BÙI GIÁNG NGUỒN XUÂN

Đặng Tiến
dangtien

Hôm mùng ba mùng bốn theo nhau đẩy lùi mồng một mồng hai của hôm nay Nguyên Ðán
(Mưa Nguồn, tr. 164)

Câu thơ văn xuôi này của Bùi Giáng mang hai đặc tính : một là ý nghĩa nói về ngày Tết và mùa Xuân, hai là chữ nghĩa đi ngược chiều thời gian. Dĩ nhiên là mồng ba đẩy lùi mồng hai ; mồng hai đẩy lùi mồng một. Như vậy hôm nay Nguyên Ðán nằm ở vị trí nào trên chuỗi tháng ngày ? Nói khác đi, Bùi Giáng đứng từ thời điểm nào ở đầu tháng giêng để phát ngôn ?
Lời thơ theo trật tự số mục, và lối đếm thông thường : mùng một, mùng hai … mùng ba, mùng bốn … Nhưng theo ý nghĩa câu thơ, thì phải nói ngược lại : mùng bốn mùng ba (sẽ) theo nhau đẩy lùi mồng hai mồng một. Như vậy, nhà thơ phát ngôn từ ngày hôm nay Nguyên Ðán, như Nguyễn Bính năm 1940 :

Năm mới tháng giêng mồng một Tết
Còn nguyên vẹn cả một trời Xuân

Nhưng nếu hiểu (đã) theo nhau, thì tác giả lên tiếng vào ngày mồng Năm. Va øtrong cả hai giả thuyết, trật tự chữ nghĩa trong câu thơ Bùi Giáng vẫn không thuận chiều.
Rối rắm như vậy để nói lên một điều cơ bản : thơ Bùi Giáng là một « dòng nước ngược » một tâm thức đi ngược chiều thời gian, trong một Sử Lịch, ngược dòng Lịch Sử.
Trong hàng vạn trang sách để lại, Bùi Giáng thường dùng từ Sử Lịch. Chỉ một lần dùng chữ Lịch sử để chối bỏ :

Sử Lịch phai trang
Chạy quàng
Là Lịch Sử
(Lá Hoa Cồn, tr. 55)

Xuân trong thơ Bùi Giáng là xuân không mùa, xuân duy nhất và tuyệt đối, mà ông gọi là Nguyên Xuân (Lá Hoa Cồn, tr. 26), là khởi thủy của nguồn sống, nguồn thơ, quê của Em Mọi, của Ðười Ươi, đồng thời là đối tượng, là cứu cánh của sáng tạo, của Lời Cố Quận, Tiếng Gọi Về :

Thưa rằng ly biệt mai sau
Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân
(Mưa Nguồn, tr. 25)

Tác phẩm, và cuộc đời Bùi Giáng là niềm thủy chung trước sau như một với môït Màu Hoa Trên Ngàn : ông khởi đi từ đây và trở về lại đấy.

Xuân là nguồn mạch thơ tuôn tuôn từ miền xa biệt :
Lỡ từ lạc bước chân ra
Chết tự sơ ngộ màu hoa trên ngàn

*
Mùa Xuân xuất hiện thường xuyên trong tập Mưa Nguồn, và tái hiện trong Lá Hoa Cồn, về sau chỉ thấp thoáng mỗi ngày một ít, ở những thi phẩm cuối đời.
Mưa Nguồn thi phẩm đầu tay và đều tay nhất của Bùi Giáng được in năm 1962, gồm có nhiều bài làm từ 1948. Lời thơ trong sáng, tươi thắm và tha thiết, vào tập bằng hai câu mào đầu :

Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước, miên trường phía sau

là câu thơ nổi tiếng sớm nhất của Bùi Giáng, vì nó có thể được sử dụng ở nhiều tần số khác nhau : buồn hay vui, u hoài hay đùa cợt, ví dụ khi bè bạn gặp nhau ngoài phố, lặp lại câu thơ : xin chào nhau giữa con đường, dù không hiểu miên trường là gì.
Và ý tác giả có thể ngược lại : mùa xuân phía sau, miên trường phía trước. Cũng cần nói thêm, thời đó, 1962, thơ Bùi Giáng chỉ được truyền tụng trong một giới độc giả và bằng hữu, đồng hương, chứ không phải là một « hiện tượng văn học » như gần đây.
Có thể là thơ của tuổi xanh, nên tập Mưa Nguồn đã khởi đi từ nhiều hình ảnh thắm tươi, điệu thơ ánh ỏi :

Những nhành mai sớm sương bên lá
Những nhành liễu chiều gió bên cây
Cũng lay lất bởi đời xuân em ạ
Thế nên chi anh cũng viết dòng này
(Những Nhành Mai, Mưa Nguồn, tr. 10)

Lời thơ tham dự với đất trời vào niềm hoan lạc của mùa xuân. Thể thơ cổ điển, nhưng tác giả đã trộn lẫn thơ bảy và tám chữ, với âm điệu lạ ở câu hai. Nhưng đặc sắc trong thơ Bùi Giáng, thời ấy là những hình ảnh tân kỳ, trong thể thơ truyền thống :

Tay lẩy bẩy níu gì xuân bay biến
Ô thiều quang ! Làn nước cũ trôi mau
Em đi lên vói bắt mấy hương màu
Miền đất Thượng có mấy bờ hoa mọc
Xa biệt lắm Mưa Nguồn trên mái tóc
Ðã mấy lần thổi lạc lệ lưa thưa
(Giã từ Ðà Lạt,1958, Mưa Nguồn, tr. 94)

Lời thơ diễn tả niềm hoang mang trước thời gian, ý tưởng không mới, nhưng lối kết hợp ẩn dụ thì mới, so với lối thơ tám chữ trước đó.
Ở Xuân Diệu, Huy Cận niềm ám ảnh của phôi pha không gây bất ngờ như với OÂi thiều quang ! làn nước cũ trôi mau…

Trần gian phôi pha, thời gian hủy diệt, nhưng nhà thơ chấp nhận quy luật, nên đã ghì siết hai tay, Nàng Thơ đẹp của trần gian ứa lệ :

Tôi đã nguyện yêu trần gian nguyên vẹn
Hết tâm hồn và hết cả da xương
(…)
Còn ở lại một ngày còn yêu mãi
Còn một đêm còn thở dưới trăng sao
Thì cành mộng còn tung lên không ngại
Níu trời xanh tay vói kiểng chân cao

Nhưng em hỡi trần gian ôi ta biết
Sẽ rồi ra vĩnh biệt với ngươi thôi
Ta chết lặng bó tay đầu lắc
Ðài xiêu ôi xuân sắp rụng mất rồi
(Phụng Hiến, Mưa Nguồn, tr. 30)

Những bài thơ tin yêu cuộc sống, tươi sáng và thắm thiết như vậy ít khi thấy ở những tập thơ sau, mà cũng ít người nhắc đến. Âu cũng là một thiệt thòi cho ông. Chúng tôi trích dẫn một bài thơ xuân thắm tươi, có lẽ làm vào mùa xuân 1973, toàn văn :

Nắng Nguyên Ðán
Chạy đi em, nắng gió bốn chân trời
Về chân đất dưới chân em mọc cỏ
Nắng Nguyên Ðán lục lam hay hồng đỏ
Tía vi vu hồng lục cũng bao hàm
Chạy đi em ! sương gió nắng thênh thang
Trời đất đẹp từ bình minh vũ trụ
Nắng Nguyên Ðán của nguyên xuân đầy đủ
Cỏ hoa hương chồi nhú lộc miên man
Nắng xuân xanh mở cỏ mocï hai hàng
Và riêng mở duy Một Hàng Ẩn Mật
Nắng phơ phất vì sắc hương phơ phất
Dưới khung trời mặt đất mở thênh thang
Chạy đi em, gót ngọc bỏ hai hàng.
(Bài Ca Quần Ðảo, tr. 54)

Phong cách nhắc lại một bài thơ trước :

Chạy đi em, qua vườn thắm theo ngày
Cùng với phút giây này phơi mở lá
Em ngó nhé cành xanh cây giục giã
Hoa nghiêng đầu ríu rít cạnh chim kêu …
(Mưa Nguồn, tr. 96)

Nhưng nhịp thơ nhanh, âm điệu khỏe, hình ảnh rộn ràng hơn, một điệu thơ hiếm có ở Bùi Giáng, nhưng vẫn lâùy lại chủ đề nguyên xuân, và giọng lẳng lơ cố hữu, cỏ mocï hai hàng, đi đến ngôn ngữ Ẩn Mật về sau. Tóm lại, một bài thơ không Bùi Giáng mà vẫn Bùi Giáng.
Trở lại với giai đoạn Mưa Nguồn, chàng thanh niên Bùi Giáng còn giữ niềm tin ở mùa xuân, ở trần thế trong thời gian, ở Màu Xuân :Ngàn xuân rộng vô ngần trong bóng nguyệt, hay trong bài Bờ Xuân tiếp theo :
Mùa xuân bữa trước mùa xuân bữa sau, xuân bốn bên trong hiện tại vây hãm tấn công đời hạnh phúc lạnh như băng không làm sao nhúc nhích. (Mưa Nguồn, tr. 38-39)
Mùa xuân, mùa xuân hiển hiện, lung linh ánh sáng, long lanh thinh sắc. Trong niềm hoan lạc của đất trời, con người an tâm vui hưởng, vì tin ở sự tuần hoàn miên viễn, như tin vào một cánh én :

Én đầu xuân tuyết đầu đông
Rừng cô tịch ngóng nội đồng trổ hoa
(Mưa Nguồn, tr. 62)

Người ta thường nói : xuân về. Chữ veà tin tưởng an lạc như Về Cố Quận. Xuân về với gió đông, xuân mang thương nhớ trở về(Nguyễn Bính). Chữ về gây cảm giác ấm cúng, thân thiết, tin cậy :

Mùa xuân hẹn Thu về em trở lại
Ta nhìn nhau trong bóng nước mơ màng
Nước chảy mãi bởi vì xuân trở lại
Với dòng trong em hẹn ở bên đường

Ta sẽ đợi nghe đời em kể lại
Thuở xưa kia… bờ nước ấy xưa kia
Ta sẽ đợi nghe đời em nói mãi
Bên đời ai vạn đợi đã chia lìa

Mùa xuân hẹn thu về em trở lại
Bên đời đi còn giữ mãi hay không
Giòng bất tuyệt xanh ngần xuân thơ dại
Sầu hoang vu vĩnh hạ vọng non hồng.
(Mưa Nguồn, tr. 61)

Thơ là hạnh phúc của ngôn từ như trong Một Ngày Lễ Hội, tên một bài thơ Holderlin được Heidegger bình minh. Hạnh phúc trong lời nói, của lời nói, dù nói để chẳng nói gì : thuở xưa kia… bờ nước ấy xưa kia. Câu thơ không mang lại một thông tin nào cả. Xưa kia làm gì ? Bờ nước ấy : ấy nào ? Nào ai biết. Chỉ biết là không gian và thời gian hạnh phúc. Hạnh phúc không cần nội dung. Hạnh phúc không cần lý do, không cần tự thức.

Ngõ ban sơ, hạnh ngân dài, cổng xô còn vọng… Bùi Giáng mách ta thế, và có lần kể :

Xưa kia tôi đã có lần
Và bây giờ đãê đôi phần tôi quên
(Ca dao, Mưa Nguồn, tr. 143)

Nhà thơ không cho biết đã có lần làm gì, nhớ gì và quên gì, nhưng chúng ta cảm rằng xưa kia ấy là hạnh phúc, ngay trong nhịp thơ tần ngần, ngập ngừng, lơ đãng. Hồ Dzếnh rất được Bùi Giáng yêu thích, đã thật thà hơn :

Có lần tôi thấy tôi yêu
Dáng cô thôn nữ khăn điều cuối thôn
Xa rồi, nay đã lớn khôn
Biết cô hàng xóm có còn nhớ nhau ?

Chúng ta đối chiếu, sẽ thấy sự khác biệt giữa hai tác giả, và đặc sắc của thơ Bùi Giáng mà chúng tôi gọi là hạnh phúc của ngôn ngữ :

Xin yêu mãi và yêu nhau mãi mãi
Trần gian ôi ! Cánh bướm cánh chuồn chuồn

Hạnh phúc ấy là Xuân Trần Gian, ăm ắp trong thơ Bùi Giáng, thời điểm mưa nguồn trên mái tóc. Cùng với tinh thần đó, trước khi mất, ông đặt cái tên Thơ Vô Tận Vui cho một tập di cảo sắp sửa được xuất bản.
Tuy nhiên, niềm vui vô tận ở đây chỉ là một minh triết về cuộc sống. Từ đó không thể nói đời và thơ Bùi Giáng lúc nào cũng vui, dù theo lẽ buồn vui tương đối của sự đời. Vui ở đây hiểu theo nghĩa hiền triết Ðông Phương, như cá vui, bướm vui trong Nam Hoa Kinh của Trang Tử. Nhìn dưới góc đôï tư tưởng hiện sinh của Phương Tây, thì ngược lại, có thể nói đến “bi kịch“.
Từ 1948, Bùi Giáng có câu thơ sấm ký : Ngày Xuân xanh sơ ngộ để thiên thâu (Mưa Nguồn, tr. 57). Câu thơ quan trọng, mang mâu thuẫn, có tính cách biện chứng, giữa thiên thu và sơ ngộ. Một mặt, nó nằm trong mạch Vũ Trụ Ca của Huy Cận :

Lòng chim gieo sáng dệt vân sa
Trên bước đường xuân trở lại nhà
Mở sách chép rằng : vui một sáng
Nghìn năm còn mãi tấm lòng ta
(Áo Xuân, 1942)

Mặt khác, nó báo hiệu cho chủ đề « chết từ sơ ngộ », và Màu Hoa trên Ngàn sơ khai đã là Màu Hoa Cuối Cùng :

Lỡ từ lạc bước bước ra
Chết từ sơ ngộ Màu Hoa Cuối Cùng
(Chớp Biển, tr. 45)

Bùi Giáng, rất sớm, đã linh cảm rằng mình suốt đời đứng nguyên ở một tọa độ, xác định bởi một không gian Cố Quận và một thời điểm Nguyên Xuân :

Rồi tôi lớn, đi vào đời chân bước
Cỏ Mùa Xuân bị giẫm nát không hay
Chợt có lúc hai chân dừng một lượt
Người đi đâu ? Xưa chính ở chỗ này
(Chỗ Này, Mưa Nguồn, tr. 82)

Có một mùa xuân nào, tuần hoàn trong trời đất, cùng với niềm vui nào đó. Nhưng có một hạnh phúc khác, màu xuân khác không bao giờ trở lại với nhân gian :

Mưa Nguồn cũ quá xa rồi một trận
Ôi xuân xanh vĩnh biệt như thể nào
(…) Người viết mãi một màu xanh cho cỏ
Người viết hoài một màu cỏ cho xuân…
(Bài Ca Quần Ðảo, tr. 22-23)

Rồi suốt đời, khi sáng suốt, khi cuồng điên, qua hằng vạn trang sách, người thơ chỉ làm hoài làm hủy một bài thơ, vẽ cho mình một chân dung duy nhất, như viết hoài một màu cỏ cho xuân.

Xuân mười sáu suốt bến xuân chìm tắt
Một bài thơ gieo suốt tự bao giờ
(Bài Ca Quần Ðảo, tr. 11)

Năm mười sáu tuổi đã xảy ra biến cố gì trong đời tác giả làm chìm tắt mùa xuân ? Chúng ta không biết, chỉ biết là ông làm thơ từ tuổi ấy, khoảng 1942, tại Huế, theo lời ông kể ở đầu sách Lời Cố Quận.

Xuân về xuân lại xuân đi
Ði là đi biệt từ khi chưa về

Hai câu thơ đơn giản. Ngớ ngẩn mà thâm sâu. Vớ vẩn mà thần sầu.

Thâm sâu ở chỗ : lời nói tự hủy, tự lời bôi xóa lời. Câu thơ có nghĩa là : tôi vô nghĩa.
Thần sầu ở chỗ : không mấy ai thấy cái chốn thâm sâu.

Thơ Việt Nam nhiều câu hay. Nhưng hay kiểu Bùi Giáng, xưa nay có một.

*

Mưa Nguồn, tên sách là một từ ngữ, hình ảnh thông thường, như trong thành ngữ dân gian, chớp bể mưa nguồn.
Những trận mưa rừng núi là hiện tượng thiên nhiên quen thuộc, có lẽ Bùi Giáng đã nhiều lần chứng kiến cụ thể thời trai trẻ, khi chăn dê miền Trung du Trung Phước, khoảng 1946. Ðây là những trận mưa giông lớn, ào ạt đổ xuống rất nhanh, nhất là vào mùa hè, gây ấn tượng mạnh. Mưa Nguồn có thể hiểu theo nghĩa đen.
Lại thêm nghĩa bóng : mưa móc, ân sủng dội xuống nơi cội nguồn cuộc sống, ào tuôn, « giáng » xuống một lần rồi thôi, nhưng cũng có thể trở lại, trong lẽ tuần hoàn, như lời chờ mong của Tản Ðà : Nước đi ra bể lại mưa về nguồn, trong Thề Non Nước.
Cần hiểu thêm, chữ nguồn, ở quê Bùi Giáng, còn có nghĩa đời sống của dân tộc thiểu số ở miền trung du Trung Bộ, mà Bùi Giáng thường xuyên tiếp xúc. Họ thuộc nhiều chủng tộc, chủ yếu là người Gié Triêng và Ca Tu, mà cuộc đời hoang dã đã tạo ra và lưu lại nhiều ấn tượng sâu xa trong tâm thức Bùi Giáng. Cuộc trao đổi hàng hóa giữa hai miền xuôi ngược – ngày nay gọi là Kinh Thượng – đã để lại câu ca dao :

Ai về nhắn với nậu nguồn
Mít non chở xuống, cá chuồn chở lên

Nậu nguồn là những thương nhân chuyên môn buôn bán với Mạn Ngược. Và ở đây có thể phát âm hai vần ngùn/chùn theo giọng Quảng Nam của Bùi Giáng, cũng như Mưa Ngùn. Như vậy mới kết vần được hai câu ca dao địa phương khác, mà Tế Hanh hay Sơn Nam ưa tham chiếu :

Chim quyên xuống đất ăn trùn
Anh hùng lỡ vận lên ngùn (nguồn) đốt than

Thơ Bùi Giáng, có khi cần phải phát âm theo giọng tác giả, mới thú vị :

Chén trà sương sớm bên thềm
Vừa chờ chim hót vừa thèm chim (chiêm) bao.
(Chén Trà, báo Thời Văn, tr. 24)

Chim hót đối ngẫu với chim (chiêm) bao.
Chữ Nguồøn ở Bùi Giáng là một hình ảnh vừa quê mùa vừa uyên bác, tự nhiên mà tinh tế. Gốc Hán Việt là « nguyên », là nguồn cội, là nguồn sống, là Sơ Nguyên Ngọn Suối : con chim điên vì nhớ Suối vô cùng. Suối cũ Suối xanh Suối bờ mọc cỏ. Suối võ vàng em có hai tay Suối mừng nhìn thấy. Suối khóc suốt đêm bây giờ suối nín… (Gió Nguồn, Lá Hoa Cồn, tr. 75).
Suối ở đây là Nguồn Xuân Tinh Thể. Nhưng nói vậy là nói lắp, vì Xuân đã là Nguồn, và Suối đã là Xuân. Tiếng Anh rất hàm súc khi dùng một từ Spring để chỉ Xuân và Nguồn. Trong thơ Bùi Giáng, Xuân đồng nghĩa với Nguồn, như trong tiếng Anh. Nó là cõi uyên nguyên có trước Trời Ðất, là « cái cửa khe huyền diệu » – « huyền tẫn chi môn » theo lời Lão Tử. Chữ « tẫn » Ngô Tất Tố diễn dịch là khe, mà có người « cắt nghĩa là giống cái, tức là mẹ đẻ của muôn vật. Ðó cũng là một nghĩa ».[1]
Có lẽ, từ đó hình ảnh khe, kết hợp với người Nữ, thường xuất hiện nơi thơ Bùi Giáng. Chữ môn nghĩa là cửa (nhân tạo), linh mục Dòng Tên, Claude Larre dịch là Porte (des secrètes merveilles)[2] có lẽ, về sau đã gợi ý cho Bùi Giáng làm đoạn thơ nổi tiếng bắt đầu với hai chữ ngoõ và cửa :

Ngõ ban sơ, hạnh ngân dài
Cửa xô còn vọng điệu tài tử qua

Niềm vui, nghĩa sống con người đã xô cửa bước ra từ cõi ban sơ ấy, và ngân dài, âm vọng qua lời thơ của người tài tử. Nhưng về sau lại lỡ từ lạc bước bước ra… và tác gỉa, hay độc gỉa có thể tùy nghi ráp nối nhiều câu lục bát khác vào đoạn trên, như Tuệ Sĩ đã gợi ý trong một bài báo rất uyên bác, trên báo Văn 1973 :

Ta về ngóng lại mưa sa
Giọt dài ly biệt nghe ra giọng chào

Hoặc :
Em về giũ áo mù sa
Trút quần phong nhụy cho tà huy bay

Vân vân… Như đã nói : toàn bộ tác phẩm Bùi Giáng có thể xem như là một bài thơ duy nhất, một nét chữ lên đàng quẩn quanh. Và người đọc lý thú, vì cảm giác tham dự vào cuộc chơi, thậm chí là đồng tác.
Người đời thường trích dẫn mấy câu thơ hay, bề ngoài đơn giản, nhưng kỳ thật là phức tạp :

Hỏi tên ? Rằng biển xanh dâu
Hỏi quê ? Rằng mộng ban đầu đã xa
Gọi tên rằng một hai ba
Ðếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm.
(Chớp Biển, tr. 132)

Hai câu đầu là một hình ảnh từ chương. Câu sau đãê khó hiểu hơn : một, hai, ba nghĩa là gì ? Hoặc ta cho là thơ cà chớn, không cần tìm hiểu ; hoặc ta tìm hiểu và tham chiếu vào Ðạo Ðức Kinh, lời Lão Tử : « Ðạo sinh ra một, một sinh ra hai, hai sinh ra ba, ba sinh ra vạn vật » ; ý thức con người đong đưa giữa cái nghi và cái diệu : không nghi thì không có diệu, không nhờ cái diệu thì không giải tỏa được cái nghi. Ðo và Ðếm là hai thao tác của Tâm và Tưởng để tiếp xúc và nhận thức ngoại giới : đo cái liên tục và đếm cái gián đoạn. Nhưng còn laø, là gì ? Là môi giới qua Lời Nói. Nhưng Lời Nói là gì ? Chúng ta trở về vị trí đong đưa sóng biển giữa Diệu vàNghi.
Hiểu thơ Bùi Giáng không phải lúc nào cũng đơn giản. Mà không hiểu, chưa chắc đã đơn giản.
Bàn về một chữ Xuân mà phải dàn xa dặm dài, như vậy phải biết ngừng lời, vì :

Thưa rằng nói nữa là sai
Mùa xuân đang đợi bước ai đi vào
(Chào Nguyên Xuân, Mưa Nguồn, tr. 25)
*
Tháng 5/1969, Bùi Giáng vào dưỡng trí viện Biên Hòa vì bệnh đã từ « cuồng nhẹ chuyển sang cuồng nặng », các bác sĩ trong viện đã hỏi ông về hình ảnh cô Em Mọi Nhỏ thường thấy trong thơ, và họ kể lại :
« Trong thời trai trẻ, đi kháng chiến, một chiều nọ, mệt, đói, anh đang lê từ bước một với chiếc ba lô khá nặng sau lưng, thì vừa quẹo một bước đường mòn, anh chợt thấy một thiếu nữ thiểu số đang giặt áo bên bờ suối, anh vừa dừng chân thì « bông hoa rừng » nó cũng vừa ngừng tay giặt, mỉm cười với anh, và niềm nở hỏi chào anh. Anh tưởng chừng mình đang lạc vào suối Ðào Nguyên, và hình ảnh này vẫn không phai trong tâm khảm » [3].
Câu chuyện, nếu quả có xảy ra thực cũng nên xem như một giai thoại và một biểu tượng. Người Em Mọi Nhỏ xuất hiện thường xuyên trong đời thơ Bùi Giáng, suốt một nửa thế kỷ khói lửa và biển dâu, không dễ gì giải thích được bằng một nụ cười sơn cước. Cuộc đời, đời ai và đời gì, cũng không đơn giản như vậy và đời Bùi Giáng lại có phần phức tạp hơn bình thường.
Gái Núi, hay Em Mọi Nhỏ, còn có tên Duồng mô Din, là một ẩn dụ hữu cơ trong thơ Bùi Giáng, và có khả năng cấu trúc thi hứng như một hình ảnh Ðầu Nguồn, một sử lịch sơ khai, một Suối Xuân diễm tuyệt như đoạn trên đã nói.
Gái Núi là một khai thị, khai tâm, khai tứ, khai từ :

Em từ Mọi Nhỏ thanh tân
Mười hai con mắt thiên thần mở ra
(Mười Hai Con Mắt, tr. 71)

Mở mắt để tiếp thu mùa Xuân Tinh Thể

Mọi là Em, Mọi Sơ Xuân
Ban Sơ núi đỏ chào mừng non xanh
(Bài Ca Quần Ðảo, tr. 34)

Em Mọi là quần thể, lập thành xã hội sơ khai một ảo ảnh mà nhà thơ đã tiếp thị thời hoa niên, và dần dà ngày một ngày hai đã cấu trúc thành một triết lý uyên nguyên, cấu trúc nguồn thơ và tiềm năng sáng tạo :

Em ở trong rừng
Mọi chị mọi em
Sinh bình quay quần
Suốt mấy mùa xuân
Một thời thơ dại
Em là em mọi
Em ở đâu rồi
(Tặng Em Mọi, Mười Hai Con Mắt, tr. 215)

Mọi chị mọi em, vị chi là nhiều em mọi.
Kết hợp với mấy mùa xuân, thời thơ dại, hình ảnh Em Mọi ở đây, cũng như ba người con gái chiêm bao ở bờ cỏ Phi Châu ở nơi khác, không phải là hoang tưởng tình ái nam nữ song phương, kiểu Kinh Thượng giao duyên, như trong những bài hát Bông Hoa Rừng, hayNụ Cười Sơn Cước.
Thậm chí trong thơ Ðinh Hùng :

Nàng lớn lên giữa mùa xuân hoa cỏ
Nửa linh hồn u ám bóng non xanh
Ngoài thiên nhiên nở bừng thân mỹ nữ
Nàng yêu ta, huyền hoặc mối kỳ tình
(…)
Chúng tôi gặp nhau bên dòng suối ngọt
Làm đôi người cô độc thuở sơ khai
Nàng bâng khuâng đốt lửa những đêm dài
Ta từng buổi bơ vơ tìm bộ lạc
Nàng là Gái Muôn Ðời không đổi khác
Bộ ngực tròn nuôi dòng sống đương xuân
(Người Gái Thiên Nhiên, trong Mê Hồn Ca)

Người Gái Thiên Nhiên ở Ðinh Hùng là một giấc mơ hiện đại, với bộ ngực tròn trên tấm thân mỹ nưõ, như trong những tiết mục trình diễn thi hoa hậu ở Âu Tây.
Nàng bâng khuâng đốt lửa những đêm dài là hoang tưởng lãng mạn từ Chateaubriand hồi đầu thế kỷ 19 còn ngân dài qua văn học, đến Ðinh Hùng và nhiều tác gia khác.
Nhưng Bùi Giáng đã gặp thơ Ðinh Hùng, và thân thiết với cá nhân Ðinh Hùng. Bùi Giáng viết nhiều bài khảo luận về các nhà thơ đương thời và quen biết với mình, nhưng dường như chỉ tha thiết với thi phẩm của hai người, là Tuệ Sĩ và Ðinh Hùng :
« Ðinh Hùng Mê Hồn Ca muốn nhảy vọt một trận. Ông muốn sống lại tâm tình người nguyên thủy. Ông muốn mang linh hồn nguyên thủy về đối diện với xã hội văn minh… » (Thi Ca Tư Tưởng, tr. 132).

Tuy nhiên giữa cuộc gặp gỡ đó, có điều khác nhau : Nguyên Thủy trong thơ Ðinh Hùng chỉ làm đề tài thi ca, cùng lắm là một ẩn ước. Ở Bùi Giáng là khối ẩn ức, hiểu theo nghĩa đẹp mà Bùi Giáng gọi là Mnemosyne, niềm nhớ nhung sâu kín, nỗi u hoài thao thiết, nguồn thi hứng chủ đạo.
Ðinh Hùng đã có những câu thơ tình diễm lệ :

Thương nhau gói trọn hồn trong áo
Mất nhau từ trong tà lụa bay
(Hờn Giận, Ðường vào Tình Sử)

Những nét diễm tình này, không thấy ở Bùi Giáng, cho dù về sau, Bùi Giáng cũng có vài lời thơ mang âm hao Ðinh Hùng :

Em ở trong rừng một buổi xưa
Ngẫu nhiên tao ngộ gió sang mùa
Hai bờ lãnh địa đau lòng gọi
Sầu suốt giang sơn vọng tiếng thừa

Em ở trong rừng em cũng đi
Xuân tàn lửa hạ đốt trang ghi
Rừng thiêng sự tích mờ vân thạch
Vĩnh biệt lâm tuyền em bỏ đi

Mất hết rừng xanh suối ngọc rồi
Em từng là mọi mộng khơi vơi
Rừng xanh nắng biếc em cười nói
Một thoáng bình sinh giữa bốn trời
(Em Mọi là Em, Chớp Biển, tr. 84-85)

Rừng xanh, rừng thiêng, lâm tuyền ở đây không hẹn hò kỳ ngộ như ở Ðinh Hùng, mà là nỗi tổn thương không cứu vãn.

Một trần gian lạc dấu Mùa Xuân :
Còn ngọn suối ngọn sông nào mất ngọn

ĐẶNG TIẾN

7 thoughts on “BÙI GIÁNG NGUỒN XUÂN

  1. đồ dỏm nói:

    dõm cảm ơn TNTD,dịch giả mắc dịch Lưu Thy và Lão Tạ.

  2. Bùi Giáng Tiên Sinh Thi Sĩ ĐIÊN?!Điên chữ uyên thâm vi diệu huyền..?Đau lòng tím ruột điên ẩn hiện…Nhớ nhớ quên quên điên triền miên…Bùi Giáng Tiên Sinh giấc sầu miên…Giữa ngày hồn mộng giữa giao duyên..Hai miền quá khứ và hiện tiền..Bay bổng vật vờ Bùi Giáng điên?Điên mãi nên nguồn xuân bất biến?Hồn điên tâm tỉnh thể nghiêng nghiêng…Xuân vẫn mãi xuân còn tim tím.Đỏ sắc tình điên hiền thật hiền…Bùi Giáng điên….

  3. ton nu thu dung nói:

    Tui chom bai nay tang ban Do Dom cua tui.
    ( them dau ‘ -? …gium Dung di BBT, lam on)

  4. Tui tặng riêng bài này cho Trần Bá Nghĩa.

Comment