NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, “Chắc chúng tôi bỏ mạng nơi đây”

nuocmattruocconmua

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, nguyên tác Anh Ngữ “Tears Before The Rain” là một tập sử liệu về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam, do Larry Engelmann, Giáo Sư Đại Học San Jose State thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn nhiều thành phần: người Mỹ, người Việt, kẻ thắng người bại …Những cuộc phỏng vấn này khởi sự từ 1985, sách xuất bản năm 1990. Bản dịch Việt Ngữ do nhà văn Nguyễn Bá Trạc thực hiện năm 1993, xuất bản năm 1995 tại California.

NGUYỄN THỊ LẠC
(Thương gia)
“Chắc chúng tôi bỏ mạng nơi đây”

Tôi chào đời ở Đà Lạt, lớn lên ở Huế và Đà Nẵng. Tôi học trung học tại thành phố Đà Nẵng. Sau nhờ cha mẹ tôi giúp cho chút ít vốn liếng, tôi mở một gian hàng buôn bán nhỏ ở Nha Trang, một tiệm bán đồ kỷ niệm. Nhờ buôn bán khá, tôi mở thêm một tiệm nữa ở Saigon. Khách hàng đa số là người Mỹ.

Khi Mỹ rút khỏi Việt Nam năm 1973, nhiều người Mỹ đã bảo tôi rằng Nam Việt Nam chẳng thể nào sống sót nổi. Họ nói công chúng Mỹ đã chán ngán chuyện Việt Nam lắm rồi. Không có Mỹ trợ giúp, Việt Nam tất sẽ bị đánh bại thôi. Tại Nha Trang và Saigon bấy giờ cũng có nhiều dư luận cho rằng trong khi Mỹ và Cộng sản thương thảo tại Ba Lê, hai bên đã có những thoả thuận ngầm. Dư luận bảo Mỹ sẽ rút, Cộng sản sẽ chiếm cả miền Nam, chẳng ai sẽ chặn chúng lại được nữa. Dư luận bảo chỉ trong vài tháng miền Nam sẽ bị chiếm. Những dư luận ấy được chứng tỏ là đúng.

Ngay sau khi Hiệp định Ba Lê ký kết, tôi về thăm cha mẹ tôi và nói rằng: “Quốc gia sẽ thua. Mỹ đã bán đất nước này cho Cộng sản rồi. Bây giờ người mình chẳng còn cơ may nào. Việt Nam sẽ chẳng còn nữa đâu”. Tôi nói với cha mẹ tôi nếu không muốn sống dưới chế độ Cộng sản thì tốt hơn hết phải tìm cách ra khỏi nước. Đầu năm 1975, tôi cũng có nghe những chuyện về ong và sâu rầy. Nhưng không phải ai cũng tin những chuyện ấy. Dân quê có khuynh hướng tin mấy chuyện này hơn là dân thành thị. Ớ thành phố, chúng tôi thường không tin dị đoan như thế.

Khi người tỵ nạn từ cao nguyên đổ xuống và từ phía Bắc chạy vào, tình hình Nha Trang hết sức tệ hại. Lính tráng mất kiểm soát. Họ thẳng tay giết người không lý do. Họ dùng súng cướp bóc dân lành. Hãm hiếp các em gái. Họ làm mọi người kinh sợ, không ai ngăn chặn họ được.

Tôi muốn cha mẹ tôi rời Nha Trang vào Saigon, nhưng cha mẹ tôi không chịu. Nha Trang là quê cha mẹ tôi. Tôi cũng muốn đứa em gái tôi ở Đà Lạt vào Saigon cho an toàn, nhưng em tôi không muốn rời xa người bạn trai ở Đà Lạt. Em tôi bây giờ vẫn còn ở đấy.

Nha Trang rơi vào tay Cộng Sản. Người tỵ nạn chạy túa vào Saigon. Tôi biết chúng tôi đã lâm tình thế ngặt nghèo. Những người tỵ nạn vào bảo Cộng sản sẽ giết những ai làm ăn buôn bán với Mỹ. Họ nói Cộng sản có sẵn một danh sách những người chúng muốn xử tử. Vì tôi buôn bán với Mỹ, tôi đâm lo. Tôi nghĩ có thể tôi đã có tên trong danh sách ấy. Nếu chúng vào đến Saigon, chắc chúng giết. Tôi phải đi thôi.

Tôi cố xoay sở, bán tiệm. Nhưng không ai mua. Tiền nong vốn liếng đều kẹt cả trong cửa tiệm và căn nhà. Nhưng ngay đến lúc ấy, nhiều người ở Saigon vẫn không tin Cộng sản sẽ vào thành phố. Người ta bảo “Chuyện này sẽ qua, Cộng sản sẽ thua, nếu ngặt nghèo quá, Mỹ lại nhảy vào”. Nhưng cũng có người bảo: “Điên vừa thôi, Cộng sản đang thắng, ta thua đến nơi rồi”. Những người này đều tìm mọi cách ra khỏi nước.
Tuy nhiên, muốn ra khỏi nước cũng chẳng phải dễ. Người Mỹ, người ngoại quốc còn có thể đưa gia đình đi, người Việt làm sao? Ít nhất cũng phải có bạn Mỹ. Có người bảo trợ. Phải kiếm ra một người như thế…. Nên khi đến Tòa Đại sứ Mỹ thăm hỏi thủ tục xin đi, người ta chỉ trả lời tôi gọn lỏn: “Chẳng cách gì!”

Nhưng tôi vẫn cố chạy. Tôi thăm hỏi đầu này đầu nọ. Nghe nói có một người Mỹ dân sự làm ở Tòa Đại sứ, người này có vợ Việt, họ có đường dây đưa người đi. Nhưng cũng nghe nói họ đòi giá rất cao. Tiền nong chẳng có nhiều, nhưng tôi thầm nghĩ: Tại sao không thử. Biết đâu họ đưa đi được?

Thế rồi một bà Việt Nam làm việc với người Mỹ ấy cùng đi với vợ ông ta đến gặp tôi. Bà ta bảo có bao nhiêu tiền nong thì phải đưa hết mới đi được. Tôi nói tôi không có nhiều lắm đâu. Bà ta bảo cô phải biết những nhân vật cao cấp trong quân đội đã trả đến ba chục ngàn đô để ra đi. Có tiền mới đi được. Không tiền, đừng hòng đi nổi.

Tôi chạy vạy được một số tiền để thu xếp đến gặp người Mỹ nọ. Tôi nhờ một người bạn lái xe đến điểm hẹn, nơi người Mỹ đặt đường dây đưa người đi. Đó là một cao ốc ở đường Hai Bà Trưng. Tôi bước vào, đi thẳng lên lầu bốn, ngoài cửa chẳng có bảng đề cơ quan gì, nhưng chung quanh có lính Mỹ mặc đồng phục đứng canh. Khi lên lầu bốn, đã thấy rất đông người có mặt. Tôi chờ trong hành lang cùng với những người khác. Đợi rất lâu. Trong cái phòng trên căn lầu bốn ấy có một người đàn bà đang phỏng vấn từng người. Đợi mãi, cuối cùng mới đến lượt họ gọi tôi vào.

Trong phòng có một người đàn bà và một người đàn ông. Họ hỏi: “Bao nhiêu tất cả?” Tôi đưa hết ra. Tất cả nữ trang, tiền nong tôi có. Họ bảo: “Bấy nhiêu sao đủ?” Tôi hỏi: “Vậy ông bà đòi bao nhiêu?” “Mười ngàn đô. Không đủ cứ việc ở lại. Cộng sản nó chiếm đến đây phiền phức rán chịu. Biết đâu Cộng sản chẳng sơi luôn cái mạng của cô!” Tôi bảo tôi đâu còn có tiền nong gì nữa. Tôi khẩn khoản xin họ cho tôi đi. Họ bảo ra ngoài hành lang ngồi đợi.

Thế rồi họ cũng cho tôi đi. Họ bảo cứ chờ trong hành lang với những người khác. Lát sau họ đưa chúng tôi xuống dưới phòng khách. Đợi một lúc nữa, có xe đến đón. Một người Mỹ lái nhưng hắn không mở miệng nói câu nào. Họ bảo vào xe. Bấy giờ tôi chỉ mang theo có mỗi cái va ly, nhưng vội vã chạy vào xe, đã bỏ quên cái va li tại phòng khách. Vậy là tôi hoàn toàn trần trụi. Chẳng còn gì ngoài hai mảnh quần áo che thân.
Người Mỹ lái xe đưa chúng tôi đến một cao ốc khác, cũng ở trên đường Hai Bà Trưng. Họ đưa chúng tôi vào, dắt lên từng hai, đến một căn phòng trống. Họ bảo chúng tôi im lặng đợi.

Suốt đêm, chúng tôi ở trong căn phòng, lăn ra sàn mà ngủ. Ai cũng bồn chồn, lo lắng. Chẳng ai nói với ai một câu. Họ cảnh cáo không cho chúng tôi nói chuyện. Không ai biết chắc mình đang ở đâu, rồi đến nơi nào. Cho đến sáng, chúng tôi mới dám mở miệng nói với nhau, đùa bỡn chút đỉnh. Đã mười hai tiếng đồng hồ không hề có miếng cơm, miếng nước, ai nấy đói lả.

Cuối cùng, một người đàn ông đề nghị để anh ra ngoài kiếm ít đồ ăn cho mọi người. “Tui đi kiếm ít ổ bánh mì với vài ly cà phê cho bà con”. Anh ta nói. Tôi bảo: “Ông ơi đừng đi. Không chừng quay lại chẳng kịp đâu”. Những người khác cũng bảo: “Đừng đi”. Anh ta bảo: “Tại sao lại đừng đi? Tui biết người Mỹ chớ. Họ tốt lắm đó. Tui đi vài phút thôi, họ sẽ đợi mà”.

Thế là anh ta đi kiếm bánh mì, cà phê. Một người đàn ông hiền lành, tốt bụng. Anh đi mua đồ ăn thức uống cho tất cả mọi người. “Một bữa ăn cuối cùng ở Việt Nam”, anh ấy nói. Vài phút sau khi anh ta đi, mấy người Mỹ đến. Họ bảo chúng tôi tới giờ rồi. Chúng tôi bảo làm ơn chờ cho một người nữa. Họ bảo không được. Thế là chúng tôi phải đi. Khi người đàn ông trở lại, chúng tôi đã đi cả.

Mấy người Mỹ bảo bây giờ họ sẽ lái xe đưa chúng tôi đến phi trường. Chúng tôi dùng thang máy xuống hầm đậu xe. Cửa thang máy mở, chúng tôi thấy để sẵn một cái xe thùng bít bùng. Không cửa sổ. Hệt cái xe chở bánh. Chúng tôi vào cả trong xe. Họ lái chúng tôi lên Tân Sơn Nhất. Bấy giờ mọi người mới bắt đầu cảm thấy âm thầm buồn bã về chuyện rời bỏ quê hương đất nước ra đi. Vài người gạt nước mắt.

Chúng tôi đến phi trường gần trưa. Ra khỏi xe, họ chỉ dẫn cho chúng tôi đến một khu doanh trại lớn. Trong những căn trại này chúng tôi thấy đã có nhiều người chờ. Họ chờ đợi trong những căn trại khác nhau. Mỗi khi có một chuyến bay tới bốc người đi xong, tất cả những người ở căn trại dưới được chuyển lên căn trại kế. Khi chúng tôi đến, họ cho chúng tôi vào một căn ở xa chỗ máy bay nhất.

Tôi bước ra ngoài. Bên ngoài căn trại tôi chợt thấy một người Mỹ. Ông ta là một người bạn quen biết, tên là ông Albertson thì phải. Ông ấy mừng rỡ trông thấy tôi. Ông ta hỏi: “Cô làm gì ở đây”. Tôi bảo: “Tôi sắp đi khỏi nước, tôi đang chờ máy bay cùng với nhiều người ở căn trại kia”. Ông ta bảo: “Những người ấy sẽ không bao giờ đi được đâu. Đã trễ lắm rồi”. Nghe thế tôi choáng váng. Tôi bảo ông Albertson tôi sợ lắm, tôi sợ Cộng sản giết. Rồi tôi bắt đầu khóc. Ông ta nói: “Đừng lo, tôi sẽ giúp cô đi”. Ông ta dắt tôi lên căn trại đầu tiên, ở trên cùng. Ông chỉ cho tôi một chiếc máy bay lớn, một chiếc C-130, bảo đó là chiếc máy bay kế tiếp sắp cất cánh, cô sẽ được đi chuyến này. Tôi bước vào trong căn trại, cùng chờ với những người ở bên trong.

Vài phút sau, chiếc xe buýt đến. Người tài xế bảo chúng tôi lên đi chuyến bay kế. Chúng tôi lục tục vào xe. Tài xế chở chúng tôi chạy ra phi đạo. Rồi ông ta ngừng lại. Chúng tôi cứ thế ngồi chờ rất lâu. Thế rồi trong khi ngồi chờ, trên phi đạo, chợt vài chiếc phi cơ bay đến. Mấy chiếc máy bay này bay rất thấp. Họ dội bom lên phi đạo.

Lúc ấy xế trưa, trời nóng bức, đột nhiên bom nổ khắp chung quanh. Người tài xế thét lên. Ông ta kêu chúng tôi nhảy khỏi xe, nằm trên mặt đất. Khắp nơi rối loạn, súng ống, tiếng nổ rầm trời. Hỏa tiễn bắt đầu đánh vào những cao ốc chung quanh. Lính Thủy quân Lục chiến bên ngoài xe buýt bảo mọi người nằm dán chặt trên mặt đất. Đừng nhúc nhích. Chúng tôi nghe bom xé nổ, tiếng hỏa tiễn rít ầm đánh xuống. Chúng tôi nghe đủ thứ âm thanh trong không gian. Trong phút giây nằm đây tôi chợt nghĩ chắc chúng tôi sẽ bỏ mạng. Mặt đất rung chuyển. Người kêu khóc. Có người thì thầm nói chuyện. Tôi nghe họ bảo Cộng sản đã chiếm Biên Hòa, bây giờ chúng không còn cho ai ra khỏi nước. Họ nói với nhau là Cộng sản đã tiến tới phi trường, giờ này lên máy bay mà chúng thấy ắt vong mạng thôi.

Nhưng rồi bom và hoả tiễn ngừng. Một Thủy quân Lục chiến Mỹ cất tiếng bảo: “Đừng lo, đây chỉ là phản ứng cuối cùng của Nam Việt Nam. Chính quyền Minh chơi đấy thôi!” Tôi chẳng hiểu anh ta nói gì. Chẳng còn ai hiểu gì. Anh ta muốn bảo vụ tấn công phi trường này là do chính phủ chúng tôi, nhưng chúng tôi đều biết không đúng thế. Có lẽ anh ta chỉ muốn làm chúng tôi bớt sợ. Có lẽ anh ta muốn lừa chúng tôi. Lẽ nào chúng tôi tin chuyện chính phủ chúng tôi lại muốn sát hại chúng tôi.

Chúng tôi vẫn nằm ép trên mặt đường như thế dăm phút nữa. Lính Thủy quân Lục chiến chợt bảo: “Vào lại xe buýt ngay. Nhanh, đừng mang hành lý. Đi!” Họ lái chúng tôi đến góc sân bay nơi chiếc C-130 đang đợi. Cửa sau máy bay đã hạ sẵn xuống. Cửa xe buýt mở ra. Lập tức người ta thét lên, bảo: “Mau! Mau! Năm giây đồng hồ thôi! Mau! Mau! Chỉ còn năm giây đồng hồ thôi!” Thế là mọi người đẩy nhau ùa ra cửa, nháo nhào chạy vội đến máy bay. Nhiều người hãy còn ôm mấy cái túi xách, lập tức họ vừa chạy vừa quăng đi. Vào lúc đang chạy ra máy bay, tôi nhìn xuống thấy có một cái khăn lông do ai bỏ rớt trên mặt đất. Người ta đạp lên, có người vấp. Có người đá phải mà chạy. Trong khoảnh khắc tôi chợt thấy đống khăn lông động đậy. Tôi ngừng lại một giây, bảo người đàn bà chạy qua tôi: “Có gì trong cái khăn lông!” Người đàn bà tiếp tục lên máy bay, không lưu ý gì cả. Tôi bèn túm lấy đống khăn lông, cảm thấy trong đống khăn rõ rệt có một vật lạ. Vừa chạy, tôi vừa trụt chiếc khăn ló ra cái đầu một đứa trẻ sơ sinh. Đứa bé không động đậy. Tay tôi chạm vào chân đứa bé. Bàn chân không động. Tôi thầm nhủ: “Trời ơi, tôi vừa lượm được một đứa bé đã chết. Làm thế nào bây giờ?”.

Tôi chạy vào máy bay. Cánh cửa bắt đầu đóng. Chúng tôi chen chúc nhau. Bên ngoài phi đạo vẫn còn người chạy đến, nhưng không kịp. Cánh cửa vừa đóng lại, máy bay bắt đầu chuyển ngay ra phi đạo.

Bên trong chúng tôi đều đứng, không cựa quậy. Tôi ôm đứa bé mà tôi nghĩ là nó đã chết fôi. Tôi ôm sát đứa bé, thử nghe tim đập, nhưng chính lồng ngực tôi dồn dập và tiếng động cơ ầm ĩ đã át đi, không nghe gì nữa. Tôi tựa vách máy bay, cố chống vào vách để đừng đè lên đứa bé, đừng để đứa bé ép lên tôi. Mỗi lần nhúc nhích, tôi lại đạp phải người khác. Tôi tự nhủ: “Sao có thể đến nước này hở Trời, khi không ôm lấy cái khăn lông làm gì? Lúc máy bay hạ cánh mà vẫn ôm đứa bé chết queo thì thực rắc rối. Chẳng biết chừng người ta gửi mình về lại Việt Nam…” Nghĩ thế đâm sợ nên tôi lại khóc.

Tôi bắt đầu suy nghĩ: Biết đâu có một trái hỏa tiễn giờ này bắn đến trúng máy bay thì chúng tôi chết hết. Như những người trên chuyến C- 5A. Và tôi tự hỏi vẩn vơ: Nếu bây giờ chết, chẳng hiểu mình lên thiên đàng hay xuống hỏa ngục? Tôi có gì lầm lỗi trong cuộc đời? Sau một lúc tôi lại nghĩ: Không, nếu chết bây giờ mình sẽ lên thiên đàng. Tôi có làm gì xấu xa đâu? Thượng đế vẫn biết tôi là một người lương thiện. Nếu phải chết thì cũng lên thiên đàng. Thôi… Đừng khóc nữa. Tôi tự bảo và im tiếng. Nhưng lúc máy bay cất cánh, tôi vẫn miên man nghĩ về bức ảnh thiên đàng hoả ngục. Những bức ảnh tôi nhìn thấy từ khi còn là một con bé con. Người ta đã cho chúng tôi xem bức ảnh hoả ngục với cảnh nướng người trên lửa. Bức ảnh những con người gào khóc, lửa cháy bốn bề vây bủa. Bức ảnh những con người khiếp đảm trong một màu đỏ rực. Và tôi nghĩ: “Cảnh ấy nào có khác gì cảnh Tân Sơn Nhất chỉ mới vừa cách đây vài phút”. Tôi biết tôi không muốn chui vào hoả ngục. Tôi không muốn quay về lại Tân Sơn Nhất. Rồi tôi tiếp tục miên man nghĩ đến thiên đàng. Những bức ảnh đã nhìn thấy trong một màu trắng với những thiên thần trắng toát. Những thiên thần hiền hậu nở nụ cười xinh xắn thương yêu. Tôi tự nhủ: ừ, nếu cái máy bay này trúng phải một quả đạn thì đó chính là nơi mình sẽ bay đến ngay khoảnh khắc. Trong cái suy tưởng miên man ấy, tôi đã cất bước đi qua hỏa ngục, Thượng Đế đã mở cửa cho tôi. Giờ đây Thượng đế đang dắt tay tôi lên ngưỡng cửa thiên đàng. Chẳng có gì mà sợ.

Phải mất mấy tiếng đồng hồ chúng tôi mới đến được phi trường Clark ở Phi Luật Tân. Tôi bực bội, đôi chân tê dại vì đã không nhúc nhích được. Tôi cảm thấy bánh xe buông xuống, cảm thấy chúng tôi ở trên mặt đất. Rồi chiếc máy bay dừng hẳn.

Khi cửa sau chiếc máy bay bật mở, chúng tôi ngóng nhìn ra. Một vùng ánh sáng trắng toát, rất sáng, bỗng hiện ra. Những người đàn bà mặc quần áo trắng đang chờ chúng tôi. Họ mỉm cười. Đã đến được Thiên đường rồi. Tôi mê man suy nghĩ. Một cái chết thực dịu dàng. Nào có khó gì. Thế là giải thoát. Tôi đã bước vào ngưỡng cửa thiên đàng. Tôi biết Thượng Đế đã thương tôi bởi vì các thiên thần của Ngài đã đến.

Các thiên thần bảo chúng tôi: Ra khỏi máy bay. Tôi trông thấy các thiên thần đều mang chữ thập đỏ trên tay áo. Những thiên thần này đều là những cô y tá của Hội Hồng Thập Tự. Tôi vẫn sống. Tôi không ở thiên đàng, mà đã đặt chân lên đất Phi Luật Tân.

Một cô y tá chận tôi lại, hỏi có đau đớn gì không? Cô ấy nhìn thấy bên mình tôi ướt đẫm. Cô ấy lại hỏi tôi ẵm gì trong cái khăn lông. Tôi kinh hoảng chìa đống khăn cho cô. Cô ấy nhìn vào, rồi bảo hãy đi theo cô. Cô ta dẫn tôi đến phía ông Bác sĩ.

Họ đặt mớ khăn lông lên bàn. Mở chiếc khăn. Bên trong là một trẻ sơ sinh. Một chú bé trai.

Chú bé nhoẻn cười, đạp đôi chân khi họ tháo chiếc khăn. Chú bé mới sinh chưa đầy một ngày. Mọi người đứng quanh bàn nhìn tôi cười. Tôi cũng cười. Rồi tôi lại bắt đầu khóc. Tôi sung sướng quá.

Ông Bác sĩ khám chú bé rồi bảo: “Chả sao”. Tôi bảo: “Thực thế ư? Không có lẽ nào. Người ta đã đạp cả lên thằng bé, đã đá lên thằng bé. Xin Bác sĩ khám lại xem?” Ông Bác sĩ khám lại lần nữa. Ông bảo:

“Đúng vậy. Chả sao, chú bé khoẻ như voi”.

Họ bảo chú bé đói lắm, phải cho chú bú chút chớ. Họ hỏi tôi muốn cho chú bé bú bây giờ không? Tôi dãy nảy: “Bú cái gì?! Lấy đâu ra sữa mà cho nó bú? Ô hay, tôi có phải là mẹ thằng bé đâu?”.

Những người khác cùng đi máy bay đứng vây quanh. Bây giờ ai nấy đều tử tế. Họ bảo nhau: “Tránh rộng chỗ cho bà má và chú bé thoáng chút nào”. Trước đây không lâu, chính họ là những người đã dẫm lên đứa bé mà chạy.

Các cô y tá bắt đầu đi kiếm xem ai là mẹ chú nhỏ. Họ tìm ra được một cô gái trẻ, dưới hai mươi. Xanh xao ốm yếu… Đôi môi nhợt nhạt. Họ vặn hỏi một lúc, rồi đưa cô ấy lại phía tôi. Cô ta nhìn tôi nhỏ nhẹ hỏi “Chị đã cứu con tôi phải không?” Tôi nói: “Vâng”. Cô ấy bảo cô ấy đã sinh đứa bé ngay trong phi trường ngày hôm trước, cô sợ người ta không cho đem đứa bé mới sinh vào máy bay, nên đành để con trên phi đạo, hy vọng người nào có từ tâm nhặt lấy đem về. Cô ta bật khóc nói rằng lúc ở Tân Sơn Nhất cô đã hoảng sợ quá. Chẳng biết đã làm gì. Cô ấy không chồng. Cô đi một mình và quá sợ. Bây giờ cô lại sợ người ta không trả đứa bé. Cô sợ tôi muốn giữ lấy đứa bé.

Tôi ôm chú nhỏ lên, trao vào tay cô mà nói: “Cho con bú đi nào”.

Tại Phi Luật Tân lòng tôi tràn ngập yêu thương. Tôi nghĩ Trời vẫn thương xót dân Việt. Tôi nghĩ biết đâu Thượng đế đã nâng ẵm chúng tôi như tôi đã nâng ẵm lấy chú bé… Tôi bỗng nhìn thấy kỳ diệu biết bao là cuộc sống. Và kỳ diệu biết bao khi được sống còn.

Tôi lại miên man chìm vào những ý nghĩ riêng tư. Tôi nghĩ biết đâu chính đứa bé sơ sinh quấn trong chiếc khăn lông chẳng là một thử thách. Biết đâu chính vì tôi ẵm đứa bé mang theo mà Thượng Đế đã cho chiếc máy bay an toàn đến đất Phi. Biết đâu nếu tôi bỏ chú bé lại, một trái đạn đã nhắm trúng máy bay mà kết liễu tất cả. Tôi đã cúi nhặt đứa nhỏ, đã ẵm nó lên mà Thượng Đế cứu rỗi chúng tôi. Tôi cho rằng đấy chính là sự thực.

Vâng, tất cả mọi sự rồi cũng trở lại yên lành. Và cuộc sống vẫn là cuộc sống đẹp tươi.

ĐẤT TRÍCH

phamngoclu

Mươi lít gạo trộn vài cân muối
Nấu với tình em ăn vẫn ngon
Tình em: nước sông Ba đầy bát
Đời ta như nồi trống niêu trơn

Bốn phía rừng xanh màu nước độc
Đông tây nam bắc núi chận đường
Một lũng đất bằng khu chén nhỏ
Trói chân ta vào chân Trường sơn

Bó đời ta nửa manh chiếu rách
Đêm nằm mộng lớn nuốt mộng con
Chiêm bao cứ thấy mình mọc cánh
Bay với chim trời ra cố hương

Canh khuya cọp gầm vang núi Lá
Giật mình tưởng ai gọi đầu non
Nằm chi đây, thân tàn đất trích
Chờ ai đây, đói lả chết mòn

Mươi nắm gạo trộn vài vốc muối
Đeo lên vai nặng nghĩa đầy ơn
Mai ta bỏ thân ngoài sạn đạo
Xin tình em một mảnh đất chôn

PHẠM NGỌC LƯ

KHI MẶT TRỜI CHƯA MỌC

levanhieu

Tôi gõ cửa nhà em
Khi mặt trời chưa mọc
Sự thật tôi muốn tìm
Một khuôn mặt.

Tôi muốn tìm ở đôi măt ngái ngủ sau đêm
Có còn đọng cho tôi vài điều trăn trở
Có còn đọng cho tôi vài lần mất ngủ
Để lật gieo những hạt giống đen nồng.

Tôi cầu trời cho mắt em thâm quầng
Tôi tìm niềm vui trong sự khắc khổ
Tôi tìm hạnh phúc trong bóng gầy
Tôi tìm tràn đầy trong khát vọng long đong xiêu đổ.

Có nghĩa tôi sẽ đong ,và em cũng sẽ đong
Nên tôi tìm em khi mặt trời chưa mọc
Nước bể đông ban mai chưa kịp lau khuôn mặt em.
Ánh sáng chưa kịp rọi soi,em cũng chưa kịp
Nhận một làn hương của bông hoa nở sớm.

Những con chim chưa một lời phủ dụ rót vào tai em
Tôi gõ cửa khi mặt trời chưa kịp mọc
Nghĩa là tôi muốn tìm
Đêm qua điều gì làm cho em thao thức ?

LÊ VĂN HIẾU

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, “Có một căn bệnh”

nuocmattruocconmua

CHUẨN TƯỚNG LÝ TÒNG BÁ
(Tư lệnh Sư đoàn 25 QĐVNCH)
“Có một căn bệnh”

Tôi sinh năm 1931 tại miền Nam Việt Nam. Tốt nghiệp võ bị Đà Lạt, trở thành sĩ quan quân đội kể từ 1952. Với cấp bực thiếu úy, tôi đã phục vụ một năm tại vùng châu thổ sông Hồng.

Năm 1975, tôi là chuẩn tướng Tư lệnh Sư đoàn 25 Quân đội Việt Nam Cộng Hoà tại Củ Chi. Trước, tôi từng là Tư lệnh Thiết giáp. Kể từ cuối năm 1974, tôi được yêu cầu chỉ huy Sư đoàn 25. Tôi đã điều động sư đoàn này trong thời gian năm tháng. Khi xảy cuộc tấn công Ban Mê Thuột, tôi đang hành quân bình định tại vùng Bắc Tây Ninh. Tại đây chúng tôi đã bị lực lượng Cộng sản cố cầm chân.

Khi nghe tin cao nguyên triệt thoái, tôi biết việc này sẽ gây vấn đề lớn. Tôi tưởng sau đó quân đội sẽ củng cố lực lượng quay vòng trở lại, hoặc sẽ thiết lập một chiến tuyến tại một địa điểm nào. Nhưng không có chuyện gì. Không quay trở lại. Cũng chẳng đánh chác. Tôi không rõ việc gì đã xảy ra như vậy.
Lúc ấy chúng tôi đang đương đầu với Sư đoàn 9 của quân đội Bắc Việt gần Củ Chi. Họ đang cố đẩy quân xuống Sàigòn bằng quốc lộ số 1. Binh sĩ tôi đã tận lực chiến đấu. Cuối tháng ba, chúng tôi đụng địch ở Truong Mit. Chúng tôi tổn thất hơn 400 sinh mạng trong một trận ác liệt, nhưng không một ai bỏ chạy.

Tôi nghe nói có vài Tướng lãnh bỏ rơi binh sĩ họ, tôi không ngạc nhiên. Nhưng tôi biết binh sĩ tôi, tôi biết đơn vị tôi. Tôi biết các sĩ quan chỉ huy của tôi. Tôi có lòng tin nơi binh sĩ, họ cũng có lòng tin tôi. Tôi biết địch quân là ai, ở đâu và họ đang làm gì.

Tôi cố liên lạc với các thượng cấp tôi là Nguyễn Văn Thiệu và Cao Văn Viên để báo cáo tình hình. Tôi muốn cho họ biết: Cuối cùng chúng tôi không còn có thể làm gì hơn nữa. Tất cả đã hỏng rồi. Sư đoàn 25 chúng tôi đang phải cầm cự với trọn một sư đoàn địch, nhưng chỉ vài ngày sau, đã cùng một lúc phải thọ địch với ba sư đoàn có cả chiến xa.

Để bảo vệ việc xâm nhập Sàigòn từ mặt phía Đông, Sư đoàn 18 do tướng Lê Minh Đảo chỉ huy đánh ở Xuân Lộc. Để bảo vệ mặt phía Tây, sư đoàn chúng tôi phải chặn quốc lộ số 1 từ Sàigòn đi Tây Ninh. Sáng ngày 29 tôi dẫn một lực lượng đặc nhiệm vào Bến Tre(?), nhưng binh sĩ không còn nữa. Họ thất tán, lạc lõng khắp nơi. Tôi không còn làm gì được. Tôi cố tập hợp lực lượng còn lại để tiếp tục chiến đấu, tôi đã yêu cầu tướng Toàn cho tôi sắp xếp lại các tiểu đoàn. Bộ đội Cộng sản lúc này tiếp tục tấn công nhưng số binh sĩ Cộng Hoà còn lại vẫn không e ngại, chúng tôi tiếp tục chống trả trong lúc bị đẩy lui về phía Sàigòn.

Tôi bảo binh sĩ: “Đừng lo lắng tình trạng đang xảy ra. Hãy cố chiến đấu. Hãy bắt địch phải trả giá đắt cho mọi trường hợp.” Các binh sĩ của tôi tiếp tục xoay trở, chiến đấu, phản công. Nhưng cuối cùng, họ kiệt lực.

Có nhiều yếu tố khác bên ngoài việc chiến đấu. Lúc đó, binh sĩ quân đội Việt Nam Cộng Hoà đã mắc một căn bịnh. Một căn bịnh tinh thần. Căn bịnh tinh thần đã ảnh hưởng đến họ. Vào giây phút chung cuộc ấy, căn bịnh phát ra từ việc các binh sĩ tin rằng họ bị lừa gạt, dối trá. Thử nhìn xem, họ đã lâm vào một tình trạng thật tệ hại. Muốn binh sĩ chiến đấu tốt, không thể có những người lãnh đạo như Nguyễn Văn Thiệu. Mỹ thì không còn hỗ trợ. Chính phủ cũng không giúp đỡ. Vậy họ phải chiến đấu và chết cho lý do gì?

Vì thế, cuối cùng một số binh sĩ của tôi bắt đầu bỏ chạy. Họ nhuốm căn bịnh này rồi. Thấy vậy nhưng tôi cũng không thể làm gì khác. Cuối cùng đội quân tan rã. Tôi quyết định đi bộ từ củ Chi về lại Sàigòn. Tôi cũng muốn tìm binh sĩ, tập hợp lại tại Hốc Môn mà tái lập phòng tuyến. Nhưng chưa kịp đã bị Cộng sản bắt. Đường từ Củ Chi về Sàigòn bị chiếm khắp nơi rồi.

Về việc tinh thần quân đội nhiễm độc thì phải thấy xã hội Việt Nam lúc ấy đã nhũng lạm rối ren lắm. Sự nhũng lạm rối ren này lan tràn vào quân đội, ảnh hường đến tác phong binh sĩ. Các cấp chỉ huy thì không có tinh thần chiến đấu. Gặp những trận khốc liệt, người ta không còn muốn đánh. Cái gì cũng lệ thuộc Mỹ. Không nhờ được Mỹ, người ta tháo chạy. Họ cũng đã nhuốm bịnh rồi.

Tôi là người chiến đấu. Còn các lãnh tụ phải lo việc lãnh tụ. Phần tôi đã chiến đấu từ khi là người lính trẻ, và bây giờ đây, tôi hiểu ra rằng các lãnh tụ quân đội đã không làm tròn công việc của họ. Tôi làm nhiệm vụ của tôi, nhưng họ không làm nhiệm vụ của họ. Do đó, tôi có thể nói: Trên cấp bậc cao của quân đội chúng tôi, đã có những người không đúng chỗ nắm giữ chỉ huy.

Bộ đội miền Bắc có mặt khắp nơi. Tôi bị thương ở chân. Họ bao vây tôi và số binh sĩ còn lại. Rất nhiều binh sĩ phải đầu hàng. Tôi bèn nói với người tùy viên ở bên tôi rằng: “Nhìn chừng tôi nhé, tôi làm gì thì anh làm nấy. Tôi làm bất cứ cái gì, anh cũng cứ làm y như vậy.” Khi địch quân bảo hạ võ khí xuống, nhiều binh sĩ của tôi tháo võ khí, bỏ xuống. Nhưng khi họ bảo binh sĩ đứng vào với nhau, thì tôi và người tùy viên lẻn xuống ruộng lúa.

Chúng tôi ngâm mình dưới nước, chỉ hở mũi ngửa lên. Địch tưởng chúng tôi đã chết. Chúng tôi ngâm dưới nước ba giờ đồng hồ như thế, từ 3 giờ trưa đến 6 giờ chiều. Rồi chúng tôi mầy mò trong bóng đêm, tìm đến một con rạch. Con rạch nhỏ này chảy đến cầu Hốc Môn. Chúng tôi lội xuôi con rạch, hy vọng đến được cầu Hốc Môn, từ đó tôi sẽ biết lối về Sàigòn. Nhưng khi đang lội dưới rạch, tôi nghe hai bên bờ có tiếng người. Toàn lính Bắc Việt. Lúc đó tối trời, tôi tuồn ra khỏi lạch, tìm đường đất về Củ Chi. Vì tối quá, tôi quanh quẩn mãi trong một mũi tam giác. Không biết mình ở đâu. Sàigòn hướng nào. Trời lại mưa.

Đến sáng, tôi vẫn còn người tùy viên bên cạnh, nhưng tôi không nhúc nhích được nữa. Cái chân bị thương càng lúc càng tệ. Tôi bảo người tùy viên cố đi kiếm thầy thuốc. Nhưng chưa kiếm được, chúng tôi đã lọt vào một đám năm sáu chục bộ đội miền Bắc. Từ xa cứ tưởng họ là lính miền Nam. Đến khi thấy vậy, tôi đành bảo người tùy viên: “Thôi bị bắt rồi. Không chạy nổi nữa đâu.”

Bấy giờ quân phục tôi bê bết bùn, họ không nhận ra tôi là cấp tướng, không biết tôi là ai. Nhưng có một bà già thấy tôi. Bà già này bước lại, nói: “Chuyện chi vậy chuẩn tướng? Sao quần áo ông dơ dáy quá vầy nè?” Mấy người bộ đội đứng quanh đấy nghe được. Trước đó, họ chỉ tưởng tôi là một trung tá, không biết tôi đã là tỉnh trưởng Bình Dương.

Họ đưa tôi vào nhốt trong một căn phòng chung quanh có rào kẽm gai. Tôi ngồi đấy, nghĩ rằng khi họ khám phá ra tôi, thế nào họ cũng xử tử. Nên khi mấy người lính của tôi hỏi có muốn viết thư nhắn vợ tôi không, tôi bảo: “Không. Tôi không muốn viết thơ cho ai cả.”

Những người bộ đội bắt tôi là lính của ba sư đoàn đã đánh với Sư đoàn 25 của tôi. Họ bảo Sư đoàn Trưởng của họ sẽ đến gặp tôi. Họ nói ông ta muốn đến gặp người đã đương đầu với ông ta.

Tôi nói “Tôi đã mất hết quân rồi, bây giờ các ông muốn làm gì cứ làm.” Khi viên Sư đoàn Trưởng Bắc Việt đến gặp, tôi nói: “Ông đã biết khi tôi bắt được lính của ông thì tôi đã đối xử như thế nào. Bây giờ tôi chỉ yêu cầu ông hãy đối xử với lính của tôi như thế. Tôi đã đối xử tử tế với tù binh các ông hơn là cách ông đối xử với tù binh chúng tôi.”

Vì thế anh ta nói: “Chuẩn tướng, chúng tôi không có gì thù nghịch ông cả. Vì buổi đầu, bộ đội chúng tôi còn quá khích, nên có lẽ họ đã đối xử với ông không được tốt đẹp.”

Tôi bảo ông ta: “Họ bắt chúng tôi ngủ trên sàn đất trong hàng rào kẽm gai. Tôi không thích việc đối xử với các binh sĩ của tôi như vậy.” Tôi không lo lắng gì cho bản thân tôi. Tôi nghĩ họ sẽ xử tử tôi, nên tôi chỉ quan tâm về việc đối xử với các binh sĩ của tôi thôi.

Ngày mùng 3 tháng Ba, nghe tin đồn tôi bị giết ở Củ Chi, vợ con tôi đều rời Sàigòn xuống Hậu Giang, kiếm được một tàu gỗ sang Mã Lai. Tại Mã Lai có vài người Mỹ biết tôi, họ nhận ra vợ tôi nên đã đưa vợ con tôi sang Mỹ, chuyện này một năm sau tôi mới biết. Khi rời Sàigòn, vợ tôi đinh ninh tôi đã chết rồi.

Tôi nghĩ tôi sẽ bị giết, do đó tôi không viết thư cho vợ tôi. Tôi sợ nếu có thư tôi, vợ tôi sẽ ở lại chờ, thôi đằng nào họ cũng giết, nên tôi không thư từ gì cả.

Sau đó các binh sĩ của tôi đều được thả, nhưng họ giữ lại tất cả các sĩ quan. Họ đưa tôi về lại Củ Chi với các sĩ quan tham mưu của tôi. Lại một lần nữa, họ giam chúng tôi sau hàng rào kẽm gai. Lần này suốt một tháng. Sau đó họ đưa tôi về Sàigòn làm kiểm điểm để đi “học tập,” rồi họ gửi tôi đến “trại học tập.” Lúc ấy tôi mới nghĩ rằng tôi thoát chết.

Tôi bị gửi ra Bắc vào tháng Bảy năm 1975, mãi đến tháng Chạp 1987 mới được thả. Tôi đã phải làm lao động trong mười hai năm. Tướng Lê Minh Đảo ở cùng một trại với tôi.

Tôi đã chiến đấu cho xứ sở tôi. Tôi đã làm bổn phận tôi. Tôi đã tận lực phục vụ. Và tôi đã thua, nhưng tôi vẫn hãnh diện. Khi không còn làm được công việc của tôi, tôi vẫn cố gắng chiến đấu. Tôi đã mất quân đội, nhưng tôi không hề bị đánh bại. Tôi đã chỉ làm công việc cho đất nước Việt Nam. Khi viên tướng Bắc Việt mà tôi đã đương cự hỏi tôi rằng: “Bây giờ ông nghĩ thế nào,” thì tôi nói: “Tôi là một người Việt Nam – Tôi mong được nhìn thấy một đất nước Việt Nam phú cường, một dân tộc Việt Nam tự do, hạnh phúc.”

Nhưng tôi đã nghĩ: Việt Nam vẫn còn phải chiến đấu cho tự do. Cuộc chiến chưa tàn. Dân tộc vẫn muốn có tự do. Từ khi hãy còn là một thiếu úy cho đến nay, tôi vẫn nghĩ như vậy. Dân tộc Việt Nam đã cố giải quyết vấn đề bằng chiến tranh, nhưng cuộc chiến đã quyết định được những gì? Bây giờ miền Bắc thắng, và chúng tôi đã hy vọng đất nước Việt Nam được tốt đẹp. Việt Nam đã mất biết bao nhiêu người dân lương thiện, và bây giờ, thử nhìn vào đất nước mà xem. Tôi phải nói là đã không đạt được gì từ cuộc chiến. Cuộc chiến vẫn còn. Tôi vẫn nói với các thủ lãnh của đất nước ngày nay rằng “Tôi đã làm nhiệm vụ của tôi, và tôi đã thua. Quý ông bây giờ có thể làm bất cứ cái gì quý ông muốn. Nếu quý ông làm tốt, dân tộc tự do thịnh vượng thì tôi sẽ chẳng có điều gì để chống lại các ông cả. Nhưng bây giờ thử nhìn xem, đất nước này đã xảy ra những gì. Chiến thắng của quý ông giờ đây có ý nghĩa gì? Quý ông sẽ làm gì đây?”

Xứ sở chúng tôi là một xứ sở nhỏ bé nghèo khó. Chúng tôi cần những trợ giúp bên ngoài. Bây giờ, có lẽ chúng tôi còn cần phải có các lãnh tụ mới. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc chăm chỉ, chịu khó và lương thiện. Dân tộc Việt Nam đã sẵn sàng cho tự do và thịnh vượng. Dân tộc Việt Nam đã sẵn sàng để trở lại một thành phần của cộng đồng thế giới. Tiềm lực là ở đấy. Nhưng vẫn lại xảy ra cùng một căn bịnh. Chế độ mới cũng đã mắc phải cùng một căn bịnh của chế độ cũ. Căn bịnh tham nhũng. Một căn bịnh xói mòn cả dân tộc này. Ngày nay nếu không ưa ai, không thích ai nói ra một điều gì, người ta cứ việc bỏ họ vào tù.

Xã hội này là một xã hội thối nát. Người ta trở thành thối nát vì các lãnh tụ đã thối nát.

Các binh sĩ của tôi bỏ chạy bởi vì họ đã nhiễm bịnh từ các thủ lãnh của họ và từ ở xã hội. Họ không còn muốn chết cho cái xã hội không xứng đáng ấy nữa. Cái linh hồn bịnh hoạn của xã hội này đã làm cho họ ghê sợ. Vậy nếu bắn một người lính bỏ chạy thì chỉ giết được một người lính, không giết được căn bịnh. Còn trừng phạt một người về chuyện tham nhũng, cũng chỉ trừng phạt một cá nhân, căn bịnh vẫn tiếp diễn thôi.
Chưa bao giờ tôi nghĩ đến việc tự sát vì thua cuộc cả. Tại sao tôi lại phải tự sát? Chuyện ấy quá vị kỷ tự tôn. Tự sát! Tự sát có ích lợi gì? Nhiệm vụ của tôi là chiến đấu. Chiến đấu cho đến khi tử trận, hoặc đến khi bị cầm tù. Tôi là ai, nào có phải là một ông quan thời phong kiến cứ phải chết cho vua chúa đâu? Tôi đã chiến đấu cùng với các binh sĩ của tôi. Tôi đã không tử trận. Tôi chỉ bại trên chiến trường. Tôi bại trận, nhưng tôi vẫn còn sống sót.

Bây giờ đây, tôi đang ở Sàigòn, tôi không có chuyện gì làm. Tôi đã nạp đơn xin đi Mỹ để đoàn tụ với vợ và con gái tôi hiện ở tiểu bang Nevada. Một trong mấy con trai tôi là sinh viên đại học San Diego. Và con trai út của tôi hiện nay là một ngôi sao sáng về banh bầu dục tại đất nước Hoa Kỳ.

thiên nga giữa cõi người

tamthanh

Nhận được tin buồn nhà văn Tâm Thanh vừa mất . Văn đàn hải ngoại lại mất thêm một con thiên nga giữa cõi đời ( và cõi người) . Tương Tri xin thành kính phân ưu cùng gia đình nhà văn và chia sẻ với bạn đọc một truyện ngắn của ông.

Cặp thiên nga nổi bập bềnh như hai cụm mây trắng muốt vừa rớt từ nền trời xanh xuống mặt hồ Eidselva. Giống thiên nga này được xếp vào giống thiên nga đẹp nhất trên vùng sông hồ Telemark. Có lẽ vì bộ lông xồm trắng như tuyết, căng phồng lên như một nụ hoa sắp nở, con vật diễm lệ này được gọi là knoppsvane (thiên nga nụ, cũng có người nói gọi như thế vì mỏ nó có một cái khoen đen duyên dáng).
Nhưng tiếng kêu của nó lại bệ rạc hơn bất cứ loại vịt, ngỗng nào. Mùa hè khi chúng mon men lại gần bờ để chờ đợi những mẩu bánh mì của khách bãi tắm, tôi nghe từ cặp mỏ vàng óng ả phát ra những tiếng khò khè khàn đục, tôi có cảm tưởng ngỡ ngàng thất vọng y như thấy một mệnh phụ xinh đẹp mở miệng thốt ra lời thô lậu. Ðúng là một loài chim để nhìn ngắm xa xa.
Từ nhiều năm nay -ít nhất là từ ngày tôi về định cư tại xã Nome- cặp thiên nga nụ đã trở thành những vật trang điểm duyên dáng cho bãi tắm vào mùa hè, đồng thời là những người bạn già đạo mạo của trẻ con. Không biết do ai bắt đầu mà người ta gọi con trống là Romeo và con mái là Juliet (người Na-uy viết thành Julie). Cho đến hôm xảy ra một tai nạn xôn xao cả vùng. Hôm đó tình cờ tôi cũng có mặt. Tôi đang nằm hóng mát trên bãi cỏ thì nghe tiếng náo động, hô hoán ầm ỹ ngoài mé sông. Tôi vùng dậy nhìn ra chỗ đám đông đang xúm lại coi thì thấy trên mặt nước một trong hai con thiên nga (không biết con Romeo hay con Juliet) đang nhào lộn đánh nhau với một con vật gì dưới nước, hình như một con cá khổng lồ. Khi “con cá” lặn xuống sâu thì con thiên nga (có người tinh mắt đã nhận ra con Romeo) bay vụt lên không chừng mươi thước, lượn một vòng quan sát. Khi vật dưới nưới trồi đầu lên, tôi đã nhận ra – không phải cá khổng lồ – mà là một người, một đứa bé. Vừa nhìn thấy đứa bé, con Romeo đã nhào xuống như một tia chớp trắng. Ðôi cánh của nó giang ra như cánh buồm, dài có hai thước dư. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy đôi chân của nó – đen thui, càng thêm vẻ hung hãn. Cũng may, đứa bé bơi lặn thật giỏi. Và không biết nó mấy tuổi mà khôn thế, nó lặn xuống để bơi vào bờ, tránh đòn của con chim. Con chim cũng không vừa, nó đề phòng, không bơi trên mặt nước như bình thường, mà lao vun vút như con thoi trên trời, chờ địch thủ ngóc đầu lên lấy hơi, là nhào xuống mổ. Ðôi cánh mà trước đây mỗi lần giang ra, trắng muốt như bạch ngọc tắm nắng, tôi thường thầm ví như đôi cánh thiên thần, bây giờ trông như cánh con bạch quỉ. Ðã có nhiều người nhào xuống nước bơi ra cứu đứa bé. Những người đứng trên bờ thì khua chân, múa tay dọa nạt con chim để trợ uy. Cuối cùng bốn người lớn, trong đó có một cô gái, đã bơi ra xua đuổi con chim và dìu đứa bé vào bờ. Ðứa bé trai tám tuổi không hề hấn gì, trừ vài vết trầy rướm máu đầu. Trong vòng tay bà mẹ rưng rưng khóc, thằng bé vừa hoảng hốt vừa có vẻ hãnh diện vì được đám đông tán thưởng đã can đảm chống cự được với con ác điểu.
Hôm sau đọc tờ báo địa phương Varden tôi thấy có đăng tin thiên nga tấn công trẻ em như một tin lạ, với hình con Romeo đàng hoàng. Người ta nói đôi chim tạm cư ở đây được khoảng bốn mùa hè (tôi cứ tưởng lâu hơn, từ khi chúng tôi dọn tới đây), quê quán chúng mãi trên vùng Moere, và mỗi con cân nặng khoảng 20 kg. Không ai biết lý do tại sao con vật tự dưng nổi điên như thế. Vợ chồng tôi đã hết hai tuần nghỉ thường niên, nên đi làm về chỉ kịp quanh quẩn ngoài vườn với mấy luống rau thơm và luống hoa là hết ngày, chúng tôi không hay ra bãi nữa, tôi không biết con thiên nga có nổi điên làm bậy nữa không. Và lúc này tôi mới thắc mắc không biết, lúc chồng nó nổi điên, con Juliet ở đâu. Tưởng sự việc được quên lãng như trăm ngàn việc vặt khác, không ngờ tới mùa đông tờ báo Varden lại đăng tin con thiên nga có thể bị tử hình. Tờ báo gọi nó là một con thiên nga “kỵ người” (mannevond svane).
Người ta kể rằng “phiên tòa” trên tòa hành chánh xã diễn ra gay go giữa Ủy ban Bảo vệ Thiên nhiên, Hội Phúc lợi xã Nome và Sở Công viên và Thể thao (ở Tỉnh về). Những người kết tội con Romeo đưa ra nhiều lý do: Thứ nhất nó đã đe dọa tính mạng một đứa trẻ. Họ nói từ lâu họ đã để ý hai con thiên nga nụ tỏ ra kênh kiệu, tàng tàng, không hiền lành như chim bồ câu, hay ít ra từ tốn như các con thiên nga khác. Chúng thuộc loại “kỵ người”. Thứ hai từ ngày cặp thiên nga này về định cư mùa hè ở hồ Eidselva, mấy con thiên nga khác không dám về nữa. Chúng độc chiếm giang sơn. Hồ rộng như thế chỉ có hai con chim làm cảnh, mất vẻ sinh động. Chúng đã thù người lại còn “độc tài, độc trị” đối với đồng loại, thì nên giết đi để bảo toàn cho khách lai vãng bãi tắm, nhất là trẻ em, và để hồ tắm thiên nhiên có nhiều thiên nga về. Thứ ba, “sự thay đổi tác phong không tiên đoán được” (nguyên văn trong bản báo cáo tâm lý) là một trong các triệu chứng điên, có thể trở thành nguy hiểm cho con người. Phe bênh vực con Romeo chả có căn bản vững chắc nào để bác lại ngần ấy lý lẽ. Họ chỉ có thể viện cớ vu vơ (cảm tính nhiều hơn là lý tính) như: dầu sao đôi chim cũng thuần từ nhiều năm nay. Việc tự nhiên một con tấn công người là một điều bất thường, chắc phải do một động lực bí mật, mọi người nên tìm hiểu thêm trước khi quyết định. Ðồng thời họ mời một chuyên viên về điểu học tới phiên họp, ông này cho biết rằng ông chưa bao giờ thấy một con thiên nga có “tác phong” như thế, trừ trường hợp nó bị phá ổ, mà trường hợp này không đúng ở đây, vì cặp thiên nga này là loại thiên di, chỉ mùa hè chúng mới về. Họ đề nghị bắt nhốt con chim lại để nghiên cứu xem nó có điên không rồi hẵng giết. Nếu nó không điên thì “phóng thích” và “quản chế”, đủ rồi. Những người gác bãi tắm sẽ có nhiệm vụ canh chừng nó. Hễ nó giở chứng nữa thì bắn hạ tại chỗ cũng chưa muộn. Cuối cùng khi lấy biểu quyết thì đa số đồng ý giết hai con chim. Phe bênh lúc đó mới có dịp vớt vát: tội ai nấy chịu, con Romeo hành hung đứa trẻ thì chỉ giết nó thôi, tha cho con Juliet. Ông điểu học lúc đó cho biết thêm thiên nga là loài một vợ một chồng, con trống con mái sống trọn đời trọn kiếp, giết con Romeo, con Juliet khó sống lắm. Người Na-uy quí trẻ em như vàng, nhưng cũng yêu thiên nhiên và loài vật, dù đã “lên án tử” con Romeo, họ cũng không biết xử với con Juliet ra sao. Ðằng nào thì cũng phải chờ tới mùa hè, chờ cặp chim vô tình dẫn xác về rồi tính.
Gấp tờ báo lại, đầu óc tôi nghĩ miên man về những điều mâu thuẫn. Một đàng tôi bồi hồi nhớ lại truyện L Amour (Tình yêu) của Guy de Maupassant về cặp ngỗng trời, con mái bị thợ săn bắn hạ nằm sõng dưới đất, và con trống bay lượn trên trời kêu khóc thảm thiết, rồi nhào xuống lãnh đạn, chết theo người yêu. Hồi nhỏ khi đọc truyện tôi khóc, nhưng bởi vì tình yêu giữa đôi chim cao cả quá sức, tôi nghi là tác giả chỉ nhân cách hóa, bây giờ đọc lời phát biểu của nhà chuyên môn về chim muông, tôi mới biết rằng nhà văn Pháp tả chuyện thật. Cũng thế, khi đọc nhà văn Việt Nam Võ Phiến tả con chim cu chung thủy bịn rịn bên người yêu không cất cánh được, tôi cũng nghi là ông thi vị hóa. Không ngờ các vị đó nói thật cả, cái tình trong trời đất là thật, là bao la thắm thiết. Nhà văn, nhà thơ lớn có thể hư cấu chứ không bịa đặt. Ðằng khác tôi không hiểu được tại sao con vật kiều diễm, dạn người đó bỗng chốc trở thành hung hãn, nhào xuống tấn công đứa trẻ vô tội. Ðiều gì làm cho nó thành như vậy? Cái động lực bí ẩn thúc đẩy một kẻ thân người thành kẻ “kỵ người” thật là bi đát hơn chính bản án tử của nó.
Tôi đã để tâm theo dõi số phận cặp thiên nga có cái tên định mệnh Romeo-Juliet, nên khi thấy những dấu hiệu đầu tiên của mùa hè – búp lá dương cuộn tròn như tổ kén nở bung ra lung linh cẩm thạch, và ánh dương rực rỡ- tôi đạp xe ra bãi tắm mỗi buổi chiều sau khi đi làm về. Tôi thấy cặp thiên nga quen thuộc đã trở về. Và hoàn toàn do tình cờ tôi đã chứng kiến cảnh con Romeo bị giết. Tôi nói tình cờ vì lẽ ra ngày thường tôi chỉ có thể ra bãi tắm vào buổi chiều sau khi tan sở, hoặc vào các ngày thứ bảy, chủ nhật. Nhưng tôi biết, để tránh xúc động nhân tâm, xã sẽ không hành quyết con Romeo vào cuối tuần lúc có đông người ngoài bãi. Tình cờ, thứ hai đó tôi được nghỉ bù cho ngày công tác thứ bảy, nên từ sáng sớm tôi đã cuộn tấm nệm và một cuốn sách, đạp xe ra bãi. Bãi không một bóng người. Mặt hồ phẳng lặng in bóng trời xanh, mây sữa pha ráng mật ong nửa lãng đãng trên trời nửa nhễu xuống nước. Thỉnh thoảng một làn gió nhẹ làm lao xao mặt hồ và hắt những tia nắng lung linh vào mặt tôi.
Tôi trải nệm trên cỏ, nằm ngửa, thả hồn trôi theo mây nước, tận hưởng chút hạnh phúc như cụ Nguyễn Công Trứ – “kho trời chung mà vô tận của mình riêng”. Phút giây này tôi biết sẽ phù du, sẽ tan biến khi lát nữa đây bãi tràn ngập người ta. Vẫn là trời này, vẫn là đất này, và tôi vẫn ở vị trí này, trên vuông nệm này, chắc chắn sẽ không ai xua đuổi tôi, có người còn chào hỏi tôi, nhưng hồn tôi sẽ co lại như con sên giữa chốn đông người bản xứ. Toàn là những người bản xứ tử tế, lịch thiệp, nhiều người không thiếu ân cần. Họ biết tôi từ lâu năm, và tôi biết họ, tôi biết ơn, thân mật, chung đụng với họ, nhưng chưa bao giờ tôi cảm thấy hoàn toàn hòa nhập với họ như hòa nhập với trời đất. Tôi có thể “tu luyện” để hưởng được hơi ấm của một giọt nắng trong vườn tuổi thơ ngay lúc còng người đi trong cơn bão tuyết. Nhưng lạ quá, tôi chưa bao giờ tránh được cơn gió bấc vô hình giữa con người. Tôi biết hoàn toàn là lỗi tôi, buồn lòng lắm, nhưng không làm gì được.
Bỗng tôi nghe tiếng xe ngừng ngoài lộ, rồi tiếng người nói và tiếng bước chân đi lại. Tôi ngồi dậy, thấy ba người đàn ông đi ra bãi tắm. Một trong ba người cầm khẩu súng săn. Tôi biết việc gì sắp xảy ra. Và thảm thương thay, cặp thiên nga lại không biết gì cả. Hai cái chấm trắng từ từ tách ra khỏi làn sương trắng mờ từ bên kia bờ, bơi sang … đất người. Tôi khấn thầm “Ðừng! Ở bên đó đi! Ðừng sang đây!” Nhưng cặp tình nhân vẫn nhởn nhơ bơi bên nhau như đi vào nơi non bồng nước nhược, cổ cất cao đài các, bơi tới đâu để lại sau hai vệt nước như tà áo choàng lụa mềm mại, gắn ngàn vạn hạt kim cương lấp lánh. Khi đôi thiên nga tới gần, tôi đã nhận ra chính là cặp Romeo-Juliet. Chúng bắt đầu khò khè xin đồ ăn. “Rất tiếc, ta quên mang bánh mì, làm ngươi không được ăn bữa tiệc cuối cùng”, tôi nói nhỏ với cặp thiên nga, và thấy xót xa trong lòng. Tôi nói bằng tiếng Việt để người ta đừng nghe “Bay đi! Trốn mau đi!” và lượm một viên sỏi liệng gần để đuổi chúng đi. Nhưng cặp vợ chồng chim lại tưởng tôi liệng đồ ăn, nghiêng mắt nhìn theo vành sóng tròn trên mặt nước, rồi tẽn tò, giương cánh vỗ nắng. Cặp chim trông như một cặp vũ ballet, cùng nghểnh cổ, cùng nghiêng đầu, cùng xoay mình, cùng đứng im. Tôi nghe tiếng của một trong ba người.
– Con bên trái, phải không?
– Ðúng nó đó, con có mào.
Một người không cầm súng nói với tôi:
– Ông không sợ tiếng nổ chứ?

Tôi lắc đầu. Và ông kia đưa súng lên nhắm. Nhưng ông ta không nổ súng được, vì đôi chim cứ quấn quít bên nhau. Tôi khấn thầm “Bơi sát lại nhau nhé, đừng rời nhau”. Nhưng thật là định mệnh, đôi chim không rời xa nhau, nhưng lại tiến lại gần người hơn nữa, ngay tầm súng. Ðoàng! Quác! Quác. Ðôi chim kêu thất thanh. Con Juliet bay bổng lên trời. Nhưng con Romeo chỉ nẩy lên, rồi sa xuống, đôi cánh trắng vùng vẫy tuyệt vọng trên mặt nước, xoãi ra, đầu gục xuống. Nó co giật vài cơn, rồi bất động. Con Juliet quác quác mấy tiếng thất thanh, lượn một vòng, rồi sà xuống, gục gặc bên cạnh con Romeo. Máu loang như ráng đỏ quyện lấy bóng cặp thiên nga in dưới nước như hai đám mây trắng. Con Juliet chũi đầu vào cánh chồng, lấy mỏ nâng cổ người yêu lên khỏi mặt nước. Nhưng cái cổ dài của con Romeo cứ trĩu xuống. Một người trong nhóm lấy một cây sào khều con chim chết vào bờ, trong khi con chim mái lẽo đẽo bơi theo, nửa giận dữ, nửa hãi sợ. Khi người ta nhét xác con Romeo vào một cái bịch rác đen lớn, con Juliet nhảy lên bờ đứng ngơ ngác. Xe pickup chở xác con Romeo đi rồi, con Juliet vẫn đứng trên bờ nhìn theo, lâu lâu nghển cổ kêu khò khè, như một người đàn bà khóc chồng tới khản tiếng.
Hôm sau, và suốt tuần lễ đi làm tôi không có dịp ra bãi nữa, nhưng lúc nào cũng bị ám ảnh về cái chết của con thiên nga trống và về số phận của con thiên nga mái. Vì thế sáng thứ bảy tôi đạp xe ra bãi từ sớm. Tôi phập phồng chờ đợi con thiên nga mái, mà không thấy nó xuất hiện. Tôi đoán hoặc người ta đã giết nó luôn, hoặc nó đã tự vẫn như lời đồn về những con chim chung tình tuyệt vọng. Quá trưa, tôi buồn bã trở về nhà. Suốt mùa hè tôi không ra bãi nữa.
Một đêm trăng mùa thu vợ chồng tôi rủ vợ chồng người bạn chèo ghe sang bờ hồ bên kia câu kreps (chúng tôi gọi là “tôm bọ cạp” như hình thù của nó). Mùa tôm bọ cạp năm nay bắt đầu từ ngày 6 đến 20 tháng 8, và vợ tôi đã mua sẵn 4 cái thẻ người lớn để được phép câu, mỗi cái 75 kroner. Sở Bảo vệ thiên nhiên ra chỉ thị năm nay chỉ được bắt những con từ 9,5 cm trở lên. Chúng tôi câu bằng hai kiểu, vừa bỏ đó, vừa thả thuyền gần bờ, một người soi đèn pin, người kia thấy tôm quáng đèn ngoi lên là dùng vợt hớt. Mùa hè năm nay ấm nên trúng mùa tôm, không đầy hai tiếng đồng hồ bốn người chúng tôi câu được gần một sô đầy. Anh Linh nổi hứng đề nghị xuôi ghe xuống hòn đảo hoang để nướng tôm nhậu. Khi đi lang thang trên hoang đảo dưới ánh trăng bỗng tôi nhìn thấy một đống lông trắng. Tôi giật mình nghĩ ngay tới con Juliet. Tôi lại gần thì quả là xác con thiên nga đã mục rữa. Bên cạnh là những mảnh vỏ trứng. Lúc đó tôi mới nhớ một việc vào cuối mùa xuân năm ngoái trước khi xảy ra vụ thiên nga đánh trẻ em. Tôi gọi vợ và hai bạn lại, chỉ đám lông trắng, nói:
– Anh chị Linh và em coi nè! Con Juliet chết ở đây. Ðúng ngay tại ổ của nó.
Vợ tôi hỏi:
– Sao anh biết là ổ thiên nga?
Tôi kể:
– Em còn nhớ cái bữa trời thật đẹp trước lễ Phục sinh năm ngoái không? Anh rủ em đi câu cá, nhưng em bận gì đó không đi được, anh chèo ghe một mình sang đảo. Anh nhìn thấy hai quả trứng to dị thường nằm trắng phau trong ổ cỏ lau. Anh đoán là trứng thiên nga.
Anh Linh nhận xét:
– Người ta nói thiên nga làm ổ ở nơi khác, tới mùa hè mới thiên di về đây. Sao cặp này lại làm ổ ở nơi dễ bị quấy nhiễu như thế này?
Tôi trả lời:
– Tôi không biết chắc. Tôi chỉ đoán cặp thiên nga này đã quen nước quen hồ đến nỗi chúng coi đây là nhà và định cư tại đây.
Chị Linh đùa, chêm tiếng Na-uy:
– Coi như là chúng “tam” (thuần) rồi.
Anh Linh vặn vợ:
– Thuần sao lại tấn công người ta?
Tôi rủ ba người trở lại đống lửa cho ấm trong lúc “câu giờ” suy nghĩ về câu hỏi của bạn. Cuối cùng tôi nói ra giả thuyết của mình:
– Anh chị Linh và em nghe tôi giải thích thế này có hợp lý không nhé. Hồi mà trên xã bàn về cặp thiên nga, tôi theo dõi báo chí, và nhớ cái ông chuyên viên điểu học có nói thiên nga chỉ tấn công bất thần như vậy khi nó bị phá ổ. Nhưng ông đã loại bỏ giả thiết đó vì ông không nghĩ cặp chim thiên di có thể làm ổ ở nơi đông người thế này.
Cả bốn người cùng im lặng suy nghĩ. Anh Linh tiếp:
– Bây giờ chúng ta đã gặp ổ thiên nga ở đây, tức là cặp thiên nga này đã chọn nơi đây làm nhà.
Tôi gật đầu:
– Và bây giờ tôi mới nhớ ra thêm một chi tiết quan trọng. Hôm đó, lúc thằng bé bơi ra giữa hồ, tôi thấy cái đầu nó ngoi lên ngụp xuống nước giống hệt con rái cá.
Vợ tôi dè dặt:
– Có phải anh cho rằng lúc đó con thiên nga mái đang ấp trứng, và con thiên nga trống tưởng thằng bé là rái cá tới làm hại vợ con nó?
Tôi im lặng để khỏi phải xác nhận hay phủ nhận. Cả bốn cùng nhìn ra mặt hồ loang loáng ánh trăng bạc. Bỗng có tiếng kêu quác quác trên không. Chúng tôi thấy một cặp thiên nga bay trong ánh trăng.

TÂM THANH

RỒI MAI KIA

phudu

rồi mai tôi giã biệt đời
sông dài vẫn chảy, mây trời vẫn bay
bạn bè vẫn có những ngày
kề vai thù tạc trận say khật khừ
rồi mai tôi sẽ giã từ
những nàng tố nữ xuân thu bộn bề
những mùa đến, những mùa đi
lao xao phố thị, rầm rì nhân sinh
rồi mai tôi lại đăng trình
vào nơi bát ngát hỏi mình về đâu

PHÙ DU

Hôm nay cùng tưởng nhớ 100 ngày nhà thơ Phù Du Vĩnh Hiền từ biệt chúng ta .

TÀN TRO

authiphucan

ổ bánh mì ngậm ngang môi
chiếc ô màu xám
em đi qua dưới mưa

em đong đưa làn tóc
bầu trời xao động

cuối mùa hạ
em muốn tìm về
nơi ấy

đâu con đường hun hút nắng
đâu em áo trắng quần loe

cỏ mọc dưới chân đồi
cỏ mơn man da thơm

bây giờ không biết mùa gì
những ly rượu đêm dài
tràn ly

cuối tháng tư sao?
áng mây nào trỉu nặng một cơn mưa
không ai mong đợi

em sẽ về nơi ấy
nơi vùi một quá khứ tàn tro…

âu thị phục an

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA : CHỈ LÀ NHỮNG TẤM HÌNH CỦA TRẺ CON

nuocmattruocconmua

SUSAN McDONALD

580244_10151992920081953_576839680_n

Susan McDonald

(Nữ Y Tá Cô Nhi Viện)

“Chỉ là những tấm hình của lũ trẻ con.”

Tôi là nữ y tá, tốt nghiệp đại học Coretto Heights ở Denver năm 1970, sau đó làm việc ở Kentucky khoảng ba năm. Bấy giờ mỗi đêm truyền hình đều chiếu về chiến tranh Việt Nam. Tôi theo dõi thường thấy cảnh trẻ con bị bắn. Vì quan tâm đến việc săn sóc trẻ, tôi bắt đầu nghĩ đến chuyện xin sang Việt Nam làm việc.

Tôi viết thư cho một số địa chỉ để tìm tin tức việc làm tại Việt Nam. Bấy giờ một trong những người tôi viết thư hỏi là Rosemary Taylor, một phụ nữ người Úc làm việc tại Việt Nam từ 1968. Rosemary chú ý đến việc săn sóc trẻ vô thừa nhận và tìm các gia đình nhận nuôi những đứa trẻ này. Bà đã phục vụ tại một viện nuôi trẻ vô gia cư ở Phù Mỹ. Sau bà tự lập nên những trung tâm riêng để săn sóc trẻ mồ côi và trẻ vô thừa nhận. Bà hoạt động qua các cơ quan Việt Nam, qua Toà Đại sứ các nước để tìm các gia đình nhận nuôi những đứa trẻ này. Rosemary trả lời thư, nói rằng có lẽ tôi sẽ hữu ích trong việc làm với trẻ mồ côi. Hãng Air France cấp cho tôi một vé máy bay đi Việt Nam, đổi lại tôi thỏa thuận là ngày trở về sẽ đi kèm với năm đứa trẻ rời Việt Nam. Ngày trở về được để trống.

Tôi chưa đến Á châu bao giờ. Thật ra, tôi chưa rời Hoa Kỳ bao giờ. Lần này đi New York, rồi bay sang Paris. Tôi ở lại Paris vài ngày với mấy người bạn, rồi sang Sài Gòn Tiếp tục đọc

từ nghe có tiếng em

10735644_826194720769236_378143114_n (1)

buồn , thả khói lên trời
anh , thả em về đâu
có đâu mà thắt buộc
ta thả lá qua cầu

những mùa em diễm tuyệt
là những ngày ta như
con sâu bò trên lá
vô ảnh nét kinh thư

buồn , thả lên núi nhé
nơi có lần em qua
đồng cao và xanh tít
để nhớ lúc xa nhà

em không còn đã hẵn
ta nỗi buồn trên tay
thổi phù lên lá cỏ
ngày mưa phùn bay bay

buồn , mắt khi khép lại
chữ ta còn hơn phai
ta nhờ sông em nhé
gửi em lời không ai

không ai nơi sẽ đến
chỗ em sẽ cài hoa
có hôm nào em nhớ
ngày con suối ùa ra

và chân em bờ trắng
và em tươi em xinh
và em đâu buồn nhỉ
chỉ là ta một mình…

NGÔ YÊN THÁI

Bên phượng hồng bên câu thơ

truongdinhtuan

Khi về ngang qua đó
Quế còn nhớ hương trầm?
Ngắt chùm hoa nở đỏ
Đường bỏ ngõ trăm năm

Tình thơm trang cổ tích
Nắng óng mật chạy vòng
Vàng phai mòn mê lộ
Tay nào vẫy sóng sông

Khi đứng lại bên cầu
Nhói màu thương dĩ vãng
Quay ngoảnh lại giang đầu
trôi đau lòng hoa nắng

Gửi người cao ngọn núi
Bên vai anh phượng hồng
Gửi người xanh biển rộng
Bên vai anh câu thơ

Khi về ngang qua đó
Không cầm được lòng mình
Ghé ngồi bên quán cũ
Thả mấy dòng thinh không


trương đình tuấn