NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, “Nhấm nháp sâm-banh, ngắm nhìn cuộc chiến.”

nuocmattruocconmua

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, nguyên tác Anh Ngữ “Tears Before The Rain” là một tập sử liệu về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam, do Larry Engelmann, Giáo Sư Đại Học San Jose State thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn nhiều thành phần: người Mỹ, người Việt, kẻ thắng người bại …Những cuộc phỏng vấn này khởi sự từ 1985, sách xuất bản năm 1990. Bản dịch Việt Ngữ do nhà văn Nguyễn Bá Trạc thực hiện năm 1993, xuất bản năm 1995 tại California.

DIANE GUNSUL
(Nữ nhân viên văn phòng Tùy viên Quân sự tại Biên Hoà)
“Nhấm nháp sâm-banh, ngắm nhìn cuộc chiến.”

Cuối thập niên 60, tôi là một thành viên hoạt động cho phong trào phản chiến tại Hoa Thịnh Đốn. Tôi đã tổ chức nhiều cuộc biểu tình phản chiến tại toà nhà quốc hội. Tôi đã tham gia nhiều buổi tuần hành, xuống đường – Tôi không bao giờ nghĩ quân đội Mỹ nên tham chiến ở Việt Nam. Nhiều người như tôi đã tin tưởng rằng chúng ta không nên gửi thanh niên sang bên ấy để rồi bị sát hại chỉ vì một cuộc nội chiến. Tin tưởng như thế không có nghĩa là chúng tôi thiên Cộng.

Ngày 29 tháng Ba năm 1973, có tin từ Việt Nam cho biết quân đội Mỹ đang rời khỏi xứ. Người ta đang cần tuyển nhân viên dân sự sang giúp việc cho các nhóm cố vấn. Vì lẽ tôi đã từng kịch liệt chống chiến tranh, tôi tự nhủ “Ờ, họ thường sỉ vả là mình cóc biết gì, vì mình chưa bao giờ ở đấy. Vậy thây kệ, thử xin đi cho biết.” Tôi nạp đơn. Có hai mươi lăm người xin việc, và tôi được tuyển. Tôi đến Việt Nam ngày 2 tháng Tư, 1973. Quân đội đã triệt thoái ngày 29 tháng Ba. Khi tôi vừa đến sở làm tại Biên Hoà thì một quân nhân Mỹ bật đứng dậy, bước ra khỏi văn phòng, hãy còn để lại trên cái gạt tàn thuốc một điếu xì gà. Mọi sự tưởng chừng như anh ta sẽ còn quay trở lại. Người ta nhặt vội túi hành trang rồi ra đi. Tôi thấy hơi sờ sợ vì có chuyện kỳ cục.

Tôi làm việc tại một nơi gọi là Trung tâm Tiếp vận. Đơn vị chúng tôi gồm từ hai mươi lăm cho đến một trăm nhân viên dân sự. Tướng Richard Baughn là một trong những người chỉ huy của tôi, họ đều ở Sàigòn. Có một đại tá đặc nhiệm tại Biên Hoà. Ông đại tá này rõ rệt chưa bao giờ làm việc chung với các nhân viên dân sự, ông không hiểu nổi đám nhân viên dân sự chúng tôi.

Sáu tháng đầu tiên tôi sống ở Sàigòn, đi xuống Biên Hoà bằng xe buýt. Nhưng Việt Cộng thường hay cắt đường, nếu lỡ hụt xe buýt hay phải đi những chuyến xe muộn thì cũng rợn. Không di chuyển ban đêm được. Phải dùng trực thăng. Cuối cùng tôi chuyển xuống ở hẳn dưới Biên Hoà. Chúng tôi ở khu chung cư Franz Blau, trước đây từng là một nhà chứa gái điếm.

Tại Việt Nam, tôi đã gặp người sau này là chồng thứ hai của tôi, trên một chuyến xe buýt, ngay ngày đầu tiên. Chúng tôi cùng làm việc ở Biên Hoà.

Khi mới đến, tôi làm phụ tá quản trị với cấp bực thấp nhất, bậc7. Tôi leo lên bậc 9 ở đấy, trở thành một cấp chỉ huy hành chánh, nhưng ở Biên Hoà, nhân viên ít, người ta phải phụ trách đủ thứ việc khác nhau.

Vì vậy, tôi phải tự sắp xếp các chương trình dự phòng khẩn cấp. Tự sắp xếp các kế hoạch an ninh – Phải lo đủ thứ giấy tờ hành chánh cho các nhân viên ngắn hạn, các nhân viên tạm thời. Tôi cũng là viên chức phụ trách nghi lễ, vì thế tôi có dịp đi gặp đủ mọi hạng người.

Tôi hiểu được người Việt là một dân tộc đầy nhiệt tình, rất cởi mở. Họ nhiều nhiệt tình và cởi mở hơn cả người Hoa hay người Nhật. Họ khác hẳn người Nhật Bản. Chúng tôi thường nói chuyện về chiến cuộc, về những ảnh hưởng tệ hại của chiến tranh đã đè nặng thế nào lên các gia đình mà tôi quen biết. Tôi lui tới thăm viếng nhiều gia đình. Chính chồng tôi đã nhận làm cha đỡ đầu cho một chú bé mới sinh lúc tôi ở đấy, chú bé con của một trung úy Việt Nam. Suốt đời họ là một cuộc chiến tranh dai dẳng, dai dẳng đến nỗi chiến tranh, đối với họ, chỉ là chuyện thường tình. Đó là một khung cảnh phù du, không thực.

Khi Phước Long thất thủ đầu năm 1975, người ta bối rối, nghi hoặc, nhiều hơn là sợ hãi. Người ta luẩn quẩn với các câu hỏi “Phải chăng đây là khởi đầu của một đoạn cuối thực sự?” Hoặc câu hỏi “Liệu người ta có đủ khả năng chặn đứng chuyện ấy hay chăng?” Rồi đến lúc người miền Nam triệt thoái khỏi Cao Nguyên, dòng người tỵ nạn lũ lượt lê bước kéo đi, đến đây mới là lúc người ta bắt đầu chạm mặt cảm giác sụp đổ hoàn toàn.

Chúng tôi lại còn thường hỏi những chuyện như “Liệu người ta có đủ khả năng phục hồi hay không?” Tôi vẫn không tin tình trạng xấu sẽ kéo dài mãi mãi. Tôi vẫn còn nghĩ như vậy cho đến tháng tư 75 sau khi di tản khỏi Biên Hoà.

Đầu tháng Tư, một điện văn từ Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ gửi đến nói: “Di tản ngay tất cả đàn bà Mỹ.” Vỏn vẹn có thế. Tôi đọc tấm điện văn, giận run. Ông đại tá Chỉ huy trưởng liếc nhìn rồi cho gửi một điện văn phúc đáp, nói “Không có đàn bà Mỹ nào ở đây cả! Chỉ có các nhân viên tiếp vận các nhân viên hành chánh. Xin cho biết loại nhân viên nào không còn cần thiết ở đây?” Lúc ấy, dưới quyền đại tá Chỉ huy trưởng, có đến mười phụ nữ làm việc ở Biên Hoà. Họ gửi lại một điện văn khác, nói “Hoan hô!”

Đại tá Chỉ huy trưởng lúc ấy bèn thiết lập một danh sách nhân viên ở Biên Hoà theo thứ tự ưu tiên. Vài phụ nữ được đưa ra khỏi nước, vì xem như không cần thiết. Vài phụ nữ khác được xem là cần thiết, chẳng hạn như tôi, được giữ lại. Chính thức ra, chưa có chương trình di tản.

Để thực hiện chương trình này, đầu tiên người ta tìm người tình nguyện đi kèm đám trẻ con, đây là một cách gián tiếp di tản. Một nữ nhân viên của chúng tôi là Selma Thompson, vì quá sợ pháo kích và đạn súng cối, không chịu xuống Biên Hoà nữa. Lúc ấy cô ở Sàigòn. Bên toà đại sứ cho tin những ai muốn đi thì liên lạc. Họ cho có 24 giờ đồng hồ để sửa soạn.

Các phụ nữ làm việc ở Biên Hoà không được tin tức gì vụ này, cũng không biết về việc có chuyến C-5A chở trẻ con ra đi. Riêng Selma vì ở Sàigòn, biết được, nên đã xin. Cô ta vì sợ pháo kích và súng cối mà đã ở lại Sàigòn, rồi chính vì thế đã leo lên chiếc máy bay này. Cô ấy đi chuyến C-5A vào ngày 4 tháng tư. Khi nhận được tin chiếc C-5A bị rớt, chúng tôi cực kỳ bàng hoàng. Chỉ đường tơ kẽ tóc, biết đâu tôi đã chẳng leo lên chiếc máy bay ấy? Suốt đêm, chúng tôi chờ tin. Cuối cùng điện thoại từ Sàigòn đánh xuống cho biết Selma hãy còn sống sót và đã được di tản ra khỏi xứ. Đấy là cái kinh nghiệm đầu tiên của chúng tôi về cái gọi là di tản.

Tôi rời Biên Hoà ngày 10 tháng Tư. Trước đó, đại tá Chỉ huy trưởng đến, nói: “Được rồi; bây giờ đưa hết mọi người ra đi.” Ông đã có danh sách lập trước, mỗi ngày kiểm lại, cứ thế chỉ định những người đi. Đến lúc chỉ có bốn, năm người còn lại, trong đó có tôi. Chồng tôi còn ở lại lâu hơn nữa.

Tôi đi lúc mười giờ sáng. Chúng tôi di chuyển bằng chiếc xe chuyên chở nhỏ, xe buýt tiêu chuẩn của chính phủ Hoa Kỳ. Bốn năm người chúng tôi ngồi trong xe, chạy qua nhiều nút chặn, rất nhiều trạm kiểm soát suốt từ Biên Hoà lên đến Sàigòn.

Đã nhiều tháng qua tôi không đi lại con đường này vì mỗi lần đi Sàigòn, tôi thường sử dụng trực thăng. Bây giờ đi xe buýt trên đường này, tôi kinh ngạc thấy đầy những vòng kẽm gai kéo loằng ngoằng trên đường, tại các trạm gác. Mãi đến khi ra khỏi xe mới không nhìn thấy kẽm gai và trạm gác nữa.

Trên chuyến xe, đây là lần đầu tiên tôi bắt đầu cảm thấy một nỗi đe dọa từ các bạn đồng minh người Việt. Họ biết chúng tôi đang rời Biên Hoà. Thực quá dễ biết, dù chúng tôi đã bỏ lại tất cả, mỗi người chỉ đem một túi nhỏ xách tay. Đây là lần đầu tiên tôi đâm lo sợ là chính những người bạn đồng minh có thể giết chúng tôi. Người Mỹ đang bỏ họ ra đi. Cho đến phút cuối, vẫn còn có những người Việt hỏi “Khi nào máy bay B-52 trở lại” Họ không thể tin nổi người Mỹ sẽ không còn trở lại với những chiếc oanh tạc cơ nữa.

Một việc chúng tôi đã làm là lo di tản cho các nhân viên cộng tác với chúng tôi. Họ không cần phải đến xin, chúng tôi hỏi họ có muốn đi không, cũng có vài người không muốn đi.

Tôi đến toà Lãnh sự Mỹ với một người đàn ông Việt Nam từng làm việc với tôi. Trước, anh ta ở trong quân đội Việt Nam, đã giải ngũ. Anh ta muốn rời khỏi nước với vợ và hai con. Vợ con anh đã ra đi được với tư cách là vợ và con của chồng tôi. Bây giờ chúng tôi đến toà lãnh sự, tôi sẽ ký một tờ khai xác nhận người đàn ông này là “chồng theo thông luật.” Theo thủ tục này người Mỹ khỏi cần khai vợ chồng theo hôn thú. Họ có thể đến tuyên thệ rằng đây là vợ hay chồng đã sống chung theo thông luật, họ muốn xin cho vợ hay chồng di tản, mặc dầu họ chưa được quy định là nhân viên không cần thiết để sẵn sàng ra đi.

Tôi mang theo một chứng thơ xác nhận tôi là nhân viên không cần thiết, mọi thứ để trống, khi nào cảm thấy muốn đi chỉ việc điền vào ngày tháng rồi đi. Tất cả chúng tôi lúc ấy đều có những chứng thơ này.

Chồng tôi đã theo thủ tục này mà giúp được đến ba phụ nữ đi với tư cách là “vợ” của anh vào ba lần khác nhau! Tất nhiên các nhân viên lãnh sự Mỹ đều biết chúng tôi nói láo. Họ bị ràng buộc bởi các luật lệ của chính phủ Việt Nam, không thể cho người đi nếu những người này không có thông hành xuất ngoại. Nếu những người này không phải là nhân viên cơ quan Mỹ thì vẫn có cách giúp họ là đến toà lãnh sự mà thề là đã lấy nhau.

Tôi xấu hổ phát chết khi đến đấy thề rằng tôi có một anh chồng sống chung. Anh ta tất nhiên vẫn thường gọi tôi là “Cô Diane,” vì đấy là tên tôi. Tôi dặn đi dặn lại rằng: “Đến toà Lãnh sự thì đừng có gọi tôi là cô Diane nữa nhé.” Và tất nhiên mỗi khi Lãnh sự hỏi anh ta câu gì, tôi phải mau miệng trả lời. Tôi bảo “Thưa đây là chồng tôi, tôi cần đưa ông ấy đi di tản.” “Cho xem hôn thú!” Tôi nói “Chúng tôi chưa lập hôn thú, nhưng đã sống chung với nhau.” “Sống chung bao nhiêu lâu rồi?” Tôi bảo “Dạ, dạ…chừng một năm rưỡi… rồi!”

Ông Lãnh sự nheo mắt nhìn. Ông ta thừa biết tôi khai láo. Ông ta quay sang hỏi “ông chồng” của tôi…”ông chồng” vội vàng quay sang tôi lắp bắp “Cô Diane…” Tôi bảo “Khổ quá! Đã dặn là đừng có gọi tôi bằng cô Diane nữa!” Nhộn thật!

Còn về ba gia đình quân nhân làm việc với chồng tôi, cả ba đều đã nhờ chồng tôi giúp đưa vợ con đi, nhưng không ai nhờ giúp cho bản thân họ. Họ không hỏi tôi giúp. Vì tự ái, không ai đến nhờ tôi đưa bằng cách ấy. Nhưng rồi cả ba người cuối cùng trong vòng một tháng đều lần lượt đến được Guam bằng tàu. Lúc ấy, vì chúng tôi làm việc trong trại tỵ nạn ở Guam, chúng tôi đã chứng kiến cảnh đoàn tụ mừng tủi của họ với những bà vợ mà chồng tôi giúp đưa đi.

Còn “ông chồng” mà tôi đưa đi, đã sang được Phi Luật Tân, rồi sang Guam, cuối cùng đoàn tụ được với vợ con, hiện nay họ đang định cư ở San Diego.

Chúng tôi đã thực hiện những việc như thế cho những người đã cộng tác với chúng tôi. Họ đã sợ hãi, sợ hãi như thế cũng đúng thôi. Một trong những người chúng tôi không đưa đi, vì anh ta không yêu cầu ra đi, một trung úy muốn ở lại với gia đình. Vợ anh có con sơ sinh. Anh đã bị đưa vào trại cải tạo hơn bảy năm, bị đánh đập tàn nhẫn. Chúng tôi nhận được một số thư và lời nhắn của vài người cho biết tin tức về anh ấy.

Vào những giờ phút cuối, người ta có cảm giác Cộng sản sẽ tàn sát tất cả những ai có liên hệ với người Mỹ. Nỗi sợ hãi này lan tràn như bệnh dịch.

Tôi không còn biết tin vào đâu. Tôi nghĩ có lẽ họ sẽ giết một số lớn những người trong quân đội. Bất kể ở Đông Phương hay Tây Phương, kẻ chiến thắng nào có cái-gì-gọi-là-danh-dự? Đã nhiều cuộc tắm máu xảy ra! Tôi không biết Cộng sản rồi đây sẽ tàn sát hay sẽ chỉ hành hạ họ. Và sau này điều Cộng sản đã làm, nói chung, chính là đã hành hạ cuộc đời họ với đầy thống khổ.

Thời gian này mọi người đều mang vũ khí. Nhưng là một người theo chủ nghĩa hoà bình, tôi không muốn giữ vũ khí làm gì. Ai nấy đều bỏ súng trong cặp, sau này còn đeo cả vào bao súng. Họ cấp phát vũ khí, hỏi tôi muốn lấy thứ nào. Tôi bảo: “Không, tôi không muốn thứ nào.” Họ hỏi: “Thế lỡ Việt Cộng mở cửa hầm, chĩa súng vào cô thì sao?” Tôi bảo: “Ờ, có lẽ chết thôi.” Họ không tin. Tôi bảo họ: “Khi tình nguyện sang Sàigòn, độc thân (lúc ấy người chồng thứ hai của tôi và tôi chưa lấy nhau) không con cái, không người phải nuôi dưỡng, không nợ nần, không có cái gì cả, tức là tôi đã sẵn sàng để nếu phải chết thì cũng chết thôi. Tất nhiên tôi không mong chết, nhưng có bị bắt cũng chẳng sao.” Một ông đại tá Thủy quân Lục chiến lúc ấy nhìn tôi, nói: “Chuyện cô bị bắt sẽ không bao giờ xảy ra.” Tôi hỏi “Sao thế” Ông ta nói “Vì tôi sẽ giết cô trước!”

Tôi hơi cáu hỏi lại: “À, vậy đại tá đứng ở phía nào?” Ông bảo ông sẽ không bao giờ để cho Việt Cộng cầm tù một phụ nữ Mỹ. Tôi nói: “Đại tá ơi, này nhé: Cứ để Việt Cộng bắt tôi đi. Cứ cho là chúng hành hạ tra tấn tôi vài năm nhé, đủ các thứ trò ngoạn mục ấy mà, rồi đại tá xuất hiện, tung cửa bước vào giải cứu tôi, rồi chúng mình sẽ viết sách nhé, làm phim nhé, kiếm hàng triệu đô la như chơi!” Tôi đùa, nhưng ông đại tá này vẫn không xem đấy là chuyện đùa. Ông ta bảo: “Tôi sẽ không cho phép những bọn người như thế cầm tù phụ nữ Mỹ!” Ông ta là một tay bảnh trai, nhưng khó quên nổi cái kiểu nói chuyện với giọng “nam nhi tay tổ” của ông.

Chồng tương lai của tôi đã được xếp vào loại không cần thiết. Khi anh rời xứ, tôi vẫn còn ở lại. Tôi viết thư cho ba người anh và em tôi để giải thích tại sao tôi còn ở lại, tôi nói tôi cảm thấy điều ấy là cần thiết và nếu lỡ mệnh hệ gì, thì tôi đã sửa soạn sẵn sàng cả rồi. Tôi làm chúc thư, tôi đã làm hết mọi điều có thể làm nhưng tôi cũng hy vọng sẽ ra khỏi xứ này.

Chúng tôi nỗ lực di tản tất cả ngưòi Mỹ ra đi trong khả năng chúng tôi. Cũng cố mang đi càng nhiều thân hữu của người Mỹ càng tốt. Đối với những người đã cộng tác, đã giúp đỡ chúng tôi, mang được họ đi là giúp cho đời sống của họ tốt đẹp hơn. Tôi cảm thấy tôi đang làm một công việc xứng đáng và có giá trị, sẵn sàng chấp nhận mọi hiểm nguy.

Trước đây đã một lần tôi cũng có cái cảm giác này, là vào lúc Tổng thống Kennedy bị ám sát. Cảm giác ấy là: Nếu họ giết tôi để Kennedy được sống, tôi cũng sẵn sàng chấp nhận cái chết. Cảm giác này xảy ra lần nữa khi chúng tôi xuống đường tuần hành tại toà Bạch ốc lúc người Mỹ xâm phạm Campuchia vào mùa Xuân 1970. Cuộc xuống đường bất hợp pháp, người ta có thể nổ súng vào đám biểu tình tại toà Bạch ốc. Nhưng lúc đó, cảm thấy mãnh liệt tính chất bất công của việc tiến vào vùng Mỏ Vẹt ở Campuchia, chúng tôi vẫn cứ tuôn vào cuộc biểu tình. Như thế đã ba lần trong đời tôi có cảm giác này. Khi tôi tin tưởng mãnh liệt, tôi sẵn sàng chết cho niềm tin của tôi. Tôi không mong chết, tôi không tìm cái chết, nhưng đôi khi nếu cảm thấy phải chết cho niềm tin, thì cái chết ấy cũng chính đáng.

Lúc ở trong căn hầm trú ẩn tại căn cứ văn phòng Tùy viên Quân sự, tôi có một thư ký, người này có vợ hai con. Tôi bảo anh ta hãy ra đi. Nghe thế, đề đốc Owen Oberg nói: “Sao được. Lấy ai phụ trách việc tống thư văn.” Tôi bảo: “Anh này có vợ hai con. Anh ta cần di tản khỏi xứ. Tôi hãy còn độc thân, chẳng có gì ràng buộc. Nếu phải đánh máy giấy tờ, tôi lo lấy cũng được.”

Về việc di tản ra khỏi xứ, gần như bất cứ lúc nào tôi muốn là tôi có thể đi. Người ta chỉ cần giữ một số người tối thiểu. Mọi người Mỹ còn lại đều mang theo mình một chứng thư để trống tên, trống ngày. Chứng thư xác định “Người này tên là… không phải là nhân viên cần thiết kể từ ngày…” Và khi muốn đi, chỉ việc đề tên, đề ngày tháng, rồi đi thẳng ra chỗ người ta đang sắp hàng vào máy bay mà bảo: “Ô kê! Tôi muốn ra đi.”

Tôi rời Việt Nam đêm 28 tháng tư. Bấy giờ là lúc một giờ sáng. Tôi quyết định ra đi vì tôi biết giờ cuối cùng sắp điểm. Chúng tôi có một hệ thống truyền tin chặt chẽ với Hoa Thịnh Đốn bằng mật mã, mặc dầu không phải là nhân viên truyền thông, nhưng trong công việc tôi vẫn phải sử dụng hệ thống này.

Tôi biết hệ thống giải mã, mỗi ngày tôi đều có nhiệm vụ phải thay đổi các mật mã truyền tin. Do đó khi nhận tín hiệu mật đánh vào, giải mã xong tôi biết chuyện gì đang xảy ra. Tôi tự nhủ: “Ô kê, đã đến lúc phải đi.” Tôi biết tình hình không còn kéo dài hơn nữa.

Tôi đã kiệt quệ, biết rằng chẳng còn làm gì hơn được. Chồng sắp cưới của tôi đã ra đi. Với các mật hiệu đánh vào, tôi hiểu giờ cuối cùng đã điểm, và tôi không muốn phải đi bằng tàu hạm đội. Lúc bấy giờ các đề đốc hải quân vào căn cứ văn phòng Tùy viên làm việc và thường bay ra hạm đội mỗi đêm – Địch quân thắt chặt vòng vây, mỗi lúc một gần căn cứ, người ta có thể nghe rõ tiếng đạn, và nhiều cuộc chạm súng xảy ra. Một hôm, đề đốc Oberg bảo tôi: “Sao cô không theo chúng tôi? Ban đêm chúng tôi có thể đưa cô ra ngủ ngoài hạm đội.”

Tôi bảo: “Thưa đề đốc, ông đã ở ngoài biển bao nhiêu lâu rồi?” Ông nói chừng bảy tháng hay chín tháng gì đấy. Tôi bảo: “Thế đã bao lâu ông chưa lên bờ?” Ông nói lâu lắm rồi, nhiều tháng rồi chưa lên đất liền. Tôi bảo: “Đề đốc ơi, thế thì thà tôi ở lại với Việt Cộng còn hơn!” Trung tâm điều hành di tản lúc nào cũng căng thẳng, người ta luôn luôn cứ phải khôi hài. Hết gọi máy bay, lại đến điều hợp các chuyến đi. Không tán dóc, không tiếu lâm, không còn xả nổi những áp lực trong các công việc căng thẳng.

Giữa bầu không khí như thế, một lần đề đốc Oberg nhờ tôi ra trung tâm thành phố bằng chiếc xe màu đen có cửa kính gương, xe chính phủ Mỹ. Tôi rành về mỹ thuật, lúc làm việc trong hầm trú ẩn, chúng tôi thường nói chuyện về đề tài này nên ông muốn nhờ tôi mua hộ một bức tranh, hoặc một món đồ thủ công nghệ tiêu biểu của Việt Nam để làm quà kỷ niệm cho người bạn ở Mỹ có đứa con trai chết tại Việt Nam. Ông cho tôi biết chừng giá tiền, rồi nhờ tài xế người Việt chở tôi ra phố.

Ra trung tâm Sàigòn, tới đường Tự Do, nơi có nhiều tiệm bán đồ mỹ nghệ, tôi không tin nổi là mọi sự vẫn có vẻ bình thường. Không có gì rối loạn. Chỉ yên tĩnh hơn một chút. Điều ấy có một cái gì kỳ cục, giống như trong những cuốn phim của Fellini.

Từ Tân Sơn Nhứt, người ta đang dốc hết nỗ lực bốc người di tản trong một bầu khí căng thẳng gần phát điên lên được, mà rồi đi xuống Sàigòn… Tất cả vẫn bình thường. Tôi nghĩ: “Nhưng người ta làm gì được bây giờ? Chẳng lẽ điên cuồng chạy vòng quanh hay sao! Chắc chắn là không!” Tôi bước vào một tiệm bán đồ mỹ nghệ, nấn ná xem vài giờ đồng hồ cho đến khi chọn được một món quà tiêu biểu. Rồi tôi lên chiếc xe hơi màu đen của chính phủ Mỹ trở về lại Tân Sơn Nhứt. Thực kỳ cục. Tôi đã sợ khi xuống phố với chiếc xe hơi ấy. Tôi sợ dân chúng nhìn thấy có người Mỹ ngồi trong xe, họ đã biết chúng ta đang rời xứ.

Đêm rời Việt Nam, tôi leo vội lên chiếc xe buýt chạy ra phi trường. Chúng tôi len lấn lên máy bay, tôi nhớ hình như chiếc máy bay vẫn tiếp tục lăn bánh trong lúc chúng tôi dồn vào. Chắc chắn chiếc máy bay đang đậu, nhưng trong tâm trí tôi, hình như chiếc máy bay chỉ rà trên mặt đất hai phút đồng hồ, vì việc bốc người rất điên cuồng, nhưng rất nhanh chóng. Vừa rời khỏi xe buýt, người ta thúc: “Đi tới, nhanh, đi, nhanh!” Họ đẩy chúng tôi thật nhanh vào khoang chứa đồ.

Chúng tôi ngồi bệt trên sàn, bám tay vào những sợi giây ràng hàng hoá. Mọi người im phắc trong một bầu khí sợ sệt, kỳ cục. Tôi còn nhớ những nhân viên phi hành Mỹ đứng ở cửa sổ máy bay, lăm lăm mấy khẩu súng hoả châu. Họ giật mình khi thấy một người đàn bà Mỹ, tôi nhớ thế. Họ nhìn tôi như muốn hỏi “Cô là ai?”

Họ lấy làm lạ vì lúc này tất cả những người di tản đều là người Việt, chỉ còn lại rất ít người Mỹ. Cũng còn một vài người đàn bà Mỹ trong xứ, nhưng rất ít, sau này họ đều được chuyển ra bằng trực thăng.

Tôi mệt bã người, lúc ấy chẳng nghĩ ngợi. Điều duy nhất chỉ còn mong cho máy bay đến được phi trường Clark an toàn, không trúng đạn. Đó là nỗi lo lắng duy nhất bởi vì lúc cất cánh thì máy bay bị bắn, không biết đạn đồng minh hay của Việt Cộng. Người ta đã kể nhiều chuyện về việc bạn đồng minh bắn lên lúc máy bay cất cánh, họ đã cay đắng. Họ đã cay đắng quá nhiều.

Lúc ấy, tôi biết tôi đang rời xa một xứ sở mà tôi đã đem lòng yêu mến. Đất nước ấy thật là một đất nước đẹp đẽ. Tôi lấy làm buồn khi biết dân chúng miền Nam đã thua cuộc và có lẽ họ sẽ tiếc hận việc này. Tôi vẫn nghĩ có thể họ đã thắng cuộc chiến, nếu chúng ta đừng dính đến. Nhưng tôi cũng nghĩ cuối cùng Tự do vẫn sẽ chiến thắng bởi vì họ đã từng được hưởng mùi vị của Tự do. Tôi thành thực tin tưởng ở bất cứ một nơi nào con người bị đàn áp, bất cứ dưới một chế độ cai trị nào chăng nữa, cuối cùng Tự do cũng vẫn thắng thế trở lại thôi.

Tôi bay đi Phi Luật Tân. Chúng tôi hạ cánh, mặc dầu phi trường đã đóng. Chúng tôi được rời khỏi máy bay nhưng không được phép ra khỏi xưởng chứa máy bay. Tôi thiếp một giấc trên ghế, khi tỉnh dậy chỉ còn lại mỗi mình tôi, tất cả người Việt đã đi khỏi. Tôi hỏi họ đâu? Người ta cho biết họ đều đã được đưa sang Guam. Người ta không đánh thức tôi dậy, tôi cũng không nghe thấy tiếng họ rời. Trong xưởng chứa máy bay, ngồi trên mấy cái ghế của câu lạc bộ các bà vợ sĩ quan, tôi nhớ tôi đã đứng bật dậy, hỏi: “Những người Việt của tôi đâu?” Họ trả lời: “Chúng tôi đã đưa họ sang Guam vì Tổng thống Ferdinand Marcos ra lệnh đóng cửa, không cho họ vào Phi.” Tôi mệt nhoài. Tôi kiệt quệ. Khi họ bảo những người Việt của tôi đã đi hết, tôi bật khóc. Mấy người Mỹ lẳng lặng tránh ra, mặc tôi một mình. Họ muốn gửi tôi đi Guam ngay, nhưng tôi bảo tôi có chiếu khán vào Phi Luật Tân. Tôi đã xin chiếu khán này ngay khi mới đến Sàigòn. Tôi đưa cho một viên đại tá xem hai cái thông hành, một thông hành công vụ và một thông hành du lịch. Ông ta không tin nổi. Ông ta nói: “Được rồi, vậy tôi sẽ đích thân đưa cô đến khu vãng lai của sĩ quan, kiếm cho cô một cái phòng.” Tôi ngủ một giấc ở đấy, khi thức giấc, cuộc chiến đã xong.

Thức giấc, tôi xuống dưới cầu thang, thấy ngay cái tựa lớn trên trang nhất của tờ báo quân đội Mỹ: “Sàigòn đã sụp đổ.” Đọc bài báo tôi có cảm giác kỳ lạ, gần như đã giải thoát, thế là xong. Xứ sở ấy đã sụp đổ, thế là hết. Kết thúc. Trong tất cả những cuộc tình đổ vỡ, người ta đều cảm thấy một nhu cầu tâm lý, đó là nhu cầu kết thúc. Đối với tôi, tôi nghĩ tôi cũng có cùng một nhu cầu này, bởi vì tôi cũng đã có một cuộc tình gắn bó với đất nước Việt Nam.

Xong xuôi. Tôi đến gặp các nhân viên Trung tâm Tiếp vận, bảo họ: “Khi liên lạc với Guam, xin nhắn với Roy – Chồng sắp cưới của tôi – là tôi hiện ở đây.” Nhưng họ đã quên không nhắn, nên tôi phải mất ba ngày mới lấy được chuyến bay. Anh ấy tưởng tôi vẫn kẹt ở Sàigòn. Khi đến Guam, người ta loan báo là họ cần những người đã ở Việt Nam tình nguyện ở lại giúp trại tỵ nạn. Mặc dầu không muốn ở lại, chúng tôi muốn tiếp tục đi ngay, nhưng họ đang quá cần các nhân viên thiện chí, vì người tỵ nạn đang dồn dập kéo vào, và họ đang bù đầu để lập thủ tục những người mới tới. Nên chúng tôi tình nguyện.

Chúng tôi ở lại đấy một tháng. Rồi chúng tôi đi nghỉ đổi gió ở Hạ Uy Di hai tuần trước khi về lại Cali.

Ngày nay hỏi chuyện người Mỹ, bạn sẽ thấy nhiều người không biết chiến tranh Việt Nam chấm dứt lúc nào, cũng không biết rằng khi Sàigòn thất thủ, quân đội Mỹ đã không còn hiện diện ở đấy. Nhiều người không biết chuyện quân Mỹ đã rút đi từ hồi 73, rồi nhân viên dân sự kéo vào. “Quân đội Mỹ đã mất mười năm để thua trận. Còn nhân viên dân sự chỉ mất có hai năm.” Thiệt là một chuyện diễu dở, nhưng mà…

Suốt hai năm, tôi không muốn nói năng gì về chuyện Việt Nam. Khi về lại Mỹ, đáng lẽ phải viết ngay một tờ khai các vật dụng mất mát để được chính phủ bồi thường, khoảng đâu mỗi Mỹ kim được nhận lại mười xu. Tôi đã bỏ lại rất nhiều đồ đạc, áo quần, giấy tờ hình ảnh cá nhân, nhưng phải đúng một năm và mười một tháng sau, tôi mới có thể ngồi xuống đặt bút viết tờ khai.

Trở về Mỹ tôi cảm thấy mình như một con ngốc vì mỗi lần nghe tiếng động lớn tôi vẫn chúi mình núp dưới đất. Những chiến binh đều đã trải qua kinh nghiệm này. Phải một hai năm sau mới hết. Rồi lại lan man nghĩ ngợi đến những người bên kia, giờ này họ ra sao. Đấy là một giai đoạn thực quan trọng của đời tôi. Thỉnh thoảng tôi nói những chuyện ấy với người ở bên đây, nhưng đôi khi tôi cảm thấy mình thật lạc lõng như người tự cung trăng. Có người cũng chú ý lắng nghe, nhưng chẳng ai có ý niệm gì về tất cả những điều tôi đã trải qua.

Ngay bây giờ, trong lúc nói chuyện với ông đây, tôi vẫn đang run rẩy. Mỗi lần nói về những chuyện này, tôi không bồn chồn hốt hoảng, nhưng vẫn đầy xúc động. Tất cả những gì trải qua, giờ đây đã là những xúc động in đậm trong lòng tôi.

Tôi cũng có lúc nghĩ rằng ký ức cá nhân tôi và những chuyện của thời đã qua được tô điểm bằng những màu sắc của một chuyện tình, vì Việt Nam là nơi tôi gặp chồng tôi, việc ấy đã làm cho tôi có một cái nhìn khác biệt về xứ sở này chăng. Tôi yêu mến xứ sở này bởi vì đó là nơi tôi đã trải qua những tháng ngày hạnh phúc. Tôi nghĩ những người khác vì không có cái gắn bó như thế, biết chừng đâu họ có thể nhìn mọi việc với một nhãn quan khác chăng. Phần tôi, tôi đã đạt được một cuộc hôn nhân nhiều hạnh phúc.

Cho nên trong trí nhớ, tự nhiên tôi chỉ muốn hồi tưởng lại những gì hạnh phúc. Tôi cũng chỉ còn muốn nói đến những gì hạnh phúc. Những hạnh phúc ấy, như ngồi với chồng tôi trên một bãi biển ở Vũng Tàu năm xưa, nhấm nháp một cốc rượu sâm-banh mà nhìn ngắm chiến tranh, nhìn ngắm một đám khói đen như đám mây khổng lồ bay đến từ những vùng đất đang cầy lên bom đạn, rồi tự bảo “Không thể nào tin nổi. Chúng ta đang ngồi đây, trên một bãi biển đẹp nhất thế giới, nhìn cuộc chiến tranh này mà nhấm nháp một cốc rượu sâm-banh.”

Loài thú biến dị

haihac

Thời thế đã thay đổi – những con cá ngựa đang ngo ngoe trong cái chậu lớn. Chúng đang tiếc nuối về những móng vó và những bắp chân khỏe – sức dai -hí vang – phi nhanh. Tại thủ phủ ở xứ trầm hương, thành phố nằm dọc bờ biển người ta bày bán la liệt đủ mọi hình thức: sống, vừa chết còn tươi, khô và có cả dạng đã tán nghiền thành bột mịn. Ở những nhà hàng đặc sản người ta còn chưng cả loài cá ngựa chễm chệ trên danh sách thực đơn với các món chiên giòn, hấp cuộn rau sống hay chưng thuốc bắc…Bàn dân thiên hạ đã thi nhau ùa về rất đông đúc: quốc nội có, quốc ngoại có. Tất cả như đang chơi trò súc sắc cá ngựa trên cái mặt giấy nhỏ xíu. Chúng đua chen nhau về đích. Người ta đã gán cho thành phố có cái tên rất đặc biệt: ” vương quốc cá ngựa”. Người đua chen cùng với đủ vị của đồ ăn thức uống đầy men say mang thân xác biến dị của loài yên hùng thất thế. Nếu ai đó hỏi: ” loài cá ngựa phơi khô hay còn sống thì tốt hơn?”, người ta sẽ trả lời ngay lập tức: ” tất nhiên là loài còn sống”. Những con cá ngựa sẽ ngo ngoe như những tinh binh hùng mạnh. Chúng sẽ cho sinh ra những đứa con trai vạm vỡ, những bắp chân trùi trụi đen nhẻm như những đứa con trai của người dân xóm chài. Có những quý bà đến chợ, trên tay cầm theo một chai rượu đế hảo hạng, loại rượu đặc biệt nặng của làng Bàu Đá, bà cúi xuống cầm vợt bắt mấy cặp cá ngựa thật to, nhanh tay bắt lấy rồi thả nhanh vào chai rượu. Lũ cá ngựa ấy sẽ được uống rượu thật say mà đi vào cái chết một cách êm ái. Có ông còn máu hơn, mở cốp xe bưng ra bình rượu sung ngâm với bìm bịp và dăm bảy con tắc kè, ông vừa thả vào đó thêm mấy chục cặp hải mã – ông dặn trước chủ sạp chỉ lựa những con đực đang mang thai. Loài cá ngựa ở đây có đủ chủng loại: đầu ngắn, vằn, mõm dài, đen, gai…người ta tha hồ mà chọn lựa. Những đứa con trai từ đó sẽ được sinh ra đủ kiểu: đầu ngắn như lũ khỉ, mõm lợn dài như loài thú ăn kiến có bộ móng vuốc trước rất sắc nhọn – loài này có đôi tai vểnh lên như tai thỏ và đuôi của loài chuột khổng lồ có thân mình đầy những lớp vảy cứng, chúng mang một lớp giáp thật chắc chắn. Bọn chúng được xếp loại vào bộ thú thiếu răng, chúng nuốt chửng thức ăn rất nhanh và gọn. Điều kỳ lạ là những loài này chúng đã thay đổi khẩu vị từ khi chúng rời rừng xanh. Chúng không ăn mối mọt mà lại trở thành bạn của nhau. Cái gì chúng cũng có thể ăn được: bờ kênh, con mương, con sông, những hàng cây xanh tươi tốt, bê tông sắt thép gì cũng được chúng tiêu hóa sất. Chúng tiêu hóa cả những thi hài mang linh hồn của đất và biển. Chúng có loại ngôn ngữ rất đặc biệt: ngôn ngữ độc thoại.
– Chúng ta là loài biến dị hiếm có trên hành tinh này, để có được ngày hôm nay chúng ta đã phải đánh đổi thật nhiều thứ, chúng ta không cần tay chân và cơ bắp của loài người, chúng ta không cần trái tim của chúng, chúng ta có thể bơi để luồn lách rất nhanh, có thể tự mang thai và duy trì nòi giống– chúng nói với giọng rất tự hào.
– Thật quang vinh! – chúng tung hô – Loài chuột muôn năm ! Muôn năm!

Tiếng súc sắc của trò cá ngựa mỗi lúc một gần. Chúng reo reo. Nóng ruột.
Thực tế chúng là loài dễ bị thương tổn. Chỉ cần nghe thấy tiếng gió, chúng đã có cảm giác của sự bất an. Chúng luôn xù những lớp vảy cứng ra như loài nhím, vểnh đôi tai nghe ngóng như loài thỏ, và cái mũi luôn hít hít ngửi ngửi mọi thứ. Chúng như những con chuột chuyên nghiệp. Chúng đánh hơi và nhảy xồ tới tấp khi ai đó gọi tên thật của chúng hoặc chỉ là na ná. Chúng trấn an bằng máu, cái mùi máu của những con cá ngựa sặc rượu trong những chiếc thẩu kia.

*

Mấy chục năm sau.
Một cuộc hội thảo đã mở ra. Người ta quyết định khai quật lại hình hài của loài thú bị biến dị. Một loại gen kìa lạ được phát hiện. Ngay lập tức, chúng được đưa vào phục vụ cho một công trình nghiên cứu sinh học. Dưới kính hiển vi, những tế bào màu đỏ mang hình hài của loài cá ngựa bị đột biến gen. Chúng vẫn còn sống. Chúng đang há những cái mõm dài hít hít. Người ta đặt tên cho loài gen biến dị này là: loài sinh thể khát máu.
Xứ trầm hương vẫn đang nhộn nhịp, tiếng bán mua trả giá và từng cặp bọ ngựa được thả thẳng vào những thẩu rượu. Chúng đang có một giấc say dài để rơi vào cõi chết. Những tinh binh hùng hậu lại sinh ra những đứa con trai vạm vỡ và những bắp chân khỏe – sức dai -hí vang – phi nhanh. Chúng đang phi trong làn nước để kịp bắt lấy cái hình hài đã mất. Tiếng vó ngựa đâu đó vọng lại, tiếng răng rắc từ những chiếc nắp của những cái quan tài đang xếp hàng chờ xét nghiệm.
Kỳ lạ thật, người ta lại phát hiện chúng có những bộ xương y hệt một người đã quá cố hơn một trăm năm về trước, đặc biệt là cái hộp sọ ngắn hớt về phía sau như một loài tinh tinh. Chúng không còn nguyên trạng như trong trí nhớ hay nỗi ám ảnh kinh hoàng của rất nhiều người già còn sống kể lại.

Hình như có tiếng súc sắc tan trong gió, tiếng ngựa từ xa vọng lại dưới lớp lá mục. Từng đụn mối ùn ùn bò ra. Lúc nhúc.

HẢI HẠC

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, “Nhìn họ kìa, toàn những thiên thần”

nuocmattruocconmua

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, nguyên tác Anh Ngữ “Tears Before The Rain” là một tập sử liệu về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam, do Larry Engelmann, Giáo Sư Đại Học San Jose State thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn nhiều thành phần: người Mỹ, người Việt, kẻ thắng người bại …Những cuộc phỏng vấn này khởi sự từ 1985, sách xuất bản năm 1990. Bản dịch Việt Ngữ do nhà văn Nguyễn Bá Trạc thực hiện năm 1993, xuất bản năm 1995 tại California.

TRẦN TRÂM
“Nhìn họ kìa, toàn những thiên thần”

Tôi chưa bao giờ từng thấy quê hương tôi có hoà bình. Lúc nào cũng chỉ thấy lính, hoặc lính Việt, hoặc lính Mỹ. Bấy giờ tại Saigon, xóm tôi có hai căn nhà to lớn, kín cổng cao tường, bên trong có hồ bơi và đủ các tiện nghi giải trí. Người ta gọi đây là những biệt thự cho Mỹ ở. Những cánh cổng luôn luôn khoá kỹ. Thỉnh thoảng vài người Mỹ mở cổng cho những người Mỹ khác ra vào, rồi cánh cổng lại đóng chặt. Tôi nhớ khi còn nhỏ tôi vẫn tò mò đến nhìn. Họ có nuôi những con chó to để canh gác. Mỗi lần cửa mở, bọn trẻ lảng vảng đến gần nhòm ngó, nhưng khi chó ầm ĩ sủa thì ù té chạy. Đó là một trò chơi cho bọn chúng tôi. Đó là một nơi đầy bí mật. Và đối với lính Mỹ, lũ trẻ con cũng rất thân thiện. Chúng tôi thường vẫy tay mà nói “Hê lô, Salem”, như tên thuốc lá vậy. Họ cũng tươi cười vẫy tay. Lúc ấy chúng tôi ré lên mà chạy. Tôi kể cho ông nghe chuyện ấy bởi vì cuối cùng, khi đi khỏi Việt Nam, tôi đã từng rất ghét Mỹ. Những cảm xúc của tôi trải qua trạng thái biến đổi ngược ngạo chỉ trong thời gian ngắn, và tôi không biết chính xác tại sao đã xảy ra như vậy.

Cha tôi làm ăn với Mỹ bằng nghề may cờ. Một hôm, có mấy người Mỹ đến đặt cha tôi may khá nhiều cờ cho các đơn vị của họ. Họ muốn thêu hình con chó Snoopy lên mấy lá cờ. Họ đưa cho cha tôi xem tấm hình con chó Snoopy. Cha tôi bảo cái hình này xấu quá, người vẽ này chả biết vẽ con chó ra làm sao. Nên ông bảo để đó, ông sẽ vẽ lại. Lúc đầu, mấy người Mỹ đồng ý. Suốt ba, bốn ngày sau cha tôi cặm cụi vẽ một loạt hình đủ thứ chó. Rất giống. Con nào con nấy đều dữ dằn để thêu lên mấy lá cờ. Ông đắc ý, chắc mẩm họ phải thích công trình của ông lắm, những cái hình này giống hệt như chó thật. Nhưng mấy người Mỹ không thích chút nào. Họ kêu lên: “Không phải! Chúng tôi muốn con Snooopy kia!” Cha tôi không thể hiểu tại sao họ thích cái hình một con chó như thế. Chó mà chẳng giống chó, tức cười quá. Dầu bất mãn ra mặt, ông vẫn phải đồng ý làm cho họ một loạt cờ khác với hình chó Snoopy. Sau này cha tôi bình phẩm rằng bọn Mỹ không thích người Việt. Chúng không biết kính trọng các binh sĩ Việt Nam đang chiến đấu dưới lá cờ của họ. Bọn Mỹ có thể xông pha ra chốn hiểm nghèo để chết cho con chó Snoopy, chứ không phải cho người Việt Nam.

Rồi họ lại đặt ông làm một lá cờ Mỹ cỡ lớn. Cha tôi nghe nói hai Tiểu bang Hawaii và Alaska đã nhập vào Hiệp Chủng Quốc, ông muốn làm cho họ một lá cờ tân tiến, gồm đủ các tiểu bang mới. Cho nên ông cẩn thận cải tiến tấm hình lá cờ Mỹ họ giao cho ông. Ông nghĩ tổng cộng có 52 tiểu bang thì phải mang đủ 52 ngôi sao. Suốt mấy đêm, ông thức trắng để xếp đặt 52 ngôi sao cho được cân đối. Khi mấy người Mỹ đến nhận hàng, họ thấy có chuyện trục trặc, nhưng loay hoay chẳng rõ tại sao. Họ đếm mấy ngôi sao. Té ra có tới 52 ngôi sao tất cả, nhưng đành lấy vậy. Cho nên, lúc ấy ở một chỗ nào đó tại Việt Nam, có những người Mỹ đã treo lá cờ 52 ngôi sao cả thảy mà đứng chào.

Cha mẹ tôi là người Bắc di cư, rất chống Cộng. Người miền Bấc biết rõ Cộng sản, họ đã sống dưới chế độ ấy. Phần tôi mặc dầu nghe nói Cộng sản, Cộng sản, nhưng chưa bao giờ thấy mặt mũi Cộng sản ra sao, cho đến trước khi chiến tranh chấm dứt. Tôi cũng nghe những chuyện Cộng sản hay lén lút vào thành phố bí mật phao tin đồn, nhưng tôi chưa gặp gỡ tiếp xúc Cộng sản bao giờ. Tôi cũng chưa bao giờ nhìn thấy một xác chết nào tại Saigon cả.

Gia đình tôi là một gia đình âm nhạc, chỉ vì thích âm nhạc, chứ không hẳn giỏi nhạc. Sài gòn bấy giờ có một Nhạc sĩ nổi tiếng là ông Lê Văn Khoa, ông đã để ý đến gia đình tôi, vì các cô tôi thích nhạc. Ông sử dụng hết mọi người trong gia đình tôi vào các sản phẩm âm nhạc của ông. Ông dạy một số bản nhạc cho tất cả lũ trẻ chúng tôi, các cô tôi, cả mẹ tôi. Ông dạy chúng tôi một số bản vũ cổ truyền Việt Nam. Chúng tôi cũng tự chế ra một số bản vũ riêng. Thế rồi ông đưa tất cả chúng tôi đến các nhà thương, lúc đầu ở Saigon; sau, ra các vùng quê, nơi quân đội đóng. Chúng tôi đi đến các địa điểm mỗi lúc một xa Saigon hơn để giải trí cho binh sĩ. Có những bệnh viện ở các vùng quê chỉ là những dãy lều được dựng vội lên cho các thương binh.

Thỉnh thoảng chúng tôi đi trực thăng, đôi khi bằng xe Jeep. Đến những nơi đó, chúng tôi đều được giới thiệu với các thương binh, các bác sĩ mặc đồng phục. Đa số thương binh không bị nặng lắm, và đang bình phục. Những người đang bình phục thường đến lều thăm chúng tôi, đôi khi chúng tôi cũng đến tận lều họ để cho họ phấn khởi. Chúng tôi thường hát những bài ca vui tươi và luôn luôn được mọi người tán thưởng. Tôi cảm thấy đây là giai đoạn lãng mạn nhất đời tôi. Tôi cảm thấy mình là một thiên sứ mỗi khi trình diễn trong bộ đồng phục học sinh hoặc trong bộ quần áo trắng tinh. Tôi luôn luôn thích quần áo màu trắng vì tôi thấy mình như một nàng tiên bé nhỏ mỗi khi trình diễn.

Tuy nhiên, không khí ở đây làm người ta choáng váng. Mùi hôi hám bốc lên khủng khiếp, thường trời rất nóng. Nhưng tôi vẫn không để ý, vì tôi đã sung sướng ngất ngây khi được làm nàng tiên bé nhỏ cho các chàng chiến sĩ. Nên một bên là nỗi buồn bã khi nhìn thấy cái đau đớn, bên kia chúng tôi đóng vai vui sướng để tạo ra và tiếp nhận nguồn vui.

Ở Việt Nam, tuổi thơ được xem là thời gian của niềm vui và hạnh phúc. Những chiến sĩ muốn tin rằng vì sự hy sinh của họ, vì sự đau đớn của họ mà các thiếu nhi Việt Nam vẫn được sung sướng. Cho nên tôi đáp ứng lòng mong ước ấy bằng cách rũ bỏ đau buồn của riêng tôi, mà dù trong thâm tâm cảm thấy, tôi vẫn không lộ ra cho họ biết.

Suốt thời thơ dại của tôi, tôi không biết chuyện gì khác ngoài chiến tranh. Trên một mức độ, tôi đã tự bảo cuộc sống là như thế, đời là thế, vì tôi nào biết một cuộc sống khác đâu. Trên lý thuyết, tôi có thể phỏng đoán: có lẽ còn có những gì khác nữa. Nhưng tôi luôn chịu đựng một nỗi buồn trong thâm tâm, tôi chấp nhận như chẳng thế nào còn cách khác. Khi đến Mỹ, thấy như chẳng ai buồn khổ, thì nỗi buồn riêng tư trong tôi lại càng thấm thía sâu đậm hơn. Đến nỗi, có lúc tôi từng muốn hủy mình. Tôi cũng đã nói chuyện với nhiều người khác muốn tự tử sau khi tới Mỹ. Tôi nghĩ nhiều người Việt Nam cũng có một tâm trạng như tôi, nhưng chỉ vì tự ái mà không nói ra thôi.

Có một lần, trước buổi du ca của chúng tôi, chẳng may tôi đạp phải một cái đinh, sắp tham dự một buổi trình diễn lớn thì vết thương tấy mủ. Tôi bực bội vì muốn đi trình diễn mà vết thương đau quá. Cho nên tôi chịu đựng nó. Tôi sống với cái đau. Đến lúc đi, vết thương làm độc, trời nắng nóng, tôi đau và cái đau lộ liễu quá. Tôi cảm thấy lần đầu tiên trong đời tôi đã đau cái đau của những người lính. Tôi đau đớn mà vẫn phải giả tảng như không. Đấy, biết bao người lính đã sống cuộc đời như thế. Và tôi nghĩ, dầu hãy còn là một đứa bé con, tôi đã cố chia sẻ cái đau của những người lính trẻ. Lúc ấy thực khó khăn cho tôi. Tôi cảm thấy nỗi đau và những bất hạnh xảy ra khắp chung quanh, nhưng mọi người vẫn mong đợi ở tôi, một đứa bé gái vui tươi hạnh phúc.
Năm 1973 tôi nghe người ta đoán sau khi Mỹ rút, Việt cộng sẽ tấn công trở lại. Chẳng ai tin Việt Cộng sẽ tôn trọng Hiệp định Ba Lê. Có lẽ, Mỹ thì tin, ngoài ra chẳng ai tin cả. Sau khi Mỹ rút, hai căn biệt thự trong xóm tôi không còn lính Mỹ nữa. Bây giờ vẫn còn Mỹ ở, nhưng là Mỹ dân sự. Tôi tin Việt Cộng sẽ tấn công, nhưng tôi không sợ. Tôi luôn luôn tin phe chánh thắng phe tà. Tôi luôn luôn tin Cộng sản sẽ thua, và đến bây giờ mới nghĩ rằng quả đó chỉ là nhãn quan của đứa trẻ nhìn ra thế giới. Tôi đã được dạy rằng bên ngoài có một lực lượng tốt, đó là Hoa Kỳ. Họ giúp đỡ chúng tôi, đặc biệt vì chúng tôi là những người bị tấn công chứ chúng tôi không tấn công ai. Chúng tôi là những người bị xâm lấn. Dẫu cho họ có được một số trận chiến thì cuối cùng chúng tôi vẫn thắng thôi.

Vào năm 1975, hầu hết mọi người trong gia đình như các cô chú tôi đều đã ra đi từ đầu tháng Tư. Nhà cửa trống rỗng. Bà tôi bắt đầu đem đốt tất cả thư từ giấy tờ chứng tỏ chúng tôi có liên hệ đến chính quyền. Tất cả những gì Việt Cộng có thể thấy quá khứ chúng tôi, bà nhặt nhạnh đốt hết. Khi thấy bà lặng lẽ ngồi đốt giấy tờ, tôi hỏi bà ơi tại sao bà đốt. Bà không trả lời, nhưng rồi tôi cũng hiểu. Chúng tôi thiêu hủy mọi hình ảnh, tất cả, kể cả giấy tờ khai sinh. Bây giờ hồi tưởng lại, tôi vẫn còn nhớ căn nhà đã trở nên trống trải, nhiều người thân thích đã ra đi, những lá thư ra tro bụi, tất cả đã đổi thay hết cái không khí và tình cảm gia đình. Đó là lúc tôi ý thức được chúng tôi đã thua và chuyện ấy thực là trầm trọng.

Nhiều thân nhân tôi đã ra khỏi nước, đến được đảo Guam trên đường sang Mỹ. Mấy bà cô tôi làm cho Mỹ, tôi biết chắc chắn họ cũng sẽ ra đi. Những người ra đi không hề một lời từ biệt. Chỉ thấy một hôm, bỗng nhiên họ biến mất.

Tôi trở nên sợ hãi. Tôi nhớ tôi đã bật khóc vì không muốn phải đối diện với nỗi đe doạ Cộng sản tiến đến Saigon. Tôi lại còn sợ những gì đã xảy ra ở miền Bắc rồi đây sẽ xảy cho chúng tôi. Con người sẽ dòm ngó nhau, kiểm soát nhau. Trẻ con sẽ rình mò báo cáo cha mẹ. Cuộc sống mà chúng tôi đã biết trong quan niệm tự do rồi đây sẽ tan rã hết. Chúng tôi ngưng đến trường. Lúc nào cũng luẩn quẩn ở nhà vì giới nghiêm.

Tôi được gia đình dặn kỹ là không được hở môi từ biệt ai, như thế nếu lỡ không đi được thì cũng không bị kết tội bỏ nước. Chúng tôi giữ mọi thứ bí mật.

Vào ngày gia đình quyết định đi, tôi đang ở trong nhà thờ. Cha mẹ tôi kiếm tôi khắp nơi không ra. Sáng hôm ấy tôi đến nhà thờ, ở lại suốt ba Thánh lễ Chủ Nhật. Cho nên cha tôi đành bảo mẹ tôi mang hết mấy đứa trẻ đi trước, ông sẽ cố đi sau với tôi. Lý luận của cha tôi là hai người sẽ có nhiều cơ may hơn là cả chín người túm tụm với nhau.

Tôi rất sùng đạo. Suýt có lần đã trở thành nữ tu. Tôi rất sợ, và trong buổi rước lễ, tôi nghĩ tôi rất gắn bó với ngôi Thánh đường. Trong hai buổi lễ đầu, tôi đến giúp nhà thờ góp tiền quyên, rồi trong khi hành lễ, tôi coi hộ xe gắn máy cho các tín hữu khỏi bị mất cắp. Tới Thánh lễ thứ ba, tôi bước vào. Trong lúc đang ngồi, chợt một người bạn quen bước đến. Vừa thấy anh, đột nhiên tôi cảm thấy rồi đây chẳng bao giờ tôi còn được nhìn lại khung cảnh này nữa. Linh tính đã báo cho tôi biết. Tôi hiểu là anh tìm đến tôi. Anh lại gần nói thầm vào tai tôi làm tôi đứng sững. Anh ta bảo “gia đình đang tìm cô”. Tức khắc tôi hiểu chúng tôi sẽ ra đi. Hôm ấy là Chủ Nhật 27 tháng Tư.

Người bạn bảo lên xe gắn máy để anh chở đi, nhưng tôi từ chối. Tôi chạy một mạch về nhà. Tôi nhảy ngay lên chiếc xe Vespa của cha tôi, chúng tôi cố đuổi theo cho kịp những người trong gia đình đã ra đi. Suốt một tháng trường, chúng tôi đã gói ghém quần áo sẵn sàng để phòng bị ngày ra đi. Chúng tôi chạy đến một điểm đón xe buýt ra phi trường. Một người cô tôi đáng lẽ đã có thể đi từ trước, nhưng tình nguyện ở lại, cô biết nếu không có cô giao dịch mọi chuyện thì gia đình tôi không thể nào đi được. Cả gia đình tôi chắc chắn không cách gì ra đi, nếu cô không ở lại giúp đỡ chúng tôi.

Vài tuần lễ trước, một người cô khác bảo người cô này đến sở bà để dọn dẹp bàn làm việc của bà, rồi bất cứ có món gì đáng giá để lại cứ việc lấy. Vì thế bà cô này đã đến dọn dẹp cái bàn làm việc ấy. Tại văn phòng này có một ngưòi Mỹ vừa đến Việt Nam được có một ngày. Ông tưởng cô tôi là nhân viên trong văn phòng nên ông sai phái cô tôi đủ thứ việc. Chừng đến giữa ngày, ông hỏi cô tôi một số giấy tờ, cô tôi trả lời chẳng biết đâu. Ông ta quát mắng, bảo tại sao làm việc ở đây mà không biết gì. Cô tôi bảo là chỉ đến lau chùi hộ cái bàn làm việc cho người chị, chứ đâu có làm ở đây. Ông ta áy náy xin lỗi, nói với cô tôi rằng nếu cô chịu ở lại làm việc với ông thì bù lại, ông ta sẽ đưa cho cả gia đình ra đi.

Đó là nguyên do đã giúp gia đình tôi ra khỏi nước. Tôi vừa vui vừa buồn lẫn lộn. Buồn vì mặc dầu mới mười ba tuổi đầu nhưng đã đủ lớn khôn để hiểu việc rời bỏ đất nước ra đi là việc quan trọng đến đâu. Nhưng tôi cũng mừng vì tôi cảm thấy như thế là tôi sống sót.

Chúng tôi bắt kịp những người khác trong gia đình tại cao ốc, nơi xe buýt đến đón chúng tôi. Chúng tôi kẹt lại đó cho đến tận ngày 28. Chúng tôi ở trong cao ốc đợi, mãi đến sáu giờ chiếc xe mới tới. Chúng tôi suýt đã định về nhà nếu cha tôi không cản lại, bảo rằng ông đã mất công tìm kiếm mọi người suốt một buổi sáng. Cha tôi bảo tất cả phải ở lại, dẫu có ngủ đêm ở đấy cũng vẫn phải ở. Cách gì đi nữa, mọi người cũng phải ở sát bên nhau. Có một số người mất kiên nhẫn, họ đã ra về trước khi xe buýt tới.

Phi trường xảy ra vụ pháo kích đúng đêm 28. Người ta chạy túa ra núp ở mấy hầm cát. Nhưng cha tôi nói: “Bây giờ không được lạc nhau nữa. Nếu bom rơi trúng hầm cát thì cũng vậy thôi”. Do đó chúng tôi cứ chụm lại với nhau giữa trời đất. Chúng tôi không thấy máy bay, nhưng thấy lửa cháy và những vụ nổ tung lên.

Đối với trẻ con, chuyện đó rất kích thích. Tôi không đến nỗi quá sợ mà lại thấy hào hứng. Chỉ sau này khi đã đến Hoa Kỳ, sống trong cuộc sống an bình tôi mới bắt đầu nghĩ chiến tranh là chuyện bất thường. Nhưng lúc đó, chiến tranh là những gì rất bình thường đối với tôi, cho nên vụ pháo kích lại làm tôi sôi nổi.

Một năm sau khi đến Mỹ, chúng tôi tới phố Tàu ở San Francisco dự Tết Nguyên Đán, em tôi chợt vụt chạy, ré lên khóc. Lúc ấy em tôi mới năm tuổi. Nó vừa khóc vừa bảo: “Pháo kích! Pháo kích!” Tôi mới biết chuyện ấy chỉ hào hứng với tôi, nhưng với em tôi thì không hào hứng chút nào. Không phải chỉ có pháo kích mới làm tôi sôi nổi. Mọi thứ đã lẫn lộn pha trộn nhau trong những ngày tháng đó: Sướng vui pha lẫn kinh hoàng. Nửa này nửa nọ làm cho mọi cảm giác của tôi chia xẻ ra từng mảnh.

Đêm hôm ấy chúng tôi ở trong phi trường Tân Sơn Nhất. Ngày hôm sau, cuối cùng chúng tôi đi được bằng trực thăng. Chúng tôi thấy những người Thủy quân Lục chiến Mỹ từ trực thăng đổ tới phi trường. Tôi phải nói lính Thủy quân Lục chiến Mỹ rất đẹp. Tôi chăm chú nhìn khi họ đến. Bấy giờ ý nghĩ của tôi là: “Nhìn kìa! Toàn những Thiên Thần!” Đối với tôi, họ thực đẹp đẽ, bởi vì họ đã đến để giải cứu chúng tôi.

Cả gia đình chẳng ai biết nói tiếng Anh ngoài cô tôi, nên chẳng ai chuyện trò gì được nếu cô tôi không phiên dịch. Trong phi trường, người rất đông, tôi quan sát hết mọi gia đình. Việc quan sát các gia đình khác đối với tôi còn thú vị hơn là nghĩ ngợi về chính mình lúc bấy giờ.

Tôi thấy một bà bụng chửa rất to đi cùng với ông chồng. Mỗi lần di chuyển, lại thấy ông chồng nhét một mớ tiền dưới bụng bà vợ chửa, rồi dùng băng keo dán lại. Nhìn thấy như vậy khá mắc cỡ nhưng cũng thú vị. Đấy là lần đầu tiên trong đời tôi thấy rõ bụng đàn bà chửa, và thấy một người đàn ông lấy băng keo dán tiền dưới bụng bà. Bà ta chắc sẽ sanh đứa nhỏ trên tàu, vì lúc ấy bụng chửa đã lớn lắm rồi.

Đêm hôm ấy chúng tôi đổi chỗ hoài vì có nhiều đàn ông trong tuổi lính. Nếu Cộng sản đến, họ bị bắt, mà Cộng Hoà đến thì cũng chẳng tha. Ông xếp Mỹ của bà cô tôi lúc ở phi trường cũng tận tình săn sóc chúng tôi. Ông rất tử tế, nhưng tôi không nhớ được tên ông ta. Lúc ấy tên Mỹ đối với tôi xa lạ quá.

Trẻ em đều im lặng vì chúng tôi cảm thấy được là tình hình nghiêm trọng. Người Mỹ mang cho chúng tôi đồ hộp. Khi họ đi rồi, đồ ăn vung vãi khắp phi trường. Tôi còn nhớ một miếng phô mai to tướng bỏ lại. Trước kia mấy thứ ấy ở Saigon đắt kinh khủng, giờ đây trở thành miễn phí, chúng tôi ngấu nghiến ăn phô mai bằng thích. Lại còn cả những hộp súp mì gà hiệu Campbell. Đang đói lại được ăn thoả thích. Bấy giờ có một nhóm người đứng thành hàng để dọn súp mì gà Campbell cho chúng tôi ăn, nhưng chúng tôi không biết họ là ai.
Tôi chỉ có một túi nhỏ, nhưng khi ra đi, phải vứt cái túi lại vì trực thăng không chở nặng được. Nhưng lúc ấy tôi đã mặc hết vào người đến ba cái quần, ba cái áo. Cần nhất là phải lo đứng chung với nhau cho khỏi lạc. Bấy giờ em gái tôi mới lên bốn, đứa kế lên sáu. Khi người ta bảo chạy, tất cả mọi người trong gia đình chụm lại chạy, cả đứa em bốn tuổi cũng đã chạy rất nhanh. Nó hiểu chuyện ấy bấy giờ quan trọng đến đâu.

Chuyến trực thăng chở chúng tôi đi là chuyến cuối cùng. Đáng lẽ chúng tôi được đi với nhóm đầu nhưng vì chúng tôi quá bi quan về việc ra đi, nên khi người ta kêu tên, chúng tôi đã không lên chuyến bay đầu tiên. Vì thế chúng tôi phải chờ suốt ngày, người ta không kêu tên chúng tôi nữa. Chúng tôi vừa bắt đầu sợ không có tên trên danh sách thì một ngưòi Mỹ tiến lại hỏi. Cô tôi trả lời. Ông ta nói gia đình tôi đã được kêu tên trước rồi sao chưa đi. Vì thế chúng tôi được đi buổi chiều tối hôm đó.

Tôi đã từng đi hát cho lính bằng trực thăng nên đây không phải là lần đầu tiên lên trực thăng. Nhưng lần này tôi ý thức được là phút giây hệ trọng. Cả gia đình có mười ba người, gồm chín người trong gia đình trực tiếp,- tức là cha mẹ và các chị em chúng tôi – rồi thì cô tôi, bạn cô tôi và ông bà tôi bước vào chiếc trực thăng. Chúng tôi đã chờ lâu quá. Tôi nhớ khi chiếc trực thăng đầu tiên bay tới, người ta gọi người Mỹ đi trước, rồi đến lượt người Việt. Bấy giờ ai nấy đều lo bị bỏ, nhưng họ hứa. Họ bảo: “Đừng rối lên, chúng tôi sẽ trở lại đón quý vị”. Chúng tôi chờ khoảng một giờ nữa thì đột nhiên đủ các loại trực thăng bay tới trên đầu chúng tôi. Mọi người vỗ tay, vẫy, khóc, người thì cầu nguyện. Ai nấy đứng cả dậy, quá vui mừng.

Trước đây khi thấy người Mỹ để lại đồ ăn thức uống trong phi trường, cha mẹ tôi đã lo người ta bỏ rơi. Phản ứng của cha mẹ tôi và tôi thực khác nhau. Phần tôi, mặc dầu biết phút giây nghiêm trọng nhưng cũng không kiềm được vui mừng với những đồ ăn mà lần đầu tiên trong đời mới thấy nhiều như thế. Khi Mỹ đi rồi, những người làm cho Mỹ bưng đồ ra ăn tùy thích, chả khác đồ ăn từ trời rơi xuống.

Khi người Mỹ quay trở lại, trời vẫn còn ánh sáng ban ngày. Trước khi nhìn thấy họ, chúng tôi đã nghe thấy và tôi chợt có cảm giác sung sướng biết bao. Từ lúc rời nhà thờ cho đến lúc lên trực thăng, tôi đã có cảm giác sẽ đi được và tôi đã giữ niềm tin suốt lúc ấy. Cha mẹ tôi và những người chung quanh có lo lắng, riêng tôi không lo lắng gì.

Tôi nhớ khi trực thăng đến, gió cánh quạt đã đẩy chúng tôi lui lại. Em tôi nắm chặt lấy tay tôi mà đỡ gió. Tất cả chúng tôi ào chạy tới cho nhanh, nhoài mình về cái trực thăng. Tôi nhớ một lần còn bé khi một cơn bão từ đại dương thổi vê cũng giống hệt như vậy. Ở cửa trực thăng có hai ba người Mỹ giúp chúng tôi vào. Tôi nhớ chúng tôi đã chạy lọt giữa mấy người Mỹ, một người bế bổng tôi đưa vào trực thăng. Tôi được dịp ngồi bên cửa sổ cạnh người bạn của gia đình tôi. Ông ta bảo “Cầu nguyện đi”. Ông muốn tôi đọc kinh Cám ơn. Rồi ông ta bảo: “Hãy nói cám ơn!” Tôi nhìn ông ta và chợt thấy mắc cỡ. Mắc cỡ hết sức. Bởi vì đột nhiên đó là giây phút đầu tiên tôi thấy tôi ghét người Mỹ quá.

Tôi cảm thấy rất tổn thương. Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ khi chiếc trực thăng cất lên. Cảnh tượng cuối cùng tôi thấy ở Saigon là một màu đỏ rực chiếu từ mặt trời, trên những ngọn lửa hắt ra.

Tôi không còn hào hứng gì. Lúc ấy tôi bắt đầu thấy ghét người Mỹ. Tôi đã bị chấn thương. Khi máy bay cất khỏi mặt đất, tôi ý thức có một điều tệ hại lắm đang xảy ra. Tôi cố khóc, nhưng chỉ dăm ba giọt nước mắt chảy xuống chứ không nhiều như tôi muốn. Tôi muốn bi thảm hóa những cảm xúc trong tôi, nhưng chỉ có vài giọi nước mắt còn sót lại. Tôi ngồi bên cửa sổ nhìn, thấy những người hãy còn lại Tân Sơn Nhất. Họ bé dần đến khi mất hẳn.

Chúng tôi qua bãi biển, rồi ra tới biển Nam, tôi đều nhìn thấy hết qua cửa sổ. Nhưng những cảnh tượng Saigon mới làm tôi nhớ đến rõ rệt nhất. Tôi không biết những người khác đang làm gì, họ có khóc hay không, vì cuối cùng tôi đã tự chặn lại hầu hết những ký ức khác trong ngày hôm ấy. Chiếc trực thăng rất đông người.

Tôi không sợ hãi. Tôi có một cái cảm giác khá vô lý là tất cả mọi chuyện đều ổn thoả. Một trong những ý nghĩ cuối cùng của tôi là đã không mang theo một nắm đất Việt Nam. Tôi đã đọc đâu đó trong một câu chuyện lãng mạn về một chàng đàn ông đã mang theo nắm đất của quê hương chàng. Tôi cũng định làm như thế, nhưng với đủ các chuyện đã xảy ra ở phi trường nên tôi không còn có dịp. Tôi đã bi thảm hoá mọi chuyện, có lẽ tôi không nên làm như thế.

Chúng tôi đáp xuống tàu Midway. Sau khi chúng tôi đến khoảng hai tiếng đồng hồ, họ đưa cho chúng tôi một sợi dây thừng để nắm lấy mà bước qua boong tàu. Trên con tàu, tôi vẫn còn những cảm giác lẫn lộn. Tôi hãy còn phật ý, nhưng cùng một lúc lại thấy những người Mỹ đẹp quá, bây giờ họ chính là những người bảo vệ chúng tôi. Tôi cảm thấy phải đặt niềm tin vào những người lính Mỹ trên chiếc tàu Midway này. Họ có một thể lực đẹp đẽ, cao lớn và khoẻ mạnh.

Rồi chúng tôi được chuyển sang một chiếc tàu nhỏ. Tôi còn nhớ mãi là mặt biển cứ dập dờn và con tàu lên cao xuống thấp. Ba ngày trời rồi không có đồ ăn. Một trong những giả thuyết là có lẽ trên tàu không đủ tiếp liệu, họ phải giữ đồ ăn cho lính Mỹ trên tàu. Giả thuyết thứ hai là họ muốn cho chúng tôi đói lả để chúng tôi khỏi phải gây sự với nhau hoặc với họ đấy thôi.

Mẹ tôi bảo thằng em tôi ngủ đi, nhưng nó kêu suốt ngày không ăn, đói quá. Chúng tôi có nước, nhưng lại chẳng có gì ăn. Cuối cùng tôi ăn vụng một ít đồ ăn. Đến bây giờ tôi hãy còn mắc cỡ. Tôi khám phá được một thùng cá hộp vẫn để ở một chỗ, tôi nhón lấy vài con rồi đậy hộp lại. Ngon hết nói. Mùi cá tanh và lạnh, nhưng lúc ấy rất ngon. Sau đó tôi phát bệnh, nhưng tôi không thể nói cho ai biết là tôi đã lấy trộm cá hộp mà ăn.

Chiếc tàu nhỏ chuyển chúng tôi đến Phi Luật Tân. Trên tàu, tôi cứ nghĩ mãi về Tân Sơn Nhất và những đồ ăn vất ở đấy. Phải chi lấy một ít đem theo. Trên tàu chúng tôi nằm chật cứng, ngủ ngay trên sàn. Còn đến Subic thì như thiên đàng, chúng tôi ở lều, nhưng ngủ có nệm đàng hoàng. Chúng tôi được chích thuốc, chủng đậu trước khi sang Guam.
Người ta cũng cho chúng tôi tắm rửa để khỏi mang chấy rận sang Guam rồi đưa chấy rận vào đất Mỹ.

Gia đình tôi muốn đến định cư ở California vì chúng tôi nghe nói ở đây có nhiều người gốc Á Châu và ở đây khí hậu tốt. Vì thế, lúc ở Guam, khi người ta bảo có chỗ đi Fort Chaffee thuộc Tiểu bang Arkansas, gia đình tôi từ chối. Chúng tôi muốn đi California chứ không muốn đi Arkansas. Do đó chúng tôi phải ở lại Guam lâu hơn.

Chúng tôi không biết gì nhiều. Nhưng hễ biết được gì, chúng tôi dứt khoát. Chúng tôi biết chúng tôi muốn đến California.

ĐÃ XA ĐANG LÚC CÒN GẦN

nguyendangtrinh

*tặng những lứa đôi sắp xa… mùa đôi lứa!

bởi bắt đầu từ những bài thơ
nên cuộc tình hai người hư huyễn quá
và từ bao giờ chẳng rõ
giữa đôi bên đã nước lửa nhau rồi

cô không còn tươi tắn nét môi
anh rị mọ đêm ngày trên trang viết …
cận kề nhau mà cứ như xa biệt
tít bắc nam hai cực địa cầu

sợi tình tưa mỗi phía giữ một đầu
không dám dằn e lỡ tay sẽ đứt
kèn cựa mãi cả hai chừng đuối sức
mà buông ra… chẳng biết rồi thì?

anh với cô như hai kẻ đang thi
mà không thể cậy ai làm giám khảo
suốt bốn mùa hầu như đang chống bão
dẫu quanh năm tổ ấm rất yên lành

bởi bắt đầu từ những bức tranh
nên cuộc tình hai người thần bí quá
thơ với tranh đều không có giá
đâu biết bao nhiêu mà trả cho vừa?…

nguyễn đăng trình

NGƯỜI ĐÀN BÀ LƯỢM LON TRÊN XỨ NGƯỜI

chuthuynguyen

người đàn bà quấn khăn len lưng còng, chân trong ủng
đẩy chiếc xe đầy vỏ chai, lon rỗng, giấy thùng
bao nhiêu năm đẩy tội nợ vì ai ?
ì ạch đẩy mỗi ngày mắt ngóng về quê hương xa tắp

người đàn bà đến với mảnh đất bà chưa từng nghe hứa
mảnh đất chỉ do sự tự hứa của bà
người đàn bà đẩy những vỏ lon, vỏ chai vừa nhặt
như đẩy mớ hành trang khẩn thiết của đời bà

người đàn bà vẫn chưa quên vì sao bà nên nỗi
nhưng tạm nuốt vào thôi vì con cháu bên nhà
vũng nước mưa dưới chân đâu đáng ngại
bão tuyết quất rát rạt má môi nào có sá gì

ga khuya sáng choang và tiếng rít của đoàn tàu
chiếc xe đẩy đã đầy vun niềm vui sướng
tuyết vẫn cứ vô tình rơi. mặc tuyết
trong buốt lạnh cánh tay gầy như rời ra khỏi nách

người đàn bà quấn khăn len lưng còng chân trong ủng
vẫn cố đẩy món gia tài chiu chắt đượcmỗi ngày
nhặt từ thùng rác các quán ăn hay hè phố
gởi chút tiền còm cho đứa cháu nội thất học ở Việt Nam

người đàn bà nhặt từng cent hạnh phúc đời bà
trong thùng rác nơi xứ người !
trong thùng rác nơi xứ người !
cho cháu bà nở nụ cười lem luốc tận bên kia …

Chu Thụy Nguyên

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, “Chúng tôi bật khóc khi nhận ra rằng: Thôi thế là xong”

nuocmattruocconmua

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, nguyên tác Anh Ngữ “Tears Before The Rain” là một tập sử liệu về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam, do Larry Engelmann, Giáo Sư Đại Học San Jose State thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn nhiều thành phần: người Mỹ, người Việt, kẻ thắng người bại …Những cuộc phỏng vấn này khởi sự từ 1985, sách xuất bản năm 1990. Bản dịch Việt Ngữ do nhà văn Nguyễn Bá Trạc thực hiện năm 1993, xuất bản năm 1995 tại California.

VŨ THỊ KIM VINH
“Chúng tôi bật khóc khi nhận ra rằng: Thôi thế là xong”

Năm 1961, mẹ tôi sinh tôi ở Tây Ninh rồi đưa tôi về Saigon. Chúng tôi là người Công giáo. Cha mẹ tôi có mười người con, tôi là con giữa. Tôi có sáu chị lớn, hai anh trai và một em gái. Bây giờ tôi chỉ còn lại một anh trai. Một người đã mất vì chứng sưng ruột mà anh bị từ lúc còn ở trong trại tỵ nạn Mã Lai. Vượt biên đến Trại, anh đã mổ một lần tại đây. Sang Mỹ, mổ thêm năm lần nữa, chết lúc hai mươi bảy tuổi.

Tôi vẫn còn nhớ chiến tranh diễn ra từ khi tôi còn bé, vì tôi thường được mẹ tôi đưa đi thăm ba tôi, lúc ấy ở trong quân đội, đóng tại tỉnh Bình Dương. Lúc còn bé, có lần đau nặng, tôi đã xuống ở với ba tôi vài tháng để nhờ các Bác sĩ Quân Y săn sóc cho tôi. Những gì làm tôi nhớ nhiều đến cuộc chiến và những hiểm nguy của cuộc chiến là vào năm 1968, khi Cộng sản tấn công trong dịp Tết. Lúc ấy gia đình tôi đang ăn trưa, cha tôi nhận điện thoại của ông Tướng bảo phải trở về đơn vị ngay lập tức. Mọi người trong gia đình đều lo lắng vì đang dịp Tết, ai nấy đang vui Xuân. Chỉ còn mẹ tôi bên cạnh, chúng tôi đều lo sợ cầu cho cha tôi được tai qua nạn khỏi. Mẹ tôi hết lòng khấn nguyện. Cha tôi lúc ấy là Trung tá trong quân đội.

Tôi rất hãnh diện về cha tôi. Ông hồi hưu từ trước 1975. Sau những trận đánh 1968, ông đã nhận được nhiều bằng tuyên dương công trạng của Tổng thống Nixon và của tướng Westmoreland, bởi chính ông là người đã lấy lại tỉnh Bình Dương, mở đường cho các đơn vị khác, do đó Cộng sản bị đánh bại. Ông là người rất can đảm. Sau đó xin về hưu, ông nghĩ mọi chuyện dây dưa quá nhiều đến chính trị. Cha tôi đã du lịch nhiều nơi. Ông nói được tiếng Anh, tiếng Pháp. Ông không xa lạ gì với đất Mỹ vì ông đã từng được đi huấn luyện ở Mỹ.

Khi dư luận xôn xao về những chiến thắng của Cộng sản vào năm 1974 và 1975, chúng tôi không lo lắng vì lẽ cha tôi tỏ vẻ không quan tâm. Cả đến khi họ tiến tới gần Saigon, chúng tôi vẫn không lo, cha tôi tin Cộng sản sẽ chẳng bao giờ thắng nổi.

Chị tôi lấy một người chồng, anh này có một người cha giàu có. Cha anh quen biết nhiều sĩ quan cao cấp trong chính quyền ông Thiệu, biết rõ tình hình xảy ra. Anh rể tôi khuyên cha tôi nên thu xếp tiền nong, gói ghém quần áo ra khỏi Việt Nam vì lẽ đã tuyệt vọng rồi, đồng minh không giúp chúng tôi nữa. Lúc ấy khoảng đầu tháng Tư.

Cho đến 21 tháng Tư chúng tôi vẫn tin là với một quân đội và binh lính mạnh mẽ, không cách gì thua được. Mặc dầu chúng tôi không ưa chính quyền ông Thiệu, nhưng chúng tôi cũng chẳng thích gì Cộng sản. Chúng tôi đâm ra bối rối. Nghe dư luận bảo Cộng sản sẽ tiến đến thiết lập một chính quyền mới, nhưng chúng tôi chẳng còn gì khác để tin, chẳng có một đường lối nào ở giữa để chiến đấu. Mặc dầu chúng tôi đã chiến đấu, nhưng đó chỉ vì bó buộc mà phải chiến đấu thôi.

Chúng tôi đều đã chán ngán chiến tranh. Chúng tôi sợ cho gia đình và tính mạng lâm nguy nếu Cộng sản chiếm đóng. Và vấn đề là, đến giữa tháng Tư, thì những người quan trọng trong chính quyền bắt đầu di tản cả. Điều ấy làm cho mọi việc náo loạn, kinh hãi. Sau đợt di tản đầu tiên, nhiều người đã trở nên hoảng hốt.

Chú tôi làm việc cho ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến. Ông xếp đặt cho những người rời khỏi nước, đưa họ ra phi trường lên máy bay. Khi mất Ban Mê Thuột, rồi mất đến Nha Trang thì mọi người thất kinh. Gia đình tôi bắt đầu kiếm đường đi, chỉ vì thấy ai cũng đi cả. Quan niệm gia đình Việt Nam là quan niệm gia đình mở rộng, họ hàng gần gũi thân thiết nhau. Nếu gia đình này đi mà gia đình khác không đi, người ta thấy vắng vẻ buồn bã vì không có thân nhân bên cạnh, cho nên người này đi, người khác cũng đi. Nhưng gia đình tôi bị kẹt, chính vì có quá nhiều lựa chọn. Một người chị tôi làm cho ngân hàng Mỹ. Chị cho biết ngân hàng của chị sẽ di tản nhân viên, họ sẽ cho chị mang theo một người nữa. Gia đình tôi quyết định cho một chị nữa đi cùng. Và rồi một người chị khác, là người lấy chồng con nhà giàu, cũng muốn mang con đi. Bà chị này đi sớm hơn, ra đến Tân Sơn Nhất mới biết hễ ai lọt qua cổng phi trường là đi được, không hạn chế gì. Chị ấy cố tìm cách điện thoại kêu chúng tôi đi, nhưng điện thoại tại phi trường kẹt. Cả một hàng dài người đứng chờ nên không thể nào gọi được. Nếu chị ấy gọi được, có lẽ chúng tôi đã cùng đi được với chị ấy rồi. Chị có đứa con tám tháng, lại thêm đứa nhỏ của người chị khác nữa, cứ phải lu bu cho bú. Đêm hôm ấy, chị bay được sang Guam. Sau đó gia đình tôi bắt đầu gặp hết chuyện này đến chuyện khác. Người anh rể tôi trở về nhà thì cha mẹ anh ấy đã đi cả mà không hay. Anh hoảng hồn tìm đến chúng tôi. Bấy giờ anh đang ở trong Không quân, lại về Saigon không giấy phép. Chúng tôi phải đưa anh trốn rồi tìm đường cho anh đi trước.

Người chú làm ở ủy Hội Kiểm Soát Đình Chiến cố giúp đưa tên anh vào danh sách. Nhưng nhiều người biết anh là con triệu phú, người ta nghĩ anh phải mang nhiều vàng và đô la lắm nên có người báo cảnh sát. Anh ấy là phi công. Bấy giờ luật không cho quân nhân được rời Việt Nam không giấy phép, nên nếu anh bị bắt thì có thể bị bắn không cần xét xử gì. Anh bị bắt ngày 27 tháng Tư, vì thế chúng tôi kẹt lại. Mẹ tôi là người rất tử tế. Một người đàn bà can đảm với trái tim vàng. Đôi khi bà lo lắng cho người khác còn hơn cả cho con đẻ của mình. Thấy anh rể tôi bị bắt, mẹ tôi bảo bà chỉ chịu đi khi nào thấy tận mắt anh rể tôi lên được máy bay.

Hôm 28, chị tôi – vợ của anh phi công , ra đi. Chị có thai nên đi trước. Mẹ tôi hỏi tôi có muốn đi theo săn sóc cho chị không. Tôi trả lòi tôi muốn, nhưng em tôi lại thân với chị tôi hơn. Nó khóc khi thấy chị tôi đi. Vì thế tôi đã rất ngu mà bảo nó thay chỗ tôi mà đi. Quyết định này làm tôi phải trả giá năm năm dưới chế độ Cộng sản.

Tất cả những vấn đề lôi thôi gây ra là do chú tôi. Đáng lẽ phải lo cho bà con đi trước, ông lại lo cho những người giàu có hơn, họ trả ông vàng và đô la, vì thế ông đã trì hoãn những chuyến đi của chúng tôi để sắp đạt cho các người lạ đi thế vào. Tôi không trách chú tôi vì ông cần tiền, ông phải lo cho gia đình, và chẳng biết ngày sau sẽ ra sao. Phần ông cũng định sẽ đi sau chót. Một hôm về nhà ông nói: “Trời ơi! Hôm nay có tới ba chỗ trống người ta bỏ chuyến đi. Đáng lẽ em có thể xếp cho chị đi được”. Mẹ tôi rất giận, hỏi sao chú lại đối xử với chúng tôi như thế. Chú tôi chỉ bảo chú không có thì giờ.

Chính chú tôi cũng bị kẹt. Hôm 29 là ngày cuối cùng, chú về nhà khóc mà nói: “Tuyệt vọng rồi”. Mẹ tôi kinh hoàng hỏi chú tại sao. Chú tôi đáp các nhân viên ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến đã đi hết, chú tôi không đi được. Ở Tân Sơn Nhất người đông quá, chú không lọt qua nổi. Các nhân viên khác không đợi, họ đã đi cả.

Chị tôi bèn gọi cho người bạn làm ở Tòa Đại sứ Mỹ, nhưng điện thoại đã cắt, nên chúng tôi tới thẳng Tòa Đại sứ. Hôm ấy là 28, một đám đông đang vây quanh khu này. Người ta la thét, khóc lóc, xô lấn nhau tìm cách vào cổng. Bấy giờ lại có những người biết gia đình nào đã đi thì họ tràn vào nhà hôi của: lấy tủ lạnh, bàn ghế V..V… Bọn hôi của có thể là bất cứ người nào trên đường phố.

Đến Tòa Đại sứ, chúng tôi biết chẳng cách nào vào được. Bây giờ tôi không thấy sợ hãi, chỉ bực bội giận dữ, và tê hết cảm giác. Tôi cứ nghĩ “Thế này thực không công bằng”. Tôi không thể hiểu vì sao mọi chuyện đã xảy ra với dân tộc tôi như thế. Nhưng ai có thể nói là có công bằng trong cuộc đời này?

Tôi còn nhớ lúc ấy trời mưa, cha mẹ tôi bảo không thể nào đứng đợi mãi, nên chúng tôi quay về kiếm đường khác. Chúng tôi cần về nhà cũng vì cũng lo bọn hôi của có thể đến nếu họ thấy chúng tôi đi lâu quá. Nhưng khi về nhà rồi, cha tôi không muốn đi nữa. Bà nội tôi vẫn còn ở ngoài Bắc, tôi biết cha tôi muốn gặp lại bà. Ông bảo thôi bất kể chuyện gì xảy ra, ít nhất cũng được gặp lại mẹ và các chị em của ông. Nhưng mỉa mai thay, cha tôi sẽ không bao giờ có dịp gặp lại bà tôi. Ông bị đi “cải tạo”, và bà nội tôi mất trong khi ông hãy còn đang cải tạo.

Ngày 29 chúng tôi mở truyền hình xem chương trình cuối cùng của chính phủ tự do. Chúng tôi nghe ông Vũ Văn Mẫu lên án người Mỹ, yêu cầu người Mỹ ra khỏi xứ. Chúng tôi thấy một người trong đám sinh viên cấp tiến từng bí mật hoạt động cho Cộng sản nay mới ra tù, lên tuyên bố rằng: “Bây giờ là lúc thanh niên sinh viên học sinh hãy sửa soạn đón chào niềm vui mới. Niềm vui thống nhất đất nước Việt Nam”.

Lúc ấy tôi ngây thơ hy vọng người ta sẽ không phản bội lời nói mình. Tôi nghĩ những người bên kia cũng yêu nước, như thế có lẽ mọi sự cũng ổn thoả thôi.

Sáng sớm 30 tháng Tư, tôi không thấy có quân đội nào trên đường phố. Chừng chín giờ sáng mở máy phát thanh thì nghe tướng Minh kêu gọi quân đội ngừng chiến đấu. Ông tuyên bố cuộc chiến chấm dứt.

Chừng buổi trưa chúng tôi thấy bộ đội Cộng sản đi xe Jeep có cắm cờ chạy qua nhà tôi. Điều đầu tiên sau khi thấy họ là chúng tôi đi thay quần áo. Chúng tôi đều đổi sang mặc quần áo đen. Dư luận nói họ không thích thấy ai ăn mặc tử tế vì lẽ như thế chứng tỏ có tiền, sẽ bị họ giết. Tướng Minh tuyên bố ông không còn là Tổng Thống nữa. Chúng tôi bật khóc khi nhận ra rằng thế là xong. Cha tôi cũng khóc.

Tôi là người đem đốt tất cả giấy tờ văn bằng mà cha tôi đã nhận được do người Mỹ và do chính phủ cấp, các giấy tờ do ông Thiệu, do Nixon và tướng Westmoreland đã gửi cha tôi để cám ơn về các công tác ông đã thực hiện. Tôi cũng đốt hết các hình ảnh cha tôi vẫn giữ làm kỷ niệm. Tôi bật khóc. Tôi lên sân thượng, thấy chiếc máy bay cuối cùng rời khỏi nước, một chiếc DC-3. Tôi thấy cái máy bay cố cất cánh, rồi bùng nổ trong không trung. Tôi thấy rõ một cái hỏa tiễn bắn trúng, cái máy bay bùng nổ. Tôi thấy những mảnh vụn và những thây người rơi ra ngoài trời rồi rơi xuống đất. Đó là buổi sáng ngày ba mươi.

Chúng tôi cũng thấy một chiếc trực thăng quần trên ngôi nhà một Bác sĩ quân y, cũng là Giám đốc quân y viện. Chiếc trực thăng cố bốc ông Bác sĩ ra đi, nhưng cái dây hơi ngắn, thả xuống không đủ, ông không sao lên được. Chiếc trực thăng quần trên ngôi nhà một lúc, nhưng ông Bác sĩ không vào nổi, chiếc trực thăng bay đi, bỏ ông lại. Bao nhiêu người đang cố tìm đường đi, đây là người có phương tiện ra đi, nhưng không vào trực thăng được.

Sau ngày 30, người ta vẫn có thể rời khỏi Việt Nam khá dễ dàng. Nhưng kẻ chiến thắng vẫn còn bận ăn mừng nên đã không kiểm soát mặt biển kỹ càng. Cha mẹ tôi cố tìm cách trả tiền kiếm tàu đi. Nhưng trên đường, cha mẹ tôi gặp mấy người lính Cộng sản đi nhờ xe. Cha mẹ tôi nói chuyện với họ, họ nói mọi sự yên ổn, sẽ không có chuyện tắm máu đâu. Cha mẹ tôi hỏi thăm về việc nghe nói những người ở trong quân đội sẽ phải vào trại tập trung, họ bảo: “Không! Không có đâu! Mọi sự sẽ yên ổn thôi”.

Rồi họ kể cho chúng tôi nghe con gái ở ngoài Bắc ăn mặc đẹp còn hơn con gái trong Nam như thế nào. Họ bảo chẳng có chuyện trả thù: “Đừng biến chúng tôi thành những con quỷ, chúng tôi không phải thế đâu”.

Nhưng rồi ngày mùng Một tháng Năm là một ngày rất buồn. Một ngày nặng nề u ám. Điện tắt nhưng Cộng sản không sửa được. Chúng tôi nghe trên đài phát thanh một giọng nói miền Bắc to và sắc buốt của người xướng ngôn viên lên án Mỹ và những người cộng tác với Mỹ.

Anh ta hạ nhục chúng tôi bằng cách nói chúng tôi là lũ đầy tớ, lũ chó săn của chính phủ Mỹ, bởi chúng tôi đã hoạt động với họ trong công tác chống Cộng. Chúng tôi hết sức tổn thương khi nghe như thế.

Việc đi ra phố hãy còn nguy hiểm vì người ta vẫn thường đột nhập vào nhà, nếu họ tưởng người nhà đã di tản cả. Tình trạng hết sức rối loạn. Nhiều người có súng đã cướp ngay trên đường phố, gây một bầu không khí cực kỳ kinh sợ.

Tôi đạp xe đạp ra đường thấy vài người lính miền Nam. Họ vừa lột bỏ đồng phục vừa khóc. Người ta thấy họ và trong lúc giao thời mới cũ này, có người đã xua đuổi lính miền Nam để lấy điểm với chính quyền mới. Bấy giờ tôi là một đứa bé, nhìn thấy thế tôi thật ngượng ngùng. Tôi phát tởm khi chứng kiến cảnh tượng ấy. Rồi cũng chính những người này đã đi hoan hô lính Cộng sản. Họ ôm lấy lính Cộng sản như những người anh em thất lạc lâu ngày. Tôi thật ngạc nhiên khi nhìn thấy thế, và cảm thấy không vui vẻ gì.

Vào thời gian này nếu gia đình nào có bà con làm cho chính quyền miền Bắc, dù chỉ một tên lính quèn, người ta cũng cảm thấy ít nhất là được an toàn. “Đấy, gia đình chúng tôi cũng có người chiến đấu chống miền Nam”. Tâm lý ấy làm chúng tôi rối rắm, bởi vì trước đó chẳng ai dám nói có quen người miền Bắc hoặc có thân nhân trong quân đội bên kia. Chẳng ai bảo ai nhưng rồi tức khắc người ta đã biết phải làm gì: Chợt một cái, nhà nào cũng treo cờ Việt Cộng. Cờ Việt cộng trở thành một cái thẻ an ninh hoặc một tín chỉ có thể cứu mạng người ta. Nhà nào cũng phải có một lá cờ. Tôi trở nên sợ hãi bởi vì mọi người quá sợ hãi gần như mất lý trí. Người ta không còn nghĩ được nữa. Tôi có một cái áo xanh mà tôi rất thích, nhưng chúng tôi đã phải xé ra làm cờ. Tôi khóc khi làm như thế, tôi nhớ lại mình thật kỳ khôi. Anh tôi là tay thể thao, ảnh có một cái quần đùi màu vàng. Chúng tôi xé ra để cất một ngôi sao may lên cái cờ treo trước nhà. Khi lá cờ treo lên rồi, gia đình tôi mới cảm thấy yên. Người nào cũng phải làm thế, bầu không khí sinh hoạt đã khác lạ lắm. Chợt một cái, mọi người đều nhìn ngoại giới với một nhãn quan khác hẳn.

Những người giải phóng sử dụng một ngôn ngữ lạ lùng – mặc dầu vẫn là tiếng Việt. Nhiều người bắt đầu bắt chước giọng ấy. Thật lạ lùng. Sau một tuần lễ, họ chia chúng tôi thành khu vực, mỗi khu vực có một ủy viên Chính Trị. Họ giảng về chủ nghiã Mác Xít, Lê Nin nít và chúng tôi phải thảo luận trong các buổi họp. Thật nhục nhã. Trong các buổi họp này họ bắt chúng tôi phải phê bình kiểm thảo lẫn nhau. Ngay cha tôi cũng phải kiểm thảo trong buổi họp này. Ông nói ông đã giết người vô tội, nhưng tôi biết ông chẳng giết ai vô tội cả. Nếu ông không giết chúng, chúng sẽ giết ông. Thế mà ông đã phải nói rằng ông là người có tội, ông xin khoan hồng về việc “giết người vô tội”. Tôi chứng kiến cảnh cha tôi khóc trước mặt mọi người. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi thấy cha tôi khóc. Chính tôi cũng phải làm như thế. Tôi cũng đã phải nói rằng tôi không đồng ý cách sống của cha mẹ tôi. Việc này xảy ra sau khi nghe cán bộ nói về chủ nghiã Mác, Lê, nói về sự nghiệp hy sinh của miền Bắc giải phóng miền Nam. Cho nên tôi đã buộc phải nói rằng tôi rất thù ghét những người như cha mẹ tôi về những gì họ đã làm. Tôi đã nói như thế, chỉ để mong được sống còn.

niên

10735644_826194720769236_378143114_n (1)

ta ở lại và mùa xuân đi trước
sờ vết nhăn và áp má lên đường
tiếng chân ngựa thồ trăng khuya vác bóng
và tiếng em đổ lụa nhánh sông hương

ngày sắp tận trên nóc nhà mái ngói
tiếng kêu đêm tiếng mèo gọi trên rêu
tiếng chân ngã tiếng than dài im lặng
tiếng thiếu gia quanh hơi thở nàng kiều

tiếng câm nín tiếng nghiến răng , tiếng nói
tiếng con nguòi lạc mất tuổi thanh xuân
tiếng bé thơ sợ ngày mai vác gạch
tiếng mẹ cha nhớ lúa thóc ngoài sân

tiếng sóng biển tiếng máy thuyền tầu lạ
tiếng xác nguòi đập ghềnh đá bơ vơ
tiếng lụa xé tiếng tụng kinh ,tiếng khóc
tiếng cười đêm tiếng đôi mắt trơ trơ

tiếng em gọi đã quên mầu lịch sử
tiếng phu xe di tản phế hoang buồn
ô tiếng khóc thấy nơi hồn di cảo
tiếng của ta tiền kiếp đã bi thương

ta ở lại em đợi mai về nhé
này vết nhăn đã lấm tấm trổ hoa
ừ kiếp trước đã muôn trùng nghiệp tội
nên mất em như lạc suối quên nhà

NGÔ YÊN THÁI

TẠP GHI

caovantam

Ngồi một nơi mà nhớ một nơi :
Núi hiu quạnh, mù sương sà ngọn cỏ.
Rừng mơ hồ …
nghe cổ tháp chơi vơi…

( có một dạo, cứ nhìn mà không nói
Bước ra về, ta chợt thấy sao rơi…)

Ta thức từng đêm…,
đêm dài khánh tận.
Gió lạ mùa,
em trên ấy có gì vui?

Đêm nay nữa, có khác gì đâu nhỉ ?
Rừng mù sương, đêm hò hẹn lên men ?
Nhỏ bây giờ, chắc uống mừng song hỷ.?
Nhớ vô cùng, nên nỗi nhớ thành quen…

Cao Văn Tam

Lò bát quái

nguyenhoanganhthu

Hắn đang ở trong một cái lò nung, hắn tha hồ nuốt lửa. Hắn phải cố nuốt thật nhiều mới hết lửa được trong cái lò nung này. Hắn sợ từ đây đến chiều người ta sẽ không cho củi vào nữa.
Những chiếc đồi trọc ở ngoài kia rồi cũng được người ta cho vào nấu quặng. Có hôm hắn nhìn người ta đúc thành những chiếc Lexus. Hắn thấy người ta lái chiếc xe màu đất đỏ ấy ngoằn ngoèo qua các rảnh phố. Bụi mù, phủ đỏ không biết bao nhiêu khuôn mặt người, những khuôn mặt tượng bên cạnh những khẩu súng hiên ngang, cả những hài nhi còn trong bụng mẹ chúng cũng đang liếm láp bụi đỏ dính quanh cuống rau. Người ta trố thật to những đôi mắt nhìn.
Những nhà máy đồng loạt hì hục nung. Người ta cũng sợ hết than như hắn. Người ta nung đủ thứ: những núi xe nôi chất cao, những núi tả lót, những bình sữa lềnh bềnh trong cái bể nước to, những núi vật dụng ( tivi, tủ lạnh, giày dép… gì cũng có). Người ta nung như hắn đang bị nung. Hắn thèm lửa.
Hắn thấy những chiếc ô tô màu đỏ ấy có lần lên miền cao, họ chở vài thứ ấy lên ban phát cho những bà mẹ trẻ em trên ấy. Họ đứng bu quanh, miệng liếm láp, thưởng thức mùi vị màu đỏ hiện đại. Đúng thật, nó có mùi vị thật khác, mùi của khói đỏ cay xè.
Hắn đang ở trong ấy, lửa phần phật cuộn vào người hắn, kích thích hắn, hơn tất cả các cảm giác của rượu mạnh hay chất kích thích nào mà hắn đã trải qua. Hắn đê mê. Đôi mắt ngây ngây dại dại thưởng thức. Thỉnh thoảng hắn lại giật mình. Không lẽ đến chiều người ta sẽ không có củi cho vào.
– Đây là lò bát quái của Thái Thượng đấy, mày đừng lo, nó sẽ đỏ mấy tỉ năm nữa, không hết lửa đâu – tiếng từ trên cái miệng lò vọng xuống.
Hắn cảm thấy yên tâm. Hắn ôm lửa và mặc sức nghiền nó thành những thứ bột li ti siêu nhỏ, đến nỗi hắn không thể nhìn bằng mắt được. Hắn nằm thẳng tay thẳng chân khoan khoái hít cái mùi bột ấy. Hắn định sẽ ở yên vị trong cái lò này khoảng mấy trăm năm nữa.
– Linh đan đâu, đã có chưa?- có tiếng người nói ở ngoài.
Hắn mơ màng chực tỉnh. Người ta đang luyện cao người. Người ta định đúc cao người với những khoái vị của lửa để làm thuốc trường sinh bất lão. Hắn ngờ ngợ.
Dãy phía trước mắt hắn là một loạt những lò bát quái. Người ta đang nung những kẻ khoái nuốt lửa như hắn, có cả trẻ con. Hắn thấy những đôi mắt lim dim, ngây ngây thưởng thức. Lửa cuộn vào người họ, cảm giác mê hoặc như bị lửa thôi miên. Họ cười, họ hả hê, họ bơi trong lửa. Như hắn.
Cái lò nung của hắn đã lạnh, người ta không cho thêm lửa. Hắn rùng mình. Từng đốt xương vụn vỡ rơi xuống cho đến khi lần cuối hắn nhìn thấy mình là một đống bột trắng khô.

NGUYỄN HOÀNG ANH THƯ

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, “Lạy Chúa, tôi đã trở về cõi sống”

nuocmattruocconmua

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, nguyên tác Anh Ngữ “Tears Before The Rain” là một tập sử liệu về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam, do Larry Engelmann, Giáo Sư Đại Học San Jose State thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn nhiều thành phần: người Mỹ, người Việt, kẻ thắng người bại …Những cuộc phỏng vấn này khởi sự từ 1985, sách xuất bản năm 1990. Bản dịch Việt Ngữ do nhà văn Nguyễn Bá Trạc thực hiện năm 1993, xuất bản năm 1995 tại California.

JOHN WALBURG
“Lạy Chúa, tôi đã trở về cõi sống”

Khi Đà Nẵng mất, tôi nhẩm tính có lẽ chỉ còn ba đến bốn tháng nữa thôi, Bắc Việt sẽ chiếm trọn miền Nam. Tôi biết chúng sẽ đến, nhưng vợ tôi bảo: “Lo con bò trắng răng”. Bả đinh ninh thế nào phút chót Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ cũng xuất hiện – y như hiệp sĩ màn bạc – đến cứu độ chúng sinh. Tất nhiên tôi biết nhiều hơn bả.

Tôi đã ở Việt Nam từ năm 1969, lấy vợ địa phương, sinh được ba con. Chúng tôi cư ngụ giữa vùng Biên Hòa – Saigon. Tôi dự định sẽ sống vĩnh viễn ở đấy, nhưng chiến cuộc mỗi lúc một bất lợi cho miền Nam. Mọi sự thay đổi cả.

Ngoại ô Saigon có một bãi xếp đầy đồ tiếp liệu Mỹ viện trợ cho Việt Nam, chung quanh có hàng rào bao bọc. Mỗi ngày đi Saigon tôi đều lái xe ngang qua bãi hàng. Tôi để ý hàng hóa mỗi tuần một ít đi. Cho đến giữa tháng Tư, chẳng khác một bãi đậu xe trống rỗng. Nhìn hàng hóa vơi dần, tôi biết chuyện xảy ra. Ngày cuối đã gần kề.

Phải mất hết hai hôm tôi mới hoàn tất đủ giấy tờ rời khỏi Việt Nam. Hai ngày ròng rã đứng xếp hàng điền đủ thứ đơn. Đáng lẽ chúng tôi đi chuyến bay tại Saigon ngày 28 tháng Tư, nhưng địch dội bom, bắn hỏa tiễn trước khi chuyến bay cất cánh. Do đó, chúng tôi đã phải thay đổi chương trình.

Cuối cùng, chúng tôi xoay sở vào được phi trường Tân Sơn Nhất buổi sáng ngày 28, lính gác chặn lại. Chúng tôi chi cho họ ít tiền, họ mới để chúng tôi vào.

Vào được bên trong, người ta chỉ chúng tôi đến căn nhà phụ của Văn phòng Tùy viên Quân sự. Đó là địa điểm làm thủ tục ra đi. Đến đấy họ đưa thêm một cọc giấy tờ nữa. Rồi lại sắp hàng chờ. Cuối cùng, giấy tờ còn nhớ, vì đó là số chuyến bay của chúng tôi. Lúc ấy họ đang gọi đến số 17. Ai nấy nhao nhao hỏi chuyến bay. Mọi người đều lộ vẻ lo lắng vì chuyện ra đi. Nhiều người lâm râm cầu nguyện.

Sau khi lĩnh được số chuyến bay, chúng tôi ngồi xuống đất chờ. Bên trên, người ta căng một cái dù nhà binh che nắng. Sau cùng họ bảo chúng tôi lên xe buýt. Chiếc xe này sẽ chở chúng tôi ra máy bay.

Khi tất cả mọi người vừa lục tục vào được xe buýt thì đột nhiên một trái rốc kết bay đến đánh trúng căn cao ốc kế cận. Trái rốc kết thổi bay tầng thượng. Mái nhà rơi sập xuống hồ tắm căn cứ. Khi trái rốc kết bay đến, chúng tôi nghe rõ tiếng rít. Tôi chắc mẩm đã trúng xe buýt rồi. Cửa xe đóng. Tôi xốc đứa con trai chạy về phía trước, đẩy cửa, đạp người tài xế ra ngoài. Ai nấy hoảng hốt. Mọi người la thét ùa nhau về phía cửa. Vợ tôi lôi hai đứa con gái kế sau lưng, cả ba băng qua đường, lăn xuống rãnh. Tôi ôm đứa con trai úp xuống mặt đuờng. Tôi lấy thân mình che lên nó. Rồi tôi mới nghĩ: “Thực ngu ngốc quá” vì chỗ tôi đang nằm là chỗ mặt đường trống trải. Tôi xốc thằng con, bồng nó chạy sang bên vệ đường. Suốt đêm chúng tôi nằm đấy. Rốc kết, đại liên bắn không ngừng. Mọi người chung quanh la thét. Khóc lóc. Cầu nguyện. Ai nấy cứ thế nằm bấu chặt mặt đất.

Khi ánh sáng hửng lên, người ta vẫn tưởng đạn còn bắn vào. Giữa ánh sáng ban ngày, chẳng ai biết phải làm gì. Người tài xế biến mất rồi. Tôi bảo tất cả mọi người vào lại xe buýt. Tôi đã trông thấy mấy chiếc trực thăng hạ cánh, cất cánh trong Bộ Tư lệnh Văn phòng Tùy Viên Quân Sự, ngay góc đường.

Tôi lái chiếc xe buýt đầy người tiến đến cổng Bộ Chỉ Huy. Lính Thủy quân Lục chiến đứng canh không chịu mở. Họ bảo: “Đây là địa điểm phòng thủ an ninh. Không ai có quyền vào”. Tôi giải thích tất cả chúng tôi đã có tên trong danh sách chuyến bay, nhưng nay không còn máy bay nữa. Chúng tôi cần ra đi. Họ đáp: “Vậy ông có thể vào, ông là công dân Mỹ. Nhưng chúng tôi không cho các người khác vào được”. Khốn nạn, làm sao tôi có thể bỏ rơi vợ con tôi, cùng những người trên xe buýt? Tôi bèn ngồi xuống ngay trước cổng, bảo: “Tốt thôi, các bạn ơi. Chúng tôi còn biết đi đâu bâu giờ? Chúng tôi cứ ngồi ở đây thôi”.

Cuối cùng, một sĩ quan tiến ra cổng. Tôi đưa hết giấy tờ cho ông ta xem. Ông ta cho tất cả chúng tôi vào.

Họ đưa chúng tôi đến một cao ốc ở góc đường. Lúc này mọi người đi với tôi đã hơn một ngày không ăn uống. Tôi bước qua khu hợp tác xã quân đội. Không một người nào phụ trách ở đây. Tôi quơ một bọc bánh táo, bánh mì thịt, khệ nệ mang về chia cho mọi người. Tôi quay trở lại, lấy thêm kẹo, bánh mì kẹp. Tổng cộng cả nhóm bảy mươi người, tôi đã săn sóc cho tất cả.

Họ bỏ chúng tôi trong căn cao ốc mà không để lại một người nào bảo vệ. Tôi mò mẫm tìm quanh các phòng. Thấy cái mũ sắt quân đội lăn lóc trên sàn, tôi nhặt lấy đội lên đầu. Mở ngăn kéo, tìm được khẩu súng lục .38. Tôi nhét thắt lưng. Từ giờ phút này, người hữu trách chính là tôi. Sau một khoảng thời gian khá lâu, tôi cảm thấy như họ đã quên bẵng chúng tôi có mặt ở đấy. Tôi đi đến căn cao ốc chính. Tại đây chật ních người. Tôi tìm được một gã có vẻ thông thạo công việc. Gã ngồi trong thư viện Văn phòng Tùy viên. Gã nắm trong tay một sấp thẻ mà mỗi người sẽ phải cầm theo. Đây là những thẻ hành lý của Hãng máy bay TWA. Gã bảo tôi viết con số lên mấy cái thẻ, bắt đầu là 1-1 rồi 1- 2, cứ thế cho đến số 16 thì trở lại, bắt đầu 2-1 rồi 2-2 lại cho đến hết số 16, tiếp tục như thế. Tất cả mọi người trong nhóm tôi cũng sẽ phải cần có thẻ. Cứ 16 người vào một trực thăng. Con số đầu tiên là số của chiếc máy bay trực thăng mà người ta sẽ ra đi.

Tôi quay về lại nhóm tôi, cầm trong tay nắm thẻ. Thế là người ta nhao nhao la ó: “Cho tôi trước! Cho tôi trước!” Một gã dân biểu người Việt chạy lại. Hắn đề nghị đưa tôi 400 đô la để lấy tấm thẻ đầu tiên cho hắn và gia đình hắn đi trước. Tôi biết sớm muộn tất cả chúng tôi cũng đi cả, nên tôi lấy tiền hắn đưa. Rồi cho hắn mấy tấm thẻ. Sau đó lần lượt tôi phát cho những người khác. Có một linh mục và vài bà bụng chửa, tôi đưa thẻ cho họ lên chuyến đầu tiên. Mọi sự hệt cảnh tượng chia ghế trên các tàu cấp cứu trong vụ đắm tàu Titanic. Mọi người đứng im phăng phắc, hết sức lễ độ vây quanh tôi. Một lão già và bà vợ sợ run như cầy sấy. Lão ta đến gần đưa tôi năm đô la để xin vào chuyến đầu. Tôi bảo lão già: “Cất tiền đi.” Tôi vẫn cho họ vào chuyến đầu. Còn vợ con tôi và tôi giữ mấy tấm thẻ của chuyến trực thăng chót trong nhóm. Xong xuôi, tôi yêu cầu mọi người sắp hàng. Tôi dắt tất cả lũ lượt xuống tòa nhà chính.

Trong toà nhà đã có một hàng dài. Chúng tôi đứng trong hàng với mấy tấm thẻ hành lý. Khi chuyển dần lên gần hàng đầu, bất chợt họ bảo: “Không được mang va li”. Chúng tôi chỉ được phép mỗi người một túi xách nhỏ thôi. Tôi giữ cái cặp, vợ tôi mang cái túi du lịch đựng quần áo. Đấy tất cả những gì chúng tôi mang đi.

Đứng tại đây, hầu như một cuộc xếp hàng vô tận. Nói cho đúng, chúng tôi đã đứng suốt một ngày dài. Cuối cùng, mãi xế chiều mới lên được hàng đầu, rồi chúng tôi được dẫn tới trực thăng – một chiếc Chinook lớn.

Chúng tôi bước vào, nhưng họ chặn nhóm tôi lại ngay sau khi vợ tôi lên. Kế sau vợ tôi là hai cô gái người Việt. Người ta ra hiệu yêu cầu tất cả quay vào, chờ chiếc trực thăng kế tiếp.

Hai cô gái sợ xanh mặt. Rõ rệt các cô không thể tin là sẽ có chiếc trực thăng kế. Các cô nắm lấy vợ tôi, chu chéo khóc, nhất định không buông tay. Cửa đã đóng, họ vẫn bíu lấy vợ tôi. Tôi đẩy họ lùi lại, nhưng họ vẫn bám chặt. Họ thét lên: “Cứu tôi với! Cứu tôi với!” Hai cô đều là y tá Việt Nam, làm việc cho Mỹ. Cuối cùng người ta đành mở cửa kéo hai cô vào. Rồi cất cánh.

Tôi đứng cạnh người xạ thủ khi máy bay bốc lên. Tôi thầm bảo: “Chà cuối cùng rồi cũng thoát”. Tôi rất khoái chí khi bước vào trực thăng. Từ khi rời quân ngũ đến nay mới lại được đi trực thăng. Họ nhờ tôi mang hộp bông gòn đi phân phối cho các hành khách nhét lỗ tai. Tiếng động cơ rất lớn. Chúng tôi bay qua Vũng Tàu, thấy rõ cái bãi biển đẹp đẽ bên dưới. Đấy là hình ảnh cuối cùng của Việt Nam.

Tôi nhoài người nhìn ra phiá trước xem chúng tôi đi đâu. Rồi tôi thấy những hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ. Cả một hạm đội dưới biển Nam Hải. Thực là một quang cảnh tuyệt vời.

Chúng tôi hạ xuống mẫu hạm – tôi nhảy ra trước, dìu vợ con bước xuống. Các bác phó nhòm Mỹ, các thủy thủ và lính Thủy quân Lục chiến nói tíu tít. Trên tàu mọi người đều nói tiếng Anh. Mọi sự đều đã trong vòng yên ổn. Tôi nhìn quanh, thầm nhủ: “Lạy Chúa nhân từ, tôi đã trở về cõi sống”.