị quy thành địa chủ cường hào, thì những người giàu có, có người ăn kẻ ở, có tá điền mà thường được gọi là bạn, ở làng ruộng rẫy là bạn đồng, ở các làng chài là bạn thuyền,… Việt Minh không chấp nhận cách gọi này, họ cho rằng đó là những người nô bộc bị bóc lột tận xương tủy, thì không thể náo khác hơn, còn bị áp đặt những ngôn từ nguyền rủa kinh tận, những kẻ địa chủ cường hào ác bá, tham lam, phong kiến, trịnh thượng… Sự thanh trừng họ nói ra rợn tóc gáy, lạnh sống lưng, kể lại mà muốn lộn mửa, họ bị chặt đầu, cắm đầu trên cọc nhọn đem bêu giữa chợ, giữa đình…
Thời gian sau đó là lời kể của những người di cư khi đất nước bị chia cắt thành hai miền bằng vĩ tuyến 17.
Gần một triệu người đã di cư vào Nam. Họ mang theo gần cả triệu câu chuyện của riêng mình. Và những câu chuyện gần giống nhau, coi như đó là câu chuyện chung. Chuyện về cải cách ruộng đất của chánh phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Việt Minh là đứa con của Việt Cộng. Sau những lần diễn những tấn tuồng thành lập và giải tán,… thì bây giờ nó mang một cái danh khác, đảng Lao động Việt Nam. Dù có mang tên nào nó vẫn là đảng Cộng sản.
Cải tổ ruộng đất phải là duy ý chí của Việt Cộng, nó đồng nghĩa với một ý chí duy nhứt cần phải kiên định theo đuổi, cần phải tiến hành triệt để, tiến hành đồng loạt, cần phải bảo vệ tới cùng. Nó là điều đúng đắn tuyệt đối, nó tuyệt đối không thể sai, cho dù nó chưa qua một trải nghiệm nào. Cải cách ruộng đất mang hình hài bằng câu từ mỹ miều, cải cách đất đai, lấy của người giàu chia cho dân nghèo. Nó cũng đồng nghĩa bất cứ nhà giàu là xấu xa, là độc ác, là địa chủ như thời Việt Minh ở vùng “xôi đậu”. Nó không cần biết người người ta giàu bằng cách nào. Người ta giàu bằng mồ hôi nước mắt, bằng sự cần cù, người ta giàu bằng tiết kiệm, bằng chắt mót, người ta giàu bằng khối óc có suy tính… cũng mặc kệ. Mặc kệ sự ai oán, mặc kệ tất cả.
Chủ nghĩa Cộng sản không có khái niệm ai oán. Chủ nghĩa Cộng sản phải là chủ nghĩa tự tôn, tự hào. Chủ nghĩa mang lại cho những người theo nó luôn luôn vỗ ngực tinh tướng. Tinh tướng trong sự… hãnh tiến(!)
Sự trừng phạt những kẻ duy ý chí làm giàu, làm địa chủ trong mắt những con người tinh tướng làm sao tránh khỏi, và để chặt đứt sự ai oán, triệt tiêu ai oán. Hơn thế nữa, nó không còn núp bóng trong vùng tối, nó được thực thi ở ngoài áng sáng, giữa ban ngày.
Địa chủ bị lôi xoành xoạch ra giữa chợ, giữa đình, giữa bất cứ đâu có chỗ trống để có thể tập hợp được những kẻ cần lao, có chỗ căng những biểu ngữ với ngôn ngữ hận thù, lên án, mạt sát thậm tệ, có thể kê một vài cái bàn để dựng nên một phiên xét xử. Thực chất đây là phiên đấu tố với tội trạng đã rõ, đã được ghi sẵn để đọc mà thôi, những bản tội trạng được đúc ra từ một cái khuôn duy nhứt. Thậm chí không cần phiên xét xử, cứ lôi địa chủ ra giữa đàng mà đấu tố.
Tại đây, những kẻ cần lao tự do đấu tố, phải nói là được tuyên truyền, bị nhồi nhét vào đầu sự tự do đấu tố. Đấu tố càng hùng hồn, càng dữ tợn, càng đông đảo càng được vinh danh. Những kẻ cần lao nổi máu xỉ vả, nhiếc mắng không thương tiếc, được quyền tát tai, đá đít, quất roi thoải mái mà chẳng ngại gì. Không nhìn thấy tội tình gì xưa nay thì phải tìm kiếm cho được một tội mà áp đặt. Tội tình cho một số người không muốn làm những chuyện này, lương tri còn tồn tại trong họ, nhưng không thể, họ có thể bị đấu tố vì đi ngược hướng duy ý chí cách mạng, dám bao che cho “tội ác” hay sao, dám kích động nổi loạn hay sao, dám bày tỏ, dám rũ lòng thương kẻ “tội đồ” hay sao(?!)
Đấu tố xong, mọi chuyện tưởng rằng xong. Không, không có chuyện đó, đâu có dễ dàng với “tội lỗi” như vậy. Địa chủ phải chết, phải không được tồn tại trong bầu không khí của cần lao, bầu không khí của cách mạng vô sản ban cho. Họ cần phải chết theo một cách khốn khổ khốn nạn nhứt, chứ không thể có cái chết với chỉ một phát đạn, một nhát chém, chết như vậy không “xứng”. Nó không đủ răn đe, không đủ diệt đi mần móng đi ngược duy ý chí vô sản. Họ phải bị chết phanh thay, bị tùng xẻo, bị trừng trị theo phương cách từ thời cổ đại. Có những người bị chôn sống, nhưng chưa phải bị chôn sống cho chết ngay tức thì, bị chôn hết thân mình, chừa phần đầu giữa nắng cháy, giữa mưa sa, giữa những bêu rếu, nhục mạ hết sức có thể của những kẻ cần lao cùng với sự hô hào của cán bộ, sau đó họ mới giả từ trần gian trong đói, trong khát, trong nắng cháy, trong bùn lầy. Có thể nói họ đã thấy được địa ngục trần gian. Nhưng chưa phải là hết, còn tận cùng của địa ngục, cái đầu ló lên khỏi mặt đất của họ còn bị những nhát cày lấp mớ đất cho ngạt thở từ từ đi qua, bị những nhát bừa, những bàn chưn của trâu bò kéo cày kéo bừa bương qua làm tuông máu…
Khốn khổ khốn nạn tận cùng của sự đấu tố, đấu tố lẫn nhau của những người thân trong cùng một gia đình, trong cùng một dòng họ, chứ không hẳn chỉ là người dưng. Con cái hỗn hào với cha mẹ, dám đánh đập cha mẹ là điều Trời không dung đất không tha, nhưng nó vẫn xảy ra ở chốn đấu tố này. Đừng nhắc tới mối liên hệ gia phả xa hơn, anh em, ông bà cháu chắt, chú bác cô dì… có nghĩa là gì nữa đâu(!)
Trong khối óc của những con người này, bây giờ nó chỉ chất chứa một thứ duy nhứt, chất chứa duy ý chí vô sản. Nó không còn biết có cội nguồn, nó không còn biết có mối liên hệ máu mủ, ruột thịt. Nó tự cho mình có thể tử lỗ nẻ nứt lên. Nhưng có chui ra từ vết nứt của lòng đất, của những tảng đá… nó cũng chẳng cần mang ơn đất, đá. Nó cho rằng hiển nhiên mình phải có mặt trên đời, hiển nhiên mình phải thực thi những nhiệm vụ hiển nhiên. Không hiển nhiên sanh ra từ lỗ nẻ thì hiển nhiên tiến hóa từ loài khỉ, loài khỉ tiến hóa thành nhiều giống loài người, nhưng nó là loại bậc cao, được quyền thao túng hành động. Người ta chưa thấy loài khỉ “đấu tố”, người ta thấy tình mẫu tử của loài này rất mạnh mẽ.
Không còn cảnh nào rùng rợn hơn nữa. Không có tận cùng địa ngục nào khốn khổ khốn nạn hơn nữa. Nó lại ở ngay trần gian.
Việt không thể tin như vậy, không thể tin cho dù anh cũng không thể không tin lời của những người kể lại. Họ dối trá để làm gì? Anh thấy sự chân thành, sự thành thật hết mức ở họ. Họ kể trong nấc nghẹn, trong đau đớn dằn vặt. Họ kể lại chỉ một lần trong đời để cho biết vì sao phải rời bỏ quê hương, tại sao phải trốn chạy, họ không muốn nhắc lại lần thứ hai cảnh địa ngục trần gian, không muốn ai biên chép lại, không muốn gây thêm hận thù, không muốn trả thù, họ sẵn sàng tha thứ cho những tội ác kinh hoàng. Họ chỉ muốn có một cuộc sống bình yên.
Có một điều làm minh chứng, những cảnh địa ngục trần gian này được ghi lại từ những ống kính. Nhưng lạ thay, nó cũng chưa đủ thuyết phục để Việt tin vào. Khi cầm những tấm hình trên, Việt luôn săm soi, coi hoài coi mãi và tự hỏi, chúng có thiệt hay không? chúng có thiệt như thế này hay sao?
Mười mấy năm sau, sau ngày những người dân bên kia vĩ tuyến di cư mang theo câu chuyện kinh hoàng vào miền Nam, thì chính một số nơi ở miền Nam gặp những cảnh người bị chôn sống, bị đập đầu, bị chôn tập thể trong những cái hố sâu hoắm…
Đó là vào năm 1968, nhằm vào Tết Mậu Thân. Những cảnh này chàng thiếu niên Việt thấy nhiều trên báo chí. Tang hoang những vùng đất rộng lớn, những xác người, những bộ xương, những đầu sọ lăn lóc… đầy trên đây như những bãi tha ma là lúc khai quật những hố chôn khổng lồ ở Cố Đô. Những vành khăn tang trắng xóa trên đầu của người dân thành phố Huế mộng mơ ken đặc. Có thể ví như những điểm trắng của những con cò trong đàn cò đông nghịt trên cánh đồng bao la, màu trắng lấn át cả màu xanh của cánh đồng.
Ờ Sài gòn không có cảnh này, nhưng xác chết thì không thiếu. Ba của Việt kể lại, phần lớn là xác của bộ đội mặt mũi còn non choẹt, và số ít hơn là của những người lính Việt Nam Cộng hòa, cùng dân thường. Anh không được bước ra khỏi nhà, bị dúi đầu vào trong căn căn hầm ở nhà cho đến khi bên ngoài yên tĩnh và dọn dẹp sạch sẽ, nên không thể chứng kiến. Nhưng tiếng pháo kích vào sân bay thì nghe khá rõ ngay vào lúc giao thừa, kéo dài vài ngày sau, tức những ngày Tết. Tính theo đường chim bay thì làng của Việt khá gần với sân bay Tân Sơn Nhứt, nơi bị tập trung pháo kích nhiều nhứt. Ba anh cũng nói rằng, pháo kích là của Cộng quân từ hai miền Nam và Bắc. Miền Nam họ không công khai lấy tên Việt Cộng nhưng hai thực thể cũng chính là một, cùng một đầu não lãnh đạo. Họ nhân danh giải phóng, giải phóng… vùng tự do thì đó chỉ là sự lừa mị trong nhân danh. Họ nhân danh nhân dân để tấn công… đồng bào trong thời khắc thiêng liêng, thời khắc đón chào năm mới, đón Tết Nguyên Đán của dân tộc Việt. Mặc dù trước đó chính họ đưa ra thông điệp ngừng bắn trong dịp Tết. Thiệt là những hành động tráo trở.
Ở ngay nơi mình đang sống thì Việt tin, nhưng các nơi khác anh vẫn mơ hồ khả nghi. Anh hầu như không dám đọc hết các bài báo, những câu chuyện, đôi khi sự hồ nghi bảo rằng sự việc đã bị thổi phồng quá lên và người ta cũng có thể ngụy tạo thêm lắm chứ.
Và rồi cuối cùng Việt cũng phải công nhận tất cả là sự thực. Những hình ảnh gần như trên đập vào chính đôi mắt anh.
Anh đi tìm nàng Nụ Tím Gia Long, anh không gặp được nàng, nhà nàng đã khóa cửa im ỉm. Đây cũng là lần duy nhứt anh đi tìm. Bởi từ đây cuộc đời Việt đã rẽ một hướng khác, hướng chịu đựng ở trong lỗ đen.
Tìm không gặp, anh lang thang qua ngôi trường tìm chút kỷ niệm. Ngôi trường bị một bức màn đen bao phủ, nó u ám xám xịt, màu tường vôi vàng như chìm hút, như ghi lên hai chữ đã là quá khứ. Người ta đã xóa đi cái bảng tên trường, không thể có… thằng Gia Long “cõng rắn cắn gà nhà” được tồn tại. Áo dài mang màu tím bị cuốn ngược theo hai chữ quá khứ.
Tà áo dài may mắn bị cuốn thôi chứ không bị cấu xé, cắt cho te tua như những loại áo quần theo mốt.
Những chàng trai cô gái ăn vận mốt bị chặn ngay giữa đường, người ta xỉ vả hết lời về thói lai căng, thói học đòi theo văn hóa của thằng Tây, thằng Mỹ mũi lõ mắt xanh, một thứ văn hóa ngoại lai làm sao chấp nhận được trong xã hội mới, một xã hội cấp tiến nhứt của loài người tiến hóa từ khỉ đột chỉ cần phủ bộ lông che thân thể.
Sau màn đấu tố là màn hành động, người ta xé áo xé quần được thì xé bởi thiếu kéo để xẻ, có kẻ tận thu những cây dao của người bán hàng bên đường để cắt. Tận thu cho cách mạng, phải biết hy sinh vật chất cho cách mạng, phải biết đó là niềm vinh dự lớn lao.
Một anh chàng bị một đường xẻ từ dưới lai ót một phát lên tận lưng quần, cái quần ống loe loe bay phất phới, lộ ra bên trong cái quần lót. Mấy người cán bộ, bộ đội, du kích ngạc nhiên hết sức, họ nhíu mày suy nghĩ. Cuối cùng có một người phát hiện ra điều lạ lùng, anh ta nói lớn lên như thể vừa có phát minh:
“Ối giời ơi! Tớ phát hiện ra rồi nhá, biết rồi nhá. Cái ấy, đấy, đấy là thứ mà từ mấy hôm nay chúng ta thấy, ấy là những cái đít của những cô cậu ấy, chúng tạo ra đít có… gân ấy. Chẳng có những cái mông đít thanh niên miền Nam tự dưng có hiện tượng tự tạo ra gân gì cả đâu ấy.”
Mấy chú nhóc cười ha ha, có đứa cười lăn lộn giữa lộ, chúng bu xung quanh những cảnh này là thường tình. Những cảnh khác, chúng im lặng đứng nhìn hoặc xầm xì to nhỏ, các các bộ oai phong càng thấy mình như thần thánh. Cảnh này thì không xong rồi, cán bộ quát tháo ngay: “Im lặng nhá, im lặng cho chúng tôi thi hành công việc nhá. Công việc này là công việc quan trọng bậc nhất, công việc loại văn hóa lai căng, văn hóa đồi trụy, văn hóa phản động ra khỏi chế độ ta”.
Ngoài văn hóa lai căn của thằng Tây thằng Mỹ, còn có văn hóa của thằng Diệm, thằng Thiệu bẩn thỉu. Ông Ngô Đình Diệm và ông Nguyễn Văn Thiệu là tổng thống hai đời của Việt Nam Cộng hòa, còn gọi là Đệ nhứt và Đệ nhị Cộng hòa. Bất cứ ai của chế độ bị gọi là tay sai đều bị gọi bằng thằng, bằng mày và xưng ông xưng tao, xưng chúng tao, chúng ta…
Cái kéo là đồ nghề dễ xọc vào áo quần để xẻ cho rách nhứt, nay nó mang thêm một công năng nên không còn đủ sử dụng. Nó vào tay cán bộ văn hóa biến cán bộ thành thợ hớt tóc. Cũng như bài trừ ăn bận mốt, nó diễn ra bất cứ nơi đâu, bất cứ nơi nào có người để đầu tóc mốt, ở giữa đường, giữa phố, giữa chợ hay ở nhà họ cũng xọc vào mà: “Để bọn tao xử lý nhá”. Những mái tóc xù lông nhím của các cô gái là: “Ôi, gì mà giống như bọn Mỹ da đen nhớp nhúa quá nhẩy”, thế thì phải bị xởn đầu tiên. Rồi tới những mái tóc của các anh chàng để thiệt dài theo phong trào Híp py* (*Happy)…
Đi ngang gặp một cảnh như vậy, bất giác Việt đưa tay lên sờ mái tóc mình, anh không theo phong trào nào cả, chỉ vì ngày còn là sinh viên, Việt cũng để mái tóc dài lãng tử. May cho anh, ừ, từ ngày vào quân trường, anh đã nhẵn nhụi mày râu.
Lang thang, thang thang vô định, bởi những câu hỏi mà Việt chưa tài nào lý giải nổi, tại sao lại có những cảnh kỳ lạ như vậy? Cần nhiều suy nghĩ để giải đáp, nó dường như là phương hướng chỉ đường, cứ bước đi, bước đi tới đi tới, rồi tới một hướng sẽ có đích, sẽ có giải đáp.
Những lời đồn đoán cách đây không bao lâu hiện về. Người ta sẽ xài văn hóa rừng rú, văn hóa khỉ khọt, ai để móng tay dài, ai sơn móng tay sẽ bị rút móng đó chứ đừng có giỡn chơi… Những lời đồn đoán, Việt cũng như một số người cho rằng đó là tuyên truyền, là quấy phá, là bôi nhọ, cũng như chế độ Việt Nam Cộng hòa cũng tuyên truyền rằng Việt Cộng là những con người ốm đói, đi còn không nổi, bảy kẻ Việt Cộng đu tàu lá chuối, tàu lá chuối còn nguyên đó thôi. Những lời đồn đoán khó tin. Nhưng bây giờ Việt đã tin. Lời đồn đoán là sẽ gây nên thương tích, gây nên đau thương thì đâu ai dám để, nên nó không xảy ra. Nếu có chắc nó cũng như vậy chứ không đùa bỡn được. Xởn tóc xởn quần áo không gây thương tích thân thể nhưng nó gây thương tích tâm hồn, một vết thương tâm hồn khắc sâu vào người từ những đường kéo, đường dao…
Việt lại lang thang, lang thang vô định.
Một đám đông ồn ào đánh thức lối đi vô định trong đầu Việt. Những vụ xởn vừa xảy ra có kéo theo hiếu kỳ, có đùa giỡn, có bình phẩm… nhưng chưa bằng đám đông này. Và những đám đông kia anh cũng đã khá quen thuộc, tụ đám đông xong rồi tan, đám đông này di chuyển khắp phố phường, con nít chạy theo reo hò, hô la vô thức.
Một anh chàng tanh niên chưa biết chuyện gì xảy ra giống như Việt, anh ta hỏi:
“Dạ, chuyện gì vậy?”
Một số người biết nhưng không muốn, có lẽ là không dám trả lời. Có người nói:
“Lên trên mà coi thử chuyện gì.”
Anh chàng chạy lên, chen chưn vào coi. Anh chàng là kẻ tiếu táo. Gặp chuyện nực cười anh ta càng tiếu táo, anh ta quay trở lại vừa lắc đầu vừa cười khì khì và luôn miệng kêu “nô xì ta que, nô xì ta que…”, mà thường người ta dùng tiếng bồi, tiếng lóng này để biểu thị “không sao đâu, không có gì”, đó là do anh ta dùng nó để mượn từ nô:
“Nô xì ta que, nô xì ta que… nô hiểu, nô hiểu… người ta bắt anh chàng mê nhảy đầm đi diễn phố bêu rếu.”
“Sao biết được? cán bộ nói hả?”
“Cần gì nói, anh ta bị tròng cái bảng treo tòng tèng trước ngực kìa, đeo bảng mê nhảy đầm có kèm tên tuổi hẳn hòi kìa.”
Nhiều người lẩm bẩm theo: “Nô xì ta que…”
Mọi chuyện không qua mắt được cán bộ đứng gần đó. Một kết cục cho sự tiếu táo được biến thành tuyên truyền sai lệch với chủ trương đúng đắn cùa xã hội mới, anh ta… được diễn hành chung với anh chàng mê thiệt sự. Cái bảng anh ta có khác, “Kẻ tuyên truyền lệch lạc, tiếp tay văn hóa đồi trụy, phản động”. Các tiếng “nô xì ta que…” dĩ nhiên im bặt, xầm xì của người lớn cũng im bặt, chỉ còn tiếng con nít nháo nhào…
Việt cũng lẩm bẩm, nhưng để nó trong đầu chứ không cho thoát ra khỏi miệng, “nô xì ta que, nô xì ta que…”. “Nô xì ta que” bây giờ cũng đã trở thành không hiểu nổi trong anh, và dẫn anh tiếp tục trên những con đường vô định.
Đi rất lâu, như thể Việt không còn khái niệm thời gian. Rồi anh tưởng chừng như đêm đã buông xuống vì ánh sáng sáng lên, ánh đèn điện cùng lúc được bật chiếu sáng cho sanh hoạt thường nhựt chứ bây giờ trong đầu Việt không còn chỗ cho ý niệm luồng ánh sáng khai sáng, nhưng không phải, đó là ánh sáng của một ngọn lửa lớn, ngọn lửa bùng lên dữ dội trước một cổng trường.
Người ta tưởng đâu là cháy ở cổng trường, nháo nhào cùng chạy lại tìm cách chữa cháy. Không, không phải tai nạn bốc hỏa mà ngọn lửa từ tay con người châm nên. Những bàn tay gồng lên hết sức dù chỉ là bật lửa, châm lửa. Phải thôi, người ta còn cắn chặc môi, trừng mắt vào đống văn hóa phẩm đồi trụy nằm chình ình như thể là cái gai trong mắt. Đống văn hóa phẩm chất cao muốn lút đầu người là món mồi ngon cho ngọn lửa.
Ngọn lửa bừng bừng bốc cao, nó tỏa sức nóng làm Việt hoa mắt, mắt Việt chỉ còn thấy một làn ảo ảnh dợn dợn bay trước mặt. Anh thấy ngọn lửa cười khoái trá, đúng hơn là những gương mặt của những người đốt đống lửa in trong làn ảo ảnh này cười khoái trá, khoái trá một cách nham nhở, ngược lại thì những gương mặt thất thần, những gương mặt méo mó, sầu thảm và kìm hết mức chứ không dám biểu lộ của một số người đứng chứng kiến. Rồi Việt thấy những dòng chữ đang bò ra kêu cứu, những dòng ‘Tâm Hồn Cao Thượng’, “Học Làm Người’, ‘Quẳng Gánh Lo Âu Đi Mà Vui Sống’, hay đơn giản hơn là ‘Lịch Sử’, ‘Địa Lý’, ‘Việt Ngữ’, “Hình Học’, ‘Đại Số’, ‘Vạn Vật’… Các dòng chữ vừa kêu cứu vừa kêu gào đau đớn mỗi khi ngọn lửa thiêu bừng mạnh hơn. Thực sự thì đó là lúc những bàn tay gồng hết sức có thể để khưi cái đống mà họ coi là đống rác rưởi tanh tưởi cho cháy thiệt nhanh.
Việt không dám nhìn nữa, anh sợ mình không thể kìm được, sẽ nhảy vào cứu chúng. Và chắc chắn anh cũng sẽ bị thiêu rụi thành đống tro tàn. Việt còn ý thức được đôi chút, anh chúi mũi bỏ đi tiếp.
Không có chỗ nào bình yên.
Việt lại gặp cảnh người ta xúm xít, túm tụm lại coi một sự vụ đang diễn ra.
Lần này, đám đông có cách xa chỗ xảy ra sự vụ một chút. Bởi tiếng thình thình của những nhát búa và các mảnh vở bay tung tóe. Việt nhận ra những mảnh vỡ là từ bức tượng ông Võ Tánh trắng toát được nhà chức trách và dân chúng dựng nên tôn thờ.
Ông Võ Tánh, cùng với hai ông Đỗ Thanh Nhơn và Châu Văn Tiếp hiệp nên Gia Định tam hùng thuở xưa.
“Tam hùng à?”, “Ối giời ơi, tam với chả tứ, thằng Tánh chỉ là thằng theo phò thằng Gia Long nhá, là thằng bợt đít thằng Nguyễn Ánh nhá, sao ngu thế nhỉ, sao chả chịu theo phò người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ nhỉ? Còn hai thằng này… ư… ư… thằng Gia Long là thằng vua ta biết nhá, thằng Nguyễn Ánh là thằng nào nhể?”
Không có ai trả lời, làm gì có ai dám trả lời.
Uỳnh, uỳnh, uỳnh… những nhát búa tiếp tục.
“Ối giời ơi, mặc xác chúng nó, biết làm đéo gì, thằng nào láo thằng nào lếu, chúng ông cũng bổ cho tan xác chúng mày.”
“Ơ… ơ… này anh kia, cái anh to tướng kia, to tướng khỏe mạnh thế mà không lao động là phí lắm chứ lị. Nào, vào đây phụ bổ với chúng ông cái nào… nào…”
Việt dòm quanh, đích thị là chỉ mình rồi chứ không ai khác nữa. Anh lần lữa một chút, phân vân một chút, rồi nỗi lo sợ trỗi dậy nên định nhấc đôi chưn đi vào, nhưng ngay lúc đó Việt trấn tỉnh lại được, dù có như thế nào anh cũng không thể để đôi tay mình làm cái việc xấu xa đó, anh quay đầu, cắm cổ chạy, cắm cổ phóng, anh phóng qua có lẽ là hai pha bức tường gì đó, vài chướng ngại gì đó mà anh không nhìn rõ lắm, cắm cổ bỏ lại phía sau tiếng “réo rắc”: “Ơ… ơ… cái thằng, cái thằng chó má, cái thằng phản động, ông bắn cho bỏ bu bây chừ, đồ láo toét…”
Chạy lâu lắm, lâu lắm, có lẽ cả tiếng đồng hồ. Anh chạy có lẽ phải mười mấy cây số. Mệt nhoài, Việt tìm được một chỗ khá kín đáo và vắng vẻ để ngả lưng một tí. Rồi anh lại trở lại trạng thái dẫn dắt đi vô định.
Trạng thái này tiếp tục bị đánh thức bằng mấy tiếng đoàng, đoàng, đoàng… Mấy tiếng nổ phát ra chát chúa, ký ức về tiếng súng không thể xóa nhòa trong Việt, nghe, anh biết ngay nó là tiếng súng. Phản xạ tự nhiên, anh nhảy vào gốc cây ven đường ẩn núp, và nghĩ đâu đó có một trận đánh. Chờ khá lâu, không có tiếng súng nào nữa, anh lồm cồm bò ra khỏi, con đường trước mặt vắng tanh, không một biểu hiện gì là có đánh trận. Dáo dát dòm quanh, Việt thấy người ta tụ tập khá đông ở cuối con đường, nơi có một ngã ba, cuối con đường cũng là một bức tường chắn chạy dọc theo con đường cắt ngang.
Bước tới nơi này, trên bức tường người ta giăng mấy biểu ngữ, “Phiên tòa nhân dân”, “Kiên quyết trừng trị bọn phản động”, “Cương quyết trừng trị bọn gây tội ác với cách mạng, với nhân dân”. Và phía trước những tấm biểu ngữ là xác một người đổ gục, máu loang ra dĩ nhiên còn tươi.
Việt ớn lạnh, nhưng anh cũng ráng dừng lại, hòa vào đám đông để dò xét thực hư. Những người tụ tập bàn tán to nhỏ: “Phiên tòa nhân dân sao đâu thấy nhân nào?”, “Phiên tòa Cộng sản chứ phiên tòa nhân dân cái gì”, “Có thấy xét xử gì đâu? Có thấy cho nói gì đâu, có thấy ai bào chữa cho gì đâu ? Bịt mắt cột tay, lôi cổ ra, đọc vài câu phán tội là bắn đùng đùng ngay, vậy cũng gọi là phiên tòa được sao?”, “Ở đây còn có biểu ngữ để người ta biết, hôm qua tui chứng kiến ở cầu Ba Cẳng, chẳng có gì ráo, chỉ có cái chảng ba từ ba cây tre cắm cho đứng được trên chưn cầu, rồi họ trói người vào đó và hô bắn luôn”…. Thiệt là kinh hoàng, rùng rợn cho dù ai đó có một lá gan sắt đá đi nữa.
Không bao lâu sau đó, một người nữa bị lôi ra. Một người đứng ra đọc mấy dòng từ một tờ giấy, gồm tên tuổi và tội trạng y như trên tấm biểu ngữ, và phán tội xử bắn. Mấy người đang chống súng dưới đất nâng lên và bước đối diện với “kẻ tội đồ”…
Việt không thể chứng kiến, anh quay đầu và bước gấp gáp. Rồi anh phóng chạy, kiếm những con đường vắng mà chạy. Văng vẳng sau lưng là tiếng đoàng, đoàng, đoàng…
Bây giờ thì Việt tê liệt suy nghĩ thiệt sự, cứ vô thức chạy sâm sấp, và như ngựa quen đường cũ, đôi chưn anh đưa anh về nhà.
Việt vật nằm trong xó nhà, trong chổ u tối nhứt. Anh muốn nhờ màn đen tăm tối che khuất những gương mặt anh vừa thấy. Nhưng màn đêm không thể theo ý của Việt được. Chức năng của nó đâu phải như vậy. Nó đâu che được suy tư của con người, đâu xóa được ám ảnh dùm cho con người.
Những gương mặt được gọi là cán bộ, những bộ đội, những du kích, và cả những dân quân tự dưng Việt không thấy ghê sợ bằng những gương mặt cơ hội. Dù gì đi nữa, dù họ có hăng máu như thế nào đi nữa Việt cũng có thể thông cảm cho họ, cũng bởi họ bị nhồi nhét quá sâu, nhồi nhét từ trong trứng nước, và họ hầu hết còn khá trẻ, những sợi lông măng lún phún trên gương mặt non choẹt còn chưa sậm màu.
Những gương mặt cơ hội nham nhở nhảy múa trước mắt Việt. Đó là những gương mặt ở trường anh, ở một số trường khác mà anh biết, có cả sinh viên và có cả những ông thầy giáo, những gương mặt nghe tới câu “Tổ quốc – Danh dự – Trách nhiệm” là mặt xanh như tàu lá chuối, những gương mặt tìm mọi cách để trốn quân dịch hoặc nghe kêu gọi đi biểu tình của những người đấu tranh cách mạng công khai thì trốn chui trốn nhủi.
Những gương mặt cơ hội được ủ mầm trong xã hội tự do để rồi tiếp tay giết tự do kể cả cho mình và người khác. Trong xã hội tự do ở mức tối thỉu, người ta vẫn bị bắt bớ, tù đày, bị tra tấn đánh đập bởi đi ngược quy tắc của chánh thể đó là một chánh thể không Cộng sản, bởi nổi loạn bằng bạo lực, bằng khủng bố… nhưng con người trong xã hội đó vẫn được bày tỏ chính kiến, vẫn được tự do biểu tình ôn hòa, báo chí vẫn không bị rõ mõm, bịt miệng…
Những gương mặt cơ hội kinh tởm trở nên mạnh mẽ do đã tìm được nới ăn bám, bỗng dưng hùng hùng hổ hổ, mạnh miệng hô hào đến khản cổ cần tiêu diệt những kẻ phản động, phản đối, phá rối, chỉ có một con đường tiến lên là con đường Cộng sản.
Việt nằm ình ra đó, và xã hội mới của người Cộng sản lại ình ra trước mặt anh. Xã hội chỉ có một con đường, tất cả phải đi trên con đường này với tinh thần hăng say, tinh thần kiên cường, anh dũng, bất khuất, kể cả tinh thần đạp trên máu mà đi…
Nội tâm hay không nội tâm ư? Hồn nhiên hay không hồn nhiên ư? Mộng mơ hay còn gọi là lãng mạn, có hay không ư? Ung dung tự tại hay không ư? Mạnh mẽ sôi nổi hay không ư?… Tất cả bây giờ không còn là câu hỏi nữa, không tìm kiếm cho dù riêng tư nữa, chúng phải bị vùi chôn dưới nấm mồ vĩnh viễn.
Trớ trêu thay, tinh thần của xã hội bị chôn vùi nhưng vật chất của xã hội được gọi là ghê tởm đó thì được âm thầm chiếm lấy sử dụng. Cũng đúng thôi, đó chân lý của con đường, chân lý lấy vật chất quyết định ý thức, vật chất quyết định tất cả chứ không còn chỗ cho trái tim.

***

Nằm mãi trong xó tối, người Việt muốn tê liệt.
Một buổi sớm, anh định bước ra ban công để dòm ánh sáng nơi chưn trời, trong đầu anh lúc này không còn nghĩ tới con đường ánh sáng, ý định rằng xem nó bị sụp đổ, bị phủ đen như thế nào mà thôi, nhưng chưa kịp thì nghe tiếng réo giựt ngược, tiếng gọi đanh thép nhưng người ta thường nói rằng cần phải hùng hồn, cần phải mạnh mẽ, buộc Việt phải ra nhận thông báo được mang đến từ người hàng xóm cách vài căn nhà.
Cầm thông báo trên tay Việt khá ngỡ ngàng, anh không hiểu điều gì. Thông báo gọn trong mấy dòng, phải ra trình diện của Ủy ban Quân quản Sài Gòn – Gia Định để đi học tập cải tạo, học tập tư tưởng xã hội mới. Địa điểm trình diện là một trường học.
Hai hôm sau, khi anh đến đây, cả một sân trường đã đã gần như chật cứng người. Việt được đưa vào một phòng học cũng chật người. Kiếm một chỗ để yên vị, và nghe loáng qua các trao đổi thì Việt nằm trong số phải mang theo thức ăn hoặc tiền bạc, cùng với giấy bút, và tư trang sử dụng trong một tháng. Đó là dành cho những bậc sĩ quan, hoặc các vị công chức hành chánh có chức tước.
Những người bên ngoài sân thì chỉ đem theo với số lượng 10 ngày. Đó là những người lính hoặc những nhân viên hành chánh, những người có dính liếu tới các cơ quan, công sở nhà nước, ngay như những người làm lao công ở những nơi này cũng phải ra học tập. Họ học tập tại chỗ, ngay tại sân trường. Và thực tế thi họ phải học tập từ mười ngày tới một tháng rồi được về nhà.
Việt quá sức ngỡ ngàng. Anh không hiểu vì sao một kẻ chưa được đội cái beret nâu lại nằm trong số sĩ quan. Điều này, về sau mới được rõ, Biệt động quân là lính đặc biệt, là thứ ghê gớm trong mắt những người chế độ mới cho dù là gì đi chăng nữa. Sự ghê gớm cũng có thêm phần xuất phát từ đôi mắt của người hàng xóm đưa thông báo, người hoạt động nằm vùng mà không ai biết, không ai rõ. Người không hiểu Việt đã ở đâu, nhưng anh đã bị qui kết là phần tử phản động đứng đầu. Không phải vậy sao tới tận mấy ngày sau anh mới trở về? Chỉ cần đặt ra câu hỏi đó thì ông ta được quyền minh định theo ý của mình.
Đêm, Việt bị đẩy lên chiếc Motolova. Chiếc xe bị nhồi nhét nhét đầy người ì ạch lăn bánh, nặng nề nghiêng qua ngả lại y như những cái đầu nặng chịnh chất chứa bao nhiêu điều của những người trên xe. Không biết xe đi về đâu.

***

Nhưng cũng không lâu lắm, Việt được ngắm bầu trời, ngắm sao đêm trong rạng thái lắc lư khoảng hai tiếng đồng hồ thì đoàn xe đi vào một cánh cổng rồi đổ xịch. Mọi người bị lôi cổ xuống, bị chia ra và đẩy vào các căn nhà lờ mờ ánh đèn. Cả trăm người bị dồn vào trong căn phòng dành cho khoảng mười người. Thay kệ, nhiều người mệt mỏi ngã phịch rồi ngáy khò liền ngay. Những người còn thức thì “tận hưởng” bầu không khí dày đặc bởi khói thuốc lá hòa quyện với những tiếng thở dài thườn thượt, tưởng chừng như chúng cứ lảng vảng trước mặt, chúng uốn éo khiêu khích chứ không muốn bay đi, thực sự thì chúng nặng chịch và bị bịt bùng nên khó có lối thoát. Vài người muốn nói hoặc hỏi chuyện phải xầm xì nho nhỏ, đôi lúc nghe như tiếng rên rỉ…
Buổi sáng, thông tin truyền miệng, mọi người mới biết rằng nơi đây là Suối Máu. Một con suối ngập máu, ngập xác người trong một cuộc chiến đã quá nổi tiếng để trở thành địa danh ở vùng Biên Hòa này. Nhưng, kể từ bây giờ, không một ai được nhắc tới cái tên đó, lời của cán bộ quản giáo đã răng đe như vậy, phải gọi là trại tập trung cải tạo Tân Hiệp, Biên Hòa. Địa danh cũ bị cấm tiệt nhắc tới đủ hiểu rằng máu và xác của ai. Trong thâm tâm Việt và những người bị tập trung ở đây cũng chẳng lấy làm vinh hạnh gì từ điều rùng rợn, kinh khiếp này, nên hầu như ai cũng coi sự cấm kỵ là điều nên. Việt chỉ nhắc tới nó khi cần nhắc và với những ai không biết đến Tân Hiệp. Tân Hiệp vốn cũng là một trại tù.
Và bây giờ, đối với những sĩ quan cùng lẻ loi một kẻ còn chưa được coi là hạ sĩ quan của chế độ “thối rửa” trong mắt chế độ mới, chế độ những kẻ chiến thắng tự nhận, nó đâu khác gì trại tù, nó chỉ được thay thế bằng một cái tên mỹ miều mà thôi.

***

GIỮA HAI MIỀN VIỄN XỨ 4

                  

 

Chương ngón giữa dặm trường

 TANG TÓC vương muôn nẻo
Theo người – neo quê hương?       

 

Việt lục trong kho lấy hai khẩu súng M16 vắt vai, mấy thùng đạn và một thùng xăng anh cột phía sau yên xe, trực chỉ quê nhà mà rồ ga chạy.

Việt chạy băng băng. Không chỉ con đường nhỏ anh chạy tắt không qua thị trấn Ninh Hòa mà ra tới Quốc lộ, đường xá chỗ nào cũng vắng ngắt. Tới thành phố Nha Trang cũng vậy, người ra đường rất thưa thớt chứ không sầm uất như trước đây gây khá ngỡ ngàng cho anh, rồi dần vào các thị trấn Cam Ranh, thị xã Phan Rang – Tháp Chàm, thị xã Phan Thiết cũng không khá gì hơn.

Việt cắm đầu chạy miết, chạy miết, cho bánh xe cuốn tròn con đường mỗi lúc càng nhanh hơn, anh bỏ lại sau lưng tất cả, chỉ một hướng hướng tới phía trước. Lâu lâu Việt dừng xe, do gặp phải trạm gác chặn lại xét hỏi giấy tờ, song thì kéo barie cho qua nhanh.

Chạy về tới Bảo Định, cửa ngõ của thị xã Xuân Lộc* (*Thị xã Long Khánh ngày nay), không chỉ bị chặn xét sơ ở bên barie, Việt bị đưa vào thẩm vấn khá lâu trong một căn phòng. Gần hai tiếng đồng hồ sau thì mới xong. Đưa anh ra ngoài, ông Đại úy cười mà trong khoảng thời gian cùng thẩm vấn với mấy người nữa sắc mặt ai cũng rất nghiêm trang, ông vỗ vai anh và nói:

“Xin lỗi cậu! Tình thế đang rất căng thẳng, buộc chúng tôi phải giữ cậu khá lâu để minh xác. Mong cậu không phiền chi.”

Việt đáp lời:

“Dạ thưa Đại úy, không có gì. Em còn có được bài học về tinh thần trách nhiệm.”

Đại úy hỏi:

“Bây giờ khá tối rồi, cậu về luôn hay sao? Hay để tôi thu xếp chỗ nghỉ qua đêm, sáng mai về cho an toàn?”

Việt nóng lòng về nhà, anh trả lời:

“Dạ thưa, em về luôn. Cảm ơn Đại úy!”

Chào Đại úy theo kiểu nhà binh, Việt bước đi. Được mấy bước thì anh suy nghĩ lại, quay lại hỏi:

“Dạ thưa, hồi nãy em nghe Đại úy tình hình rất căng thẳng, Đại úy cho em biết sơ được không?

Đại úy gật đầu:

“Chúng ta thất thủ nhiều nơi. Xuân Lộc bây giờ là chốt chặn, cửa ngõ trấn giữ Đô Thành* (*Đô Thành Sài Gòn), thông tin nay mai Cộng quân sẽ tấn công phá vỡ phòng tuyến này, chúng tôi đang ráo riết chuẩn bị phòng thủ. Cậu đi đường nên cẩn thận, đoạn đèo Mẹ Bồng Con, Trảng bom rất vắng vẻ.”

Việt cảm ơn lần nữa, nhưng rồi anh lưỡng lự không muốn đi, anh hỏi:

“Dạ thưa Đại úy,… em… em có thể… ở lại góp chút sức…”

Đại úy cắt ngang:

“Thôi, thôi, cậu nên về đi, dù gì cũng cảm ơn cậu! Chúc cậu may mắn nhé cậu… trẻ cậu triết.”

Đại úy bước đi. Ông thực sự không muốn một chàng trai trẻ tham gia vào cuộc này, ông không muốn mất đi một chàng còn đầy tương lai phía trước, một anh chàng có thể trở thành một triết gia. Nghe giọng nói cùa ông, Việt hiểu điều đó, nên anh tần ngần một chút, nhưng rồi anh vẫn chạy theo:

“Dạ thưa Đại úy, em không thể đi như thế này, xin Đại úy hiểu cho, em không muốn làm anh hùng, cũng chẳng bao giờ thích chiến trận nhưng tình thế rất nguy cấp, một chút sức mọn cũng có ích, vả lại không thể quá hèn như thế này, xin Đại úy thu nạp, cho em ở lại.”

Bây giờ thì Đại úy lưỡng lự. Việt nói cứng rắn hơn:

“Dạ thưa, đây là quyết định của em, dù ra sao em cũng chấp nhận, không liên quan gì tới Đại úy, xin Đại úy đừng phân vân và đừng khuyên em trở về. Nếu không gia nhập nơi này em cũng sẽ gia nhập nơi khác.”

Đại úy nhìn thẳng vào mắt Việt một hồi, ánh mắt Việt rất dứt khoát trong quyết định, nhưng ông vẫn hỏi lại:

“Cậu chắc chứ?”

Việt gật đầu ngay:

“Dạ, thưa, chắc chắn.”

Đại úy đành gật đầu nhẹ:

“Thôi được. Cậu cứ tạm ở lại, nhưng muốn đi lúc nào thì cứ hãy đi nhé. Để tôi gọi người lo liệu chỗ cho cậu.”

Đại úy đi về phòng mình, rất cảm khái tinh thần của Việt, song ông không hề vui chút nào.

 

***

 

Hai ngày lặng lẽ trôi qua. Thị xã Xuân Lộc không vắng lặng như các nơi trên đường Việt đi qua nhưng cũng không hẳn được bình thường, dân chúng vẫn nghe ngóng tin tức, và có hạn chế ra đường.

Sang ngày thứ ba, trời chưa ửng sáng thì khắp nơi trong thị tứ nhỏ bé yên lành bấy lâu nay đột ngột rung chuyển, rung chuyển kinh hoàng vì bị pháo kích dữ dội của Cộng quân. Đạn pháo hạng nặng bắn rào rào như mưa vào thị. Đạn pháo bất chấp nơi nào, chúng không có mắt, cứ có đường thì chúng đi, đường trên không thì vô lối, và cũng không có gì ngăn cản được đường đi của những quả đại bác, đạn pháo thản nhiên đi vào nhà dân, đi vô chợ búa, trường học, đùa giỡn ở chốn đình thờ, ở chùa chiền, ở nhà thờ, ở công sở,… dĩ nhiên làm sao nó bỏ qua những căn cứ quân sự, đó là những điểm nó nhắm tiến đến đầu tiên. Đạn pháo liên tiếp nổ ầm ầm tưởng chừng không bao giờ dứt.

Việt được Đại úy gọi lên. Ổng nói:

“Chúng ta bị pháo kích tấn công ai cũng biết rồi. Tin tức cấp báo dân chúng bị nạn rất nhiều và đang chạy nạn. Đã có lịnh cho một số đơn vị quân đội giúp dân sơ tán. Cậu có chiếc xe, vậy hãy tham gia vào nhóm Hồng Thập Tự mà đi cứu giúp dân lành nhé.”

Việt lưỡng lự, vì anh muốn ở lại và nghĩ Đại úy trao cho anh cơ hội để tránh cầm súng:

“Dạ thưa Đại úy, em… xin ở lại chiến đấu…”

Đại úy bước tới vỗ vai Việt:

“Tôi hiểu ý cậu, rất xứng  đáng là một quân nhân. Nhưng trong thị xã bây giờ cũng đã là chiến trường rồi đó, không còn là nơi chốn yên tĩnh của dân chúng nữa, sau đợt pháo kích địch chắc chắn sẽ tấn công bộ binh, vào đó có khi phải cầm súng chống giặc chứ không chỉ là cứu thương, giúp dân sơ tán. Vả lại đi cứu nạn không phải là hành động trốn tránh trách nhiệm, là hèn nhát, với tôi còn là việc quan trọng trên hết. Hẳn cậu rất rõ rằng “cứu người như cứu hỏa”, hay “cứu một mạng người còn hơn xây bảy tòa tháp”. Thứ nữa, phải biết thời điển nào, công việc gì là phù hợp nhứt. Ngày xưa, tôi cũng không khác gì cậu, nhưng giáp trận đầu tiên, tôi lính quýnh không biết làm sao nạp đạn, không biết lên đạn thế nào, rồi run cầm cập và phân vân không biết có nên bóp cò, có nên giết người không nữa. Chỉ chắn chắn có một điều, thấy người bị nạn, dù có ghê sợ, dù có ớn óc, nhưng rồi sẽ mau chóng bỏ lại sau lưng để lao tới cứu mà thôi.”

Nghe lời giảng giải từ tốn của vị Đại úy, Việt ngộ ra, anh đưa tay theo điều lịnh:

“Dạ thưa, xin tuân lịnh Đại úy.”

Việt chở theo một quân y y sĩ chạy vào thị xã.

Thị xã hỗn loạn còn hơn bị cơn đại hồng thủy. Tiếng xe rú ga, tiếng bước chưn người rầm rập thi nhau tìm nơi chạy trốn, tiếng la hét thất thanh, tiếng khóc, gào rú tuyệt vọng, những trái pháo dội xuống thì những nóc nhà bị hất tung vào không trung, vật liệu, đất cát, khói lửa bay mịt mùng, đổ nát chồng chất lên đổ nát, xác người chết chồng lên xác người, xác người, xác gia súc tan nát văng tung tóe, người bị thương nằm rên la vất vưởng…

Việt bàng hoàng, đồng đội anh bàng hoàng. Không thể, không thể có một ai đó không bàng hoàng với cảnh tượng này. Việt còn hơn thế nữa, anh thất thần, anh run lẩy bẩy, anh đứng như trời trồng cả buổi lâu không biết làm gì. Một quả đạn pháo dội xuống, nổ một tiếng uỳnh lớn cách vài chục bước chưn trước mặt, người đồng đội kéo anh ngã dúi anh mới bừng tỉnh. Rồi bắt đầu như một cái máy, làm theo hiệu lịnh của đồng đội, anh ẵm bồng những người bị thương vào những nơi còn có chỗ che chắn để băng bó, không ẵm bồng nỗi thì anh cố hết sức kéo vô, sau đó chở đi những nơi tập kết. Người thương nhẹ dìu và vịn vào nhau, người không bị thương lo cho người bị thương nặng…

Suýt soát trên dưới hai tiếng đồng hồ từ lúc khai mào quả đầu tiên thì tiếng pháo ngưng. Cả mấy ngàn trái pháo dội tan tác thị xã. Và đúng như lời đoán của vị Đại úy, Cộng quân tấn công bộ binh ngay sau đó.

Tai của Việt đã khản đặc và đang tập trung hết sức nên anh không nghe được tiếng súng tấn công nữa. Anh chỉ nghe kể lại rằng quân Việt cộng đông như kiến cỏ, xung phong hàng hàng lớp lớp, và cũng hàng hàng những chiến sĩ bị bắn ngã gục xuống trong đó có những người lính trẻ măng, mặt còn bấm ra sữa, có thể không quá mười bảy tuổi, có khi chỉ mười sáu không chừng. Họ ngã xuống như vậy chứ vẫn không ngừng hô xung phong và tiến, hăng máu tiến như vũ bão và lại bị ngã xuống như rạ. Việt không rõ lắm cuộc chiến kéo dài bao lâu. Toàn thị xã bị bao vậy, bị tấn công tứ phía nhưng các phòng tuyến vẫn trụ vững, không để bị chiếm. Duy nhứt tiền đồn Bảo Định, nơi anh đầu quân bị đẩy lui về ngã ba Tân Phong.

Việt cùng đồng đội được ngã lưng dựa vào bức tường loang lỗ ám khói khói thở dốc, nghỉ ngơi chút và gặm nhắm những ổ bánh mì khô cứng trong quang cảnh xung quanh đầy mùi thuốc súng khét lẹt thì mặt trời đã đi quá xế chiều, sau đó tiếp tục kéo về lo cho đồng đội thương vong. Trở về, Việt rất mừng, dĩ nhiên ai cũng mừng, do chuẩn bị hầm trú ẩn khá kỹ nên thương vong không nhiều.

Đêm, bầu không khí tĩnh mịch như đêm ba mươi Tết, là thời khắc chuẩn bị đón giao thừa nên mọi hoạt động thường chững lại, có chăng thì cũng rón rén, nhẹ nhàng. Ở đây, lúc này thì chững lại để trốn để lánh, để nghe ngóng tin tức, để chuẩn bị nghe tiếng dội pháo chứ không phải chuẩn bị nghe tiếng pháo báo hiệu thời khắc giao thời, tiễn năm cũ đi đón năm mới tới. Và cả buổi sáng sớm nghe rền rã đạn bom, bây giờ không có nữa, thì bầu không khí dường như có vẻ yên ắng lạ thường. Nguyên đêm, không một tiếng đạn pháo nào dội xuống. Nhiều lính tráng mệt mỏi vật mình ngủ vùi ngay giao thông hào. Người Việt rã rời như hồi những ngày đầu ở thao trường, mắt anh cứ chực quíu xuống nhưng không tài nào ngủ được, chẳng phải những câu hỏi ập tới trong cái đầu vốn thường suy nghĩ miên man, chẳng hạn như tại sao cứ phải dùng tới súng đạn, tại sao giết chóc, tại sao thế này thế kia… Trạng thái của Việt lúc này là gì cũng khó thể biết, có thể là trạng thái lưng chừng, cơ thể gần như bất động nhưng bộ não chưa mất kiểm soát nên chưa thể là vô thức.

Anh bạn quân y nằm cạnh bên rút gói thuốc lá lắc lắc cho lòi ra chừng một phần ba điếu đưa qua Việt, anh nói:

“Ám ảnh quá hải hông. Mình cũng đã từng bị ở những lần đầu. Bây giờ cũng vẫn còn nhưng đã đỡ hơn, mệt quá thì chìm được vào giấc ngủ.”

Đúng rồi. Nỗi ám ảnh. Ám ảnh kinh hoàng, Việt ngước nhìn lên trời, bầu trời tối đen nhưng vẫn chờn vờn những dòng máu loang, những mảng thịt bầy nhầy, những đường cắt da thịt tới tận xương tủy xé bành ra, lòi những miếng mỡ trắng phếu.

Việt nhấc cánh tay nhức buốt rút một điếu thuốc, anh quân y cũng rút một điếu và châm lửa, anh nói tiếp, có bông lơn để xua tan bớt không khí nặng nề:

“Rít thiệt sâu, sâu hết cỡ thợ mộc, rồi thở ra cũng hết cỡ… hết cỡ thợ  gì ta? Thở ra hết cỡ thợ mộc còn rít sâu phải hết cỡ thợ đào giếng chứ hen. Như vậy có thể làm người đỡ hơn. Không hút thuốc cũng nên hít thở mạnh sẽ nhẹ nhõm người.”

Nói thêm được vài câu thì thào nữa thì anh quân y ngủ, điếu thuốc vẫn còn cháy dở giữa hai ngón tay. Việt thì vẫn không cho dù sau đó anh hút gần nửa gói thuốc. Khoảng bốn giờ sáng, người bắt đầu lơ mơ, có lẽ những làn khói được rít mạnh bay lên tới tận óc, len lõi vào và quần tụ trong đó, đâu có lối thoát nên làm cho nó mụ mị, Việt mới chợp mắt được.

Chợp mắt chưa được bao lâu, chừng một tiếng rưỡi đồng hồ thì Việt giựt mình bừng tỉnh ngay, cũng vào sáng sớm, giấc này như hôm qua, pháo lại ầm ầm đội xuống và tiếp nối các đợt tấn công vũ bão.

Ngày kế tiếp, sáng sớm không có động tĩnh gì. Ngỡ rằng là một ngày ngừng pháo kích để tính toán gì chăng thì khoảng bảy giờ sáng đạn pháo nổ tung tóe. Hơn một tiếng đồng hồ sau thì như hai ngày đầu, pháo ngưng thì bộ binh tiến lên khai hỏa.

Các phòng tuyết vẫn không bị phá vỡ. Các đợt tấn công đều bị đẩy lùi.

Việt và nhóm Hồng Thập Tự vẫn ngược xuôi với công việc của mình. Thương vong đã giảm nhiều, dân chúng còn bám trụ trong thị xã đa số có hầm kiên cố, và sơ tán khi không còn pháo kích. Gần như những người cố bám trụ cuối cùng cũng phải chịu dời đi. Thị xã vắng hoe, không một bóng thường dân, chỉ có hoang tàn, lửa khói đó đây âm ỉ chực chờ bùng lên, bùng lên trong chốc lát rồi trở lại âm ỉ bởi không còn mấy thứ trong đống đổ nát để nó thiêu rụi nữa.

Chiến trận bước sang ngày thứ tư.

Tin vui được báo vể, quân nhảy dù tiếp viện nhảy xuống đánh chiếm lại được Bảo Định, đẩy lui Cộng quân ra xa dần và tiếp tục cả ngày thứ năm.

Ngày thứ sáu, chiến trường yên ắng. Không có những trận tiến quân qui mô. Đó đây chỉ có những trận chiến lẻ tẻ.

Binh tướng bắt đầu tự tin kháo nhau Cộng quân sẽ không thể đánh chiếm được thị xã, và như vậy cửa ngõ sẽ được an toàn.

Nhưng, mọi chuyện không diễn ra như vậy. Cộng quân chuyển hướng tấn công vào Trảng Bom, Biên Hòa.

Trong ba ngày sau, nơi này im bặt tiếng đạn bom, dĩ nhiên đạn bắn lẻ tẻ lúc này đâu còn tính nữa, chỉ còn nghe tiếng rền vang vọng và thấy những ngọn khói bốc cao.

Đến ngày thứ tư thì một số quân được máy bay đón, đưa về lập phòng tuyến mới ở Trảng Bon, Biên Hòa.

Đơn vị của Việt  vẫn đóng tại Tân Phong. Việt tham gia giúp dân ở trại sơ tán lên máy bay di tản. Công việc tất bật, anh cũng không rõ di tản đi đâu, có thể xuống Ô Cấp* (*Vũng Tàu) hoặc đi Sài Gòn.

Chuyến bay cuối cùng cất cánh thì trời đã vào chiều dịu mát. Lý ra Việt đã ở trên chuyến bay này, anh đã lừng khừng, nửa muốn bước lên nửa muốn ở lại, cuối cùng quyết định ở lại. Vẫn còn nhiều người dân chưa sơ tán, chưa đi tản. Hiện tại thì vẫn còn một đơn vị chốt lại cùng địa phương quân và các toán lính dù chưa rút ra hết. Việt quay trở về tuyến phòng thủ.

Đang bon bon chạy với những miên man hỗn loạn trong đầu, những ý nghĩ không rõ ràng cứ chập chờn nhảy múa, chúng xáo trộn, đan xen, ngắt quãng lẫn nhau trong Việt, bỗng anh giựt mình vì tiếng người la ới ới. Việt cho xe chạy chầm chậm và ngoái đầu vào một con đường đất đỏ thông ra đường chánh gần đó, thì anh thấy một người đàng ông hớt hải vừa chạy ra vừa ngoắc tay:

“Chú lính ơi, chú lính ơi…”

Việt ngừng xe, bước xuống đứng đợi. Người đàn ông chạy tới thì muốn đổ gục. Ông gập người thở hổn hểnh. Chờ cho người đàn ông tạm bớt cơn mệt, Việt hỏi:

“Dạ, có gì hông chú?”

“Dạ… dạ… chú lính… chú lính làm ơn giúp với…”

“Chú cứ nói, giúp được gì trong khả năng, con sẽ cố hết sức.”

“Dạ, tôi… vợ chồng tôi và con cái đi di tản, nhưng ở xa quá, bây giờ mới tới được đây, chú cho hỏi tập trung ở đâu vậy?”

“Dạ, tập trung ở cách đây chừng hai cây số. Nhưng…”

“Nhưng sao hả chú?”

“Dạ… nhưng… nhưng chuyến bay cuối cùng đã cất cánh.”

Vừa nghe xong thì người đàn ông ngồi thụp xuống. Cũng vừa lúc ấy vợ ông cùng bốn đứa con nheo nhóc chạy tới, thấy ông rũ rượi, bà hốt hoảng:

“Có chuyện gì hả mình? Có chuyện gì?”

Ông ôm đầu, một chập sau mới lên tiếng:

“Hết đường đi rồi, biết làm sao đây?”

Bà hỏi liền:

“Dạ, hết đường rồi hả chú lính?”

Việt bối rối trả lời:

“Dạ, máy bay cất cánh chuyền cuối rồi.”

“Hông còn xe cộ gì hết hả chú?”

“Dạ, dạ… xe cộ cũng thấy vắng hoe, cũng chạy hết trơn.”

Bà cũng ngồi thụp xuống, còn khóc huhu:

“Trời ơi Trời! sao khổ dữ vậy Trời! giặc giã miết, chạy giặc miết, rồi cũng hết đường chạy. Các con ôi! biết làm sao đây?”

Những đứa trẻ đứng nhìn ngơ ngác, có chút biểu hiện hoang mang. Chợt Việt nảy ra ý:

“Dạ, hay như vầy, chú thím cứ lấy xe con mà đi, ráng chen chúc chở các cháu mà đi, cứ chạy về hướng Ô Cấp. Có lẽ dưới đó chưa bị tấn công.”

Bà sáng mắt lên. Nhưng ông thì xua tay:

“Dạ, đâu được, chúng tôi đâu dám. Thôi, cứ đi bộ, tới đâu hay tới đó.”

Bà tiu nghỉu, nhưng bà cũng đồng tình:

“Dạ, chú còn làm nhiệm vụ.”

Việt bước lại tháo cái ba lô và vài vật dụng cần thiết:

“Dạ, nhiệm vụ sắp tới cũng không còn cần kíp xe lắm nữa rồi. Chú thím cứ lấy đưa gia đình đi cho an toàn.”

Đôi vợ chồng còn tần ngần. Việt lấy tư trang của họ cột vào xe. Anh làm rất dứt khoát, nên đôi vợ chồng khó cản. Nhưng ông vẫn nói:

“Dạ, làm vậy… coi sao được… làm…”

Việt ngắt lời:

“Dạ, không sao hết. Bảo vệ dân, cứu dân cũng là trách nhiệm của tụi con. Chú thím đi từ từ, cẩn thận. Chúc chú thím và các cháu bằng an.”

Ông chồng bắt tay Việt, nói lời cảm ơn trong nấc nghẹn, còn bà vợ thì xá liên hồi mấy xá.

Việt quay đầu bước đi nhanh, bước đi như chạy, một phần anh muốn nhanh về  đơn vị, một phần anh không muốn những câu hỏi về đủ thứ lởn vởn trong đầu.

 

***

 

Việt trở lại chiến hào khoảng 7 giờ tối, chỉ còn hai đại đội đóng quân, đang chờ các tiểu đoàn dù với thông tin chừng hai hoặc ba tiếng đồng hồ nữa sẽ hợp tại đây rồi cùng rút theo đường bộ về Phước Tuy* (*Bà Rịa – Vũng Tàu ngày nay). Đây là toán rút quân cuối cùng, là lực lượng tập hậu. Vẫn còn dân chúng các xóm Đạo, Bảo Định, Bảo Hòa và Bảo Toàn chờ củng đi với Địa phương quân.

Trước đó, vào chập tối, một lượng lớn quân đã âm thầm di chuyển. Dân chúng nghe được tin quân sẽ rút, nên cũng chuẩn bị gói gém hành trang để theo chưn di tản.

Việt ngả lưng, tựa vào những bao cát chất cao làm lô cốt phòng thủ. Người bắt đầu thấm mệt, bắt đầu thấy rệu rã, đôi mắt cứ muốn cụp xuống, Việt cố gắn giữ ở trạng thái lim dim.

Một chiến hữu đem tới cho anh một cà mèn cơm, và nói:

“Ăn đi anh bạn. Ăn xong nhắm mắt được một chút thì tốt, để chuẩn bị sức đi trong đêm.”

Việt cảm ơn. Anh mở hộp cơm ra, vừa định xúc ăn thì chợt trào nghẹn, rồi rùng mình và muốn ói. Trong hộp, Việt vừa thấy những hột cơm trắng muốt, thì vụt đã chuyển sang màu đỏ, những dòng máu đỏ phun xối xả, chảy ào ào trộn lẫn vào cơm, những miếng thịt những mảng da bầy nhầy văng bay tung tóe cũng văng vào đây, và cả những khúc xương nức gãy còn dính những miếng mỡ trắng phếu, chỗ đầu xương bị gãy có những hình như những mũi giáo răng cưa nhọn hoắc lớn nhỏ xen kẻ nhau lỉa chỉa, bên trong ống xương dòng tủy phụt bắn ra ngoài, mùi cơm vừa hít hửi được thơm tho thì cũng chuyển sang mùi tanh tưởi, tanh tưởi kinh người.

Việt không tài nào xúc được muỗng cơm đưa lên miệng. Anh đóng nắp cà mèn, ngồi thở dốc. Chờ một lát sau thì anh cố mở lại. Nhưng lần này cũng không khác gì, vẫn những hình ảnh như vậy chình ình trước mắt. Và tệ hại hơn nữa, anh không kìm được cơn buồn mữa, không kịp chạy đi ra bên ngoài, anh tuông ói ngay tại chỗ, lộn ruột ói ra tới mấy bận. Qua những cơn ói, người Việt run bắn lên, anh cảm thấy lạnh run và thở hổn hển trong khi bên ngoài thì mồ hôi túa ra.

Người chiến hữu thấy vậy, chạy lại đỡ Việt, anh ngoắc thêm một chiến hữu nữa và nói:

“Ông bạn này chắc bị gió má gì rồi, mau đưa vô chỗ kín gió một chút.”

Hai chiến hữu khiêng Việt xuống giao thông hào. Cơ thể Việt càng run bắn, nhưng sờ bên ngoài thì nóng hầm hập. Người chiến hữu nói:

“Chắc bị sốt, lên cơn sốt. Trước mắt anh chạy lấy dùm cái khăn nhúng nước lạnh, đắp lên trán để hạ nhiệt, sau chạy vào kiếm vài viên thuốc.”

Đắp khăn một hồi thì Việt đỡ lại. Người chiến hữu nói tiếp:

“Ráng ăn một chút rồi uống viên thuốc.”

Việt không còn cách nào khác, anh phải mở nắp cà mèn nhưng không dám nhìn vào nó, cứ mò mẫm mà xúc cơm rồi ngấu nghiến. Việt cũng khổng hiểu vì sao những hình ảnh này lại ám vào cà mèn cơm. Anh nghĩ, có lẽ bữa cơm rất nhạy cảm với mùi và hình ảnh ghê rợn. Việt cũng không dám hé môi kể với chiến hữu của mình. Một phần anh sợ tâm lý này sẽ lây lan, một phần cũng vì xấu hổ cho tâm lý dễ bị ám ảnh, không vững của mình.

Uống thuốc một hồi thì Việt thiếp đi hồi nào hông hay. Lúc anh sực tỉnh thì khá ngơ ngác, không hiểu chuyện gì xảy ra khi thấy sự chộn rộn xung quanh, anh còn không nhận biết được đang ở nơi nào. Người chiến hữu chạy lại, hỏi:

“Thức rồi hả? còn mệt lắm hông? Có khỏe tí nào hông?”

Việt vẫn ngơ ngác:

“Mình đang ở đâu? Mấy giờ rồi?”

“Gần 9h rồi. Ông bạn đang ở chiến hào, hổng nhớ gì sao?”

Việt vuốt mặt vuốt mày thì trí nhớ dần trở lại. Anh hỏi:

“À, chuẩn bị rút quân phải hông?”

“Ừ, lính dù đã ra tới, bà con cô bác cũng đã tập hợp hết rồi, chuẩn bị đi đó, đi nổi hông hay chắc phải lên xe rồi. Để tôi dìu ông bạn tới xe, chắc sắp có lịnh xuất phát.”

Người chiến hữu vừa dứt lời thì một tiếng uỳnh thiệt lớn nổ ra cách chừng một trăm thước mà chấn động cảm nhận rõ tại nơi này. Trong ánh sáng mờ mờ, Việt lại thấy mọi thứ bay tứ tung, nghe tiếng la hét thất thanh, tiếng khóc thét vang lên, những bước chân chạy loạn xạ, và tiếng hô: “Đạn cối, đạn cối, núp đi, tìm chỗ núp đi…” nối tiếp nhau. Mọi người chưa định thần thì kế tiếp liền là một tiếng uỳnh nữa, nhưng không cách xa mấy mà ngay chỗ Việt, anh choáng váng bởi đất trời như rung chuyển bần bật trước mặt, dưới chưn mình. Người chiến hữu kéo anh cùng một số người nữa nhảy vào cái hố lớn mà tiếng uỳnh vừa tạo ra. Việt cắm đầu xuống đất, nghe theo lời của các chiến hữu như một cái máy. Mấy tiếng uỳnh uỳnh nữa liên tục dội xuống, Việt nghe văng vẳng trước khi vật ngã nằm ngang bất tỉnh, do người còn thấm mệt mà chấn động lại quá dày đặc: “Pháo kích, chúng pháo kích ngay vào dân thường, chúng giết dân thường không gớm tay, dân chết nhiều quá, quá sức man rợ!”

 

***

 

Việt không thấy thân mình nặng chịch, uể oải như mấy ngày nay, anh thấy mình nhẹ hẫng bay bay trong không trung. Anh rất thích thú, cảm giác như những sợi mây trắng lững thững trôi, lững thững mơ màng, không màng gì tới điều gì khác. Trong không trung rất êm dịu như thế này thì còn gì bằng nữa mà không cảm thích. Lâu lâu chỉ có một chút mùi khen khét làm khó chịu mà thôi.

Nhưng rồi, một bóng dáng chợt bay vụt qua, hai ba bóng dáng nữa bay vụt vụt, mỗi lần như vậy là mỗi lần Việt giựt thót người, không hiểu được chuyện gì đang xảy ra. Chưa kịp tìm hiểu, chưa kịp hiểu thì một bóng dáng bay ngay tới ngừng ngay trước mặt, và hỏi:

“Thân mình tôi đâu, anh có biết hông?”

Việt nhìn kỹ, thì ra bóng dáng chỉ có mỗi cái đầu, cái đầu mang bộ tóc rũ rượi, cùng đôi mắt mở trừng trừng, dòm thấy hầu như là tròng trắng. Việt ớn lạnh, dĩ nhiên anh không biết, anh đáp:

“Dạ, hông, hông biết.”

Bóng cái đầu buồn rầu bay đi. Việt cũng buồn rầu không kém, nhìn theo bóng dáng chưa khuất thì bóng một cánh tay xoay xoay như chong chóng trước mặt, cùng với câu hỏi đó, có khác là hỏi thêm cái đầu. Việt chưa biết trả lời thế nào cho vơi bớt sự thất vọng cho bóng dáng thì liên tục những câu hỏi tương tự xoay quang anh cùng những bóng dáng thiếu hụt thể xác. Bóng dáng một cẳng chưn xoay tròn như cánh tay, bóng dáng một nửa thân mình phía trên, một nửa thân mình phía dưới, một nửa thân mình theo trục dọc, bóng dáng một cái đầu bị tuốt mất phần da còn như cái đầu lâu, bóng dáng một bộ xương cũng bị tróc gần hết bộ da… Và những bóng dáng khác, cùng với những lời sầu bi không thể nào thê thảm hơn nữa: “Trời ơi! ruột gan của tui, ruột gan của tui sao đổ hết ra ngoài thế này?”, “Con mắt của tui đâu, có ai lượm được con mắt của tui hông?”, “Tui khó thở quá, tui ngột thở rồi, cho tui chút hơi thở đi, Trời ơi!”, “Cứu với, cứu với, Trời ơi! cứu tui…”… Cùng với lời kêu than là hành động của các bóng đáng, hốt ruột gan nhét lại vào trong bụng, cố hả họng để tìm chút ô xy, chút khí trời…

Việt càng ớn lạnh, nãy giờ đã run lẩy bẩy thì càng run bần bật hơn nữa. Anh trả lời lớn, như thể một câu chung:

“Dạ, hông biết, chẳng biết gì cả.”

Việt nhìn kỹ lại mình, anh không bị là sao cả. Anh không hiểu chuyện gì xảy ra hết cả. Anh suy nghĩ được gì để tìm hiểu tại sao. Trong anh bây giờ chỉ có nỗi sợ hãi, hãi hùng trùm hết người mình.

Nỗi sợ càng lúc càng lớn dần, anh sợ sẽ còn nhiều bóng dáng bay tới nữa, Việt muốn bay trốn, muốn trốn thiệt nhanh. Anh tìm những đám mây lớn để ẩn mình vào trong đó, những đám mây đen càng tốt. Nhưng quẩn quanh không có một đám mây nào. Chỉ có bóng đen tăm tối bao phủ. Không có một nơi nào trốn tránh được. Anh cứ xà quần xà quần mãi. Các tiếng thở than, các câu hỏi dần dần vơi bớt. Việt không vui mừng, anh chỉ cầu mong không phải nghe thêm mà thôi.

Cầu mong của Việt không được toại nguyện. Anh không còn nghe tiếng kêu than, nghe những câu hỏi nữa, nhưng thay vào đó là tiếng rên rỉ, rên rỉ hừ hừ từng tràng kéo dài, rên rỉ buốt tới tận óc. Khó chịu đựng quá đỗi, Việt bức bối và nổi nóng bất tử, một cử chỉ hiếm có trong anh, Việt la lớn:

“Thôi đi… im đi… im ngay đi…”

Tiếng rên im đi. Kế tiếp thì có giọng khàn khàn nhưng nghe như tiếng rên:

“Dậy đi ông bạn. Dậy đi, đừng mê man nữa, ráng dậy đi, đừng mê man mà đi luôn, bỏ tui một mình bơ vơ nơi này.”

Nói xong, lại có tiếng rên hừ hừ. Việt cảm giác như có ai đang vịn vào người, lay người mình. Và đúng như vậy, Việt bất tỉnh, gần như chết rồi, anh bay bay là hồn anh đang bay đó thôi. Bay bay, anh gặp những hồn đã lìa khỏi xác bị thương tật kinh hoànhg. Kề bên anh bây giờ là một người chiến hữu bị thương lết được lại đây nằm kề và rên rỉ đã lay lay người anh. Việt tỉnh được, tỉnh khỏi cơn mê man. Người chiến hữu mừng rỡ:

“Ồ! Ông bạn tỉnh được rồi. May quá, không thì một mình tui chết ở đây thiệt sầu quá.”

Việt đã bớt mơ hồ, anh dần dần nhớ lại. Lâu lâu có mùi khét, À đó là mùi thuốc súng, mùi cháy khét của chiến trường đã tan dần đó thôi, anh đã biết mình đang ở chiến hào. Anh bật ngồi dậy:

“Anh bị thương ở đâu, để tui băng bó cho anh. Anh đợi một chút nhé.”

Việt chạy vào các dãy lán trại, lục tìm được hộp cứu thương. Anh quay lại băng bó nhiều vết thương khắp mình mẩy người chiến hữu, nặng nhứt là ở chưn, bị gãy ngang đoạn xương ống quyển. Việt hỏi:

“Mình hình như bất tỉnh ở đây, chẳng biết mô tê gì, chúng ta bị pháo kích thì phải?”

Người chiến hữu đáp trong nghẹn ngào:

“Đúng vậy. Hơn cả chục quả đạn cối dội ầm ầm xuống, không chỉ lính trận mà bà con theo di tản bị chết nhiều lắm, chết đau thương, xác không còn nguyên vẹn, như bị phanh thây. Kinh khủng tận cùng của sự dã man.”

Việt lắc đầu mệt mỏi:

“Anh nằm đây chút nhé, tui đi xem, coi có ai còn sống không.”

Đi một vòng, Việt trở lại:

“Không thấy một dấu hiệu nào của sự sống, kể cả cây cỏ, một bãi tha ma, toàn mộ mùi chết chóc. Có lẽ mọi người nghĩ hai ta cũng đã chết, nên đã nhanh chóng rút đi rồi.”

“Có lẽ vậy.”

Người chiến hữu đã đỡ đau hơn đôi chút nhờ những viên thuốc giảm đau. Việt nói:

“Ta rời khỏi đây thôi. Để tui dìu anh đi.”

Việt loay hoay dìu người chiến hữu, nhưng không tài lên nổi cái hố sâu hoắm, người chiến hữu cố lắm cũng không nhích chưn lên được, Việt xoay qua cõng cũng không thể. Anh đặt chiến hữu nằm ngửa,và nói:

“Xin lỗi anh bạn, không còn cách nào khác, tui phải kéo anh lên, ráng chịu đau một chút.”

Việt kéo từng chút, nhích từng chút, cuối cùng cũng lên được khỏi hố, anh và chiến hữu vật ngửa người nằm thở dốc. Người chiến hữu còn một chưn nguyên vẹn cũng ráng chòi đạp xuống đất nên mệt phờ, quên bớt cơn đau từ những vết thương tứa máu.

Nghỉ ngơi khỏe lại, Việt đỡ chiến hữu lên, dìu anh đi từng bước chầm chậm. Đi được chừng hai cây số, lúc này Việt thấy khỏe lại, anh xoay qua cõng người chiến hữu, ráng cõng chừng một cây số thì cùng ngồi nghỉ, sau đó cùng dìu nhau đi tiếp, khỏe chút thì cõng tiếp, cứ như vậy ráng lê lết dần dần con đường Tỉnh lộ 2* (Quốc lộ 56 ngày nay).

Đã trải qua khoảng ba tiếng đồng hồ, đã qua chừng mười cây số, Việt vừa dìu chiến hữu đi vừa trò chuyện, hỏi han gia cảnh của nhau để vơi bớt nỗi đau. Đường đi vắng vẻ, con đường dường như rất ít được sử dụng nên nhìn rất hoang phế dù đường không đến nỗi xấu, đó đây có những hố bom hố đạn, và rừng cây rậm rạp, nhiều cành cây, cỏ dại phủ ra hai bên đường. Lâu lâu tiếng súng lại rộ lên, vang vọng tới. Rồi từng tràng tiếng súng nghe rất rõ ở phía trước. Ngừng lại nghe ngóng, người chiến hữu nói:

“Phía trước không xa lắm là đồn Long Giao. Có lẽ có chạm trán ở nơi đó.”

Việt tần ngần:

“Bây giờ làm sao đây? hông biết có còn con đường nào nữa hông?”

Anh vửa dứt lời thì có hai người lính ôm súng ở phía ngược hướng hớt hải chạy tới.

Việt hỏi:

“Giao tranh phía trước hả anh?”

Anh đáp:

“Bị phục kích, đoàn rút quân tụi tui bị phục kích. Đồn Long giao cũng đã bị thất thủ.”

Người chiến hữu bị thương nói:

“Khắp nơi đã bị bao vây, bao vây tứ phía rồi quá.”

Việt đồng tình, rồi hỏi:

“Có lẽ vậy. Nhưng hai anh đang định chạy đi đâu?”

Một trong hai người trả lời:

“Bị bất ngờ, bị bắn rát quá, một số thương vong, quân tan đàn xẻ nghé, chạy tán loạn hết, hai tui cắm đầu chạy đại chứ chưa rõ đi đâu. Bây giờ mới định thần, chạy hướng này cũng đâu có được, phía đó ta vừa đi mà. Chắc phải băng rừng mà đi, không đi ngời ngời ngoài đường như thế này được.”

Cả bốn đồng tình, chuyển vào rừng và nhắm hướng đi. Họ di chuyển rất chậm, chậm chạp đến độ dễ sốt ruột nếu trong hoàn cảnh bình thường. Bởi vừa dìu người bị thương vừa khe khẽ vạch đường vạch lối, luồn cuối trong rừng rậm, tìm đường trong rừng nguyên sinh đầy gai góc, đầy nhánh cây tua tủa đan xen và cả những bụi cỏ cao ngất bon chen. Họ không dám gây tiếng động lớn, thậm chí là sợ đánh động những đàn chim, những con thú rừng.

Đã ba ngày trôi qua, trước mặt họ vẫn rừng là rừng. Họ không biết đã đi được bao xa. Đêm không dám đốt lửa, tìm những hốc đá hoặc hốc cây lớn mà trú ngụ. May còn những túi ngủ nên chống chọi được với muỗi mồng dày đặc. Ba người lành lặn thay nhau gác đêm. Thực sự thì cũng chỉ là cẩn thận không thừa, chứ trước mặt chỉ là một màn đen tối như mực. Trong cái tối này và giữa rừng, tưởng chừng như một ánh lửa nhỏ sẽ không tồn tại. Không ai dại gì rọi đèn để soi tìm, đó là cách tự tố giác vị trí của mình mà thôi, hoặc có dùng ánh đèn để đánh lạc hướng cũng không mấy hiệu quả.

Việt ngủ rất lơ mơ, chập chờn, nhưng anh không nghĩ ngợi gì, kể cả lúc thức, nỗi ám ảnh bị phục kích cứ thường trực trong đầu. Và họ rất dè sẻn, dè sẻn từng chút thức ăn, phải tìm lá, tìm trái cây ăn dặm thêm. Phía trước là một bức màn mịt mùng, họ đâu biết hành trình bao giờ kết thúc, bao giờ được thoát ra. Thú rừng nhiều vô kể nhưng họ không dám săn bắt, có bắt được thú một cách không gây náo loạn đi chăng nữa cũng không thể ăn thịt sống. Họ chưa tới mức độ này.

Đi tới gặp một dòng suối nhỏ. Dòng nước mát lạnh xăm xắp ngang mắt cá chưn trong vắt chảy qua những hòn đá cuội, chảy qua những lớp sỏi nằm bên dưới, có những đụn cát rải rác đó đây cũng giống như bên lở bên bồi ở các dòng sông. Đá cuội và sỏi được mài nhẵn, sáng bóng. Những hòn đá lớn nằm cạnh bờ mới có chỗ bị rong rêu bám vào.

Bốn người lính bê bết, tả tơi vốc nước thỏa thuê lên mặt, lên cổ. Họ có được phút giây sảng khoái. Tình cờ, lúc ngước mặt lên để tận hưởng hết sự sảng khoái, Việt thấy được rất nhiều những chùm bông tím trên những cành cây có xen lẫn những lá đã chuyển màu cam cam, vàng vàng. À, anh nhớ ra, đó là những bông bằng lăng đúng mùa nở rộ. Những lá cam cam, vàng vàng làm cho nơi đây giống mùa thu của các xứ lạnh, mùa thu tay lá. Bất chợt, Việt ước cuộc đời phải chi được như ở dòng suối này. Nó tuyệt đẹp, nó trong sáng, nó thanh bình, nó gột rửa và nó được gột rửa. Dòng nước gột rửa, những viên đá cuội, những hòn sỏi được gột rửa. Gột rửa, Việt thấy thêm được một hình thái khai sáng, như anh đã thấy ánh sáng chiếu vào vùng u tối. Ừ, nơi đây có cả những tia sáng chiếu xuyên qua rừng cây tán lá, đúng hơn là những luồng sáng chứ không chỉ là tia, những luồng sáng tới đây thiệt dịu, thiệt nhẹ nhàng. Anh nghĩ, nếu thoát ra được nơi này, rồi sẽ có một ngày anh trở lại khi nơi đây không còn là chiến trường. Ừ, mà phải là tất cả các nơi đều không còn chiến trường.

Việt thấy một người định vốc nước uống. Tìm thức trong anh thức tỉnh, anh vội ngăn lại:

“Ui, khoan, khoan đã, khoan vội uống.”

Cả ba chiến hữu ngạc nhiên:

“Sao vậy?”

“À, trong nước có thể có ký sinh trùng, uống vào có thể gây một số bịnh.”

“Vậy phải làm sao đây? Nước mát quá và chắc là rất ngọt.”

Việt làm cử chỉ trấn an. Anh lấy ra con dao găm, tìm một đụn cát ẩm, rồi đào một cái hố nhỏ. Một lúc sau thì những mạch nước nhỉ ra, nước cũng trong veo và mát lạnh. Anh nói:

“Nước đã được cát lọc bớt, uống an toàn hơn.”

Bốn người họ vốc nước uống ngon lành. Một người nói:

“Đúng là Biệt động quân có khác.”

Việt cười gượng gạo:

“Biệt động quân thiếu chuẩn, Biệt động quân thiếu beret”

Lấy nước đầy các bi đông, chuẩn bị tiếp tục hành trình, thì… nơi ngọt ngào trở thành đắng chát. Ừ. Phải, người ta thường nói nơi nguy hiểm nhứt là nơi an toàn nhứt đó thôi. Việt chợt nhớ, những người đi săn thường phục ở những nơi như thế này để rình rập, để chờ đợi những con thú ra uống nước hoặc tìm thức ăn.

Những một loạt đạn bay tới cùng những tiếng hô lớn:

“Buông súng, bước lên đầu hàng đi, chúng bây đã bị bao vây.”

“Bao vây chúng, tiểu đội chúng ở hết dưới suối.”

Việt chưa kịp phản ứng gì, anh nhảy lại núp sau một tảng đá để quan sát, một chiến hữu theo bên anh, còn một thì tách ra cách một đoạn, nhưng sực nhớ tới chiến hữu bị thương, Việt nói:

“Anh bắn trả đi, để tui lui đỡ anh bạn.”

Việt bước lồm cồm lại kéo chiến hữu bị thương tới chỗ núp trong khi người chiến hữu bên tảng đá lia một loạt đạn dài, anh phía bên kia cũng bắn tới tấp. Việt cũng nghe hai loạt đạn đáp trả. Khi về lại chỗ, anh nhận định:

“Có lẽ họ có hai người hoặc ba thôi. Họ nghĩ ta đông, cả tiểu đội. Chúng ta bắn rát một loạt nữa xem sao.”

Người chiến hữu đồng tình. Việt chẳng thể hiểu nổi tại sao mình bỗng dưng như kẻ dày dạn trận mạc. Có lẽ rằng, không chỉ chiến trường mới biến con người ta trở thành như vậy. Bị dồn vào những thảm cảnh đau thương, những gai góc của cuộc đời nó cũng biến con người ta mau chóng thu nạp kinh nghiệp và nhạy bén nữa.

Cả hai cùng xiếc cò, và ra dấu nên người chiến hữu phía bên kia xiếc cò theo. Tiếp tục có hai loạt đạn đáp trả. Tạm nghỉ để coi thế nào và nạp thêm đạn, song, Việt ra dấu bắn tiếp. Không nghe tiếng đạn bắn trả mà chỉ nghe một tiếng đạn lẻ, và cũng không nghe chiến hữu bên kia bắn tiếp, Việt quay qua thì… hỡi ơi! người chiến hữu bên kia đã đổ gục, nằm bật ngửa dưới dòng suối, máu loang đỏ rồi hòa vào dòng nước nhỏ, nhạt dần trôi đi. Việt lồm cồm chạy lại, người hữu tiếp tục bắn xối xả, anh rờ mạch rồi ôm đầu, rồi bưng mặt, rồi lắc đầu…

Việt quay lại chỗ núp, không còn nghe tiếng súng khá lâu, anh nói:

“Ảnh đi rồi. Và chắc họ ít người thiệt, nên cũng đã rút. Ta tranh thủ đi nhanh thôi.”

Người chiến hữu hỏi:

“Bỏ ảnh nằm đây sao?”

Việt thở ra rất mạnh:

“Trong tình thế này thì không thể khác rồi.”

Người chiến hữu cũng thở dài, tiếng thở dài chầm chậm chạy theo dòng nước nhẹ còn loang máu màu hồng, bịn rịn một tí rồi anh đành gật đâu.

Việt cố tỏ ra cứng rắn, không cứng rắn thì nơi đây không chỉ có một cái xác từ từ mục ruỗng mà sẽ có tới bốn cái xác chứ không đùa được. Anh cố nén cảm xúc vừa chực chờ, đành để chiến hữu nằm cô độc ở đây mà không có nỗi một nấm mồ dù lạnh giá. Hy vọng, nếu may mắn hơn thì anh có được nơi an nghỉ tươm tất.

Người chiến hữu nói:

“Xin lỗi anh bạn, tụi tui đành đi thôi. Đi nhanh thôi.”

Việt vừa xốc chiến hữu bị thương chuẩn bị đưa lên vai thì nghe có tiếng kêu cứu:

“Cứu tôi với, cứu với…”

Việt và chiên hữu khá tần ngần, và anh đặt người chiến hữu bị thương xuống và nói:

“Có lẽ họ cũng bị thương.”

Người chiến hữu nói:

“Coi chừng là cái bẫy.”

Việt gục gật, nhưng rồi anh không can tâm:

“Lỡ họ bị thiệt thì sao? Ta đâu thể bỏ mặc được, họ cũng là con người.”

Người chiến hữu im lăng. Việt nói tiếp:

“Anh ở đây canh chừng, tui dò xét xem sao.”

Việt luồng đi nhanh và rất nhẹ nhàng, đây là sở trường của anh được huấn luyện. Cánh rừng vắng lặng, vắng đến rợn người sau những loạt tiếng đạn kinh động. Rồi Việt nghe tiếng rên rỉ. Bằng trực giác và quan sát thêm Việt chắc rằng kẻ đối đầu vừa rồi đã bị thương. Anh lần tới, quả đúng là như vậy, và đó là địa phương quân, anh ta mặc bộ bà ba đen. Thấy Việt, anh ta có vẻ hốt hoảng, anh ta thều thào:

“Đừng bắn, đừng bắn tôi.”

Việt đưa tay lên môi suỵt sụyt:

“Tui không bắn anh, nhưng anh đã bị thương vẫn còn bẫy tôi sao?”

Anh ta nhúc nhích nhẹ đầu, ý muốn lắc đầu:

“Không. Tôi không bẫy anh đâu. Chúng tôi chỉ có hai người thôi, chúng tôi chỉ là trinh sát, đang ở xa căn cứ nhưng ham lập công, khi tôi bị thương, người đồng chí đã bắn phát đạn ân huệ tưởng rằng tôi đã chết, đã chạy chắc rất xa rồi.”

Việt khá sững sờ. Anh hỏi lại:

“Thiệt chứ?”

“Người sắp chết không thể nói dối.”

Việt bồng anh ta lên, đưa xuống suối, và nói:

“Anh không phải chết. Tụi tui sẽ cứu anh.”

Đến suối, Việt thuật nhanh lại câu chuyện, rồi anh nói người chiến hữu:

“Anh lục lấy dùm hộp cứu cấp.”

Việt tiêm cho anh ta một mũi thuốc. Người chiến hữu lấy bông băng. Bỗng anh ta thều thào cản lại:

“Đừng, đừng… đừng băng bó những… thứ đó cho tôi…”

“Chúng tôi bằng bó cho anh rồi đưa anh ra khỏi đây.”

“Không… không, làm ơn… đừng… tôi sẽ không sống được lâu nữa…”

“Anh sẽ sống…”

“Không… tôi biết sức mình… biết được cái chết đang đến, xin… các anh… có gì ăn thì… cho tôi ăn, tôi không muốn làm… ma đói…”

Người chiến hữu gật đầu ngay:

“Được, được.”

Anh nhanh tay lục lấy hộp cơm sấy trút ra cà mèn, đổ nước từ bi đông vào, cơm nở thì anh nhẹ nhàng bón từng muỗng cho anh ta. Ăn một hồi thì anh ta nói với gương mặt đượm buồn:

“Cảm ơn các anh… Tôi chết không… thành… ma đói nhờ kẻ thù của mình… nhờ cơm của đế quốc Mỹ.”

Việt đáp lại:

“Tất cả là do hoàn cảnh. Chúng ta bị bắt buộc như vậy mà thôi, bây giờ ở đây tụi tui và anh là những con người.”

Anh ta nhích cười có chút mỉa mai:

“Xin các anh một điều nữa, các anh hãy… xé áo của tôi mà băng cho tôi, đừng… lấy bông băng Mỹ – Ngụy, các đồng chí… của tôi tìm được xác thì nguy, tôi trở thành kẻ tội đồ, hèn nhát… đầu hàng giặc…”

Việt và người chiến hữu ngỡ ngàng, không thể hiểu nổi. Người chiến hữu thở dài:

“Trời ơi! tới nước này mà còn như thế này, ngay chính người của mình hạ sát không thương tiếc mình mà còn đồng chí. Họ bị nhồi cái triết lý quái quỷ gì thế này.”

Anh ta ưa ứa nước mắt, nói tiếp:

“Các anh đi đi…”

Việt cản lại:

“Tụi tui sẽ đưa anh cùng đi.”

“Không… tôi chỉ còn vài giây phút nữa thôi.” – Anh ta cố đưa tay lên chỉ: “Các… anh nên đi hướng này, hướng… khá an toàn.”

Việt móc gói thuốc lá:

“Anh làm một điếu được chứ? Đây cũng là thuốc lá Mỹ đó.”

Mắt anh ta sáng lên, anh ta mấp môi, cử chỉ không chỉ đồng ý mà còn mừng rỡ. Việt đốt điếu thuốc đưa lên môi cho anh ta, anh ta rít sảng khoái:

“Cảm ơn… cảm ơn…”

Người chiến hữu hỏi:

“Bao giờ thì đồng đội anh trở lại?

Anh ta đáp:

“Sẽ không trở lại.”

“Chắc chứ?”

“Căn cứ… ở xa lắm, đây… đây… cũng không phải điểm trọng yếu… tôi xin thề… Cảm… cảm… – Nói chưa hết được lời cảm ơn thì anh ta quẹo đầu sang bên.

Bần thần trong giây phút, rồi Việt nhận định:

“Người chết, dù gì đi nữa cũng không nói dối, họ sẽ không trở lại. Ta phải chôn cất đàng hoàng hai thi thể này thôi.”

Tìm được chỗ, Việt và người chiến hữu đào huyệt, rồi đắp mồ. Họ lấy những tảng đá lớn đặt ở đầu mộ thay cho tấm bia. Người chiến hữu nói:

“Trước đây chừng tiếng đồng hồ, họ là kẻ thù của nhau, cố giết nhau, bây giờ lại nằm cạnh bên nhau. Mong cho họ có được sự bằng an ở thế giới bên kia, và là bạn bè, không còn chỉa súng bên nhau.”

Việt và chiến hữu bị thương gật đầu. Cả ba chào theo điều lịnh quân đội. Rồi Việt xốc người chiến hữu bị thương lên vai:

“Đi thôi. Theo hướng anh ta chỉ thôi.”

 

***

 

Người chiến hữu nhảy lên bờ qua dòng suối, phạt và đạp cành cây rào rào, rừng chỗ này thưa hơn một chút, nên có thể chạy chậm được, Việt vác người chiến hữu bị thương băng theo sau mà anh thấy nhẹ tênh, không hề nặng nhọc lắm.

Ý chí con người quả là có sức mạnh hơn sức mạnh thể xác khi cần kíp.

Chạy phải hai cây số thì họ mới ngừng nghỉ, cũng bởi vừa thấy được một hốc đá khá kín kẽ.

Bấy giờ họ mới ngồi thở dốc. Người chiến hữu bị thương thì rũ rượi, máu tươi rướm ra khắp các vết thương, ngồi tựa vào tảng đá mà đầu cuối gục, gần như bất động. Việt lay lay vai anh:

“Ráng lên anh bạn, rồi sẽ tìm được đường ra.”

Chiến hữu bị thương cố ngước đầu lên nói thều thào:

“Hai anh đi đi.”

Người chiến hữu kia nói liền:

“Hông được. Đi cùng đi, ở cùng ở.”

Việt đồng tình. Người chiến bị thương nói tiếp:

“Hai anh nên đi. Ở lại chỉ có chết chung.”

“Ừ, thì chết cùng chết, sống cùng sống.”

“Tại sao phải phí cuộc sống như vậy? Tại sao phải đánh đổi hai mạng sống vì một mạng sắp chết. Hai anh đi vẫn còn hy vọng. Vả lại như lúc chúng ta tâm sự ở dọc đường, anh đã biết rồi đó, tui là đứa trẻ mồ côi, không còn gì để mất, hai anh còn quá nhiều thứ để mất mát. Tấm thịnh tình của các anh  xin ghi tạc, xin cảm ơn các anh đã không rời bỏ đồng đội, dù chúng ta là các không cùng đơn vị. Xin hai anh, hai anh đi để kẻ này nằm lại được nhắm mắt yên lòng.”

Việt và người chiến hữu vẫn nhứt quyết không rời đi. Và chuẩn bị để tiếp tục thì người chiến hữu bị thương nói:

“Hai anh cho xin vài phút riêng tư, chỉ vài phút, vài phút suy nghĩ nhé.”

Việt và Người chiến hữu bước ra bên ngoài, cũng là để dò xét tình hình. Rồi một… tiếng đùng chát chúa vang lên bên tai. Tiếng đùng dội vào vách đá vang vọng, Việt  và người chiến hữu đã giựt thót thì càng rợn người hơn nữa bởi tiếng vọng kéo dài nhiều tiếng, tiếng vọng như thể đi về một nơi nào đó hun hút, đi về một nơi thăm thẳm.

Họ lại chứng kiến cảnh máu loang. Máu đã loang muôn nơi. Máu loang trên đất, máu loang trên cát, máu loang trên đường, máu loang trên thềm, máu loang trên nước, máu loang trên cỏ cây hoa lá, và bây giờ máu loang trên đá.

Họ quỳ phục bên thi thể, bên dòng máu loang của người bạn. Họ gần như bất động. Họ muốn thét lên, nhưng cũng chỉ phát ra được tiếng “Trời ơi!” nho nhỏ, chẳng khác gì tiếng rên. Cả lồng ngực họ đã ngập nỗi ức nghẹn. Mắt họ đỏ hoe và những dòng lệ tự động chảy tuông, không kìm nén được.

Việt cũng muốn bắn vào họng của mình. Anh muốn kết thúc nỗi thống khổ, giải thoát khỏi nỗi thống khổ, anh muốn đi theo tiếng vọng xa thăm thẳm chứ không còn muốn nghe nó nữa, không còn muốn thấy dòng máu loang nữa. Anh kinh sợ dòng máu loang lắm rồi, anh sợ nó không bao giờ kết thúc.

Người chiến hữu vội gạt ngang khẩu súng, ôm chầm lấy anh. Hai con người có lúc mạnh mẽ tưởng chừng như cơn bão, tưởng chừng như không có gì có thể quật ngã họ được rung lên bần bật, nước mắt tuông ra chảy dài…

Họ cứ mặc kệ, cứ để nước mắt chảy dài, họ không nói gì, lặng lẽ đưa xác chiến hữu bị thương đi chôn. Họ ngã người nằm ngửa với đầu gối lên nấm mộ với gương mặt như đứa trẻ nít khóc lớn, nước mắt nước mũi chảy dài và lem luốt bởi cánh tay, bàn tay quẹt ngang. Họ không buồn lau sạch và chẳng nói một lời, không còn lời để thốt ra nữa.

Rồi họ đứng dậy, bá vai dìu nhau đi. Hai thân thể thất thểu bước đi như hai bóng dáng vô hồn.

 

***

 

Hai cái xác vô hồn lẩn quẩn trong rừng thêm bốn ngày. Rồi cũng ra được khỏi rừng mà không bị phục kích lần nào nữa. Ra đến được Quốc lộ 15* (*Quốc lộ 51 ngày nay) ở đoạn phía dưới, qua cả xã Phước Lễ* (Tỉnh lỵ Phước Tuy – thành phố Bà Rịa ngày nay) mà họ cũng không thể biết vì sao ra được đến đó.

Việt và chiến hữu đang lừng khừng, chưa định được nên đi tiếp về hướng Ô Cấp hay đi ngược lại Phước Lễ, thì một chiếc GMC chở một toán lính chừng một tiểu đội chạy tới, xe rề rề lại, những người lính ngoắc và đưa ta kéo họ lên.

Lên xe rồi Việt mới biết Phước Lễ đã về tay Cộng quân.

Xe tiến thẳng về cửa biển Vũng Tàu. Tại đây có những chiếc tàu nhỏ đưa quân nhân ra Dương vận hạm đang neo ngoài khơi. Rất nhiều tàu đánh cá chở dân chúng cũng chạy ra theo xin di tản. Hạm  trưởng đã nhận được lịnh được di tản tự do.

Việt và người chiến hữuđược ăn một bữa no nê. Anh lên bon tàu, kiếm một chỗ khá vắng thả người nằm dài. Bây giờ anh mới cảm nhận được cơn mệt mỏi chất chứa, nhưng không ngủ được, Việt đành trở tư thế ngồi tựa lưng. Anh nhìn biển cả mênh mông, nhìn nước biển trong xanh với cặp mắt không hiểu sao vẫn cứ trơ trơ, không cảm nhận được điều gì. Có lẽ đầu óc trống rỗng, không có chút suy nghĩ nào hiện diện, thay vào đó đã bị trạng thái vô thức lấp đầy được gây ra từ sự mệt mỏi, nên đầu óc không còn điều khiển được điều gì cả. Những hành động lúc này thuộc về bản năng sinh tồn. Anh còn không biết chiếc hạm đang đón thêm dày đặc người ùn ùn kéo tới, còn không biết có cả những chiếc trực thăng chở đầy người đáp xuống, mà tiếng nổ máy của trực thăng đâu phải là nhỏ, cánh quạt của nó xoay khùng khục tạo ra gió rần rật cả một khoảng không gian rộng chứ đâu vừa.

Nếu trong hoàn cảnh bình thường, thì người ta dễ cho rằng đây là một trạng thái vô cảm, một trạng thái trơ trơ gỗ đá của trái tim trong con người này. Ưm, nhưng trạng thái vô thức của Việt cũng không hẳn hết do sự mệt mỏi gây nên, nó còn từ những chấn động tinh thần, chấn động liên tục, liên tục, liên tục đến nỗi tinh thần bị dồn ép thành một khối cứng đờ, tưởng tượng được rằng, giả sử nó nổ tung thì nó nổ không thua gì tiếng đạn cối và nó vang vọng trong không trung không thua gì tiếng súng vang trong vách đá. Nhưng nó không thể nổ, nó đã kết tinh như vật thể kết tinh nằm sâu trong lòng đất, ngay khi được người ta đào đưa ra khỏi nơi kìm nén từ rất lâu nó cũng không thể nổ.

Từ gần trưa, Việt ngồi gần như bất động cho đến tối. Khi ánh đèn  được bật lên, Việt nhìn chằm chằm vào những tia sáng, không phải anh thấy nó giống những tia sáng hừng đông, những tia sáng khai sáng, mà bởi nó có một sức hút kỳ lạ, như những tia sáng thôi miên. Ánh đèn thôi miên Việt không lâu thì anh vô thức hoàn toàn, giấc ngủ kéo tới phủ kín người anh.

Và anh ngủ một mạch cho tới khi Dương vận hạm khởi hành mới thức giấc. Anh nghe người ta kháo nhau, chiếc hạm xuất phát đi Phú Quốc.

Vệ sinh thân thể sạch sẽ, Việt lấy lại được phần nào sự tươi tỉnh. Dương vận hạm lúc này khá đông người. Việt len ra phía sau đuôi tàu. Anh tựa lan can dòm dòng nước trắng xóa mà chiếc hạm rẽ làm đôi như hai luồng nước nổi chạy ngược và thấy lớn dần chứ không nhỏ bởi càng lúc càng xa. Ngoài hai luồng nước, chiếc hạm thiệt lớn cho nên sóng biển trở thành những con sóng lăn tăn. Rồi Việt thấy một đợt sóng lớn hơn cuộn cuộn kéo tới hướng cắt ngang chiếc hạm. Đợt sóng này so với chiếc hạm cũng không là gì nhưng tự dưng trong lòng Việt lại cuộn lên như sóng, làm anh thấy sóng cuồn cuộn tiến lại càng lúc càng lớn, rất lớn. Anh lại thấy mờ mờ, ảo ảnh nhiều thứ phía trước con sóng, thấy những dãy nhà, thấy những làng quê, thấy những cánh đồng rau, thấy những cánh đồng đầy bông hoa, thấy những con người nhộn nhịp đi lại, làm lụng, thấy những ngôi trường với những tà áo trắng, nhứt là những tà áo dài tung bay, và rồi anh vừa thấy tà áo tím thì đợt sóng lao tới cuốn phăng đi tất cả…

Tìm thức lại tỉnh ngủ. Anh chưa nghĩ về quê nhà, về gia đình, về Nàng Nụ Tím Gia Long, về trường lớp… bởi anh chưa biết Dương Vận Hạm sẽ đưa về đâu, sẽ làm gì, nhưng bây giờ anh biết, mỗi phút chiếc hạm rẽ nước lao đi là mỗi phút anh nhòa dần những hình ảnh mà tìm thức khơi dậy, anh sẽ mất chúng.

Vửa lúc này thì có chộn rộn. Chiếc hạm neo lại, đã ở gần Đảo Ngọc* (*Phú Quốc) và đó thêm một số người nữa từ các ghe đánh cà vừa cập mạn. Bất chợt có người nói lớn:

– Thưa Hạm trưởng, tôi cho tôi xuống tàu cá, tôi xin trở về đất liền, tôi không đi nữa, tàu cá lúc này đã bỏ không.

Hạm trưởng lại gần, hỏi lại:

– Anh vừa nói gì vậy?

Anh ta nhắc lại và nói thêm với ánh mắt đỏ hoe:

– Tôi không thể rời xa quê hương. Xin cho tôi trở lại. Xin lỗi Hạm trưởng.

– Anh chắc chứ?

– Dạ thưa, chắc. Tôi cũng không thể rời bỏ vợ con ở quê nhà.

Một số người cũng xin trở về. Người Hạm trưởng cương nghị, nhưng ông cũng đã chớp chớp đôi mắt, ông chớp thêm mấy cái nữa, cố tình che lấp sự xúc động. Ông hội ý với vài sĩ quan, song, ông nói:

– Thôi được, ai muốn rời tàu trở về thì tập hợp lại. Tôi sẽ cho lo liệu nguyên liệu và thức ăn nước uống đủ để trở về.

Dòng người khoảng bốn, băm mươi người, từng người bước tới cảm ơn Hạm trưởng, cảm ơn các sĩ quan và thủy thủ đoàn, và được đưa xuống ghe cá. Việt cũng hòa vào dòng người này. Tự lúc nào không biết, anh đã đưa ngón tay thứ ba lên quyết định – Trở về.

 

***

 

Việt bước tới phía đuôi ghe đánh cá hướng về Dương Vận Hạm. Một người đàn ông bước lại hỏi:

“Thưa sĩ quan, sĩ quan còn phân vân không biết quyết định của mình có đúng không?”

Việt lắc đầu:

“Dạ thưa, hông phải vậy. Em chỉ dò tìm coi có thấy người chiến hữu không mà thôi, bởi lúc nãy quên chào từ biệt.”

Thực ra thì anh không có thời gian để nhớ, không có thời gian để tìm người chiến hữu. Lên trên chiếc hạm Việt cố tình tạm xa lánh để không phải bị ẩn hiện những cảnh vừa trải qua. Lúc này chúng lại xuất hiện. Dòng rẽ nước của ghe cá Việt không thấy màu trắng lại thấy đỏ ối, thấy loang loang và cuộn sóng. Những gương mặt chết đau thương đó đây chờn vờn phía trên dòng máu, nhứt là gương mặt của người chiến hữu bị thương tự sát, anh thấy hiện rõ mồm một, gương mặt đau buồn nhưng được một chút an ủi, chết một cách khí khái chứ không hèn nhát, chết khá thanh thản lương tâm và không biểu hiện oán giận gì ai, oán hờn gì cuộc đời, đó là điều anh lo sợ, điều lo sợ nhứt đã không xảy ra.

“Sĩ quan có lo lắng? Trở về sẽ bị trừng phạt.” – Người đàn ông vẫn còn đứng kề bên hỏi tiếp, đưa Việt về với thực tại. Anh Đáp:

“À, dạ không. Em chưa nghĩ gì tới chuyện này. Trong tâm trí, gia đình, làng quê đã choáng hết chỗ cùng với những ám ảnh của những ngày qua. Khi rời khỏi Dương Vận Hạm bước xuống ghe như có một động lực nào đó dẫn lối. Hổm rày ý thức rất kém. Và đôi khi chuyện này cũng có thoáng qua, nhưng nghe có chánh sách khoang hồng, hòa hợp hòa giải nên chắc chẳng sao, hông có chuyện gì ghê gớm xảy ra đâu.”

Người đàn ông gật đầu và hỏi nữa:

“Sĩ quan thuộc binh chủng nào vậy? Có phải Thủy quân lục chiến?”

Nãy giờ Việt quên đính chánh. Giờ nhìn kỹ mới nhớ người đàn ông là người xin xuống ghe đầu tiên, anh chắc ông không rành về nhà binh, và Việt nghĩ ông đang muốn nhường quyền thuyền trưởng lại cho anh. Việt nói và trả lời:

“Dạ thưa, em không phải là sĩ quan, chưa kịp xong khóa huấn luyện nữa chứ, chỉ buộc phải chiến đấu, sự tàn khốc của cuộc chiến biến thành như những kẻ dày dạn trận mạc vậy. Và em thuộc Biệt động quân. Đây là lần đầu đi xa trên biển nhứt, một vài lần chỉ đi chơi gần bờ, hầu như em hông biết gì về biển cả. Em cũng xin được trú dưới khoang tàu, tránh thấy dòng nước nó dễ gợi tới dòng… máu đổ…”

Người đàn ông hiểu ý, ông tỏ vẻ rất tôn trọng, ông cười:

“Biện động quân thì… đặc biệt nhứt rồi. Thôi, anh nghỉ ngơi dưới khoang nhé.”

Việt thay bộ bồ savin. Anh vứt bộ đồ lính và những gì liên quan xuống biển, anh nghĩ không cần tới nó nữa rồi, hãy để lòng biển sâu chôn vùi nó cũng như những hình ảnh ám ảm rợn người. Việt nhốt mình dưới khoang cho tới lúc ghe cập đất liền.

Trong khoảng không nhỏ bé và có phần mờ tối, Việt để tâm hết vào những hình ảnh gia đìmh, làng quê, ngôi trường, cả những quan cảnh xung quanh ngôi trường Văn Khoa, ngôi trường chắc chắn anh sẽ trở lại trong niên khóa tới, và dĩ nhiên đậm nhứt là hình ảnh nàng Nụ Tím Gia Long.

LÊ ĐẮC ĐỒNG VỌNG

 

 

 

 

 

Giữa Hai Miền Viễn Xứ 3

 

 

Chương ngón trỏ phù vân

Mang VẾT THƯƠNG trở về
Hay mây khói sơn khê ?        

   Việt đã tạm xếp bút nghiêng, giã từ ngôi trường Văn Khoa yêu mến, giã từ ngôi nhà ở Làng hoa thân thương, giã từ bạn bè, giã từ người yêu dấu để gia nhập binh nghiệp. Ô! không, không thể là binh nghiệp, Việt chưa bao giờ muốn đi theo hết con đường này, chỉ là tạm thời khi cần tới “binh” mà thôi, một khi đã bình yên anh sẽ trở lại con đường với ánh sáng, đó mới là “nghiệp”, Việt mãi đinh ninh như vậy.

Nơi đầu tiên trong cuộc hành trình bất đắc dĩ, Việt đặt chân đến là Dục Mỹ – Trung tâm huấn luyện Biệt động quân.

Một tuần đầu, Việt muốn đổ bịnh, muốn phát sốt, ngày Chúa Nhựt cuối tuần anh nằm dính chặt trên giường, ngủ li bì gần như mê man. Hẳn nhiên sẽ xảy ra điều này cho những tân binh “mài mực”, một sự thay đổi đột ngột quá thể, từ một anh chàng cầm bút nay phải suốt ngày giang mình giữa trời, giữa thao trường rất ư là xa lạ. Hơn nữa còn là sự khác biệt quá thể từ vùng đất tưởng chừng bình thường như mọi nơi, thời tiết là sự khác biệt qua thể. Thao trường được ví như “lò luyện thép” một mặt cho thấy sẽ đào luyện ra những chiến sĩ can trường, dũng mãnh, một mặt còn cho nghĩa bóng rằng nơi này là một chảo lửa, nắng nóng khủng khiếp và rất hanh từ những cơn gió Lào, nhiệt kế có khi chạy lên tới 40 độ C. Trái ngược với ban ngày, ban đêm thì lạnh buốt kéo về.

Tuần thứ hai Việt muốn đổ gục, mệt mỏi càng thấm hơn mà anh ngỡ rằng sẽ quen từ từ.

Những buổi sáng, Việt không thức dậy nổi, thân thể cứ bất động, Việt muốn nằm yên ngủ mãi mãi, không cần thức dậy nữa. Chỉ có các bạn bè đỡ dậy, đúng hơn là lôi kéo, thúc vào người anh mới tỉnh được.

Những lúc được ngồi nghỉ, tựa người bên những bao cát thường được chồng lên nhau để làm lô cốt dã chiến, Việt cũng không nhấc người lên nổi khi phải trở lại tập luyện.

Những lúc như thế này, ý nghĩ trốn đi, đào thoát khỏi “chảo lửa” chập chờn xuất hiện, anh muốn thực hiện nó lắm, sẵn sàng lên kế hoạch cho cuộc đào thoát, may sao sự sỉ nhục cũng vừa lúc ùa tới, sỉ nhục thức tỉnh bằng suy nghĩ sẽ là lừa phỉnh, bội bạc mà ngày ra đi Việt rất dứt khoát, dứt khoát với gia đình, với bạn bè và với người yêu. Nhớ tới người yêu, trong cái nắng gay gắt, Việt tưởng tượng, “Nắng Dục Mỹ anh đi mà chợt mát, bởi vì em mặt áo tím Gia Long…”.  Việt thầm cảm ơn thi sĩ Nguyên Sa đã sáng tác bài thơ và nhạc sĩ Ngô Thụy Miên đã phổ nhạc để có bài Áo Lụa Hà Đông, để anh xin thay đổi lời, để anh có động lực mà đứng lên… Việt cũng thầm so sánh vui vui, nắng Sài Gòn không là gì cả so với nơi đây, áo lụa Hà Đông cũng chẳng là gì so với áo tím Gia Long của anh. Một sự so sánh thiên vị quá đỗi, nhưng chắc chắn không ai bắt lỗi, sự thông cảm là một món quà tưởng thưởng ngay cả đối với những người khó tánh nhứt.

Tuần thứ ba, ta sẽ không đào thoát, nhưng sẽ gục ngã, sẽ im lìm nằm mãi và im lìm luôn hơi thở, Việt nghĩ vậy khi tối thứ Bảy tuần thứ hai anh đã gắn chặt với cái giường mà gần như không nhúc nhích.

Đó là anh nghĩ mà thôi. Anh không nhúc nhích? Sai bét nhè. Anh cựa quậy hung tợn mà chẳng biết, cựa quậy có khi muốn lọt xuống khỏi giường, thân thể gần một nửa không còn trên giường, bạn bè anh lại một phen khó khăn đẩy, khó khăn hất anh lên. Anh lăn lộn rên hừ hừ, hơi thở khào khào, thều thào mệt nhọc phát ra hừ hừ, và đôi khi anh hát, hát dĩ nhiên nghe không rõ, đó là bài “Áo tím Gia Long”. Việt lăn lộn, cựa quậy một đêm, sang một ngày, cho tới chiều Chúa Nhựt. Chiều Chúa Nhựt anh lù lù ngồi dậy, ngồi dậy khá dễ dàng, khá thoải mái. Bắt đầu tuần thứ ba thì mệt mỏi tan dần, cơ thể quen dần trong khi cường độ tập luyện cũng tăng dần. Vậy là Việt chắc chắn mình sẽ trụ lại được nơi này, sẽ không từ bỏ như một vài người đã thực sự ngã gục, đã quá ngưỡng chịu đựng phải rời đi dù không muốn chút nào.

Giữa tuần thứ tư Việt gần như trở lại bình thường. Nói gần như là bởi vẫn còn có mệt mỏi chứ, nhưng cơn mệt sẽ nhanh chóng qua mau lẹ, không thấm và nằm yên trong cơ thể. Anh bắt đầu cảm nhận vùng đất mới này. Cảm nhận những điểm độc đáo riêng biệt, những điểm hay ho chứ đâu chỉ khác biệt thời tiết đến khó chịu.

Và điều gây ấn tượng sâu đậm trong Việt là bầu trời đêm. Vẫn tựa người trên những dãy bao cát ban ngày tỏa nhiệt góp sức làm chảy mồ hôi, ban đêm thì se se lạnh, Việt dòm được bầu trời trong vắt, không một chút gợn gì dù nhỏ nhoi nằm trong bầu trời này, bầu trời trong cho tầm nhìn xa thiệt là xa.

Trên biển, tầm nhìn trên mưới cây số là bầu trời đẹp thì ở đây có lẽ trên cả trăm cây số, Việt không nhớ được khoảng cách của những ánh sao đến trái đất, anh nhớ mang máng áng chừng hơn như vậy. Ở đây anh thấy rõ cả sự nhấp nháy của những vì sao lung linh, đôi khi anh đếm được số lần nhấp nháy của vì sao mà anh tập trung nhìn. Nhưng khó mà tập trung lắm, bởi không phải một vài vì sao, có hàng triệu vì sao không đếm xuể, hàng triệu vì sao đua nhau tỏa sáng, có những chòm sao Việt có cảm giác đó là những tấm gương nhỏ ai đó chấm vào những chấm đen để giảm bớt đi sự phản chiếu, hoặc giả có thêm chút ít vì sao nữa thôi thì đây là một tấm gương hình vòm khổng lồ chứ không phải là bầu trời. Việt tựa người khá lâu đến nỗi bao cát ấm lên nhưng chẳng thấy buồn ngủ, đôi mắt anh len lõi giữa những “con hẻm” chằng chịt trên bầu trời, ừ đó, giữa các vì sao chỉ là những con hẻm như những con hẻm ở phố xá đông đúc của Sài Gòn, anh len lõi để tìm những vì sao lạ mà từ trước tới giờ chỉ nghe nói tới trong sách vở.

Rồi Việt bắt gặp không phải một mà là một cặp sao long lanh chứ không phải là lung linh, sao chớp chớp liên hồi, hai vì sao này chắc chắn có sự sống vì trong sao có nước, ở đâu có nước là ở đó có sự sống mà, và hơn nữa sẽ là sự sống động bởi sao tràn đầy nước. Một lúc sau thì hai ngôi sao biến mất, Việt lại lần trong các ngõ hẻm để đi tìm, bây giờ thì anh đã xóa khoảng cách tầm nhìn, bầu trời không gần như tay với của bầu trời vùng Cao Nguyên đất đỏ, nhón chân hái được sao trời thì anh đã bay lên, bay lên hòa trong nó để chơi trò chơi trốn tìm, hai vì sao ẩn ẩn hiện là “ai trồng khoai” đất này nữa mà không phải là đôi mắt cô nàng Nụ Tím Gia Long.

Với Việt, bầu trời này chính là biểu tượng nơi đây. Và anh lại ước ao, Việt chưa bao giờ ngưng khao khát ước ao, anh ước ao cả đất nước có bầu trời biều tượng, rồi rộng ra hơn nữa là toàn cầu, một bầu trời bình yên, lấp lánh.

Sáng Chúa Nhựt, Việt dắt con chiến mã ra thì một anh bạn hỏi:

“Việt có về thị trấn hông, cho mình quá giang với? mình về thăm người bà con.”

Việt đáp lời:

“À, hông, mình đi…” – Việt tần ngần chút rồi tiếp: “A, nhưng cần về dưới thì mình chở đi.”

Anh bạn lắc đầu:

“Đâu dám làm phiền quá vậy. Để mình tự đón xe thôi.”

Việt phẩy tay:

“Phiền phức gì chứ. Đây xuống dưới có bao xa, chừng mười lăm cây số chứ mấy, chạy cái vèo là tới. Vả lại mình cũng chỉ đi dạo mà thời gian còn cả ngày. Ra mình chở đi, mau lên, không gì dượng gì hết.”

Anh bạn cười xòa bước ra lên xe để Việt chở đi. Chạy một đoạn, anh bạn hỏi:

“Việt định đi dạo ở đâu, quanh quanh các xã hả?”

Việt trả lời:

“À hông, mình đi ngược hướng này, chạy lên trên đèo Phượng Hoàng á, xem trên đó ra sao? Minh không dám rủ ai hết, sợ cười mình khùng điên cán cuốc.” – Anh cười hi hi. Lúc ngắm trời đêm, Việt không nhón hái sao được như ở Đà Lạt hay Pleicu, anh nghĩ đứng trên ngọn núi phía trên gần đây có lẽ được thì sực nhớ trên đó có con đèo Phượng Hoàng. Bữa nay anh muốn du hí tới nó.

Anh bạn cười:

“Đúng là khùng thiệt. Ui, giỡn chơi thôi nghen, chỉ là khác người một chút. Bữa nào cho mình theo khùng điên một bữa với.”

Việt nhún vai:

“Gì thì được chứ đừng khùng khùng theo.”

Đôi bạn chuyện trò thiệt vui cho tới nhà người bà con của anh bạn ở thị trấn. Việt quay đầu xe, nói với lại khi anh bạn nhắc cẩn thận vì trên đèo hoang vắng lắm:

“Cảm ơn nhé! Chiều mình xuống đón, nhơn tiện uống dùm ly cà phê Ninh Hòa xem ra sao luôn hén.”

Việt chạy tà tà, ngắm nghía làng quê với nhà cửa khá thưa thớt hai bên đường, chừng hai mươi phút sau thì anh trở lại Trung tâm huấn luyện, tiếp tục hạy qua luôn, anh chạy chừng vài cây số nữa thì hết đường bằng, đường bắt đầu lên dốc, chân núi khá cao xuất hiện, rồi dốc ngày một cao hơn và đường ngày càng quanh co, uốn qua lượn lại trông rất đẹp mắt.

Việt ngừng lại ở lưng chừng dốc. Từ dây dòm xuống phía dưới thấy  nguyên cả Trung tâm huấn luyện nằm trọn trong một thung lũng. À, không chỉ có “Lò luyện thép” mà còn các Trung tâm khác, Trung Tâm huấn luyện Lam Sơn, huấn luyện tân binh quân dịch *(* binh lính bắt buộc) và Hạ sĩ quan bộ binh, cùng với Trường Pháo binh nữa. Các Trung tâm vào ngày Chúa Nhựt không nhộn nhịp như thường ngày bởi vắng sự luyện tập của binh sĩ. Việt tưởng chừng như đây là khu dân cư yên ả. Nếu được là một khu dân cư thì quá đỗi tuyệt vời.

Một mình một ngựa Việt tiếp tục chạy lên nữa. Dĩ nhiên con đường Quốc lộ 21* (*nay là 26) chạy lên Ban Mê Thuộc này ngày càng dốc và càng khúc khuỷu. Và không khí càng trong lành. Một màu diệp lục đậm chiếm hầu hết các nơi bởi những cánh rừng nguyên sinh trên đồi núi. Chạy án chừng gần hai chục cây số tính từ Trung tâm của mình thì Việt lên tới đỉnh đèo. Anh tìm một chỗ khá bằng phẳng, rộng rãi với bãi cỏ mềm, một tảng đá lớn ven đường mà tựa người, thả hồn trong bầu không khí thoáng đãng, lạnh nhè nhẹ. Lâu thiệt là lâu mới có một vài người chạy xe Honda, và xe hơi chạy xuống lên. Những người trên xe thiệt là ngạc nhiên khi nhìn thấy Việt ở nơi này. Không ngạc nhiên sao được, ngạc nhiên như chú nai vàng ngơ ngác ấy chứ.

Việt thả hồn cho thoải mái chứ không nghĩ ngợi gì nhiều. Anh muốn tận hưởng từng khoảng khắc tuyệt vời này. Có chăng là Việt nghĩ tới những án thơ, anh sẽ làm những án thơ lãng mạn làm quà tặng cho Nụ Tím Gia Long khi mùa Xuân sắp sửa đến. Còn không bao lâu nữa, mười ngày nữa thôi là năm mới sẽ đến với mọi nhà.

Nghĩ tới điều này, Việt chợt nhớ ra phía dưới chưn đèo có con suối, không những một mà tới hai con suối chảy quanh, bao bọc lấy các Trung tâm huấn luyện, bao bọc lấy Dục Mỹ. Một con suối có một nhánh bắt nguồn là nước nóng được đặt tên suối Đá hay suối Trầu và một con suối với tên gọi suối Cầu Treo là con suối bắt nguồi từ núi Vọng Phu danh tiếng.

Ngồi chơi ở đây cũng khá lâu, hồn anh với không gian, với không khí nơi này khá hòa quyện. Tuy quyến luyến nhưng cũng đã gần tới trưa, Việt muốn xuống suối xem sao, may ra sẽ tìm được một sản vật nho nhỏ gì đó, một hòn đá đẹp, một nhành phong lan hay gì đó để đính kèm cùng bài thơ thì còn gì bằng. Anh đứng dậy quay đầu xe trở xuống.

Việt rón rén để nhẹ thử bàn chưn xuống con suối, suối mát rượi, có lẽ nhánh suối nước nóng ở khá xa phía trên không còn ảnh hưởng gì. Lội một lúc nữa thì suối lành lạnh chứ không chỉ là mát. Rồi Việt cảm nhận như bầu không khí xung quanh tỏa màu vàng vàng rất là mùa thu chứ không phải mùa đông, cũng không sắp vào mùa Xuân. Thấy khá lạ nên anh quan sát kỹ. Và xa xa, từ một bụi cây lý giải cho điều đó, bụi cây mang một màu vàng. Việt đi lại gần hơn, thì hóa ra đó là một cây mai nở bông sớm vàng rực. Cây sum xuê nhiều nhánh, gốc to phía bên dưới nên chẳng khác gì một lùm bụi. Mai vàng phương Nam là nét đặc trưng không gì sánh được nhưng không thấy ai gọi Xuân vàng, có lẽ Xuân Hồng thì may mắn hơn, và cũng có lẽ đã có thu vàng, Xuân tươi nhiều nụ nhiều màu nên nhường vàng cho thu. Việt nghĩ vẩn vơ một chút cho vui, anh dạo quanh bắt gặp thêm một số mai nở sớm nữa. Vậy là rừng nơi đây mai khá nhiều.

Việt dò tìm xem có cây nào chưa nở, anh sẽ cắt vài nhành đem về. Tìm không lâu Việt gặp một cây gốc rất bự, bự hơn bắp chưn anh, một cây rất là già, phải gọi là cội. Cội mai có nhiều nhánh ra ngay dưới gốc u nần rất đẹp và ra nụ xanh rất nhiều. Việt suy tính một hồi rồi rút con dao bấm ra, dao tuy nhỏ nhưng bén ngót, anh có thể cắt gọt, khía khịa lâu lâu một chút cũng sẽ đứt. Miệt mài hơn một tiếng đống hồ, Việt cắt được ba nhánh, một nhánh cao nhưng gốc không lớn anh sẽ vô chậu bằng cái thùng đạn rỗng anh vửa nghĩ ra để tại Thao trường, hai nhánh sẽ theo mình về phép. Dù nhà trồng mai khá nhiều nhưng mai rừng vẫn rất khác mai nhà, mai nhà hiếm có gốc u nần sần sùi cho hình thù đẹp mắt.

Việt về phép trước Tết được năm ngày.

Buổi sáng về tới nhà, chừng hai tiếng đồng hồ sau là anh đi tiếp. Nơi thứ hai Việt muốn ghé dĩ nhiên là ngôi trường của Nụ Tím Gia Long, nhưng lúc này thì hãy còn giờ học, Việt đành ghé lại quán cà phê. Ngôi trường của mình anh chạy ngang đầu tiên rồi.

Việt vận nguyên bộ quân phục, anh đội chiếc bê rê nâu* (* mũ nồi nâu) nhái thôi vì chưa nhận được chiếc chánh hiệu. Không phải vì Việt muốn làm dáng khoe khoang, lấy le với thiên hạ, dĩ nhiên có một chút hãnh diện nhưng cốt yếu anh muốn gặp lại chàng mắt kiếng để tỏ rằng mình không hèn nhát. Việt dựng xe, vài đứa trẻ ở gần chạy lăng xăng lại xung quanh như anh thuở bé, một đứa la lớn:

“A, ông Tây đen còn lang thang ở đây kìa tụi bây.”

Việt bật cười. Mới một tháng mà anh đã biến đổi màu da từ châu Á tới tận châu Phi. Một đứa nữa nói:

“Ông lính Tây mà cũng biết chơi mai nữa hén.”

Rồi một đứa chào:

“Hé lô (Hello).”

Mấy đứa nữa hùa theo hé lô, hé lô. Việt dựng xe xong, anh đưa tay chào lại:

“Chào các em.”

Mấy chú nhóc chưng hửng. Một chú cười hi hi:

“Ổng người Việt mình tụi bây ơi, Tây đâu mà Tây hả mầy.”

Mấy đứa cười theo. Chú nhóc nghĩ là Tây gãi đầu:

“Ông này bự tổ chảng, da đen thùi, tao tưởng Tây thiệt chớ.”

Việt ngoắc mấy đứa lại:

“Lại đây mấy em. Lại đây đi, anh hông có cắn đâu.”

Sau một hồi tần ngần thì mấy nhóc tiếng sát lại. Việt móc trong túi quần ra mấy thỏi socola phát cho mấy nhóc, anh tiếp:

“Mấy đứa chia nhau ăn chơi cho vui, và ngoan ngoãn nhé.”

Mấy chú nhóc ríu rít cảm ơn và dạ đều tăm. Việt nhớ những ngày nhỏ cũng thường được mấy ông lính Tây cho socola mỗi lần gặp. Cả đám nhóc lẫn ông Tây đều rất vui như anh cùng tụi nhỏ lúc này.

Việt bước vô quán. Vài người đã đứng tuổi vẫn dở nón ra chào, người không đội nón thì nghiêng mình, gật đầu, vài chàng thanh niên thì chào theo lối nhà binh. Việt cảm thấy lâng lâng người, những người lính thiệt là được kính trọng dù ở cấp bậc nào. Anh vui vẻ cuối người, gật đầu đáp trả lại hết và kèm cùng lời cảm ơn. Việt hơi tiếc một chút, quán không có mặt chàng mắt kiếng, có lẽ giờ này chàng ta đang “gạo” ráo riết trong lớp học.

Rồi Việt rời quán, xuất hiện trước cổng trường. Bất ngờ quá đỗi, Nụ Tím Gia Long đứng như trời trồng. Sau đó, cặp đôi lững thững bộ hành như ngày chàng ta lẽo đẽo theo sau. Không khí lúc này chưa Tết lắm nhưng với nhành mai ôm trước ngực, Nụ Tím Gia Long đã kéo Xuân về sớm hơn, còn chàng lính mang đến cho mọi người một bầu không khí được bảo vệ an bình.

Tiếng pháo nổ, tiếng pháo nổ giòn tan khắp thôn xóm, khắp phố phường những ngày giáp Tết. Lai rai hổm rày pháo đã nổ đì đùng, pháo nổ ở những nhà cúng Tổ thợ nghề, cúng ông Táo, cúng Tất Niên sớm, cúng rước Ông Bà sớm. Đêm Giao Thừa và sáng mùng Một thì ôi thôi, pháo nổ liên hồi, xác pháo rợp trời. Đêm Ba mươi, Việt cũng vận bộ quân phụ cùng Nụ Tím Gia Long cũng với tà áo dài tím thẫm dạo chợ bông Nguyên Huệ. Đôi trai tài gái sắc và hàng ngàn, hàng ngàn lượt người ăn bận đẹp với chợ hoa như tương tác với nhau, bên này làm cho bên kia rực rỡ lên, bên kia tôn vinh cho bên này thêm sắc thái. Tết, chỉ có Tết, không còn mấy nỗi lo gì khác, không còn mấy nỗi lo chiến tranh, chiến trận.

Và, tiếng pháo nổ đì đùng cũng là tiếng đưa tiễn Việt trở lại với thao trường sau mấy ngày Xuân nồng.

Đã bước sang đầu tháng Tư Dương lịch, tức đã hai tháng sau Tết Nguyên Đán. Một buổi sáng Chúa Nhựt, Việt chạy ra sân bay khá sớm, đón chiếc không vận C 133A to lớn hạ cánh chở kèm theo khá nhiều người đi thăm. Lần lượt đoàn người bước xuống hết, tuy nhiên, người mà Việt chờ đợi lại không thấy, anh thất vọng lắm lắm.

Ông sĩ quan xuống cuối cùng đi vào Trung tâm, Việt đưa tay ngang trán chào ông tuy lúc này anh bận đồ savin, thấy Việt và một vài người nữa đứng có vẻ thẩn thờ ông hỏi:

“Các cậu đón người thân phải không?”

Việt đáp:

“Dạ, thưa Thiếu tá.”

Thiếu tá cười:

“Phiền các cậu đợi chút nữa nhé. Còn chuyến sau, chuyến này đông quá, chở không hết.”

“Dạ, không phiền chi hết, thưa Thiếu tá.” – Việt quay sang nhóm cùng chờ: “Thì ra là vậy.” – Cà nhóm tươi vui trở lại.

Chừng một tiếng đồng hồ sau thì một chiếc trực thăng đáp tiếp. Nụ Tím Gia Long bước xuống thì cuối người chạy ào tới chỗ Việt, mái tóc mượt của cô nàng bay bay gần như xoay vòng trong gió nhưng không thấy rối chút nào. Cô nàng liếng thoắng:

“Em tưởng đến sớm chứ. Máy bay cất cánh trước cả chuyến kia thiệt lâu, nhưng phải ghé lại sân bay Căn tại Phan Thiết để làm việc gì đó. Anh đợi có lâu hông?”

Việt vuốt sửa lại mái tóc cô nàng:

“Lâu, lâu lắc hà. Đợi chờ hình bóng của em, mỗi giây mỗi phút mà như cả thế kỷ á.”

Nụ Tím Gia Long hứ dài:

“Thiệt hông đó. Hay nói gió như mấy ông văn chương.”

“Anh có văn chương đâu.”

“Anh thì có khác gì.”

Việt cười hì hì:

“Thôi ta đi ăn sáng đã cái nhé.”

“Anh đãi em món gì nè.”

“Anh sẽ đãi em món lạ nơi đây.”

“Em biết rồi. Nem nướng Ninh Hòa nổi tiếng chứ gì?”

“Ưm, Nem nướng thì ai cũng biết rồi. Chỉ để đem về làm quà thôi. Anh sẽ đãi món khác.”

Đưa nàng tới quán ăn. Việt gọi cho hai tô. Đó là hai tô… phở. Nụ Tím Gia Long dĩ nhiên tròn xoe đôi mắt nai. Thế rồi từ từ mới nhận ra điều lạ. Phở nơi này là phở heo chứ không phải phở bò như thường lệ ở các nơi, rau sống ăn kèm cũng rất lạ chứ không là những cọng húng quế, ngò gai, ngổ, thay vào đó là rau tựa như rau ăn mì Quảng trên xứ sở hoa anh đào, những vòng bắp chuối tròn tròn, bắp cải được xắt sợi mỏng, và vài lá rau thơm* (*húng lủi),… Nụ Tím vừa thưởng thức vừa gục gật:

“Đúng là lạ thiệt á anh, nhìn đã thấy lạ rồi, ăn thì càng lạ về mùi vị hén, ngon thiệt là ngon. Cảm ơn anh hen!”

Việt chở cô nàng đi… Hiển nhiên là đi chơi, nhưng đi đâu đây ta? Xuống thị trấn Ninh Hòa chắc? Không. Giống bé cái lầm như anh bạn của Việt, Việt chở cô nàng ngược hướng, lên đèo Phượng Hoàng.

Trên đường đi, Nụ Tím Gia Long cũng đoán:

“Mình đi suối Đá đó đa?”

Việt có đôi chút ngạc nhiên:

“Sao biết có suối Đá ở đây?”

“Ưm… em nghe ngóng được thôi.”

“Nghe ngóng cũng khá ha. Nhưng bữa nay mình hông đi suồi Đá.”

“Đi ra ngoải sợ chứ gì?”

“Sợ gì?”

“Sợ gặp người ta ở điểm hẹn hò, đã từng hẹn hò ở đây chứ gì. Rồi người ta nghĩ bữa nay Chúa Nhựt cũng sẽ vậy. Ôi! sợ có nhiều người ta nữa đó chứ. Ở đây nổi tiếng có các cô gái đẹp mà.”

Việt không nín được cười, anh cười khục khục:

“Nghe ngóng không những khá mà phải nói là giỏi dữ. Đúng là ở đây tiếng tăm về các cô gái đẹp. Nhiều chàng lính chết mê chết mệt luôn. Nhưng anh thì cần gì, anh chỉ yêu mỗi sắc tím mà thôi.”

Nụ Tím Gia Long nghe mà sướng rên mé đìu hiu, nhưng cô nàng giả bộ giả lả:

“Thiệt hông đó. Hay lại nói gió nữa đây.”

“Thề giữa đèo Phượng Hoàng này luôn.”

“Í, í, thôi đi, thôi đi, khỏi thề gì hết, em biết rồi. À, vậy mình đi chơi đèo Phượng Hoàng hả anh.”

Việt gật đầu:

“Đèo đẹp lắm!”

Đến đỉnh đèo, tiếp tục ở chỗ thoáng đãng Việt hay ngồi để ngắm toàn cảnh. Rồi Việt đưa cô nàng đến một chỗ mà anh mới phát hiện phía dưới đèo một chút và men men phía sườn đồi một chút.

Đến nơi, rải rát đây đó có những cây sim, mùa sim bắt đầu nở bông, lát đát vài bông hoa nở tím màu, thiệt là trùng hợp, tím rừng hòa lẫn tím Gia Long. Nhờ tím này mà một khoảng thời gian xa vắng Việt đỡ nhớ tím kia biết chừng nào, bởi nó cho thấy hình bóng cô nàng trước mặt.

Ở chỗ nào cũng lạ lẫm với cô nàng Nụ Tím Gia Long, chỗ nào cũng hút hồn cô nàng. Mùa sim nở rộ thì chắc chắn còn hút hồn nhiều nữa. Chọn một cội sim già, đôi trai gái trẻ ngồi thủ thỉ tâm tình. Và dĩ nhiên không thể thiếu một bông sim cài trên mái tóc óng mượt. Nụ Tím Gia Long mơ ước:

“Ước gì mình được ở nơi tuyệt vời này há anh.”

Việt gật đầu:

“Ừ. Những biết đâu được, có thể một lúc nào đó mình sẽ tới đây, sẽ cất ngôi nhà nhỏ bên cạnh gốc sim già này, sẽ trồng rau và nuôi một đàn cừu, một đàn dê, sẽ có một mảnh vườn đầy bông hoa mà ở  đó những đứa con nhỏ thân yêu thỏa thích chơi đùa, thỏa thích hưởng thụ bầu không khí trong lành, bình yên, thỏa thích ngắm sao trời về đêm.”

Việt tả lại bầu trời đêm làm cô nàng Nụ Tím Gia Long càng thích mê mệt. Nàng không thể thôi mơ ước:

“Ngôi nhà nhỏ trên sườn đồi nhỏ thôi, không cần trên thảo nguyên mênh mông, và chúng ta sẽ bình yên mãi mãi ở nơi tuyệt diệu này.”

Gốc sim già lay động, chứng nhân cho đôi lứa thủy chung. Và Việt hẹn trở lại, không phải là lần đem vật liệu để xây tổ ấm, sẽ sớm thôi, một tháng sau thôi, đó là ngày cuối anh ở thao trường, sau đó sẽ chánh thức trở thành người lính. Hẳn chắc chắn Nụ Tím Gia Long phải có mặt ở buổi lễ này.

 

***

 

Nhưng không có buổi lễ diễn ra, không bao giờ có, Việt không nhận được cái bê rê nâu chánh thức, không bao giờ.

Trước ngày tốt nghiệp một tuần, một tin chấn động được báo đến, chấn động như cơn địa chấn với mức báo động đỏ ở nơi chưa bao giờ có rung chấn dù nhỏ nhoi, quân đội Quốc gia đã thất thủ, từng vùng đất dần dần rơi vào tay quân Bắc Việt, và quân Bắc Việt hăng máu càng say máu tiến nhanh, tiến đã gần đến nơi này, sắp sửa nuốt trọn, nuốt chửng  miền Nam.

Nhận được tin, ai nấy đều bàng hoàng. Song, gạt bàng hoàng sang một bên, tất cả đều một lòng xin nhận súng nhận đạn để góp công sức cùng chống trả, chặn đứng đường tiến quân để không bị thôn tính. Rồi, một lần nữa lại nhận được lịnh mà thất thần, lịnh không chống trả, Trung  tâm sẽ giải tán và chuẩn bị đi tản.

Còn nỗi đau đớn nào hơn?

Cho tới lúc này thì với Việt, không có nỗi đau đớn nào lớn hơn nữa. Buồn rầu, thất vọng, anh xách xe ra đạp nổ máy chạy đi.

Anh chạy bất định, chạy trong vô thức, chay theo kiều của con ngựa quen đường cũ. Mọi hoạt động kể cả của người dân sở tại dường như chững hết lại, dường như thời gian không còn chạy nữa, không gian cũng chững lại thành không gian tĩnh. Việt anh đang băng băng chạy trong một mô hình mà điêu khắc gia mô tả các trạng thái hoạt động của con người, của cảnh vật bị dừng lại một cách gây ngạc nhiên, giống như người ta đang biều diễn thì cho ngừng các con rối.

Và rồi Việt rùng mình, với một bầu không gian lặng im như tờ thì càng làm lộ rõ tiếng đại liên nổ giòn. Anh rồ ga mạnh, cắm đầu chạy, chạy và chạy, lỗ tai anh khản đặc tiếng súng liên thanh đang càng lúc càng ré lên, tiếng súng chát chúa rượt đuổi ngay sau lưng mình. Càng lúc thì Việt càng lạnh gáy, anh ngoái nhìn lại phía sau, tiếng súng rất gần, gần sát bên tai nhưng tuyệt nhiên không thấy một bóng người, không thấy một họng súng nào cả. Ngay lúc đó thì mấy tiếng “quạt, quạt, oác oác” gì đó phát ra xen ngang, có thể là tiếng của con quạ, có thể là tiếng của con diều hâu, cũng có thể là tiếng của con kền kền chuyên rình mò ăn xác chết, Việt không rõ lắm là tiếng gì, ở đây anh chưa thấy kền kền bao giờ, nhưng những tiếng này đã đánh thức tâm trí Việt, làm gì có ai truy đuổi anh với đạn bay cheo chéo bên mang tai, đó là tiếng nổ cùa ngay chính chiếc xe của anh mà thôi.

Định thần được phần nào thì Việt cũng vừa chạy tới đỉnh đèo. Những con ngựa cũng quen thuộc với bến bãi. Anh dừng xe như mọi khi ở nơi này.

Đêm xuống. Bầu trời có đầy ánh sao hay không? hình như là có, có cả ánh trăng sáng tỏ hay một nửa vầng trăng sáng gì đó. Việt chẳng màng, chẳng thiết bầu trời đẹp hay là không, anh cũng chẳng thiết tới thời gian, chỉ thấy màn đêm thì biết nó là đêm. Bầu trời lúc này vô tác dụng với anh cũng như trong suy nghĩ của mình anh là một người vô dụng.

Phiến đá mọi lần là điểm tựa cho Việt thì nay lạnh lẽo, chẳng khác nào một khối băng vĩnh hằng. Thân thể của Việt cũng đâu có khác gì mấy, người anh ngồi đó gần như bất động và cứng đờ, xụi lơ. Anh lim dim anh nhắm mắt, anh nhắm mắt anh lim dim, anh ngước đầu lên bầu trời, vũ trụ đẹp đẽ ngày nào để anh thả hồn len lõi tìm ánh sáng, tìm con đường chân lý của ánh sáng thì nay đã biến thành một vòm hầm tối tăm, tối tăm bịt bùng bao phủ, anh cuối đầu, không có những hàng sim, không có gốc sim già, không có những dãy đồi tiếp nối những dãy đồi nhấp nhô với những bãi cỏ non xanh mướt, cũng chỉ có một màu đen chiếm hết mọi chỗ, chỉ có một con đường hầm tăm tối, ngày một tăm tối dẫn xuống vực sâu đen ngòm…

“Sự đau khổ tận cùng có thể dẫn đến một trong hai phản ứng trái ngược nhau: Một là nó làm cho người ta trở thành cay đắng, chua chát và thù hận với mọi người; hai là nó làm cho người ta trải đời, từ đó, độ lượng và nhạy cảm hơn trước những nỗi đau của người khác.” (Nhà thơ Phan Quỳnh Trâm)

Trạng thái thứ nhứt đã vận vào người Việt. Anh tức tối, còn hơn là tức tối, anh điên tiết lên, anh gồng mình hét lớn: “Hèn nhát, những kẻ hèn nhát.” – Đó là anh nói tới những người chỉ huy ở Trung tâm. Tại sao phải giải tán, tại sao phải bỏ chạy, tại sao không chống trả tới hơi thở cuối cùng? Tại sao cũng chính những người chỉ huy này, trong các bài tập, các bài giảng luôn luôn hò hét, luôn luôn ủy lạo để vực dậy tinh thần cho các tân binh thụ huấn? Có những lúc Việt té sấp mặt xuống vũng sình, người không nhúc nhích nổi, anh muốn nằm chết lịm luôn cho rồi, nhưng anh vẫn phải cố gượng người dậy để vượt qua. Và được chính những vị chỉ huy này khen ngợi: “Phải như thế chứ, phải đi đến cùng…” – Cớ sao bây giờ lại như vậy? Cớ sao bỏ mất lời thề : “Tổ quốc – Danh dự – Trách nhiệm.” – Cớ sao không hãy cứ chiến đấu, dù có chiến bại, dù có chết cũng phải chết một cách hiên ngang, một cách xứng đáng chứ.

Việt vùng đứng dậy, anh bặm môi muốn bật máu: “Ta sẽ bắn hết các ông, một lũ hèn nhát. Ta sẽ bắt các người cùng chiến đấu, ta sẽ bắn hết sạch những kẻ bỏ chạy”

Bầu máu nóng hừng hực như lửa chảy trong người Việt, chưa bao giờ tình cảnh này diễn ra, đây là lần đầu tiên trong đời anh không tự chủ được mình, không chờ suy xét mà hành động ngay, Việt nhào đến chiếc xe, nhảy ào lên vừa lấy chưn hất cho xe chạy vừa đạp máy và rồ ga hết cỡ…

Trở về tới Trung tâm, Trung tâm ngổn ngang như một bãi chiến trường, chỉ không có mùi khét của lửa cháy, của thuốc súng, và không một bóng người. Máu của Việt dịu xuống thì anh trở thành một chú bé ngơ ngác nhìn chim bay, một chú bé ngơ ngác lạc vào khu đất vừa bị địa chấn làm cho mọi thứ ngổng ngang mà không hiểu vì sao. Vừa chiều qua chỉ mới có thông báo chung chứ chưa có báo động khẩn cấp, vậy mà chưa hết một đêm, mọi người đã đi hết cả, không còn lại một ai dù bây giờ trời còn chưa ửng sáng.

Việt mệt mỏi lê bước về lán trại của mình. Vừa đi anh lại muốn quay đầu chạy đuổi theo để nã đạn vào những người chỉ huy, nã đạn vào những kẻ nào anh thấy sự hèn nhát, nhưng ngọn lửa máu đã không còn ngùn ngụt, người thì mệt mỏi rã rời nên Việt thả người cái ình, bệt người dựa vách trong lán.

Rồi Việt bật khóc ngon lành, khóc như một đứa con nít, một đứa con nít bị đem bỏ bơ vơ giữa chợ, giữa đường, anh khóc không kìm nén được, khóc như thể sự tổn thương là sự hồn nhiên. Có chuyện quái dị này nữa sao? Đã khóc mà hồn nhiên? Có chứ. Có lắm chứ. Có bật cười hồn nhiên vì một sự việc nào đó làm cho bật cười thì khóc cũng vậy thôi, một cách của trạng thái vô thức vậy, chẳng hạn đứa bé bật khóc huhu vì té đau rồi nó sẽ nín bặc ngay khi hết đau, nó ngay lập tức trở lại bình thường, thậm chí là cười ngay sau đó mà chẳng cần truy căn nguyên, chẳng cần nhớ sự việc vừa trải qua ra sao hay lưu trữ điều gì. Việt không có được điều này, cũng như không có sự hỏi han ân cần của nhiều người khi bắt gặp một đứa con nít đứng khóc bơ vơ, xung quanh anh chỉ là những đống ngổng ngang, anh không ngưng bặc được tiếng khóc, khóc bây giờ chuyển dạng thành rưng rức, rưng rức…

Khóc òa òa, rồi sau đó thôi ngay, để cho sự việc gây nên khóc bay theo một cơn gió, trôi theo một dòng nước đi mất tiêu thì sẽ rất dễ chịu, dễ trở lại bình thường như chưa từng có việc gì xả ra. Rưng rức thì không, rưng rức rất khó chịu. Rưng rức nó làm cho thân thể Việt cứ cách một khoảng thời gian ngắn lại rung hoặc giựt giựt, rung giựt nhẹ bên ngoài nhưng bên trong thì tựa hồ có một con dao được mài sắc lẹm, bén ngót cứa thành những vết thương lòng nhức nhói, nhức nhói tàn canh.

Lần đầu tiên Việt bị mang những vết thương lòng vượt giới hạn. Là người mẫn cảm và sự việc lại xảy ra lần đầu nên anh cảm thấy chắc chắn rằng không thể vượt qua được. Tâm hồn Việt chất chứa không phải là sự kiêu hãnh mà chất chứa nỗi niềm tự trọng, quá đỗi dễ tổn thương khi gặp phải biến cố.

Việt lắc đầu quầy quẩy rồi lầm bầm, tự hỏi và tự trả lời cũng với giọng rưng rức: “Không thể được, không thể nào chịu đựng nổi. Vậy thì phải làm sao? Làm sao thoát ra tình cảnh này? Thoát ra bằng cách nào ?… Ừ, thoát ra bằng một… viên đạn là gọn gẽ nhứt, là mau lẹ nhứt. Ừ, hãy chết quách đi cho rồi, gì gì đi chăng nữa cũng là một kẻ bại trận dù chưa một lần ra chiến trường, chưa hề bắn được một viên đạn gọi là chiến đấu. Trở về để làm gì khi trong người mang vết thương. Vết thương lòng nặng trĩu sẽ gặm nhấm tâm hồn như lũ dòi bọ chui rúc lúc nhúc gặm nhắm xác chết chứ chẳng thể khác được đâu…”

Việt lê bước xiêu vẹo đến kho Quân tiếp vụ. Đồ Quân tiếp liệu vương vãi khắp kho. Lục tìm một hồi thì anh cũng tìm được khẩu súng lục và hộp đạn. Việt run run mở hộp đạn, anh muốn sự vụ kết thúc càng nhanh càng tốt nên nạp đạn thiệt lẹ, nhưng càng muốn nhanh thì càng run, run lật bật làm viên đạn cứ trật lên trật xuống và có viên rơi rớt xuống đất. Việt cũng không nghĩ ngợi nhiều về sự lo sợ để đến nỗi phải run run, anh nghĩ nó nhẹ nhàng như sợi lông hồng, nhưng không hiểu sao lại xảy ra như vậy, có lẽ cũng là rơi vào trạng thái vô thức, hay là một trạng thái tiềm thức lo âu trong trí não bị đánh thức mà anh không làm chủ được. Việt nạp được vài viên cho khẩu rulo, anh muốn nạp cho đủ sáu viên, vẫn với dáng dấp xiêu vẹo, vừa bước đi vừa nạp đạn, anh va vào một vật gì đó làm vang lên tiếng rổn rảng, ngoái đầu dòm thì ra đó là những két la de* (bia, bia Quân tiếp vụ dành cho quân nhân, một loại với bia Con Cọp của hãng BGI) chất chồng ở đây. Chợt Việt nảy ra ý nghĩ rằng, có chết, cái chết của kẻ thua cuộc chăng nữa cũng cần phải có cái chết đẹp đẽ một chút, một cái chết lãng đãng một chút, anh hếch mép cười khảy, chết với một chút men trong người như người ta biểu diễn túy quyền trước khi giáp trận cho nó có một chút oai phong, bớt đi sầu thảm và biết đâu chừng linh hồn còn được là đà sương khói. Ý nghĩ này đến làm Việt nạp đạn dễ dàng. Đút khẩu súng vào đai lưng quần, Việt rút một chai la de bật nắp tu ừng ực, anh rút tiếp chai nữa đút vào túi quần bên, tay cầm thêm hai chai nữa đi ra khỏi kho. Trên đoạn đường đi anh với tay lấy mấy tờ tạp chí anh nghĩ sẽ có thơ trong đó, đọc một vài bài thơ và vài bài của mình nếu nhớ hết thì càng có cái chết đẹp đẽ. Và không đâu đẹp bằng nơi đỉnh đèo quen thuộc của anh để nằm xuống.

Việt tựa một hiệp khách giang hồ, anh cầm chai la de dốc ngược tu ừng ực, rồi đưa hai cánh tay dang ngang, bước tới bước lui như đảo qua đảo lại, đảo qua đảo lại thì một cánh tay co một cánh vẫn để thẳng và đổi tay cho nhau, đào bên này thì co bên kia, đầu cổ cũng nghiêng qua nghiêng lại theo, anh giống như đang hòa mình vào không gian, bay bay vào không gian, mà cũng giống người ngà ngà say, chưn nam đá chưn chiêu… Song, Việt ngừng lại, ngửa đầu lên trời đọc thơ. Anh rất khoái những bài thơ cùa thi sĩ Nguyễn Bắc Sơn, dĩ nhiên anh không thích tâm trạng buông xuôi vì ghét chiến tranh trong thơ của ông, nhưng có những điều rất hợp với tâm trạng anh lúc này:

Ta vốn hiền khô ta là lính cậu
Đi hành quân rượu đế vẫn mang theo
Mang trong đầu những ý nghĩ trong veo
Xem cuộc chiến như tai trời ách nước

Ta bắn trúng ngươi vì ngươi bạc phước
Vì căn phần ngươi vì xui khiến đó thôi
Chiến tranh này cũng chỉ một trò chơi
Suy nghĩ làm chi cho lao tâm khổ trí

Lũ chúng ta sống một đời vô vị
Nên chọn rừng sâu núi cả đánh nhau
Mượn trời đất làm nơi đốt hỏa châu
Những cột khói giả rừng thiêng uốn khúc
Mang bom đạn chơi trò chơi pháo tết
Và máu xương làm phân bón nơi rừng hoang.

                     (Chiến Tranh Việt Nam Và Tôi)

 

Đêm nằm ngủ võng trên đồi cát
Nghe súng rừng xa nổ cắc cù
Chợt thấy trong lòng mình bát ngát
Nỗi buồn sương khói của mùa thu

 

Mai ta đụng trận ta còn sống
Về ghé sông Mao phá phách chơi
Chia sớt nỗi buồn cùng gái điếm
Đốt tiền mua vội một ngày vui

 

Ngày vui đời lính vô cùng ngắn
Mặt trời thoắt đã ở phương Tây
Nếu ta lỡ chết vì say rượu
Linh hồn chắc sẽ thành mây bay

 

Linh hồn ta sẽ thành đom đóm
Vơ vấn trong rừng động Thái An
Miền Bắc sương mù giăng bốn quận
Che mưa giùm những đám xương tàn.

                (Mật Khu Lê Hồng Phong)

 

Trời bắt đầu ửng sáng. Đứng nơi này nhìn thấy được cảnh mặt trời lên, có thể là rất đẹp nữa, nhưng Việt không chờ đón nó, anh không nhìn về hướng đó, bầu trời hừng sáng, những tia sáng vô giá trị với anh vào lúc này. Việt cũng không nhìn về hướng Tây như lời trong bài thơ.

Và, có điều lạ lùng, có phải chăng cám cảnh của anh mà trời bỗng dưng có sương mù? Không biết nữa, không biết có phải vậy không nữa, nhưng sương mù xuất hiện ngay trước mặt Việt, sương mù là đà như mây khói giữa sơn khê.

Việt nhẹ nhàng đưa bàn tay lướt qua lại trong sương và thấy sao nó mong manh quá, sợ màn sương lơ lửng tan nhanh, tan biến mất liền tay như kiểu cách nó bất chợt xuất hiện,  anh liền đưa ngón tay trỏ lên quyết định tức thì, Việt muốn dòng máu cùa mình, linh hồn của mình hòa quyện trong nó, hòa quyện cùng với sơn khê trong cảnh này là tuyệt đẹp.

Lại có điều lạ lùng hơn, Việt không thấy ngón tay mình, thay vào đó, anh thấy mây khói kết lại thành hình hài, thành hình ngôi nhà của anh, gia đình anh, ngôi làng của anh, những ngôi trường của anh hằng yêu mến, và hơn hết là hình bóng của nàng Nụ Tím Gia Long trong tà áo dài phất phơ, uyển chuyển chẳng khác gì trong mơ…

Tự nãy giờ, tự trong tiềm thức bắt anh hướng nhìn về phương Nam mà anh không hề hay biết, nỗi buồn mụ mị trong anh làm anh quên bẵng tất cả.

Việt lại bị kéo ngồi xuống trong dáng phủ phục. Rưng rức lại kéo tới. Rưng rức dồn dập biến thành thổn thức. “Tội lỗi, ta thiệt là tội lỗi, ta chọn cách êm ái ra đi mà không thèm đoái hoài chi hết đến đấng sanh thành, đoài hoài đến ai hết cả…” – Việt liên tục thổn thức.

Cuồi cùng, dĩ nhiên, cũng với ngón tay trỏ, anh quyết định trở về dù mang trong lòng vết thương loang máu. Và làm bạn với thời gian phía trước, chờ đợi cho những quyết định tiếp theo, cũng hãy chưa có gì là muộn màng.

Lê Đắc Đồng Vọng

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

GIỮA HAI MIỀN VIỄN XỨ 2

 

 

Tiểu thuyết
Từ những câu chuyện có thực

Nắm bàn tay năm ngón
Đếm từng ngón tay buồn
Những quyết định đau thương
Từng chương của cuộc đời

 

Chương ngón cái mạnh mẽ

Ra đi, ra đi

Tiếng lòng SÔNG NÚI        

 

    Việt mang một cảm giác rạo rực khó tả, đã ba giờ sáng mà vẫn chưa chợp mắt được, dù tự ru mình bằng Triết Lý An Vi từ giữa khuya. Cuốn sách Chữ Thời (Triết Lý An Vi) của thầy Kim Định* bấy lâu nay anh gối đầu giường cùng với những cuốn Các Cuộc Hoại Thoại Của Socrates**, The Republic của Platon***; Chính Trị Luận của Aristotle****… (*Lương Kim Định (1915 – 1997) – Giáo sư, Linh mục, Triết gia miền Nam Việt Nam, sau 1975 ông định cư tại Hoa Kỳ; **Socrates (469 TCN – 399 TCN), ***Platon (427 TCN – 347 TCN), ****Aristotle (384 TCN – 322 TCN): 3 Triết gia lỗi lạc của Hy Lạp cổ đại). Thực chất thì anh chưa đọc kỹ, chưa hiểu sâu được An Vi của Thầy cũng như các cuốn khác, chỉ để đó mà nâng niu, mà lật dở từng trang giấy thơm tho rồi mộng tưởng và dành cho mai sau. Trong Việt tồn tại vùng mộng mơ như sương khói lãng đãng bao phủ rất rộng, sương khói hiển hiện thực tại chứ không hư vô, vô tác dụng trong cuộc sống, nó phù hợp với ý tưởng kết nối triết học hàn lâm với cuộc đời, một cách nhìn triết học không gì là quá cao siêu, không vượt quá sự hiều biết bình thường, những con người bình dị chứ không cần phải có một bộ óc thông thái cũng có thể hiều rõ và vận dụng. Đây cũng là những ý dễ hiều hơn ở cuốn Nhân Bản cũng thầy Kim Định.

Xét theo khía cạnh cảm xúc, trong Việt mang một thái độ hiện sinh thì đúng hơn. Chỉ là một thái độ chứ chủ nghĩa thì không, Việt không thích những điều to tát, chủ nghĩa nghe lớn lao vô cùng. Cũng như anh thích sự tự do nhưng chưa bao giờ gán ghép từ chủ nghĩa vào từ này. Chủ nghĩa, người ta đem gán ghép vào nhiều ý niệm khác dễ dàng lừa mị nhau, dễ dàng đồng hóa những cá thể riêng biệt.

Nửa giờ sau thì Việt cũng chìm được vào giấc ngủ mơ mơ màng màng. Cũng chẳng lâu lắm thì anh thức giấc. Việt chợp mắt được một tiếng rưỡi đồng hồ. Song, anh chẳng thấy mệt mỏi vì sự thiếu ngủ thường hay gặp, vẫn sảng khoái như vừa thức dậy với cơn ngủ thiệt sâu.

Việt bước ra trước ban công, bầu không khí yên bình và trong lành càng làm anh sảng khoái hơn nữa. Ngôi nhà của Việt ở đầu khu phố, chính xác hơn là đầu ngôi làng, có hẳn tên là làng hoa hoặc làng rau Cây Trâm* mà. (*Làng Cây Trâm thuộc Gò Vấp, Gia Định xưa). Ngôi làng nhà còn thưa thớt và phần nhiều là nhà trệt lợp ngói vảy cá, một số xưa hơn thì lợp ngói âm dương, hầu hết các nhà đều có vườn tượt, những ngôi nhà lấp ló phía sau hàng rào cây dâm bụt tươi tốt, xanh rì với những bông hoa đỏ chót đó đây tô điềm và một khoảng sân rộng cùng các loại cây trái trồng xung quanh như nhãn, khế, vú sữa, xoài, chuối, lồng mứt, nhiều hơn hết là những cây bông mai… Đất trồng bông, trồng rau thì bạt ngàn.

Việt hít thở thiệt sâu, hương hoa, hương cỏ lá lấp đầy lồng ngực thì làm sao mà không lâng lâng cho được. Và trời bắt đầu hừng sáng. Ở trên cao anh nhìn được bao quát, nhìn thấy phía xa xa một vùng ửng màu cam cùng những tia sáng chiếu lên nơi chỗ mặt trời sắp mọc. Bầu không khí càng trong hơn và có màu vàng vàng tựa mùa thu mặc dù nơi đây những mùa màng đều không rõ rệt, chỉ rõ về hai mùa mưa nắng. Việt đang tìm từ ngữ để đặt tên cho bầu trời, anh nảy ra được ý và rất tâm đắc với nó, đó là bầu trời khai sáng, bầu trời khai sáng buổi nguyên thủy khi đã bị màn đêm chế ngự bằng một màu tăm tối.

Lý ra, với buổi bình minh tuyệt vời như thế này thì Việt sẽ chế một ly cà phê, vừa nhấm nháp vừa tận hưởng. Nhưng bữa nay anh có lý do khác nên dễ bề bứt ra được sức quyến rũ khai sáng, có lý do quan trọng hơn nhiều, lý do anh chờ đợi đã từ lâu lắm rồi.

Việt bước xuống gian nhà bếp, gặp mẹ anh đang lui cui nơi này. Bà hỏi:

“Bữa nay con ăn sáng ở nhà hay ở ngoài. Ở nhà thì ăn gì nè?”

Việt bóp bóp vai mẹ:

“Dạ, con ăn ở nhà, nhưng để con tự làm, Má khỏi phải lo.”

Bà nói kiều hờn dỗi nhưng thực tình là mắng yêu:

“Cha bây chớ, giỏi rồi hen, đâu cần cái thân già này nữa.”

Việt tựa đầu vào vai bà:

“Má cũng phải để cho tụi con lớn lên chớ, biết tự lập một chút, chớ Ba Má bảo bọc riết thì biết làm gì mà ăn.”

Bà nói vẫn với giọng cũ:

“Ờ, bây lớn lên đủ lông đủ cánh rồi thì bay mất, mất tiêu luôn thôi.”

Việt cười khì:

“Dạ, bay cao luôn, bay mất tiêu… thẳng vô cái ổ của Má luôn.”

Bà đứng dậy:

“Giỏi nịnh lắm. Thôi, muốn tự làm thì làm đi. Má ra ngoài vườn đây.”

Việt lục lạo và lào xào trong bếp một chặp thì có chảo cơm nguội chiên cùng với trứng và một ít cá khô ăn ngon lành, bữa nay anh khoái mặn mòi hơn nên không xài cá hộp. Món cơm nguội là bạn đường của các chàng học sĩ qua từng năm tháng. Nhứt là với những anh chàng sẵn sàng ga lăng hết cỡ với bạn bè, dĩ nhiên đặc biệt là với các bạn gái nên túi tiền rất dễ ư là vô thiên… lủng, lủng túi theo nghĩa bóng chứ không phải là nghĩa đen của vô thiên là rất nhiều.

Lấp đầy cái bao tử, Việt dắt con “chiến mã” láng mượt nhờ anh lau chùi hàng ngày ra nổ máy chạy đi. Con chiến mã của Ba tặng mừng nỗ lực học tập của chàng Tú Tài I* cách đây một năm, chiếc Honda 67 mơ ước của những ước mơ. (*Gọi là Tú Tài Một hoặc Tú Tài Bán Phần: chứng chỉ được cấp sau khi thi đậu cuối năm lớp Đệ Nhị tức lớp11; Tú Tài II là Tú Tài Hai hoặc Tú Tài Đôi hay Tú Tài Toàn Phần: chứng chỉ được cấp sau khi thi đậu cuối năm lớp Đệ Nhứt tức lớp 12)

Việt chạy đều đều, chầm chậm, phố xá bữa nay bỗng sáng hơn, đẹp hơn, người người vui hơn, mọi khi anh vẫn dòm ngó phố xá nhưng không thấy đặc biệt như hôm nay. Anh không dám chạy nhanh, trong người cảm giác đang bay bay với con chiến mã, đang bay bỗng giữa những đám mây… phố phường, đang bay bay về phía chưn trời, bay về phía khai sáng có màu cam ửng đỏ tuyệt đẹp còn đọng trong tâm trí.

Rồi Việt cũng tới được nơi cần tới, đây là đường chưn trời, nơi khai sáng trong đời thực của anh. Cánh cổng trường đại học chính là nó, là đường chân trời, cánh cổng đã mở toang chào đón sự cần khai sáng, chào đón phía trong là một bầu trời đầy ánh sáng hân hoan. Việt dắt xe qua cánh cổng cũng chẳng khác gì tâm trạng lúc đang chạy xe, còn hơn thế nữa, anh đang bước đi trong mây bồng bềnh, những thiên thần ẩn hiện đó đây trước mắt Việt.

Trường còn rất vắng. Còn lâu mới tới giờ làm việc mà. Chẳng sao cả, chẳng hề gì cả, anh còn có thêm thời gian chiêm ngưỡng nơi truyền cho mình dâng trào niềm háo hức. Việt lang thang trong sân trường, thang thang qua từng dãy nhà, qua từng phòng học. Nơi nào cũng lạ lẫm, lạ lẫm vô cùng từ ngay ngoài cánh cổng.

Một điều rất là kỳ lạ, rằng tại sao anh lại có cảm giác lạ lẫm này? lạ lùng vô cùng, lạ đến là khó hiểu. Nơi đây đâu có gì là lạ với đôi mắt của Việt. Đã hai năm trời nay, từ ngày hướng tới nơi chưn trời này, anh yêu mến nó, nhớ nhung nó, chí ít một lần trong tuần Việt chạy qua rồi chạy lại ngang cánh cổng. Anh chẳng hề nề hà sự xa xôi, chẳng nề hà sự mất thời gian. Từ ngôi trường cùa mình, ngôi trường Petrus Ký* (*Trường Lê Hồng Phong ngày nay) ngôi trường mang tên nhà thông thái, nhà bác học Trương Vĩnh Ký mà anh rất thần tượng, anh có thể chạy một vèo về ngay nhà mình rất nhanh theo cạnh huyền của tam giác vuông, chứ lý nào lại thích đi xa xôi hơn trong cả lúc nắng gay gắt, lúc mưa dầm lê thê, đi bằng hai cạnh góc vuông, một cạnh là con đường từ trường đi thằng xuống, đó là con đường Hồng Thập Tự* (đường Nguyễn Thị Minh Khai ngày nay), con đường vuông góc, con đường Cường Để* (đường Đinh Tiên Hoàng ngày nay) là cạnh vuông góc còn lại. Ngay góc vuông Việt quẹo phải, một đoạn thôi, chỉ chừng một trăm thước thôi, đối diện bên kia đường là đường chưn trời của anh, Việt thỏa tích nhìn ngắm nó rồi anh chạy thẳng tiếp một đoạn đường với mấy hàng cây dầu to cao vút, mấy hàng cây tỏa bóng râm kín cả con đường mà miên man một chút, song, quay ngược xe trở về chạy ngang nhìn lại thêm một lần nữa. Có bữa Việt ngừng hẳn xe ngay trước đường chưn trời để nhìn một hồi thật lâu vào bên trong. Hai con đường và ngôi trường trở thành quen thuộc với Việt mà có lúc anh ngỡ đã là ngôi trường của mình, có lúc anh tính đi con đường khác, khi đi lại chạy trùng lặp hai con đường này.

Bây giờ thì lại lạ lẫm. Ngôi trường một chút nữa đây thôi sẽ chính thức là của Việt. Có lẽ rằng trong sự háo hức, sự hân hoan vẫn còn một nỗi lo lắng ẩn náu. Sự hòa quyện những trạng thái làm Việt lơ lửng.

Rồi cánh cửa phòng đăng ký mở ra. Việt chạy tới ngay, là một trong những người tới đầu tiên. Những gương mặt của những anh chàng những cô nàng làm cho căn phòng bay bỗng, làm cho căn phòng lơ lửng, căn phòng mới trước ít phút có vẻ đìu hiu, buồn một nỗi buồn cô đơn thì nay rạng rỡ, một đóa cúc vàng nở bừng lên với ánh sáng ùa nhanh vào. Việt đăng ký ngay tức thì, trong phút chốc anh đã có tên trong sổ. Việt sẽ là tân sinh viên của khóa tới, của ngôi trường Văn Khoa tiếng tăm lắm chứ* (*trường Đại học Văn Khoa, ngày nay là Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn). Nỗi lo âu ẩn nấp bây giờ đã lặn mất tăm hơi về một cõi nào đó thiệt sâu thẳm, nhường hẳn chỗ cho niềm vui sướng tột đỉnh trong anh.

Việt đăng ký vào ban Triết không một chút đắn đo.

Trước đây thì Việt có sự đắn đo. Anh đắn đo giữa sự lựa chọn vào ban Văn chương hay ban Triết. Một miền đam mê văn chương mãnh liệt trong Việt thì không có gì bàn cãi. Nhưng hơn thế nữa, Việt cũng không đến nỗi tệ trong lãnh vực này, những bài thơ của anh chẳng được chuyền tay nhau và được tán thưởng đó sao, chẳng được đứng vào hàng đầu bảng của trường đó sao, bạn bè anh chẳng kỳ vọng anh rồi sẽ thành những Tô Thùy Yên, Du Tử Lê, Nguyễn Đức Sơn… đó sao?! Những người mà Việt mê mẩn, những nhà thơ xuất thân ngay từ ngôi trường này, cùng những những nhà văn nữa, đó là Doãn Quốc Sĩ, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Xuân Hoàng… Những nhạc sĩ, ca sĩ nữa chứ, nhạc sĩ Ngô Thụy Miên, nhạc Sĩ Đức Huy, Ca sĩ Hoành Oanh, ca sĩ Thanh Lan… Ngay cả Trịnh Công Sơn và Khánh Ly, tuy không mang đời sinh viên ở ngôi trường “thần thánh” của anh, nhưng cũng đã chọn nơi đây làm sân khấu biểu diễn nhiều lần.

Nhưng rồi triết làm cho anh bừng tỉnh, như cách triết dân dã đã nói ở trên. Đôi khi Việt cảm thấy mình u mê, đôi khi thấy mình quá mụ mị, triết cho Việt nhặt nhạnh được những tia sáng lia qua sự u mê, mụ mị này.

Một lần Việt thấy ánh trăng chiếu vào một vùng mịt mờ, không chỉ vùng này thơ mộng hẳn ra mà ngay cả ánh trăng cũng sáng hẳn lên. Từ đó Việt ước vọng mình là người cầm những tia sáng quét vào đêm tối. Giống như thầy Kim Định, thầy Nguyễn Duy Cần, thầy Bửu Dưỡng, thầy Lê Tôn Nghiêm… Một điều Việt rất tâm đắc khi nhận ra rằng, trong triết có văn chương và ngược lại, trong văn chương có triết thì văn chương càng lấp lánh. Các thầy của ban Triết nhưng vẫn để văn chương chảy trong máu mình đó thôi chứ đâu phải cứ hễ triết là một sự lạnh lùng, một sự nghiêm nghị, một sự cao đạo… Văn chương còn chảy lênh láng, vượt tràn trong thầy Trần Bích Lan, những bài thơ đặc sắc của ông được ký dưới bút danh Nguyên Sa làm không biết bao người say đắm!

Việt nhảy chân sáo ngay nơi hành làng khi vừa bước ra khỏi nơi đăng ký, không có vẻ gì là ngại ngùng, không có vẻ gì là sợ gièm pha. Đối với Việt, tất cả xung quanh anh bây giờ là một bầy chim đang ríu rít, anh là con chim chiền chiện vút lên hạ xuống, là chim sáo hồn nhiên của những hồn nhiên.

 

***

 

Việt ngồi nhìn xa xăm gần như bất động, nhưng tâm trạng anh không thấy bản thân mình yên lặng, anh cảm thấy xung quanh có những sự chuyển động liên tục, chuyển động xoay vòng rất nhanh của vũ trụ, và anh cũng chuyển động với trạng thái không trọng lực trong đó, trong vũ trụ chuyển dịch liên hồi. Bất biến của vũ trụ chỉ dành cho những bộ óc ù lì, những bộ óc nhìn đường thẳng thì nó sẽ là đường thẳng, nhìn đường cong thì nó sẽ là đường cong, không cần biết phía cuối những con đường mà ta không nhìn thấy được nó ra làm sao, nó như thế nào.

Việt lơ lửng xoay hết phía này rồi phía khác, anh xoay tìm cho mình những tia sáng. Anh muốn sở hữu nó để đi xuyên qua tâm thức của con người, thay đổi nhận thức của con người.

Đôi khi Việt tự hỏi đây có phải là công dã tràng? có thể thay đổi được nhận thức chăng? hay ý thức là một bản chất tồn tại ấn định cho từng cá thể?

Việt không nghĩ vậy nữa khi liên hệ với bản thân và có câu trả lời. Chính anh, anh đã từng hấp thụ được không khí hòa trộn của hừng đông, để rồi anh đã được dạy cho một bài học khai phóng trong mình, đã được dạy cho một bài học nhân bản, những bài học quý giá vô cùng. Anh thay đổi hành động của mình khá nhiều từ đây. Trước đó Việt chăm chú hành động vụ lợi riêng, chăm chú những hàng động rất thực tế, Việt đã từng ghét cay ghét đắng những hành động phi thực tế, mỗi hành động đều phải hướng tới sự hưởng lợi của bản thân, có thể nói những hành động rất là vị kỷ. Những hành động được gọi là Hữu Vi.

Anh đã tìm được hành động An Vi. Một sự dung hòa giữa hành động Hữu Vi và Vô Vi. An Vi cũng hành động sát với thực tế chứ không rời bỏ cuộc sống như Vô Vi. Vô Vi luôn chối bỏ cuộc sống vì cho rằng thực tại vô giá trị, thực tại của cuộc sống chỉ là sự hư ảo, hư vô, Vô Vi không hành động gì cả dù có lợi cho bản thân, có thể nói Vô Vi là sự phó mặc cuộc đời, phó thác cuộc đời cho cuộc đời, không có hành động can dự nào cả.

Nói là một sự dung hòa cũng không đúng hẳn, chỉ là một ít thôi. Một ít hư ảo, hư vô cho những suy nghĩ mộng mơ thuộc Vô Vi, chứ Vô Vi có hành động gì cho cam. Một ít này để cho An Vi nhẹ nhàng cùng hành động, hành động tuy vẫn thực tế của cuộc sống nhưng hướng về một ý nghĩa cao cả, hướng về những kiếp nhân sinh chứ không vị kỷ, những kiếp nhân sinh cần phải có cuộc sống được hưởng thụ hạnh phúc và an lành trọn vẹn.

Việt mới hấp thụ hừng đông chứ chưa đủ khả năng tầm soát. Do đó anh đang cố gắng học hỏi để sở hữu những tia sáng, mong một ngày sẽ phát sáng An Vi.

“Làm gì mà suy tư quá vậy? Một mình trên giảng đường rộng thênh giống như một mình một ngựa băng qua sa mạc mênh mông để đến chiến trường quá hen.” – Một anh chàng vỗ vai Việt làm anh giựt mình. Sau đó thì Việt thực sự ở trong trạng thái yên lặng, bất động luôn ấy chứ. Anh rơi vào một khoảng thời gian vô thức. Người bạn nói tiếp và kéo Việt Đứng dậy:

“Đi, đi ra đây chơi.”

Việt bước đi theo bạn vẫn ở trạng thái vô thức. Ra khỏi cửa giảng đường anh mới sực tỉnh. Anh hỏi:

“Đi đâu đây?”

Bạn đáp:

“Cứ đi đi rồi biết. Chỗ này hay lắm đó.”

Người bạn kéo Việt đi ra con đường bên hông trường. Thì ra ở cuối con đường Thống Nhứt* (*đường Lê Duẫn ngày nay) giáp ngay cổng Sở Thú* này (*Thảo Cầm Viên), quẹo phải theo đường Nguyễn Bỉnh Khiêm* (*xưa nay vẫn là Nguyễn Bỉnh Khiêm) một đoạn thì có trường Nữ Trung học Trưng Vương. Các chàng Văn Khoa và cả các chàng Nông Lâm Súc* (*Tiền thân là trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc, năm 1974 đổi tên trường ĐH Nông Nghiệp Sài Gòn nhưng nhiều người vẫn quen với tên gọi cũ là Nông Lâm Súc), các chàng Dược Khoa*, (*trường Đại học Dược Khoa Sài Gòn, nay là Đại học Y Dược) các chàng ngụ cư ở phía đối diện cũng lãng vãng để mà tìm con đường tình tứ cho mình.

Vậy, trường Trưng Vương có gì đặc biệt ngoài là trường nữ? khi muốn tới được trường này phải qua một trường trung học nữa, đó là Trung Học Võ Trường Toản cũng rất nổi tiếng. Có đấy chứ. Có câu chuyện để các chàng ta ngân nga:

“Này cô em Bắc kỳ nho nhỏ
Này Cô em tóc demi garcon
Chiều hôm nay xuống đường đón gió
Cô có tình cờ
Nhìn thấy anh không?…”
(Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ – thơ Nguyễn Tất Nhiên, nhạc Phạm Duy)

Câu chuyện rằng, trường vốn được chuyển từ Hà Nội vào đây ngay sau hiệp định Genève – 1954. Những cô bé Bắc kỳ nho nhỏ, xinh xinh vẫn nối tiếp học ở trường đã có tên từ miền ngoài này. Và, tất cả những gì lạ lẫm đều mang đến sự lôi cuốn, mang đến sự quyến rũ lạ kỳ.

Người bạn kéo Việt đi trong một tư tâm thế khá là hãnh diện. Hãy chấp nhận cho điều đó. Bởi, dù có thể hiện ra sao đi nữa, các chàng Nông Lâm Súc, các chàng Dược Khoa cũng làm sao sánh được với các chàng lãng tử hào hoa Văn Khoa. Các chàng đã để lại dấu ấn trên những con đường vốn là nơi thuộc về các nàng thong dong trong bộ áo dài thướt tha, khoan thai với cái cặp táp phía trước ngực:

“…Hỡi người tình Văn Khoa, bóng người trên hè phố
Lá đổ để đưa đường, hỡi người tình Trưng Vương…”
(Con Đường Tình Ta Đi – nhạc Phạm Duy)

Các chàng trai ngân nga, các chàng trai lẽo đẽo bước theo sau các cô gái mà tán hươu tán vượn. Rồi các chàng Văn Khoa trổ tài của mình. Các chàng sáng tác, sáng tác nhạc, sáng tác thơ, sáng tác văn. Các chàng giả đánh rơi đây đó, và các chàng ghim những bài thơ, những câu thơ đủ thể loại trên hàng cây cổ thụ, như thể cây cối là chứng nhân cho họ. Tất cả bắt đầu từ một mối, không thể khác được, phải lừ mối tơ lòng :

Hỡi người em gái Trưng Vương
Nhìn em chưa kịp (đã) vội thương suốt đời!

 Ôi! người em gái Trưng Vương
Vừa ngang giáp mặt đã dường trăm năm!

 Trưng Vương em gái Trưng Vương
Ngày đêm in dấu bóng hường trong ta!

Rồi các chàng ta để lại địa chỉ:

Ơi người em gái Trưng Vương
Anh tên là… bên trường Văn Khoa

 Trưng Vương em gái đẹp xinh
Anh tên là… xóm Đình nghen em

Việt cũng mon men theo con đường tơ. Anh cũng dán hai câu vào thân cây sao:

Hỡi người em gái Trưng Vương
Em là cơn gió vô thường trong ta!

Cơn gió Trưng Vương vô thường mang nghĩa bóng đến với Việt. Cơn gió thoáng qua, cơn gió bay vào vùng quên lãng rất nhanh. Cơn gió đã thành cơn gió Vô Vi. Có một cơn gió khác đã níu chưn anh, trói người anh đã từ hơn một năm trước. Cơn gió bay bay trên con đường thẳng của tam giác vuông. Chính cánh cổng đường chưn trời là cầu nối anh đến với cơn gió. Cơn gió ở ngôi trường mang tên vì vua đã thống nhứt thiên hạ:

“… Hỡi người tình Gia Long*, hỡi người tình cuộc sống
Con đường này xin dâng, cho người bình thường…”
(Con Đường Tình Ta Đi – nhạc Phạm Duy)

(*Trường Nữ Trung học Gia Long, nay là Nguyễn Thị Minh Khai)

Hơn một năm trước, lúc trên đường từ Petrus Ký tới ngắm Văn Khoa, khoảng giữa con đường này anh đã bị một tà áo dài phất phơ trong gió ẩn trong cả mấy trăm tà áo tuyệt đẹp chiếu bí, đúng như những gì mà các chàng thi sĩ vui tánh hay trêu ghẹo:

Hỡi người em gái Gia Long
Nhìn em là thấy tơ… lòng thòng ra

Sợi dây tơ của Việt biến anh thành  cái đuôi của một tà áo. Cái đuôi cả tháng trời, không thể nào tà áo tìm cách dứt ra được. Mọi cách rồi cũng “công cốc La Mã”, mọi con đường đều về La Mã, Việt thuộc lòng câu này như bao chàng trai, bao dũng tướng mang chiêng mang gươm đi chinh phục. Mấy bận liền cái đuôi dắt chứ không cỡi con chiến mã lẽo đẽo theo ngay từ cổng trường về tới tận khu Dakao. Tà áo mấy bận thử thử lòng cứ chầm chậm từng bước từng bước dù trời nắng, dù trời mưa bay lất phất.

‘Đường dài mới biết ngựa hay’. Những con ngựa dai sức, bền bỉ sẽ làm nên chiến tích. Việt đã từng bước từng bước “kìm cương ngựa chiến” đi đến cuối con đường để rồi được cắm lá cờ chiến thắng có điểm đích là cây cầu Sắt hùng vĩ* (*Nay là cầu Bùi Hữu Nghĩa), anh hoàn toàn chinh phục được sự nghi ngờ để đổi lấy lòng tin tuyệt đối, chinh phục niềm kiêu hãnh để có được nụ cười hiền hòa rạng rỡ. Việt đặt tên cho tà áo là Nụ Tím Gia Long. Nụ hoa chuẩn bị bung nở, nụ cười một thời bí hiểm, một thời kênh kiệu bởi mang sự mỹ miều, nay đã rất bao dung, rất hòa nhã. Tím thì thuộc một rừng tà áo tím như một cánh rừng hoa sim* (*Nữ sinh Gia Long ngày xưa bận áo dài tím truyền thống).

***

Bất ngờ là một phần của cuộc sống. Bất ngờ làm bật nảy hoặc đè bẹp cán cân cảm xúc trong con người. Bất ngời đôi khi mang lại thú vị, mang lại niềm vui sướng tột đỉnh, đôi khi mang lại buồn đau, đôi khi mang lại nỗi trằn trọc, hoang mang, sợ hãi…

Tuổi 20 của Việt, chàng sinh viên năm thứ hai Văn Khoa hào hoa  bỗng dưng bị đánh dấu bằng một câu hỏi lớn. Câu hỏi đến một cách bất ngờ, rất bất ngờ. Câu hỏi chắn ngay lối con đường Việt đang đi rất suông sẻ, chưa gặp phải một chướng ngại nào, chưa gặp phải một vật cản, một lực cản nào cả. Câu hỏi mà trong khoảng thời gian này, khoảng thời chỉ chú tâm đi tìm những tia sáng chưa một lần xuất hiện trong anh, chưa một lần dù là mảy may. Sự mảy may, dễ liên tưởng tới những bông cỏ may, những bông cỏ tưởng chừng tượng trưng cho sự yếu mềm lại tựa hồ gai góc, dễ dàng đâm xuyên và dính chặt vô những tấm vải được dệt kín bưng.

Đó là một buổi sáng vừa qua hừng đông, Việt bước vào một quán cà phê khá đông đúc, đang dò tìm chỗ ngồi thì một người trạc tuổi đeo cặp kiếng cận dày cộp dịch ghế xích vào và kéo một ghế khác, anh ta đưa bàn tay chỉ vào ghế:

“Ngồi đây đi ông bạn.”

Việt cảm ơn và ngồi xuống. Anh bạn kiếng cận nhanh nhảu búng tay cái chóc, nói với vô trong quầy rồi mới hỏi mà như nói với Việt:

“Cà phê đi. Chắc chắn là cà phê chứ gì phải không ông bạn?”

Việt gật đầu:

“Ừ, cà phê. Hay lắm, hay lắm ông bạn, đoán như thần.”

Anh bạn kiếng cận cười xòa:

“Không là hai ly về cả ta.”

Lôi gói thuốc lá trong túi ra và kéo lòi nửa điếu, anh bạn kính cận mời:

“OK Salem?”* (*tiếng lóng, ý đồng ý chứ? Salem: một loại thuốc lá của Mỹ)

Thấy Việt còn chần chừ, anh bạn tiếp:

“Cầm đi, hút cho thơm râu. Vài ba điếu thuốc mời nhau nhằm nhò gì ba lẻ tẻ. Ui, thứ gì thì thứ chứ thứ “mấy em làm anh sướng”* này nhà tui có đầy, ba tui là lính Quân tiếp vụ mà (*diễn dịch theo cách viết tắt, theo nghĩa tiếng Việt và đọc ngược từ Salem – melaS).

Việt rít một hơi, mấy sợi khói anh nhả ra bay tỏa xung quanh những chữ o của anh bạn phả lên nhìn rất đẹp. Việt hỏi:

“Ông bạn là…?”

Anh bạn kiếng cận cắt ngang:

“Ui da, đừng hỏi mà tui mang nhục” – chỉ chỉ vào cặp kiếng, anh tiếp: “Ngó vậy chứ chẳng phải vậy, chẳng ra giống ôn gì đâu. Còn ông bạn vừa từ Đà Lạt về hả?”

Việt nhíu mày, phải chăng vì anh có nước da trắng nhưng có phần tai tái? Con trai Đà Lạt đa số là vậy, đâu trắng tươi như các nàng. Việt đáp:

“Ồ, không đâu. Tui dân Sài Gòn chánh hiệu con nai vàng. Dân Triết Văn Khoa.”

Anh bạn kiếng cận có chùng xuống một chút, một chút thất vọng, nhưng rồi anh cũng lấy lại sự hồ hỡi:

“Ồ, xin ngã mũ, ngã mũ với giáo sư tương lai đây. Nhưng thú thiệt tui khoái tướng tá của ông bạn, ước chi tui có được tui đăng lính* ngay (*đăng ký tình nguyện vào quân đội, còn gọi là quân dịch).” – anh cười hihi: “Tui bước chưa tới cửa đã bị đuổi về rồi. Dáng vóc còm cõi, tội nghiệp quá mà. Trong khi đó lại cứ mơ được là một chàng lính dù, chàng lính oai phong như ngự lâm quân.”

À, thì ra anh bạn nghĩ Việt đang học trường Võ Bị Đà Lạt*(*trường chuyên đào tạo sĩ quan quân đội). Anh bạn kiếng cận đứng dậy:

“Thôi, chào giáo sư nhé. Tui đến lớp, ráng gạo* (*học chăm chỉ) thêm may ra năm tới đăng ký được lớp dự bị. Chúc sức khỏe giáo sư.

Việt đưa tay bắt và chào lại:

“Chào ông bạn. Chắc chắn ông bạn sẽ thỏa ước nguyện mà thôi. Không làm việc này thì làm việc khác, việc nào cũng hay hết. Cảm ơn ông bạn rất nhiều!”

Anh bạn mắt kiếng bước đi để lại một niềm vui trong Việt. Một cảm giác là lạ bởi đây là lần đầu anh được nghe nói tới hai từ giáo sư, mình sẽ là giáo sư. Việt chưa hề nghĩ tới điều này. Anh thấy vui vì trong mình phải có ít nhiều tố chất nào đó bộc lộ ra bên ngoài, như vậy anh bạn mới nhận được chân tướng.

Nhưng rồi niềm vui không được bao nhiêu lâu, đã phải nhường chỗ cho nỗi bâng khuâng. Nỗi bâng khuâng kéo ập tới, che phủ lấp niềm vui cũng từ chỗ chân tướng này. Tướng tá anh vượt trội với bạn đồng trang lứa, Việt cao to, vạm vỡ. Ư, mà không chỉ là đồng trang lứa, anh cao to hơn tất thảy người bình thường đã trưởng thành. Ngay cả hàm râu của Việt cũng vượt trội, một hàm râu quai nón sẽ rậm rì nếu Việt để chứ không cạo nhẵn. Cách hai ba bữa thì Việt lại phải đứng trước gương với  đồ nghề cạo râu cùng hộp kem xịt ra thoa chứ không thì cạo thiệt khó đứt những sợi râu cứng như cước. Nếu Việt để râu dài, đầu tóc phủ một chút thì chắc danh xưng giáo sư đã có rồi chứ không cần đến anh bạn mắt kiếng.

Giáo sư Triết học thiệt cao siêu. Nghĩ tới sự thể cao siêu, dĩ nhiên sự cao siêu nào không được được trọng vọng, một sự trọng vọng lớn lao xuất hiện vẫn không làm mất đi sự bâng khuâng, không lấy lại được niềm vui cho Việt. Một câu hỏi liên quan tới sự thể này lởn vởn ngay trước mắt và còn khá lâu nữa trong anh. Câu hỏi rằng: “Tại sao anh không đăng lính?”, tại sao chưa hề nghĩ tới đăng lính? không đăng để trở thành một chàng ngự lâm, một chàng lính dù cũng rất chi là oách? Không những vậy, nó còn thể hiện hết tinh thần, khí khái của một con người khi được ban cho một ân sủng nào đó. Đặc ân của Việt là một hình thể khá tuyệt vời, cao to và rất cân đối.

Vũ trụ vẫn biến chuyển và Việt vẫn chuyển động trong đó. Anh tìm ra được vài tia sáng. Lần này Việt không suy nghĩ sâu xa, không vội tìm cách để tia sáng tỏa ra các nơi, anh xoay hướng chuyển nó quay vào ngay chính mình. Anh muốn nó trước tiên phải xóa đi vùng u tối trong mình. Anh muốn nó phải trả lời được câu hỏi tưởng chừng rất dễ có lời đáp này. Cứ mỗi lần truy lục, truy vấn tâm tưởng thì lại xuất hiện những biện giải. Có sực hài lòng với biện giải lẫn không hài lòng.

Việt ngồi trên chiến mã sắt thấy mình đúng là khá oai vệ. Có được sự trầm trồ khá nhiều, nhưng Việt không thấy được sự ngưỡng mộ. Ngay cả anh chàng mắt kiếng, Việt nhận ra rằng anh sẽ quên ngay mình khi bước ra khỏi quán cà phê. Sự trầm trồ sẽ qua nhanh, hình ảnh đập ngay vào mắt tạo ra sự trầm trồ rồi thoáng qua và biếng mất dễ dàng chứ không đọng lại lâu, không lưu kỹ bằng sự ngưỡng mộ trong ký ức con người, trừ những hình ảnh thiệt sự ấn tượng, có một không hai và xuất hiện hiếm hoi trong một khoảng khắc nào đó. Sự ngưỡng mộ có từ một quá trình phán đoán, dò xét, suy luận,… rồi mới đi đến hồi chốt lại kết quả.

Song, Việt cũng cho rằng mình cũng đâu có quá chú tâm đến vẻ bên ngoài, đâu quan tâm lắm tới sự trầm trồ, anh luôn tự khuyên mình phải đi tìm sự ngưỡng mộ, sự ngưỡng mộ thiệt lòng, nói trắng ra là anh luôn buộc mình đi trên con đường hướng tới thành nhà Hiền Triết. Con đường đi đó đâu phải dễ dàng nếu không muốn nói là rất chông gai, chông chênh bờ thác. Con đường đi không phải ngày một ngày hai để có được kết quả cho sự ngưỡng mộ.

Việt rõ lắm chứ, những nhà Hiền Triết họ để lại đâu phải là sự mô tả về thân thể, mô tả về dáng dấp, có chăng thì cũng sơ lược là với một vẻ khôi ngô, tuấn tú hoặc dị tướng, dị hình, không giống người bình thường để tôn vinh thêm sự thông thái, tôn vinh công việc, sự nghiệp của họ để lại.

Sự biện giải nâng cao hơn một bậc nữa, Việt đã loại bỏ được sự sân si, loại bỏ được tự ái, loại bỏ được những bản tánh cố hữu trong con người rất khó bứt ra. Anh đã âm thầm đi trên con đường chông gai, không chọn sự ân sủng mà sẽ dễ dàng có được sự ngưỡng mộ.

Ấy dà, nhưng đó là sự biện giải khi anh có câu hỏi, chứ trước đó anh có chú tâm gì tới nó đâu, anh bị hút sâu vào con đường anh đi kia mà. Còn có thể bẻ lại sự biện giải, anh đã mang Vô Vi trong mình, vì bị cuốn hút mà anh quên các hoạt động khác. Điều này có thể tha thứ, nó tới tự nhiên chứ không phải cố tình, quá chú tâm một nơi thì sanh vô tâm với nơi khác. Nhưng không trách móc thì không thể.

Việt thử rời bỏ con chiến mã sắt thử xem sao. Dĩ nhiên sự trầm trồ có giảm xuống. Nhưng cốt không phải ở điều này, anh đã liệt sự trầm trồ vào khối Vô Vi, anh chỉ muốn thời gian đi chậm lại. Ôi! thời gian cũng có nhanh chậm và ta tạo ra như vậy được nữa sao? chứ không phải 24 tiếng đồng hồ là một ngày đêm, một tiếng đồng hồ là 60 phút,… được phân định hữu hạn vậy sao? Phân định hữu hạn thì không thay đổi, nhưng Việt đã thử nghiệm riêng cho mình, anh đi thụt lùi thì thấy thời gian đi thụt lùi theo mình, với đôi bánh xe của chiến mã sắt lăn tròn vù vù thì kéo thời gian đi vù vù, lăn tròn chầm chậm của những ngày lẽo đẽo theo sau Nụ Tím Gia Long thì nó dài bất tận… Việt tạo cây thước đo thời gian mới, đó là đôi chưn của anh, đôi chưn mang thân thể đi tới trường, mang thân thể lang thang đây đó… Thời gian dĩ nhiên chậm lại theo thước đo và kéo theo những tia sáng chiếu chậm lại. Những tia sáng có thời gian quét vào vùng u tối, quét vào các ngóc ngách mà bấy lâu nay nó bay vùn vụt.

Bước kế tiếp này không đi đến đâu, thời gian chậm càng làm lê thê thêm, giống như một sự trì hoãn để tìm thêm biện giải. Trớ trêu thay xuất hiện ngay sự so sánh, rằng tựa như sự hoãn binh. Binh nghiệp của anh ở đâu? Lấy tư cách gì để anh sử dụng? Việt chẳng muốn sử dụng nhưng hai chữ cứ lẩn quẩn trong đầu, xua đi không nổi.

Tâm trạng Việt rối bời. Anh đâu hay bị rối bời như vậy. Được một điều, Việt biết kìm chế. Nhưng có dấu cách mấy cũng không thể che được hết, nhứt là đối với phụ nữ, đặc biệt là người gần gũi.

Sọt sọt muỗng cho đá bào tan ra trong ly chè* (*chè đá bào, đá được bào mịn như tuyết), Nụ Tím Gia Long hỏi:

“Có chuyện gì xảy ra hở? chuyện gì mà buồn buồn vậy?”

Việt nhún vai, giả lả:

“Ơ, có gì đâu. Chẳng có gì hết. Chỉ là bài vở không được như ý thôi. Buồn chút thôi mà.”

Nụ Tím Gia Long hồn nhiên:

“Vậy hở. Tưởng gì chớ, vậy thì có nhằm gì với người tài cán ha. Chẳng mấy chốc lấy lại thôi.”

Sự hồn nhiên của nàng làm nỗi buồn hiện bên ngoài Việt tạm đi mất. Việt vui vẻ và anh muốn cuốn vào đây để nó biến mất hẳn, chí ít trong lúc này:

“Ôi! chè ngon quá!”

Nụ Tím gật đầu:

“Chè ở đây nổi tiếng mà.”

Những câu chuyện bắt đầu từ ly chè được kể, chuyện trường chuyện lớp của nàng Nụ Tím mà Việt khưi gợi nên. Anh có một khoảng thời gian hồn nhiên thiệt dài. Cây thước đo thời gian lúc này Việt muốn kéo càng dài để tận hưởng là ngồi, ngồi và ngồi, thời gian cũng rất biết chiều lòng, ngồi lại thiệt lâu với đôi bạn trẻ.

Nhưng, khi rời khỏi thời gian ngồi thì Việt lại buồn. Những buổi chiều Việt càng thấm buồn.

Buổi chiều cũng hay buồn. Buổi chiều buồn là buổi chiều chiều, buổi tiến gần tới hoàng hôn. Ánh nắng buổi này đã nhạt, chuyển màu vàng vàng và man mác.

Buồn của Việt và buổi chiều không có mối liên lạc gì với nhau. Chì có điểm chung là cả hai cùng thấm nên rất là buồn. Khác nhau nhiều là buồn của Việt rất chán chường, buồn của buổi chiều thấy nhẹ tênh, có cảm giác nhiều người khoái cảm với nó nữa ấy chứ! Hổng lẽ có nỗi buồn khoan khoái nữa sao? Với Việt như vậy rất lạ lùng, nhưng anh vẫn thích dù không nói ra với ai.

Việt dự định leo ra ban công phía sau nhà để nhìn về hướng Tây, nhìn buổi chiều buồn, biết đâu buồn này sẽ lấp buồn kia. Ui mà, Việt quên mất, phía sau không có ban công, tiếp nối với căn nhà chánh phía trước là căn nhà trệt mà thôi.

Vậy là anh leo lên cây vú sữa già. Ngồi trên cây vú sữa thấy có vẻ sao sao, giống con thú to bự nào đó rất là kỳ cục, nên Việt bước qua ngồi trên mái nhà. Rất may, phía sau khá vắng vẻ, nhưng nếu có ai dòm thấy thì sẽ cho rằng Việt đang sửa mái nhà chứ có gì ghê gớm đâu. Việt nghĩ vậy thì thấy thoải mái, anh lòm còm bước nhẹ nhàng lại chỗ tiếp giáp giữa mái và chái nhà cho chắc chắn và gần trên đỉnh mái cho cao cao một chút, tấm thân hộ pháp của anh mà ngồi chỗ yếu yếu dễ lủng ngói, gãy cả rui mè.

Nắng vàng bắt đầu nhường chỗ cho buổi hoàng hôn. Buổi hoàng hôn với một mảng ửng sáng gồm nhiều màng màu nhỏ xen lẫn, chồng lên nhau rất đẹp, một chút xanh xanh ngả tím, một chút nâu nâu, nhiều hơn một chút là màu vàng, nhiều hơn hết là màu cam làm cho ta ngỡ cả mảng là màu cam nếu không nhìn kỹ. Mảng màu ửng nhưng không rực rỡ lắm, không bừng sáng như buổi bình minh, không thấy những tia sáng nên có lẽ nó vậy và cũng có lẽ do nó mất dần, lụi tàn dần, bị màn đêm dần dần chiếm trọn chỗ. Những mất mát dễ gây cho ta nỗi buồn, dễ gây nỗi thương nhớ, tiếc rẻ những gì đã bị đánh mất.

Việt nhìn ở một góc độ khác, anh thấy đây là một cuộc chiến tranh. Chiến tranh giữa bầu trời và phía khuất sau đường chưn trời. Chiến tranh giữa ánh sáng và bóng tối. Những kẻ dấu mặt, xài thủ thuật của bóng tối dễ chiến thắng hơn người ở ngoài ánh sáng. Chiến tranh không đại diện cho số đông, tức dân chúng. Chiến tranh chỉ đại diện cho những kẻ hiếu chiến, đại diện cho những kẻ muốn làm bá chủ, muốn xưng hùm xưng bá, những kẻ độc tôn độc tài, những kẻ này lại hay núp trong bóng tối và sẽ nhân danh một điều gì đó, chẳng hạn nhân danh đại diện cho dân chúng để lừa mị, để sử dụng bạo lực mà thực hiện ý đồ của mình.

Chiến tranh thì luôn đem lại sự mất mát, luôn mang đến đau thương. Việt có thêm một biện giải, anh không thích chiến tranh, anh chống lại chiến tranh mãi đó thôi. Ngay con người anh ở đời thường, chưa ai thấy anh động tay động chưn bao giờ, anh là một cục đất hiền khô, luôn nở nụ cưới hiền hòa trong mắt mọi người. Vậy hà cớ gì anh phải đăng lính? Hà cớ gì phải cầm súng để gây đau thương? Hà cớ gì anh không tiếp tục con đường tìm ánh sáng đề triệt tiêu bóng tối?

Việt nguôi ngoai với biện giải này, anh dần tươi tỉnh hơn. Bỗng dưng, một cơn gió mạnh ào qua, gió lay cây vú sữa kêu lào rào, tán lá quạt vào mái ngói làm Việt lạnh người bởi từ nãy giờ trời rất yên tĩnh. Đang nghĩ về chiến tranh, Viêt giựt mình ngỡ chiến tranh đang ập tới, chiếm trọn tất cả. Gió qua đi, trời yên ắng trở lại nhưng câu hỏi khác lại đến: “Trong lúc ngay cả mình còn mù mờ, còn chưa tự khai sáng nỗi, còn đi tìm tia sáng thì chiến tranh nó đã thống lãnh thì sao?” – Con đường đi tìm tia sáng và phát sáng đâu phải ngày một ngày hai, thậm chí phải đánh đổi bằng mạng sống như Triết gia Socrates ngày xưa.

Và Việt nhớ tiếp một câu nói người ta cũng rất thường nói: “Muốn có hòa bình, hãy chuẩn bị cho chiến tranh” hay “Muốn kết thúc chiến tranh không gì bằng một cuộc chiến”. Như vậy có mâu thuẫn quá chăng? Không. Chẳng có gì là mâu thuẫn cả. Chuẩn bị một cuộc chiến như là cuộc chiến cuối cùng để dập tắt chiến tranh, một cuộc chiến chống lại   chứ không phải là gây chiến triền miên khói lửa.

Lúc này trong đầu Việt văng vẳng tiếng của các cụ ngày xưa, tiếng văng vẵng nhưng rất dứt khoát: “Đánh. Đánh.” – Dĩ nhiên ai cũng biết đây là tiếng hô đồng lòng của các Bô Lão tại hội nghị Diên Hồng. Tiếng hô dậy núi sông nhưng không hề là tiếng hô của sự hiếu chiến như những kẻ phương Bắc, chuyên đi xâm lấn và hà hiếp nước yếu, nước nhỏ.

Tiếng hô biểu thị cho điều gì? Đó chắc chắn là tinh thần ái quốc đứng đầu. Đó là tinh thần không nhu nhược, không hèn nhát trước kẻ thù bạo tàn, đó là danh dự. Những cụ già còn mang danh dự thì một kẻ thanh niên trai tráng lại yếu hèn hay sao? Câu hỏi này không thể không có trong Việt. Và đó là trách nhiệm với Núi Sông này, không thể phó thác cho ai khác. Phải cùng nhau gách vác. Việt đã thấy khá nhiều lần câu biều ngữ: “Tổ Quốc – Danh Dự – Trách Nhiệm” đó thôi. Anh cũng đã được dạy và đã thuộc lòng bài hát Nhà Của Ta của nhạc sĩ Phan Quang Nhàn:

Cái nhà là nhà của ta
Công khó Ông Cha lập ra
Cháu con phài gìn giữ lấy
Muôn năm với Nước Non nhà
Xóm làng là làng cùa ta
Xương máu Ông Cha làm ra
Chúng ta phải gìn giữ lấy
Muôn năm với Nước Non nhà
Cánh đồng đơm đầy hương hoa
Công khó Dân ta làm ra
Quyết tâm ta gìn giữ lấy
Nuôi nhau chung sống một nhà
Xóm giềng là tình quê hương
Chung sống vui bên ruộng nương
Có nhau để cùng chung sức
Vươn lên Non Nước hùng cường
Cõi đời là đời của ta
Nuôi dưỡng công lao Mẹ Cha
Lớn khôn để gìn giữ nước
Thay nhau xây đắp Sơn Hà

Việt nhẩm nhẩm hát đi hát lại mấy bận. Người anh bắt đầu thực sự loại bỏ được cơn buồn. Và anh đã có câu trả lời.

Không còn đắn đo, dò hỏi chi nữa, Việt nắm bàn tay, đưa ngón tay cái lên quyết định rất dứt khoát. Lúc này thì người Việt sảng khoái, anh trèo xuống khỏi mái nhà mà tưởng chừng đang bay rất ư là nhẹ nhõm xuống đất.

 

***

 

Vẫn ở quán chè đá quen thuộc, ở “… Nơi chúng ta thường hẹn, rồi bập bềnh buông tâm trí…”* (*Chiều Trên Phá Tam Giang – thơ Tô Thùy Yên, nhạc Trần Thiện Thanh), và cũng có chính lời bài hát này nho nhỏ phát ra từ máy hát dĩa Akai ngay tại quán, nhưng hai ly chè không được Nụ Tím Gia Long sọt sọt hồn nhiên như mọi lần, mà tâm trạng của cô nàng tựa hồ như lời bài hát, “… em dòng lệ bất giác chảy tuôn, nghĩ đến một điều em không rõ, nghĩ đến một người em sợ không dám nghĩ, đến một người đi giữa chiến tranh…”. Hai ly chè đá lạnh băng băng tuyết, người Nụ Tím Gia Long thì nóng hổi, không ngăn được cảm xúc của tuyến lệ, cô nàng cứ để cho hai dòng nước mắt chảy tự nhiên, không quẹt cũng chẳng lau chùi, một lúc sau mới thổn thức:

“Chứ sao nói ghét chiến tranh lắm mà. Ghét súng ống, ghét giết chóc lắm mà.”

“Thì ghét lắm chứ sao!”

Việt đáp lời và nhẹ nhàng giải thích theo cách nghĩ lúc ngồi trên mái nhà ngắm nghía hoàng hôn. Kết thúc anh nói:

“Rồi anh sẽ về, chắc chắn anh sẽ về với em.”

Nụ Tím Gia Long dương đôi mắt to tròn nhìn Việt một lúc rồi gục đầu, áp mặt vào bắp tay, hai bàn tay ghì chặt cánh tay anh, cô nàng thì thào cảm xúc của đọc thơ:

“Anh trở về có khi là hòm gỗ cài hoa. Anh trở về trên chiếc băng ca. Trên trực thăng sơn màu tang trắng…  Anh trở về trên đôi nạng gỗ… hở?*

Việt khẽ cười buồn:

“Anh trở về, anh trở về bại tướng cụt chân**. Hay chúng ta cứ theo: Anh trở về nhìn nhau xa lạ. Anh trở về dang dở đời em. Ta nhìn nhau ánh mắt chưa quen. Cố quên đi một lời trăn trối, em ơi!***” (*, **, ***Kỷ Vật Cho Em – thơ Linh Phương, nhạc Phạm Duy)

Cô nàng lại ngước đôi mắt long lanh nhìn Việt:

“Bộ dễ rũ bỏ hết lắm sao?”

Nước mắt của Nụ Tím Gia Long thấm vào bắp tay, Việt cảm thấy sự ấm áp lan tỏa khắp cơ thể. Anh xoa mái tóc cô nàng, quả quyết:

“Anh trở về, anh sẽ trở về lành lặng, và anh sẽ bù đắp bằng sự bằng an cho chúng ta.”

Đôi bạn trẻ thủ thỉ khá lâu nữa trong ánh đèn vàng vọt. Bên ngoài, đèn đường cũng vàng vọt, những hàng cây xanh um dưới ánh sáng ban ngày bây giờ thành một khối màu u tối, bóng của nó in xuống mặt đường đen thủi, khung cảnh thiệt là trầm mặc, trầm tư lắm lắm.

Lê Đắc Đồng Vọng

 

 

 

 

 

 

 

GIỮA HAI MIỀN VIỄN XỨ

 

 

Tiểu thuyết
Từ những câu chuyện có thực

Nắm bàn tay năm ngón
Đếm từng ngón tay buồn
Những quyết định đau thương
Từng chương của cuộc đời

 

Chương ngón út tàn hơi
Giữa
LÊNH ĐÊNH định mệnh

 

Việt bị va vào vách cái rầm và thức giấc. Vì quá mệt mỏi cả thể xác lẫn tinh thần, đã trải qua hai ngày đói lả, không có chút thức ăn gì dù là nhỏ nhoi như những hột cơm rơi vãi, như những mẫu vụn bánh mì để bỏ vào bao tử, còn thời gian bị khủng bố đầu óc thì không nhớ nỗi bao lâu, có lẽ đã nửa tháng trời trôi qua, trong khoảng thời gian này anh cũng chỉ được ăn uống cầm hơi, Việt đã lịm người đi rồi mê man vào khoảng hai tiếng đồng hồ trước đây, nên khi mở mắt, lồm cồm ngồi dậy và dộm người định bước đi, trông anh vừa ngơ ngác vừa giống người mộng du. Nhìn lên trần, trần thấp lè tè anh không nhận ra nơi đây là nơi nào, nhà mình thì không thể, không thể có cái trần thấp sát rạt trước mặt được. Đang lơ mơ thì người anh lại bị đẩy chao đảo, cả căn phòng dịch chuyển lắc lư, tưởng tượng tựa hồ căn phòng nằm trong con lắc là trái đất đang đong đưa qua lại. Vịn vào vách cho vững người, một lúc sau Việt mới định thần lại được, dòm quanh một lượt thì sực nhớ ra rằng mình đang ở trên chiếc ghe bầu, chỉ một mình mình trên chiếc ghe bầu đang lênh đênh, dập dềnh giữa biển khơi trong từng đợt sóng chập chùng.

Trong ánh sáng nhập nhèm nhưng không có ánh lửa hắc hiu của cây đèn bão treo giữa phòng, Việt nghĩ rằng lúc này hãy còn là ban ngày. Anh cố nhích tấm thân còm cỏi chỉ còn da bọc xương ra khỏi nơi dành cho thủy thủ nghỉ ngơi trên chiếc ghe để coi tình hình bên ngoài ra sao.

Đúng hơn người ngợm của Việt lúc này là một thây ma tồi tàn, một thây ma vất vưởng đói rách mà người xưa hay kể. Thây ma Việt lộ rõ nhiều xương xẩu hằn dưới lớp da mốc xì làm dáng anh càng dài sọc, xương không chỉ hiện rõ bộ xương sườn, xương hiện diện trên toàn thân thể, xương làm hốc mắt sâu hoắm, làm gò má nhô cao, làm hai bên má teo tóp, ngay cả trên trán cũng nhô ra hai cục phía trên hàng lông mày. Thây ma Việt không thấy sự hiện diện của thịt, có lẽ chăng đồng loại đã ăn thịt đồng loại, xương và da đã nuốt mất thịt để thân thể được tồn tại hoặc thịt đã tự bị hủy hoại khi không có gì nuôi được nó(?!).

Việt dĩ nhiên nhận biết rõ điều này, chính anh đã thốt lên điều đó, rằng mình là một thây ma, chỉ có điều thây ma còn giữ được hồn chứ chưa để nó xuất đi. Mấy ngày trước, khi biển lặng, mặt biển như tấm gương, anh đã soi mình và khá bất ngờ vì không thể tưởng tượng được như vậy, một con người cao 1m8, một thân thể tráng kiện là cách nói khiêm tốn thay cho chữ hộ pháp đã sụt giảm theo một cách không thể nào mau lẹ hơn. Việt đã chua chát lẩm bẩm, “Còn đâu một thằng sắp sửa sẽ là lính Biệt động quân oai phong ngày nào.” – Còn đâu ơi hỡi còn đâu! Lính Biệt động quân với quân phục rằn ri hổ báo, chỉ khác màu, màu xanh và nâu để tiệp với núi rừng chứ không vàng cỏ khô của “ông ba mươi”, nay đã thay thế bằng bộ y phục rách tả tơi. Bởi vậy mới lòi thấy cả bộ xương sườn của Việt, thấy hai cánh tay thõng chẳng khác nào của đười ươi, khúc cẳng chưn và bàn chưn là của chú chàng hiu. Trên người Việt bây giờ chỉ còn có hai thứ là tốt tươi, ư mà tốt thôi chứ không tươi, đó là bộ tóc rối bời phủ che lấp hết cái ót, đó là bộ râu đâm xỉa tua tủa như bộ rễ tre. Và Việt còn cảm thấy một điều rùng rợn nữa, bên trong cơ thể mình, chánh xác hơn là lục phủ ngũ tạng đang mất dần mòn, đang bị gặm nhấm của hàng ngàn con gì đó, có thể là những con vi trùng hoặc có thể là những con giòi bọ. Hàng hàng những con này không biết được sản sanh từ đâu, chúng xuất hiện rất nhanh,nhanh phải tính bằng giây phút, sanh sôi nảy nở cũng nhanh chẳng kém gì, rồi sẽ không bao lâu chúng sẽ tiến lên tới bộ não mà thôi. Người ta cũng thường kể rằng những hồn ma đói rất thích máu người, rồi tới nội tạng và bộ óc, sau đó mới để ý tới thịt xương khi chưa đủ thỏa mãn và còn thèm thuồng. Việt ngờ ngợ rằng, cũng có thể bên trong cơ thể mình là sự hiện hiện của những hồn ma vô hình mà mình không thể nhìn thấy. Não của anh còn hoạt động là may mắn lắm rồi, đâu còn chút minh mẫn để phân biệt hay xua đuổi những ý nghĩ kỳ quặc, những ký ức từ đời thường hàng ngày xâm nhập nay trỗi dậy lấn chiếm và làm rối tung lên.

Dù vậy, Việt vẫn cố hết sức có thể để tận dụng sự may mắn còn sót lại, cố hoạt động để bộ não không bị tê liệt, anh hiểu rằng một khi não bị liệt thì ngay lập tức sẽ kéo theo sự tê liệt của thây ma. Anh điều khiển được thân thể, đã lê được người ra sàn ghe. Trời bên ngoài có khá hơn một chút, không quá nhá nhem nhưng cũng u tối. Sóng vẫn làm chiếc ghe chao đảo nhưng không mạnh, gió nhẹ thổi những đám mây xám và khá dày đi chầm chậm phía bên trên nhìn không xa lắm.

An tâm phần nào với bầu trời thì chợt Việt sững người lại khi nhìn về phía mũi ghe, có một vật gì đang nằm ở đó. Rồi anh khấp khởi mừng thầm, qua màn sương mù mờ mờ trước mặt, anh nghĩ có thể đó là một con cá lớn bị sóng đẩy bay lên ghe, có thể đó là một loài điểu biển có sải cánh thật dài nằm sóng xoài, có thể là một thùng đồ từ máy bay được thả xuống, thậm chí có thể là thức ăn của Trời, của Phật, của Chúa, của Thánh Thần ban cho, những Đấng tối cao, những Đấng thần linh đã thấu được, đã động lòng trước những lời cầu nguyện hàng giờ hàng phút của anh. Anh cầu nguyện với tất cả, làm gì có ông nào xấu xa, các ông chẳng phải là các Đấng cứu thế đó sao? với anh, vì không cùng thời chứ nếu có  thì những Đấng những Thần sẽ hòa hợp để mà cùng nhau cứu thế, cứu những sinh linh vô tội, cứu những linh hồn và thể xác bỗng dưng bị giáng tội, thậm chí cứu rỗi cả những con người đầy tội lỗi…

Bây giờ thì Việt cảm thấy người khỏe hẳn ra, không còn bị cơn đói vật vã hành hạ nữa. “Tiến lên tiến lên, nhanh lên nhanh lên nữa, dũng mãnh lên dũng mãnh lên hơn nữa…” – những lời của ông sĩ quan huấn luyện tại “Lò luyện thép” Dục Mỹ* (*Trung tâm huấn luyện Biệt động quân Dục Mỹ tọa lạc tại xã Ninh Sim, quận Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa, nay là thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa) ngày nào hiển hiện, thúc dục anh vượt qua màn sương mờ như vượt qua các chướng ngại vật, vượt qua những vũng bùn sình lầy ngập ngụa trong lúc thụ huấn tại thao trường.

Việt khoan khoái vịn mạn ghe bước tới thấy nhanh lắm nhưng kỳ thực thì làm sao nhanh nổi, kỳ thực thì làm sao anh đang lao qua màn sương hay đang bay bay lơ lửng qua màn sương. Than ôi! chẳng có màn sương nào cả, tất cả những hình ảnh ảo ảo thực thực lấp lửng trước mắt phát xuất từ sự đục dần đi của thủy tinh thể mà thôi, xa xa hơn nữa là ảo ảnh dợn sóng như hình ảnh trong bóng nắng gay gắt giữa sa mạc mông lung.

Việt không nhận ra được ảo ảnh cho tới khi nhích được tới mũi chiếc ghe bầu, chạm được vào vật tạo động lực bước đi và song song đó, luôn miên man vui sướng rằng sẽ được một buổi no nê, bù đắp những ngày đói rệu rã người.

Vẫn có vật chứ không phải là không có, nhưng là… ồ không, không phải vật, là một thứ rùng rợn hơn nhiều, một thứ mà khi bình thường bắt gặp sẽ dễ bị điếng hồn, dễ bị run lẩy bẩy, đó là một… xác chết,… nhưng là một xác chết rất quen thuộc. Quen thuộc bởi xác hết đã sống chung với anh bốn ngày nay, xác chết teo tóp giống y hệt thây ma Việt, chỉ có điều ngắn hơn, xác chết đã bắt đầu trương sình lên dù không lấy gì để phình lên được, một mớ da nhùng nhằng có phồng lên đôi chút, và xác chết bắt đầu quá trình mục ruỗng. Còn trước đó, xác chưa chết tức là còn con người thì sống chung với Việt từ lúc cả hai cùng bước lên chiếc ghe này, những ngày cuối đời của xác chết họ rất thân thiết, như một đôi tri kỷ từ rất lâu.

Phát hiện ra điều trớ trêu, dĩ nhiên Việt thất vọng tột cùng. Chưa bao giờ có nỗi thất vọng nào như nỗi thất vọng tột đỉnh này. Anh muốn hét toáng lên thiệt lớn, muốn hét cho bể tung bầu trời ra từng mảnh vụn như tấm gương bị sức ép quá mạnh rạng nức hàng trăm đường rồi rớt xuống loảng xoảng. Anh muốn nguyền rủa tất cả, nguyền rủa Trời, nguyền rủa Phật, nguyền rủa Chúa, nguyền rủa Thánh Thần, nguyền rủa con người, nguyền rủa cả chính bản thân mình, nguyền rủa đôi mắt chẳng khác gì đôi mắt mù lòa, nguyền rủa suy nghĩ vội vàng vui sướng, nguyền rủa suy nghĩ toan tính mộng mơ sẽ bày bữa tiệc thịnh soạn giữa biển cả và bầu trời bao la như thế nào, khiêu vũ cùng với sóng biển với bầy cá heo ra sao…

Có thể, có thể lắm, có người sẽ trách chứ Việt, trách cứ một con người sao quá mau bội bạc, quá ư là dễ mất niềm tin. Cũng như những người trách cứ, Việt và hầu hết con người có nhiều vùng cảm xúc để hình thành nên bản ngã. Con người dù muốn dù không cũng phải ăn tất cả những gì tồn tại trên trái đất, tồn tại trong không gian có thể ăn được, những hình thức hấp thụ không thông qua đường miệng, những hình thức không mang lại chút năng lượng nào đó cứ hãy qui về một mối là ăn. Thì con người ăn hương hoa để tạo vùng lãng mạn, vùng mộng mơ, vùng yêu thương, ăn cỏ lá, rau củ, trái cây tạo vùng bình an, vùng bác ái, vùng thư thái, vùng nhẹ nhàng cho tâm hồn, ăn cơn gió mùa xuân tạo vùng hồn nhiên, vùng hạnh phúc, vùng vị tha, vùng tha thứ, ăn cơn gió mùa thu tạo vùng bay bỗng, vùng du ca, ăn những tia nắng mùa hè rực rỡ tạo vùng hào sảng, vùng khí khái, vùng hảo hán, ăn hơi thở của đất, hơi thở của dòng sông tạo vùng hiền hòa, vùng sám hối, vùng ăn năn, ăn không khí tạo vùng hư vô, ăn những giọt sương tinh khiết tạo vùng vô thường, ăn những vì tinh tú tạo vùng huyền ảo, vùng mầu nhiệm, ăn đám mây đen, những cơn mưa dầm dề lê thê sẽ có vùng sầu thảm, vùng xám xịt, u uất, vùng chán chường, ăn cơn bão sẽ có vùng sân si, đố kỵ, ăn thác lũ, ăn sóng dữ sẽ có vùng thù hận, vùng cuồng nộ, vùng côn đồ, ăn thịt thú dữ sẽ có vùng ai oán, vùng báo thù, vùng manh động, ăn thịt thú săn mồi chuyên rình rập có vùng gian dối lừa mị, vùng lưu manh xảo trá, ăn gai góc sẽ có vùng hằn học, vùng cay cú, vùng chai sạn, ăn nhiều điều tồi tệ sẽ có vùng vô cảm… Bản ngã của con người có một vùng trung tâm, trung tâm điều khiển, chế ngự, kiểm soát những vùng cảm xúc không hình thành từ một trật tự nào, không có một công thức, không có một một số điểm quân bình như chủ nghĩa quân bình, như toán học quân bình số… Và mỗi con người là một con số, là một ẩn số khó giải mã chứ không bao giờ có một cái khuôn đúc ra, không thể giống nhau được. Đôi khi trung tâm điều khiển không điều khiển nỗi những vùng cảm xúc bất ngờ vùng dậy mạnh mẽ, trở thành một vùng tự do bất tuân, như một chú ngựa bất kham không gì ngăn chặn nỗi. Cho nên vùng cuồng nộ của Việt lấn át lúc này không có gì là khó hiểu. Những người trách cứ cũng không kiểm soát được mình đó thôi. Muốn trách cứ cần phải hiểu rõ hoặc đặt mình vào hoàn cảnh cần trách cứ để có một bài học đúng sai.

Sự cuồng nộ của Việt lúc này không thể thốt ra thành lời, chỉ có tiếng nấc nghẹn chẹn ngang cổ họng. Anh đau đớn phủ phục người xuống bên xác chết mặc cho mũi của anh vẫn còn hửi được mùi hôi bốc ra từ xác chết. Mặc kệ, mặc kệ, và mặc kệ, một hồi sau anh bắt đầu rên rỉ được: “Tại sao lại là anh, tại sao? tại sao? tại sao lại như thế này? Tại sao lại mang đùa cợt cợt nhả, để được hả hê hay sao? Các người, các người sung sướng, các người hả hê lắm rồi phải không?…” – Đôi mắt Việt nhòe dần, nhìn thật kỹ mới thấy vai của anh rung rung nhè nhẹ và anh lại muốn lịm người.

Trong cơn mộng mơ, trên đoạn đường gian nan đến mũi tàu, Việt không cảm thất mệt, nhưng bây giờ, nỗi thất vọng tràn trề làm xúc cảm đau thương chất chứa đầy lồng ngực thì sự mệt mỏi càng tăng lên gấp bội. Người muốn lịm đi mà anh không hề muốn chống chọi lại nữa như nhiều lần đã chống chọi, cứ để lịm dần, lịm dần, và sự nghẹn ngào đã chuyển xuống hết ở trái tim, anh cảm nhận trái tim đập ngày càng chậm, thiệt chậm, đập thoi thóp, dòng máu một số chỗ bắt đầu ngừng lại không chảy nữa, thây ma bắt đầu xơ cứng, năng lượng toàn thân hội tụ lại thành một nguồn, một dải cuộn có thể mở ra như một làn khói mỏng chuẩn bị vĩnh biệt cái xác bần hàn. Việt cứ tự nhiên để nó hội tụ, anh cầu mong sao nó sẽ vút bay vào vũ trụ đầy ánh sao lung linh tuyệt đẹp, anh lại nhớ lại nơi Dục Mỹ, phía trên đó một chút là đèo Phượng Hoàng, nơi đây anh đã từng ngắm được những vì tinh tú xa xăm đẹp nhứt, lúc ngã người tựa vào gốc cây ngắm bầu trời đêm đẹp tuyệt vời anh đã cầu mong một ngày mình sẽ được chu du trong đó, nhớ lại điều này anh lại xin lỗi, xin được tha thứ từ các Đấng tối cao, các Đấng Thánh Thần… xin được bỏ qua cho khi trong cơn điên cuồng đã nguyền rủa, đã chửi mắng tứ tung, anh tiếp tục cầu nguyện, nguyện cầu dải năng lượng trong mình sẽ bay được chí ít là tới rìa của Thiên đàng. Dải năng lượng, con người còn gọi là hồn, là hồn vía, là linh hồn. Hồn của Việt đã hội tụ và chuẩn bị cất cánh.

Linh hồn Việt cất cánh bay ra khỏi xác được gần một nửa thì bỗng dưng chựng lại. Vì sao lại có chuyện này? À, thì ra ngay cả trong linh hồn cũng đã chia rẽ và xuất hiện một cuộc nội chiến với nhau. Một nửa hồn muốn vứt bỏ tất cả để ra đi ngay lập tức, một nửa vẫn còn chần chừ, vẫn còn muốn níu kéo ở lại. Níu kéo ở lại bởi quyến luyến với thây ma chăng? Không hẳn là như vậy. Có một sự thương xót cho thây ma, hồn ra đi để lại một thây ma héo hắt đến tội nghiệp, đến là nhức nhối thì làm sao không quyến luyến cho được. Nhưng đó không phải là mấu chốt, vấn đề ở đây là có một câu hỏi vừa ập tới của một nửa hồn, rằng:  “Điều gì ở phía trước? chuyện gì sẽ xảy ở nơi mà ta không biết, không có một chỉ dẫn, không có một con đường nào để biết đích đến ở đâu, đích như thế nào cả.” – Không, có những con đường đó chứ, có biết đích đến đó chứ. Đó là những luật lệ trong cuộc sống, không phải là những văn bản luật lệ được viết tràng giang đại hải của con người để chế ngự con người, đó đơn giản là một chữ tốt trong cuộc sống, thực hiện được tốt càng nhiều thì dĩ nhiên càng tốt hoặc bình thường là không làm những điều gì xấu xa. Chỉ vậy thôi là ta biết được đích đến ở thế giới ngoài cuộc sống hiện tại, cứ thoải mái mà ra đi. Bởi vậy mới có thêm sự tự vấn cho nửa hồn: “Việt – ta đã đủ tốt chưa? Ta chưa đủ tốt, à mà ta có những lần làm điều xấu đó chứ, ta đã giương súng dù chưa gây chết chóc nhưng cũng đã hướng về phía đó, ta đã để bẵng tin tức của người yêu mình, không đoái hoài đến đi tìm, đừng đổ lỗi cho hoàn cảnh dù thậm tệ đến đâu đi nữa…” – Để rồi một nửa hồn Việt phân vân không biết điều gì sẽ đến, biết đâu đó lại là một chốn địa ngục đang chực chờ để hành hạ, ở lại thì còn có cơ hội làm lại. Một nửa hồn dứt khoát ra đi thì đinh ninh: “Mình chưa làm gì xấu xa quá đáng. Còn nếu bị cho là quá đáng thì phải chấp nhận, nhưng chắc chắn không tệ đến mức phải vào địac ngục, ở nơi chốn này chưa phải là tận cùng địa ngục hay sao?” – Sự phân vân không kéo dài, nửa hồn dứt khoát lập luận khá chắc, nên cuối cùng cả hai lại hợp thành một, bay đi là cách hay nhứt thôi.

Vừa lúc đó thì một giọng nói cất lên, lặp đi lặp lại nhiều lần:

“Không, không, anh không được chết, không được chết, không được chết. Anh phải sống, phải sống. Anh hãy cố hơn nữa, cố nữa. Xin anh đừng đề mình lịm đi, lịm đi là lịm mãi mãi. Tất cả sẽ mãi mãi bị vùi chôn dưới lòng biển sâu thẳm. Anh hãy cố cử động mắt, cố chớp mắt rồi dần sẽ mở được mắt. Anh phải giữ sự sống.”

Việt cảm thấy có một vòng tay ấm áp ôm lấy mình, rồi được vuốt ve khắp thân thể, người anh dần dần được xoa dịu, sự dễ chịu xóa bớt nỗi đau thương, nguồn năng lượng hội tụ trong anh tan dần ra hòa quyện với xương với da, với lục phủ ngũ tạng, với bộ óc đã sắp tê liệt, nhứt là hòa quyện làm trái tim nóng lên chút ít.

Trái tim Việt vốn dễ xúc động chứ không hề giống với những gì có ở bên ngoài con người anh. Bề ngoài nguyên bản của anh dễ đập vào những cặp mắt khi nhìn lướt qua hoặc dễ đập vào những cặp mắt hời hợt, rằng đây là hình ảnh một con người bặm trợn, một con người đăm đăm gỗ đá, một con người của lý trí, chỉ có những đôi mắt cảm nhận từ sâu thẳm tâm hồn mới nhận ra được sự khác biệt, sự khác biệt nằm phần nhiều ở chính biểu hiện từ đôi mắt của con người, đôi mắt Việt mang nỗi buồn man mác cho dù có lúc nó có sáng, có lúc nó long lanh.

Hai nửa hồn của Việt do bộ não và trái tim điều khiển nỗi nửa thì trái tim đã thắng, vùng xúc động đã thắng vùng lý trí. Vùng xúc động của Việt khá mạnh bắt đầu hồi sinh. Anh nhấc người lên để coi người vừa nói là ai. Việt lờ mờ nhìn thấy một người ngay sát trước mặt, đúng ra là một bóng mờ ảo trong suốt in trên nền không gian xam xám. Lần này Việt không còn tin vào mắt mình, anh đưa ta chạm vào thử, bàn tay anh tới nơi không đụng vào mà đi xuyên bóng hình, anh nắm bàn tay lại thì cũng chỉ là nắm bàn tay mình, bóng hình có thay đổi hình dạng, uốn lượn dịch chuyển khỏi tay anh. Việt có cảm nhận được một chút sức nong nóng ở bàn tay. Anh buồn rầu lẩm bẩm chứ không còn sức lực để nổi giận: “Mình lại gặp ảo ảnh. Số phận của mình là số phận mang tên bỡn cợt và cô đơn cùng tận. Bỡn cợt của mình vừa trò chuyện với nỗi cô đơn của mình mà thôi…”

“Anh không tự trò chuyện một mình. Ta vừa nói với anh đó.” – Hình bóng mấp máy môi.

“Mình lại đùa giỡn với mình chăng?” – Nhưng Việt có phần khó hiểu, anh vừa dứt câu lẩm bẩm thì nghe tức thì câu đáp mà anh định lẩm bẩm thêm câu nữa.

Bóng hình tiếp tục:

“Là ta đây, là linh hồn của cái xác nằm ngay anh đó. Ta đã rời thế giới sống với thân xác nên xưng danh là ta chứ không là tôi với anh như ngày nào.”

Việt hỏi:

“Điều gì chứng minh đây là thực?”

Bóng hình đáp:

“Anh chắc hẳn vẫn nhớ những điều mình đã trò chuyện, ta sẽ nhắc vài điều nhé.”

Việt vẫn không thể tin:

“Đây là lý trí lưu lại của mình, lý trí vẫn đánh lừa như đôi mắt tự phát ảo ảnh.”

Bóng hình gục gật:

“Cũng đúng thôi. Anh thận trọng như vậy là đúng. Nhưng đây là thực. Để ta tìm cách khác chứng thực. À, anh vừa cảm nhận hơi nóng từ ta đó. Còn vừa nãy, lúc anh định ngừng hơi thở thì anh cũng cảm nhận hơi ấm như vòng tay ôm ấp chứ gì, đó là của ta truyền qua cho anh, không chỉ mình ta còn thêm mấy linh hồn của những thân xác khác cũng quen với anh, họ truyền rồi khá mệt nên tạm nghỉ ngơi, để ta gọi họ lại nhé.”

Mấy bóng hình lần lượt xuất hiện chờn vờn trước mặt. Tuy không rõ như thân xác nhưng anh cũng nhận ra những khuôn mặt đã từng sống trên chiếc ghe bầu này. Những gương mặt giống những bức ký họa bằng màu nước mà người họa sĩ có tay nghề điêu luyện, vẽ một màu xám trắng rất trong, gần trong suốt như pha lê.

Bóng hình nói tiếp:

“Ta biết anh hãy còn nghi ngờ, nghi ngờ ảo ảnh tạo ảo ảnh. Để chắc chắn hơn, các linh hồn ta sẽ làm vài động tác nhé. Nào, cùng đứng hình yên một lúc. Nào, cùng di chuyển về các phía, về bốn hướng. Nào, cùng tiến lại với anh ta truyền thêm một tí sức nóng.”

Việt đã tin hơn. Anh cảm nhận được sức sống chạy trong thân thể mình. Bóng hình kêu dừng lại và các bòng hình vừa xuất hiện nghỉ đi, còn mình thì tiếp:

“Có vẻ anh đã không còn mù mờ ảo ảnh nữa. Ta sẽ làm động tác này nữa thì anh sẽ hiều rõ thôi. Ta xin lỗi nhé, vì lúc này không phải là lúc bỡn cợt. Ta làm vậy để có cảm nhận mà thôi.”

Việt chợt thấy lỗ tai rồi mũi nhột lắm, anh nhảy hắc xì hai cái liền, cái hắc xì như đẩy sự khó chịu, sự mệt mỏi trong người ra bớt. Anh cảm thấy đỡ hơn một chút và là cảm giác thực chứ không hư ảo. Anh đã tin chuyện đang xảy ra là thực.

Bóng hình vui mừng:

“Cảm ơn anh đã lấy lại cảm giác.”

Việt khó hiểu, bóng hình và Việt đối đáp với nhau:

“Sao cảm ơn ta?”

“Anh sẽ phục hồi và anh sẽ sống như anh đã hứa với ta.”

“Tại sao ta phải giữ lời hứa khi ta phải sống như địa ngục.”

“Đó là danh dự của người đàn ông. Đặc biệt là một người đã từng là quân nhân. Hơn nữa chỉ có anh mới đủ bản lãnh, mới đủ sức sống, anh sống anh mới giữ được những câu chuyện, chúng ta không vô ích khi thân xác bị vùi sâu dưới lòng biền như ta đã nói lúc nãy, và linh hồn chúng ta sẽ được ra đi thanh thản chứ không phải bơ vơ, là những âm binh bám mãi nơi biển cả hiu quạnh này.”

Một con sóng lớn tràn tới. Nước biển đập vào thân ghe bắn rào lên sàn làm Việt ướt sũng và anh bị đẩy vào mạn ghe. Anh than vãn:

“Khốn nạn thân ta. Ta không thể, ta quá mệt mỏi khi chống chọi lại bão táp. Bão lại đến nữa. Ta ước gì mình bị hất văng xuống biển thiệt nhanh.”

Bóng hình lắc đầu:

“Không có bão đến nữa, anh đã cùng cực cho nên dễ rùng rợn dù một một con sóng mà thôi. Nhưng có tệ hơn điều này không?”

Bóng hình phất phơ ra hiệu, một bóng hình nhỏ nhắn xuất hiện, tiến lại gần Việt và nói:

“Chú nhận ra ta chứ?”

Việt nhìn chân dung nhỏ bé dễ thương, và anh nhận ra ngay cùng với tâm trạng xúc động chực tràn như sóng biển:

“Làm sao ta không nhận ra. Ta đã ôm con vào lòng với mong mỏi con không phải trút hơi thở cuối cùng trong vòng tay ta. Sau đó, đã có lúc ta căm ghét đôi cánh tay này, căm ghét sự bất lực của ta, như thể ta tự tay giết chết một thiên thần bé nhỏ.”

Bóng hình bé nhỏ vẫy chào và biến đi. Bóng hình bạn của Việt nói tiếp:

“Đó chưa phải là nỗi khổ đau nhứt mà anh trải qua. Nhưng thôi, ta mang hình bóng bé nhỏ trở lại là quá đủ, ta không muốn xúc cảm của anh giết chết anh, ta không nhắc lại nỗi thống khổ hơn nữa. Vậy anh vẫn giữ ý định vùi chôn những câu chuyện nữa chứ.”

Việt bần thần hết cả người, anh run rẩy:

“Ta đâu là kẻ vô trách nhiệm, đâu muốn là kẻ hèn nhát. Nhưng ta đã bất lực, không còn gì để tồn tại được.”

Bóng hình gục gật:

“Ta hiểu nỗi khổ của anh cũng như khi anh hứa với ta anh sẽ sống. Chúng ta cũng không thể truyền năng lượng cho anh nhiều được, chỉ khi cấp bách mà thôi. Thế thì như ta đã hứa, ta không trách móc gì cả, ta đã chấp nhận hy sinh thân xác, anh hãy cầm con dao đó lên mà thực hành những gì chúng ta đã bàn bạc.” – Bóng hình chỉ lên mạn ghe, nơi có con dao treo lủng lẳng.

Việt đau khổ thốt lên:

“Ta không thể, ta không hứa sẽ thực hành điều này, đồng loại của ta ơi.”

Bóng hình buồn rầu:

“Những cái chết đau thương vô ích hay sao. Ta dám hy sinh sao anh không dám? Anh hãy dũng mãnh lên, hãy xòe ngón út của mình ra mà quyết định như anh đã từng nói đã xòe bốn ngón tay lần lượt cho những quyết định khó khăn vô cùng. Xòe ra đi, đừng co cứng nó nữa, đừng biến nó thành con rùa rụt cổ.”

Việt thở hắc thiệt mạnh. Bóng hình nói lời cuối:

“Ta không còn thời gian, ta không đủ sức lực. Ta phải đi đây và ta chờ quyết định từ anh đó, rất chờ đó.”

Bóng hình biến mất dần. Việt thấy bơ vơ quá đỗi. Anh lần lại chỗ treo con dao. Anh chợt thấy những dấu khắc thành hình ô vuông. Việt nhớ ra chính mình khắc nó để biết thời gian. Anh đếm và nhận ra chiếc ghe lênh đênh không chỉ nửa tháng, đã hai mươi bảy ngày trôi qua. Và Việt nhìn bàn tay mình chằm chằm, một cuộc chiến giữa xòe ngón út ra hay giữ lại, lại nổ ra. Trong lúc giằng co này thì ký ức về những lần xòe các ngón tay để quyết định như bóng hình đã nhắc nhớ như những thước phim từ từ chạy qua trước mặt…

Lê Đắc Đồng Vọng

 

 

 

 

 

 

 

ĐI VỀ PHÍA CON NGƯỜI: KÝ ỨC ẤN TƯỢNG (truyện dài)

 

ledachoanghuu

 

Cu Sô rời con đường làng, khúc đường lộ tới trường hàng ngày.

Ta vẫn tấu khúc nhạc vui vui, nhộn nhộn, chỉ có thêm vào vài nốt mới, là lạ, những nốt ấn tượng bởi nó vẫn là thằng nhóc học lớp mười. Nó về thị xã học trung học. Ngôi nhà mới nó trọ ở ngoại ô thị xã.

Vắng tiếng ụm bò, tiếng quang quác của bầy vịt, con ngỗng, tiếng cục tác của con gà mẹ dẫn bầy con kêu chim chíp, cu Sô không thấy thiêu thiếu lắm nhưng vắng tiếng gà gáy sáng, thậm chí gà gáy buổi trưa là nó thấy rất thiếu, thiếu hơn hẳn tiếng ô bặc lưa im bặc. May thay, nơi ở mới của nó vang rền tiếng gà gáy, xanh rì các luống rau mà lúc ngồi trên chiếc xe lam ra đi mang buồn vui lẫn lộn. Ngồi trong lòng và bệt dưới sàn xe quay ngược hướng với bác tài, lòng thòng ve vẩy hai chân như hai con lắc ngược chiều nhau đùa giỡn với không khí nó vui vui, xe chạy bon bon lại có cảm giác xe đứng yên, con đường, những hàng cây, quanh cảnh hai bên đường mới băng băng chạy vút vút qua trước mặt, lâu nay ngày đêm, sáng trưa chiều tối nhận được qua ánh mặt trời từ thị giác, không cảm giác về thời gian, lúc này mới cảm giác thời gian trôi trôi, có nỗi buồn bởi thời gian chạy rất nhanh, tựa hồ đẩy nó mau lẹ và ngày càng xa ngôi nhà tranh vách đất của gia đình. Ngôi nhà cạnh bên là giàn mướp giàn bầu bí, các loại dây leo vượt giàn phủ một góc mái nhà, “Ngôi nhà nở bông” với cu Sô là vậy, những bông vàng của mướp, bông trắng của bầu bí đẹp như cúc vàng, cúc trắng, những dây cỏ dại cũng bon chen nở những bông màu tía, màu tím điểm tô thêm cho ngôi nhà chất lãng mạn. Ngôi nhà nhỏ thân thương bên cạnh vườn cây đủ loại cũng nho nhỏ như bao ngôi nhà vườn của làng quê nó. Vườn nho nhỏ vậy chứ có những lúc “Trời nhuộm màu bông khế” (lời trong bài Biển – thơ Lê Tùng Quan), bông khế tim tím, hồng hồng, trăng trắng nở đầy cây thì trái chua trái ngọt đeo lủng lẳng, đứa nào hảo ngọt thì tới cây ngọt, hái trái cắn bỏ rìa phía ngoài khía là sực ngon lành, trái chua thì chấm thêm chút muối ớt. Bông khế nhuộm giữa mùa mưa thì ra giêng đất nhuộm màu bông mận, bông mận hai màu riêng biệt, trắng và hồng cho từng cây riêng, bông mận giống bông mắc cỡ, dễ rụng nên rớt đầy gốc và bay tứ tán, trái cũng cùng chấm với muối ớt cho chua ngọt. Ra giêng bông xoài không nhuộm được trời đất, không phải bông ít mà bông màu xuyệt tông với lá, xoài chín ngọt khỏi cần gì chứ xoài chua giòn thì cần chút đường và trái ớt hiểm dằm nước nắm thì mê ly, ngộ ngộ rằng xoài đập bôm bốp vào ngạch cửa thì càng chua giòn ngon hơn xắt đẹp bằng dao. Nó khoái những trái ổi sẻ vừa già, trái tròn tròn nho nhỏ giòn giòn chua chua, khi chín trái bị mềm, bông ổi trắng lấp ló trong tán lá chứ không khoe nhiều, trái cũng nhiều vào giữa mùa mưa. Có một loại cu Sô chẳng thấy bông, thực tình thì chẳng để ý vì trái lấn át nằm kết chùm liên tục trên thân và cành, trái chùm ruột cũng cần tới bụm muối ớt. Một loại nữa không bông, chỉ có những búp nở ra rồi kết thành trái hay không lớn thành trái mà thành khóm, khóm mít chát chát chấm với mắm con, nắm cá cơm hay cá nục trộn cùng chút đường chút tỏi giã nhuyễn và ớt để mà hít hà thì còn gì bằng…

Nơi ở mới không mấy xa lạ, vẫn một số khung cảnh này, nó đỡ rất nhiều phần nhớ nhà.

 

Ngôi trường mới lại khá cũ kỹ nhưng rất đẹp. Màu tổng thể của ngôi trường bao gồm những dãy phòng học một từng lầu, dãy nhà của thầy cô, phòng thí nghiệm, thư viện, những dãy nhà quét vôi vàng lợp mái ngói đã chuyển màu nâu sậm với vài vệt đen đó đây, sân trường với những cây điệp vàng bự gốc, tán rộng, bãi tập thể dục và cả sân đá banh nho nhỏ bên hông là màu ấn tượng. Một bức tranh tổng thể ấn tượng.

Nhưng còn những màu ấn tượng hơn. Những màu có vô hình và có hữu hình.

 

Thầy cô có ba phong cách.

Một phong cách trung dung ở giữa, vẫn có vui có buồn nhưng bình thường là chính, vẫn dạy dỗ đúng theo quy trình, phong cách này giống như đường kẻ giữa mà Cu Sô kẻ phân chia mặt đất đối lập với âm thanh từ ô bặc lưa trên cột cao.

Phong cách nó ví ở mặt đất là của những thầy cô lộ vẻ chán chường trên gương mặt, nhưng ẩn sâu vẫn còn rất yêu mến nghề nghiệp của mình. có những thầy chán chường đến nỗi đi chiếc xe đạp mà cây đũa rớt ra khỏi con ốc cũng không buồn gắn lại để cái vè cạ vô bánh vô niềng rột rẹt như tiếng của xe trâu, chỉ nho nhỏ hơn thôi, thậm chí xe không vè không thắng, đạp xe tà tà cỡ đi bộ rồi chà bàn chân mang đôi dép mòn lĩn xuống đường mỗi khi muốn ngừng hay chậm lại để tránh né. Xen lẫn trong các tiết dạy, vẫn những tiết dạy đầy đủ, đúng giáo trình là những lúc nói về xã hội, nói về cuộc đời dù đám học sinh chưa hiểu là mấy, có lẽ là những giây phút trải lòng và mong được học trò thông cảm thì đúng hơn.

Nó đi ngang chợ phường thì thấy chộn rộn, một bà bán túm áo một người kéo kéo và la lớn:

“Ông nội, ông chạy xe kiểu gì đụng tùm lum tùm la, đền rổ rau cho tui.”

Người bị kéo nó nhận ra không ai khác là thầy dạy ở trường mình nhưng bất lực, đâu dám can gián. Thầy lom khom gom rau đổ tứ tung vào rổ, phân bua:

“Dạ, dạ, tại lách con bé qua đường đột ngột, thắng không kịp, cô thông cảm, bây giờ tôi không đủ tiền, xin cô cho khất tới kỳ lương tui đền, cũng sắp rồi…”

Một bà bán kề bên nghe vậy dòm kỹ liền bước ra:

“Trời, thầy dạy ở trường phường mình nè, thôi bỏ qua đi, để thầy đi đi.”

Bà bị đụng tung đổ rổ rau khựng giây lát rồi gãi đầu:

“Dạ, dạ, tui hông biết, thôi… thôi… thầy đi dạy đi.”

“Dạ, dạ, tuần tới tôi ghé gởi tiền, tôi cảm ơn chị.”

Thầy còn lóng ngóng thì bà xua xua tay:

“Dạ thôi thôi, thầy cứ đi đi, khỏi cần ghé trả chi hết, thầy đi đi…”

Thầy gật đầu nói lý nhí:

“Dạ, dạ, tôi phải ghé…” Thầy mặc kệ quần áo xộc xệch, áo chỗ trong quần, chỗ bung ra ngoài không buồn nhét trở lại, cuối gầm mặt đầy chiếc xe cà tàng một đoạn rồi phóc lên, phóc lên chưa yên chỗ thì phải nhảy xuống lượm chiếc dép trật ra khỏi bàn chân, lại phóc lên lên khòm lưng đạp đi. Cử chỉ muốn biến thật nhanh khỏi chỗ này nhưng hai bánh xe dính nước nhềnh nhệt bên lề, bánh trước đi đường bánh trước, bánh sau đi đường bánh sau in hai lằn trên đường nó thấy màu nặng nề khủng khiếp, nặng nề như muốn kéo dính lại với con đường, ma sát của sự uất nghẹn trên mặt trên cổ, trong lòng thầy với con đường tựa hồ bốc cháy, càng muốn bốc cháy khi nó nghe lời rầu rầu của bà bán rau:

“Thầy giáo chi mà khổ quá, lương hướng không mua nổi cái thắng cho xe!” Rồi bà hất đầu qua bên kia đường nói lớn hơn: “Bữa nào ông thấy ông thầy đi ngang, ông kêu lại hàn đôi dép cho ổng chắc chắc chút coi nghen ông, đôi dép chi mà cũng chẳng nên thân nên tội.”

Ông hàn dép đáp mà lắc đầu ngao ngán:

“Ờ, đề tui gặp được tui kêu.”

Nó chợt sực nhớ dòm xuống đôi dép của mình, đôi dép te tua, đứt mấy đường phải lấy dây nhợ cột chằng chịt lại. Và nghĩ lúc nào đó có tiền cũng ghé đây hàn cho nó đàng hoàng như một dãy dép, thau chậu cùng cái bửng xe Honda Dame bằng nhựa treo lủng lẳng đã hàn xong.

Phong cách thứ ba là của những thầy cô năng nổ, hăng say với các phong trào, phong trào cờ đỏ, hăng hái kiểm tra các quy định của nhà trường giữa các lớp để thi đua, biểu dương và phê bình, phong trào lao động, phong trào đoàn hội… Gương mặt các thầy cô này có phần hêch hếch ngước lên, những gương mặt lên gân cùng cử chỉ hùng hồn.

 

Thích thú những tiết học thể dục, những phong trào thể dục thể thao, nhứt là đá banh bao nhiêu thì Cu Sô ghét cay ghét đắng phong trào thể dục nhịp điệu bấy nhiêu, thể dục nhịp điệu thay thế thể dục giữa giờ. Nó, một đứa nhà quê cục mịch, dân thị xã nói lái lại gọi là đồ nha quệ, ban đầu còn gây tức tối bởi thấy nhục, sau nghĩ lại thì dần hết, thậm chí khoái chí. Nhưng không thể không nhục nhã khi bị mời ra khỏi hàng của lớp để cùng năm bảy đứa hợp thành hàng riêng dưới cột cờ ở buổi này, những đứa cùng cục mịch, thô thiển như nó ở các lớp khác, nói đúng là bị bắt ra đây để được uốn nắn hướng dẫn. Sự lạc lõng, bơ vơ không thể tả hết giữa văn minh phố thị, nó nghĩ mình không còn là đứa nha quệ, nhà quê nữa mà đích thị là đứa con của hoang liêu, hoang dại rừng rú. Một hàng những thằng chân tay gân guốc cứng tựa gỗ hứng chịu sự phán xét, chế diễu khinh bỉ phần nhiều hơn sự thương xót trong mắt gần một ngàn đứa học sinh như mình. Trớ trêu thay, đứa hướng dẫn thì dáng người rất uyển chuyển, mềm mại, vô cùng hứng thú với sự uốn nắn, cầm nắm vuốt ve tay chân thân thể tụi nó mãi không thôi, không chút ngượng ngùng, chỉ có tụi nó là từ ngượng ngùng cho tới rợn người với đứa trong lớp gọi đùa là chị, là lại cái, cá tính nữ lộ rõ trong thân hình con trai. Động tác thể dục nhịp điệu, hai tay chống hông, uốn éo hông và hai chân thay phiên đưa tới trước sang ngang chút rồi rút về cũng uốn như uốn dẻo, tụi nó thì nhịp điệu… cà thọt, cà thọt… trên nền nhạc và lời sôi động, vài đứa hát theo âm cứng của tiếng Việt: “Hồn… hồn… hồn, gài cô hồn… hồn… hồn…” vài đứa chế thành: “…Gái cô hồn… hồn… hồn…” Bài hát được cho là của Cu Ba, mấy đứa tỏ ra hiểu biết thì, “Cu Ba cu Sô gì, đây là bài của ban nhạc Boney M” nó chẳng rành điều này, chẳng biết đúng sai.

 

Nhục nhã, nó sợ, sợ anh mắt soi mói chứ dù có rợn người từ sự vuốt ve cũng không thất kinh lắm, một chút hiểu cuộc đời cho nó lòng bao dung, thương xót cho bạn mình cũng như thương xót mình. Sợ, nên cu Sô luôn trốn tiết thể dục nhịp điệu. Nó trốn theo một số đứa ra cái hẻm chừng một mét là khoảng giữa hai dãy lớp học. Cán bộ cờ đỏ không ra tận đây kiểm soát, bắt như những đứa trốn ra sân banh bởi hẻm đất nhềnh nhệt, không kịp rút nước đái tụi nó thải ra thì làm sao khô được và nồng nặc mùi. Tuy nó không tập hay lén hút nhưng khoái hít những làn khói thuốc lá Hoa Mai, Đà Lạt hay sang hơn có đầu lọc là Samit, Jet từ những đứa cùng xuồng để giảm mùi khai nồng nặc mà nói theo khoa học là amoniac có công thức phân tử NH3. Hai bờ tường gần sát đất đã chuyển màu lá mục ẩm thấp vì thấm chất này. Trường cũng có hai cái toilet nhưng cách xa một chút, trong một khoảng đất trống phủ đầy cỏ dại. Hai cái toilet dành nam nữ riêng biệt cách nhau vài bước chân, được xây bằng bốn bức tường cao quá đầu, chừa cửa nhưng không có cái cửa nào để đóng mở hoặc dù chỉ một tấm bạt che chắn. Một vài lần ra đây khi chưa biết con hẻm amoniac, nó thấy bên trong của toilet nam là một nền xi măng phẳng chứa đầy chất thải khô và nhềnh nhệt phủ bên trên, một lối nhỏ bên ngoài nền này vừa đủ đặt bàn chân ngồi là còn sạch, không vòi nước không lối thoát nào ra ngoài cả. Vài thằng tọc mạch cho biết bên toilet nữ cũng vậy nhưng chắc chắn rằng chẳng có đứa nữ nào dám ra chỗ này, hai cái thành của đực rựa mà thôi.

 

Một mùi có nồng nhưng không nặc là mùi những thùng lều nhỏ muối mắm và thơm nồng có màu đẹp, màu vàng vàng, nâu vàng, nâu vàng sậm là mùi nước mắm thành phẩm. Lớp nó thường xuyên được làm thí nghiệm với nước mắm. Thực sự đó là cách nói cho văn vẻ, chớ đúng ra là những buổi lấy điểm lao động bằng sản xuất nước mắm. Một lần duy nhứt được xuống phòng thí nghiệm làm nó mê tơi, tận mắt được sự tương tác của vài chất, tạo được màu từ quỳ tím rất đẹp. Còn lại toàn là những tiết học lý thuyết cho các môn khoa học tự nhiên. Lao động còn cho nó tận mắt gạch ngói màu đỏ au chứ không chỉ thấy xa xa dù tới lúc này ngôi nhà ở quê chưa một lần được xếp viên gạch làm tường, chưa một lần xếp viên ngói lợp mái. Biết được qua những buổi lao động bắt buộc. Lúc gồng mình khuân vác gạch sống xếp vào lò để nung chín, lúc chuyển gạch đã nung chín ra khỏi lò, lúc này nhận thêm một màu khắp người là bụi đỏ au ngập người, nhứt là bít cả mũi.

 

Mải mê phụ việc ở những luống rau nó mụ mị, không nhận ra có cá làm mắm ở trường tức trường phải gần với biển, màu mà nó ước mong được gặp. Nó cũng chỉ biết hai con đường tới trường với những mái nhà tường lợp ngói san sát nhau hai bên đường, vài ngôi nhà có từng lầu khác với làng quê của mình.

 

Một con đường gây ám ảnh và nó không bao giờ đi con đường này nữa dù có chút tiếc nuối. Lúc đạp ngang bến xe khách bên cạnh đường nó cho một người xin đi quá giang vào gần trường học mình. Đang đạp thì có một người hớt hải đạp theo kêu lớn:

“Ê ê, hê hê, đứng lại, đứng lại, tao biểu đứng lại.”

Nó ngừng xe thì người này liền hỏi:

“Đ.m. thằng nhóc, mày là ai?”

Dòm nét mặt bặm trợn nó tái mặt lắp bắp:

“Dạ… dạ con là… cu Sô.” Chợt nhận ra cu Sô là thằng nào ai biết, nó đổi nhanh: “Dạ, con là học sinh.”

“Đ.m. muốn chết hả mậy, học sinh mà láu cá, hả mậy?”

“Dạ… dạ, con có láu cá gì đâu.”

“Tao xáng bạt tai chết mẹ bây giờ, hông láu cá láu tôm mà đi giựt mối hả?”

Nó vẫn ngạc nhiên:

“Có có giựt mối gì đâu.”

Người xin quá giang chợt hiều, phân bua:

“À, à, hông có đâu anh, tui xin quá giang, cháu nó cho đi, chớ nó hông có chạy xe đạp ôm, hông có giựt mối lái anh à. Thôi, thôi, tui qua anh chở tui vậy.”

Nhờ đó nó mới thoát nạn và biết thêm cái màu của nghề này. Màu có mồ hôi công sức và đi kèm bặm trợn. Có chút tiếc nuối bởi trên con đường này thường gặp những người đạp xe thồ lu, thồ khạp, mỗi chuyến thồ cả bốn tới sáu cái lu bự tổ chảng hay chục cái khạp chất chồng như núi, nó không tưởng tượng được làm sao chất lên, thồ đi được và thường ngừng xe lại phụ đẩy mỗi khi thấy lên dốc phải ì ạch dẫn bộ. Màu của những cái lu, cái khạp ai ai cũng phải sử dụng, để trước hàng ba nhà mà hứng nước mưa dùng, để trữ nước, để dựng nông sản, để muối mắm muối cá… những người thồ lu khạp lấy hết màu mồ hôi để đổi được đồng lời, chứ chở một hai cái sẽ bỏ công cả chuyến, lu khạp giá quá rẻ, không thể hô hoán giá cao lên được và có lẽ màu này dễ vỡ nên những người thồ không bị ai chặn hỏi han, chặn bắt bớ gì.

 

Và nó biết rõ con đường duy nhứt từ ngôi nhà ngoại ô đi về nhà trên chuyến xe lam, đây là lúc rảnh rỗi ngồi quan sát. Khi nhàm chán với thời gian con đường chạy ngược, nó chuyển qua đếm… ổ gà, biết được ổ gà lớn nhỏ chỗ nào, sắp tới chỗ nào xe sẽ quẹo qua cua lại để tránh những ổ gà lớn, hay đếm cây trụ điện tín cách khoảng 50m có một cây thì biết đoạn đường lởm chởm người ta đào lên đổ đá và đất xuống chứ chẳng trải nhựa dài bao nhiêu… Nó cứ nghĩ mình còn thời gian sẽ biết thêm về thị xã nhưng nó chỉ học một năm duy nhứt, trở về nghỉ ba tháng hè mà không trở lại.

 

Hết ba tháng hè nó chuyển trường lên trường huyện vừa được xây mới ở gần trung tâm huyện cũng vừa được chuyển tới đây, một khu vực khá rộng còn lưa thưa dân chúng, xung quanh gần như được bao bọc bởi những ngọn đồi nhỏ. Ngôi trường nhỏ, mới xây chỉ một dãy phòng và một phòng riêng cho thầy cô giáo. Đường từ nhà tới trường cũng xem xem với đường tới trường thị xã chứ không gần gì, nhưng nó thích ngôi trường huyện này hơn dù chắc chắn có nhiều điều thua kém. Nó thoát được khỏi cái mùi nồng nặc, trường mới không có cái toilet nào, bí cứ chạy ra những lùm cây bụi cỏ cách trường một đoạn chưa bị ủi, nơi rộng rãi vừa thoáng mát vừa có gió cuốn mất mùi xú uế. Dĩ nhiên nữa nó thoát được khỏi những buổi đứng le ngoe vài thằng thành hàng một chỗ cây cột cờ. Và nó có chiếc xe đạp mới rất tốt hàng tuần đạp về nhà, chiếc xe đạp là một màu ấn tượng đặc biệt của nó không chỉ lúc này mà còn mãi về sau.

Một chút luyến tiếc, người ta cho xe ủi, ủi san phẳng hết còn trơ đất để xây cất, một vùng rộng ngập tràn màu nắng nhưng rất trống vắng mặt dù đang nhộn nhịp vận chuyển vật liệu cùng nhiều công nhân xây dựng. Một chiếc xe chạy qua, một làn gió mạnh là bụi mù bay như có đoàn ngựa tung vó hết cỡ phi qua. Nó ước chi người ta giữ lại những cây dầu cao to hơn vòng tay người ôm, tự hỏi phải chăng cây rừng không phù hợp, nhưng lại thấy trên con đường ở thị xã cũng có cây dầu đó thôi, có khác gì đâu nào, rồi người ta trồng lại những cây mà thân ốm tong teo, cao cao quặc quẹo phải cắm thêm một cây nho nhỏ làm trụ cho cây này tựa vào, hỏi ra mới biết đây là những cây bạch đàn, tràm bông vàng, những cây hợp với rừng rú chứ chẳng hợp mấy với trường học như cây điệp vàng, cây me tây, nhứt là cây phượng vĩ.

 

Có hai sự trùng hợp với sự mới mẻ này.

Cu Sô mua được chiếc xe đạp mới rất tốt bởi cuộc sống đã dễ thổ hơn. Bà con đã trút được điều nặng nề nhứt, lo âu nhứt đó là về cái đói ra khỏi người. Phương thức làm ăn mới đã được áp dụng và có hiệu quả. Làm ăn được khoán trắng cho từng hộ gia đình chứ không tập trung nữa. Được gọi là thời kỳ đổi mới. Đổi mới, mới mẻ về phương thức làm ăn cho bà con thay đổi hẳn, một số có đổi mới một chút, bớt nạn quan liêu, tra xét lý lịch… Những đứa như nó, như con cháu của ông Thầy, con cháu của ông già Socola thi đại học đậu đã được học chứ không như trước kia nếu đậu cũng phải về cầm cuốc với nghề sản xuất nông nghiệp, nhưng học xong chỉ được làm nhân viên quèn, không có chỗ lên cán bộ hay vận dụng hết năng lực dù có giỏi cỡ nào. Sự tinh tướng có giảm nhưng lộng quyền lắng sâu, ẩn núp, tham vọng quyền lực, khánh tướng vẫn còn đó, chỉ không khoe mẽ nữa. Những manh nha, hạt mầm nảy nở màu xấu nó đã thấy bắt đầu thành cây con, vẫn có đất  sống, đất dung dưỡng.

Cu Sô nhận thấy có điều khang khác trong mình, thả người trên đống rơm đêm đầy sao sáng lấp lánh nó đã cảm nhận được vẻ đẹp, vẻ đẹp tiềm ẩn phía khuất nữa chứ không chỉ là ánh tỏa lấp lánh, những giọt sương rớt xuống không chỉ ở ngoài da mà thấm vào thịt, man mát, se se lạnh tận bên trong, suy nghĩ đã lắng đọng, suy đoán nhiều hướng, chứ không chỉ rộn ràng nhảy múa, chỉ biết thu nạp và lưu trữ. Bên ngoài hình dáng cũng đổi khác, phỏng cao lớn hơn, vài cọng long măng mọc trên mép, giọng nói tồ tồ vịt đực, bước đi chững chạc. Nó nghĩ nó đã lớn lên chút rồi. Trước khi nó nghĩ nhiều người đã nhận ra sự mới mẽ, anh chàng trổ mã không còn bị kêu cu, thay bằng thằng Sô hay Sô học trò.

 

Ta bắt đầu rải những nốt nhạc chậm lại, những nốt nhạc có cung bậc rõ ràng, nhiều giai điệu hơn, giai điệu miên man, giai điệu trầm lắng, giai điệu bay bỗng, giai điệu du dương tình tứ và dĩ nhiên còn đó giai điệu vui nhộn. Cuộc sống lo lắng bộn bề, người ta đã quên bẵng đi sự lãng mạn, cu Sô thì không, nó vẫn đọc những tác phẩm lãng mạn, những tác phẩm trong đó có nhân xưng chàng và nàng, ta thích lắm, ta phải giữ lại điều này, ta gọi nó là chàng học trò Sô, thôi ngắn gọn thôi, chàng Sô, chàng ta!

Thầy cô ở trường mới cũng có khác với trường thị xã. Gần gũi hơn, có buồn nhưng chưa tới mức chán nản, sự hào hứng lan tỏa hơn nhưng cũng không tới mức hưng phấn hứng chí, các phong trào vừa phải bởi học sinh còn thưa thớt chứ không rầm rộ, ganh đua tới mức tị hiềm ganh ghét.

 

Với chàng Sô, sự trống vắng mang lại nỗi buồn. Không phải sự trống vằng cảnh quan kéo theo trống vắng tình người, chàng ta nhận thấy tình người nói chung không được như xưa, không thật lòng hết, đã có sự đối phó, chia rẽ bè phái nhưng chưa đến nỗi mất đi. Ánh đèn trắng đục không sáng lắm của bóng đèn neong sáu tất, vàng vọt một chút của bóng đèn tròn xài từ bình ắc quy nhưng khá hơn, tiện bề hơn ánh đèn dầu đã được thay thế nhiều. Ắc quy cho điện phục vụ nhu cầu giải trí. Có ánh sáng, có được điện là sự chung tay góp của nhiều người chứ không thể một mình, những nhu cầu vẫn còn rất xa xỉ. Người mua được cái ti vi, cái cassette thì người mua cái đầu máy chiếu băng video, mua cái amply cặp loa, người mua cái bình ắc quy, người góp tiền xạc điện định kỳ… Đã quá lâu cho sự đói văn hóa, và chỉ một nguồn cung cấp văn hóa luôn ngả về hướng phe mình là tuyệt vời nhứt, nay có nguồn khác, những điều lạ lẫm xâm nhập, những điều hay ho còn đọng lại của ngày xưa qua những lời kể, và sự mở cửa như được thả dàn, được thoát ra sự gò bó bấy lây nay, người ta mê mẫn với cái mới gặp, những điều lạ lẫm. Người ta mê mẫn những bộ phim chưởng, võ thuật, đánh đấm, xã hội đen và hài hước, một số ít phim tình cảm sướt mướt, lâm ly bi đát chủ yếu của Hồng Kông sản xuất du nhập vào, mê mẫn suốt ngày đêm, dán mắt vào màn mình suốt ngày đêm nếu rảnh rỗi. Chàng ta có tham gia nhưng không nhiều nên thấy trống vắng.

 

Chàng Sô thích hòa hợp với thiên nhiên. Thiên nhiên bị tàn phá nhiều, rừng bị đẩy xa đẩy xa khi bước chân con người bước tới bước tới. Chàng ta cuốn thời gian bằng bánh xe quay vòng, quay vòng vòng chậm rãi cuốn thời gian dư dả, đưa mình theo con đường mòn, con đường xe bò vào với thiên nhiên. Một bữa, mải mê cuốn thời gian và miên man bởi những cánh rừng lưa thưa đã quá thân thuộc, một khoảng không rộng lớn hiện ra, có nghĩa ở đây không có rừng cây và gặp một bất ngờ, một trảng cỏ rộng mênh mộng xuất hiện. Ngày ở làng có nghe tới những địa danh Trảng Cỏ, Trảng Bò thì bây giờ chàng ta mới vỡ lẽ. Trảng cỏ bằng phẳng trải dài không khác gì thảo nguyên bát ngát. Cỏ mọc đều như được tỉa tăm tắm chỉ cao độ năm phân, cỏ không xanh ngắt mà có pha chút màu vàng, cũng không phải màu xanh non, xanh pha vàng vàng, cỏ mịn tựa lông những con bò vàng tơ, trảng cỏ mịn lông bò người ta gọi tắt là trảng bò, phân biệt với những trảng cát, trảng sỏi… Điều độc đáo nữa, trên trảng cỏ đây đó xa xa có vài cây lớn đứng độc tôn, có lẽ cho chút bóng mát bởi trảng quá rộng, vài khóm cỏ dại mọc cao cao chừng đầu gối ra bông giống mảnh vườn nhỏ được chăm sóc hẳn hòi, tuyệt nhiên không có những lùm cây bụi cỏ um tùm gai góc và xác rác. Thiên nhiên tạo hóa vườn cỏ thơ mộng, vi diệu giữa rừng rú hoang dại thiệt độc đáo, đẹp không thua gì bàn tay con người! Chàng ta gọi là Trảng Cỏ bởi nghe tên Trảng Bò không được mượt mà lắm, trong tâm đã lưu những hình ảnh màu cỏ lông bò này rồi.

Chàng Sô không bao giờ đem bánh xe cuốn thời gian vào Trảng Cỏ. Chàng ta sợ nó bị dày xéo, phá nát. Bước đi vào rất nhẹ nhàng, bằng những đầu ngón chân tưởng tượng mình là chàng hiệp sĩ cỡi ngựa lướt nhè nhẹ trên thảo nguyên, lướt nhẹ nhàng như những đoạn phim chiếu chậm. Rồi ngồi tựa gốc cây cao ngắm nhìn đã mắt xong vẽ vào không gian những hình những màu cổ tích thành bứt tranh. Những màu ngày xưa xưa cha, má kể trước lúc đi ngủ, rất nhiều rất nhiều, hết chàng ta vẽ tiếp làng quê, những nơi mình đi qua và ghi nhớ… Chiều xuống thiệt chiều, ánh nắng có những tia chiếu nghiêng nghiêng một góc nhỏ và rải ra Trảng, một màu vàng của mùa thu nhẹ nhàng trong lòng chàng ta. Mát mẻ, cũng khá mỏi lưng, thử lăn một vòng, cỏ không bị đè bẹp mà bung trở lại bình thường, chàng ta tiếp tục nằm một chút rồi lăn lăn, mằm một chút rồi lăn lăn… Lăn tới những cụm hoa cỏ dại lúc này bươm bướm kéo tới bay đậu dày đặc mà lúc ánh nắng còn gắt bươm bướm không nhiều lắm, mảnh vườn trở nên đầy màu sắc, chẳng gì tuyệt mỹ hơn nữa. Ra về, bánh xe cuốn thời gian chạng vạng mà lòng nhẹ nhàng, cũng chẳng gì tuyệt vời hơn, có lố giờ, bánh xe cuốn thời giờ đêm tối chẳng sao cả, không chút u tối đè nặng lòng.

Chàng Sô thử ở Trảng cỏ với buổi sớm mai. Cũng chẳng gì tuyệt vời hơn. Lăn lăn với màu mát lạnh, tưởng tượng được màu se se lạnh của trời có mùa đông. Trên lá những khóm cỏ dại còn đọng những hạt sương tròn trong vắt, hạt sương tinh khiết chàng ta uống nghe ngọt ngào. Mặt trời lên, những tia nắng cũng nghiêng nghiêng góc nhỏ chiếc khúc xuyên qua cánh rừng thưa trước mặt, tỏa ánh vàng cam làm trảng cỏ ưng ửng, hừng hừng sắc. Bươm bướm nhiều nhưng không bằng buổi chiều tà dương, có lẽ các cô nàng còn nướng giấc đâu đó(?)

Có một lần Chàng Sô mang nỗi buồn, buồn với con người chứ không phải với Trảng Cỏ tuyệt vời, Trảng Cỏ bình yên giữa những cánh rừng không còn yên tĩnh. Nó bị bắt, bị mấy ông kiểm lâm bắt, bắt trói quặc tay đem về hạt, bỏ mặc những lời thanh minh, quyết gán cho chàng ta là kẻ dò la canh chừng cho lâm tặc. Một đêm nằm lạnh lẽo một mình giữa căn phòng trống không là gì đối với kẻ nhà quê, nhưng càng buồn, từ trường học cho tới hạt kiểm lâm không quá một cây số mà mấy ông này đổ cho trời đã tối không tới được để xác minh. Chính xác hơn thì mùi rượu mùi mồi và những lời mùi mẫn, những lời ẻo lả chả chớt, những lời ong bướm tán hưu tán vượn ở quán nhậu hấp dẫn bội phần nên bỏ qua thôi. Dĩ nhiên  tới trưa sau nó được thả nhưng khó loại bỏ nỗi buồn. Đêm đó, vài điều nữa văng vẳng chạy vòng trong căn phòng trống. Ngay bìa rừng, cạnh con đường có một tấm pano khá bự đổ bằng bê tông đứng sừng sững, uy nghiêm với Quốc huy bên trên và dòng chữ, “Nghiêm cấm chặt phá, đốt phá cây rừng, lấn đất rừng dưới mọi hình thức. Ai vi phạm sẽ bị pháp luật trừng trị.” Gần tấm pano này có căn nhà nhỏ cùng cái tháp canh để canh giữ rừng nhưng mấy khi có người, vài người kiểm lâm lâu lâu khăn gói ba lô súng ống đi vào rừng nhưng tựa hồ đi dạo một vòng rồi về. Chẳng thấy chặn hỏi han, ngăn cản một ai đi vào dù với rất nhiều xe bò, dụng cụ làm rừng. Họ chỉ canh chừng ở đây hay gần gần để bắt cây gỗ khai thác về mà thôi. Lâm trường thuộc hạt là một bãi đất trống chất đầy gỗ. Lâu lâu có xe tới chở đi ra các trại cưa. Lý ra ở đây phải tập hợp những người kinh nghiệm đầy mình về khai thác rừng, hướng dẫn họ khai thác cho đúng, không khai thác lấy gỗ lấy củi ở đâu ra? Và cũng không thấy trồng rừng ở những cánh rừng trơ trọi đã tàn phá. Không chính sách gì cả. Tấm pano giống con bù nhìn đứng giữa cánh đồng đã gặt xong, xi măng đúc pano nức nẻ, bong tróc từng mảng sơn và rêu phong đeo bám đầy.

Có những điều tưởng chừng chỉ có một, tuyệt vời nhứt không có gì tuyệt vời hơn nữa, không phải vậy, không có đỉnh điểm cố định cho sự cảm nhận, hiện hữu đỉnh điểm còn có thay đổi mà, ngọn núi cao vẫn cao thêm theo thời gian. Khúc nhạc của ta soạn cho cu Sô mang gam trưởng, rất vui, nhưng không chỉ vui mà còn mang âm hưởng tiết tấu của bản Sonata ánh trăng (Moonligth Sonata) của nhà soạn nhạc thiên tài Ludwig Van Beethoven, rất huyền ảo, rất lãng mạn!

Chàng Sô có thêm tuyệt vời hơn cả tuyệt vời với Trảng Cỏ. Cứ ngỡ rằng chàng ta mãi mãi một mình ở nơi đây, không người đồng cảm nổi với một người quá lạ lùng. Bánh xe cuộn thời gian đưa thêm cô gái xinh đẹp với chàng ta tới nơi này. Trảng Cỏ rạng lên hơn, bừng lên hơn, đẹp lên hơn. Cô nàng học dưới chàng ta một lớp, dĩ nhiên có sự đồng cảm nhưng không thể hiểu hết được, chàng ta cũng không thể diễn giải để hiểu hết những màu thăm thẳm phía khuất cho cô nàng, một ít đồng cảm thôi là đã quá tốt rồi!

Không gian lãng mạn của thế kỷ 18, 19 xuất hiện ở Trảng Cỏ, không phải chuyện cô gái ngủ trong rừng rồi chàng hoàng tử Sô đến giải cứu, một không gian với ánh trăng vàng sáng tròn quay, một không gian thực tế và phi thực tế, không gian thực tế và cổ tích kinh điển.

Cô nàng nói:

“Muốn lắm, muốn lắm được bay tới cung trăng.”

Chàng ta đáp liền:

“Ừ, ta sẽ tới cung trăng.”

“Bằng chiếc phi thuyền đa?”

“Không, ta đâu đủ giàu có để bay bằng phi thuyền. Ta xây một con đường đến và kết nối trái đất với cung trăng.”

“Xây một con đường?”

“Ừ, xây một con đường. Ta sẽ cùng mười cặp đôi cùng chí hướng, cùng lãng mạn xây từng tam cấp thành con đường, xây một đoạn dài ta dừng lại xây một trạm nghỉ, ở đây sẽ sản sinh sự sống như trái đất, đỡ bớt một chặn phải quay về lấy vật liệu, ở đây con cái chúng ta ra đời, ta tiếp tục xây tiếp con đường, một đoạn dài nữa tiếp tục xây chặng nghỉ thứ hai, sự sống tiếp nối ở trạm nghỉ thứ hai, có thể con cai chúng ta đã lớn, chúng thành hôn ở trạm này và cho ra đời hậu duệ thứ hai, chúng ta thành ông bà nội ngoại, cùng chung sức xây tiếp nữa con đường, tiếp một trạm nghỉ nữa, ta sẽ lên chức ông bà cố nội ngoại, hậu duệ thứ ba có mặt, có lẽ ở trạm nghỉ thứ ba ta tạm nghỉ, con cháu chúng ta xây tiếp tới cung trăng, ta tới an dưỡng tuổi già bạc tóc răng long và nằm lại nơi tuyệt đẹp này!”

“Hay quá, hay quá, nhưng sẽ không được trở lại trái đất, trở lại quê nhà, trở lại Trảng Cỏ?”

“Người khai phá phải chịu hy sinh.”

“Ừ hén, hy sinh cũng xứng đáng, chúng ta là những kẻ lãng mạn nhứt, hạnh phúc nhứt kết nối hai nơi một vàng rực một xanh rì này.”

Một màu xao xiết trong người chàng ta, nàng ta, xao xiết hạnh phúc bất tận cung trăng.

Nhưng đó là tương lai, hiện tại Trảng Cỏ đã là trạm nghỉ, ồ không là một nhà ga. Nơi này thường nghe tiếng còi tàu, nghe khá rõ, nghe cả tiếng cành cạch bánh xe chạy qua khớp nối thanh đường ray, con đường tàu lửa đi xuyên qua cách không xa mấy.

Cũng một đêm sáng trăng, đợi tiếng còi tàu vừa hú xong, chàng ta nói:

“Mai mốt đón ở ga này nhé.”

“Ừ, hứa chắn chắn phải về ga Trảng Cỏ đó.”

“Chắc chắn rồi.”

Hai thân thể nằm ngửa lắng nghe tiếng còi tàu còn văng vẳng và ngắm ánh trăng sáng tỏ, nằm có một khoảng cách rồi cánh tay chàng ta lần lần xê dịch nhưng giả vô tình tới sát cạnh cánh tay nàng, nàng cũng giả tảng lờ vô tình không biết, ngón tay út chàng ta tiếp tục giả vô tình chạm vào, chồng trên ngón út của nàng, một dấu móc ngoéo thay cho lời thề. Một màu giả tảng lờ đến là có duyên. Dòng máu trong người chàng ta chạy nóng rần, hồn phiêu diêu bất tận. Nàng ta cũng vậy. Người ta nói rằng, “Hãy nắm bắt lấy thời khắc”, chàng ta đã nắm lấy rất rộng khoảng thời gian, khoảng không gian, những thời khắc, nhưng đây là thời khắc rất diệu kỳ, thời khắc giao hòa dù chỉ là hành động nhỏ, chỉ vậy thôi, chỉ là móc ngoéo thôi nhưng đánh dấu đó là mối tình đầu của cặp đôi lãng mạn.

 

Chàng kỵ sĩ Sô sẽ rời thảo nguyên, rời ga Trảng Cỏ tới một nơi xa xa. Ta tiếp tục rải những nốt nhạc chậm, những nốt nhạc có cung bậc rõ ràng, nhiều giai điệu hơn, giai điệu miên man, giai điệu trầm lắng, giai điệu bay bỗng, giai điệu du dương tình tứ và dĩ nhiên còn đó giai điệu vui nhộn, nay thêm giai điệu ngỡ ngàng. Ta theo Chàng Sô đi về phía thành phố. Chàng ta đã là sinh viên Sô. Sinh viên mỹ thuật, đúng như dự đoán năng khiếu mà cha chàng ta đã đặt.

 

Ngày xưa những chàng học sĩ lên đường lai kinh ứng thí cần tay nải để quảy, các chàng học sĩ nay lên đường thường với cái rương. Sinh viên Sô nhớ lại cái rương nhốt những màu xa xỉ bỏ sau bụi chuối, và cứ mãi gặp cảnh trớ trêu, cái rương nằm giữa bùi nhùi đống rác, moi được ra thì đã mục tá lả, những màu xa xỉ cố chui thoát được ra, sắp sửa được chạm vào màu xa xỉ thì cái rương tiêu tùng. Thôi thì kiếm vài miếng ván đóng cái rương. Nhưng rồi nghĩ tới lui lại thôi. Đâu có đủ được ba bộ đồ, có hai bộ rưỡi chớ mấy. Hai bộ rưỡi? phải, hai bộ rưỡi, hai bộ áo sơ mi quần tây dài và một cái áo thun, mấy cái quần đùi cho de ra chớ ai mà tính. Ba cái áo ngả màu cháo lòng. Vài cuốn sách nữa cho vô giỏ sách với quần áo gọn băng, có chỗ trống trải cho chuyến xe.

Đó là chuyến xe không kém độc đáo. Một bó củi bự tổ chảng phía dưới, bên trên một bao gạo năm chục ký trên cái ba ga, chưa hết, cặp theo hai bên bánh xe dưới ba ga là hai bó củi nhỏ. Bánh xe không xa lạ gì, đó là cái bánh cuốn thời gian vào trảng cỏ. Nay nó sẽ cuốn thời gian trên con đường lộ tới thành phố. Để cân bằng chút đỉnh, giỏ sách được treo phía trước và một số đồ lỉnh kỉnh, nồi niêu chén dĩa, bột ngọt mắm muối… mà má chuẩn bị cho. Chưa mờ sáng chàng ta đã háo hức hết sức cuộn vòng giò dĩa ào ào để bánh xe cuộn thời gian nhanh nhanh. Một tiếng sau, bỏ lại hai mươi lăm cột cây số, trời ửng sáng, mồ hôi hơi rịn ra nên chậm lại và thưởng thức bầu không khí mát dịu yên bình. Một tiếng đồng hồ nữa, chỉ hai chục cột cây số lướt qua, háo hức ban đầu quá nên thấm mệt, cái câu “Đường dài mới biết ngựa hay” thiệt quá đúng, muốn bỏ vòng quay giò dĩa, nhưng thôi, còn dài dài lắm phía trước không chỉ con đường, tiếp tục ráng tuy có chậm lại. Sự ráng cũng khá dữ dội, hai tiếng thêm bốn chục cột cây số nữa thì đứt hơi, dù gì cũng đã gần nửa đoạn đường. Chiếc xe đạp được thảy lên mui còn chàng ta đứng trên cái bửng sau xe khách, vịn cầu thang leo lên trên đó đỡ một chút tiền, còn được xoay người nhìn con đường chạy ngược nuốt thời gian.

LÊ ĐẮC HOÀNG HỰU

 

 

 

 

ĐI VỀ PHÍA CON NGƯỜI: KÝ ỨC SẮC MÀU ( truyện dài)

ledachoanghuu

Có hai tiếng được thoải mái phát ra, không chút màu sợ sệt, tiếng nhấp kéo xạch xạch rồi cắt vải xập xập của bác thợ may, và tiếng kéo nhấp nhưng nhỏ hơn, kêu lách chách cùng với tiếng nhấp cạch cạch tông đơ là của bác hớt tóc. Hai bác vẫn không được chính danh mang tên nghề của mình, bà con kêu vậy thôi chứ vẫn là nghề sản xuất nông nghiệp, nghề chỉ còn là nghề phụ, tranh thủ làm thêm khi nhàn rỗi, vẫn phải tham gia đầy đủ công lao động sản xuất.
Cu Sô nghĩ cũng lạ, phải chăng hai tiếng này phát ra không vang vọng? tiếng quá nhỏ nhoi? Rồi nhìn tới nhìn lui xóm làng, dòm ngó khắp các làng cận kề không hề thấy cái cửa hàng cắt may, cửa hàng cắt tóc quốc doanh nào cả, thì nó hiểu hai tiếng này thoải mái là phải. Không có, dễ trở lại thời ăn lông ở lỗ, tóc tai râu ria phủ đầy như lông lá và trần truồng như nhộng chớ chẳng chơi. Mà có người cũng đã ví đang đi ngược chiều kim đồng hồ, trở về cái thời đó, sắp sửa phải đi hái lượm để tồn tại. Hai tên cửa hàng này nó nghe nói có ở thị xã hay nơi nào đó. Cửa hàng thương nghiệp quốc doanh tổng hợp, cửa hàng thịt và rau quả mậu dịch thì nó đã tận mắt ở gần chợ. Hai cửa hàng đìu hiu như chợ ế chạng vạng nó từng gánh bán dây khoai lang. Mua hàng ở các cửa hàng quốc doanh thường bằng tem phiếu, quy đổi giống như tiền. Những tờ tem phiếu cho mỗi loại in chung một tờ lớn rồi xé nhỏ ra từng tờ nhỏ cỡ tờ tem thơ. Cu Sô thấy nhiều điều ngồ ngộ ở những tờ tem này. Tờ tem 25gam, 50gam mua đường, bột ngọt, tiêu tỏi thì được, 50gam thịt lọc, 50gam thịt có mỡ về ráng lấy mỡ coi bộ cũng tàm tạm chứ 50gam thịt xương thì còn được bao nhiêu gam thịt? 50gam lương thực thì nấu được cái gì? tờ tem 5cm, 10cm, 20cm vải thì xài làm sao? à nó thấy mấy đứa mặc cái quần đùi ngắn ngủn, mặc lòi cả “hòn bi” nho nhỏ, có lẽ mua được chừng 20cm nên may vậy, bị đứt tay người ta nói chạy ngay ra cửa hàng mua 5cm vải về băng(?!) khó mà cầm được tiếng cười cho lời nói này dù biết là tếu táo. Chưa hết, ở làng quê chẳng cần vô tới rừng lấy củi, bẻ những nhành cây khô trong vườn cũng đủ nấu nướng vậy mà vẫn được phân phát về tem phiếu mua chất đốt, dư thừa để làm chi? đến thằng con nít cũng hiểu sao chẳng có chút linh động nào cả, cứ một mực theo văn bản, chỉ thị, chỉ đạo… Vui vui như cái quần đùi là những tờ tem sữa tem đường trẻ em, “Con nít có sữa sao ta(?) đường được nấu từ thịt, từ xương trẻ em đó(!)” thực ra thì chỉ là những lời đùa, tem sữa tem đường dành cho trẻ em, người ta giản lược từ ngữ riết rồi trở thành bình thường, các anh chàng tếu táo, “Ước chi có thịt con gái, thịt ngon ngọt biết chừng nào(!)” Những sự lược giản từ ngữ dẫn đến sự kỳ cục, “Mua công trái là yêu nước.” “Vệ sinh là yêu nước”… chỉ cần mua tờ công trái, làm vệ sinh là đã chứng tỏ được lòng yêu nước nồng nàn, chẳng cần chi nữa(?). Tờ tiền cũng có một tờ tiền lạ lùng, tờ ba mươi đồng, Cu Sô không rành mấy về điều này nhưng nghe nhiều người nói, “In luôn từ một đồng tới một trăm cho tiện bề.” rồi cùng cười khục khặc. Nhưng không thể khục khặc được với các chị mậu dịch viên, những người làm việc, bán hàng ở cửa hàng quốc doanh với gương mặt trơ gỗ đá, hãnh tiến chẳng kém cán bộ là mấy.

Cu Sô thích tiếng lách cách của con gà trên nắp cái bàn ủi than mỗi khi mở, đóng lại và lúc xốc bàn ủi cho văng tro tàn bớt ra ngoài. Con gà là chốt khóa và rất độc đáo, đúng điệu bàn ủi xịn, con gà cầm vào mát rượi, không truyền nhiệt nóng hổi dù bên trong đầy ắp than đỏ rực. Nó không biết được làm bằng gì mà nên vậy. Ngoài bàn ủi than bằng đồng này, bác thợ may còn cái bàn ủi bằng sắt, một đế sắt dày ở dưới hình gần giống tam giác cân, chỉ khác hai cạnh bên cong cong chứ không thẳng, bên trên là tay cầm, chỉ vậy thôi. Bàn ủi được đặt trên hai thanh sắt trên bếp lò cho nóng, thường cũng than đỏ để tránh khói. Thực tình thì nó thích tiếng lách cách thì ít dù con gà trống rất đẹp, tiếng lách cách đâu có bao nhiêu, nó thích tới phụ cho than củi vào lò, vào bàn ủi, phụ quạt cho lửa rực lên để được lắng nghe những tiếng khác thì đúng hơn.
Không giống bác thợ rèn, tới đời bác đã là đời thứ ba nơi đây, lâu lắm bác mới đi thị xã một lần lấy vật liệu và bác tiếp xúc phần nhiều với nhà nông, nên những câu chuyện chỉ quanh quẩn ruộng đồng, vườn tượt, những vui mừng lo âu về thời tiết, về phương thức làm ăn, vài câu chuyện, vài giao thoại về rèn đúc kiếm sắc gươm báo ngày xưa… rồi cũng hết, vả lại đúc rèn đòi hỏi tập trung sức lực nữa, không nhiều thời gian chuyện trò, không nhiều thời gian bày tỏ cảm xúc, thời gian nghỉ ngơi phải bù đắp cho mệt nhoài, bác thợ may từ thành phố mới đến, công việc nhẹ nhàng hơn, không ồn ào nên trò chuyện được nhiều hơn. Đặc biệt những cuộc chuyện trò với ông Thầy, ông Tiên, với cha nó, một số người trí thức nữa rất hấp dẫn. Những câu chuyện khơi gợi quá khứ nơi ở cũ một thuở rất hợp ý, không dám bày tỏ quá mức nhưng nó luôn thấy những ánh mắt ánh lên mang màu tiếc nuối những kỷ niệm đẹp, thầm mơ màng bao giờ trở lại ngày xưa, bao giờ thôi hết màu u ám đầy lo âu muộn phiền ở phía trước.
Câu chuyện để lại màu ấn tượng cho Cu Sô, ấn tượng sâu đậm lại là màu buồn thương. Từng làn, từng làn khói đen ngạ quỷ lại xuất hiện. Xuất hiện ngay giữa phố phường chứ không phải làng quê. Nó tưởng tượng những bức tường những ngôi nhà cao từng bị ám khói đen thùi. Trong làn khói đen thùi kéo theo linh hồn của con chữ rúm ró co giựt. Xác con chữ đau đớn quằn quại, rên xiết trong ngọn lửa phừng phừng. Người ta căm hận cố châm cho ngọn lửa phừng phừng. Điều an ủi là những tàn lửa rụm dần rất đẹp, rất nhiều màu sắc và không khét nghẹt, mùi tỏa ra cu Sô nghe thơm mùi giấy và mực in. Những ngọn lửa đốt rụi những cuốn sách, những cuộn băng bị tịch thu chất đống khắp nơi, khắp thành phố, khắp thị xã. Những cuốn sách, những cuộn băng mang thứ văn hóa đồi trụy, văn hóa phản động phải lên giàn hỏa thiêu mà không cần giàn, chính nó đã là giàn đốt cháy màu vô hình bên trong nó, màu văn hóa bị gán ghép đầy tội lỗi. Ấn tượng in sâu trong nó đến nỗi, một lần nhìn đống rác đang rụm tàn lửa nó ngỡ những con chữ quằn quại, nó định lao vào cứu sống trước khi thành tàn tro.
Những con chữ Cu Sô đọc được một ít từ những cuốn truyện cha nó cất giữ, của ông Thầy, ông Tiên giấu diếm cho mượn, những con chữ không khác gì những nốt nhạc của ta, rộng ràng vui nhộn chạy nhảy trên cánh đồng trên phố xá. Ta cũng chẳng hiều đến chi là nó, tội lỗi từ đâu ra, tội lỗi gì nữa?!
“Tội lỗi của nốt nhạc” nó còn nghe được thêm là chuyện của một ông nhạc sĩ ở thành phố mà bác thợ may có lần đã may đồ cho ông ngày trước. Ông nhạc sĩ thì bị bắt đi học tập tư tưởng mới vì có mấy bài hát… trữ tình, bởi cấm ẻo lả trong tình yêu, cấm rên rĩ thất tình, trữ tình cũng phải hùng hồn, hoành tráng. Học tập chỉ độ một tháng thôi nhưng về thì đâu còn biết làm ăn gì, ai học nhạc mà dạy nhạc, phòng trà cũng cấm tiệt lấy đâu ông lả lướt. Ông phải mò cua bắt ốc, chài lưới kiếm sống nuôi mấy đứa con nhỏ. Một bữa ông dạt tới bến cá có mấy cái nhà sàn de ra chỗ cửa sông, trời nhá nhem tối nhưng ông và đứa con lớn ráng mò thêm chút nữa thì chợt tưởng mưa tuông, đang thầm nghĩ mưa nghịch mùa chăng, hóa ra chẳng phải, một đám con trai tuổi choai choai đứng bên lan can mà đái xuống đầu hai cha con còn cười hô hố. Đám choai choai có hai du kích bảo vệ chợ rồi rủ thêm bạn bè tụ tập uống rượu và bày trò. Người con trai giận tím gan, lượm cục đá định nhào lên ăn thua đủ, ông nhạc sĩ ào theo ôm lại được. May lúc đang giằng co, cuộc ẩu đả chưa xảy ra, có người thanh niên lớn tuổi nhứt cùng nhậu nhưng không tham gia nhận ra ông từng dạy nhạc ở trường ở lớp mình, anh ta cản lại và bắt xin lổi, dĩ nhiên những lời xin lỗi cho có trên những khuôn mặt hung hăng. Về sau anh thanh niên này trèo lên tới chủ tịch phường, biết ông nhạc sĩ có cái cần câu máy rất đẹp là thú tiêu khiển của ông ngày trước, anh ta hù dọa coi chừng bị tịch thu vậy là ông buộc lòng phải bán với giá rẻ mạt. Thú tiêu khiển đổi chủ, về tay anh chủ tịch trẻ.
Bù lại những nỗi niềm, ở nhà bác thợ may Cu Sô khoái nghe tiếng đập đập của thước cây vào tấm vải để làm mờ bớt đường phấn màu kẻ đậm, và nhìn bụi phấn bốc lên trông giống làn mây màu mỏng. Lạ lùng tiếng đập nghe vui tai, có lẽ ảnh hưởng từ màu bụi phấn và bởi phấn màu là điều xa xỉ đối với nó. Rồi nhìn những áo quần đẹp đẽ được may xong, người thử vừa ý vui mừng lắm lắm, bác thợ may vui mừng lắm lắm làm nó vui mừng theo. Lâu thiệt là lâu bác may cái áo veston, thực ra chỉ là một nửa, một nửa bên ngoài là veston, một nửa bên trong không đủ vải, không đủ phụ liệu, đành cho dỡ dang, và cái áo dài. Áo dài với Veston dù một nửa cũng đủ tuyệt mỹ, chỉ dành cho đám cưới mà những người may còn khá giả, còn chất phong lưu và giữ nét truyền thống mới có màu này. Với Cu Sô không chỉ đồ may mới mà những áo quần bác vá bác mạng cũng rất đẹp. Quần áo quá cũ rách thì ở nhà chắp vá bằng kim tay xài thôi, còn mới chút thì nhờ tới bác. Thường rách ở sau mông, đầu gối, rách một bên đắp vải vá mạng lại cả hai bên, bác làm khéo léo giống như những áo quần của chàng cao bồi cỡi ngựa ở trời Mỹ, trời Tây gì đó rất xa xôi. Những câu chuyện về những chàng cao bồi này trên phim ảnh cũng rất hấp dẫn, có đầy đủ hết kẻ ác kẻ tà và người tốt.
Màu quần áo đẹp đôi khi bị lấn át bởi màu quần áo quy định lúc bấy giờ trong mắt cu Sô vì quá nhiều. Quần áo là phải vừa vặn, suông đuộc từ trên xuống. Không được bó mà cũng không được loe, không eo iếc, không được phủ. Những thanh niên còn ăn mặc theo mốt, hơi hướng ảnh hưởng của thời trang hip py, bị cán bộ bắt gặp là mệt, áo dài quá mông bị lấy kéo thủ sẵn trong cặp ra hớt ngay, quần ống loe bị xẻ, ống bó cũng vậy. Nhưng đi học thì bỏ đồng phục, mặc tá lả màu lẫn lộn. Con gái lung tung hơn, mặc quần bà ba đen, trắng, quần tây, có đứa vận luôn bộ đồ bộ. Quần tây hiếm dây kéo, may gài nút là chính. Áo blu dông lên ngôi nhưng không phải loại áo của bịnh viện. Áo như áo sơ mi, phía dưới cùng ngang lưng có cái đai lớn bao quanh chứ không phải chỉ là cái lai. Con gái cưối người xuống là thấy nguyên mảng lưng. Ấy vậy lại được khuyến khích rất nhiều, đâu đâu cũng blu dông, blu dông… Cái kiểu ăn vận này cho tuốt luốt hết, đi họp hội, đi đám tang, đi chơi, đi học…

Sợi dây da treo thòng xuống trên vách trong tiệm hớt tóc nhẵn thín một đoạn giữa, đoạn giữa sợi dây bị lưỡi dao cạo lạch xạch quẹt lên quẹt xuống từ bàn tay rất dẻo cổ tay và điêu luyện của bác hớt tóc, thêm sức nóng của lưỡi bị nung nóng trên cây đèn cầy để khử trùng nên không còn chút xù xì. Cu Sô hay đếm tiếng lạch xạch, áng chừng thành thói quen của bác, cỡ chục lần lên xuống là lưỡi dao bén ngót, cạo râu, cạo tóc con rọt rọt rộn tai.
Những ngày trước, hớt một đầu tóc rất lâu bởi nhiều kiểu nhiều ý, và bác kỹ tánh nên gọt tỉa tới lui đến khi đúng chuẩn, vừa ý mới thôi. Nhiều người khó tánh ngó thẳng ngó nghiêng, nghía đi nghía lại, yêu cầu thế này thế nọ, thậm chí phải có cái gương phía sau để nhìn sau ót. Nghe nhiều chuyện về lương tâm từ người lớn, Cu Sô có sự so sánh lạ lùng, hớt tóc, tóc tai giống với lương tâm. Lương tâm có một lằng ranh giới hạn vô hình, vượt qua giớt hạn sẽ thành bất lương. Cho dù vô hình, lương tâm vẫn đo đếm được. Lương tâm có lúc xù xì, mọc ra vượt khuôn khổ, cũng cần phải thường xuyên cắt gọt, tỉa tót cho đẹp như tóc. Màu chuẩn mực của xã hội là cây kéo, tông đơ, cái gương vô hình để làm điều này với lương tâm.
Cái gương bấy giờ gần như không còn tác dụng, tóc tai không còn nhiều kiểu nữa. Cấm để tóc dài phủ tai phủ ót, một kiểu duy nhất, sạch sẽ ót, sạch sẽ mai, hớt lên càng trắng càng cao càng tốt, mái phía trước chắn cạch cạch hai đường nhọn như cái mũi bàn ủi trên trán là xong. Nhưng không được cạo trọc, cạo trọc lóc trêu ngươi, thách thức đây là cái chuông, tiếng chuông vô thanh hay sao(?) Hớt tóc, bác hớt tóc không còn mất nhiều thời gian.
Những cô gái rũ bỏ mái tóc dài, hớt kiểu tóc đờ mi từa tựa con trai, dĩ nhiên không cao trắng ót trắng mai rất được khuyến khích. Khuyến khích sự mạnh mẽ theo những khẩu hiệu tuyên truyền bình đẳng nam nữ. Nhưng trong dân gian không đồng tình lắm, nhiều dèm pha là sự nổi loạn.
Thời gian của bác hớt tóc bây giờ phát thêm tiếng cộc cộc. Tiếng những quân cờ ngang dọc, ngược xuôi gõ trên bàn cờ và quân cờ gõ trên chính quân cờ. Tất cả được làm bằng gỗ lõi nên tiếng giòn tan. Tiếng quân cờ chiến thắng giòn tan hả hê đè bẹp trên mình đối thủ thua cuộc. Tiệm hớt tóc là nơi hả hê cho nhiều người. Tới mượn tiếng gõ, gõ mạnh để trút sự bực dọc, trút sự lo âu bị đè nén không thể xổ ra ở đâu. Mượn suy tư trên bàn cờ quên đi nỗi suy tư cuộc sống chừng chực trong đầu. Nhưng đó cũng chỉ là tình thế, những suy tư, những bức bối không thể thoát ra khỏi trong bối cảnh không thay đổi. Rồi như hớt tóc, không còn được chăm chút gọt tỉa, mài dũa, lương tâm đã xù xì ra. Lương tâm tỉ lệ thuận với xấu hổ, xấu hổ xù xì che lấp lương tâm. Mầm mống xấu không còn xấu hổ, đã bung dần ra. Bắt đầu từ to tiếng tới cãi vả, leo dần dần tới hành động. Màu tục tằng thô lỗ, màu bạo lực cũng như giọt nước nhỏ xuống lan truyền, lan truyền ngày càng rộng. Trong mắt Cu Sô chứa đầy màu u buồn, người lớn không còn được con nít tôn trọng nữa, âu cũng một phần từ tấm gương gai góc của người lớn, và không có thời gian cho người lớn suy nghĩ dạy bảo ở trường đời ngoài trường học.

Màu nắng phủ mái hiên, bóng nắng chạm khẽ mặt đất lướt từ hàng ba qua ngạch cửa vào nền nhà, lướt dịu êm không gây tiếng động dù nhỏ như tiếng cây kim gió đồng hồ đeo tay, kê sát rạt vào lỗ tai và lắng nghe lắm trong không khí yên tĩnh mới biết nó có phát ra tiếng xạch xạch. Tuy vậy bóng nắng báo giờ cho Cu Sô đi học chẳng sai lệch bao nhiêu. Từng dấu khắc dài ngắn trên nền đất mát lạnh là từng số giờ số phút theo ký hiệu riêng của nó. Con đường tới trường vài cây số đường làng nhiều hơn đường lộ. Cùng bạn học, có những đoạn la cà với hoa trái, bươm bướm chuồn chuồn, có những đoạn tung tăng chân sáo để bù lại, có những ngày hứng chí phi ngựa chạy đua, hứng chí một hai ba tù xì làm vua hay làm giặc, vua ngự ngai vàng bằng lưng kẻ giặc, giặc cõng vua rã rời bởi là kẻ thua cuộc.
Quần áo đi học và cả tới nón dép của nó cũng như bạn học hầu hết trở thành cái nền được tạo mache từ mực. Mực từ cái bình nhựa, bình thủy tinh bỏ trong túi áo túi quần hay bề nắp loang từng vệt màu xanh màu tím, cây viết hiệu Hồng Hà vắt túi, vắt ở lỗ hột nút trên tà áo không những bề nắp, sút nắp thường xuyên mà còn sút ruột bơm đựng mực cũng chảy thấm loang lỗ. Và những giọt mực từ nho nhỏ li ti tới cỡ hột tiêu là từ trò nghịch ngợm, rảy mực từ cây viết vào nhau. Những vết mực dính vào da thì xóa dễ, in hằn vô quần áo khó phai mờ. Những đường kẻ ngang thì lại dễ phai mờ của cuốn tập chỉ có kẻ ngang, không có kẻ ô và ô ly. Những quyển tập với trang giấy màu ngà ngà cho tới vàng khè và đen xỉn, nhiều trang còn lợn cợn xác bã, viết loang mực vằn vện. Những quyển tập không đóng lại, còn rời từng cặp giấy, bự gấp đôi tập vở bình thường, nó phải dùng con dao phay chặt làm đôi thành hai quyển, đục lỗ khâu đóng lại bằng chỉ may đồ hay sợi nhợ, sợi cước mới bỏ vừa cái cặp.
Xuất hiện một cái nghề khá nhẹ nhàng nhưng cũng có được chút tiền, tiền cá tiền mắm theo như cha cu Sô nói, nghề bơm mực viết bic, một thuở gọi là viết nguyên tử, về sau này chữ bi được thay cho chữ bic. Cây viết tiện lợi hơn nhiều cây viết mực, nhưng ngay từ nhỏ đã viết cây viết này thì lớn lên viết chữ không thể đẹp bằng tập tễnh từ ngòi viết mực lá tre hay viết chì.
Nhiều bài học cũng khó phai mờ. Khó phai mờ cho sự lạ lùng trong suy nghĩ của nó. Những bài học mang đầy màu tươi đẹp, màu giàu sang, màu oai hùng, màu tự hào chiến thắng, hơn tất cả là màu súng ống bạo lực, giết chóc để có những màu này. Màu loang như những vệt mực nhưng mang màu đỏ máu, màu thuốc súng, màu khói ngạ quỷ chiến trường. Những bài học nó không thấy màu thực tại, và có cả hư cấu. Những bài học bị bắt nhét vào đầu, buộc thuộc lòng từng chi tiết dù nhỏ. Không được hỏi, không được thắc mắc của những đứa học trò mụ mị chỉ được phép nhận đây là sự khai sáng từ thầy cô và sách vở quyền uy. Những bài học không chú tâm mấy tới nhân cách, đạo đức, chuẩn mực xã hội nữa. Chuẩn mực gần như là sự tự hào hoành tráng.
“Của thầy cô mà xa xôi?” Đó là câu hỏi vì sao Cu Sô ví thầy cô khi nó nằm ngửa mặt đếm những vì tinh tú xa xăm trong bầu trời đêm tối.
“Ừ, của thầy cô.” Một lúc nào đó ta sẽ tấu khúc nhạc vui nhộn nhưng có xen nhiều dấu lặng, sẽ gặp nó ở điều này. Và đây là câu trả lời của ta khi đó, như lời hứa ta đang chấm những dấu lặng xen kẽ nốt nhạc rộn ràng trên con đường đi học của nó. Sự xa xôi đã được giải mã. Và thêm nữa góp phần của trường học làm bản ngã ngạ quỷ lấn át và đã thắng bản ngã thánh thiện trong xã hội.

Dấu lặng tròn, dấu lặng có trường độ dài nhứt lại cứ xuất hiện.
Trên con đường đi học và về Cu Sô gặp hoài ông già say.
Nhà ông ở giữa đoạn đường. Ông thường ra khỏi nhà vào buổi sáng với dáng người ốm tong teo, đầu tóc dài bạc trắng gợn bồng bềnh với bộ đồ bà ba cũng trắng. Ông già say nên ông được miễn nghe tiếng lạch xạch của cái kéo cái tông đơ, chắc chắn rằng ông đã miễn nhiễm với xã hội. Cu Sô nhận ra cái hay của bộ đồ bà ba là không thấy rộng thùng thình lượm thượm ngay cả khi có gió thổi phất phơ tà áo và ống quần. Dáng ông lảo đảo đều đặn bước những bước chân vẽ hình sin, khi gặp ông cùng đường hay ngược chiều thì ông vẽ trên trục hoành, gặp ông từ nhà ra, vuông góc với nó thì nó cho ông vẽ trên trục tung, đôi lúc ngả nghiêng làm hình sin dợn sóng rộng hơn, đôi lúc ông chúi chúi về phía trước rồi lựng khựng giữ được thăng bằng. Nó đọc được trong sách nên biết đôi chút về hình sin, hiểu đơn giản giống hình dợn sóng biển, cũng qua mô tả chứ có tận mắt con sóng bao giờ, vẽ trên trục tung là tự mình sáng ý ra chứ chưa thấy biểu đồ nào chạy thẳng đứng như vậy. Hình tượng gần gũi hơn, đã thấy nhiều lần là con rắn bò, cong oằn mình trườn đi, nhưng rắn trườn rất mau lẹ và con rắn đầy nọc độc dữ tợn nên nó không thích dành hình vẽ này cho ông.
“Ông già say, ông già say, ông loay hoay, ông sậy cây, ông tàu bay, tàu bay giấy, bay bay bay, ông già say…” Đám con nít gặp ông là lưng tưng chạy nhảy chọc ghẹo với bài hát đồng dao lặp đi lặp lại, lộn tới lộn lui hát sao cũng được mà chẳng biết ai đặt. Dáng ốm tong teo của ông ví cây sậy quá đúng rồi, còn tàu bay nhiều người chưa rõ nghĩ rằng ông dễ bị thổi bay mất hút như chiếc tàu bay xếp giấy bởi những cơn gió. Thực tình thì không phải, một thời ông từng là phi công dân dụng, phi công thì khỏi phải nói, oai phong lẫm liệt và lịch lãm phải biết! Cu Sô chỉ duy nhứt một lần hùa theo chọc ghẹo. Và mặc cho những lời chọc ghẹo của con nít, ông cứ lầm lũi đi tới.
Ông già say xuất hiện còn rất phong độ ở làng kề làng nó không say chút nào. Lúc ai nấy vui mừng vô hạn. Lúc màu ánh dương đã dập tắt mùi khét lẹt của thuốc súng, màu ánh dương đã xóa tan bầu không khí ảm đạm toàn khói đen bao trùm của chiến trường, màu ánh dương san lấp những hố bom, rừng thôi bị cày xới của đạn mìn, cây đã đâm chồi xanh trở lại trên những cánh rừng và đồi núi giăng giăng trùng điệp. Bao nhiêu thổn thức phập phòng trong lòng ngực mọi người nay đã vỡ òa, “Hòa bình, hòa bình và hòa bình.” Không còn phe ta phe nó, phe ta phe địch, phe theo Tây phe theo Tàu, không còn chính dân tộc mình kề súng kề gươm hạ thủ chính dân tộc mình…
Giống như gia đình Cu Sô và một số nữa, ông trở về với ruộng vườn. Có khác là trang trại của ông rộng lớn, là niềm ao ước của bao nhiêu người. Vườn cây trái nhà ông xum xuê đi vào dễ chừng lạc không thấy lối ra. Cánh đồng lúa một phần của ông góp hình thành nên cánh đồng thoai thoải. Nhưng đẹp phải nói là vườn cây kiểng xung quanh nhà. Có hẳn một chú chỉ mỗi việc chăm sóc các loại cây này. Trái lại với những ngôi nhà bề thế im ỉm kín cổng cao tường, cánh cổng nhà ông luôn rộng mở. Ngôi nhà của ông thoạt nhìn rất dân dã, nhưng mục kích sở thị tận nơi mới nhận thấy được toàn bộ vẻ đẹp, vẻ đẹp của cô gái có nét mặn mà quý phái ẩn sâu chứ không sắc sảo lồ lộ, khuyếch trương hết ra bên ngoài. Cánh cổng rộng mở nhứt vào những lúc chiều tàn. Cánh đàn ông và cả thanh niên trai tráng thoải mái bước qua cánh cổng tụ tập trước sân nhà nhâm nhi vài ly rượu cùng chuyện trò. Thường chuẩn bị xong thì ánh nắng cũng nhường chỗ cho màn đêm thì các cây đèn măng sông bơm dầu hôi (dâu lửa) sụt sịt cũng được châm lửa vào sợi tim bừng sáng rực. Chuyện kể của ông phần nhiều, chuyện dĩ nhiên xoay quanh các sân bay, chiếc máy bay, những thành phố có sân bay là nhiều nhứt. Chuyện ở trời Đông trời Tây gây hứng thú lạ lẫm. Và cũng phần nhiều là những câu chuyện hóm hỉnh, lâu lắm mới có câu chuyện được gọi là sọc dưa, có nghĩa là chuyện kỳ cục, trái khoáy. Chuyện hóm hỉnh càng thu hút bằng cái duyên hóm hỉnh của ông. Người như ông không hóm hỉnh mới là lạ. Sự hóm hỉnh tưởng chừng như lây lan qua các loài cây kiểng, ngoài sự uống nắn của chú làm vườn, chúng tự mọc uốn éo, cong quẹo, u nần thêm, tạo những hình thù lạ đời nhưng đẹp mắt, thích thú lắm lắm cho người thưởng ngoạn.
Cu Sô và đám nhóc leng keng hay tới nhà ông hóng hớt. Được ông phát cho mỗi đứa lúc cục kẹo the the, cay cay, mát mát cổ họng, thông lên mũi, lúc cái bánh quy, lúc thỏi kẹo mềm mềm, cắn vào nhai nhẹ đã tan chảy trong miệng ngọt lịm, sau vài lần có đứa mới biết tên kẹo socola.
Rồi cũng không biết từ đâu tụi nó có được bài đồng dao nghêu ngao: “Ông già Socola, lái máy bay đầm già, bay xa bay xa, xa lắc xa lơ, bay lên giấc mơ, ông già phi cơ…”
Cu Sô không hiểu màu nâu của socola từ đâu mà có. Đơn giản với nó, màu xanh da trời từ bầu trời xanh chứ đâu, màu xanh lá từ cây lá chứ không thể khác, hay hai màu đen trắng chắc chắn đến từ đêm tối và ánh dương mà thôi. Nó lần mò thì biết thêm có màu pha trộn, màu này trộn lẫn màu kia cho ra màu khác. Màu socola la nó suy ra từ màu hòa trộn của màu vàng đất và màu nâu sẫm của những tán đường sánh nước xanh xanh xen kẽ. Nên Cu Sô càng khoái đất vàng cùng những cánh đồng mía. Những cánh đồng mía ở làng ông già socola cũng nhiều hơn nhiều ở làng nó. Khoái chí bao nhiêu thì về sau nó càng buồn thương bấy nhiêu. Cánh đồng mía ngày càng còi cọc, chỉ thấy lá ngả màu mái rạ bạc thếch khô khốc. Những con bò chẳng còn buồn bước vào tìm kiếm chút lá xanh còn xót bởi quá ít. Cái lò nấu đường đứng giữa cánh đồng để tiện bề sản xuất, khỏi cất công chở mía về tận làng mất thêm công sức đìu hiu như cái lò rèn của bác thợ rèn cùng thời. Những cục gạch xây lò rơi rớt nằm ngổn ngang. Cái che ép mía đứng yên gỉ sét. Những cái chảo đựng nước mía nấu thành đường bự hơn sải tay tụi nó đo bằng đường kính còn tệ hại hơn, chẳng những gỉ sét mà còn chỏng gọng, lăn quay trên cái lò bể vụn. Mái lò đường mục nát tả tơi, vài chỗ bay mất trống hoác. Mái tả tơi trống hoác do gió trời, mưa nắng, không người chăm sóc, thay thế những chỗ hư hao. Lò gạch thì bị chính những người đã từng xây nên, sự bực tức vượt ngưỡng đã đập phá tan tành. Chỉ còn cái ống khói bự cũng xây bằng gạch thì đứng vững. Trên cao chẳng ai cất công lên đập dù có tức giận cách mấy, đập dưới chân ngã đổ nguy hiểm biết chừng nào. Ống khói một thuở ngày đêm nhả khói cuồn cuộn nay đứng trơ gan tuyệt vọng cùng tuế nguyệt. Màu của lò đường đứng giữa cánh đồng mía trơ trụi chẳng khác là mấy với màu phế tích chiến tranh điêu tàn.
Những khi ngậm cục kẹo the hay thỏi socola, Cu Sô thường ngả ngửa người trên đống rơm hoặc bãi cỏ tươi mát. Nó tưởng tượng mình là chiếc phi cơ, bình thường nhìn phi cơ thấy bay vút trên trời cao, nhưng ngồi trong chiếc phi cơ rộng lớn cảm giác đứng yên, chỉ có không gian vùn vụt lao qua trên mặt nó. Từng không gian qua lời kể của ông già socola, từng không gian rộng lớn nên dù có vùn vụt lướt đi cũng đủ lưu lại hình ảnh trong mắt chứ không mất đi. Không gian biển xanh thẳm, dập dìu hàng hàng con tàu đánh cá, về đêm tàu biển lên đèn như bầu trời sao lấp lánh. Không gian bầu trời bao la với những áng mây bồng bềnh, lâu lâu xuất hiện chim chóc, đôi lúc mây đem kịt và vần vũ của mưa bão, chiếc phi cơ phải tìm đường tránh như những cánh chim di trú. Không gian phố xá, nhà cao từng, người xe nhộn nhịp, phố xá lên đèn sáng trưng, lung linh nhấp nháy, phố xá những ngày tết nhứt, lễ hội càng lung linh hơn với những tia pháo bông đủ màu sắc rực rỡ được bắn lên nổ bay tung tóe… Và lẽ đương nhiên không thể thiếu không gian xanh của rừng, của làng quê như làng quê của nó. Rồi Cu Sô úp mình lại, dang hai tay rộng ra, ngóc đầu lên, đích thị lúc này là chiếc phi cơ đang bay, nó thì thầm: “Ờ kia tháp điều khiển, ờ kia sân bay, ờ kia đường băng…” Nó cho nghiêng nghiêng chiếc phi cơ và đảo mấy vòng trên bầu trời quanh sân bay, xong nói tiếp: “Đáp xuống thôi.” Chiếc phi cơ hạ thấp, bung bánh chạm đường băng chạy băng băng, giảm tốc tộ chậm dần rồi ngừng lại. Cu Sô vui lắm lắm, toàn cảnh đẹp trong mắt nó không mà!
Ông bạn ông già Socola kể về những người lính nhảy dù từ máy bay, nó mê tít thò lò. Ngay cạnh bìa rừng có một gốc cây rất lớn ngã trốc gốc đã lâu, cây thuộc gỗ xấu nên chẳng ai lấy về. Rễ cây dài nâng gốc và thân cây lên rất cao. Cu Sô tưởng tượng đây là chiếc máy bay, nó rủ cả đám leo lên trên chạy dọc theo thân rồi nhảy đùng đùng xuống như nhảy dù. Tụi nó khoái chí nhảy suốt cho tới khi một đứa bị chồi cây bị phạt ngang, cháy khô nằm bằng mặt đất khó thấy, nhảy ầm xuống quá mạnh lún đất chồi cây lú lên đâm xuyên qua lòng bàn chân. Chuyện nghe hết hồn khíp vía nhưng không đến nỗi đối với tụi nó, đứa này cắn răn rên rỉ khi cả đám đứa lăng xăng nặn máu cho khỏi đọng máu bầm, đứa tìm lá rừng nhai nhuyễn, đứa kiếm vải xé băng lại, cà nhắc năm ba bữa sau chân lên mủ, nặn ra tiếp thì bớt, độ một tuần là kéo da non, cà khắc nhẹ hơn tuần nữa là lành, tuần nữa là lành lặn tiếp tục chạy nhảy. Rất nhiều trò nghịch ngợm, đu cành cây, đu xe bò té nhào đầu, ngồi trên lưng bò bị đứa đứng dưới phá đốt đít bò, bò hốt hoảng tung chân bay như vó ngựa té lùi đụi cũng vậy, hiếm khi bị nặng, trật khớp tay chân nhẹ thì tự giựt tự nắn, nặng mới tới nhờ ông thầy thuốc Nam sửa lại và bó chút thuốc, cũng mau chóng qua khỏi. Truyền miệng trong dân gian là được bà đỡ cho đám quậy Trời Thần đất lửa chứ không thì chẳng biết ra sao.
Nhưng niềm vui này của Cu Sô không được bao lâu. Khoảng chừng hơn một năm từ ngày trở về làng, ông già Socola bị bắt dẫn giải đi đâu biền biệt không biết, ngay cả người trong gia đình cũng mù tịt tin tức. Loáng thoáng nghe ông được khoát lên mình mỹ từ, “Người di học tập cải tạo” thực sự thì bị bắt đi cải tạo, cải tạo tư tưởng bằng học tập và lao động ở tận đâu nơi rừng thiên nước độc sâu thẳm. Ngôi nhà của ông bị tịch biên. Vợ và mấy người con được giữ lại khoảnh đất chừng hai sào (2000 mét vuông) ở cuối vườn, căn nhà bếp được dỡ ra đây cất thành căn nhà chính. Căn nhà chính từ từ bệ rạt, lá khô và cả cỏ rác bay phủ đầy mái nhà, xung quanh lá ủ mục ngập ngụa khỏi nói. Vườn cây cũng dần dần xơ xác, vườn đã là của công nhưng không người túc trực cai quản nên người trộm vặt là điều tất yếu xảy ra, nhứt là đám chăn bò, lùa cả bò vào cho dù chẳng mấy cọng cỏ dưới bóng râm của tàn cây. Khi có sinh hoạt cộng đồng gì đó người ta mới tới quét sơ ở sân căn nhà chính, sinh hoạt dưới ánh sáng mờ mờ của cây đèn dầu leo lét, vài lúc gió lớn thổi tắt ngúm phải lò mò thắp lại. Hai cái đèn măng sông treo trước hiên nhà đã bị tháo gỡ đem đi mất đâu không rõ. Cửa căn nhà đóng im ỉm như ngôi nhà ma, chẳng ai buồn mở ra quét dọn bên trong.
Khoảng bốn năm năm sau ông già Socola trở về. Ngày mới tới làng, lứa tuổi ông có hai người bạn tâm giao. Ông đi cải tạo thì một ông bỏ đi biệt tích, ông còn lại uống rượu khang như nước lã rồi xuống mồ khi chưa đầy một năm với thân tàn ma dại trong cơ thể da bọc xương. Ông trở về dẫm vào bước chân đổ của ông này. Ban đầu còn rượu ở nhà, ông uống sạch. Rồi ông lảo đảo đi xuống chợ dấu giếm mua chai rượu hai xị (nửa lít) đem về mới uống từ từ. Dần dà rượu đã thành con ma men trong người, không kìm chế nổi cơn ghiền ông ngửa cổ nốc một hơi khá nhiều, gần nửa xị ngay tại chỗ rồi lảo đảo trở về. Kế nữa ông nốc lên nửa xị, không cần về tới nhà uống tiếp, dọc đường cầm chai tu ừng ực. Điều không tránh khỏi, trở về chừng một phần ba đoạn đường là bước đi chúi nhũi, chân sau đá chân trước từ lạng quạng cho tới té nhào. Ông trở thành ông già say từ đó. Ngay cả nó cũng quên bén ông già Socola ngày nào bởi những âm thanh này cứ dội vào tai, tiêm nhiễm vào óc.
Đám con nít vừa sợ, vừa thích chọc ghẹo mỗi khi ông say. Say rượu, sự chán chường, sự nhục nhã, nỗi đau đớn, ký ức tổn thương biến một con người hóm hỉnh, thông thái và chuẩn mực trở nên cuồng dại. Cặp mắt ông lòng xọc long lên đỏ ngầu, ông cố rướn mình rượt bắt đám nhóc dần cho một trận, nhưng càng rướn người càng chúi nhũi, những bước chân tệ hơn của đứa bé chập chững, càng dễ té lộn nhào hơn nữa. Tránh được điều này chỉ khi gặp người lớn can thiệp, la chửi đám con nít lắm trò. Rượu say thấm ông tự bị té ngã nằm dài bên lề đường, không gượng dậy nổi, đôi khi lăn lộn nhào xuống mương nước mương sình. Nằm dài ông gào thét nhưng không ra hơi, chỉ bay ra được tiếng thều thào khào khào khục khạc. Có lúc con cái tới đưa ông về, có lúc người quen, có bữa ông nằm cả buổi giữa trời nắng cháy, mưa dầm với con đường vắng hoe bóng người.
Một lần ông không say khướt, ngồi bên vệ đường mỉm cười với tất cả đứa nào trêu ghẹo ông. Cu Sô liều mình lấy chiếc xe bạc đạn (vòng bi) tới mời ông lên xe đưa ông về, tụi nó không thể dìu ông được. Nói là chiếc xe cho oai chứ đó chỉ là những cái bạc đạn hư tụi nó xin được chế chiếc xe bên trên ba cái bánh chỉ là tấm ván, vận hành đơn giản của trò chơi, một đứa ngồi trước lái bằng chân, vài ba đứa đẩy lưng đứa này, xe có trớn thì nhảy lên ngồi hoặc đu đưa, bạn đạn có trớn lớn cùng với chân tiếp đất chống đẩy, xe cứ vậy mà băng băng. Và ông đã biến mình thành trẻ thơ, ông lên ngồi sau “tài xế”, nghe tiếng bạc đạn kêu re re ông khoái chí, đôi khi dang hai tay như cánh chim, cười ha ha làm tụi nó vô cùng bất ngờ.
Trong mắt Cu Sô ông cuồng dại nhứt, đúng hơn là điên loạn khi gặp cây trụ có gắn cái ô bặc lưa bên trên đang phát ra tiếng the thé. Đây là cái loa kẽm, loa truyền thanh cứ vài trăm mét là bắt gặp trên con đường lộ chính, bà con kêu là vậy hay là ô bặc lơ. Ông thường ôm cây trụ rung lắc nhưng chỉ thấy người ông nghiêng ngả vô vọng còn cây trụ vô tri đứng yên càng như trêu ngươi, hết sức ông bị khụy người xuống bệt nằm dài mà hai tay vẫn ôm lấy gốc cột, có lúc còn đứng được nhưng mỏi mệt ông tựa người ôm cây trụ, nếu không nghe những lời gào thét thì thào khào khào khục khạc dễ tưởng ông với cây cột là bạn tâm giao. Nó chẳng hiểu sao ông điên tiết lên, điều này vượt quá sức hiểu biết của nó. Nghe ngóng thì, người nói ông nhớ tiếng nói của mình phát đi trong máy bay tới hành khách, người thì nói ông cay đắng bởi nghe tới buốt óc ở trong trại cải tạo đến nổi chỉ còn biết đó chỉ là những âm thanh chạy trong đầu chứ không rõ nội dung gì, người thì nói ông nhục nhã vì thua cuộc, không lý giải được thua cuộc với ai khi là một phi công dân dụng, chả liên quan gì tới tiếng súng, không liên quan gì tới chính trị chính trường. Chuyện rất giống với ông Thầy, người truyền đạt cho lớp nhỏ những kiến thức khoa học, kiến thức văn hóa của dân tộc, sự đối nhân xử thế ở đời sao cho nhân bản, sao cho có tôn ti trật tự, sự khai phóng cho bộ não, con tim giúp cho cuộc đời tốt đẹp hơn. Những lời đàm tiếu cũng như với ông Thầy từ những người mới tới chẳng biết đầu cua tai nheo là gì, từ một số người bỗng quay ngoắc một trăm tám mươi độ, một thuở ca tụng thì nay a dua, vu khống, cho rằng ngày xưa ông đã phạm tội tày đình, nợ máu với nhân dân. Ừ, mà các ông có tội tày đình đó chứ, các ông buộc phải tìm ra một tội tày đình để ghi vào các bản tường trình, lương các ông cao ngất ngưỡng không phải sống trên đầu trên cổ thiên hạ sao(?) vậy là, “Tôi mang trọng tội, trọng tội bóc lột hành khách, bóc lột đồng bào tận xương tủy…”
Có điều lạ, bước trùng bước chân đổ của ông bạn tâm giao nhưng ông cứ ngoắc ngoải chứ không ngã hẳn theo ông bạn. Rồi một ngày, hai ngày, ba ngày, tới tuần lễ không thấy ông ra khỏi nhà xuống chợ, có lẽ ông đã quỵ ngã nằm dài? không, ông vẫn uống rượu nhưng đã giảm dần, con cái ông len lén mua cho. Vài tháng sau, nước da xám ngoét nổi đầy gân xanh đã bị đẩy lùi bớt, có phần hồng hồng ưng ửng, trong bộ đồ ves chỉ một nửa ves dù chưa lấy lại hết phong độ lịch lãm cũng đủ lịch sự, bên mâm cơm đơn giản ông rớt nước mắt chia tay những người tri kỷ, tri ân. Lần đầu tiên Cu Sô thấy ông rơi nước mắt. Các con ông rơm rớm an ủi, “Thôi đi ba, hy vọng sẽ có ngày trở về.” Nhưng làm sao không rơi nước mắt, làm sao không lưu luyến mảnh đất quê hương, tình người quê hương biết bao giờ trả được. Làm sao không tan nát tâm can khi không sống được trên quê hương đẹp đẽ này, phải lưu vong nơi xứ người xa lạ. Ông được bảo lãnh tới phương trời xa xôi, mù tít cách cả nửa vòng trái đất.
Ông lịch sự trong bộ nửa vest ra đi không còn nghe lời rêu rao bêu xấu, nhiều con mắt, cái vẫy tay chào thiện cảm trở lại nhưng lại để lại lời đàm tiếu, người gánh lời đàm tiếu là bác thợ may. Bác tặng cho ông bộ nửa ves để làm gì? tốt lành dữ vậy sao nếu không mưu cầu giúp đỡ sau này? không phải là bản hợp đồng tạm ứng trước chứ là cái chi? Họ nói bác là con người quỷ quyệt, biết bỏ con tép bắt con tôm, nhìn xa tới tận phương trời cách nửa vòng trái đất đó là phương trời giàu có, ông già say sẽ không giàu sụ sao? và có khi còn đưa bác sang nữa đó chứ. Người ta quên hoặc giả quên ngày ông bạn say tâm giao của ông già say khuất bóng, bác cũng lặng lẽ đem đến bộ ves như vầy để ông mặc ra đi được chút an ủi cuối cùng. Bác mong được trả ơn gì ở thế giới bên kia chăng? không nực cười nào hơn nữa nếu có suy diễn như vậy. Trớ trêu của cuộc đời mang hơi hướm nhiễu loạn đã manh nha xuất hiện.

Cái ô bặc lưa đôi khi phát ra tiếng nhạc rộn ràng, vui nhộn như tiếng ta vẫn đang tấu khoảng thời gian này cho Cu Sô. Và nó có điều đối nghịch trong mình, vừa thích thú vừa khó hiểu ở cái ô bặc lưa này.

Đám con nít nhảy cẩng lên khi nghe tiếng ô bặc lưa phát ra vang vọng những buổi xế chiều. Vang vọng bởi nó phát ra lớn hơn và di động chứ không đứng yên như cái được đóng đinh trên cây trụ. Sau buổi xế phát tiếng loa đi thông báo các nơi tới tối là có đoàn chiếu phim hoặc đoàn ca kịch về biểu diễn. Chiếu phim thường hai buổi tối liên tục, không chỉ đám con nít khoái chí, những thanh niên cũng mừng rơn. Đoàn ca kịch biểu diễn lâu hơn, chừng bốn bữa, và có thêm những người lớn tuổi chờ đợi, thường là phụ nữ, đàn ông thì thở dài, còn mệt mỏi với lo âu phía trước. Chiếu phim chừng hai tháng về một lần, ca kịch lâu hơn, ba bốn tháng có khi tới nửa năm.
Màn ảnh, sân khấu đựng bên trong sân vận động của xã. Xung quanh sân đã rào chắn kỹ lưỡng, còn giắt tòng tèng những bóng đèn tròn cách nhau khoảng ba chục thước cùng những người đi gác tới lui canh chừng chui rào lậu vé. Dân lậu vé cũng canh chừng trở lại, canh chừng sự lơ đễnh của người canh và trước sau gì những bóng đèn cũng chập chờn, luôn luôn thủ thế, nghe tiếng máy nổ xuống ga xịch xịch là chuẩn bị phóng lên ào ào trèo rào vào, điện sẽ yếu ngay sau đó. Có những lúc vừa phóng chụp được hàng rào thì máy rú ga lớn liền trở lại, bị chụp giò chụp cẳng giựt rớt xuống té nhào đầu lụi đụi. Lậu vé không chỉ leo rào, đục lỗ chui rào mà nghĩ ra trăm phương ngàn kế. Màu này khó trách trong mắt cu Sô, cái nghèo vật chất mang bên người tới tận cùng, nghèo về văn hóa văn nghệ cũng đâu có kém gì. Bên trong sân, chiếu phim ít người hơn còn có trật tự, ca kịch hiếm có bao giờ. Mở màn ca kịch độ chừng một phần ba buổi là chen lấn rối loạn, chen tràn tới sân khấu, nhiều người muốn leo lên luôn làm buổi diễn phải tạm dừng để vãn hồi nhiều lần rồi đâu lại vào đó. Vì người quá đông một phần nhưng cu Sô còn phát hiện một điều là vì từ những thanh niên trai tráng, lợi dụng để cọ xát thân thể. Nó đã từng nóng bừng người, một cảm giác lâng lâng rất lạ nó chẳng biết là gì, một cảm giác khó tả khi bị ép sát vào một cô bé kề bên và các chàng ta thường hay khoe chiến tích chạm vào người cô nàng này, cô nàng kia đa đã rụng rời con tim. “Lựu đạn, có lựu đạn…” nỗi ám ảnh chiến tranh vẫn còn đó, nghe la lên như vậy ai mà không run sợ, không vùng chạy, xô đẩy vùng chạy nháo nhào, tội nghiệp nhứt là những tiếng hét, tiếng khóc của trẻ thơ lạc tay cha mẹ, anh chị và bị dẫm đạp bầm dập. Ban đầu đó chỉ là sự vô tình, không thấy rõ đó là chỉ là con cóc nhảy lưng tưng hay một vật gì đó rớt xuống. Về sau là sự lợi dụng cố tình của một số người, bực tức với cuộc đời không biết trả thù ở đâu, đem trút đổ xuống đầu mọi người hoặc lấy đó làm niềm vui. Nhưng làm sao hỉ xả được, chỉ có vận vào người thêm sự hèn hạ mà thôi, sự trả thù nào nhắm vào bà con cô bác đều là sự trả thù hèn hạ. Sự hèn hạ nó cũng như giọt nước nhỏ xuống lan truyền. Án ảnh với chiến tranh nhưng phim ảnh, ca kịch chủ yếu về đề tài chiến tranh lại mang về niềm vui, hân hoan chiến thắng. Những bộ phim lời thoại xí xô xí xào có khác nhau chăng nữa cũng thường được quy về của một mối, phim Liên Xô hoặc vài bộ của phe cùng khối, Tiệp Khắc, Rumani… Những hồng quân Liên Xô phe ta luôn anh dũng chiên thắng và chẳng mấy khi chết trận. Những khúc khải hoàn hoan ca bất tận như những bài học tự hào mà nó đã kinh qua.
Sự lạ lùng dường như dễ sanh sôi, sự bạo lực dường như cũng vậy. Đi coi phim thì tất cả hầu hết hồ hỡi phe ta thắng thế. Thực tế thì lại sanh ra chia rẽ giữa các làng, các xóm. Dân làng Bàu Sương thơ mộng kình với làng Bưng, làng Bưng kênh kiệu làng Bàu Đôi, làng Bàu Đôi là đối thủ của xóm Chùa, xóm Chùa không đội trời chung cùng xóm Đạo, xóm Miễu chẳng thể ở ngoài cuộc những cuộc đối đầu này… Cũng may còn dừng lại chủ yếu ở những thằng con nít và các chàng mới lớn. Đi chơi, đi coi phim phải kéo đi kéo về cả nhóm cùng thủ roi, gậy gộc chớ đi một mình dễ bị sanh sự, bị uýnh cho mập mình. Dễ bị kiếm chuyện nhứt là các chàng đi tán gái ở làng khác.
Cu Sô khoái mon men gần với chỗ máy chiếu. Nó thích nghe tiếng chạy xè xè của máy, thích coi những động tác cho cuộn phim vào máy rồi thoăn thoắt rút thước phim lần cuốn vào các bánh xe và tiếng thuyết minh nhẹ nhàng ấm áp của chú chiếu phim. Nhứt là vào một ngày trời trăng tuyệt đẹp, một ngày thật hiếm màn ảnh xuất hiện bộ phim tình cảm, tình cảm lứa đôi lãng mạn mặc cho nhiều người cứ thích bắn nhau và hoan ca chứ chi mà rề rà rủ rỉ, quá lạ lẫm cho những nụ hôn đôi lứa đem trưng ra, phơi bày ra kỳ cục(!)
Tình cảm nảy sinh giữa khán giả và diễn viên ca kịch, nảy sinh đam mê nghề diễn gây rắc rối cho nhiều gia đình. Những anh chàng trai tơ lén lút bỏ nhà theo đoàn làm chân chạy vặt, khuân vác và kéo màn mút mùa Lệ Thủy. Tệ hơn là những cô nàng nông nổi nhẹ dạ lang thang theo đây đó khắp nơi rồi buộc phải quay trở về với cái bụng mang dạ chửa đứa con vô thừa nhận, mang một nỗi ê chề về với xóm làng. Mang nỗi ê chề chui rúc xó bếp, gia đình liên lụy không dám ngẩn mặt đi ngoài đường nói chi là bản thân mình. Dễ gì có miếng mồi nào ngon hơn được, vồ mồi là các bà các chị lẻo miệng, rảnh rỗi ngồi lê đôi mách, xỏ xiên và đặt điều bay tới tận mây xanh.

Cái ô bặc lưa đóng đinh trên cây cột ngày ba buổi sáng trưa chiều, tuần bốn bữa ngày thứ chẳn và chủ nhựt phát âm thanh rền rã. Nhiều người sợ lắm, sợ tới ngày thứ chẳn nghe rền rã nhưng tới ngày thứ lẻ bỗng thấy văng vắng, thiêu thiếu.
Âm thanh người nói giọng của nam và nữ. Chủ yếu nói về tin tức, tin tức đó đây trong nước và thế giới. Toàn điều tốt đẹp ở đây đó, sản xuất mọi mặt, nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thủy hải sản… luôn luôn vượt bật, vượt chỉ tiêu, quý sau cao hơn quý trước, năm sau qua mặt năm trước dù có khó khăn trăm bề, công nghiệp hóa hiện đại hóa bề bề khắp chốn, các công trường rộn rịp, các nhà máy đồ sộ ngày đêm nhả khói và tăng ca sản xuất, đặc biệt nhứt là ngành thủy lợi thành công viên mãn, không chỉ điều tiết nước nôi như ý chẳng còn sợ bị phụ thuộc vào ông Trời mà còn cho những dòng điện sáng trưng, đâu có gì gọi là tự mãn khi nói đã trị được ông Trời, cái ông tính khí bất thường, chuyên gây thiên tai hậu họa, đó là sự tự hào như những bài học tự hào chắc chắn lưu hành muôn thuở. Những điều tốt đẹp như vậy ở tin tức thế giới dành cho khối cùng phe, khối xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Ngược lại là lên án thậm tệ sự tồi tệ về mọi mặt của các nước phương Tây, nước Mỹ, các nước tư bản chủ nghĩa và sự chống lại, chống lại hơn cả thành công những luận điệu tuyên truyền của khối các nước này, một dự báo sẽ không bao lâu nữa toàn khối quỷ quyệt đây sẽ sụp đổ tan tành. Cu Sô lại liên tưởng đến sự rụm sụp xuống của tàn lửa thành tàn tro của những đóng cỏ rác bị đốt cháy, những dòng khói đen ngạ quỷ cuồn cuộn tháo chạy thoát thân. Những tin tức về thể thao, văn hóa ăn nghệ cũng không thể khác, của ta, của khối phe ta lúc nào cũng hơn hẳn. Thành công, thành công, thắng, chiến thắng của phe ta về mọi lĩnh vực.
Bên cạnh tin tức, âm thanh phát ra những bài ca ca ngợi những gương anh hùng trong lao động xản xuất, trong chiếu đấu. Những tấm gương nhiều lắm lắm, những tấm gương ngời ngời lý tưởng như anh Paven trong Thép đã tôi thế đấy. Hơn nữa những bài ca ca ngợi là ca ngợi nhiều hơn lắm lắm, ca ngợi những vị lãnh tụ vĩ đại, vĩ đại hơn cả thần thánh.
Mở đầu cho những buổi phát thanh và xen kẽ với âm thanh nói là những bản nhạc. Những bản nhạc không lời và có lời vô cùng hùng hồn.
Ta hòa âm cho bản nhạc tuổi thơ của cu Sô mang nhiều tiếng trong trẻo lấn át âm thanh trầm. Tương tự như vậy, những bản nhạc hòa âm âm thanh bỗng, vút cao phủ bóng âm thanh trầm phát trên ô bặc lưa hầu như chỉ còn nghe âm thanh trép (treble) chứ không còn âm thanh bát (bass) nếu không muốn nói là the thé. Ta hòa âm cho sự hồn nhiên thì những bản nhạc ở đây mang âm hưởng của sự cao siêu, của thính phòng giao hưởng. Những bản nhạc có lời là những khúc ca âm hưởng của opera, hơ hớ, he hé, gằn và ngân nga trong cổ họng kéo dài. Như bao người, nó nghe không rõ hết, nghe tiếng được tiếng mất, vừa suy đoán suy ngẫm mới ra vài đoạn, nhớ mỗi bài một đoạn rõ ràng nhứt, “Vùng lên hỡi các nô lệ…” “Tiếng về Sài Gòn ta quét sạch giặc thù…”… Nhiều người cũng ngân nga được vài ba đoạn, trái lại những bản nhạc vàng thì thuộc lào lào mà chẳng cần tới cái ô bặc lưa nào cả, “Nhà nàng ở cạnh nhà tôi, cách nhau cái dậu mồng tơi xanh rờn…” “Nhà em có hoa vàng trước ngõ, tường thật là cao, có dây leo kín rào…” “Mùa mưa lần trước anh về đây đón thăm em…”… ca nhạc vàng phải ngó trước ngó sau, canh chừng có cán bộ hay không chứ bị mời ngay về học tập tư tưởng phiền phức. Những bản nhạc dù chỉ nói về tình yêu đôi lứa da diết nhưng vẫn bị quy là tình cảm sướt mướt, bi lụy, cùng chung số phận là sản phẩm văn hóa đồi trụy.
Cu Sô đi ngang trụ cột ô bặc lưa luôn luôn đi chầm chậm lại, nghiêng đầu vểnh tai nghe ngóng, nghe hết tất cả dù có thích hay không. Song, nó trở về ngang tầm mắt và cuối xuống mặt đất quan sát. Kẻ một đường thẳng chia đôi không gian âm thanh phát trên cao và mặt đất nó có đường kẻ mang màu đường tâm đối xứng, phân chia điều đối lập ở hai nơi này.
Mấy chiếc xe máy cày nằm ù lì một đống qua năm tháng, qua mưa nắng, gió sương bên vệ đường, người ta không buồn chạy hay kéo tới xã hoặc hợp tác xã, máy cày trở thành đứa con hoang vô thừa nhận. Con bò ù lì rồi cũng phải ra đồng cày bừa dưới bàn tay điều khiển của con người. Máy cày coi như con bò bất trị phải vào lò mổ xẻ thịt. Nhưng thịt của nó chẳng biết làm gì nên mãi nằm đó thử thách với thời gian ôxy hóa. Những giàn cày giàn bừa, những bánh xe, phần thân dưới xe ngập lấp ló trong cỏ xanh tươi mùa mưa và khô rát mùa nắng. Cái ông khói trước capo còn cái nắp đeo tòng teng bấu víu chực rớt buồn hiu, những ngày còn phô trương sức mạnh, cái nắp dở lên ụp xuống để làn khói bay ra phụt phụt vui vui tai. Kiếng chắn gió bể nát, vài mảnh còn dính cùng sợi ron đứt gãy, ánh nắng chiếu vào phản chiếu yếu ớt trên những miếng kiếng nhỏ như những tín hiệu cầu cứu vô vọng. Những chiếc xe hai bánh gắn máy, Mobylette, Honda 67, Honda Dame, Vespa… cùng chung số phận, mất công năng của mình. May mắn hơn một chút, không phải phơi mình bởi còn được treo ở dàn khói bếp. Những chiếc xe này không bị gom chung về làm của công. Người ta còn hy vọng một ngày nào đó nó được trở lại.
Rồi màu nắng cháy nó đã thấy mà nào có thấy một dòng nước một dòng điện nhỏ nhoi chảy về cánh đồng nức nẻ, làng quê khô héo.
Ra đồng bằng sức lao động của chính con người từ già tới trẻ và sức của những con bò, con trâu. “Vùng lên hỡi các nô lệ” tự do rồi lấy chính sức mình làm nô lệ cho cái lưng khom, cho bàn tay chai sần nhấc cuốc bổ xuống chan chát của chính mình để tồn tại?
Cu Sô nghĩ rất ư là quái đảng. Nó nhớ lời một người hỏi:
“Vác cuốc ra đồng na anh?”
Và được câu trả lời chua chát:
“Đồng với áng còn là cái chi chi, tui đi giết lúa ở đồng hoang và đào huyệt mộ cho tôi từ từ nơi đó.”
Ruộng đồng nương rẫy tàn hoang như những cánh đồng hoang dại, cỏ chen lấn mọc đầy tràn nên muốn diệt cỏ khó mà không giết lúa. Và phản phất sự hoang mang, hoang mang về tương lai đến cực độ.
Cu Sô không khỏi bật cười khi nghe ô bặc lưa phát thông báo của hợp tác xã yêu cầu bà con đúng ngày giờ quy định đi đóng phân bắc và phân xanh. Nó nhớ lại một bữa thấy một bà gánh đi đóng thì một bà khác bịt mũi hỏi:
“Gì mà thúi rùm vậy bà.”
Gánh phân đã đậy hai ba lớp lá chuối vẫn còn bị bay mùi. Bà cười hặc hặc:
“Dạ, hông thúi sao được chị, nó có kịp oi đâu. Chị mới nghe mùi đã phát ớn tui phải tự tay moi móc nó ra đó. Chị thấy hông, nhà có ba người, ba tui già cả có chịu nuốt miếng nào đâu mà ị ra, thằng nhỏ cục nhỏ xíu chớ, chỉ còn tui. Biết là hông thể oi mà hổm họp nói để trễ nộp vài bữa, mấy ông cán bộ có chịu đâu, còn cự nự… ơ… có ngày giờ quy định nghiêm chỉnh, bộ rảnh lắm hả đòi bày ra nữa.”
Bà kia vỗ đùi cái bét:
“Nghiêm chỉnh, nghiêm chỉnh… nghỉnh cái con của mấy ổng á.”
Nó chẳng hiều cái con gì chỉ thấy hai bà cười rần. Rồi bà quầy gánh đi nói với lại:
“Đóng thì đóng, thúi ai cho biết.”
Phân bắc từ cái hố xí hai ngăn mỗi nhà phải làm một cái bằng cốt tre, lấy đất ở lớp đất dẻo, nhồi nước với rơm phủ lên cốt. Còn phân xanh thì đào cái hố rồi tấp cỏ rác xuống cho oi. Phân xanh là mần móng cho cỏ bởi hột bông cỏ không mục được, bón xuống ruộng là nảy mần ngóc đầu vượt lên. Đốt cỏ rác, phương thức người ta đã làm vừa diệt được bông cỏ vừa có tro tốt đất nay không còn áp dụng.

Một điều mâu thuẫn, mang sự hoang mang người ta không nhìn thấy phía đối xứng, không hỏi phía đối xứng sao lạ vậy, mà ngửa mặt ngóng tuốt nơi xa lắc, nơi xa lắc có ông Trời để hỏi. Hỏi mang tội tình gì, gây ra tội tình gì? hỏi tạo sao bị vận vào kiếp khổ nạn, thống khổ? Nơi xa bất tận còn có thể có tận cùng, nơi đây xa đến mơ hồ nên lời đáp là thinh không.
Đi mãi đi mãi nên con đường. Phía đối xứng phát mãi phát mãi âm thanh, lập đi lập lại mãi thành thói quen rồi tự biến những điều tưởng tượng thành sự thật hồi nào không hay biết, ngựa quen đường cũ, thói quen sẽ tiếp nối thói quen. Nhiều người hấp thụ mãi âm thanh nên nghiễm nhiên điều đó cũng trở thành sự thật, nhiều người miễn nhiễm thì thành vô tâm, không còn bận tâm rồi quên bẵng. Những hạt giống gieo xuống nảy mầm lên sự dối trá mà rất nhiều người nghĩ là mầm sự thật(!)

LÊ ĐẮC HOÀNG HỰU

ĐI VỀ PHÍA CON NGƯỜI: KÝ ỨC SẮC MÀU ( truyện dài)

ledachoanghuu

Mưa, mưa, mưa… tiếng kêu, tiếng khẩn cầu kéo dài dài khi gặp màu hạn hán. Dù khẩn cầu trong im lặng, trong tâm hồn, không phát bằng tiếng nói.
Màu mưa là màu hồi sinh!
Ta cũng hồi sinh khúc nhạc vui nhộn!
Mưa rơi xuống, người người ào ra đứng yên lặng, dang tay nhắm mắt ngước mặt lên trời, hít thở với những giọt mưa. Có lẽ như vậy mới tận hưởng hết được những giọt mưa, hứng hết từng giọt mưa, muốn từng giọt mưa ngấm vào da thịt, có người há miệng hứng những giọt mưa trong suốt, ực ngọt ngào. Cu Sô và một số đứa cũng làm như vậy, chút sau là ào ào chạy nhảy, té nước đọng tung tóe. Cơn mưa lớn nước đọng chỉ trong các đường rãnh, đường mương, dưới vồng khoai… nước ngang chừng ống quyển con nít cũng ngụp lặn dù nước mang màu đất như màu phù sa đục ngầu, bơi bơi hai tay khoát nước, nhưng chân đạp dưới đất, vẫn thi thố vui ngút trời.
Mưa như một liều thuốc tiên.
Mưa thấm đất, đất giữ nước mát lạnh rất lâu.
Mưa hàn gắn những vết nứt ở cánh đồng.
Cây cối héo rũ sắp sửa quỵ ngã bừng tỉnh dậy, tươi trở lại, đâm thêm chồi, nảy thêm lá. Những hạt mầm nảy nở vươn lên. Suối tiếp tục chảy réo rắc. Màu xanh xóa tan màu úa vàng, vàng cháy, cháy khét. Côn trùng sinh sôi. Con nít hít thở không khí mang hơi nước âm ẩm, niềm vui lớn nhanh như thổi, những gương mặt chẳng còn vấn vương điều gì.
Cu Sô ngấm những màu mưa trong người.
“Tao bắt được con cồ lửa (dế trống lửa) rồi.” Một thằng reo lên kèm theo tràng cười haha.
“Xì, tao bắt hai con cồ than bự chưa nói gì.” Thằng nữa chề môi.
Hai ba thằng nghe dế gáy rét chạy nhào lại xí, thằng nào lanh tay lẹ mắt thì được thôi, thằng thua tiu nghỉu chút rồi cười hè hè, tìm dế bắt tiếp. Dế gáy rét rét dưới dất cày, lật lên mà chụp. Có những con chẳng bung hai cánh gáy lớn mà chỉ nhấc nhẹ một cánh kêu chắt chắt làm tụi nó phải áp tai sát rạt đất mà nghe, mà lần mò. Cái hột quẹt diêm rỗng là ngôi nhà đẹp nhứt cho dế cùng với vào vài cọng cỏ mọc sát đất giống rau sam nhưng lá nhiều nhỏ xíu xiu, liên kết thành chùm hơn, và xanh mềm mại như rêu. Cỏ hoang dại chẳng biết tên gọi là gì, cỏ dế, tên tụi nó đặt cho vậy chứ còn tên nào dễ thương hơn.
“Đá thôi, đá thôi.” Một đứa vừa tung tăng chạy lên gò đất cao vừa nói lớn khi coi bộ đã bắt đủ. Cả đám ào ào nhảy nhót theo: “Ờ, đá đi, đá đi.”
Bãi đá đơn giản là mặt đất bằng phẳng, tấn vòng tròn bằng mớ đá cuội, hay kiếm được cái hộp cái học nào đó, có cái cà mèn đơm cơm nước cũng được… Bứt tóc xỏ chân dế quay mồng mồng, phun thêm miếng nước miếng, thả dế từng cặp vào cái bãi bự bằng vài bàn tay, chụm đầu mà coi đá, mà la rân trời, “Thúc nè, thúc nè, nghiến nè nghiến nè, gáy nè, nổ nè…” rồi những tràng cười haha của thắng trận vang lên, đứa thua gãi dầu gãi tai xịu mặt tí chút chọn con khác tiếp tục.
Đá dế có nhiều chuyện lạ. Con dế bự, oai vệ thắng thì không nói gì, nhiều con dế oai vệ, giương thế hùng hồn, bung cánh gáy rân trời, vừa đọ càng lại quay đầu chạy mất, “Dế nổ, dế nổ, thằng này bắt được dế nổ.” Có con dế nhỏ, dế ốc tiêu lại thúc mạnh khù, có con ốc tiêu tuy yếu không thúc được mạnh lại lỳ đòn, nghiến răng chặt tới con đối thủ bự hơn nhiều ê càng phải bung mà thôi. Con dế pha đá thường cũng dữ tợn, dế không màu lửa màu than, pha giữa hai màu này ra màu ngà ngà, nâu lợt. Dế pha cu Sô khoái chẳng dế nào bằng, pha màu nó mê tơi mà. Nhưng đá dữ dội nhứt là những con dế ấp rắn, ấp bò cạp, chẳng biết có phải dế được ấp từ hai loại này nở ra hay không, nhưng cứ lật đất cày lên thấy dế nằm trong chỗ bò cạp hay chỗ có rắn là kêu vậy. Lật lên thấy rắn thì hoảng hồn bỏ chạy, chỉ khi thấy ổ trứng rắn, không có rắn mới dám bắt. Không biết Trời xui đất khiến thế nào chứ nó chưa thấy hay chưa nghe nói đứa nào bắt dế bị rắn cắn, bò cạp chích bao giờ. Một loại nữa đá hăng và dai kinh khủng, nhưng không phải từ thiên nhiên mà từ chiêu của các nhóc nhỏ, lén trộm chút rượu cho nó uống, dế say lảo đảo khỏi cần quay đá táo bạo nhưng chỉ một hai trận chứ không được lâu.

“Hú hu hú hu, hú hu hú a…” Ám hiệu gọi nhau tụ tập bằng cách chụm tay thồi như thổi tu huýt.
Vài cơn mưa đầu mùa, đêm về nghe ám hiệu đám con nít cầm đuốc sáng rực tụ đông lại, được các đàn anh dẫn tới các bàu soi ếch. Bàu qua một mùa nắng nước còn rất cạn. Có mưa, đêm xuống ếch hứng tình nhảy lên bờ tìm bạn tình rộn ràng. Gặp được bạn tình ếch bắt cặp bu lấy nhau mê đắm quên hết xung quanh, cứ vậy mà chụp bỏ giỏ. Bắt đầy cả giỏ cả thùng, về rộng trong lu bự. Bờ bàu đất trơn trượt, nhiều thằng hăng say nhảy chụp té lộn nhào, té bị ví là chụp ếch từ đây mà ra chăng(?). Cu Sô thầm cười cho là vậy. Những đêm soi ếch là màu của chờ đợi tới giờ, màu của háo hức, màu của phấn khích và vui như đi hội.
“Ộp, ộp… ộp, ộp… “. Tiếng kêu quen thuộc của ếch
“Ò…n ò…n ò…….n ênh. Ò…n ò…n ò…….n ênh…” Tiếng kêu tìm bạn tình kéo dài òn, òn rồi dứt bằng ênh, tiếng kêu vang rất xa nhưng thiệt quá não nùng, tiếng kêu của ếch òn. Ếch òn mang bụng thè lè như cái trống, da đen hoặc nâu sậm trơn láng có khoang vằn vện màu xám hay nâu lợt. Ếch òn từa tựa con ễnh ương. Rất nhiều vào giữa mùa mưa, sống trong các vũng nước đọng. Tiếng kêu của ếch trong vũng nước đọng bờ cỏ rậm rạp, rêu phong xanh lè cứ ngỡ chính vũng nước buồn phát ra và rất nhiều vào lúc chạng vạng, về đêm càng nghe não nùng, càng thê lương ở những lúc chạng vạng, những đêm mưa lâm thâm rỉ rả. Tiếng ếch òn thê lương hơn tiếng buồn của những cánh ve vào hè. Không ai soi bắt ếch òn. Nhưng những khi quá thiếu thốn ếch òn cũng bị thành món ăn như thường. Lúc này tiếng của ếch cu Sô không còn nghe vọng tình buồn nữa mà như tiếng vọng than vãn cuộc đời.

Những cơn mưa lâm râm nó nhớ những câu ca dao tục ngữ được lưu truyền trong dân gian. Nhiều câu rất đúng. Nó ghét trăng quần, “Trăng quần thì hạn, trăng tán thì mưa.” Ráng vàng đẹp nhưng, “Ráng vàng thì gió, ráng đỏ thì mưa.” Nhiều cơn gió hung tợn phá đám mây đang chuẩn bị ngưng tụ cho mưa, nhiều cơn gió vần vũ các đám mây đen cuồng cuộn như đang đánh nhau làm bầu trời chớp lóe tia lửa điện, sấm chớp rền vang, sét đánh nó sợ hút hồn. “Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng, bay vừa thì râm.” Chuồn chuồn bay cao ít hơn chuồn chuồn bay vừa và bay thấp. Từng đàn cánh mỏng bay thấp, bay rợp trời, cho tụi nó bắt chơi dễ dàng.
Một đứa nói:
“Ê, mày vò cái đuôi con chuồn chuồn đi, có chuyện hay lắm.”
“Hay sao?”
“Vò xong rồi à, ngửi mùi nó á, hay lắm.” Nói xong thằng này co giò chạy mất tăm mang theo màu hả hê. Đứa bị dụ khị ngẩn tò te:
“Trời, thằng ba trợn… mùi thúi quắc.”
Cu Sô thấy trò chơi khăm nhau vui vui nhưng cũng an ác với con chuồn chuồn. Song, có hối hận nhưng rồi sẽ tái phạm, không với con chuồn chuồn thì kiểu khác. Hối hận luôn là bạn bè song hành với nghịch ngợm vậy.
Chuồn chuồn bay thấp có khi mưa lâm râm hoài có khi mưa lớn kéo dài mấy ngày, cả tuần lễ. Mưa thúi đất, bước xuống đất nhão như bùn lún tới ống quyển. Những ngày này chẳng đi đâu được ra khỏi nhà, và thường là mùa bắp, mùa đậu phộng, ráng nhấc chân trong bùn ra sau nhà nhổ đậu bẻ bắp… đậu luột thơm, bắp nướng lăn trong dĩa nước mắm mỡ hành cho màu thơm phức sực mũi.
Về mưa, những hiện tượng cũng được kể lưu truyền trong dân gian. Cóc nghiến răng mưa sắp đổ. Đàn kiến lửa di chuyển rầm rộ báo hiệu sắp mưa. Cu Sô thích nhìn đàn kiến khệ nệ chuyển mồi bự hơn nó gấp mấy lần, nó ước mình được sức mạnh của kiến, và vui vui nghĩ mình không tệ như kiến khi năm sáu con bu quanh chuyển cục mồi mà cứ đi xà quần xà quần, rồi kiến đi ngược xuôi đụng đầu lốp cốp, nó thầm cười cho hai chữ lốp cốp, nghĩ kiến sẽ nghe vậy. Kiến di chuyển mồi là mưa lớn sắp đến rồi. Kiến mối bay đầy cũng vậy. Về đêm kiến mối thấy ánh đèn bay ào ào tới va vào hà rầm rồi rơi xuống, có con rụng cánh chết như những con thiêu thân. Nó chưa biết để lý giải điều này chỉ tiếc cho một cuộc đời. Đôi lúc nghĩ đơn giản không hẳn thích điều gì quá, lao đầu vào đó là tốt đẹp. Cu Sô mê nhứt là hiện tượng cầu vồng. Nó ngắm nhìn mãi cầu vồng cho tới khi tan mất vẫn còn tiếc nuối. Cầu vồng tổng hợp màu quá tuyệt vời. Cầu vồng cho dự đoán mưa nắng cũng tuyệt vời!
Cu Sô cũng như bạn bè khoái chí giữa mùa mưa. Khoái dầm mưa lang thang ngoài đồng bắt cua mò ốc. Mùa lúa đòng đòng thì ôm đống cần câu chẻ mỏng, ngăn ngắn gắn mồi cắm dọc bờ ruộng tha hồ bắt cá rô. Mày bông lúa rớt dạt vào bờ, cá rô mê tơi mày lúa đớp dính luôn mồi câu. Trên cọng lúa bắt những con cà cuống nướng giòn có mùi lạ hẳn với các loài châu chấu, cào cào…
Giữa mùa mưa còn món khoái khẩu là nấm. Nấm mối nấm rơm mọc lớp lớp. Nó canh nấm rất hay, không để tàn, nấm rất dễ tàn, mới sáng thấy vừa lú lên tới trưa có thể nở xòe, bở nát. Hái nấm nâng niu, cưng như trứng mỏng. Nấm dai dai xem xém thịt gà, còn ngọt hơn là đằng khác. Cũng vào lúc đói, nấm ở cây mục mọc bát ngát, bình thường thì bỏ qua, nay thấy không khác mấy nấm mối vậy là hái lấy hái để, ăn lấy ăn để để rồi chỉ chưa tới mức ngộ độc ngất xỉu, chỉ mồng mồng say quay cuồng.
Cuối mùa mưa thì tát mương tát vũng. Cá, tôm tép búng nhảy bập bùng trắng màu trong nắng…
Trắng màu trong nắng giống mưa trong nắng. Mưa ngâu mưa ngâu, lấp lánh lấp lánh những hạt mưa. Nó chỉ nhìn mưa ngâu, thấy màu đẹp chứ không thể dầm trong cơn mưa này.

Bản nhạc màu nắng rộn ràng ta soạn rất dài. Ta mới tấu áng chừng một nửa. Ta tiếp tục thôi.
Nền màu nắng tôn vẻ đẹp làng quê của cu Sô.
Một con lộ chính chạy ngang, đi tới đâu nó không rõ lắm, nghe loáng thoáng một hướng đi tới thị xã, một hường tới thành phố, tới thị xã đã xa xôi thì tới thành phố còn thăm thẳm. Còn lại các con đường vô xóm vô nhà là các con đường đất. Có con đường xe bò, đường chính vào làng và vô rừng, đường in hằng hai dấu bánh xe hai bên, chính giữa là đường mòn người đi. Ngoài những bụi tre, hàng tre, cỏ mọc hai bên đường rất nhiều, nhiều loại cỏ dại trổ bông quanh năm. Bông cúc dại khá nhiều, bông vàng bông trắng nho nhỏ cỡ đồng tiền. Bông mắt cỡ tròn tròn như viên bi, nhụy chính giữa chừng hột tiêu tia từng sợi mỏng ra ngoài, màu tím hoa cà tới tím vừa. Cũng có màu tim tím cho tới tím sậm và tím xanh là những dây leo bìm bìm, bông giống bông rau muống. Bông dây có nữa là chùm bao (nhãn lòng) lớn hơn đồng tiền một chút, cánh hoa tròn bung ra như cánh mai nhưng màu trắng, nhụy hai lớp, lớp dưới từng cọng nhỏ tia ra có khi dài hơn cánh chia làm hai phần màu, một phần gần tâm màu tím, đoạn bên ngoài trùng với màu cánh, lớp nhụy trên giống hạt mầm nằm ngang bung ra các hướng. Cây cỏ dại bồn bồn cho bông màu trắng sữa, cánh giống bông mai nhưng dày hơn, nhụy mang hình bốn năm con thỏ chụm đầu vào nhau. Cỏ bông đuôi thỏ là nhiều nhứt, bông màu trắng, màu ngà ngà, màu xanh non bên trong chuyển dần trắng bên ngoài. Và loại gần giống cỏ bông đuôi thỏ là cỏ may, cỏ may màu tía. Đến hai loại cây, cây bù xít còn có cái tên cứt heo nghe phát ớn cũng cho bông nho nhỏ chùm chùm màu tim tím, trăng trắng rất đẹp, cây mắc mèo bông y chang bông mắt cỡ chỉ màu lợt hơn tí chút.
“Hái cho em trái đó đi.” Đứa con gái kêu. Mấy thằng con trai nháo nhào tìm kiếm hái cho liền.
Trên con đường cây hoa cỏ dại còn cho trái chua ngọt, chua ngọt vẫn nghe màu ngọt ngào. Trái chùm bao già màu xanh đậm ăn chua chua, chín vàng ăn chua chua ngọt ngọt. Trái táo rừng xiu xíu bằng đầu ngón tay trên cây gai tua tủa, chín tím rịm cũng ngọt ngọt chua chua. Trái thù lù có cái vỏ bọc như cái lồng đèn, bóp vỏ nổ bốp ăn hột tròn cỡ viên bi, chỉ lờ lợ, không đủ ngọt ở bên trong…
“Vô đây, vô đây. Vô đây cho bông và trái.” Cu Sô rủ vài thằng nữa đứng giữa láng cỏ bày trò. Đám con gái hớn hở chạy ào tới, những ngọn cỏ chừng như vui hơn ve vẩy cành lá, tụi con gái càng thích, xòe tay đùa với chúng. Chợt một đứa la lên:
“Trời ơi! cỏ may… cỏ may hông hà, dính đầy quần rồi.”
“Bị dính chưởng rồi.” Hahaha, đám con trai hí ha hí hửng mặc cho những đứa con gái phụng phịu dậm chân dậm cẳng, ngồi gỡ cỏ muốn khóc mà thôi!
Con đường không chỉ cho đẹp mắt, cho ăn, còn cho… chơi khăm. Những thằng đôi khi quá hứng chí còn đùa giỡn với mắc mèo. Mắc mèo ngứa khủng khiếp, những cọng lông li ti dính chặt vào da, ngứa gãi tới tróc da và bị lan ra nữa. Cu Sô có tuyệt chiêu gỡ mắc mèo, lấy cái bánh tráng mỏng thấm nước cho mềm dẻo ịn lên chỗ có mắc mèo, bánh tráng ép sát da, giựt lên lông mắc mèo dính theo bánh.

Những vĩ bánh tráng phơi trắng như màu nắng.
Làng có vài nhà có lò tráng bánh và lò bún. Bún từng cọng xếp lại cũng trắng bóc. Tráng bánh thấm màu mồ hôi vì sức nóng của lò lửa thì làm bún là màu cực nhọc, xay bột gạo, bồng bột, giã bột quết bột cho dẻo rồi lấy hết sức ép bột dẻo đã cho vào khuôn ra từng cọng rớt xuống nồi nước sôi bên dưới. Tới ngày đói kém, thiếu gạo, bánh tráng chủ yếu bằng bột khoai mì và cả khoai lang, khoai lang không đủ dẻo để tráng bánh tráng mỏng, chỉ tráng được bánh tráng nướng, bánh tráng dày. Và bún trở thành món xa xỉ, không còn được làm nữa. Nó nhớ lắm, một tô bún trắng đẹp mắt chan với miếng nước nắm ngon, hay miếng nước nắm mêm dằm trái ớt hiểm xanh xanh, vài cọng rau húng lủi, húng quế ngắt sau ảng nước thôi, không cần thịt cá, không cần gì nữa cả là đã vừa ăn vừa híc hà cay cay ngon lành, có lúc cay ứa nước mắt. Trái ớt y chang trái ớt hiểm nhưng còn nhỏ hơn, những trái ớt nhỏ tí ti, xinh xắn càng cay và thơm hơn nữa, những trái ớt chim ỉa, không phải ớt từ bụng chim mà chim ăn ớt thải ra hột nó mọc lên giữa hoang dại, trái ớt mang tên chẳng đẹp đẽ gì lại rất ngon. Ngày trước nhà nào thích ăn ánh xèo, bánh căn, bánh canh cứ xách gạo tới nhờ xay bột bằng cối đá ở các lò. Mà không chỉ ăn một mình, hú hí năm bảy nhà xóm giềng cùng qua chung tay, đàn bà con nít cùng ăn, đàn ông lấy đó làm mồi lai rai xị rượu nấu từ gạo. Thèm thuồng bởi hết món xa xỉ, chỉ còn biết nhồi bột mì, cán mỏng xắt sợi nấu bánh canh với tí xíu bụm tôm khô không chặc lòng bàn tay cho có mùi, xì sụp húp lấy húp để. Tới hồi xắt sợi cũng mắc công, nhớ tới cái bánh quai vạt nhưng chẳng có nhưn có cốt, thôi thì vo vo tròn bột dẻo cỡ viên bi rồi đập cái bẹp cho dẹp xuống thả vào nồi nước sôi luột, với ra chan nước lèo, nước mắm mà ăn cho gọn. Bánh chẹp bẹp nói cho vui vui được khai sanh ra từ đây. Ngán khoai ngán củ quá cứ ý ới, “Qua mần chẹp bẹp, xúm mần chẹp bẹp nghen bây.” Nước mắm kho cũng thành xa xỉ luôn chứ không chỉ là nước mắm nhỉ, mắm nước nhứt nước nhì… thay thế nước mắm bằng cách pha nước với muối cho chút bột ngọt, một chút màu mà thành.

Làng Cu Sô yên ả, với nó là vậy. Cho dù đã có những điều xấu xảy ra cũng chưa đủ phá tan sự yên ả.
Ta oánh những nốt nhạc vui nhộn của của nó đều đều. Đôi khi mới rộn ràng bật lên hơn.
Những chiếc xe bò lọc cọc đi về vận chuyển đồ, tiếng cây roi dẻo quẹo nhịp nhịp, phất phầy trong gió phát ra vút vút, chéo chéo, cùng tiếng hùi hụi, lâu lâu mới oánh roi cái chóc vào lưng bò của người oánh xe không đủ phá sự yên ả. Xe chở cây chở củi từ rừng về, chở nông sản từ đồng từ rẫy. Chở nông sản xuống tận những chợ lớn ở thị xã xa xôi. Tiếng xe trâu cót két vang xa như điệu nhạc lặp đi lặp lại. Xe trâu ít đi ngang làng nên nó nghe rất vui tai, và gợi nhớ tiếng chuông. Lộc cộc nhanh hơn là tiếng xe ngựa. Con ngựa bị bịt mắt chỉ nhìn được về phía trước, cất vó đều đều gõ nhịp xuống đường kéo xe. Xe ngựa nó nghe là lúc xế chiều, buổi sáng sớm xe đi ngang thì đang còn mộng mơ làm chàng hiệp sĩ trong giấc ngủ. Lâu lâu có con ngựa chứng hay hứng chí hí vang cũng rất vui tai. Phá tan bầu không khí yên ả trong phút chốc là chiếc xe đò xình xịch chạy ngang lộ. Xe đò chở đầy hàng trong thùng, người ngồi phải co chân co ro chậc như nêm, người đứng đu phía sau không ít, vài người leo lên ngồi tận trên hàng hóa chất cao như núi trên mui, xe chở chắc gấp chục lần sức của nó, xe chạy bằng than chậm chạp bò lên dốc, lên ga hết cỡ đôi khi ù lên như bò rống, phun khói đen nghi ngút chẳng khác khói ngạ quỷ. Nhiều chiếc xe đang bon bon, đang xình xịch thì tắt lịm tiếng. Xe nằm đường lại một hai hay ba bốn ngày tùy hư ít hư nhiều và có sửa được hay không, không sửa được phải nhờ chiếc khác kéo đi. Bà con đi xe bị hư người có tiền thì sang xe tiếp tục hành trình, người rỗng túi chỉ còn biết lấy bầu trời làm nhà, lấy đất làm chiếu ngả lưng qua ngày đêm. Bà con dân làng là tình thương chia sẻ, miếng nước chén cơm, củ khoai củ sắn… Nó chưa được đi xa bằng xe xe đò, chưa biết thị xã là gì chứ nói chi thành phố. Đi học, đi chợ xin nhảy lên chiếc xe bò hay nghịch ngợm đu tòng teng phía sau hoặc cái càng bên hông, may mắn được bữa ngồi trên chiếc xe lam, chạy xe trống bác tài xế tốt bụng ngừng lại cho quá giang, xe lam ngừng cùng với cái ngoắc tay của bác tài là con nít vui như lượm được tiền, ào ào chạy lại leo lên, sướng rơn mang theo cả giác được thưởng thức chứ không chỉ là được ngồi chở đi. Xe lam chạy gần gần vòng quanh và chạy xuống thị xã. Chiếc xe lam cũng luôn chở quá sức, ì è bò lên dốc.

Chợ nhỏ cách làng hai cây số, buổi sáng lai rai người tới mua, một số ít người bán. Những chiếc xe lam và xe ngựa sáng sớm chở rau củ về thị xã, quay trở lại chở cá mắm, trưa hoặc xế buổi mới tới, nhộn nhịp họp chợ bắt đầu vào lúc này.
Chuyện chợ búa với nó rất tệ. Theo quan sát của cu Sô và nhiều người nói thì có người mát tay buôn bán, người thì không quả chẳng sai.
Một đứa bạn thấy nó còn sớ rớ ở chợ liền hỏi:
“Gần chạng vạng rồi làm gì còn đứng đây mậy?”
“Tao mới bán được có mấy bó dây khoai lang, ráng bán thêm vài bó.”
“Thôi, tránh cái bản mặt mày ra, đi chỗ khác chơi, để tao bán cho chớ hông gồng mình gánh về rồi khoai úng hết.”
Chập sau trở lại, đứa bạn đã bán dùm cho gần sạch. Lững thững trên đường về nó hỏi:
“Cái bản mặt tao kinh lắm hả?”
“Kinh lắm.” Rồi đứa bạn cười hahaha: “Nói chớ mặt mày sáng láng, không đến nỗi nào, nhưng chỉ để làm chuyện… kinh dị, chuyện trên trời dưới đất mà thôi.”
Nó gật đầu cười hahaha theo:
“Có lẽ vậy.”
Ừ, có lẽ vậy. Má nó gánh bao nhiêu bán tuốt luốt bấy nhiêu. Cu Sô chợt liên tưởng bán buôn cũng như câu cá. Nó câu cá dở tệ như bán buôn, nhiều đứa sát cá dữ dội, hai đứa ngồi câu sát rạt, cùng một loại cần cùng một loại mồi, cùng thả cùng chăm chú như nhau, nó chẳng câu được con nào, đứa kế bên thì giựt lia lịa, đổi chỗ cho nhau cũng y sì như cũ. “Mỗi con người sanh ra được giao cho mỗi bổn phận” nó nghĩ thầm trên con đường nhá nhem tối.
Nhưng cu Sô vẫn thích đi chợ. Chợ vui vui, một màu tổng hợp với nó. Nó lắng nghe màu âm thanh, nghe được nhiều âm thanh, thấy được nhiều sự việc xảy ra. Những âm thanh hỗn tạp đan xen nhưng chợ vẫn mang màu xanh tươi của rau củ, hoa trái, vẫn mang màu thanh bình. Người bán người mua ra giá trả giá, lựa từng món đồ mình thích rất nhộn nhịp. Tiếng người rộn rã nói cười, người gặp nhau hỏi thăm, người nán lại nghỉ chân trò chuyện và cả những người kể nhiều chuyện, kể hết chuyện này tới chuyện khác. Tiếng người đã chộn rộn còn thêm những tiếng khác, tiếng lụp cụp chặt cá chặt thịt, tiếng lạp cạp của những con vịt sống, lâu lâu tiếng quang quác của con gà mái và chim chíp của bầy gà con dễ thương, tiếng con heo mọi lưng võng nhỏ xíu dễ thương như đàn gà con ụt ụt xẩy lồng vừa chạy vừa ủi đất kiếm ăn… và bất chợt tiếng con gà trống bị nhốt trong bội cất tiếng gáy o o. Cu Sô cho rằng con gà đã mất khái niệm thời gian khi bị xà quần trong không gian nhỏ bé.
Rồi chợ bị mất màu thanh bình, vui nhộn.
Màu của âm thanh nhói tai, sự việc buốt óc đập vào đầu nó. Màu hâm he, huênh hoang, hống hách, dịch vật toát ra từ các cán bộ thuế vụ. Những gương mặt sắt chì lạnh tanh lùng sục tìm kiếm hàng lậu bắt bớ. Hàng lậu, hàng cấm chăng? không, không ai mua bán hàng cấm gì cả, chỉ vượt quá qui định cho phép, chỉ được mua bán nhỏ lẻ dăm ba ký, dăm ba mớ… Màu bán buôn không còn chữ buôn, buôn thuộc thành phần tư sản, tiểu tư sản, phải triệt thoái. Thậm chí chữ mua bán cũng không phải là chữ hay ho, nên cần phải sử dụng cụm từ “trao đổi hàng hóa.” Những cái mẹc lên ngôi, được hiên ngang phơi bày đựng dăm ba ký. Dăm ba ký không đủ đắp đổi tiền xe, cho giá xăng dầu của xe đã thuộc màu xa xỉ. Những cái thúng đựng hàng được chế thành hai ba lường như chiếc ghe lường ngày trước che dấu chở đồ tiếp tế cho cán bộ. Qua mắt được chăng? có dễ sao, vài chuyến thì bị phát hiện, chuyện ngày xưa cán bộ đã quá rành rẽ đây mà. Thúng mũng được chuyển hướng cất dấu lùm cây bụi cỏ, cất dấu dưới những cái hố đào đó đây và ngụy trang lên trên đó. Âm thanh hỗn tạp lên đỉnh điểm những lúc xe hàng vừa tấp vô chợ, tin tức cán bộ đang tới, cảnh tượng nháo nhào xảy ra, những gương mặt lo âu, sợ hãi í ới dỡ hàng bưng bưng gánh gánh chạy như bị ma đuổi, bưng gánh nặng vượt khả năng khệ nệ chạy ì ạch, lạch chạch như những con vịt xiêm to xác, sức mạnh bỗng chốc chẳng khác dọn đồ nhà cháy. Và náo loạn, người người dàn cảnh chặn trước chặn sau, chặn ngang chặc dọc, bao quanh cán bộ, níu kéo đưa tiền nộp thuế, giả tảng hỏi điều này điều kia…
Âm thanh nhói tai nữa mang màu ca thán. Ca thán khan hiếm hàng, giá cả cóc nhảy, nhảy vọt liên miên. Ca thán nhiều người sanh tật, nán lại nhiều chuyện, không phải những câu chuyện tốt đẹp nữa mà thay bằng những câu chuyện đàm tiếu, bêu xấu sau lưng lẫn nhau, nghi kỵ lẫn nhau. Những câu chuyện trong ngóc ngách của nhà người khác. Nghe đâu một chút mùi thơm của hành mỡ ở nhà nào đó bay ra là thêu dệt thành bữa tiệc, con gà con vịt đã lên mâm, cao lương mỹ vị đầy ắp ích kỷ cho riêng nhà mình. Đến màu của cái đũn quần sạch hay dơ cũng không thoát được. Và điều tồi tệ hơn, màu tồi tệ hơn cả tồi tệ đã hình thành, nạn cãi vã, oánh nhau, thù oán được sanh ra từ gian lận, dối trá, lừa lọc…
Màu của bè phái, phe nhóm, màu của lăm le dè chừng, nghi kỵ, đối phó nhau bắt đầu hiện hình. Tiếng chuông đã tắt thường nhựt, tiếng tâm xà chợ búa lại lan xa, lây lan như bịnh truyền nhiễm.

Ngược chiều gió với tiếng lan tâm xà chợ búa, tiếng búa gõ nhỏ dần nhỏ dần và ít dần ít dần theo thời gian về sau, tiếng búa tạ ngày nào thoải mái quai cong gió trời, quai cong không khí nay không còn nữa, đúng hơn là không dám quai nữa, hai tiếng búa ở nhà bác lò rèn.
Lò rèn rất lớn một thuở luôn đỏ rực lửa, ba bốn người mình trần trùng trục, cơ bắp cuồn cuộn tất bật công việc có khi đến giữa khuya. Cái lò đã tắt lịm, hai ống thụt thổi lửa cao, hai lá phổi của lò rèn ngưng thở, bị xỉ than đen xì bay lên bám đầy, trên trần cũng đầy xỉ đen và mạng nhện. Màu buồn u ám khô khốc quanh lò, hơn nữa có màu im ắng đến lạ thường, không phải màu hiu quạnh, không phải màu cô liu, không phải màu bị bỏ rơi, những nhát búa là con tim của lò rèn bị buộc phải ngừng đập, lò rèn mang thêm màu tức tưởi trong đó, cứ văng vẳng hoài tiếng đập bon bon giòn giã trong thinh không, một thuở rộn rịp nay im ắng lạ thường không có gì khó hiểu. Bác lò rèn dời cái đe nhỏ ra cái chòi sau nhà, tấn vài cục gạch lửa giữ mớ than hồng, dùng cái quạt đan bằng lá buông (lá chằm nón, chằm áo tơi), và tiếng búa cầm tay vừa nín thở vừa gõ không đủ phá tan màu im ắng của lò rèn cũ phía trước nhà.
Màu sợ sệt bao trùm.
Cu Sô nhác thấy một bác bước đi với dáng vẻ e dè, cảm giác mang tội lỗi trong mình, canh cánh sợ bị tra xét. Một bác đạp xe ngang hỏi:
“Ấy dà, anh đi đâu mà cứ dáo dát, ngó trước ngó sau vậy?”
Bác thở dài, đáp:
“Tới anh thợ rèn anh ơi, ngại gặp cán bộ lắm.”
“À, tui hiểu rồi.”
Thực sự thì tới nhà bác lò rèn không phải là nỗi sợ chính. Công cụ để làm nông gồm cày bừa, cuốc cào… được đổi tên là tư liệu sản xuất, phân phát về cho bà con, nhưng giống như đồ kiểng, nay gãy đai, mai sứt mẻ chẻ lưỡi, nộp lại chờ mỏi mòn chưa biết chừng nào được cấp phát lại, chuyện rành rành trước mặt, bà con đành phải đến nhờ bác lò rèn sửa lại, đâu có gì sai. Nhưng nhờ cớ vậy để đến đặt bác làm cái cuốc, cái rựa, cái rìu… để làm rừng làm rẫy thì nhiều hơn. Nỗi sợ một phần từ đây, làm rừng làm rẫy bất hợp pháp, màu lén lút trốn chui trốn nhũi hòa trong màu rừng xanh thẳm và sâu, rừng thiên nước độc. Một phần nữa là nỗi ám ảnh. Ám ảnh những cán bộ, những du kích, những xã đội, những công an đeo trên cánh tay cái băng đỏ, vắt trên vai khẩu súng dài hay bên hông khẩu súng ngắn rất hiên ngang, quyền uy quá lớn dần dần hiên ngang vượt ngưỡng trở nên kênh kiệu, chiếc băng đỏ trở thành cái nhãn hiệu cầu chứng, họ muốn xâm nhập tư gia kiểm tra nhân khẩu, kiểm tra hàng hóa… muốn chặn ngoài đường kiểm tra thân nhân bất kể lúc nào, bất kể đêm ngày mà chẳng cần một tờ công lịnh, thậm chí chỉ cần nghi ngờ một việc gì thì có thể bắt tống giam, bắt đi biền biệt, phản kháng làm sao với họng súng chỉa ngay vào người đã sẵn sàng lên đạn. Không tội tình gì được trả về cứ về thôi chứ không giải thích lý do, đừng mơ một lời giải thích thì càng không mơ lời xin lỗi. Những gương mặt cán bộ là những gương mặt hất hất lên bầu trời với đôi mắt nhiu nhiu nhìn đời bằng nghe ngóng và toát ra màu hãnh tiến phủ bạo lực. Trụ sở xã phủ đầy màu sắc lộng quyền, tinh tướng.

Anh thanh niên ở xóm dưới cạnh làng là nạn nhân đau xót.
Một khuya tối trời ở nhà hai mẹ con một bà góa con côi. Đứa con nằm ngủ bên cửa sổ để trống bỗng hét lên thất thanh rồi ôm bụng khóc thét, nó bị đâm một nhát chí mạng. Sau này nó kể lại nghe người đâm nói, “Chết cha lộn rồi”, song phóng chạy mất, nó không thể biết được là ai. Nó được đưa ra trạm xá. Sau khi sơ cứu, làm những thủ tục phiền hà và kiếm xe cộ, chuyển viện tới bịnh viện tỉnh mất cả ngày hôm sau. Ở bịnh viện tỉnh được chuẩn đoán bị lủng ruột, điều trị mất ngày thì vết thương hoại tử, được chuyển tiếp vào Sài Gòn, được lắp cái bịch lòng thòng bên ngoài, không tự điều tiết được đường thải. Sau đó mổ đi mổ lại mấy lần, mất chừng hai năm trời mới nối lại ruột.
Lúc bà con tới đưa đi cấp cứu thì có người thấy có một ông cán bộ xã cũng chạy từ đây ra. Đã từ lâu có lời xầm xì ông cán bộ này tò te tú tí bà má. Và bà cũng lẳng lơ với khá nhiều đàn ông. Lời đồn đoán rằng có người ghen tuông, cũng có lời cho rằng có người muốn tranh chức nên mới triệt hạ. Người nhắm tới để triệt hạ là ông cán bộ này.
Một tuần sau ngày xảy ra sự vụ, anh thanh niên đang cùng bà con làm đồng, một toán gồm xã đội và công an xã tới mời anh về xã làm việc. Nói là mời chứ thực chất là bẻ quặt hai tay ra sau lưng lấy dây mũi bò (dây thừng) trói lại dẫn đi không lời giải thích. Bà con lại có thêm tin đồn rằng anh là thủ phạm. Nhưng đa số đều không thể tin. Một thanh niên hiền khô, mới tới ở hai tháng trong ngôi nhà người bà con đã bỏ đi, không hiềm khích với một ai, thì khó có thể là hung thủ. Anh bị đưa đi đâu không rõ. Rồi sáu tháng sau anh được cho trở về nhưng người nghễnh nghễnh ngãng ngãng, hỏi gì anh cũng lắc đầu không đáp trả một lời nào. Chừng vài tháng nữa thì anh bỏ đi bặc tăm. Sau này có người thấy anh đã bị điên khùng, lang thang đầu đường xó chợ tận thị xã. Lan tiếp lời đồn rằng anh bị uýnh khi bị bắt, người nói anh bị chích thuốc để khai. Tất cả chỉ cũng chỉ là lời truyền miệng, không một chứng cứ. Vụ án dần chìm vào quên lãng.

Làng có đám cưới. Mệt mỏi với viễn cảnh trước mắt không biết ra sao nên không hào hứng rầm rầm rộ rộ như trước đây nhưng chuyện một đời người của con cái nên cũng ráng hết sức. Gia chủ vay mượn bà con lối xóm và cả sự giúp đỡ khi tối lửa tắt đèn có nhau, đám cưới cũng có con heo, bầy gà, bầy vịt… Nấu rượu bằng nếp than thơm lừng chôn cất dưới đất trước nửa năm. Cùng xúm xít đựng rạp trước nhà cách hai ba bữa là của cánh đàn ông. Đàn bà con gái xúm phụ nấu ăn.
Một chú đi rừng chặt mớ lá buông về che hông cái chái. Nhớ nhớ hồi trước chú nãy ý kết lá thành cái đầm xòe cho đứa con gái nhỏ. Cho nó mặc dẫn đi đám cưới lạ lạ vui vui. Lá buông mới chặt còn xanh non, mướt mát kết thành đầm xòe rất đẹp. Con bé lên sân khấu múa hát rất hay, ai ai cũng thích thú. Nó được xin cho ở lại cả ngày và buổi tối đãi bạn bè cô dâu, mở màng cho văn nghệ văn gừng, đúng là có cây nhà lá vườn, đám cưới đỡ buồn chán.
Ngay bữa sau thì chú được mời lên xã. Bị cán bộ gán cho việc bôi bác chế độ, cho rằng nhà nước không có nổi tấm vải để con nít phải mặc quần lá. Và ăn mặc không ra thể thống gì, xòe xòe ra, khoe giò khoe cẳng, tư tưởng sao mà suy đồi quá. Chú phải viết đi viết lại cả chục tờ kiểm điểm nhận lỗi mới được buông tha, chứ không thì có thể lắm bị bắt nhốt hoặc cho lao động nếu dám cãi lại.

Sự tinh tướng đôi khi bị trả giá.
Nặng nhứt là xã có một lần bị bộ đội bao vây, nhưng rất may chưa có tiếng súng nổ như con bò bị bắn lủng đầu.
Cũng bên vệ đường, một buổi tối trăng sáng mờ mờ vắng gió, nóng nực, ba anh bạn ngồi trò chuyện. Một anh từ chiến trường Campuchia nghỉ phép ghé thăm một anh đã là thương binh cũng từ chiến trướng này trở về, và một anh bạn học. Câu chuyện xoay quanh ở chiến trường khốc liệt, đau đớn những người đồng đội cũ người còn người thương vong… rồi tới sự học hành. Anh bạn ở nhà tuy học giỏi nhưng thuộc con nhà chế độ cũ nên tới đại học phải dừng bước. Bực dọc chồng chất bực dọc nên có những tiếng ca thán, chửi thề chen ngang câu chuyện. Thế rồi những lời này bay vào tai của anh công an xã đạp xe đi ngang. Không cần biết ất giáp ra sao, anh cho rằng chửi mình. Vậy là về huy động ngay bốn năm người nữa ào tới, ba người người thị bị còng tay, người bị trói gô dẫn giải về trụ sở cho ăn bạt tai và nhốt lại.
Người làng chạy lên huyện đội báo tin. Chừng ba tiếng sau, mặt dù buổi tối nhưng chỉ huy huy động liền hai chiếc GMC (xe quân đội của Mỹ, còn gọi xe nhà binh) chở năm sáu chục bộ đội đầy đủ súng ống rầm rập kéo tới bao vây. Người chỉ huy gằn giọng:
“Hai trong ba người này là người của tôi. Một từ chiến trường trở về mang thương tật, một về phép chuẩn bị lại ra trận. Họ thăm bạn bè, trò chuyện về sự khó khăn của bạn mình. Các anh ngồi mát, không lo cho dân cho nước, chỉ biết rình mò, quy chụp chụp mũ là giỏi. Nghe loáng thoáng là nghĩ bôi xấu mình, tại các anh thực chất xấu vậy mới sợ chứ quang minh chính đại thì sợ ai, sợ ai nói xấu mình. Các anh ỷ có thế lực có vũ khí làm đủ chuyện xằng bậy…”
Thay cho sự tinh tướng ban đầu là sự hèn nhát. Các cán bộ mặt mày xám ngoét phải năn nỉ ỉ ôi gần như lạy lục và hứa hẹn đền đáp mới được bỏ qua, không đưa ra kỷ luật.

LÊ ĐẮC HOÀNG HỰU

ĐI VỀ PHÍA CON NGƯỜI: KÝ ỨC SẮC MÀU ( truyện dài)

ledachoanghuu

Những ngày Cu Sô thức dậy sớm, bầu trời nền màu đỏ, có khi đỏ rực. Nó lâng lâng nhưng chỉ được khoảng khắc thôi, muốn cũng không níu kéo được. Nó muốn thấy hoài khoảng khắc này nhưng không thể, giấc ngủ ru nó mạnh hơn màu đỏ nền trời kêu gọi thức dậy. Có lúc nó chực chờ một con chim bay trong nền đỏ như nó đã thấy đâu đó trong sách vở cánh hải âu bay ngang mặt trời. Và chưa bao giờ được toại nguyện. Làng quê nó không có biển. Nó chỉ còn cách ước, một ngày nào đó gặp được màu biển và nền đỏ có cánh hải âu.
Điều ước là điều ước, có khi thành hiện thực có khi không. Ta chưa bao giờ tấu được khúc nhạc rộn ràng mang màu đỏ nền bầu trời có cánh hải âu cho cu Sô. Tấu được khúc nhạc mênh mang mênh mang điều này thì rất lâu về sau.

Màu nắng làm nền cho đồi núi xa xa, xa xa nhấp nhô màu xanh xám, chỉ có vậy. Ở gần gần là dòng suối réo rắc chảy qua làng có hàng tre, hàng cỏ lau, bờ cỏ ở hai bên bờ và ngôi làng thân thương.

Dòng suối nhỏ. Khúc suối gần chỗ bìa rừng, những hòn đá lục cục lòn hòn sắp lớp chắn ngang dòng với một khoảng chiều dài khá dài và dốc tạo nên tiếng réo rắc. Nước trong khi dòng nước cạn, càng trong vắt ở những chỗ chỉ có đá cuội, sỏi và cát, nước chỗ này mát lạnh. Nước chủ yếu là cạn dòng. Có cá để câu chứ không nhiều. Ngày trước thì nhiều vô kể, cá hàng đàn lũ lượt bơi lên bơi xuống, nhứt là hức nước những cây mưa đầu mùa, hức nước bơi ngược lên nguồn, đàn cá mòi hức nước dữ dội hết thảy trong các đàn cá. Cá nhiều, bầy nhóc con có thể vớt được nhưng chẳng bao giờ làm, chờ chỗ mát lạnh có cá ngắm nhìn để bình phẩm cá xấu đẹp mà thôi. Những đàn cá chép cá mè cá trám cỏ bơi ngời ngời rất bình thường, cá rô ít hơn, cá trê cá lóc cá lăng lặng sâu và nép mình trong bờ trong hóc khó thấy, lâu lâu có cá chình giống con lươn, và lâu lâu hơn nữa có vài con cá sặc sỡ sắc màu, tụi nó không biết phải kêu là gì nên kêu cá màu. Có khi lội dưới dòng suối bị đỉa bu hút máu. Nhiều người săn bắt cá, bắt lươn thiện nghệ không kém thợ săn thú rừng, săn bắt bằng cây xiên nhọn, lao xuống nước khi trồi lên là cá đã nằm trong xiên hay còn bằng cách chém dao… đi câu, cắm câu, đặt lờ đặt lợp, đặt sa, đặt vó, đăng đó… có cá là chuyện thường tình, không có gì đáng kể.
Bấy giờ thì, khánh kiệt người ta tận bắt cho cuộc mưu sinh, cá cạn dần, còn lại món quà của thiên nhiên ban tặng cuộc sống mà chưa bị ai làm khó dễ. Rồi khánh kiệt trên dòng suối càng khánh kiệt, không còn câu cá, lưới cá, đặt lờ chụp nôm, đăng đó… bình thường nữa, đã nghĩ ra cách bắt cho được mau lẹ và nhiều, bắt bằng xuyệt điện, dòng diện đi tới đâu dưới nước cá nổi chết trắng hết sạch tới đó từ cá lớn cho tới cá nhỏ, kể cả thức ăn cho cá dưới dòng cũng chết queo. Dòng suối không thể tái sinh kịp thời cho mưu toan của con người. Ở dòng sưối này chưa bị thả thuốc nổ, có lẽ suối nhỏ. Trong các sông hay hồ lớn, những trái mìn, những trái lựu đạn dội xuống, cột nước tung bốc cao hạ xuống là nguyên một vùng rộng lớn bị hủy diệt. Đã có người sơ xuất bị cụt tay cụt chân, thương tật đầy mình từ vụ đánh cá bằng thuốc nổ này.
Nước lên dòng là từ những cơn mưa. Mưa đổ xuống có nước lên dòng ngay và đục ngầu sôi sục, những con nước hỗn. Những cơn mưa lớn nước hỗn tràn cả lên bờ, nước chảy ầm ầm, giống như nước lũ, cuốn trôi ào ào bất cứ thứ gì cản đường nước chảy, trụ vững chỉ còn lại những hàng tre trơ gốc, nước vẫn xoáy ọc ọc vào trong hóc. Xác lá, cành cây khô cây mục tấp đầy thân những bụi tre. Rất ít cây cối trụ lại được hai bên bờ này, những cây đứng vững phải có rễ cọc, rễ lan xa và cắm sâu xuống đất. Nước hỗn chảy xô dạt cỏ hai bên bờ nằm rạp sát đất, hết con nước cỏ từ từ ngóc đầu dậy, xanh um đùa giỡn với gió. Nó thấy màu của cuộc hỗn mang này chưa chắc mạnh là thắng, sức chịu đựng đã thắng.

Cu Sô mê mẩn những lũy tre.
Ta đệm thêm tiếng sáo trúc vui nhộn bên tiếng nhạc rộn ràng!
Tre không chỉ có bên bờ suối, tre còn có trên những con đường làng và đó đây vườn nhà một vài bụi.
Tre tuy gai góc nhưng dọn sạch thì cho chỗ có bóng mát rất mát mẻ. Bên bờ suối thì khỏi nói, cùng con nước mát nên ở đây mát rười rượi. Con đường cũng mát và mát rười rượi khi tre ve vẫy đong đưa. Màu tre màu mát rười rượi, nó thích nói vậy khi vẫn biết một phần là nhờ những cơn gió và dù màu tre xanh rì. Thân tre hữu ích quá chừng. Tre làm nhà, làm chòi trên nương rẫy, tre làm cầu bắt qua suối cho tụi nó ngồi đong đưa như ngồi trên võng, và làm hầu hết các vật dụng gia đình, làm chõng, vạt giường, bàn ghế, kệ bếp, sóng chén, đũa ăn, tre chẻ nan đan bồ đan ví đan vĩ, mê bồ, cối xay lúa, phênh cót, nông nia, giừng sàng, thúng mủng, cần xé, rổ sịa, bội gà (lồng gà), lồng heo… nan được chẻ nhỏ mịn đan cái rổ rá, cái lồng bàn và những tấm mành sáo rất đẹp. Lúc còn được phép xa xỉ tre còn được làm chuông gió, những cái đèn mỹ nghệ, đèn lồng… À, tới cây tăm bé nhỏ cũng từ tre mà ra.
Nó đặc biệt khoái hai thứ làm từ tre. Cái ống thổi lửa sánh màu nâu vàng láng cóng và cái ông thụt.
Ống thổi lửa vù vù rất vui, thằng con nít nào không khoái thổi lửa vù vù và cái bếp chứ, dù đôi khi bị làn khói làm cay xè chảy nước mắt! Chắc chắc rằng rất ít thằng thích nấu nướng, nấu cơm canh, canh nồi cá má đã ướp tẩm nêm mếm, nấu những nồi cháu heo sục sệt… vì lười biếng. Nhưng ở đó, ở cái xó bếp thôi có lửa đỏ hồng, lửa hồng lùi nướng củ khoai, trái bắp, lửa hồng nướng con cào cào châu chấu bắt được ngoài đồng, lửa hồng nung những viên bi đất sét để bắn và làm đạn cho cái dàn thun, hơn nữa cái bếp còn cho… ăn vụng, hehehe thằng nào dễ chống lại, dám nói chưa một lần ăn vụng, rồi những lúc đói rã ruột nhào xuống bếp lục cơm nguội, nồi niêu sạch trơn phải bưng cái ấm ám khói đen xì kê miệng vào vòi mà hút một hơi, no nước đỡ hơn màu bụng trống hoác, màu lỏng bỏng không khí ảo màu. Bếp đỏ lửa hồng còn cho hơi ấm để sưởi mỗi khi dầm mình trong mưa mạnh buốt, những ngày giá lạnh bất chợt trước tết.
Và cái ống thụt, là võ khí chia quân nhau oánh trận giả, bắn nổ lốp bốp bởi những viên đạn hột rau muống hay trái cò ke còn non hái ở bìa rừng. Trái cò ke chín tím màu hái ăn chua chua ngọt ngọt ngon lành.
Những mụt măng tươi từ tre, măng nhiều phơi khô làm nhiều món ngon lành.
Cây tre xanh tươi quanh năm, mùa nắng có ít xanh chút đi cũng ít phân biệt bởi ít người để ý kỹ. Màu xanh như một điều hiển nhiên ở những bụi tre. Giống như trong gia đình, sự biến chuyển nhỏ hiếm khi nhận thấy, con cái lớn lên từng ngày, cha mẹ bạc tóc âm thầm… Không có gì là vĩnh cửu. Cây tre cũng tới lúc lụi tàn, màu vàng sạm khô cháy chết chóc sẽ thay thế cho màu xanh. Nhưng có điều cây tre đang còn sức sống bỗng vàng hoe lá và ra bông kết trái, có khi kết thúc một đời của nó có khi không, sẽ trở lại xanh tươi sau đó là tre cho một dự báo, một dự báo khó sai, một mùa nắng hạn cực kỳ sẽ đến. Lúc này cũng chẳng ai để ý tới những bụi tre này, không sao cả, tre cứ úa và cứ cho bông trái. Nắng hạn kéo dài, cái đói tới, những hàng tre phe phẩy lá gọi mời mới phát hiện bông tre rụng đầy hột dưới gốc, hột giống hột gạo, ăn dĩ nhiên chẳng bằng nhưng đỡ đần qua cơn bĩ cực biết bao. Cây tre cùng họ với lúa mà, cu Sô thầm nghĩ, “Tre là người khổng lồ tốt bụng trong các câu chyện cổ tích, ra tay giúp người khi những người bà con tí hon không đủ sức gánh nữa”, mỉm cười vui với ý nghĩ này và lẽ dương nhiên nó cũng ước ao mình là chàng hiệp sĩ khổng lồ ra tay giúp người.

Màu nắng hạn là màu của úa tàn, khô héo. Màu của sự thống khổ ngự trị. Nắng như đổ lửa trên cánh đồng, trên mái nhà, làng quê. Những cơn mưa lười biếng không tới thì những cơn gió cũng không khá hơn. Có những lúc cầu mong chỉ là ngọn gió hiu hiu lười biếng nhứt thì lại nhận được cơn gió lam chướng. Gió lam chướng mang màu oi hốc oi hanh, nắng hạn đã mang đến đủ màu của than vãn, lo âu, mệt mỏi thì bị nhận thêm sự thất vọng. Nhiều cái lắc đầu não nề, “Tại sao xưa nay hiếm xảy ra, nay mang tội tình gì mà cứ bị liên tiếp?” không có câu trả lời.
Ta không tấu nổi khúc nhạc rộn ràng. Con nít cũng vương cái lo âu.
Nắng hạn sau một vài cơn mưa đầu mùa càng thê thảm. Cánh đồng hừng hực những làn hơi bốc lên tạo thành ảo ảnh những cơn sóng nước theo chiều thẳng đứng, lúa non chết cháy, lớp đất sình trên mặt khô quánh lại rồi nức nẻ ra từng mảng nhỏ, từng mảng nhỏ co lại cong vòng lên như cái chảo nho nhỏ, bước chân lên đất dòm rụm bể lôm rốp, nát tan tành. Đến cỏ chỉ là loại chịu nắng cực kỳ cũng khô cháy thì bắp đậu, cây trái chết đứng ở nương rẫy không có gì lạ.
Màu nắng hạn đi kèm màu khát.
Con suối nước quanh năm cạn khô dòng. Giếng nước trơ đáy. Giếng bình thường sâu năm bảy thước có nước đủ xài thì phải đào thêm ba bốn thước nữa, nước cũng hiếm hoi. Đau buồn hơn, đào sâu có nước thì ra dòng nước lợ, nước nhiễm mặn chỉ dành cho nước xài, không thể nấu không thể uống được. Người làng túa đi xuống cánh đồng bưng xa xôi, những giếng nước nơi vùng trũng hơn còn mang màu ẩm thấp, còn rỉ mạch, cũng chỉ là mạch nhỉ như người ta làm nước mắm nhỉ, nước nhỉ ra bao nhiêu là vét múc cạn bấy nhiêu, chắt tới từng giọt cuối cùng. Chắt nước sắp hàng đôi thùng lấy số thứ tự rồng rắn dài dằng dặc, thức khuya dậy sớm với hai hai chữ chắt nước mệt nhoài.
Nắng hạn con nít tụi nó hát đồng dao cầu mong:
Lạy Trời mưa xuống
Lấy nước con uống
Lấy ruộng con cày
Lấy đầy bát cơm
Lấy rơm đun bếp
Lấy nếp nấu xôi
Lấy chổi quét nhà
Lấy cà muối mắm…
Nhưng lạ thay cũng như tiếng chuông, bài đồng dao cũng bị cấm đoán bởi mang màu xin xỏ. Át tiếng đồng dao, cán bộ, thầy cô bắt phải học thuộc lòng trong sách và phải nhớ:
Ngày xưa hạn hán cầu Trời,
Ngày nay hạn hán thì người trị ngay.
Trị đêm rồi lại trị ngày,
Cho tên giặc hạn biết tay của người.
Vừa làm vừa thách cả Trời ,
Có muốn tắm mát thì mời xuống đây.
Nước kia ở dưới đất nầy,
Đào sâu vét kỹ nước đầy mương ao.
Thách trời cứ hạn nữa nào,
Đồng ta đủ nước hoa màu vẫn xanh.
Chiều chiều nghe tiếng phát thanh,
Người chăm thủy lợi Trời đành chịu thua.
(Trời đành chịu thua)
Con nít phải ra rả để thuộc lòng. Ra rả bao nhiêu thì hạn vẫn hạn. Chắt nước vẫn chắt nước. Không chỉ “Trời đành chịu thua”, thêm nhiều bài na ná như vậy nữa, nên ông Thầy lại lắc đầu ngao ngán: “Nhân văn vô hạnh”. Từ ngữ này vượt quá giới hạn hiểu biết của nó, mang máng giữ trong đầu rằng đó là màu của ngòi bút vô đạo, ngòi bút tinh tướng, ngòi bút làm theo sự sai khiến của tinh tướng…
Màu nắng hạn đi kèm màu đói.
Con cò bay lả bay la
Bay từ cửa phủ bay ra cánh đồng
Bây giờ nhường cho:
Con người đói lả đói la
Đói từ nhà cửa đói trơ cánh đồng
Một màu in sâu trong tâm trí cu Sô, nó muốn loại bỏ mà không được. Nó thấy tội lỗi, không phải đã gây tội lỗi thì muốn loại bỏ, nó chấp nhập hình phạt, hay cố làm điều tốt để thay hình phạt, chỉ vì quá xấu hổ mà thôi. Không loại bỏ được, nó muốn giấu kín trong lòng, giữ chặt riêng cho mình dù có bị trừng phạt như thế nào nhưng rất khó, dằn vặt mãi không thôi. Cuối cùng nó buột phải thổ lộ. Đó là cu Sô gắn liền với nồi cháo heo nên rất rành rẽ, nấu nước với đầu và ruột cá, một nắm muối hột sôi lên rồi từ từ cho cám vô quậy đều không để cám bón cục, cám sền sệt cho tiếp bó dây khoai lang xắt nhỏ, nấu một chập nữa cho nhừ là xong. Đổ cháo heo trộn với thân cây chuối bằm vào máng, heo táp bầm bập tới tấp. Nấu cháo và cho ăn, tắm táp heo với nó là cực hình. Mùi cứt heo thum thủm cùng với nước nên nhão nhẹt, nó chẳng ưa vẽ màu này, thì xắt cây chuối bằng dao phay lưỡi dài bén ngót nó rất thích, nó luôn cố xắt thành từng khoanh tròn sao cho còn nguyên vẹn, dù sau đó cũng phải bằm nhuyễn, chồng từng lớp khoanh tròn này rồi xắt nhỏ tiếp vẫn thấy hay hay, sướng con mắt, tuy có hơi khó, thân cây chuối xếp lớp từng bẹ dễ rớt rời ra. Ghét công việc này nhưng cuối cùng nó và heo cũng gắn bó với nhau, heo lớn nhanh vùn vụt dành cho ngày tết. Nghe tới giết heo ăn tết nơi cổ nó nghèn nghẹn, làm sao nuốt nổi thịt con heo mà mình từng gắn bó, cả nhà nó cũng vậy. Heo phải đem đi đổi thịt chứ chẳng thể giết tại nhà. Ngày người ta tới bắt heo cu Sô cay cay lòng mắt, bỏ chạy ra đồng chứ không dám chứng kiến. Ấy vậy mà, ấy vậy mà cái đói khiến nó bất chấp, nó nhẫn tâm ăn miếng thịt con chó nó cưng gấp bội con heo, con chó khôn chưa bao giờ thấy có con nào khôn như vậy bao giờ. Con chó bị xe cán, không bị xẻ xác tại nhà, nhưng nó biết chắc đó là thịt con chó. Con chó nhỏ cũng rất khôn bị chết, ngày chưa gặp phải nạn đói, được nhỏ nước mắt của nó và đào huyệt đắp mộ chôn cất đàng hoàng sau vườn, đôi khi nó còn nhớ thắp vài nén nhang cho con chó nhỏ. Bi thương số phận con chó lớn!
Một con chó bị đập chết kinh khủng hơn, nhưng lần này không phải xảy ra với cu Sô.
Một buổi chập choạng tối trời nóng bức, vài người lớn ra ngoài lộ lai rai xị đế tìm kiếm ngọn gió mát. Xương con cá khô được quăng ra, một con chó lạ khụy mình, cụp đuôi, nước dãi nhỏ ra bên mép nhích nhích lại sát ngoạm xương rồi bị nghi là con chó dại. Một số người lượm vài cục đá ném con chó, một số người tìm cây ven đường… con chó đứng dậy quay đầu bỏ chạy. Lúc này tất cả có cây hay tay không đều cùng dí theo. Vừa rượt vừa la, “Chó dại, chó dại”. Con chó đã cong đuôi lên nhưng nước dãi thì càng chảy nhiều cùng với cái lưỡi le dài, không ai để ý đuôi nó nữa. Nghe kêu chó dại ai cũng sợ, gặp gì cầm thủ nấy, gậy gộc, cuốc xuổng mà chặn đánh. Con chó bị chặn đầu này, quay chạy đầu khác, sức đã yếu nó vẫn cố chạy nên vẫn còn nhanh. Nhưng chạy một hồi lòng vòng chỗ nào cũng bị la bị chặn. Bí lối, nó bị đập mất cái chết tươi.
Con chó không phải của người làng, cũng chưa biểu hiện rõ là chó hoang dại, chó dại thấy người muốn nhào nhào vô cắn liền, nhưng không ai ái ngại bởi rất sợ khi nghe hai từ chó dại này. Làng dưới và xã khác đã có mấy người bị chó dại cắn đã chết. Khi người bị cắn trước chết, người bị sau sợ, đi tận vào Sài Gòn chícnh ngừa nhưng cũng bị trễ, không qua khỏi. Chó dại cắn nhiều chuyện ly kỳ trong dân gian. Phải kiêng cữ nhiều thứ, tránh đạp cứt gà sáp, tránh gặp đám tang… Rồi thường đúng ba tháng mười ngày là lên cơn dại, lên cơn người biến giống y chó dại, tru tréo và nhào cắn không khác gì, rồi từ từ kiệt sức mà chết. Lại có khi năm, mười năm sau hoặc lâu hơn mới phát bịnh. Và những bài thuốc bí truyền dân gian nữa, rất bí hiểm…
Đập con chó xong, có người nói:
“Đem xa xa mà chôn.”
Rồi một chú giọng miền ngoài phẩy tay:
“Ôi giời, chôn gì mà chôn, để tôi thịt.”
Vài người khác trợn mắt:
“Muốn dại hả, mấy người bỏ mạng rồi chưa thấy sao?”
“Chưa thấy quan tài chưa đổ lệ.”
Chú kêu làm thịt nói tiếp:
“Lệ gì mà lệ, thịt đi, dại tất cả là do mật mà ra thôi, cứ bỏ mật là xong, thịt chẳng hề gì. Để tôi thịt cho, ai ăn thì chia nhá.”
Một số người lắc đầu đi về. Một số lần lữa đứng coi làm, sau đó nghe mùi thui thơm bốc lên không cầm lòng, người lấy miếng nhỏ, người lấy miếng to, hỏi cách làm sao cho ngon. Và được chỉ:
“Các bác các anh làm các món đơn giản và nhanh nhá, thịt luột, nướng, xáo măng, rau thì riềng sả, lá mơ… Tôi cho mỗi người một ít mắm tôm mà dùng. Tôi làm thêm dồi luột với lòng ai chờ được thì ở lại nhấm nhé”.
Một người ở lại phụ làm, nói:
“Kỹ kỹ chút ông ơi, dơ quá.”
Chú này vẫn cười:
“Ối giời, trâu bò mấy khi tắm, bẩn thế vẫn sống nhăn răng. bẩn bẩn thế đôi khi lại sống lâu ấy chứ.”
Thêm vài người lắc đầu bỏ đi nhưng cũng kha khá người ở lại cùng ăn và khề khà nhâm nhi chai rượu đang dở dang.
Nhóm người ăn thịt chó nghi dại bỏ mật không xảy ra chuyện gì.
Gà nuôi không bị bịnh dại, không lên cơn dại mổ người. Gà chỉ bị bịnh dịch nhiều. Phòng trị cho gà bằng cách giã nhuyễn tỏi và sả cũng thiếu thốn, không đủ. Gà ngã xuống như rạ, nhanh cấp kỳ, mới sáng ra thấy còn tỉnh, chập trưa là ngáp gió, gục đầu, chiều là nằm gục, có con xoay mồng mồng rồi ngã. Nên có câu dân gian, “Như gà mắc gió, như gà trúng gió.” Bà con chỉ biết là gà trúng gió, cơn gió độc đi qua áp vô chớ không biết đó là bị dịch bịnh. Mới đầu gà chết đem chôn, sau đói và tiếc mần ăn luôn, kêu luột nấu cho kỹ một chút. Gà đang gục gật còn tiếc, nghĩ cứu được nhưng không bao giờ, mắt nhắm nhắm ngáp ngáp là coi như tiêu. Khi biết rồi, thấy vậy là mần hoặc xách nhanh đi bán rẻ, không để chết. Rất hiếm có con vượt qua được dịch khi bi mắc phải, vượt qua thì đầu cổ, chân cánh cũng cà lất cà trật như dị tật. Dịch bịnh lây lan nhanh kinh khủng. Sau có kinh nghiệm, thấy có mòi bị là lớn nhỏ bắt bán ráo, rẻ chút còn hơn mất trắng.
Chuyện mới nghe thì mắc cười, ngẫm nghĩ buồn mang mác là hai con gà bị xe cán ngoài lộ.
Một con gà mái dầu bác tài chạy xe lam vô tình cán phải. Bác ngừng lại đàng hoàng chớ hông bỏ chạy luôn. Bác nói với bà chủ gà:
“Tui lỡ cán con gà của chị rồi, thôi cho tui lấy, tui đền tiền cho chị.”
Bà chủ xót của gà đang đẻ:
“Đền cho tui bằng ba giá con gà. Giá gà thì anh thường xuyên chạy lên xuống chợ bao nhiêu anh biết rồi đó.”
Bác tài chưng hửng:
“Tui cán có một con.”
“Nó đang đẻ. Đẻ nó ấp nở bầy con, cho cả đàn mười mấy con, tui chưa bắt đền mười mấy con là may.”
Có người khách đi xe nói:
“Bà tính luôn đàn gà lớn lên đẻ ra mười mấy đàn nữa, mười mấy đàn nữa đẻ tiếp tiếp, bắt đền ngàn ngàn con đi.”
Nãy giờ trên xe nghe bà nói hông ai dám cười, giờ nghe vậy hết chịu nổi bung cười rần rật. Bà vừa tức vừa mắc cỡ, chống chế:
“Mấy người nuôi con gà lớn đẻ được vậy đi mấy người biết.”
Khách đi xe mới ngừng cười. Bác tài xế nói tiếp:
“Tui xin lỗi chị, biết chị yêu quý con gà nhưng làm khó tui quá, chạy xe được ba cọc ba đồng hà, gà tình cờ chạy ra đường tui làm sao tránh, tui cũng hông cà chớn, cà chớn tui chạy luôn chị phải lấy gà chết, bây giờ tui bấm bụng lấy nó về ăn, phiền chị lấy tiền mua lại con gà mái đẻ. À, mà chị khó khăn chuyện mua thì để tui mua đem lên.”
Bà đang chần chừ thì tiếng khách trên xe:
“Ờ vậy đi, bà mua hay ổng mua là xong.”
Nghe vậy bà lại sợ xảy ra phiền phức nữa, cầm tiền cho chắc đi mua lại gà, lỡ bác tài nổi xung thiên bỏ đi luôn, bà đáp:
“Thôi chú đưa tiền đây tui.”
Bác tài cho xe đi lắc đầu hoài:
“Hông trách được bà, tại cái thời buổi khó khăn quá, nuôi con gà mái dầu cưng như trứng mỏng.”
Khách đi xe thở dài thườn thượt.
Con thứ hai thì cố tình xua ra đường của một thằng nhóc cỡ cu Sô bởi quá thèm thịt. Nghĩ nhà có hai con gà cồ (gà trống) chết một con chẳng sao, còn một con làm giống đủ rồi. Đúng như ý định, chiếc xe bốn chỗ hiệu LADA của Liên Xô chạy vèo ngang, cán cái éc, con gà dãy dành đạch mấy cái rồi nằm nghẻo, lông bung bay bay tứ tán. Thằng nhóc mừng rơn nhưng cố thản nhiên không cười, la lên:
“Gà bị xe cán rồi.”
Nói chưa xong đã chạy ào ra để lượm vào. Ra tới lộ thì… cánh cửa xe đómg ầm, con gà theo nằm trên xe, xe rồ ga chạy mất hút. Thằng nhóc muốn điên tiết, cắn chặc môi mém bật máu, thất thểu bước vô nhà. Trong nhà vọng ra tiếng chửi rủa của má nó:
“Hả, cán xong còn ngừng lại lượm luôn hả, quân khốn nạn, khốn nạn chi khốn nạn dữ vậy Trời! Xe loại này chở mấy ông cán bộ. Mả cha mần cán bộ rồi còn lượm con gà cán.”
Tía nó lắc đầu:
“Hông chắc có ông cán bộ trên xe đâu bà. Biết đâu chỉ có thằng cha lái xe thôi chả mới lượm.”
“Hông có ông cán bộ thì lính ổng cũng thuộc loại bạ trợn ba trạo, hông được dạy dàng hoàng, thầy nào trò nấy.”
Tới chuyện lùa bò. Chiếc xe bò chở tre chặt trong núi về cho hợp tác xã. Về tới Bàu Tròn độ chừng hai giờ sáng thì ngừng lại nghỉ ngơi. Người lớn nấu nước pha trà uống còn đứa giữ bò lùa xuống uống nước rồi cho nó ăn một chút và ngồi dựa gốc cây gần đó coi bò. Chút sau thấy hơi xa xa bên bờ kia có ánh đèn như đèn pin, con bò sững lại nhìn ánh đèn thì liền nghe tiếng đùng, bò rống lên ò rồi ngã cái rật. Mọi người chạy tới thì ánh đèn cũng tắt ngúm. Con bò nằm chết ngắt.
Hiện trạng được giữ nguyên, rồi một người chạy về báo cáo các cán bộ sự việc, các cán bộ vào tận nơi kiểm tra lập biên bản ghi rõ có nhiều dấu chân kẻ chạy bên kia bàu, lần theo khá xa thì mất dấu, nghi kẻ bắn bò là dân đi săn, lầm con bò với thú rừng và đã cao chạy xa bay.
Dĩ nhiên không ai nói ra, nhưng ai cũng ngầm hiểu, chuyện y như của đứa lùa gà nhưng còn có mưu tính hơn chứ không chỉ đầy tới sự ngẫu nhiên, không biết có phải từ ý tưởng của nó được học theo không nữa. Trước bữa này, chú xã đội xuống vác cái bao nhỏ dài rồi về không, to nhỏ xầm xì với những người đi rừng. Trong bao đó không phải cây súng AK chớ là gì nữa. Cục thịt với bà con bây giờ không khác gì mèo thấy mỡ. Chẳng những vậy mà ngay cả mấy ông cán bộ cũng không khá hơn. Nên có sự thông đồng, bao che. Bò được đưa về xẻ thịt chia cho bà con trong làng. Nói là chia cho bà con nhưng chỉ để chia hơn một nửa con bò một chút. Gần một nửa chở đi chia các cán bộ từ đội tới xã, chắc chắn có vài ông cán bộ huyện là người ở xã nữa. Nhưng cũng chẳng sao, bà con người được hơn bốn ký thịt và xương đã quá mừng. Một nửa bộ lòng thì liên hoan tại chỗ, nấu nồi cháo to đùng xì xụp húp cho tất cả già trẻ lớn bé và uống rượu cho cánh đàn ông.

Nó ghét cay ghét đắng màu đói. Đói làm cho người ta bấn loạn, người ta mụ mị làm càn. Ở đồn trên đồi bỏ hoang thép gai vòng ngoài đã hết, người ta lần vào sâu hơn để lượm phế liệu dù biết rằng còn bom mìn đó đây. Để rồi có người dẫm phải mìn cốc cụt mất bàn chân, mang thêm biệt danh cụt suốt đời. Tưởng rằng như vậy sẽ thôi, nhưng không, chuyện chỉ chấm dứt hẳn khi có người bị mìn nổ không toàn thây. Về sau nơi đây mới được bộ đội công binh đi rà và tháo gỡ mới hết. Rồi xóm làng đã sinh trộm cắp, chuyện bấy lâu nay không hề xảy ra. Xưa nay ai cũng lào lào, “Đói cho sạch, rách cho thơm”. Nhưng đã không thể, có thể giữ cho mình, có thể mình gục ngã, nhưng không thể nhìn đàn con nheo nhóc của mình quỵ ngã. Nhiều lời trách móc, tại sao không ngửa bàn tay xin sự xót thương, sao còn sĩ diện?, không, cái đói làm cho người ta ích kỷ, chia sẻ tới phần nào đó thôi, phải giữ phần cuối cùng cho riêng mình, không thể chia sạch sàng sanh, cũng không thể trách cứ, đâu ai muốn quỵ ngã vì chết đói.
Cu Sô đi ngang gò mả, nơi gò đất cao chôn cất người trút hơi thở cuối cùng ở trần gian. Một bóng người mặc đồ trắng tinh tươm liêu xiêu đi tới, trong đầu nó mong không có cơn gió mạnh, cơn gió mạnh có thể lắm thổi bay bóng người này. Tới gần, nó nhận ra khoanh tay thưa:
“Dạ thưa ông Thầy, ông đi đâu vậy?”.
Ông nhẹ nhàng trả lời:
“À, ông vào nghĩa trang thắp nén nhang,”
Nó bắt chước người lớn:
“Dạ, ông khỏe không ông?”
Bàn tay ông muốn xoa xoa đầu nó nhưng run run không nhấc lên nổi, nhưng nét mặt buồn buồn dù rất bình thản:
“Con ngoan lắm, ông khỏe!”
Không, ông không khỏe, ông không bình an, ông chỉ cố tạo ra vậy và tạo rất đạt nếu lướt thoáng qua. Cu Sô nhận ra được bởi nó cũng có lúc cố tạo ra suy nghĩ bình thường. Có nét khang khác hiện trên nét mặt, nó nhận thêm ra ông muốn nói một điều gì, song đắn đo lại thôi. Ban đầu nó định hỏi, định chia sẽ nỗi buồn buồn trong ông, song cũng thôi, không muốn làm phiền, nó nghĩ rằng ông đã quyết như vậy và biết rằng ông cũng nghĩ nó sẽ hiểu.
Đêm, trăng thanh, ông về tắm gội một lần nữa, lên phản nằm tới sáng và không bao giờ thức dậy. Ông ra đi về bên kia thế giới thanh thản như gương mặt nó gặp lúc sáng, như cuộc đời thanh bạch của ông. Ai cũng mừng cho một cuộc đời than thản, lìa bỏ cuộc đời không đau đớn. Nhưng với Cu Sô, nó đã biết không hẳn là vậy, phản phất trên khuôn mặt thanh thản là nỗi ưu tư, ông cố chặn để không biểu lộ, từng luồng khói đen ngạ quỷ cuồn cuộn ở trong lòng ông, khói đen đã chiến thắng, ở mãi trong đó, ông không đuổi nó ra được. Ông canh cánh mãi một cuộc đời vô tích sự, một cuộc đời không ích gì cho cuộc đời dầu rằng không ai nghĩ như vậy, một phần cuộc đời về sau ông cũng đã góp cho lễ nghĩa, gia giáo dù ông không còn giúp nhiều như một phần cuộc đời lúc trước được chính danh đứng trên bục giảng truyền đạt, và góp cho sự thanh thản, góp những tia hy vọng để mà sống. Những ngày cuối cùng ông nhường cơm sẻ áo hết cho con cháu, không muốn để lại hệ lụy. “Ông chết đói nhưng đói cho sạch, chết đói cho thơm” nó nói như vậy và nghĩ khó có nhân cánh nào sạch hơn, cao thượng hơn. Nhưng cũng phải biết rằng ai cũng muốn cao thượng, chỉ có điều nhiều điều của cuộc sống ngăn cản họ, không được như ông, như những gì nó đã chứng kiến ở trên, không thể so sánh, sự so sánh sẽ rất khập khiểng.
Gò mả nhận thêm một cỗ quan tài nữa không bao lâu sau ngày ông thầy ra đi. Cỗ quan tài chôn một đứa con nít. Không ai nói nó chết vì đói, ai cũng sợ nói điều này bởi cái đói vẫn ường ường trước mặt. Sợ nói tới rồi một ngày mình cũng ngã xuống như vậy, quá thảm thương. Sự thực thì những ngày sắp chết đứa này không đói, làng xóm nhẫn nhịn góp người chút gạo chút thịt để nấu cháo, góp chút tiền mua được lon sữa bò ông thọ cho nó. Nhưng chừng đó là chưa đủ, nó nhiễm bệnh mà bịnh viện chịu thua, không chẩn đoán được, nó tiền tụy dần rồi mất. Nhiễm bịnh từ đói mà ra. Nắng hạn đầu mùa mưa, xác con cua lột, cua vừa thay vỏ gặp nắng hạn đến nỗi chết queo, queo tới mức xác khô trắng còn mỏng tang như cái bánh tráng mỏng, xác da rắn lột vỏ cũng vậy bay bay đó đây. Mấy đứa thả bò ra đồng, không chịu nỗi nữa nên vác cuốc bổ cái nắng hạn ra, đào những cái hang hun hút, chẳng có con gì trong những hang này dù đã đào sâu hoắm, ếch không, lươn rắn không, không một loài côn trùng nhỏ nhoi, chỉ có xác chết cùa cua, của ốc thối rửa, chẳng còn miếng thịt nào. Rồi một bữa bắt gặp được con chuột to tướng đã trương sình, đã bốc mùi, Ban đầu cả đám bỏ đi nhưng rồi quá tiếc rẻ, ráng bịt mũi mà cho nó lên lò lửa nướng, lửa xóa bay bay hết mùi hôi thúi, còn lại chút mùi thơm cứ vậy chia nhau nhóp nhép đỡ cơn bĩ cực mà chẳng đứa nào nghĩ tới hậu quả, thậm chí cũng chẳng biết sẽ có nhiễm bịnh từ con vật chết này. Rất may chỉ một đứa nhiễm nặng không qua khỏi, những đứa còn lại khọt khẹc vài bữa thì đề kháng mạnh chống chọi qua chứ không là cả làng gặp cảnh tang thương.
Một cảnh bị truyền nhiễm nữa nhưng chưa gây tang thương, chỉ gây rối loạn, nhiễm bịnh thổ tả. Không phải vào lúc đói này mà vào một mùa mưa năm khác. Cả làng người người… xách quần chạy xả ra toàn nước tỏng tỏng tanh rình. Rất may không ai bị gì chứ đó đây đã nghe có người không chống chọi nỗi và cũng nhờ phương thuốc điều trị đơn giản. Chẳng phải những viên xuyên tâm liên ở trạm xá phát về. Phương thuốc làm giảm dịch tả đơn giản và nhà nhà đều có, muối pha với nước mà uống vào, muối còn rẻ, còn xin dễ dàng chứ không thì khó biết chuyện gì xảy ra.

LÊ ĐẮC HOÀNG HỰU