CƯỠI NGỌN SẤM, CHƯƠNG 1

cuoingonsam

richardbotkin

Chương 1

Hồng Thủy Triều

Bản đồ thế giới đang bị nhuộm đỏ dần. Từ thành trì nước Mỹ vào cuối năm 1954 nhìn ra ngoài, tình hình thế giới không được lạc quan chút nào. Căn bệnh ung thư Cộng sản bất trị đã tấy lên và lây lan với mức độ đáng sợ. Liên Sô, Đông Âu, Trung Cộng, Bắc Hàn và bây giờ là đất nước Việt Nam bị chia cắt với bọn Cộng sản thống trị ở miền Bắc đang thèm khát nhòm ngó xuống miền Nam và có lẽ sang cả Lào và Căm-Pu-Chia nữa. Số lượng các dân tộc bị nô lệ tăng dần lên làm lu mờ đi niềm vinh quang của cuộc chiến thắng toàn diện từ sau Thế Chiến Thứ Hai.

Trong khi chủ nghĩa thực dân cũ bị sụp đổ và biến dần đi thì khoảng trống về chính trị và kinh tế đã tạo ra một thế giới thứ ba trong chiều hướng thù địch với sự hình thành non yếu của nền kinh tế tự do và đối với các chính phủ được bầu lên theo thể thức dân chủ. Dưới quan điểm của người Mỹ, khối liên kết Liên Sô-Trung Cộng tựa như một con quái vật khát máu, dị dạng đang nuốt chửng tất cả những gì nằm trên đường đi của nó và đang tìm mọi cách để mở rộng ảnh hưởng bằng cách xuất cảng tràn lan chủ nghĩa Mác-xít, giúp các phong trào nổi dậy và cái gọi là “chiến tranh nhân dân.”

Tương tự như sự kiện Trân Châu Cảng đã lay động Hoa Kỳ thức tỉnh để ra khỏi sự cô lập và đã thúc đẩy đất nước này một cách toàn diện, tuy không tự nguyện, vào vai trò lãnh đạo của Thế Giới Tự Do, tình hình thực tế sau sự kết thúc của các cuộc xung đột lớn vào tháng 9 năm 1945 là yếu tố buộc anh chàng “khổng lồ” miễn cưỡng này phải thận trọng và đầu tư lâu dài của cải, tài nguyên nhân lực ở những mức độ chưa từng thấy hoặc ở mức cần thiết không tưởng tượng nổi nếu trong thời bình.

Kinh nghiệm của Hoa Kỳ trong Thế Chiến Thứ Hai, quá lớn và mòn mỏi đối với tất cả các công dân Mỹ trên mọi phương diện rất khó mà xác định hay định lượng nổi toàn bộ, đã tạo ra các tiêu chuẩn mới để từ đó các hoạt động quân sự trong tương lai cũng như các phương cách đo lường thắng bại phải được xem xét lại.

Kinh nghiệm trận chiến Triều Tiên mà nước Mỹ tham dự từ tháng 6/1950 cho đến khi đạt được một cuộc ngưng bắn mong manh vào tháng 7/1953 hết sức khác biệt với niềm vinh quang toàn diện của Thế Chiến Thứ Hai mà người Mỹ vẫn còn mang trong lòng. Với cái giá phải trả là hơn 54 ngàn binh lính bị thiệt mạng, hơn 8 ngàn người mất tích vì công vụ và hàng trăm ngàn người khác bị thương, người Mỹ bình thường không có niềm tự hào vì không thể tuyên bố đó là một sự chiến thắng được. Người nào lạc quan lắm cũng chỉ có thể quan niệm rằng ít nhất nước Cộng Hòa Đại Hàn vẫn còn đứng vững và sự hiện diện của Hạm đội thứ bẩy tại eo biển Đài Loan đã chận đứng các âm mưu của Cộng sản muốn thôn tính Trung Hoa Quốc Gia và có thể ngay cả Nhật Bản nữa. Trong khi sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản đã tạm bị ngăn chận tại vùng Bắc của lục địa Á Châu thì căn bệnh ung thư tương tự lại bắt đầu phát triển về phía Nam.

Lê Bá Bình

Cha của Lê Bá Bình là người đã tác động nhiều nhất đến ước muốn của anh là được trở thành một sĩ quan trong Binh chủng Thủy Quân Lục Chiến mới được thành lập.

Ông tên là Lê Bá Sách, sinh năm 1910 tại một làng gần Hà Đông, một thị trấn nông thôn hơi chệch về hướng Nam và Tây của Hà Nội. Thấy ông là một thanh niên thông minh, gia đình đã lo cho ông đi Pháp vào cuối thập niên 1920 để theo học tại một trường đại học kỹ thuật và nhận được bằng kỹ sư. Sau khi trở về Việt Nam vào đầu thập kỷ 1930 ông gia nhập lực lượng Hải quân Pháp đóng tại vùng Sài Gòn. Vì là người Việt Nam, cho nên mặc dù có học, nhưng các cơ hội thăng cấp của ông đã bị hạn chế, do đó ông phải phục vụ dưới khả năng của mình như một hạ sĩ quan trên những chiếc tàu thuyền nhỏ của Hải quân Pháp đồn trú tại đó.

Năm 1930 mẹ vợ của ông Sách chuyển vào sống tại Sài Gòn để trông nom một quán ăn gần vùng Chợ Lớn. Cùng theo với ông Sách vào Sài Gòn là bà vợ mới cưới tên là Cát Thị Dần sinh trưởng từ tỉnh Sơn Tây gần Hà Nội. Bình được sinh ra năm 1937 và là người con trưởng trong số bốn người con của một gia đình Phật giáo truyền thống.

Một phần đất của Đông Dương thuộc Pháp sau này trở nên nổi tiếng đối với thế giới với tên gọi Việt Nam được tạo nên bằng ba khu vực riêng biệt. Ở phía Bắc, ngay bên dưới và tiếp giáp với Trung Quốc, là xứ Bắc Kỳ với nét đặc điểm địa lý chính yếu tác động đến dân cư là châu thổ sông Hồng. Về phía cực nam là vùng Nam Kỳ. Giống như miền Bắc, đặc điểm chính yếu của nó là khu vực đồng bằng to lớn hơn và là vựa lúa phì nhiêu của giòng sông Cửu Long hùng vĩ. Ở giữa hai vùng là miền Trung Kỳ với cái tên Annam là một vùng khó nhọc nuôi dưỡng dân cư ít hơn nhiều, với các cánh đồng dọc ven biển chật hẹp và chúng nhanh chóng biến thành núi rừng nếu ta di chuyển về hướng Đông qua Lào hay Căm-Pu-Chia.

Những kỷ niệm sớm nhất của Lê Bá Bình lúc còn thiếu thời chắc phải bao gồm các hồi ức về sự chiếm đóng của quân đội Nhật. Trên thực tế thì cái gọi là Khối Thịnh Vượng Chung Đại Đông Á chẳng mang lại thịnh vượng gì cho người dân sinh sống tại Đông Dương. Rất nhiều lần cậu bé Bình đã thấy những tên lính Nhật vung kiếm chặt đứt tay một số người dân ngoài phố chợ Sài Gòn chẳng biết vì lý do gì.

Trong những cuộc du hành trong nước, ông Lê Bá Sách đã tận mắt chứng kiến một viên sĩ quan Nhật dùng kiếm chặt chân một ông già phu xe vì tội không cung kính hoặc vì đã di chuyển chậm chạp kém nhiệt tình. Tại quê nhà Hà Đông của ông có một phụ nữ lớn tuổi vốn đã từng bán gạo cho đạo quân Nhật Hoàng dùng để nuôi ngựa. Khi có một con ngựa trong đám bị chết sau khi ăn gạo do bà bán, bà già bị lôi ra và nhét tươi vào bụng mổ toang của con vật đã chết. Sau khi nhồi nạn nhân vào bụng xác con vật xong, bọn lính khâu lại và đứng chung quanh cười giỡn khi thấy xác con vật quằn quại với nhịp độ yếu dần khi bà già bị chết ngạt bên trong. Người dân xứ Đông Dương đã học một bài học đắt giá là quan thầy thực dân Pháp của họ không phải là siêu nhân. Khi làn sóng chiến tranh chuyển hướng bất lợi cho người Nhật và vòng vây các tiềm thủy đĩnh Hoa Kỳ chung quanh các hòn đảo Nhật Bản siết chặt dần, nhu cầu phải nhập cảng lương thực tăng vọt lên. Người Nhật thâu tóm hết ngũ cốc từ những vựa lúa mầu mỡ của sông Hồng và, ở mức độ thấp hơn, từ vùng sông Cửu Long để chuyển về nước. Tuy không có những thống kê chính xác nhưng các ước tính hợp lý cho biết trong giai đoạn 1944-1945 chỉ riêng miền Bắc đã có khoảng hai triệu trong số 10 triệu ngưòi dân đã thiệt mạng từ nạn đói gây ra bởi kẻ xâm lược và nạn hạn hán lại còn làm cho tình hình tồi tệ thêm. So với Trung Hoa lúc đó cũng phải chịu đựng cảnh khốn cùng trong tay người Nhật, Việt Nam có lẽ đã phải trả cái giá cao hơn cho việc bị ép buộc gia nhập vào khối Thịnh Vượng Chung Đại Đông Á. (Các sự phỏng đoán được chấp nhận cho thấy số lượng người Trung Hoa bị thiệt mạng trong Thế Chiến Thứ Hai vào khoảng 10-12 triệu người kể cả đàn ông, phụ nữ và trẻ em. Với một dân số khoảng 500 triệu vào lúc đó, gần 2% người Trung Hoa đã chết. Dân số Việt Nam ước tính cho ba miền Bắc, Trung và Nam vào khoảng gần 30 triệu mà đã có tới từ một đến hai triệu người chết tức từ ba đến sáu phần trăm dân số bị thiệt mạng. [Theo các nguồn tài liệu khác nhau]).

Trong cuộc họp cuối cùng của nhóm Tam Cường tại Postdam vào tháng 7/1945, Truman, Stalin, Churchill và các ban tham mưu của họ đã làm nhiều hơn là chỉ bàn thảo việc tìm kiếm kết quả cuối cùng cho cuộc chiến tại Âu Châu cũng như hoàn thiện chiến lược đánh bại nước Nhật. Trong các vấn đề phụ thuộc đối với các nước khác nhưng lại có ảnh hưởng đối với Đông Dương là thỏa thuận khi cuộc chiến chấm dứt tại vùng Thái Bình Dương. Quân đội Trung Hoa Quốc Gia sẽ giải giới quân đội Nhật tại miền Bắc xuống tới vĩ tuyến 16. Ở phía Nam, công việc tiếp nhận sự đầu hàng của quân Nhật sẽ do các đơn vị của quân đội Anh quốc trong đó có cả binh lính Ấn Ðộ đảm nhận.

Bình nhớ lại sự xuất hiện của người Anh và đồng minh người Ấn khi họ đến Sài Gòn. Hai nhóm rất khác biệt với nhau. Nhóm người Anh, mệnh danh là “Tommies” rất vui vẻ, thân thiện và thoải mái trong những lần tiếp xúc với trẻ em Việt Nam. Mặc dù không biết một chữ tiếng Anh nào nhưng Bình nhận ra ngay một nụ cười và chắc chắn là rất thích thú với cái kẹo mà những người lính trẻ ném cho đám trẻ con đang theo đuôi từng đoàn. Khác với người Anh, và có lẽ vì họ cũng đến từ một quốc gia nghèo nên người Ấn có vẻ tính toán hơn, tằn tiện, lầm lì và chẳng cần biết họ có được cảm tình của chủ nhà nghèo hèn người Việt hay không.

Dường như có một yếu tố bất biến trong hơn hai ngàn năm lịch sử được ghi lại của Việt Nam là các cuộc đấu tranh, xung đột, gian khổ và đau buồn quá liên tục đã làm cho con người trở thành quen thuộc luôn với nó. Nước Việt Nam hình như lúc nào cũng có chiến tranh, cho dù là chống người Chàm từ Căm-Pu-Chia, người Tầu tràn xuống từ hướng Bắc, hay giữa các bộ tộc Nguyễn và Trịnh trong những trận chiến cốt nhục tương tàn với nhau. Lịch sử dân tộc này suốt hai ngàn năm đầy rẫy các vị anh hùng và anh thư trong cuộc chiến bảo vệ lãnh thổ chống giặc ngoại xâm.

Khởi đầu bằng hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị vốn là những người đã chiến đấu và thành lập một vương triều trải dài đến vào tận trong miền Nam nước Tầu vào thập niên 40 trước Công Nguyên, đến Triệu Ẩu vào thế kỷ thứ ba, một phụ nữ Việt Nam tương tự như nữ anh hùng “Jeanne d’Arc” của Pháp, rồi đến Trần Hưng Ðạo, Lê Lợi, Lê Thánh Tông cho đến Phan Đình Phùng, văn hóa nước Việt gồm thật nhiều các nhân vật nam và nữ đầy dũng cảm, gan dạ mà gương hy sinh được truyền bá đến tất cả các thế hệ trẻ về sau.

Gần đây hơn cuộc đấu tranh chuyển qua chống lại người Pháp rồi tiếp theo là người Nhật. Nay quân Nhật sửa soạn rút đi, chưa rõ đến lượt kẻ thù nào sẽ thế vào chỗ trống đã được tạo ra. Sự đau khổ, đói kém và chết chóc là những chuyện thường ngày trong chuỗi nhân sinh tại Việt Nam như thể việc sinh ra, niềm vui và sự thỏa mãn vậy. Ai có thể khẳng định đời sống dưới thời kỳ Nhật là khổ nhất?

Có thể đúng như vậy thật. Những người không bị mất mạng ngay vì nạn đói đã trở nên yếu ớt và dễ bị mắc bệnh hơn. Vào năm 1946, một cơn dịch cúm đã cướp đi rất nhiều nạn nhân. Trong số đó có mẹ của Bình đã chịu đựng căn bệnh trong ba ngày trời trước khi qua đời để lại người chồng, Bình, đứa em trai và hai em gái của Bình trong một tương lai không lấy gì làm chắc chắn.

Sau khi chịu thất trận nhục nhã dưới tay người Đức trong Thế Chiến Thứ Hai, nước Pháp chỉ lăm le muốn đưa các thuộc địa cũ của mình về lại tình trạng tiền chiến. Trong khi nước Anh cùng chia sẻ ý định đó thì người Mỹ không có khuynh hướng phục hồi lại chế độ thực dân của thế giới cũ. Tuy nhiên vì làn sóng chủ nghĩa Cộng Sản đang dâng lên trên lục địa châu Á nên dường như không có nhiều sự chọn lựa lắm. Hồ Chí Minh được xem như là một viên gạch nữa đắp thêm vào khối đá Cộng sản đang lớn mạnh dần. Ngoài ra sau khi bị mất Trung Hoa và tiếp theo là trận chiến ở Triều Tiên, sự hỗ trợ của nước Mỹ đối với người Pháp là một sự chọn lựa tất nhiên và khẩn cấp.

Phong trào người Việt Quốc Gia nóng lòng đấu tranh tháo bỏ ách thực dân trên thực tế đã diễn ra từ trước khi quân đội Nhật nắm quyền hành tại vùng Đông Dương thuộc Pháp. Hồ Chí Minh mà sau này được thế giới coi như là đại diện của chủ nghĩa quốc gia Việt Nam thực chất chỉ là nhân vật còn sót lại sau khi đám lâu la của hắn đã ám sát hết những ai có thể là mối đe dọa cho vai trò lãnh tụ của hắn ở phía Bắc. Tại miền Bắc, nhất là sau chiến tranh, các phong trào quốc gia không theo Cộng sản hoặc là bị thanh trừng một cách tàn bạo bởi tay sai của Hồ Chí Minh, hoặc phải hợp tác với người Pháp và bị mang tiếng tiếp tay cho ngoại xâm. Cộng sản chẳng khó khăn gì tuyên truyền khép tội những người chống đối bọn chúng là họ đánh mất chính nghĩa và không thật lòng yêu nước. Chúng cho rằng những người này chỉ là công cụ và bị Pháp giật dây, mà trong một vài trường hợp điều đó lại đúng. Những lời kết tội này cũng được áp dụng đối với người Mỹ và những người nhận sự giúp đỡ của Mỹ từ 1954 trở đi.

Người Pháp ít đầu tư vào việc đào tạo và nâng cao vai trò lãnh đạo về chính trị và quân sự của người dân Việt Nam thành thử vai trò chỉ huy có vẻ đi theo thuyết Darwin tức luật sống còn của sự tàn nhẫn, xảo quyệt và tham nhũng trong cả miền Bắc lẫn miền Nam.

Các phong trào quốc gia khắp lục địa Á Châu có vẻ được kích thích từ sau chiến thắng của nước Nhật đối với người Nga vào năm 1905. Không có nơi nào mà dân bản xứ lại nóng lòng giành độc lập mạnh hơn là Đông Dương. Tuy nhiên ngoại trừ mục đích chung là đánh đuổi người Âu Châu, ít khi có vấn đề nào khác mà các nhóm quốc gia khác nhau lại có thể đồng thuận với nhau. Trong khi người Kinh chiếm khoảng 80% dân số các vùng miền Bắc, Trung và Nam Bộ thì có vào khoảng 50 nhóm thiểu số khác được phân bổ suốt dải địa dư dài và hẹp của cái quốc gia phôi thai đó. Những người gốc Hoa là nhóm thiểu số lớn nhất. Bao gồm gần 2% dân số, sự tập trung của họ ở những khu vực đô thị và sự thống trị của họ trong ngành buôn bán đã tạo cho họ một sự ảnh hưởng vượt mức tương xứng với dân số. Những người Thượng, H’mông, Nùng, và những sắc tộc thiểu số khác thường thấy nhiều hơn ở những vùng biên giới và núi đồi xa xôi.

Tinh thần quốc gia lên cao nhất tại Việt Nam vào cuối những năm 1920. Giới công nhân Việt Nam từ những người thợ trong kỹ nghệ may mặc đến những người phu xích lô đã tổ chức được các cuộc đình công lớn với một vài thành công nhất định. Thanh niên Cách mạng Ðồng Chí Hội, với khuynh hướng thiên cộng rõ rệt, đã được thành lập bởi Hồ Chí Minh tại miền Nam Trung Quốc vào năm 1925. Tháng Mười Hai năm 1927 Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ) được thành lập. Các thành viên bao gồm hầu hết là những sinh viên, công chức cấp thấp, các binh lính, nông dân, và thậm chí có một số điền chủ cũng tham gia [1]. VNQDĐ được phỏng theo mô hình Quốc Dân Đảng của Trung Hoa, và bị Cộng sản cho là một đối thủ trực tiếp nhất. Vào tháng Sáu năm 1929 Đảng Cộng Sản Đông Dương (ĐCSĐD) chính thức ra đời. Cùng với Hồ Chí Minh, những người khác hiện diện ở ngày khởi đầu của đảng bao gồm Lê Duẩn và Phạm Văn Đồng, là những người vốn sẽ đảm nhận những vai trò quan trọng trong các vấn đề của Ðảng Cộng Sản trong cuộc đấu tranh sắp tới bên cạnh người đàn ông một thời được biết đến như là Nguyễn Ái Quốc hoặc “Nguyễn Patriot.” (Hồ Chí Minh từ lúc đầu được người ta biết đến bằng nhiều tên họ khác nhau).

ĐCSĐD xuất hiện ngay khi cuộc Đại Khủng Hoảng tàn phá khắp toàn cầu. Tại vùng Đông Dương thuộc Pháp sự suy thoái kinh tế toàn thế giới làm gạo và cao su bị mất giá, cũng như ngành xuất cảng bị suy giảm, làm cho biết bao nhiêu người bị mất công ăn việc làm, mất nguồn thu nhập hoặc phương tiện để nuôi sống gia đình. Chủ nghĩa Cộng sản vì vậy trở nên hấp dẫn và đà ảnh hưởng tăng nhanh đối với những người bị mất định hướng đó.

Các hoạt động chính trị này đã gây được sự chú ý của giới cầm quyền người Pháp, họ đã đầu tư rất nhiều các phương tiện về cảnh sát và quân đội nhằm đàn áp các nhóm quốc gia mới nổi lên. Ảnh hưởng của ĐCSĐD mạnh nhất tại miền Bắc. Trong khi đó tại miền Nam thì sự phát triển kém hơn vì có các nhóm khác chia sẻ ảnh hưởng của họ. Với tinh thần chống Pháp và đòi độc lập không kém gì đảng Cộng sản, Hòa Hảo và Cao Đài đã thu hút được một tỷ lệ lớn những người yêu nước muốn dấn thân (*)

Khi Đức Quốc xã và Liên Sô ký kết thỏa hiệp bất tương xâm vào tháng 8 năm 1936, nước Pháp ban hành đạo luật đặt đảng Cộng sản và tất cả các đảng phái chính trị khác tại Đông Dương ra ngoài vòng pháp luật. Hành động này buộc ĐCSĐD phải rút hoạt động về vùng nông thôn và về lâu về dài đã củng cố được lực lượng, đặc biệt là tại miền Bắc [2].

Trong số những khó khăn mà các lực lượng quốc gia còn non yếu ở Ðông Dương đang phải đối đầu thì địa dư là một trong những trở ngại ác độc nhất. Từ mỏm cực Bắc của miền Bắc giáp ranh giới nước Tầu cho đến điểm cực Nam của miền Nam Bộ trải dài gần một ngàn mốt dặm, các địa hình thay đổi khác nhau và phân vùng tách biệt nhau. Hà Nội và Sài Gòn là hai thành phố lớn nhất vùng Đông Dương nhưng lại cách nhau đến 750 dặm và chỉ được nối với nhau bằng một đường xe lửa tí hon và quốc lộ 1 với nhiều đoạn chỉ là đường mòn gấp đôi đường xe bò mà thôi. Khoảng cách từ Hà Nội đến Sài Gòn giống như khoảng cách giữa các thành phố Denver và St. Louis, Chicago và Charleston, Omaha và Tuscaloosa, Boston và Grand Rapids, Seattle và Santa Cruz, New York và Nashville, Des Moines và Atlanta, hoặc Minneapolis và Little Rock, nhưng cho đến cuối cuộc chiến, vẫn giống như hai thế giới cách biệt nhau. Sự phân cách về địa dư đã tạo cho Cộng sản có cơ hội củng cố lực lượng tại địa phương và trên một bình diện nhỏ hơn đối với các nhóm người quốc gia trong miền Nam cũng vậy.

Những sự xáo trộn bởi sự triệt thoái của quân đội Nhật và khả năng tương đối yếu kém của các lực lượng thuộc địa Pháp đã làm cho Hồ Chí Minh và Việt Minh tin rằng họ đã có một cơ hội bằng vàng để hành động. Ngày 28 tháng 8 năm 1945 họ tuyên bố thành lập Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Hồ Chí Minh được cử làm chủ tịch thứ nhất. Nhằm mở rộng lời kêu gọi, Cộng sản cũng mời Cựu hoàng Bảo Đại tham gia vào chính phủ lâm thời. Những sự kiện tiếp theo đó là hàng loạt các tác động và phản tác động của người Pháp và Việt Minh cuối cùng đã dẫn đến một cuộc chiến tranh mở rộng.

Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt Quốc Dân Đảng, vốn tách ra từ VNQDĐ, đều nóng lòng thiết lập một thể chế Cộng hòa nhưng đều không chấp nhận chủ nghĩa Cộng sản. Mặc dù đã từng liên minh, tuy lỏng lẻo với Việt Minh để chống lại sự cai trị của ngoại bang tại Việt Nam nhưng vào đầu năm 1946 các đảng viên cao cấp cùng với gia đình họ đã bị phe Cộng sản thanh trừng một cách có hệ thống bằng một loạt các hành vi nhằm loại trừ mối nguy hiểm cho sự cai trị của Hồ Chí Minh ở miền Bắc. Trong khi đó thì họ vẫn phải tiếp tục cuộc đấu tranh chống Pháp.

Xáo trộn về chính trị là một điều tất nhiên do khoảng trống quyền lực quân đội Nhật đã để lại sau khi họ đầu hàng và rút đi. Liền theo đó là sự trở lại của các lực lượng người Pháp với toan tính tái lập lại quyền thuộc địa. Trước sự kiện có các xung đột nội bộ giữa các phe phái quốc gia với nhau thì Việt Minh tỏ ra mạnh hơn ở miền Bắc, tuy có kém hơn ở miền Nam. Người Pháp không hề có ý định chịu thua Hồ Chí Minh. Những cuộc thương thuyết của hai bên đã tỏ ra vô ích. Trong khi đó thì các cuộc đụng độ giữa các đơn vị quân sự đôi bên tăng dần lên. Đến tháng 11 năm 1946 thì mọi cố gắng để đoạt một thỏa thuận về chính trị bị đổ vỡ. Cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất như chúng ta biết đến bắt đầu. Mọi sự trở nên rắc rối hơn khi Việt Minh tổ chức ám sát đức thầy Huỳnh Phú Sổ, thủ lãnh của phe Hòa Hảo ở miền Nam. Tiếp theo cái chết của ông thì cả hai phái Hòa Hảo và Cao Đài đều hợp tác với người Pháp.

Theo truyền thống văn hóa của nước Việt Nam, Lê Bá Sách để tang vợ, đồng thời là mẹ của bốn đứa con trong vòng ba năm. Vì còn trẻ nên ông tái giá vào năm 1949. Bình, đứa em trai và hai em gái của ông trong những năm sau đó đã có thêm bẩy người em tiếp theo cuộc hôn nhân lần thứ hai của cha mình. Vì là một gia đình có nề nếp nên tất cả đều hòa thuận với ngưòi mẹ kế.

Đối với hầu hết các nền văn hóa Á Châu, ảnh hưởng của Khổng giáo rất mạnh mẽ. Lòng sùng bái đối với các bậc trưởng thượng, đối với gia đình và giáo dục đặc biệt quan trọng. Con trai được coi trọng hơn con gái và đứa con trai đầu lòng luôn luôn đứng hạng nhất trong mọi gia đình. Với tư cách là anh cả, nhiệm vụ duy nhất của Bình lúc còn là một đứa bé là đi học. Do đó từ lúc còn rất nhỏ Bình đã đảm nhận nhiệm vụ mình và học hành chăm chỉ.

Nhà của gia đình Bình thuộc xóm Tân Định, một khu vực được coi tương đương như là “phố chính” của Sài Gòn mà họ có thể tậu được. Khá gần trung tâm thành phố, chỉ cách sông Sài Gòn vào khoảng vài con đường, đó là một nơi chốn ấm cúng, an toàn cho ông Lê Bá Sách tạo mái ấm cho bà vợ mới cưới và nuôi nấng 11 người con của họ.

Căn nhà của ông Lê Bá Sách khá điển hình theo tiêu chuẩn người Việt Nam. Vào thời gian đó có thể gọi họ thuộc thành phần cao của giai cấp trung lưu. Ở tầng trệt ngó ra một cái hẻm hẹp, xe đạp của cả nhà được dựng ngay bên ngoài, chừa đường đi và nằm trong khuôn viên căn nhà. Giày dép luôn luôn để phía ngoài cửa cái rộng và xếp hàng ngay ngắn. Khu vực mà khách khứa hay bạn bè đến chơi và gian bếp chiếm gần hết cái tầng trệt này. Cả nhà ngủ trên tầng hai và ba, tuy nhiên họ cũng giữ một cái bàn thờ truyền thống phía ngoài trên tầng hai, một loại bàn thờ rất thông dụng trong các gia đình Việt Nam dù giàu hay nghèo. Nhang đèn được thắp thường trực và các di ảnh được sắp xếp tùy theo mức độ quan trọng của những người đã quá cố.

Các con hẻm hẹp dẫn ngược từ lộ chính vào được chia ra nhiều ngõ ngách khác khá tối tăm nhưng mở ra vùng trời bên trên. Khoảng đất trống chỉ được chiếu sáng khi mặt trời lên đỉnh đầu lại là khu vực vui chơi chính cho hàng chục đứa trẻ con từ hơn hai chục căn nhà cùng chung con hẻm này. Lối vào duy nhất có một cái cổng hẹp khá chắc chắn, tuy ít khi nào được đóng lại nhưng có thể khóa lại nếu cần. Bình và đồng bọn thường có nhiệm vụ canh gác nó để chống lại các băng đảng bên ngoài xâm nhập vào trong những lần chơi đánh lẫn nhau. Chúng không dè rằng chính những cái cổng này, rất thông dụng trong khắp các phố ở mọi nơi trong thành phố lại có một tầm mức chiến thuật quan trọng trong cuộc phòng thủ thực sự để chống lại sự xâm nhập của Việt Cộng trong cuộc công kích Tết Mậu Thân năm 1968.

Bàn tay vô hình của kinh tế tự do rất rõ ràng tại các đường phố Tân Định cũng giống như ở Denver, Detroit, Paris hay Amsterdam vậy. Cũng được thể hiện một cách quyết liệt và có hiệu quả. Những người bán hàng rong đủ loại đứng rao bán quần áo, nồi niêu xoong chảo, các loại thức ăn và đồ gia vị, gạo bún, trái cây và rau quả trồng tại chỗ, đủ các loại cá bắt gần đó, cũng như thịt lợn và thịt gà xẻ tại chỗ trong xóm. Nếu có một chiếc xe đạp hay đồ đạc máy móc nhỏ cần sửa chữa thì có sẵn thợ hàn thợ tiện chữa ngay trên vỉa hè. Nếu có vài đồng trong túi, một đứa bé không bao giờ chịu đứng xa nơi bán nước giải khát hay gánh hàng rong. Những người bán hàng rong trái cây liên tục rảo bước trên các con đường, đẩy những chiếc xe ba gác chứa đầy xoài mới hái, đu đủ, sầu riêng và mít tươi. Nếu khát nước thì đã có sẵn những người bán nước dừa tươi mát lạnh có thể uống thẳng từ những trái dừa đã gọt vỏ bằng những cái ống hút nhỏ. Trẻ con và cả người lớn dễ tính có thể thưởng thức những ly nước mía được ép từ những thân cây mía nhỏ gọt sạch chạy qua những cái máy ép trên lề đường. Những cái máy này này cô đọng được mùi vị thơm ngọt tự nhiên của mía, nhưng cũng làm cho bệnh sâu răng rắc rối thêm.

Công việc buôn bán quay nhanh theo tốc độ đạp mạnh mẽ của những người đàn ông gân guốc, lực lưỡng già cũng như trẻ. Họ có thể chuyên chở và lèo lái những khối nặng kinh hồn cùng những đồ vật đủ loại hình dáng mà bằng cách nào đó họ đã xếp lên được những chiếc xe đạp hay chồng chất trên xe xích lô. Mặc dù không mấy ai thật sự cao lớn khỏe mạnh nhưng đối với tất cả những người tháo vát và chịu khó làm lụng thì luôn luôn vẫn có cái mà ăn. Các con đường chạy ngang khu Tân Định sống động sinh hoạt buôn bán suốt ngày. Ngay cả về đêm, thành phố cũng không bao giờ ngủ mà sinh hoạt dường như chỉ chùng xuống mà thôi.

Bọn trẻ không màng đến các vấn đề chính trị với tất cả những gì đang xảy ra trên khắp nước Việt Nam và tại Sài Gòn mà chỉ chú tâm vào việc học hành và nô đùa với chúng bạn cùng xóm. Người thân thiết nhất với Bình là đứa em tên An, kém hai tuổi. An và Bình kết bè với những đứa khác trong xóm thành một trong hai nhóm băng đảng. Với lứa tuổi đó và trong thời kỳ ấy thì mục đích của bọn chúng chỉ là vui chơi, tranh đua về thể thao và chơi những trò trận chiến giả. Nếu có lỡ làm đổ máu thì chỉ là vô tình hay hăng máu quá mức mà thôi. Sự thiếu thốn về vật chất hay không có sẵn những loại đồ chơi được sản xuất trong nhà máy không hề làm giảm bớt tính sáng tạo của trẻ con vùng Tân Định.

Bình, An và lũ trẻ Tân Định suốt ngày đá banh trong các ngõ hẻm và trên những bãi trống dọc theo bờ sông bằng những trái banh cao su được sản xuất trong xóm. Giống như những đứa trẻ khắp nơi trên thế giới, trẻ con Việt Nam cũng chơi bắn bi không chán nhưng điểm khác biệt là viên bi được giữ bằng ngón tay giữa và kéo ngược lại bằng tay kia để tạo ra sức bật.

Đầy sáng kiến hơn nữa, bọn trẻ Tân Định đi thu nhặt những bao thuốc lá bỏ đi làm bằng giấy cạc tông mỏng nhưng khá cứng. Chồng những cái bao thuốc lá này lên nhau, chúng đứng lui ra sau và cố gắng tạt bằng cục đá hay hòn sỏi. Tương tự như những viên bi, các bao giấy nhỏ này trở thành những tài sản và sở hữu riêng của những tay xạ thủ lỗi lạc, cũng là một cách để đánh giá mức sắc bén về thể chất và sự khéo tay. Đối với hầu hết bọn trẻ trong nhóm thì bản năng chơi những trò chơi về chiến tranh là điều đương nhiên. Cậu bé Bình và băng nhóm suốt ngày đi rảo trong xóm mang theo súng giả đẽo từ những khúc gỗ có thể bắn ra những sợi giây thun với độ chính xác khá cao.

Thú vui nghe nhạc thu thanh và radio thì nằm ngoài tầm tay của hầu hết người dân Ðông Dương vào khoảng thời gian cuối thập niên 1940 và đầu 1950. Vì vậy nhà của cái gia đình giàu nhất vùng Tân Định mà ông chủ là một người làm công cho chính phủ Pháp được cả xóm chiếu cố bu lại mỗi khi cái máy nhạc Victorola được lên dây cót hoặc cái radio được vặn lên. Mặc dù âm nhạc là một điều gì mới mẻ được du nhập từ Pháp hay Mỹ, và bản nhạc có thể chỉ là một bản nhạc xưa, dân ca, hay tình ca khá đặc thù đối với người dân ba miền Bắc Trung hay Nam, nhưng những người lớn tuổi lúc nào cũng say sưa mỗi lần nghe tiếng cót két nổi lên từ cái đĩa xoay màu đen hay cái hộp gỗ sơn bóng.

Đối với người dân không có ngày lễ nào của Việt Nam có thể sánh nổi về mức độ trang nghiêm, ý nghĩa, lòng háo hức và phấn khởi bằng ngày Tết, ngay cả đối với những người không theo đạo Phật. Tết Nguyên Đán – Năm mới âm lịch – bắt đầu từ ngày đầu của tháng Giêng âm lịch và là mùa đầu tiên trong năm. Thường trùng vào khoảng cuối tháng Giêng hay đầu tháng Hai dương lịch, Tết Nguyên Đán vừa mang vẻ thế tục vừa có tính cách thiêng liêng. Ngày lễ quá lớn thành thử tất cả mọi người Việt Nam đều vui hưởng. Tết là một dịp để gia đình, bạn bè thăm viếng nhau, để thờ phụng những người quá cố và là một thời gian để ôn cố truy tân. Đặc biệt đối với trẻ con đó là một thời điểm thật thú vị được đánh dấu bằng những cuộc vui chơi, được lì xì và mặc quần áo mới, được đốt pháo còn đồ ăn ngon lại được dọn ra ăn thả dàn.

Bình rất thích những món ngon trong ngày Tết. Mẹ cậu và các phụ nữ khác thường nấu các món ăn từ nhiều ngày trước và luôn miệng suỵt đuổi những đám trẻ hau háu bu quanh như ruồi chờ một miếng chỗ này, một hớp chỗ kia, lúc nào cũng nôn nao để được ăn thử một cái gì đó mà người lớn có thể ban cho. Ngoài bánh kẹo ra, Bình rất thích bánh chưng – những chiếc bánh hình vuông làm bằng gạo nếp, thịt heo và đậu xanh gói trong những cái lá giong rồi bỏ vào nồi nấu. Bình cũng thích bánh tét – một loại bánh làm bằng gạo nếp gói hình tròn có vẻ giống bánh kẹp xốp hơn. Cho đến khi trưởng thành, đối với Bình, Tết vẫn luôn luôn là một thời điểm với nhiều điều mừng vui nhất.

Vào khoảng thời gian giữa các năm 1946 và 1952, ông Lê Bá Sách đã đưa gia đình năm sáu lần về quê miền Bắc để thăm mẹ và các ông cậu cùng cách cháu còn ở lại Hà Đông. Từ lâu trước 1952 điều hiển nhiên là Cộng sản đã trở thành một lực lượng đáng kể. Đối với ông Sách, sự nhận thức ra rằng Cộng sản đã thống trị miền Bắc là một viên thuốc đắng khó nuốt trôi. Ông đau đớn thấy được là cuộc chiến giữa Việt Minh và người Pháp sẽ làm cho gia đình ông phải trả một cái giá rất đắt.

Ngay trước khi lực lượng Pháp trở lại Việt Nam sau Thế Chiến Thứ Hai, bà nội Bình, một điền chủ nhỏ vùng Hà Đông, đã cảm thấy sự đe dọa trắng trợn và áp lực ngày càng nặng nề của bọn cán bộ Cộng sản và lời lẽ tuyên truyền xảo quyệt của họ. Vài năm sau khi bọn tay sai của Hồ Chí Minh tịch thu đất đai của bà để giao cho “Cách mạng và nhân dân” vào năm 1956, chúng lại còn tỏ vẻ nhân đạo và khoan hồng đối với bà. Vì thuộc thành phần tư sản ác ôn, điền chủ hút máu đáng lẽ gia đình bà đã bị giết hết, bằng một phát súng vào sau gáy, hoặc bị trói gô lại, đeo đá và thả từ từ xuống đáy ao hồ hay sông sâu rồi. Thay vào đó, bọn chúng bắt bà phải chịu nỗi ô nhục sống sót trong một phần nhỏ cái tài sản cũ của bà – nay đã thuộc về “Cách mạng” – chỉ còn là cái chuồng heo hay chuồng gà trước kia.

=============
* Hòa Hảo là một giáo phái Phật giáo được cải đổi theo cách riêng của người Việt Nam được thành lập ở miền Nam Việt Nam bởi đức thầy Huỳnh Phú Sổ vào năm 1939. Người Pháp quan niệm giáo phái Hòa Hảo là một mối đe dọa chính trị, tuy nhiên họ chống cộng một cách mãnh liệt, đặc biệt là sau khi đức thầy Huỳnh Phú Sổ bị Việt Minh ám sát chết vào năm 1947.
Cao Đài được thành lập vào thập niên 1920 và giống như Phật giáo Hòa Hảo, cũng là một giáo phái riêng biệt của người Việt Nam. Phát sinh ở miền Nam Việt Nam, Cao Đài là một sự pha trộn giáo lý của Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, Đạo giáo, Phật giáo, Khổng giáo, và Ấn Độ giáo. Những người muốn theo đạo được kỳ vọng là họ sẽ từ bỏ vật chất nhằm bồi dưỡng sự phát triển tâm linh. Do mang tính chất tôn giáo nên các tín đồ Cao Đài giống như Hòa Hảo, cũng chống Cộng sản theo truyền thống. Cao Đài dùng những nhân vật đồng cốt và những người thông công tâm linh để dùng trong những buổi Cơ Bút. Những vị thánh quan trọng của Cao Đài bao gồm Trạng Trình, Tôn Dật Tiên, Jeanne d’Arc, René Descartes, William Shakespeare, Victor Hugo và Louis Pasteur.
Screen Shot 2015-06-03 at 9.18.31 AM

Xe lửa ở quê tôi

huyenchieu

-Ngày xưa ông bà mình đi Nha Trang bằng xe gì hả mẹ?
– Đi bộ. Ông ngoại con đi ra Bình Định học cũng đi bộ. Khi qua đèo Cả, sợ cọp, phải chờ những người buôn trâu dẫn trâu qua đèo, ông đi theo. Đến thời của mẹ, muốn đi Nha Trang mẹ được đi xe ngựa. Phải mất một ngày mới đến được Nha Trang”
Như vậy, tôi đã hưởng được một nền vận tải văn minh khi tôi được đi Nha Trang bằng xe lửa.
Khác với bến xe ngựa hôi hám, bến xe đò chật hẹp, ồn ào, ga xe lửa là nơi sang trọng có cảnh quan đẹp nhất ở quê tôi.
Tôi không biết Ga xe lửa Ninh Hòa được khánh thành từ năm nào, chỉ biết các ga và tuyến đường rầy đều do người Pháp xây.
Thuở ấy xe lửa chạy bằng đầu máy hơi nước. Sợ hãi nhưng thích thú nhìn đoàn tàu tới gần với đầu máy nặng nề tỏa khói đen sì là một cảm giác khó quên của bọn trẻ nhà quê chúng tôi thời đó. Tiếng bánh xe nghiến ầm ĩ trên đường rầy, tiếng còi tàu lanh lảnh cũng thật kỳ vĩ.
Ga Ninh Hòa là một trong những nhà ga hiếm hoi còn nguyên vẹn sau chiến tranh và có cảnh quan vô cùng ấn tượng.
Ga có vị trí thoáng mát với bốn bề núi non, ruộng đồng xanh ngát. Đứng trên sân ga chúng ta có thể nhìn thấy một kiến trúc uy nghi và có dáng dấp của một ngôi nhà kiểu đền đài Hy Lạp, thực ra nó là đề pô, nơi sửa chữa đầu máy. Cái bồn nước trên cao để tiếp nước vào nồi súp de cũng thật lạ mắt và còn cả một cái lô cốt chắc là nơi ngày trước quân đội Pháp canh gác cho an ninh của ga…
Chiếc cầu dành riêng cho xe lửa bắt qua sông Dinh cũng rất quen thuộc với người dân Ninh Hòa mặc dù hình ảnh con tàu ầm ầm vượt qua cây cầu bằng sắt thật tương phản với phong cảnh êm đềm hai bên bờ sông.
Nói đến chuyện đi xe lửa, thú vị nhất là được chui qua hầm.
Tối thui, ngộp thở, kinh hoàng vì tiếng bánh xe nghiến trên đường rầy bất ngờ nghe như tiếng núi lở, nhưng cũng thật ngây ngất.
Rồi bóng tối nhạt dần báo hiệu… hết hầm. Không khí mát rượi tha hồ tràn đầy buồng phổi, ánh sáng chói chang làm lóa mắt và dù mặt mũi có thể dính đầy bụi than bọn trẻ con vẫn chờ đợi nhất được hưởng giây phút xe lửa chui qua hầm.
.Thập niên 50, cuộc sống không nhiều biến động và người nông dân ít có lý do di chuyển. Ga xe lửa luôn vắng vẻ với năm ba người khách mỗi lần tàu vào ga.
Cuối tuần, tàu nhiều khách hơn nhưng những vị khách ấy cũng chỉ là đám học trò đi học ở Nha Trang về thăm nhà và hầu hết là khách đi cọp!
Dầu sao truyền thống của một ngành hỏa xa văn minh cũng còn lưu dấu trên bộ đồng phục của sếp ga, của nhân viên soát vé, của người gác ghi với lá cờ hoặc chiếc đèn có mặt kính nhiều màu mà ông ta cầm lắc lư báo hiệu cho tàu ra vào ga trong đêm tối.
Từ năm 1964 hệ thống hỏa xa miền Nam ngưng hoạt động. Đường rầy ở nhiều nơi bị phá dỡ, xe lửa bị đặt mìn. Từ Nha Trang muốn đi Saigon phải đi bằng máy bay vì không ai dám đi xe đò qua Rừng Lá. Từ Tuy Hòa vào Nha Trang chỉ có thể đi bằng ghe bầu.
Sau năm 1975 ngành hỏa xa được tái thiết và được gọi là Đường Sắt Việt Nam.
Không còn dáng vẻ văn minh năm nào, Đường Sắt Việt Nam đã trở thành một phương tiện giao thông xô bồ chưa bao giờ có và sẽ không bao giờ lặp lại.
Xe lửa đã trở thành phương tiện để người ta bấu víu vào kiếm sống.
Những năm ấy, những chiếc xe đò cũ kỹ lại càng thêm kỳ dị khi phải gắn một thiết bị phía sau để chạy bằng than. Giá tiền đi xe đò lại đắt nên người ta ùn ùn rủ nhau đi buôn bằng xe lửa.
Đường sắt trở nên quá tải và chen được một chân lên xe lửa là một kỳ công.

Đường cát trắng hồi đó biến mất và người dân quê tôi theo xe lửa ra tận La Hai để buôn loại đường vàng làm từ mật mía, cô lại thành bánh. Người đi củi cũng biến gon xe lửa thành xe chở củi. Xe lửa không dừng lâu nên người ta cứ quăng bừa các thân củi vào cửa sổ toa xe… Rồi hàng chục bao gạo, bao bắp, bao khoai mì tiếp tục được nhồi nhét, rồi cá khô, mắm muối, đậu mè từng bao tới tấp quăng lên mặc cho những tiếng chửi rủa náo động cả toa tàu. Khi tàu chuyển bánh, hàng chục người vẫn thản nhiên chạy nhảy…
trên mui xe để di chuyển từ toa này sang toa khác. Đã có mấy em bé bán nước trà đá đã rơi xuống đường rầy khi tàu chuyển bánh. Và không ít dân nghèo đã mất mạng vì không tiền mua vé phải nhảy tàu khi tàu đã tăng tốc.
Nhớ lại những ngày khốn khổ ấy mà thương cho người dân của thời hòa bình thống nhất.

Ngày nay ga Ninh Hòa không còn hỗn loạn như thế nữa. Sân ga, nhà ga được tu sửa sạch sẽ hơn và đầu máy hơi nước đã được thay bằng dầu máy diesel.
Tuy nhiên khách nước ngoài đến Việt Nam rất ngạc nhiên vì hàng trăm năm rồi sao Việt Nam vẫn còn sử dụng đường ray có chiều ngang 1 mét.
Riêng tôi, tôi rất sợ một ngày nào những đường tàu cũ kỹ ấy biến mất.
Và tôi sẽ không còn được bồi hồi ngắm nhìn những đường tàu trăm năm chạy song song rồi giao nhau ở đầu sân ga như lời nhắc nhở cho con tàu rằng bạn đã về tới bến.

Huyền Chiêu
(- Ninh Hòa – Tháng 9-2014)

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, “Ngày đau buồn nhất”

nuocmattruocconmua

JOHN H. TAYLOR
(Phụ tá của Tổng Thống Nixon)
“Ngày đau buồn nhất”

Vào lúc Saigon sụp đổ, Tổng thống Nixon đang sống tại San Clemente. Ông có nói với tôi và nhiều người khác rằng ngày Saigon sụp đổ là ngày đau buồn nhất đời ông – Sau ngày ông từ nhiệm chức vụ Tổng thống. Như ông đã vạch ra trong cuốn No More Vietnams “Không còn những Việt Nam nữa”, là cuộc chiến này thất bại không phải vì các chiến sĩ của chúng ta. Lý do chính là vì Quốc hội đã từ chối không cung cấp quân viện cho đồng minh Nam Việt Nam của chúng ta theo thoả ước Ba Lê năm 1973 đã ấn định cho phép cung cấp số quân viện ấy ngang với số quân viện mà Liên Xô cung cấp cho miền Bắc. Ngay lúc ấy, ông tiên đoán quyền lợi Hoa Kỳ trên thế giới sẽ còn bị thiệt hại hơn là thiệt hại của dân tộc Đông Nam Á. Lời tiên đoán của ông, chẳng may đã được chứng minh đúng vào thời khoảng từ 1975 đến 1980, khi hơn 100 triệu người đã bị thất bại với Cộng sản, hay bởi Tây phương, vì nỗi lo sợ “một trường hợp Việt Nam khác” của Quốc hội, của giới truyền thông, của chính quyền Carter và chính quyền Ford.

Nỗi đau buồn của ông về sự sụp đổ Saigon càng sâu đậm hơn, vì lẽ một trại chuyển tiếp chính của tỵ nạn Việt Nam được thiết lập ở Camp Pendleton, nơi rất gần nhà ông tại San Clemente. Ông thường lái xe đi ngang qua trại tỵ nạn này, và ông đã diễn tả với tôi một cách sinh động mỗi khi nhìn thấy trẻ con chơi đùa, khi thấy những người đàn bà đem quần áo ra phơi ở khu vực tạm trú của họ.

Cư An Tư Nguy

lephuhai

Xe đò dừng lại đổ thêm xăng khi sắp vào thị trấn. Con đường nhựa ngoằn ngoèo quanh co qua mấy ngọn đồi trước khi đổ dốc vào trung tâm huyện lỵ. Nắng tháng chạp dát vàng trên các ngọn cây, đồi cỏ trong buổi chiều tà. Mấy chiếc xe bục bịch ngược chiều nặng nề leo dốc như muốn ì ra vì mệt. Tôi cũng thấy thân thể mỏi nhừ vì nửa ngày trời ngồi bí rị trên chuyến xe đi từ thành phố về…
Thị trấn núi hiền lành hiện ra trước mắt tôi với nhiều đổi khác. Bến xe nằm sát ngay chợ trung tâm, chung quanh là các hiệu buôn, tiệm vàng, quầy tạp hóa đông đúc người qua lại. Nơi này xưa kia là bãi ruộng khô ăn nước trời một vụ. Rồi nhà cửa hiện ra san sát và thẳng băng theo các con đường ngang dọc như bàn cờ. Cảnh vật đối với tôi mới mẽ và lạ lẫm như thể tôi chưa hề sống tại đây trong một khoảng thời gian dài cách đây đã hơn hai mươi lăm năm. Cũng phải thôi! Hai mươi lăm năm, một phần tư thế kỷ chưa hẳn là khoảng thời gian thật dài so với một đời người nhưng cũng khá đủ cho mọi sự đổi thay, người ta vẫn hay nói “thương hải tang điền” mà… Và nếu không có việc xác nhận hồ sơ để làm thủ tục bảo hiểm chuẩn bị cho việc về hưu sớm thì có lẽ tôi cũng chẳng có dịp nào quay về chốn cũ…
Tôi đi dọc con đường lượn theo chân đồi, nơi cuối đường là ngôi trường trung học nằm nấp sau những tán cây cổ thụ. Con đường này trước đây tôi vẫn thường hay đi lại, bây giờ cũng đổi khác. Thảm bê tông nhựa thay thế cho con đường đất đỏ gập ghềnh những ổ chuột ngập nước trong mùa mưa và bụi mù những ngày nắng. Tôi dừng lại và ngồi dưới gốc cây da to trước cổng trường. Gốc cây như gồ ghề và xù xì hơn nhiều so với trước đây, trên mình chi chít những dấu vết nghịch phá của lũ học trò. Một khoảng trời xa lắc trong ký ức tôi chợt hiện ra…

xxx

Học xong sư phạm năm bảy chín tôi được phân công về dạy tại huyện miền núi này. Cầm quyết định trên tay tôi do dự và băn khoăn mãi. Má tôi nói, thôi bỏ dạy ở lại phố bán buôn ngoài chợ với mẹ. Ba tôi thì trầm ngâm chẳng nói gì, thỉnh thoảng lại tặc lưỡi và khẽ khàng trách cứ ngành giáo dục quá khắc khe khi phân nhiệm con gái ông về công tác miền núi, rồi nói tôi muốn sao thì muốn, tùy. Sau một tuần lang thang khắp phố phường gặm nhấm nỗi cô đơn đến cùng cực, nhìn lũ em nheo nhóc, thêm cám cảnh phố thị nghèo nàn của những năm đầu sau giải phóng, tôi quyết định lên đường. Và thế là tôi đã đến đây, lòng không hề nghĩ rằng mình sẽ gắn bó với vùng đất này suốt năm năm sau đó.
Cũng chẳng có gì đáng nói về những ngày tôi dạy học ở ngôi trường này. Vui buồn là qui luật bất biến của đời sống và tôi cũng đã có đủ những niềm vui, nỗi buồn, sự bực tức và kể cả nhiều cảm tình thú vị. Người ta thường hay có thói quen cứ gắn kết cho kỷ niệm những điều vui để xuýt xoa mỗi lần hồi tưởng hay nhớ lại. Tôi cho đó là sự cường điệu màu mè. Tính mày ngang bướng và giống đàn ông. Mẹ tôi vẫn thường hay nói về tôi như vậy dù thật ra trong đời tôi đã gặp phải kha khá đàn ông… còn tệ hơn tôi nhiều.

Mới đầu tôi chẳng hiểu từ lúc nào và tại sao lũ học trò của tôi gọi anh ta là “chú kinh tế mới”. Anh ta còn khá trẻ và nếu chịu khó nhìn kỷ thì thấy cũng… đẹp trai, dù bộ râu mép lởm chởm cùng cái đầu bù xù làm anh ta thêm tối tăm bên cạnh nước da rám đen vì dang nắng. Hỏi ra mới biết cách trường tôi dạy gần mười cây số có một vùng kinh tế mới, nơi tập trung sinh sống của nhiều sĩ quan chế độ VNCH sau khi đã mãn hạn tập trung cải tạo. Ban đầu tôi chỉ đứng xa nhìn, thấy anh ta cười cười nói nói gì đó với mấy đứa học trò. Những lúc ấy tôi cảm thấy thật khó chịu. Tôi vốn dị ứng với người hay cười. Bởi vì hai lý do. Thứ nhất, (không phải tôi là người khó tính nhưng) với tôi nụ cười phải xuất phát từ đáy lòng, và như vậy chỉ cười khi có được niềm vui đích thực chứ không dùng để nịnh nọt hay cầu cạnh ai đó. Lý do thứ hai (là quan niệm chủ quan của tôi): người hay cười thường là người hèn, tất nhiên không tính tới những nụ cười của sự thân thiện chân tình.
Công việc của “chú kinh tế mới” cũng đơn giản và hay hay: bơm mực bút bi và bán một số học cụ như compa, thước kẻ, bút máy… Nhưng có lẽ điểm hấp dẫn đối với bọn trẻ là được khắc tên miễn phí. Một cây thép nhọn đơn giản cày trên mặt bút thoáng chốc bỗng là Trần Thị X, Nguyễn Văn Y với những đường cong mềm mại và đều tăm tắp. Thoa một lượt phấn trắng lên nữa là xong, cây bút, cây thước in rõ tên chủ sở hữu đầy ấn tượng. Trong những dịp lễ tết hay chuẩn bị nghỉ hè thì thay vì những cái tên là những dòng chữ lưu niệm, những lời chúc tặng, chia tay… Tôi lại “di ứng” một lần nữa với anh ta bởi tôi rất ghét màu mè, “đồng bóng”. Trước giờ tôi vẫn nghĩ hình như những lời chúc tụng hoa mỹ có vẻ gì đó không thật. Chẳng hạn như ngày tết chúc nhau an khang, thịnh vượng, phát tài phát lộc trong khi ngày thường chả yêu quí gì nhau, nếu không muốn nói là ghét nhau. Hình như bản chất con người là rất thích nghe những lời lẽ tâng bốc cho vừa lòng mình, dù đôi khi vẫn biết đó là những lời dối trá. Và như vậy thì thật là tệ hai!
Thường những lần xong giờ dạy giữa buổi học, tôi lững thững đi bộ về khu nội trú giáo viên, ngang qua gốc cây da nơi có chiếc xe đạp với “quầy hàng lưu động” của anh ta và liếc nhìn vào. Có lúc thấy anh ta đang sắp xếp lại những thứ đồ đạc lỉnh kỉnh, có lúc thấy anh ta chạm chạm khắc khắc, có lúc lại thấy anh ta ngồi buồn thiu dưới gốc cây, mắt nhìn đi đâu đó, chả thấy anh ta mời chào, chọc ghẹo, hay thậm chí để mắt tới mình. Càng tốt. Mới đầu tôi nghĩ vậy nhưng mấy lần sau tự nhiên hơi bực. Một đứa con gái “trí thức” và dễ nhìn lại mang cái mác thành phố như tôi – biểu hiện qua cách ăn mặc nè – lẽ nào không hề gây sự chú ý gì nơi một gã đàn ông?… Thôi kệ, tôi tự nhủ. Tri ngã dã bất tri ngã dã… Nhưng kệ gì thì kệ, vẫn có một chút ấm ức chạy dọc suốt từ bụng tôi lên tới cổ…
Mùa xuân năm đó trường tổ chức cho các lớp thi báo tường. Yêu cầu phải đầy đủ các thể loại văn thơ nhạc họa. Văn thơ và tranh vẽ phải là những sáng tác mới của các em, riêng nhạc được phép sưu tầm các bài hát quen thuộc và điểm chấm được tính vào việc chép đúng, đều và đẹp các nốt và lời ca của bản nhạc. Tôi được phân công vào ban giám khảo chấm phần hình thức. Thật lạ! Các nhạc phẩm đều được các em chép đều, đẹp và vô cùng cân đối. Các nốt nhạc hoặc to, hoặc nhỏ, hoặc nghiêng, hoặc đứng đều thẳng băng và giống nhau như đúc. Có vẻ như có cái gì đó không bình thường ở đây. Bởi vì trong hai mươi tờ báo của hai mươi lớp chỉ có mười tờ có những bản nhạc đẹp, mười tờ kia nốt nhạc vụng về, méo mó và đầy lỗi. Không thể có sự chênh lệch trong cái khéo tay của lũ học trò cùng trang lứa được. Nhưng dù sao đi nữa cũng phải chấm, cho điểm, bình chọn và trao giải cho kịp ngày các em nghỉ tết. Tôi tạm gác lại chuyện này để chuẩn bị về nhà ăn tết với gia đình.
Mồng sáu là ngày các em đi học lại. Nhưng chỉ là qui ước vậy thôi chứ ở thôn quê người ta hay kéo dài thêm niềm vui của ba ngày tết. Cũng là điều hợp lý bởi quanh năm đầu tắt mặt tối bán lưng cho trời bán mặt cho đất để có được ba ngày xuân thì quả là hơi ít. Chơi thêm cho đến hết rằm vậy. Bởi vậy thầy trò chúng tôi chỉ dạy và học kiểu cầm chừng, dành thêm thời gian đến chúc tết phụ huynh và các giáo viên người bản xứ. Và qua trò chuyện với các em tôi được biết thêm một điều thú vị là những bản nhạc trên báo tường hôm trước được kẻ thật đều và đẹp kia đều do một tay “chú kinh tế mới” làm ra. Tôi ngạc nhiên, tò mò và có ý mong gặp lại anh ta… Nhưng rồi mãi đến gần nghỉ hè tôi mới được gặp lại vì anh ta đi vắng từ trước tết cho đến tháng tư. Hôm ấy lấy cớ cần khắc một dòng chữ trên chiếc bút máy làm quà cho nhỏ em trong dịp nghỉ hè, tôi tìm tới gốc cây da. Trong lúc anh ta chăm chú khắc chữ tôi gợi chuyện:
– Anh làm việc này lâu chưa?
– Ý cô hỏi việc gì?
– Thì bán dụng cụ học sinh và khắc chữ nè.
– À, cũng gần hai năm nay rồi.
– Anh có làm nghề gì khác nữa không?
– Có chớ. Nghề chính của tôi là làm rẫy mà. Đây chỉ là công việc làm thêm, trước cho vui, sau là kiếm thêm chút đỉnh để bồi dưỡng thịt cá cho ông bà già.
– Anh vẫn còn ở với cha mẹ à? – Tôi tò mò.
– Chớ sao, nếu không thì tôi ở với ai bây giờ.
Tôi hơi bối rồi: – À không, ý tôi là…
– Ờ, tôi hiểu rồi. Tôi chưa có gia đình riêng. Còn trẻ mà cô. – Anh ta thoáng nhìn tôi mĩm cười.
– Vậy chắc nhà anh đông người lắm hả? Nếu không thì anh đâu phải đi làm thêm để… – tôi loay hoay tìm chữ để diễn đạt – cải thiện đời sống?
Anh ta cười hì hì:
– Nhà chỉ có ông bà già với tôi thôi. Tôi cũng có mấy anh chị nhưng họ đã có gia đình riêng cả rồi.
Máu tò mò con gái trong tôi lại nổi lên:
– Từ tết tới giờ anh đi đâu mà không thấy tới đây “chơi” với mấy đưa học trò?
– À, sau tết tôi kẹt thu hoạch mía. Xong cây mía lại làm đất chuẩn bị cho mấy đám lúa thổ để sau mồng năm tháng năm là xuống giống.
Tôi vờ khen:
– Anh giỏi thiệt đó. Anh còn biết việc gì nữa không?
Anh thật thà:
– Giỏi gì đâu cô. Chỉ là cuộc đời dạy cho thôi mà. Tôi cũng biết nghề mộc nữa đó. Nghề này học được trong tù, à quên, trong trại cải tạo…
Anh ta mở hộp lấy viên phấn trắng bôi lên hàng chữ vừa khắc, lấy khăn lau qua một lượt, những lớp bụi bên ngoài biến mất còn lại hàng chữ trắng nổi lên trên nền xanh của cây bút.
Anh cầm bút đưa tôi:
– Đây, bút của cô. Tôi không lấy tiền công đâu. Khắc dùm cô chút thôi. Lần sau có cần giúp gì cứ nói, cô đừng ngại.
Không biết nói gì nữa tôi đành phải chào rồi đi. Vẫn chưa có cơ hội để hỏi về những nốt nhạc. Tôi cứ băn khoăn hoài. Tính tôi trước giờ như vậy. Hễ muốn điều gì là phải làm hay tìm hiểu cho bằng được mới thôi. Thật ra tôi không phải là đứa hiếu kỳ hoặc có nhiều đòi hỏi. Tôi chỉ có mỗi cái tật (ưu hay khuyết đây?) rằng đã làm việc gì thì phải làm cho đến cùng, đã hiểu biết gì thì phải hiểu cho tường tận, cho đến khi thỏa mãn thì thôi. Má tôi vẫn thường hay nói tính mày đa mang, rồi không sướng đâu con ạ. Tôi không tin.

Cuối năm học, một phụ huynh tặng tôi súc gỗ hương đủ để đóng một cái table de nuit hoặc một cái bàn trang điểm nho nhỏ. Tôi chợt nghĩ đến anh ta và cho mời anh đến. Xem xét hồi lâu anh nói:
– Đóng cái table de nuit phải mất ba ngày công đó cô.
Tôi nói: – Được thôi, anh sắp xếp công việc giúp tôi ba ngày được không?
– Tôi có thể chở súc gỗ này về đóng tại nhà cũng được.
Tôi suy nghĩ một lát. Tôi muốn xem anh ta làm, và sâu xa hơn là tôi muốn nói chuyện với anh:
– Không phải mất công vậy đâu, anh cứ làm việc tại đây đi. Sáng lên, chiều về, đồng ý chớ? Buổi trưa tôi sẽ nấu cơm cho anh ăn.
Anh cười cười:
– Không phiền vậy đâu. Nếu cô muốn tôi sẽ mang đồ nghề lên đây làm cho cô cũng được. Còn chuyện ăn uống tôi tự lo được thôi.
Trong ba ngày sau đó, ngoài giờ lên lớp tôi thường ngồi xem anh làm việc. Súc gỗ được mang ra lâm trường xẻ thành nhiều khúc đoạn. Cái thì để làm khung, làm đế. Mặt ván có những đường vân đẹp được chọn làm mặt và cánh tủ. Vừa cưa cưa đục đục anh vừa nói chuyện với tôi. Thì ra anh nguyên là sinh viên trường Mỹ thuật Sài Gòn, bị động viên đi lính năm bảy hai. Sau bảy lăm bị cải tạo năm năm vì là sĩ quan thủy quân lục chiến. Sau khi được thả về cả nhà anh phải đi kinh tế mới vì thuộc diện cần tập trung quản lý. Mấy vụ này tôi chẳng lạ gì vì tôi sống và lớn lên ở miền Nam, và dù ba má tôi chỉ là người buôn bán nhưng bà con họ hàng không thiếu gì người tham gia bộ máy chính quyền trước đây nay phải long đong lận đận.
Tôi chợt hỏi một câu lãng nhách:
– Anh có buồn không?
Anh cười:
– Buồn gì chớ? Chỉ hơi áy náy là vì mình mà cha mẹ già phải chịu khổ lây. Nên mọi việc tôi cố làm đây chỉ là để báo đáp phần nào cho cha mẹ thôi.
Tôi lại tiếp tục “lãng nhách” bằng mấy câu kiểu an ủi vụng về. Anh cười to, nói:
– Trời, tôi đã nói là tôi có buồn gì đâu. Sao cô lại phải an ủi tôi làm gì. Tụi tôi là dân “cư an tư nguy” mà.
Tôi ráng gồng mình, vận dụng trí nhớ xem cái “cư an tư nguy” này hồi xưa mình có học ở đâu chưa nhưng chịu, chả nhớ là đã nghe bao giờ. Biết là hơi quê nhưng tôi vẫn hỏi:
– À, cái “cư an tư nguy” mà anh vừa nói là…?
Nhìn thấy vẻ ngượng nghịu trên mặt tôi, anh vội nói:
– Ờ, câu này cũng xưa rồi, nay không còn ai dùng nữa nên cô chưa nghe đó…
Tôi cảm thấy mặt mình đỏ lên vì xấu hỗ nhưng cố trấn tĩnh lại, chuyển qua hỏi về mấy bản nhạc trong báo tường của học sinh hôm tết. Anh nói:
– Có gì đâu. Thấy tụi nhỏ chép nhạc vất vả quá nên tôi kẻ dùm tụi nó cho nhanh.
– Nhưng sao hình nốt trong mỗi bài không giống nhau, dù nhìn kỷ vẫn biết là do một người viết ra?
– Tôi kẻ nhạc theo nội dung bài hát. Nếu là hành ca, nốt nhạc phải cao, nhọn, nốt móc phải sắc bén như gươm đao, hình nốt phải to, khỏe. Nếu là tình ca, nốt nhạc phải hơi nghiêng về phía trước như những lời thì thầm trò chuyện với nhau, nốt móc phải hơi gầy, bụng thon, hình nốt ô van vừa phải. Nếu là bài ca về trường lớp, về thầy cô, nốt nhạc phải đứng đắn, trang trọng, nốt móc phải bầu bĩnh, hình nốt hơi tròn… Còn nếu là bài hát nói về tuổi học trò hồn nhiên nghịch ngợm thì nốt nhạc phải hơi nghiêng về phía sau, nốt móc ngắn và nhỏ, hình nốt dẹp, vân vân. Nói tóm lại để kẻ một bản nhạc mình phải nắm được cái hồn của nó…
Nhìn tôi mở to mắt ngạc nhiên anh cười:
– Có bài hát nào cô thích cứ đưa vở đây, tôi sẽ kẻ nhạc giúp cho cô…

Tôi còn có dịp trò chuyện với anh nhiều lần sau đó. Lúc thì nhờ anh kẻ hộ một nhạc phẩm mới của Trịnh Công Sơn, một bài hát cũ của Văn Cao, lúc thì chỉ tán chuyện vu vơ về âm nhạc và hội họa. Cuối năm học ấy mãn nhiệm, tôi thuyên chuyển về phố. Trước ngày tôi về anh mang đến tặng tôi một tượng gỗ nhỏ chỉ bằng gang tay. Đó là chân dung tôi với khuôn mặt và mái tóc ương bướng nhìn không lẫn đi đâu được. Anh nói gia đình anh cũng sắp sửa chuyển đi và chúc tôi gặp mọi điều may mắn… Bận rộn với nhiệm sở mới nên tôi cũng quên, ít khi nhớ hoặc nghĩ về anh và những nốt nhạc. Chỉ thỉnh thoảng những lúc ngồi nhìn bức tượng nhỏ tôi lại nghĩ về anh ta chút đỉnh rồi thôi… Một vài người đàn ông đã đến với tôi. Hôn hít, vuốt ve nhau một cách nhạt nhẽo rồi chia tay. Mẹ tôi phàn nàn nói tôi là đứa tàng tàng. Năm tháng trôi qua, cuộc sống cũ kỹ với những va chạm nhỏ mọn mãi rồi cũng làm tôi tuyệt vọng. Tôi đã nghĩ lựa chọn công việc “dạy học” thì mình sẽ được bình yên nhưng hóa ra trật lất. Ở đây đi tìm cái “liêm sĩ” cũng mệt nhoài! Bây giờ thì tôi đã hiểu cái “cư an tư nguy” mà một người đàn ông đã từng nói với tôi nhiều năm về trước. Tôi chợt nhận ra rằng phải có cái tâm lớn thật sự người đàn ông kia mới thể hiện chân thật cuộc sống qua từng nốt nhạc hay tác phẩm nào đó của mình. Thảo nào anh ta đã sống lạc quan và yêu đời như vậy! Không biết bây giờ anh ấy ở đâu, làm gì? Còn ở trong nước hay đã đi ra ngoài nước? Nhưng dù ở đâu và làm gì đi nữa tôi vẫn xác tín rằng anh không bao giờ là một người bất hạnh…

LÊ PHÚ HẢI

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, “Nửa Mỹ nửa ta”

nuocmattruocconmua
NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, nguyên tác Anh Ngữ “Tears Before The Rain” là một tập sử liệu về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam, do Larry Engelmann, Giáo Sư Đại Học San Jose State thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn nhiều thành phần: người Mỹ, người Việt, kẻ thắng người bại …Những cuộc phỏng vấn này khởi sự từ 1985, sách xuất bản năm 1990. Bản dịch Việt Ngữ do nhà văn Nguyễn Bá Trạc thực hiện năm 1993, xuất bản năm 1995 tại California.

MẠC THÚY VÂN
“Nửa Mỹ nửa ta”

Tôi sinh năm 1967 ở Saigon. Cha tôi là người Mỹ. Em gái tôi mười lăm tuổi, khác cha. Mẹ tôi không bao giờ kết hôn với cha tôi cả. Mẹ tôi giúp ông bà ngoại tôi mở một tiệm ăn ở Saigon. Còn ông bà ngoại tôi mở một tiệm ăn nhỏ dưới miệt vườn. Cha tôi rời Việt Nam năm 1973 rồi ông trở lại yêu cầu mẹ tôi sang Mỹ với ông, nhưng mẹ tôi không chịu. Năm 1975 cha tôi viết thư một lần nữa yêu cầu mẹ tôi sang Mỹ. Bà vẫn từ chối, do đó cha tôi lại viết thư sang bảo như thế ông sẽ lập gia đình với người khác. Hiện nay ông đã có gia đình khác.

Tôi sống ở Saigon cho đến 1975 thì dọn xuống miệt vườn. Tôi ở tại một làng giữa Mỹ Tho, Bến Tre, đi học ở đấy. Nhiều người hay nhìn tôi vì trông tôi khác lạ. Tôi lai Mỹ. Người ta không có cảm tình chuyện đó.

Tôi sống ở đấy đến năm 1979 thì rời Việt Nam. Lúc bấy giờ cô chú tôi với hai người con trai muốn ra khỏi nước, chúng tôi đến thăm trước khi gia đình cô chú tôi đi. Hôm ấy ông bà ngoại tôi khuyên là nên cho tôi đi, vì ở Mỹ tôi sẽ có tương lai hơn. Vì thế mẹ tôi quyết định gửi tôi đi.

Chúng tôi vượt biên bằng một chuyến tàu lớn tại Mỹ Tho, lênh đênh trên tàu tám ngày đêm. Đến được Mã Lai thì họ bắn, không cho vào. Vài người trên tàu bị thương, vì thế chủ tàu năn nỉ là chỉ cần xin nước uống thôi. Họ cho chúng tôi nước, và chúng tôi đến được Nam Dương.

Tôi đổ bệnh suốt chuyến đi. Lúc ấy tôi quá nhỏ để ý thức những việc đang xảy ra. Ở Việt Nam tôi được sung sướng nhưng tôi không nghĩ rằng tôi sẽ có một tương lai khả quan. Cuối tuần nào ở trường chúng tôi cũng phải đi lao động. Tôi chẳng học được bao nhiêu. Một vài số điểm trong lớp là tùy thuộc vào việc có lao động tích cực hay không.

Ở Nam Dương tôi đã đổi chỗ đến ba lần. Chỗ đầu tiên là một vùng hoang địa, không bóng người nào khác ngoài chúng tôi. Chúng tôi phải dùng thuyền đi lấy nước. Vài người giàu có đem theo vàng lúc rời Việt Nam, họ dùng tiền để mua đồ ăn quanh vùng trong lúc ở Nam Dương. Còn chúng tôi phải thuê thuyền sang đảo khác mua đồ ăn.

Rồi chúng tôi lại đến một trại khác, nơi đây có người Mỹ giúp. Họ chuyển chúng tôi đến đây. Chúng tôi ở trong trại thứ hai này một năm, nhiều người đã bỏ mạng tại đây. Gần như mỗi ngày đều có người chết vì nước bẩn. Muỗi mòng cũng làm người ta phát bệnh.

Tôi có hai nguời anh chị họ ở Mỹ. Tôi viết thư nhờ, nên họ đã bảo trợ cho chúng tôi sang Mỹ. Tôi không có ai khác bảo trợ cả. Tôi đến San Francisco năm 1981. Lúc ấy không nói được tiếng Anh. Tôi vui mừng, nhưng rất sợ hãi vì chung quanh toàn người da trắng. Tôi không biết rồi đây sẽ làm gì ở Mỹ.

Tôi sống với những người bà con trong một căn nhà. Tôi bắt đầu học lớp Bảy, nhưng vì không nói được tiếng Anh nên phải theo học chương trình E.S.L, chương trình Anh ngữ dành cho người không nói tiếng Anh. Trong năm ấy tôi gắng học, bắt đầu có tiến bộ. Sau một năm, tôi có thể nói chuyện kha khá bằng tiếng Anh.

Tôi học Trung học Đệ Nhất Cấp, rồi vào trường Trung học Independence ở San Jose. Tại đây tôi được điểm trung bình 3.3. Hiện nay tôi đang theo học kế toán Thương Mại tại Đại học San Jose. Tôi muốn vào ngành Thương mại ở Hoa Kỳ. Hiện tôi làm việc tại một cửa tiệm để lấy tiền trả học phí cho xong chương trình đại học.

Tôi là một người Việt Nam.

Tôi là người Việt, bởi vì tôi đã lớn lên như một người Việt. Về phương diện văn hoá, văn hóa Việt Nam là văn hoá của tôi. Khi mới gặp nhau, người ta thường hỏi có phải tôi “nửa Mỹ nửa ta” không! Họ biết tôi lai.

Sẽ có ngày tôi lấy chồng, có hai đứa con. Ở Mỹ này mà có nhiều con hơn số đó thì tốn kém hết sức.

Khi còn nhỏ đã có lần tôi mong mỏi được gặp cha tôi. Nhưng nay tôi không còn tò mò gì về cha tôi nữa. Tôi biết ông đã có gia đình khác.

Nếu tôi đến gặp ông là chỉ đem phiền phức đến cho ông. Tốt hơn hết đừng gặp. Vì thế tôi nghĩ tôi sẽ mãi mãi không bao giờ tìm cha tôi cả.

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, “Má ơi, con đi bây giờ đây. Con sẽ làm cho má hãnh diện vì con”

nuocmattruocconmua
NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, nguyên tác Anh Ngữ “Tears Before The Rain” là một tập sử liệu về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam, do Larry Engelmann, Giáo Sư Đại Học San Jose State thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn nhiều thành phần: người Mỹ, người Việt, kẻ thắng người bại …Những cuộc phỏng vấn này khởi sự từ 1985, sách xuất bản năm 1990. Bản dịch Việt Ngữ do nhà văn Nguyễn Bá Trạc thực hiện năm 1993, xuất bản năm 1995 tại California.

NGUYỄN THỊ HOA
“Má ơi, con đi bây giờ đây. Con sẽ làm cho má hãnh diện vì con”

Tôi lớn lên ở Saigon. Ba má tôi mở một quán ăn nhẹ, một quán cafeteria bán cho Mỹ. Nhưng khi Mỹ rút vào năm 1973, ba tôi mất cái quán vì chẳng còn buôn bán gì được. Không đủ khách. Ba tôi cũng bảo nhiều người Mỹ đã quỵt tiền, họ ăn đến cuối tháng mới trả, nhưng lúc đi, họ không thanh toán nên ba tôi thua lỗ, mất luôn chỗ buôn bán. Từ đó ba tôi trở nên chua cay, không còn thích người Mỹ nữa. Ba má tôi phải tìm việc khác. Chúng tôi cũng không còn được sống đầy đủ như trước.

Vào khoảng mùa Xuân năm 1975, bạn tôi và tôi rất sợ chuyện Cộng sản chiếm Saigon. Người ta kể Cộng sản sẽ giết hết mọi người giống như chúng đã làm hồi năm 1968 ở Huế. Tết năm ấy chúng đã giết 3,000 người mà chẳng có lý do. Chúng trói giật cánh khuỷu, bắn vào đầu họ. Cho nên chúng tôi rất sợ hãi.

Ba tôi không sợ. Ông bảo toàn chuyện tầm phào. Ông nói Cộng sản có chiếm thì cũng chẳng có chi thay đổi. Tôi không tin, tôi muốn đi khỏi nước, em gái tôi cũng vậy. Nhưng ba tôi nói: ’’Không đứa nào đi đâu hết nghe. Chẳng chết chóc gì mà lo. Tụi bay không nghe người ta nói sao? Cộng sản không đụng chạm gì tới bay đâu!”
Tuy nhiên, tôi vẫn quyết ra đi. Trước, tôi trù tính đi với anh tôi, nhưng rồi ảnh đổi ý, ở lại. Tôi bèn quyết định đi với em gái tôi. Lúc ấy, tôi mới có mười sáu. Em tôi tên Nguyễn Thị Thiết, kém tôi hai tuổi.

Đầu tiên phải kiếm đường dây, tất nhiên tôi không có tiền bạc gì. Nhưng tôi kiếm được một người bạn tên là Nguyễn Thị Xuân. Cha mẹ bạn tôi là chủ tàu. Bạn tôi bảo nếu chị em chúng tôi muốn đi, nó cho đi, khỏi cần tiền nong. Tôi nói tôi muốn đi. Bạn tôi bảo vậy khi nào đi, nó sẽ kêu.

Sáng 29 tháng Tư, bạn tôi kêu tôi đi. Nó biểu tụi tôi ra một góc đường sẽ có xe tới chở xuống bờ sông Saigon. Tôi và em gái tôi mỗi đứa đem theo một túi quần áo, hai chị em phải lén ra khỏi nhà vì ba tôi đâu có muốn cho đi. Do đó chúng tôi không chào ba tôi. Nhưng chúng tôi đi tới tiệm ăn, nơi má tôi làm. Bả nào có biết hôm đó chúng tôi đi. Tôi nói với má tôi rằng: “Má ơi, con đi bây giờ đây. Con sẽ làm cho má hãnh diện vì con”. Má tôi ôm hôn tôi, ôm hôn em gái tôi, má tôi nói “Thôi được. Má cầu Trời khấn Phật cho các con được mọi điều tốt lành”. Lúc đó má tôi thiệt cứng cỏi, bả không khóc khi nói lời từ biệt. Nếu lúc đó má tôi khóc chị em chúng tôi cũng ở lại rồi, có lẽ má tôi biết nhưng bà muốn cho chị em chúng tôi đi. Tên má tôi là Trần Thị Thanh. Má tôi đã giúp cho tôi có đủ nghị lực mà ra đi.

Chị em chúng tôi tới góc đường, nơi hẹn xe tới đón. Chúng tôi đợi hoài đợi hủy, xe không thấy tới. Em gái tôi biểu rằng: “Để em đi kiếm điện thoại kêu thử xem họ có tới không rồi quay về”. Em tôi bỏ túi quần áo lại, đi kiếm điện thoại. Khi em tôi đi thì xe tới. Trên xe đầy nhóc người ngồi. Tôi năn nỉ người tài xế chờ em tôi thì ông ta nói chẳng có cách gì: “Bây giờ mà chờ thì hết đi nổi”. Ông biểu vậy, nên tôi đành vô trong xe, bỏ quần áo em tôi lại trên vỉa hè. Lúc ấy, tôi vừa bấn loạn, vừa kinh hoảng vì không có em tôi.

Khi tới bờ sông, mọi người đều phải xuống tàu thiệt lẹ. Vào lúc bối rối như vậy, tôi mất luôn túi quần áo. Như vậy tôi chỉ còn một bộ quần áo trên người mà đi khỏi nước. Chiếc tàu chúng tôi đi tên là tàu Tân Nam Việt. Tàu này lớn lắm, chở được tới năm sáu trăm người. Tôi thầm mong cho em tôi tới kịp trước khi tàu đi, nhưng em tôi không bao giờ đến được nữa.

Khi tàu chạy, tôi rất sợ. Nhiều người đứng trên boong nhìn Việt Nam lần cuối. Hình ảnh cuối cùng là bãi biển Vũng Tàu, nhưng tôi không nhìn lui nữa vì buồn quá. Tôi đã bỏ hết mọi thứ lại nhà, chẳng biết từ nay trôi nổi tới đâu.

Sau này tôi được tin em tôi cũng cố tìm cách đi nữa nhưng bị bắt lại. Nó bị nhốt tù. Ra khỏi tù, nó lại đi nữa, rồi lại bị bắt nữa. Lần này nó bị nhốt vô một nhà giam đặc biệt. Nó vẫn còn kẹt lại ở Việt Nam.

CHÚT TÌNH ĐàXA

vungocgiao

ta về
thăm lại ngày xưa
phố biển vẫn sáng
vẫn trưa
vẫn chiều
vẫn hàng cây đứng quạnh hiu
vẫn con đường nắng buồn thiu bốn mùa
vẫn là người trong hiên mưa
lạnh căm cùng gió
mà , khua hồn mình !
ta đi
trời đất lặng thinh
thấy , trong mắt dại chút tình đã xa !

vũ ngọc giao

Đọc bài thơ của tác giả Du Tử Lê – “Ở chỗ nhân gian không thể hiểu”

nguyenhoanganhthu

BÀI NHÂN GIAN THỨ NHẤT

Ở chỗ nhân gian không thể hiểu
đôi mắt người hồ như biển đông
có mưa-tôi-cũ về ngang đó
tự buổi thiên đàng chưa lập xong

Ở chỗ nhân gian không thể hiểu
mái tóc người hồ như rừng cây
có mây che lối về cho lá
và những con đường thật riêng tây

Ở chỗ nhân gian không thể hiểu
tôi có người hồ như vết thương
có đêm ngó xuống bàn tay lạnh
và chỗ em ngồi đã bỏ không

Ở chỗ nhân gian không thể hiểu
tôi có người hồ như tấm gương
thấy tôi thắt cổ trên cành tuyết,
và bóng đo dài nỗi tủi thân

Ở chỗ nhân gian không thể hiểu
tôi có người hồ như hạt sương
có bông hoa đỏ chiều tâm khúc
tôi thấy từ em một quê hương

Ở chỗ nhân gian không thể hiểu
tôi có người hồ như tiếng chim
theo cơn bão rớt về ngang phố
tôi học từ em: niềm lãng quên

Ở chỗ nhân gian không thể hiểu
tôi có người hồ như ấu thơ
đêm đêm khóc vụng cùng chăn gối
và thấy buồn như mẹ ở xa

Ở chỗ nhân gian không thể hiểu
tôi biết người mang một nỗi buồn
biết ta cuối kiếp tim còn lạnh
cùng nỗi sầu bay đầy hư không

Ở chỗ nhân gian không thể hiểu
tôi xin người sớm phục sinh tôi

Bài thơ đầu tiên tôi đọc được là “Bài nhân gian thứ nhất”. Một cảm giác “hồ như” có và không, đan xen điều nghĩ ngợi, nhưng tôi cũng không định hình mình đang nghĩ về điều gì, chỉ cảm nhận một điều là: rất thơ, rất tình!

“…Ở chỗ nhân gian không thể hiểu
tôi có người hồ như hạt sương
có bông hoa đỏ chiều tâm khúc
tôi thấy từ em một quê hương ”

Và từ đó, tôi cảm thấy hứng thú về việc khám phá ngôn ngữ, hình ảnh thơ của tác giả Du Tử Lê.

Rất nhẹ nhàng trong lắng, một lời thơ gọt nhẹ nhàng từng cánh mỏng ngôn từ. ” Bài nhân gian thứ nhất” là một bài thơ như thế, nỗi đau đã giấu trong tầng thẳm cảm xúc giữa một vùng hoài niệm mênh mang. Một thể thơ bảy chữ với rất nhiều ngôn ngữ niệm hoài.

“Ở chỗ nhân gian không thể hiểu
đôi mắt người hồ như biển đông
có mưa-tôi-cũ về ngang đó
tự buổi thiên đàng chưa lập xong”

Hình như chỉ là mộng, mộng mới là “hồ như”, “ đôi mắt hồ như biển đông” và “cơn mưa- tôi- cũ về ngang đó/ tự buổi thiên đàng chưa lập xong”. Với tôi thì lại cảm nhận nó rất thực, thực như đang cảm nhận nỗi buồn đang ướt đẫm trước mắt. Hình như nhà thơ rất thích mưa, thích trầm mình với mưa, mưa ký ức, mưa trên “những con đường thật riêng tây” , mưa “đêm ngó xuống bàn tay lạnh/ và chỗ em ngồi đã bỏ không”. Nghe có vẻ nhẹ nhàng và mơ hồ thật nhưng lời trách cứ dùng dằng đau buốt. Ý thơ cứ tăng cấp, càng nhẹ càng sâu, mơn man lại thấy lòng bải hoải. Chỉ có thể dùng một từ diễn đạt một cảm giác: Rỗng!. Đúng như vậy, rỗng bởi chỉ còn lại thơ, còn lại “người”, còn lại nỗi mong cầu: xin hiểu cho…

Và tất cả chỉ còn lại một cái bóng cô độc, một hình nhân mang linh hồn thật buồn, một bài thơ thủ thỉ ngọt ngào mà lại có cảm giác đau buốt:

Ở chỗ nhân gian không thể hiểu
tôi có người hồ như tiếng chim
theo cơn bão rớt về ngang phố
tôi học từ em: niềm lãng quên

Làm sao quên được đây người ơi? Có lẽ tôi đã quá cảm câu thơ này của tác giả: “tôi học từ em: niềm lãng quên”. Cảm chừng như người đang học lãng quên: từ phố, từ tiếng chim, từ rừng cây, từ cớ mượn mây che lá, về từ ấu thơ nhìn thấy mẹ ở xa…Lời thơ cứ thì thầm thì thầm, cơ chừng mãi mãi đến cạn khô kiếp người. Lãng quên hay nỗi khát khao từ trong tiềm thức – mà hình như Người cũng chẳng hiểu chính bản thân mình.

Ở chỗ nhân gian không thể hiểu
tôi biết người mang một nỗi buồn
biết ta cuối kiếp tim còn lạnh
cùng nỗi sầu bay đầy hư không”

Bài thơ kết thúc trên vết rạn của niềm khát khao cháy bỏng, một tâm trạng nhớ nhung đã phó thác vào cảm giác “hồ như” tất cả như nhòa đi, nhòa đi với dòng lệ chảy (tôi đang tưởng tượng ra như vậy)

“Bài nhân gian thứ nhất” trải rộng nỗi niềm sâu đến tận địa đàng, trải tình tôi lên tận mấy ngàn. Nhân gian rộng lớn quá, cụ thể quá, mà lại mơ hồ quá. Cái hữu hạn của đời người đang nghẹn ngào trước cái vô cùng của nhân gian. Bài thơ kết thúc trên vết rạn của niềm khát khao cháy bỏng, một tâm trạng buồn phó thác cho một điều kỳ diệu từ “người”:

Ở chỗ nhân gian không thể hiểu
tôi xin người sớm phục sinh tôi

Từng câu, từng chữ đang bay, tất cả đều “hồ như ” – đang nhòa, nhòa…bởi “Ở chỗ nhân gian không thể hiểu”. Cầu mong Người sẽ phục sinh

Nguyễn Hoàng Anh Thư

TIỄN CON GÁI ÚT VỀ SÀI GÒN.

tranvannghia

Thương quí tặng con gái út: Trần Thái Thoại Trân

Thực tình ba muốn níu con
Sân ga chiều nay , ở lại
Nhà mình có hai con gái
Một người đi lấy chồng xa

Ngậm ngùi thương lắm câu ca
Về đâu bến trong , bến đục…
Bên thềm nắng buồn rưng rức
Gió cuối năm lạnh chợt về

Tiếng còi tàu xé trời quê
Nghiến đời ba theo bánh sắt
Hấp háy dụi hoài đôi mắt
Cố vui gượng vẫy tay chào

Mũi lòng quặn thắt cơn đau
Run run giấu vào giọng nói
Con về Sài Gòn đô hội
Theo chồng ,làm vợ, làm dâu

Dẫu hai mươi sáu tuổi đầu
Với ba , vẫn là bé bỏng
Vẫn còn dại khờ vốn sống
Chợ đời chưa nếm đắng cay

Giờ chim tự sổ lồng bay
Tìm góc trời riêng mơ ước
Tháp Chàm,ga chiều nghiêng bước
Đường về sao thấy càng xa !

Căn nhà như bỗng rộng ra
Từ lúc vắng con, hôm ấy
Số con giống như ba vậy
Quê nhà , chỉ để nhớ thương !

TRẦN VĂN NGHĨA

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, “Lúc nào tôi cũng yêu mến Abraham Lincoln”

nuocmattruocconmua
NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, nguyên tác Anh Ngữ “Tears Before The Rain” là một tập sử liệu về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam, do Larry Engelmann, Giáo Sư Đại Học San Jose State thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn nhiều thành phần: người Mỹ, người Việt, kẻ thắng người bại …Những cuộc phỏng vấn này khởi sự từ 1985, sách xuất bản năm 1990. Bản dịch Việt Ngữ do nhà văn Nguyễn Bá Trạc thực hiện năm 1993, xuất bản năm 1995 tại California.

NGUYỄN MỘNG THẢO
“Lúc nào tôi cũng yêu mến Abraham Lincoln”

Rời Saigon, chúng tôi qua Guam, ở đấy vài tuần rồi sang Fort Chaffee. Cha tôi rời đây trước, có một nhà thờ bên Connecticut nhận bảo trợ cho chúng tôi. Cha tôi đi trước, kiếm được việc làm, những người bảo trợ cũng kiếm được cho chúng tôi một chỗ ở.

Các thày giáo ở Connecticut cứ lầm lẫn mãi về việc gọi tôi bằng tên chị tôi, gọi chị tôi bằng tên tôi. Họ sắp nhầm cả lớp cho tôi. Chúng tôi ở đây một năm. Trong trường, học trò đứa nào cũng tranh nhau làm bạn với chúng tôi. Chúng cãi cọ để được ngồi cùng bàn chúng tôi. Bọn nó thường đem cho tôi quà, các thứ đồ trang điểm, đủ thứ. Còn con bé tên là Tiffany thường hay vẽ hình mấy con ngựa tặng tôi.

Tôi có đến hai ngày sinh nhật, vì chúng tôi dùng cả âm lịch, chuyện ấy làm bọn trẻ Mỹ rối rắm chả hiểu gì. Tôi báo cho bọn trẻ trong trường biết cả hai ngày sinh nhật của tôi. Tôi thấy thực khó giảng cho chúng hiểu chuyện ấy.

Trong lớp, tôi luôn luôn dẫn đầu môn toán, thày giáo bắt tôi phải tiến chậm lại. Lúc ấy tôi không nói được tiếng Anh, nhưng có nói được tiếng Pháp, làm bọn trẻ trong lớp thán phục. Tiếng Anh hoàn toàn mù mịt. Nói chung, bấy giờ tôi phải dùng thủ hiệu, chỉ trỏ để thông cảm nhau.

Cô tôi đã dọn sang tiểu bang Washington. Tôi còn nhớ một buổi sáng kia cô chợt điện thoại cho chúng tôi, bảo con gái cô nghịch súng trong nhà, đã nổ cò trúng đạn. Bấy giờ, cô nói, mọi người đang ở trên lầu, bọn trẻ chơi đùa dưới nhà. Mấy con bé tìm được một khẩu súng vác ra chơi. Súng cướp cò, đạn bắn ngay đầu. Vào nhà thương nó hãy còn kêu khóc: “Má ơi, má ơi”, nhưng em họ tôi chết trong nhà thương. Cô tôi điện thoại báo cho biết, và tôi nhớ là tôi đã kể cho cả lớp hay. Nhưng tôi phải dùng dấu tay, dùng cả tiếng Pháp lẫn tiếng Việt để kể câu chuyện cho bọn bạn học. Và tôi đã khóc.

Tôi rất gần gũi với em họ tôi. Thực kỳ lạ là lúc điện thoại reo vào ba giờ sáng, khi mẹ tôi bốc máy trả lời thì tôi tỉnh dậy đi vào phòng mẹ.

Sau khi cô tôi điện thoại xong, mẹ tôi và tôi bước ra ngoài.

Đêm ấy trời có tuyết. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi thấy tuyết. Ngoài trời đêm rất sáng, vạn vật phủ mầu trắng trong đêm khuya. Lúc ấy trước lễ Giáng Sinh. Cái chết của em họ tôi đã làm tôi xúc động sâu xa.

Tôi nhớ đêm hôm ấy tôi đã khóc. Mẹ tôi cũng vậy. Vài tháng sau, vào mùa hè, chúng tôi dọn sang tiểu bang Washington. Từ Connecticut, chúng tôi lái một chiếc xe cũ kỹ mà cha tôi đã mua với giá năm chục Mỹ kim để đi băng nước Mỹ đến tiểu bang Washington. Cha tôi là thợ máy giỏi, ông đã bảo trì chiếc xe chạy khá tốt. Chúng tôi đi băng qua nước Mỹ với chiếc xe Oldsmobile này, ba người ngồi hàng ghế trước, tất cả số còn lại ngồi sau.

Trong chuyến đi, chúng tôi đã thấy biết bao công viên và những đài kỷ niệm danh tiếng của nước Mỹ. Chúng tôi đã được nhìn thấy núi Rushmore với tượng Abraham Lincoln trên ấy. Lúc nào tôi cũng yêu mến Abraham Lincoln.

Phải mất cả tháng trường, chúng tôi mới đi băng hết nước Mỹ, chúng tôi cũng học hỏi được nhiều. Trong chuyến đi này, chúng tôi ghé lại nhà bạn quen, ngụ tại các nhà trọ hoặc những trạm nghỉ chân dọc theo xa lộ. Chuyến đi này cũng là một cuộc phiêu lưu lớn, chúng tôi đều thích thú.

Sau đó chúng tôi đến viếng mộ em họ tôi ở tiểu bang Washington. Tôi còn nhớ cảm giác của tôi là tức giận bực bội. Tại sao để súng trong nhà làm gì? Tại sao em tôi lại chết tức tưởi ở đất Mỹ sau tất cả những gì chúng tôi phải trải qua tại Việt Nam? Nhưng tôi cũng không để cho mình vương vấn mãi chuyện ấy, bởi lẽ, nếu thế thì lòng tôi cũng tan nát. Tôi biết, nên tôi không dám luẩn quẩn mãi với cái chết của em họ tôi.

Trong nghĩa địa có trồng một hàng cây với cành lá phủ đầy những hạt nhỏ. Tôi nhặt một hạt cây rồi giữ lấy. Tôi không biết tại sao tôi lại giữ cái hạt ấy.

Chúng tôi dọn đi Seattle. Một người dì tôi đã kết hôn với người Mỹ, một người Mỹ da trắng. Cha tôi cho rằng việc ấy có thể gây ra ảnh hưởng xấu. Cha tôi làm việc với Mỹ, nói tiếng Mỹ, sinh hoạt với họ cũng suông sẻ, nhưng cha tôi lại không muốn ai trong gia đình tôi lấy Mỹ cả. Tôi nghĩ chuyện ấy thực kỳ cục.

Ở Seattle có nhiều người Á Châu hơn ở Connecticut. Lúc ấy tôi vẫn còn phải học E.S.L. (1) Nhưng rồi tôi bắt đầu học khá hơn. Tôi vẫn cứ phải đóng vai học trò đầu lớp, từ khi ở Việt Nam, tôi vẫn đã như thế.

Tôi ở tiểu bang Washington từ khi học lớp Ba cho đến lớp Bảy. Sau đó vì cha tôi có nhiều bạn ở dưới vùng Cali này, và vì ông đã tìm được việc ở đây, chúng tôi bèn dọn cả xuống. Nói thế này thì tôi cảm thấy không tốt, nhưng ở đây đông người Việt quá. Tôi cảm thấy có lẽ không nên nói như thế, nhưng tôi tự hỏi họ là ai. Họ là những kẻ phản bội hay họ là ai? Đông người Việt Nam quá.(2)

Tôi mong có dịp trở về thăm Việt Nam. Tôi có vấn đề dằng co về nhân thân. Đôi khi, tôi quên bẵng mình là người Việt Nam. Đến khi soi gương, mới nghĩ: “Ô! Ô! Ngươi là người Việt mà, Thảo ơi. Đừng quên thế nhé”. Chuyện ấy thực là gay. Vào những kỳ Thế Vận Hội hoặc vào những dịp mùng 4 tháng Bẩy (3), tôi hoàn toàn cảm thấy mình là người Mỹ. Tôi đâm ra thắc mắc. Nếu Việt Nam có tham dự Thế Vận Hội thì tôi vẫn ủng hộ Hoa Kỳ. Xứ sở này, đất nước này giờ đây chính là xứ sở tôi, đất nước tôi. Tôi nghĩ có lẽ chính vì thế mà tôi không muốn quanh quẩn trong đám người Việt Nam đông đảo nữa. Tôi không nằm mơ thấy Việt Nam. Nhìn hình ảnh Việt Nam, tôi không thể nhớ gì. Tôi có nhớ đôi điều, nhưng ít lắm, không thực rõ các chi tiết. Những anh chị lớn nhớ nhiều hơn.

Tôi vẫn bực bội về việc người ta dán nhãn hiệu liệt tôi vào loại nguời nào. Với Mỹ trắng, tôi chẳng hợp gì, mà với Việt Nam cũng không. Ở Tiểu bang Washington, bạn tôi đều là Mỹ trắng. Khi thông thạo tiếng Anh rồi là tôi ăn khớp vào với các bạn một cách rất tốt đẹp. Nếu người ta nghe chúng tôi nói nhưng không nhìn thấy chúng tôi, người ta đều tưởng chúng tôi là Mỹ trắng. Nhưng người ta vẫn khó chấp nhận rằng bây giờ thực sự chúng tôi chính là người Mỹ.

Chị lớn tôi hiện sống ở San Francisco. Chị là một nghệ sĩ. Chị rất có tinh thần sáng tạo. Hiện chị đang viết một quyển sách. Tuy nhiên, tôi phải tránh nói chuyện với chị. Ông hiểu không, chị ấy đang sống chung với người bạn trai của chị. Cha tôi đã từ chị, không nhắc đến tên chị nữa.

Đôi khi tôi lâm vào tình trạng ưu uất tinh thần. Chuyện ấy bắt nguồn từ gia đình. Tôi không khá trong việc đương đầu với các áp lực khủng hoảng. Chị tôi đã đặt cha mẹ tôi vào những nỗi khó khăn, tôi bực bội với chuyện ấy. Tôi thường bỏ đi chơi, tôi có nhiều bạn trai hơn là bạn gái. Đủ mọi quốc tịch.

Tôi thích trẻ con, nhưng chỉ muốn có con sau khi đã thành tựu sự nghiệp của tôi. Sau đó mới tính chuyện mình muốn gì.

Tôi đang phải theo học đại học, nhưng tôi tự trả lấy học phí bằng nghề thư ký. Ở nhà, cũng như những đứa con khác trong gia đình, tôi không phải trả tiền thuê nhà hay tiền ăn. Nhưng tôi có trách nhiệm phải coi sóc mấy đứa em trai, em gái.

Tôi luôn luôn mơ ước có một căn nhà bếp thật rộng để nấu ăn. Nhưng tôi cũng luôn luôn e ngại cha tôi không thích những món ăn tôi nấu . Tôi yêu cha tôi bằng tất cả tim tôi. Nhưng tôi ghét cay ghét đắng những quan điểm của ông. Cái ghét này cũng gần ngang với lòng yêu thương ông. Tôi hiểu về phía ông, quá khứ của ông. Nhưng cùng một lúc tôi tin rằng cha tôi cũng cần phải hiểu về phía của tôi và của chị tôi. Phía của chúng tôi, của cuộc đời chúng tôi. Chúng tôi không còn sống ở Việt Nam nữa, nhưng hình như cha tôi không nhận thức được những điều như thế.

Trong nhà, chúng tôi thường không nói năng gì. Tôi là người duy nhất hay nói chuyện trong gia đình. Tôi nói, nhưng cha tôi thì không. Khi ông cáu kỉnh, bẳn gắt, ông kêu tôi đi vào trong buồng. Mỗi khi có vấn đề, hoặc mỗi khi các anh chị em tôi muốn gì, thì cuối cùng chính tôi là nguời phải hỏi cha mẹ tôi và phải lãnh chịu hết mọi lời trách móc.

Gần đây, tôi muốn dọn ra ở riêng. Cha tôi bảo: “ Nếu mày mà lấy Mỹ trắng thì tao từ mày”. Và mẹ tôi lên tiếng: “Đấy, tất cả tụi bay nghe rõ chưa?” Tôi hiểu lý do tại sao cha tôi nói thế, nhưng điều ấy vẫn làm cho tôi thương tổn. Tất nhiên, nếu bọn tôi đứa nào cũng lấy Mỹ thì chúng tôi sẽ mất mát một cái gì.

Tuy nhiên có những chuyện cha tôi chẳng bao giờ hiểu được.

(1) English for second language: Anh văn, sinh ngữ thứ hai.
(2) Nguyên văn đoạn này là “I feel bad for saying it, but there are too many Vietnamese here. I feel like I shouldn’t say it. But I wonder who they are. Are they traitors, or who are they? There are so many of them”.
(3) Lễ Độc Lập Hoa Kỳ.