TÌNH SẦU!

I. HUYỀN KIÊU, NGHĨA LÀ KIÊU, THÊM DẤU HUYỀN

Nhà thơ Huyền Kiêu tên thật là Bùi Lão Kiều. Huyền Kiêu có nghĩa là Kiêu, thêm dấu Huyền, thành Kiều.

Ông sinh năm 1915, và mất năm 1995, thọ tám mươi tuổi.

Ngoài làm thơ, ông còn là dịch giả. Huyền Kiêu làm thơ không nhiều. Ông nổi tiếng với hai bài Tương Biệt Dạ và Tình Sầu.

******

II. NHỮNG TRANH CÃI VỀ BÀI THƠ TƯƠNG BIỆT DẠ

Bài Tương Biệt Dạ dưới đây cũng tốn kém nhiều tranh cãi của người đời sau, xuất phát từ hoàn cảnh sáng tác của bài thơ.

Đại loại thế này, đây là bài thơ của Huyền Kiêu làm, nhân buổi tiệc chia tay của hai người bạn thân thiết là Khái Hưng và Nhất Linh. Sau đêm đó, Nhất Linh sẽ lên đường sang Tàu, chuẩn bị cho những hoạt động bí mật của ông sau này.

Tiệc được tổ chức tại nhà Thạch Lam, Thạch Lam là em ruột của Nhất Linh. Hôm ấy, có: Thạch Lam, Nhất Linh, Khái Hưng, Đinh Hùng, Huyền Kiêu, Thế Lữ và Nguyễn Tường Bách.

Tranh cãi, bắt đầu diễn ra ở chi tiết: Thạch Lam, chủ nhà, chính là tác giả của câu mở đầu Tương Biệt Dạ, hay, ông còn là người viết nhiều câu khác nữa, ở trong bài.

Nhưng kiểu gì kiểu, đã ký tên Huyền Kiêu thì là của ông Huyền Kiêu. Vả lại, đều là những nhà văn, những thi sĩ có tên tuổi vào thời ấy, thì sá gì, một vài câu thơ, do mình nhân lúc hứng khởi, do mình nhân lúc xúc động, mà đóng góp vô.

Theo tôi, những chuyện ấy, chẳng gì to tát. Trà dư tiểu hậu thì cũng được, còn quyết liệt làm cho ra ngô ra khoai, thì để được gì, và để làm gì. Các ông ấy, bây giờ, biết đâu, nơi tiên giới, đang ngồi khề khà với nhau bên chén rượu, ván cờ, có còn lưu tâm đến chuyện trần thế nữa đâu, mà ta ở dưới này, xôn xao, cho thêm mệt.

******

III. BÀI THƠ TƯƠNG BIỆT DẠ

01. ĐINH HÙNG – NGƯỜI LÀM SỐNG LẠI TƯƠNG BIỆT DẠ

Bài thơ Tương Biệt Dạ được viết vào mùa thu năm 1940 của thế kỷ trước, nhưng mãi đến năm 1965, khi cả Khái Hưng và Nhất Linh đều đã mất, thì câu chuyện kể về đêm trăng xưa này, mới được Đinh Hùng – người duy nhứt đêm ấy, di cư vào Nam – sực nhớ ra, và thuật lại.

Tương Biệt Dạ

Hiu hắt trăng khuya lạnh bốn bề

Ý sầu lên vút tới sao Khuê

Quý thay giây phút gần tương biệt

Vương vấn người đi với kẻ về

Ngồi suốt đêm trường không nói năng

Ngậm ngùi chén rượu ánh vừng trăng

Người xưa lưu luyến ra sao nhỉ

Có giống như mình lưu luyến chăng

Đã tắt lò hương lạnh phím đàn

Thư phòng sắp sẵn để cô đơn

Trời cao mây nhạt ngàn sao rụng

Một giải sương theo vạn dặm buồn

Sớm biệt ly nhau không nhớ nhau

Nửa đêm chợt tỉnh bỗng dưng sầu

Trăng mùa xuân đó ai tâm sự?

Anh đã xa rồi, anh biết đâu.

(Hà Nội – mùa xuân 1939)

******

02. TƯƠNG BIỆT DẠ – BÀI THƠ VIẾT VỀ BUỔI CHIA TAY CỦA ĐÔI BẠN KHÁI HƯNG VÀ NHẤT LINH

Tiệc rượu đêm này, được tổ chức cho Khái Hưng chia tay Nhất Linh. Hai người vốn có một tình bạn thân thiết hơn cả anh em ruột thịt, vì thế, nên buồn. Mà người buồn thì cảnh có vui đâu bao giờ: Hiu hắt trăng khuya lạnh bốn bề / Ý sầu lên vút tới sao Khuê / Quý thay giây phút gần tương biệt / Vương vấn người đi với kẻ về.

Sầu mà mô tả, vút tới sao trên trời, nghĩa là sầu đã lắm lắm rồi đó. Cộng thêm với từ “tương biệt”, khiến cảnh và người cứ man mác, bâng khuâng những niềm không rõ. Nào có đâu ai đặt đá tảng vào lòng, mà vẫn cứ nghe nỗi buồn nằng nặng.

Chỉ có bảy người trong tiệc rượu thôi, mà bà Thạch Lam, qua sáng ngày hôm sau, đếm được cả thảy mười một vỏ chai rượu. Để uống đến độ như vậy, hẳn là họ đã phải trải qua một cơn buồn lắm lắm: Ngồi suốt đêm trường không nói năng / Ngậm ngùi chén rượu ánh vừng trăng / Người xưa lưu luyến ra sao nhỉ / Có giống như mình lưu luyến chăng.

Buồn thì thường đi liền với cô đơn, với lạnh lẽo, với quạnh hiu, trống vắng: Đã tắt lò hương lạnh phím đàn / Thư phòng sắp sẵn để cô đơn / Trời cao mây nhạt ngàn sao rụng / Một giải sương theo vạn dặm buồn.

Cái câu “anh đã xa rồi, anh biết đâu”, theo tôi, cũng là một câu hay. Anh đây là chỉ Nhất Linh. Anh đã lên đường rồi, anh có biết cho chăng, chúng tôi, những người ở lại, nhớ anh, và lo lắng cho anh, biết là chừng nào.

Nguyễn Tường Tam, tức Nhất Linh, không chỉ mang con trai mình cho bạn làm con nuôi, đổi tên từ Nguyễn Tường Triệu thành Trần Khánh Triệu, con của Trần Khánh Giư, tức Khái Hưng, vì Khái Hưng hiếm muộn, không có con, mà hai ông Nhất Linh và Khái Hưng còn viết chung nhiều tác phẩm xuất sắc, để lại cho đời sau như: Anh Phải Sống, Gánh Hàng Hoa và Đời Mưa Gió.

Thật ít có một tình bạn văn nào đẹp, đồng điệu, thân thiết, tri kỷ đến như vậy, xưa nay.

******

IV. BÀI THƠ TÌNH SẦU

01. TÌNH SẦU – ĐƯỢC NHIỀU THẾ HỆ YÊU THÍCH

Bài Tình Sầu của Huyền Kiêu được rất nhiều người thuộc thế hệ sau ông, yêu thích và trích dẫn.

Trích dẫn, hoặc chép ra toàn bài khơi khơi vậy thôi, chớ thực tình, tôi cũng chưa thấy ai phân tích hoặc bày tỏ lý do vì sao mình thích. Chỉ là thấy dễ thương, chỉ là thấy rất thơ, nên thích.

Mà nói cho cùng, một bài thơ, sau khi hoàn thành, tác giả nào cũng chỉ mơ được như thế thôi, nghĩa là, được như bài Tình Sầu của Huyền Kiêu, được đông đảo bạn thơ ưa chuộng, được truyền tụng đến nhiều thế hệ sau.

Hiểu được thì tốt. Không hiểu, cũng chẳng sao. Thơ là thế mà. Bản chất thơ là thế mà.

Thơ, bất khả giải.

**

TÌNH SẦU

Xuân hồng có chàng tới hỏi:

– Em thơ, chị đẹp em đâu?

– Chị tôi hoa ngát cài đầu

Đi hái phù dung trong nội

Hè đỏ có chàng tới hỏi:

– Em thơ, chị đẹp em đâu?

– Chị tôi khăn thắm quàng đầu

Đi giặt tơ vàng trong suối

Thu biếc có chàng tới hỏi:

– Em thơ, chị đẹp em đâu?

– Chị tôi khăn trắng ngang đầu

Đi hát tình sầu trong núi

Đông xám có chàng tới hỏi

– Em thơ, chị đẹp em đâu?

– Chị tôi hoa phủ đầy đầu

Đã nghỉ trong hầm mộ lạnh.

(Hà Nội mùa thu 1938)

******

02. BÀI THƠ CHỨA ĐỦ BỐN MÙA, XUÂN, HẠ, THU, ĐÔNG

Theo thiển ý tôi, ở những năm bốn mươi của thế kỷ hai mươi, tức là, đã cách cho đến nay bốn thế hệ, mà, làm được một bài thơ như vậy, viết được một bài thơ như vậy, tôi cho là quá tài.

Huyền Kiêu quá tài.

Bài thơ lạ. Lạ không chỉ ở tứ thơ, ý thơ, mà còn lạ ở cách trình bày, tức là cách sắp xếp, tức là bố cục thơ.

Bốn khổ thơ là thứ tự của bốn mùa xuân, hè, thu, đông. Xuân thì hồng. Hè thì đỏ. Thu thì biếc. Đông thì xám. Và, duy nhất, đến rồi đi, đi rồi quay trở về, bốn mùa ấy, chỉ mỗi một chàng trai.

Cùng hai nhân vật còn lại, là hai chị em. Người chị luôn không có mặt khi chàng trai đến. Và kẻ xưng tôi, là em của cô gái, cũng là người trả lời các câu hỏi của chàng trai.

******

03. ĐI HÁI PHÙ DUNG TRONG NỘI

Mùa xuân, mùa đẹp nhất của đời người, chị của em bé chắc lúc ấy cũng chỉ ở khoảng tuổi mười bốn, mười lăm. Tuổi của hoa mộng. Tuổi của ước mơ. Con gái quê, nào sẵn đâu son phấn, muốn làm đẹp, chỉ biết hái đóa hoa cài lên tóc. Và đứa em ngây thơ, trả lời, chị còn đang đi hái phù dung, nội đâu đó quanh nhà.

Tuổi còn xuân, mùa xuân, sao không đi hái hoa xuân như hoa mơ, hoa mận, như trong bài hát Gái Xuân do Từ Vũ phổ thơ của Nguyễn Bính, mà lại đi hái phù dung nhỉ?

Phù dung, sớm nở tối tàn, hay ý Huyền Kiêu muốn ví, làm thân con gái, giống đóa hoa, vừa nở đẹp sớm mơi, chớm khuya đã lụi tàn: Xuân hồng có chàng tới hỏi: / – Em thơ, chị đẹp em đâu? / – Chị tôi hoa ngát cài đầu / Đi hái phù dung trong nội.

Chàng trai hỏi, rồi đi. Vẻ như cái hỏi ấy chỉ là một sự thăm chừng. Tại sao thăm chừng mà không đi tìm gặp? Cũng không rõ. Có thể, vì nàng khi ấy còn bé quá chăng, hay, vì chàng trai khi ấy còn đang nhiều vướng bận, chưa thể nghĩ đến tình riêng?

******

04. ĐI GIẶT TƠ VÀNG TRONG SUỐI

Mùa hè tới. Oi bức. Hanh nồng. Bầu trời đỏ một màu chói chang, khó chịu. Chị, lúc này, đã không còn tuổi bé thơ. Chị đã lớn, đã biết trồng dâu, nuôi tằm, lấy tơ, dệt lụa. Và lúc chàng trai ghé đến, chị đang ngoài suối giũ tơ: Hè đỏ có chàng tới hỏi: / – Em thơ, chị đẹp em đâu? / – Chị tôi khăn thắm quàng đầu / Đi giặt tơ vàng trong suối.

Khăn quàng đầu là để giữ cho mái tóc đừng xổ tung khi làm việc. Khăn quàng đầu là còn để che mát lúc trời nắng nôi. Chị trưởng thành rồi. Chị đã có thể nuôi em và tự chăm sóc mình. Vậy mà hỏi xong, anh ấy lại đi. Sao không đi kiếm chị mình nhỉ. Hẳn đứa em thắc mắc lắm. Nhưng biết hỏi gì bây giờ. Chắc có những lý do riêng không tiện nói. Thì đành vậy, chớ biết làm sao hơn.

******

05. ĐI HÁT TÌNH SẦU TRONG NÚI

Mùa thu, mùa hoàng hôn, mùa úa tàn, xế chiều, nắng tắt. Chị không còn trẻ nữa. Sau bao chờ đợi, chị đã thôi hy vọng. Và, chị buồn. Câu trả lời của đứa em cũng buồn, và, dường như, có chút trách thầm, nhè nhẹ: Thu biếc có chàng tới hỏi: / – Em thơ, chị đẹp em đâu? / – Chị tôi khăn trắng ngang đầu / Đi hát tình sầu trong núi.

Sao lại là khăn trắng ngang đầu? Cô ấy để tang cho cha mẹ vừa mới mất hay để tang cho chính cuộc tình mình? Một mình thơ thẩn vào núi sâu, hát những câu hát sầu cho núi nghe, cho chính mình nghe. Đứa em, vẳng nghe tiếng hát sầu của chị, chắc nó cũng buồn lắm. Nhưng hỏi chàng trai, thì nó vẫn không. Nó lờ mờ hiểu ra, rằng những quan tâm của người đàn ông ấy chỉ là những ái ngại, kiểu như, thấy mình có lỗi, khi mà, họ đã đâu đó, yên bề gia thất rồi.

******

06. ĐÃ NGHỈ TRONG HẦM MỘ LẠNH

Mùa đông, mùa lạnh giá. Có đôi, có cặp thì còn ủ ấm nhau trong những ngày rét mướt. Còn chị, chị một mình, mòn mỏi. Và chị thôi, chị không muốn kéo dài thêm những ngày đơn côi, lầm lũi nữa. Chị trao hết lại cho em, giao hết lại cho em, cậy nhờ em hương khói giùm cha mẹ: / Đông xám có chàng tới hỏi / – Em thơ, chị đẹp em đâu? / – Chị tôi hoa phủ đầy đầu / Đã nghỉ trong hầm mộ lạnh.

Mình là người dưng thôi, nghe câu trả lời của đứa em mà còn muốn rớt nước mắt, huống hồ, người đàn ông, tóc chắc cũng đã bạc trắng kia. Kiếp người, sao mà buồn đến thế. Hẳn là sau lần này, người đàn ông cũng không còn tìm đến nữa đâu. Ông ấy dù đau đớn nhưng đã yên lòng rồi. Từ đây, người con gái mà ông đem lòng yêu từ thuở còn thơ ấy, sẽ không còn bơ vơ, không còn phải một mình một bóng nữa.

Và, biết đâu, trên đường quay về, ông ấy sẽ ghé ngang qua hầm mộ, đốt nén hương trầm thơm và lầm rầm khấn vái, đợi anh, em nhé, chúng mình kiếp sau.

******

V. TÌNH SẦU LÀ MỘT BÀI THƠ ĐẸP, NHƯNG RẤT BUỒN

Tình Sầu là một bài thơ rất buồn. Đẹp, nhưng buồn.

Tất cả các nhân vật trong bài thơ đều buồn. Thảy, đều lặng lẽ, và mỗi người, tự buộc vào mình những nhận mang, những cố nén.

Không chỉ nhân vật, mà tình tiết thơ, mà từ ngữ thơ, cũng sẫm một màu buồn như thế. Buồn lắm. Buồn thắt thẻo cả ruột gan, dẫu hình ảnh mà tác giả tạo dựng lên rất thơ, rất mơ: phù dung, tơ vàng.

Bàng bạc suốt bài thơ là sự sống tưởng tươi vui mà lại rất mỏng manh, tưởng căng tràn sức sống mà lại héo hắt, úa tàn: trong nội, trong suối, trong núi, trong hầm mộ lạnh.

Đời, có bao giờ được như ước mơ đâu.

Thế nên, đời mới sầu. Thế nên, tình cũng sầu. Và bài thơ mang tên Tình Sầu, là vậy đó.

******

VI. HUYỀN KIÊU, CHA ĐẺ CỦA TỪ “CHỊ ĐẸP”

Tình Sầu được nhạc sĩ Việt Dzũng phổ thành ca khúc mang tên Thu Vàng Có Chàng Tới Hỏi và nhạc sĩ Phạm Duy thì phổ thành ca khúc Ngày Xưa Một Chuyện Tình Sầu.

Trên facebook cũng như trong các giao dịch thư tín, trò chuyện đời thường, người ta hay dùng ái ngữ, chị đẹp ơi, em đẹp à. Tôi cho rằng, cha đẻ của ái ngữ này, chính là nhà thơ Huyền Kiêu với bài thơ Tình Sầu, độc nhất vô nhị, của ông.

Sài Gòn 12.05.2025

Phạm Hiền Mây

Có thể là hình ảnh về văn bản cho biết 'TÌNH SẦU!'

KHÓC NGƯỜI KHÓC TA… .

 

khóc người lần nữa rồi thôi
để còn nước mắt cùng tôi với đời
đi hay ở cũng mây trời
thêm bao cay đắng chỉ lời trớ trêu
trong màn tối phận lêu bêu
khóc người lần nữa tiếng kêu giang hà

lũ chim đói khát không nhà
dặn nhau chớ cõi ta bà tái sinh
thở hơi tàn trút lặng thinh
cho xong cái kiếp linh đinh rất buồn

khóc người lần nữa lệ nguồn
đắp lên mộ địa gió luồn lạnh cơn
chẳng tìm ra cuộc vui hơn
thì đành vậy nỗi cô đơn đến hồi
mỏi chân dừng bước thân ngồi
khóc người một trận đã rồi khóc ta… .

Phạm Hiền Mây

TIỄN TÔ THÙY YÊN… .

 

đi như đi lạc trong trời đất
thủy tận sơn cùng xí xoá ta
cõi chiều đứng lại khóc như liễu
có thật là ta đã đi xa.
(đi xa – tô thùy yên)

**
kẻ trước người sau ngày sập tối
dọc ngang cổ độ kiếp giang hà
mục xuôi dòng củi ghềnh lưu xứ
ngược thác trơ cành nước xiết qua

**
xế bóng hoàng hôn làn chợt tắt
buồn lên chửa vợi chớm dương tà
hờn biên ải núi màu ai oán
lặng lẽ non về mây thiết tha

**
trùng dương khởi sóng đời gang tấc
dâu bể vùi chôn thoắt í a
nghìn năm hồ dễ lòng khôn giấc
chí cả anh hùng ngựa vó ca

**
cơn mưa hạt đổ mờ phương ấy
hay khóe nhòa tuôn lệ biệt sa
xin đây tiễn xá hồn hương kính
chầm chậm tàu lăn khói tỏa ga

**
đi như thuở gió tàn nhân thế
thật ảo phù hư mộng sớm hoa… .

22/05/2019
phạm hiền mây

TRÁCH CHI .

trách làm chi nỗi trời bày
trò chơi từ thuở mượn vay xuân thì
thuở yêu đương cuộc hạn kỳ
cây ly biệt trổ xanh rì lộc non

mầm ly biệt trổ màu son
trách làm chi nỗi héo hon trời dành
đêm lên ngày xuống trên nhành
tình riêng một mớ treo mành chỉ tơ

tình riêng một mớ ngu ngơ
người đi mãi để bài thơ hoang đường
trách làm chi nỗi trời dường
mơ hồ như thể bức tường vân trôi

tường vân bức hoặc nghi đôi
gió mây hò hẹn phai phôi xuống mù
nẻo thiên cổ vẫn thế dù
trách làm chi nỗi trời phù du tan

trách làm chi nỗi trời đang
càn khôn trận nổi mênh mang giang hà
đời hoa cỏ mộng ta bà
chiêm bao giấc mãi chiều tà lá lay

thắp buồn sương trắng trời bay
mờ tay khói
nỗi sầu này
trách chi… .

PHẠM HIỀN MÂY

ƠI TÌNH… .

ơi mưa có hạt qua đâu
mà trong khóe cả mùa ngâu chực chờ
mưa nào phải đã bây giờ
mà cầu ô thước hiện mờ trong sương

**
cầu ô thước gãy uyên ương
ơi ngưu lang chức nữ tương tư hoài
để mây lặng lẽ đông đoài
hai phương trời mộng trong ngoài chiêm bao

**
hai phương trời mộng hư hao
bướm vàng bờ giậu đành ao ước tàn
ơi lan sao khép hương ngàn
chi cho điệp giấc ngủ làn mong manh

**
điệp bờ cỏ giấc thiên thanh
nghe chuông chiều gõ long lanh giọt buồn
nghe tiền kiếp gió ngọn luồn
ơi đông chưa giá buốt nguồn dường đang

**
ơi trăng khuya dải lang thang
tìm ngơ ngẩn dấu sáo sang ngang ngày
tìm ngơ ngẩn buổi lạc bầy
sóng dâng trắng khói đổ đầy biển dâu

**
sóng dâng trắng khói mắt sâu
môi từ ly
chợt thốt câu
ơi tình… .

PHẠM HIỀN MÂY

MỘNG XUÂN… .

tìm trong xuân
mộng
bình yên
chút se sắt lạnh bên hiên gót về
hương thơm theo bước chân thề
chỉ duy nhất trái tim kề người thôi

**
người duy nhất trị vì ngôi
mộng xuân
tìm
lạc thuở đôi cát lầm
đất trời tự thuở lặng trầm
uyên ương tạc đã âm thầm kiếm nhau

**
tạc âm thầm kiếm xưa sau
hoài ngăn cách mãi nỗi đau vẫn giờ
tìm trong xuân
mộng
tình cờ
và trong cả những bất ngờ nào hay

**
bất ngờ trận bụi sầu bay
cội xương rụng trắng lá lay khi mùa
lá lay cỏ ngọn gió đùa
mộng xuân
tìm
cánh chim vừa ngõ hoa

**
tìm trong xuân
mộng
thiết tha
may ra sót chút dấu mà nhớ thương
sót yêu sót trót vấn vương
thành đông giá sớm dậy sương khói miền

**
khói sương đông giá thần tiên
tìm chiêm bao
thấy mây hiền
mộng xuân…

PHẠM HIỀN MÂY

BUỒN MÂY…

trời làm nên nỗi xa xôi
để buồn
mây
mãi vào đôi mắt nằm
để tim buốt nhức vết dằm
để nhung nhớ rất đỗi đằm thắm sông

**
nhớ nhung rất đỗi màu đông
cái màu hiu hắt ngàn thông reo chờ
buồn
mây
cũng thế thẫn thờ
theo bên người ngẩn ngơ bờ chiều tây

**
bên người nghe gió mùa vây
nghe tà huy buổi về gầy hư hao
nghe hoàng hôn phiến lao xao
buồn
mây
lá rụng tự bao giờ dòng

**
buồn
mây
bóng nước mê ròng
vàng phơi mấy độ cho lòng sầu giăng
khuya đêm lạnh quá tàn trăng
soi chi nữa lệ cát đằng khóe mưa

**
cát đằng lệ khóc gì thưa
buồn
mây
viễn xứ tóc xưa trắng đầu
sợi thơm thiên lý hương rầu
lên tay ngón thắp khói sầu đời trôi

**
khói sầu sợi lặng lẽ môi
phù vân lỡ hẹn mộng rồi
buồn
mây…

Phạm Hiền Mây

GIANG ĐẦU RỒI SAO… .

lệ rồi sao
mối tình
sầu
hay mưa tháng bảy trời ngâu khóc òa
mà môi mắt sớm chan hòa
trên cao trắng trút hạt nhòa thác mây

trên cao trắng hạt nhòa vây
xóa rồi sao
mối tình
dây dưa mù
cánh mây bụi bóng vân phù
qua khe lả tả thiên thu rụng tàn

khe tay lả tả muôn vàn
màu thời gian lấp bàng hoàng hư không
biệt rồi sao
mối tình
đông
mùa xui ta lạc bềnh bồng đường yêu

bềnh bồng trong chốn lãng phiêu
đôi buồn sóng bước chân chiều khói mơ
chiều em có đứa làm thơ
khổ rồi sao
mối tình
chờ ngàn sau

lìa rồi sao
mối tình
đau
bài thơ em viết tặng nhau nửa chừng
vẫn nguyên hơi thở anh từng
nguồn vào em đập nhịp đừng biển dâu

bình yên tình chớ lo âu
lời anh dặn
nước giang đầu
rồi sao… .

Hiền Mây

BUỒN TÊNH MƠ HỒ… .

mơ hồ nhớ
mơ hồ quên
mơ hồ mình
quán chênh vênh giữa trời
chênh vênh dốc quán giữa đời
bốn mùa mây trắng tơi bời phù hư

bốn mùa mây trắng tương tư
nỗi đau lả tả trút như phai vàng
như khi cõi mất thiên đàng
cái hôm sương khói cuối ngàn bỏ đi

cái hôm sương khói hàng mi
rưng rưng mắt ướt mưa chi mưa hoài
nghiêng đông trút nước nghiêng đoài
trút sông biển cách ngăn dài trần gian

ngăn hơi thở áp miên man
ngăn cung đàn tiếng mênh mang nguyệt cầm
thương mênh mang rưới môi trầm
yêu mênh mang rưới nhau đầm đìa trăng

đầm đìa gió buốt ăn năn
lùa cơn mộng vỡ tình lăn lũng rầu
tình lăn mấy độ đủ sầu
tình xa mấy độ thắm màu nhớ quên

mơ hồ ai khẽ gọi tên
phải người không
giọng buồn tênh
mơ hồ…

Hiền Mây

NGHÌN TRÙNG DẤU XƯA… .

 

chiều chưa xuống hết
mông lung
ngập đầy mắt
khói mịt mùng chân mây
buồn dâng ngọn trút về tây
hắt em chùng vạt sầu lây lất sầu

hắt em áo mỏng lần đầu
biết yêu
trăng vỡ chân cầu nước trôi
biết yêu
gió xé làm đôi
hai phương trời mộng chia phôi giấc vàng

hai phương trời
lạc thiên đàng
trái vườn cấm chín rụng
càng khôn vơi
nghe lòng tịch mịch mùa rơi
cô đơn ngực trút tàn hơi đi tìm

tìm trong tân khổ im lìm
tìm khi
chim mỏi cánh
chìm ngàn xa
giọng khô còn gọi thiết tha
thì tay còn níu mù sa kiếm người

còn vay chưa trả môi cười
và lời hứa sẽ tặng đời cho nhau
thì chân lối có gai đau
tình mình
rồi sẽ ngày sau
vô cùng

chiêm bao tiền kiếp nhớ nhung
ẩn ngôn mặc khải
nghìn trùng
dấu xưa… .

Hiền Mây