THƯ GỬI BA

TRƯƠNG THỊ KIM CHI

1 giờ sáng, lạnh

con dế gục đầu vào khe cửa

khản giọng kêu bababababa…

3 giờ sáng, lạnh

gió lạc giọng thổi ngoài hiên babababa…

bỗng rụng cành cây khô bên thềm nhà

5 giờ sáng, lạnh

ly trà nóng, nghẹn

rưng rưng mắt con nhòa bóng ba…

***

Nebraska khoảng 1giờ sáng ngày 12 tháng 9 năm 2022.

Con đường hiu hắt ánh đèn vàng.

Con đường hun hút vắng im.

Chỉ có trăng đi cùng má và các con gái.

Út lái xe, tìm đường đến phi trường Kansas để bay về California.

Các con gái vừa nhận tin ba vừa đi xa.

Bàng hoàng! Thảng thốt!

Con đường khuya và ánh đèn hiu hắt vàng và hun hút vắng và lặng im lặng im.

Chỉ có trăng đi cùng má và các con gái.

Các con gái lặng im cố nén chặt mọi cảm xúc. Nén chặt đến độ đông cứng. Không chịu tin đó là sự thật.

Trăng mười sáu lặng im giữa bầu trời mờ sương se lạnh, mải miết đồng hành cùng chiếc xe đơn độc trên nẻo đường dài thăm thẳm hun hút vắng.

Chỉ có trăng đi cùng- vẫn đi cùng chiếc xe chở nặng đớn đau yêu thương.

Ba ơi, qua khung cửa bên phải xe, con nhìn thấy ánh mắt nụ cười hiền hậu bao dung của ba in vào vầng trăng.

Lần đầu tiên trong đời con hiểu thế nào là yêu thương đến đau đớn, ba ơi!

Má và các con gái tiếp tục vững vàng hướng về Cali với niềm tin tuyệt đối, niềm tin mãnh liệt: Chúa đang ngự vào chiếc xe, gìn giữ tay lái của Út, vây phủ phước hạnh quanh xe, bảo bọc che chở cho mọi người về tới nơi bình an.

***

Ba ơi! Khi nghĩ về ba, chúng con luôn cảm nhận được niềm hạnh phúc “yêu thương và được yêu thương.”

Ba ơi, chúng con cảm ơn ba đã cho chúng con niềm hạnh phúc đó. Và hạnh phúc càng trọn vẹn hơn- khi ba là niềm tự hào của chúng con, là Tấm Chắn vững chãi cho mỗi chúng con. Tấm Chắn đó được nung đúc bằng chất liệu yêu thương, nhân từ, độ lượng, tin cậy. Tấm Chắn đó vững chãi đến độ, dù chúng con đứa đã có con có cháu, vẫn cảm thấy bé bỏng khi chạy về ôm lưng ba, dụi đầu vào đó mà hít thở hương thơm tình phụ tử.

Ba ơi, nghĩ về ba, chúng con nhớ những câu chuyện ba thường kể bằng giọng Quảng Ngãi mặn mà chân chất. Mỗi câu chuyện là một bài học làm người. Bài học lớn nhất mà ba đã dạy chúng con là bài học Yêu Thương, bằng chính cuộc đời ba: Thời loạn lạc, ngôi nhà ba má ở thị xã, luôn mở rộng cửa cưu mang nhiều bà con ở vùng xôi đậu lên ăn tối, ngủ nhờ. Với chức vụ và công việc của ba, ba đã cứu sống được bao người dân vô tội. Và còn nhiều việc nữa không thể kể hết.

Rồi cơn lốc xoáy của lịch sử đã tung hê tất cả… Gia đình mình tan đàn xẻ nghé. Bầy con của ba, đứa nhỏ nhất chỉ vài tháng tuổi, dại khờ ngơ ngác, bơ vơ côi cút giữa bão tố cuộc đời. Đứa về quê nội, đứa theo má đến miền đất sình lầy. Đời bầm dập nhưng chúng con vẫn luôn giữ gìn nếp nhà yêu thương, hiếu thuận, đùm bọc lẫn nhau.

Còn ba, chốn lao tù khổ sai nơi rừng thiêng nước độc, đói lạnh bệnh tật, cận kề bên cái chết, vẫn đêm đêm cặm cụi khắc tên cả gia đình trên chiếc lược bằng vỏ đạn. Bầy con đông nên chiếc lược khá dài, dài theo niềm thương nỗi nhớ. Miếng vỏ đạn thì lạnh cứng mà nét chữ của ba lại ấm áp mềm mại, bởi ba đã gửi gắm vào từng nét chữ bằng cả trái tim yêu thương mong nhớ. Có lần má đi thăm nuôi ba, dẫn theo đứa con nhỏ, đứa nhỏ đó giờ đã 50 tuổi, vừa kể lại rằng ba cứ ôm chặt nó vừa hôn vừa nói “nhớ con quá… nhớ con quá…”

Rồi ba ra tù trong bộ quần áo màu nâu đất, xộc xệch rách rưới, chân yếu mắt mờ, vàng vọt tiều tụy, suy sụp, kiệt quệ… Nhưng không lâu sau, ba lại vững vàng, sáng suốt, vẫn là cây cổ thụ che chắn, định hướng tương lai con cái. Lần lượt ba đem các em ở quảng Ngãi vào Cần Thơ để đoàn tụ, học hành.

Sau đó, may mắn đã đến với gia đình mình như nhiều gia đình HO khác, ba đã dắt má cùng chúng con đến xứ sở nầy, để chúng con được sống cuộc đời tự do, được hít thở bầu không khí trong lành.

Ba ơi, mảnh vườn nho nhỏ sau nhà được nhiều rau trái tươi ngon, là những món quà yêu thương mà chúng con được nhận vào mỗi cuối tuần khi về thăm ba má. Hổm rày chúng con ăn rau muống, thanh long, chúng con uống nước lựu ép. Từng cọng rau xanh mượt, từng trái thanh long ngọt lành, từng hạt lựu đỏ thắm, từng nhánh hoa thơm…Tất cả, tất cả…đều có bóng dáng ba cạnh má lom khom chăm sóc gieo trồng, vun xới tưới tẩm.

Ba ơi! Từ bữa ba vắng nhà, chúng con luôn xúm xít cạnh má. Cùng kể lại những kỷ niệm về ba. Có đứa kể, lần nọ ba tới nhà em, ba ho, em rót nước mời ba uống. Ba cạn chén, em lại rót tiếp… Cứ vậy… nhiều lần… Tối, ba tủm tỉm cười: “Chưa bao giờ ba được uống nước nhiều như bữa nay!” Em hỏi: “Sao ba hổng biểu con đừng rót nữa?” “Bây lo cho ba, sao ba lại không uống!” Kể xong, em chặm nước mắt: “Ba mình hiền quá! Thương ba quá!” Rồi chuyện đứa này bịnh, đứa kia bị tai nạn… là ba gọi thông báo ngay để chúng con cùng chăm sóc nhau! Bao nhiêu kỷ niệm, mà qua đó, chúng con mới nhận ra rằng ba luôn để mắt quan tâm từng đứa, còn chúng con thì nhiều lúc vô tình với ba. Ba ơi, chúng con xin lỗi ba.

Vắng ba, nhà trống trải quá, đến nỗi đứa chắt mới 6 tuổi của ba má, vừa bước vô nhà, liền hỏi “Ông cố đâu rồi”. Lúc về nó lại hỏi với vẻ mặt ngơ ngác buồn: “Ông cố đâu rồi?” Làm sao tránh khỏi nỗi buồn đau quặn thắt nhức nhối khi vắng ba, ba ơi!

Mấy năm gần đây, dù tuổi già sức yếu, ba vẫn chăm chỉ đi nhà thờ, học lời Chúa, rất sốt sắng trong nhiều sinh hoạt của nhà thờ. Nhìn ba đứng cạnh má trong ban hát, nhìn ba đọc kinh thánh, chúng con vui mừng lắm. Má con hàng đêm vẫn thích nghe và hát Thánh ca. Bài nào má con thích, ba hăm hở in ra cho má hát. Vậy đó, ba luôn dạy chúng con bằng chính việc làm của ba: Bài học về đức tin, về tình nghĩa vợ chồng.

Ba ơi! Ba xa lìa nơi nầy đột ngột quá khiến cả nhà thảng thốt, bàng hoàng, đau nhói, trống vắng, hụt hẫng… Cứ ngỡ chỉ là giấc mộng! Phải, chỉ là giấc mộng thôi mà ba ơi ba ơi…

Nhưng… những lúc tỉnh táo, chúng con nhận ra: sự đột ngột đó lại chính là ước nguyện của ba, vì trước phút chia tay, thân thể ba không hề phải chịu đựng đau đớn. Ba từ giã miền đất tạm nầy thật bình an nhẹ nhàng để trở về chốn phước hạnh đời đời.

Và chúng con cũng nhận ra rằng: Việc ba đột ngột rời bỏ cõi tạm lại chính là lời nhắc nhở chúng con: Hãy sống tốt hơn nữa để khi nhắm mắt xuôi tay, lòng được vui thỏa. Hãy sống bao dung độ lượng nhiều hơn nữa. Hãy sống yêu thương nhiều hơn nữa, bởi vì, chỉ trong tích tắc- Phải, chỉ trong tích tắc thôi, người ta có thể bất ngờ vĩnh viễn xa lìa người thương yêu của mình.

Vậy đó! Cho đến giây phút cuối cùng, cuộc đời ba vẫn là bài học cho chúng con: Bài học làm người, bài học yêu thương.

Ba đã sống vuông tròn cả đạo lẫn đời. Chúng con tin chắc rằng giờ nầy ba đang thảnh thơi thỏa nguyện nơi miền vĩnh phúc.

***

Ba ơi! Bình tâm lại, con nhận ra Trời ( God), vẫn được người Việt gọi là Chúa, đã luôn ở cùng ba trọn lối đi trên cõi tạm và trọn lối về chốn phước hạnh vĩnh hằng.

 Ngày nào ba trong quân ngũ, rồi những năm tháng bị tù đày… Trời đã luôn bảo bọc che chở ba vượt qua tất cả gian lao khó nhọc, hiểm nguy.

Rồi khi con cháu đã được sống cuộc đời tự do, mọi sự đã tốt lành, thì sức ba đã yếu nên Ngài đã nhậm lời cầu xin của ba: Ba không muốn sống với những ốm đau thể xác của tuổi già, không muốn sống đời thực vật.

Nên đúng vào ngày Chúa Nhật, ngày Thánh, ngày của sự Phục Sinh, ngày của Yêu Thương, ngày nghỉ ngơi. Hôm đó cũng nhằm vào ngày Yêu Nước (9/11), ngày Lễ Ông Bà (9/11/2022), Chúa đã chọn ngày đặc biệt đó để dắt ba trở về ngôi nhà vĩnh phúc.

Thế là ba đã hoàn tất cuộc hành trình đời người, đã về đến đích cách hiển vinh, đầy tràn ân điển.

Nhưng dù sao con vẫn ôm nỗi nhớ thương ba.

Hổm rày con cứ mở voicemail để nghe những lời ba nhắn lại mỗi khi con không bắt máy. Giọng ba vui vẻ ấm áp làm sao. Nghe mà thương quá chừng thương. Nghe mà nhớ quá chừng nhớ ba ơi…

TRƯƠNG THỊ KIM CHI

Trầm Hương Phố Lạ

Hai cây cột đèn bên kia đường mỗi cây ném cho hắn một chiếc bóng. Một nghiêng về bên phải, một ngả sang bên trái nhưng cùng một đôi chân, như thể từ đôi chân ấy mọc ra hai hình hài riêng biệt. Hắn liếc nhìn ông anh vợ đi bên cạnh. Bóng anh ta cũng chẻ thành đôi. Những đôi chân dán cứng xuống đất khi hai người ngập ngừng bước lên bậc thềm, lọt vào khung một cửa tiệm đỏ thẫm ánh đèn.

Mùi thơm phảng phất của nước hoa, của trái cây chín tới lùa vào mũi hắn.

Ánh đèn đỏ lè bên trong. Hắn phải nheo mắt lại để nhìn cho rõ. Ngay bên lối vào là một cái quầy phủ lớp vải ren mỏng. Một đĩa trái cây nằm trên mặt quầy. Hắn liếc vội mấy trái táo tròn bóng lưỡng chen chúc với chùm nho chín mọng, rồi hồi hộp nhìn qua người đàn bà đứng tuổi ngồi phía sau quầy.

Cặp lông mày tô đặm nhướng lên, vòng môi người đàn bà cong lại, “Massage?”

Hắn vội vã gật đầu. Bởi chần chừ, người đàn bà sẽ hỏi han lôi thôi bằng thứ tiếng Anh lai giọng, hắn sẽ phải vất vả tìm câu trả lời. Hơn nữa đây là tiệm massage. Bảng hiệu ba thứ tiếng gắn ngoài cửa ghi rõ ràng như thế.

Người đàn bà nói giá tiền. Hai gã thanh niên loay hoay đếm từng đồng bạc. Hắn đã chuẩn bị sẵn. Những đứa có dịp trốn trại ra thành phố chơi, đem về vô số thông tin. Tiệm nào, ở đâu, giá cả bao nhiêu, đi ta-xi hết bao nhiêu. Có đứa còn cả quyết tiệm này hình như có một em người Việt. Người đàn bà tỉ mỉ vuốt cho thẳng và thong thả đếm những đồng tiền giấy. Hắn cẩn thận nhét tờ hai chục – tờ giấy bạc duy nhất – còn lại sâu vào túi quần. Mất là lát nữa không có tiền trả ta-xi về trại.

Người đàn bà chỉ những chiếc ghế kê cạnh nhau ở sát vách ba bức tường, “Ngồi đi.” Hai đứa nhanh chân ngồi thụp xuống chiếc ghế nệm dài. Mỗi đứa một đầu. Cả hai quả tim cùng lao xao trong hai lồng ngực. Người đàn bà ngoái cổ ra phía sau réo một tràng tiếng Mã Lai. Vài giây sau, ba cô gái vén tấm màn ren thưa như vải mùng bước ra nhìn hai đứa hắn.

“Pick one.” Người đàn bà nói lớn. Hắn hiểu. Gã anh vợ của hắn cũng hiểu và nhanh tay chỉ cô gái da đen to con gấp đôi anh ta. Hắn nhếch mép cười và rụt rè chỉ ngón tay vào cô gái có dáng người nhỏ nhắn nhất: cô gái Á Châu. Thông tin rỉ tai quả là chính xác, nhìn cô gái này biết ngay là người Việt. Nhưng người Việt sao lại lạc qua tận nơi này. Chút băn khoăn dấy lên trong lòng hắn.

Cô gái thứ ba – một cô Ấn Độ có đôi mắt to, bộ ngực bề thế và chếc váy cũn cỡn trên đùi – nhún vai, xoay lưng, vén tấm màn ren ngúng nguẩy bước vào phía trong. Hắn chợt áy náy. Hắn không muốn làm ai thất vọng. Trong đời hắn đã thất vọng nhiều rồi. Hắn cảm được nỗi ê chề của cô gái không được chọn. Nhưng biết làm sao bây giờ.

Cô gái da đen nắm tay anh vợ hắn lôi đi. Cô gái Á Châu nhìn hắn, cười, rồi ngoắc tay. Hương trầm thoang thoảng không gian. Hắn ngoan ngoãn bước theo cái dáng mỏng manh ấy, thầm tiếc sao cô không nắm cổ tay hắn mà kéo đi, như cô gái da đen làm với anh vợ hắn.

“Con ấy nhỏ xíu, đấm bóp yếu xìu, sao không lấy con nhỏ Ấn Độ?” Anh vợ hắn đã bị kéo đi còn ráng nghểnh cổ lại, nói tiếng Việt với hắn. Hắn vội xua tay, bởi hắn sợ lỡ cô gái của hắn nghe được tiếng Việt thì kỳ lắm.

Anh vợ hắn toét miệng cười. Dưới ánh đèn đỏ lè, mờ ảo, cái bóng nhỏ bé của gã Việt Nam chìm vào cái khung đồ sộ của cô gái da đen. Cả hai biến đi sau một khung cửa. Cô gái của hắn thoăn thoắt bước, buông lại phía sau mùi hương lạ lẫm. Hắn nhanh chân bước theo. Hai cánh mũi phập phồng. Lồng ngực căng cố nén cho đầy, cho sâu cái mùi dịu dàng hương phấn lẫn chút trầm hương thanh thoát. Lâu lắm không hít hà được mùi hương của đời sống. Phải như hắn có thể đổ đầy cái mùi gợi cảm ấy vào một chiếc hộp, đậy nắp kỹ, đem về cái góc lụp sụp trong căn lều ở trại tị nạn, lâu lâu mở ra hít hà thì hạnh phúc biết chừng nào.

Đang thoăn thoắt bước, cô gái đứng sựng lại, quay người đẩy một cánh cửa bên lối đi. Hắn dán mắt vào tấm bảng nhỏ gài trên khung cửa. Ba con số nằm cạnh nhau. 007. Vậy là hắn vào phòng số bảy. Hắn quên nhìn xem ban nãy anh vợ hắn bị kéo vào phòng số mấy. Và hắn ngạc nhiên về cách ghi số phòng của tiệm này. Như thể họ có hàng trăm căn phòng nên phải ghi tới ba con số để khỏi nhầm lẫn. Cô gái khép cửa, vói tay bật công tác điện. Ánh sáng màu xanh tràn ngập căn phòng. Vừa mới quen với chất màu đỏ thẫm của ngọn đèn hành lang và phòng khách, hắn phải chớp mắt mấy lần mới quen được với ánh đèn xanh dịu dàng, màu của bầu trời mùa hạ ngập nắng và vũng biển biếc xanh. Máy lạnh ở góc phòng phả ra cái hơi mát dịu dàng.

Cô gái cởi áo khoác, treo lên cái móc trên tường. Rồi cô xoay lại, nhoẻn miệng cười, chỉ vào người hắn. Hắn lúng túng loay hoay mấy cúc áo. You need help? Cô hỏi, giọng trong. Hắn xua tay, it’s okay. Cô cởi luôn áo ngực, treo lên tường. Thân hình mỏng mảnh chỉ còn chiếc quần lót vừa một lòng bàn tay. Hắn hồi hộp liếc trộm đôi vú vun đầy. Dưới ánh đèn biếc xanh, vệt bớt son trên vòm cong ngực trái cô gái tím ngắt, như vết bầm. Và hắn chóng mặt. Ánh đèn xanh mướt biến thân thể cô thành loài thủy quái dưới thủy cung.

Cô lấy trong túi xách một cái kẹp tóc, gom mái tóc và kẹp lại sau lưng. Hắn đứng ngẩn nhìn và thầm tiếc. Phải chi cô cứ để tóc xõa nhìn sẽ thơ mộng hoặc có chút gì đó liêu trai hơn.

Cô chỉ chiếc giường nhỏ có tấm nệm mỏng và khăn trải biếc xanh ánh đèn, gật đầu nhìn hắn. Hắn ngoan ngoãn trèo lên và nằm sấp trên lớp vải mát rượi. Cô leo lên giường theo hắn, hai đầu gối hằn trũng mặt nệm.

“Anh ở đâu?” cô hỏi bằng tiếng Anh, hai bàn tay xoa nhẹ trên lưng hắn.

Hắn nghiêng đầu trên mặt chiếc gối tẩm nước hoa để trả lời, “Kuala Lumpur.”

Hai bàn tay cô sựng lại, “Đây là Kuala Lumpur mà.”

“À, trong trại tị nạn.”

Những ngón tay lại xoa đều trên lưng hắn, “Làm gì trong đó?”

Hắn bảo hắn chẳng làm gì cả. Ngày ngày học Anh Văn và chờ được phỏng vấn. Những ngón tay người con gái lại nằm yên trên lưng hắn. Hắn vội tiếp, “Tôi là dân tị nạn.” Và để cô khỏi hiểu lầm, hắn nói thêm, “Tôi là người Việt Nam.”

“À!” Cô gái thở phào. “Thì ra vậy.”

Cô vừa xoa bóp lưng hắn vừa hỏi ở trại tị nạn được ăn những gì. Hắn kể về những con cá rán cháy. Những miếng thịt gà nướng khô. Và những thố cơm nồng mùi khét. Cô chép miệng. Cô hỏi hắn hết ở trại tị nạn thì đi đâu. Hắn bảo cũng không biết nữa. Tính xin đi Mỹ mà chẳng biết có được nhận không.

Nắn bóp từ cổ sang bả vai, xuống lưng hắn xong, cô chống hai tay hai bên người hắn, và đắp thân thể cô lên người hắn. Dùng đôi vú mềm xoa đều lưng hắn.

“Trại tị nạn tên gì?” Cô hỏi. Hơi thở nóng ran trên gáy hắn. Da thịt mùi trầm gây gây. Hắn nói cho cô nghe cái tên trại bằng giọng hụt hơi. “À,” cô reo lên khe khẽ. “Tôi biết rồi. Ngày nào tôi cũng đi qua chỗ ấy. Thấy người ta đứng bám tay vào hàng rào, nhìn ra ngoài.”

Cô làm hắn nhớ những buổi chiều đứng ở hàng rào bên hông trại, nhìn ra Kuala Lumpur, đứng hoài cho đến khi đêm xuống, mơ tưởng cái ngày khăn gói rời trại, đi định cư ở một quê hương khác. Đêm xuống, một vừng ánh sáng bao phủ những cao ốc nhấp nhô trong cái nền đen của bầu trời nhiệt đới lấp lánh những vì sao. Có những đêm trăng tỏ, hắn say trăng. Nhìn hoài, bởi trăng rất quen, như trăng ở quê nhà.

“Nhìn họ, thấy tội nghiệp,” cô chợt nói.

“Có tôi trong đám ấy đó.”

Hắn nghe tiếng thở dài của cô gái, cảm động hay mỏi mệt sau một ngày dài làm việc hắn cũng không rõ, nhưng hắn cố tin cô thở dài vì cảm động.

“Tôi cũng người Việt Nam,” cô chợt nói.

Hắn ngóc đầu dậy như con kỳ đà thấy mồi.

“Hồi nhỏ tôi ở Việt Nam,” cô nói nhỏ. “Trong Chợ Lớn.” Cô phát âm hai chữ Chợ Lớn nghe tức cười nhưng hắn không buồn cười. “Mẹ tôi gửi tôi cho dì nuôi tôi hồi ba tuổi.”

“Tại sao?”

“Bên Việt Nam đánh nhau hoài… với lại cha tôi không thích…”

“Sao cha cô lại không thích?”

“Tôi không phải con ông ấy.”

“Thế bây giờ cha mẹ cô…”

“Mất liên lạc.”

Hắn nhớ như in thời kỳ chiến dịch bài Hoa trong nước lên cao độ khi có chiến tranh biên giới phía Bắc. Giọng cô rì rầm, “Sau 75, mất liên lạc. Nhưng nếu ông bà trốn ra nước ngoài được, chắc chắn họ sẽ liên lạc với dì tôi. Chỉ sợ…” Cô ngưng ngang câu nói và bảo hắn lật người nằm ngửa cho cô nắn bóp bả vai và hai cánh tay.

Hắn hiểu cái nỗi “chỉ sợ” của cô gái. Và hắn trấn an cô, “Chắc không sao. Người Hoa được cho phép đi, chỉ cần có tiền.” Hắn nghĩ cha mẹ của cô gái này trong Chợ Lớn hẳn phải có đủ khả năng đóng ghe, mua bãi. “Không chừng họ đang ở cùng trại với tôi…” Hắn nói.

Cô gái tròn con mắt. Ánh đèn xanh làm đôi mắt ấy long lanh, và hắn đọc được trong đó niềm hy vọng. Từ bao lâu nay, con người – ở bất cứ nơi đâu – đều bám lấy hy vọng mà sống.

“Cha cô tên gì?” hắn hỏi.

Cô đọc cho hắn một cái tên, nhưng cô phát âm bằng tiếng Quảng Đông, nghe lạ lẫm. Hắn cố lẩm nhẩm cái tên ấy.

“Khi về trại tôi sẽ để ý tìm,” hắn nói.

Hắn nghe tiếng thở dài của cô gái. Giọng cô bỗng đượm nỗi buồn, “Lúc trước dì tôi cứ nói sẽ đưa tôi qua thăm mẹ tôi, nhưng chần chừ mãi. Bây giờ thì hết thăm được rồi.”

Not anymore. Âm thanh hụt hẫng. Nghe như một lời than của đám đông hàng chục, hàng trăm, hàng ngàn, hàng triệu người thở ra cùng một lúc. Chẳng còn nữa đâu, chẳng còn gì nữa đâu.

Hắn hình dung đến những người Việt gốc Hoa trong trại. Và hắn chợt nhận ra cái hay của họ là ở đâu cũng xoay sở để nắm được những chức vụ then chốt. Trong trại tị nạn nơi hắn tạm trú. Ban Ẩm Thực, Ban Thư Tín, Ban Y Tế, Ban Nhân Lực, Ban Vệ Sinh… nghĩa là những ban có đặc quyền hoặc có những thứ “ăn” được đều do người Hoa làm trưởng ban. Câu réo gọi của nhân viên ban ẩm thực bằng tiếng Quảng Đông khi nhận thẻ từ tay người xếp hàng lãnh cơm còn vang trong đầu hắn. Dất co. Dì co. Sám co. Một người. Hai người. Ba người. Tất cả bằng tiếng Quảng, để nhân viên cho một, hai, hay ba con cá. Cha mẹ của cô gái này biết đâu là một trong những nhân viên ấy.

“Mẹ tôi thương tôi lắm,” cô gái nói, tay vẫn không ngừng nắn bóp hai vai hắn. Hắn nghĩ thương mà lại đem con cho người khác nuôi. Như đọc được ý nghĩ hắn, cô nói, “Ở lại bị pháo kích chết á.”

Rồi cô hỏi hắn có vợ con chưa. Hắn thật thà kể chuyện đi vượt biên, xuống ghe hoảng hốt sao đó, vợ hắn bị lọt lại. Hắn đi thoát. Và hắn thở dài. Hắn nhớ vợ và đứa con còn ẵm trên tay, nhưng phút giây này hình ảnh vợ nhòe nhoẹt như bức tranh màu nước chưa kịp khô, ai đó sơ ý đánh rơi vào vũng nước. Và mùi trầm thoang thoảng từ thân thể cô gái làm lòng hắn lâng lâng.

“Anh nhớ vợ anh không?” Cô gái chợt hỏi. Câu hỏi như nhát cuốc đào trúng mạch nước ngầm, hắn ngậm ngùi, “Nhớ chứ. Hồi còn ở đảo Bidong, nhiều đêm không ngủ được, tôi ra bờ biển, nhìn hoài về phía Việt Nam. Bị phạt mấy lần vẫn không chừa.”

“Sao lại bị phạt?” Cô hỏi.

“Giới nghiêm. Sau chín giờ không được ra ngoài.”

“Bây giờ hết nhớ chưa?”

“Còn chứ, nhưng trại tị nạn ở Kuala Lumpur không có biển, nên chẳng biết nhìn về đâu.”

Những ngón tay thuôn vuốt lên má hắn, “Anh thèm lắm phải không?”

Câu hỏi xoáy vào thịt da hắn như trăm ngàn mũi kim châm cứu đâm sâu vào huyệt đạo khát khao. Hắn nuốt nước bọt.

“Anh muốn không?” Cô thì thầm.

Tim hắn ngưng đập. Hắn chưa biết trả lời sao thì có tiếng gõ cửa. Và giọng phụ nữ gắt gỏng vọng vào, “Phone.”

Cô gái ngưng vội hai bàn tay. Bước qua người hắn, xuống đất, vói tay lấy chiếc áo choàng khoác lên người. “Anh chờ chút xíu,” cô nói rồi thoăn thoắt bước ra ngoài. Giọng người đàn bà gắt gỏng bên ngoài, hắn nghe tiếng được tiếng không, và hắn đoán là cô gái đang bị mắng vì để ai đó gọi cô trong giờ làm việc. Hắn ngểnh cổ nhìn theo. Ánh đèn xanh trong phòng hắt ra, trộn lẫn với ánh đèn đỏ ngoài hành lang, tô thân hình cô gái một màu nâu sẫm như màu gạch cũ.

Một lát cô trở lại, mang theo một không gian đằm thắm hương trầm. “Dì tôi gọi.” Cô vừa nói vừa thở phì phò.

Hắn “Vậy à?” rồi lặng thinh. Hắn không biết nên hỏi tiếp câu gì cho phù hợp. Nói chuyện với phụ nữ đã khó mà còn không được nói bằng tiếng nước mình thì khó gấp trăm lần. Nhưng vừa leo lên chiếc giường bé và chật nơi hắn đang nằm tay chân duỗi dài, cô đã tiếp, “Dì tôi không đến đón được.”

Hắn lại “Vậy à?” và vẫn lặng thinh. Hắn chờ cô hỏi lại cái câu ban nãy, bởi cả người hắn đang bừng bừng cơn sốt.

Cô bảo hắn nằm sấp trở lại và nắn bóp hai bả vai hắn. Hắn nằm ngoan thưởng thức cái mềm mại, ấm áp của những ngón tay thon. Rồi hắn bỗng nghĩ ra được câu để hỏi, “Vậy làm sao lát nữa cô về nhà được?”

“Tôi phải đi bộ ra bến xe.”

Hắn “Vậy à?” rồi lặng im suy nghĩ. “Sao không đi ta-xi?” Hắn hỏi, bởi hồi chiều hắn và ông anh vợ cũng đi ta-xi ra đây. Có hơi đắt chút xíu nhưng bảo đảm đến đúng nơi, đúng chỗ mình muốn. “Sao không đi ta-xi?” Hắn lặp lại câu hỏi.

“Đi ta-xi thì còn được bao nhiêu tiền để đi chợ mua đồ ăn,” cô nói.

Trán hắn cau lại, mặt hắn nhăn nhúm. Hắn cố hình dung những đồng tiền Mã Lai, những đồng Ringit. Thân nhân ở nước ngoài gửi chi phiếu qua trại, đổi sang tiền Mã Lai có hình ông vua Abdul Rahman, trên đầu quấn thứ vương miện có hình dáng lạ kỳ. Tất cả tiền giấy đều có hình ông ấy ở một mặt. Chỉ mặt sau tiền giấy thì có những hình ảnh khác nhau. Mỗi đồng có một màu riêng biệt. 5 đồng xanh lá mạ, 10 đồng màu đỏ gạch, 20 đồng màu cam, 50 đồng màu xanh da trời, 100 đồng màu tím. Và những đồng tiền cắc có kích thước khác nhau. Từ lúc đến Mã Lai, hắn đã cố nhớ mặt những đồng tiền giấy và tiền cắc của xứ này. Trong túi hắn chỉ còn mỗi một tờ màu cam đủ để trả tiền ta-xi về trại tị nạn. Mấy tháng trời ăn nhờ ở đậu trên cái đất Mã Lai này hắn chưa từng thấy tờ giấy bạc màu tím nào.

Cô nhún vai, “Không sao, chỉ là từ đây ra bến xe hơi xa, qua mấy khúc đường vắng, tôi sợ, vậy thôi.”

Hắn buột miệng, “Tôi sẽ đi với cô ra bến xe.” Nói rồi hắn chợt nhớ mình đi chung với ông anh vợ, chẳng biết anh ta có chịu đi cùng với hắn đưa cô gái ra bến xe không. Nhưng lỡ nói rồi, hơn nữa, đưa cô gái lẻ loi, dù xa lạ, một quãng đường có mất mát gì đâu. Cứ coi như đi dạo Kuala Lumpur. Thăm những con phố lạ về đêm.

Cô gái chợt nằm hẳn lên người hắn. Sức nặng thân thể và hơi ấm da thịt cô làm tim hắn rối nhịp. Rồi cô ngồi lên bên cạnh hắn, luồn tay vào sợi dây thun chiếc quần đùi của hắn, tuột xuống.

Hắn run rẩy nắm lấy bàn tay cô, “Tôi không đủ tiền.” Hắn nghĩ đến đồng hai chục nhét sâu trong túi quần, vừa đủ chuyến ta-xi về trại tị nạn.

Cô gái cười. Nụ cười thiểu não dưới ánh đèn biếc xanh khuấy lên nét liêu trai pha chút u uẩn, “Cho anh thiếu nợ.”

Hắn điếng người, “Tôi cũng không có tiền để tip cho cô.”

“Cũng cho thiếu luôn,” cô nói, giọng vui, nhưng với nụ cười buồn.

Cô bước xuống giường, mở ngăn kéo chiếc tủ kê sát tường, bới loạt xoạt mớ đồ trong ngăn tủ, lôi ra vật gì đó, đưa cho hắn. “Cho thiếu nợ, nhưng anh phải mang cái này.”

Hắn trố mắt nhìn cái vật nằm gọn trong lòng bàn tay cô gái. Bao cao su ngừa thai bọc trong giấy kính màu đỏ càng sậm lại dưới ánh đèn xanh mờ ảo.

Rồi cái thân hình mỏng mảnh ấy nằm ép xuống bên hắn, đẩy hắn sát cạnh giường. Hơi hướm Việt Nam rộn ràng khứu giác. Tóc rất đen và mắt đặm nâu. Hắn bàng hoàng nhìn thân mình mỹ nhân ngư biếc xanh ngan ngát hương trầm. Ký ức những lần nằm dài trên bãi cát biển Bidong, chờ con sóng cuốn đi, hoặc nhắm mắt hình dung một nàng tiên cá dạt vào bờ nằm kề bên bỗng tràn về như trăm ngàn con sóng. Da thịt mát rượi vỗ về hắn. Người con gái Mã Lai gốc Việt. Em là người Việt, người Hoa hay người Mã. Những câu hỏi vô nghĩa. Em là ai tôi cũng thấy quá đỗi gần. Như cô gái bên nhà. Như cô bạn học ngồi ở bàn ngay phía trước. Những câu hỏi quấn vào nhau trong óc. Tim hắn rối nhịp. Hơi thở ngắt quãng. Hắn thấy mình run rẩy, lúng túng và vấp váp như thằng bé học trò lần đầu làm chuyện người lớn. Lâu lắm rồi, hắn không được gần gũi, không được ôm ấp, không được nâng niu một thân thể đàn bà. Người con gái xa lạ này ban cho hắn niềm hạnh phúc bất ngờ. Hắn sắp ngất đi vì hạnh phúc. Hắn hít hà mùi da thịt ngai ngái hương trầm. Hắn vùi mặt vào mái tóc nồng hương thơm thứ thuốc gội đầu nào đó mà cả đời hắn chưa lần nào bắt gặp. Đôi cánh tay lạ lùng của người con gái xa lạ siết quanh tấm lưng èo uột của gã lưu dân ốm đói. Đôi cánh tay ấy ôm hắn sát vào thân thể nàng. Hắn hung hăng nhưng dịu dàng, mạnh bạo nhưng nhẹ nhàng, bởi hắn sợ sức nặng thân mình trần tục hắn làm nhàu nhò đôi vòm cong của bờ ngực mỏng mềm con gái. Hắn cong người, đứt hơi, hai bàn tay vò nát cơn thèm trên mặt nệm. Rồi hắn rũ xuống, đuối người, vô vọng. Hắn ngẩn ngơ tiếc nuối cơn động kinh hạnh phúc chưa đầy một phút đồng hồ. Phù du biết chừng nào.

Cô gái ngơ ngác một giây rồi nhẹ nhàng gỡ hai cánh tay rã rượi như hai khúc bột mềm của hắn thả xuống mặt nệm. Hắn bối rối giấu cái bao cao su trong lòng bàn tay. “Đừng bỏ ở đây.” Cô nói nhỏ, và lấm lét nhìn quanh, “Tôi không muốn bị phạt.”

Hắn nhét vội cái vật nhơm nhớp vào túi quần, rì rầm, “Mai mốt…”

Cô nhướng mắt nhìn hắn, ngón tay gài vội cái khuy áo ngực, gói lại hai bầu vú xanh non. Hắn nói như hụt hơi, “Mai mốt kể chắc chẳng ai tin.”

“Chuyện gì?” Cô hỏi.

Hắn lắp bắp, “Chuyện tôi có… người yêu ở Kuala Lumpur.”

“Người yêu?”

“Vâng, người yêu, bởi…” hắn toan nói “người yêu mới không tính tiền” lại ngậm ngay lại, và nói trớ đi, “người yêu mới… yêu như thế.”

“Cho thiếu nợ mà.”

“Biết bao giờ trả được.” Giọng hắn trộn lẫn chút hớn hở và một thoáng ngậm ngùi.

Cô gái cười. Rồi cô suy nghĩ một giây, “Tôi sẽ cho anh cái gì đó làm bằng chứng.”

“Chi vậy?”

“Để người ta tin anh nói thật.”

Cô nhìn quanh, tìm kiếm, hắn nghĩ đến cái áo ngực mỏng và nhỏ như cánh bướm ban nãy cô treo trên móc và vừa mới khoác lại lên người. Giả như cô dúi vào tay hắn cánh bướm màu đen ấy chẳng biết hắn có dám đem về trại không. Nhất là khi đang ở chung phòng với ông anh vợ. Dù hai đứa xê xích tuổi nhau nhưng khi đã là anh vợ, vai vế của gã cũng được nâng cấp lên theo. Nếu đem về được qua xứ sở định cư, hắn sẽ treo cánh bướm ấy trong phòng ngủ, để sống mãi phút giây hạnh phúc bất ngờ. Dẫu vô cùng ngắn ngủi.

Chợt cô đưa tay lên đầu, nhanh nhẹn tháo cái kẹp tóc. Mái tóc đen nhánh bung ra, lòa xòa hai bờ vai. Cô đưa cái kẹp tóc cho hắn. “Có tên tôi khắc trên đó đó,” cô nói.

Hắn nghiêng cái kẹp tóc kim loại dưới ánh đèn. Ba chữ Tàu khắc trên mặt ngoài cái kẹp tóc. Hắn xoay chiếc kẹp tóc về phía cô, “Cô đọc tên cô được không?”

Cô cười, “Không. Anh tự tìm lấy. Và nhớ đọc bằng tiếng Phổ Thông nghe mới hay.”

Rồi cô mở cửa căn phòng màu xanh cho hắn bước ra cái hành lang đỏ loét. “Đừng kể cho cha mẹ tôi nghe chuyện này.” Cô dặn với theo làm như chắc chắn hắn sẽ tìm cha mẹ dùm cô. Hắn mau mắn gật đầu.

Hắn ngồi với ly nước lạnh. Không biết thằng anh vợ hắn làm gì mà lâu lắc đến như thế. Quán sắp đóng cửa rồi. Cuối cùng, anh ta cũng ra tới, hai tên thanh niên cảm ơn người đàn bà ngồi ở quầy rồi bước ra cửa. Phố đêm mờ ảo ánh đèn. Hắn đứng xớ rớ bên cánh cửa. Cô gái người Hoa (của hắn) cũng ra tới. “Let’s go!” Cô nói nhỏ. Và nhanh chóng rảo bước. Hắn lặng lẽ đi theo. Phố vắng tanh. Chiếc bóng nhỏ nhoi của cô lạc loài trong đêm tối. Tiếng giầy cao gót lóc cóc khua vang động lòng phố.

“Đi đâu đây?” Gã anh vợ hỏi.

Hắn lắp bắp, “Tôi hứa đưa cô ta ra bến xe. Khuya rồi, đường vắng, tội nghiệp.”

Anh vợ hắn tròn mắt ngạc nhiên, nhìn hắn rồi nhìn cái bóng nhỏ bé của cô gái nhập nhòe trong bóng đêm. Gã nhún vai, rồi lặng lẽ gật đầu.

Không nói gì với nhau, họ đi hoài như thế. Qua vô số ngõ ngách quanh co, qua những đoạn đường vắng tanh. Thỉnh thoảng một chiếc xe chạy vụt qua dưới lòng đường. Lũ đèn giao thông xanh đỏ, chớp tắt ở ngã tư, những cửa tiệm rực rỡ ánh đèn, lác đác đám người đi chơi đêm. Cuối cùng ba người cũng đến được bến xe. Hắn đứng nhìn bóng cô gái lọt vào trong lòng chiếc xe bus dài. Bỗng dưng hắn muốn chạy ào tới, leo lên xe, đi với cô thêm một đoạn đường nữa. Hắn đã sống lẻ loi trong trại tị nạn, đã khao khát vô cùng chút ấm áp mềm mại của thịt da người nữ. Bỗng dưng hắn nhận ra nỗi cô đơn như cảnh sát nhận diện được can phạm. Nỗi cô đơn quyện lấy hắn như cơn lốc xoáy. Hắn thèm đi với cô một đoạn đường. Hắn thèm đi với cô nhiều đoạn đường. Đường phố hay đường đời, cho nhạt bớt nỗi cô đơn.

Cho tôi ở lại đây, với một người con gái Việt, giữa trăm ngàn con phố lạ.

Hắn cứ đứng hoài như thế. Cho đến khi ông anh vợ níu vai áo hắn, “Chờ gì nữa?”

Hắn không biết mình chờ điều gì. Cô gái đã lên xe, cô đã an toàn rồi, còn chờ gì nữa. “Thì về vậy,” hắn nói nhỏ.

Trên ta-xi trở về trại, gã anh vợ tò mò về “con nhỏ Tàu”, rằng con nhỏ có mát-sa tử tế không mà cậu lịch sự với em ấy như thế. Hắn không trả lời mà hỏi ngược lại rằng cô gái da đen vai u thịt bắp của anh thế nào.

Anh vợ hắn lắc đầu, “Nó lười lắm, làm qua loa, chẳng thấm vào đâu.”

“Thế có nói chuyện nhiều không?” Hắn hỏi.

“Nó hỏi tôi làm nghề gì, ở đâu, tôi nói tôi là du khách.”

Hắn tròn mắt ngạc nhiên. Câu nói dối của ông anh vợ không phù hợp chút nào với cái diện mạo xác xơ, với áo quần nhăm nhúm trên người, và đôi dép Nhật mòn nhẵn dưới chân hai đứa. Hắn nghĩ đêm nay hắn may mắn chắc là nhờ nói thật. Mẹ hắn ngày trước đã chẳng từng nhắc đi nhắc lại rằng thật thà là cha quỷ quái đó hay sao.

Hắn bâng khuâng nhớ dáng mỏng cô gái lạc loài trên lề phố Kuala Lumpur. Hắn biết hương trầm của thịt da, cảm giác mát lạnh đôi vú người con gái miết trên lưng, vệt bớt son trên vòm cong ngực trái, ánh đèn xanh nhập nhòe vóc dáng loài thủy quái trong căn phòng hẹp mang số 007 sẽ mãi còn đặm nét trong trí nhớ. Và tiếng gót giầy khua vang lòng phố đêm Kuala Lumpur sẽ còn hoài trong ký ức rộn ràng.

“Thế còn cánh hồng Trung Quốc của cậu thế nào?” Anh vợ hắn hỏi.

Hắn muốn kể hết cho anh ta nghe cái phép lạ hắn bắt gặp trong căn phòng nhỏ bé dưới ánh đèn màu xanh dịu dặt, hắn muốn kể về mùi thịt da ngan ngát hương trầm làm hắn ngất ngây, hắn muốn kể về những móng tay bấu vào lưng hắn như móng vuốt lũ cào cào, châu chấu thời thơ ấu, và nhất là hắn muốn khoe với gã anh vợ cái kẹp tóc nhưng nghĩ sao đó lại thôi. Hắn biết anh ta sẽ không bao giờ tin hắn. Hắn biết không có người nào trên thế gian này tin đó là chuyện có thật, rằng có một người con gái hoàn toàn xa lạ, cho hắn yêu mà không tính tiền.

Hai người về đến trại tị nạn lúc gần sáng. Cái kẹp tóc có khắc tên cô gái cả chục năm sau hắn vẫn giữ. Như dấu tích của một lần hạnh phúc. Thứ hạnh phúc nhỏ nhoi hái được trong tiệm massage. Như một nhắc nhở rằng hạnh phúc có thật cho dù quá đỗi phù du.

Ít lâu sau, bảo lãnh vợ qua, đôi lần vợ hỏi, hắn nói dối là kẹp tóc của một đứa em bà con đi cùng chuyến ghe vượt biên. Vợ nghĩ hắn nói dối bởi hắn không giải thích được vì sao bà con người Việt lại có chiếc kẹp tóc khắc ba chữ Tàu.

Nhiều lần hắn toan nói thật hết cho vợ nghe nhưng hắn không sợ vợ sẽ ghen cho bằng sợ vợ sẽ không tin và nhạo rằng hắn nói dóc để xóa đi cái mặc cảm thua thiệt. Cái mặt anh, con nào điên mới cho anh chạm vào người nó. Thì thôi vậy, cứ giữ lấy một mình cho yên chuyện. Vợ không biết và sẽ không bao giờ biết rằng ở giữa thủ đô Kuala Lumpur có một cô gái Hoa gốc Việt cho hắn yêu mà không lấy tiền.

Hắn chỉ áy náy một điều là đã không bỏ công tìm cho ra bố mẹ của cô gái Kuala Lumpur. Cũng vì cô đọc tên họ bằng tiếng Quảng Đông hắn chẳng biết phiên âm thế nào sang tiếng Việt.

HOÀNG CHÍNH

ĐỌC THƠ TÔN NỮ THU DUNG TRÊN ĐẤT MỸ

1-
Hình như tôi thấy một thời
Thơ em gởi lại cho người đã xa
Ngô đồng chim nhặt phù hoa
Để em ngồi nhặt cỏ hoa riêng mình.

2-
Hình như biển tự ru tình
Thương con còng gió một mình đa đoan
Cát nào se đủ biển đông
Trôi theo trăng khuyết hợp tan thật buồn

3-
Hình như mắt biếc môi hồng
Tung tăng áo lụa vàng trong nắng chiều
Bây giờ sợi tóc đìu hiu
Trăng quê nhà chếch đổ xiêu chân người

4-
Hình như áo tím bên trời
Đọng vào đôi mắt một thời tình thơ
Để trăng cổ tích dại khờ
Đem trầm luân trượt xuống bờ tương tư

5-
Hình như tim chợt đau nhừ
Ngỡ ai qua ngõ về từ hư không
Tiếng hò bát ngát qua sông
Khói sương sóng sánh đôi dòng uyên nguyên

.6-
Hình như từng vết sao đêm
Soi trong kinh sử thuyền quyên kiếp nào
Tình ơi một cõi chiêm bao
Sóng trong ký ức lao đao mạch ngầm.

7-
Hình như chuyện đã mười năm
Sao lưng còn cấn chỗ nằm vẫn đau
Bến không vườn cũ hoa đào
Tóc tơ ngày ấy cũng vào chìm trôi.

8-
Hình như chữ cũng theo người
Đa mang nghiệp lữ gỡ hoài không ra
Thôi thì hóa hạt phù sa
Làm xanh ngọn cỏ ta bà bến xa.

9-
Hình như hương mật của hoa
Tràn qua ngọn bút trôi xa ngút ngàn
Kiếp tằm đã lỡ vương mang
Thì xin nhã hết tơ vàng thiệt thua.

10-
Hình như hoa nở ngược mùa
Cảo thơm để lại mùa xưa cũng đành
Ai còn thả ngọn tóc xanh
Để tôi gieo hạt nở thành “Tương Tri”?

NGUYỄN AN BÌNH

Nhà Cỏ

Thư sinh rời gian nhà cỏ
Bỏ quên một nàng hồ ly
Đêm đêm mơ hồ tiếng gió
Và trang sách cũ thầm thì

Ngọn nến canh tàn rơi lệ
Vườn khuya xanh biếc nguyệt rằm
Có ai vừa qua rất nhẹ
Hình sương bóng khói trăm năm

Tôi về ngang gian nhà cỏ
Thời gian đã phủ bụi mờ
Tôi về ngang gian nhà cỏ
Ray rứt nhớ thời yêu xưa

( nhớ chàng thư sinh thuở nọ
và nàng hồ ly dại khờ…)

Tôn Nữ Thu Dung

HÌNH NHƯ

1.

Hình như không có gì đâu
Nên em cuối bãi. Ta đầu sông xa
Hình như không có thiết tha
Sao em cắc cớ bắt ta dật dờ

2.

Hình như không phải là thơ
Chỉ là giọt lệ trên tờ giấy thôi
Chỉ là đọng. Chỉ là rơi
Sao xao xuyến. Sao bồi hồi tim rung

3.

Là em mắc tội dửng dưng
Nên ta lớ ngớ lừng khừng lơ ngơ
Hình như em vẫn thờ ơ
Giống như em chỉ giả vờ không yêu

HẠ QUỐC HUY

Lòng Thơm Chữ Nghĩa Cảm Ơn Em

Tôi đi gom nhặt từng con chữ
ai bỏ đây mà…thơ quá thơ?
Chắc chỉ là em hôm-bữa-nọ
ngồi chơi rồi đứng dậy, về trưa…

Em đi, tôi ngó theo em mãi,
ngó áo dài bay nhớ Nước Non,
nhớ gió trên đồng xô ngả lúa,
nhớ hoài Mẹ nắng tóc đầy sương…

Hình như bữa đó em như vậy,
em dãi dầu mưa nắng lắm nha!
Em uống nước tôi mời vẫn khát
tôi nhìn em miệng đẹp như hoa!

Em ngồi một chút mà sao nắng
đọng lại lòng tôi chiều mỗi chiều,
cuốn hút đường xa mù bụi nắng,
em về yên ổn nhé em yêu!

Lá Xuân xanh biếc vài ba lá 
rụng xuống sân tôi mấy bóng vàng,
đó dấu chân em còn để mãi,
là thơ!  Thơm ngát cánh hoa lan!

Thơ tôi vừa mới câu gì vậy?
Có nghĩa gì không tình hỡi tình,
chữ nghĩa em cho ngoài ý mượt
nằm trên trang giấy trọn-hồn-anh?

Em ơi áo lụa hay là vải
thì cũng mồ hôi của Mạ mà!
Em giống tấm hình ai vẽ Ngoại,
vườn cau con sáo mới bay qua…

Tất cả khi không thành quá khứ:
Em về lại chỗ em rời đi,
xa xa xa lắm trên miền Bắc,
áo gió xanh xao vạt tóc thề…

Tôi sẽ ngồi yên không động đậy
lòng thơm chữ nghĩa, cảm ơn em!

Trần Vấn Lệ

Thư Gửi Ba

1 giờ sáng, lạnh

con dế gục đầu vào khe cửa

khản giọng kêu bababababa…

3 giờ sáng, lạnh

gió lạc giọng thổi ngoài hiên babababa…

bỗng rụng cành cây khô bên thềm nhà

5 giờ sáng, lạnh

ly trà nóng, nghẹn

rưng rưng mắt con nhòa bóng ba…

***

Nebraska khoảng 1giờ sáng ngày 12 tháng 9 năm 2022.

Con đường hiu hắt ánh đèn vàng.

Con đường hun hút vắng im.

Chỉ có trăng đi cùng má và các con gái.

Út lái xe, tìm đường đến phi trường Kansas để bay về California.

Các con gái vừa nhận tin ba vừa đi xa.

Bàng hoàng! Thảng thốt!

Con đường khuya và ánh đèn hiu hắt vàng và hun hút vắng và lặng im lặng im.

Chỉ có trăng đi cùng má và các con gái.

Các con gái lặng im cố nén chặt mọi cảm xúc. Nén chặt đến độ đông cứng. Không chịu tin đó là sự thật.

Trăng mười sáu lặng im giữa bầu trời mờ sương se lạnh, mải miết đồng hành cùng chiếc xe đơn độc trên nẻo đường dài thăm thẳm hun hút vắng.

Chỉ có trăng đi cùng- vẫn đi cùng chiếc xe chở nặng đớn đau yêu thương.

Ba ơi, qua khung cửa bên phải xe, con nhìn thấy ánh mắt nụ cười hiền hậu bao dung của ba in vào vầng trăng.

Lần đầu tiên trong đời con hiểu thế nào là yêu thương đến đau đớn, ba ơi!

Má và các con gái tiếp tục vững vàng hướng về Cali với niềm tin tuyệt đối, niềm tin mãnh liệt: Chúa đang ngự vào chiếc xe, gìn giữ tay lái của Út, vây phủ phước hạnh quanh xe, bảo bọc che chở cho mọi người về tới nơi bình an.

***

Ba ơi! Khi nghĩ về ba, chúng con luôn cảm nhận được niềm hạnh phúc “yêu thương và được yêu thương.”

Ba ơi, chúng con cảm ơn ba đã cho chúng con niềm hạnh phúc đó. Và hạnh phúc càng trọn vẹn hơn- khi ba là niềm tự hào của chúng con, là Tấm Chắn vững chãi cho mỗi chúng con. Tấm Chắn đó được nung đúc bằng chất liệu yêu thương, nhân từ, độ lượng, tin cậy. Tấm Chắn đó vững chãi đến độ, dù chúng con đứa đã có con có cháu, vẫn cảm thấy bé bỏng khi chạy về ôm lưng ba, dụi đầu vào đó mà hít thở hương thơm tình phụ tử.

Ba ơi, nghĩ về ba, chúng con nhớ những câu chuyện ba thường kể bằng giọng Quảng Ngãi mặn mà chân chất. Mỗi câu chuyện là một bài học làm người. Bài học lớn nhất mà ba đã dạy chúng con là bài học Yêu Thương, bằng chính cuộc đời ba: Thời loạn lạc, ngôi nhà ba má ở thị xã, luôn mở rộng cửa cưu mang nhiều bà con ở vùng xôi đậu lên ăn tối, ngủ nhờ. Với chức vụ và công việc của ba, ba đã cứu sống được bao người dân vô tội. Và còn nhiều việc nữa không thể kể hết.

Rồi cơn lốc xoáy của lịch sử đã tung hê tất cả… Gia đình mình tan đàn xẻ nghé. Bầy con của ba, đứa nhỏ nhất chỉ vài tháng tuổi, dại khờ ngơ ngác, bơ vơ côi cút giữa bão tố cuộc đời. Đứa về quê nội, đứa theo má đến miền đất sình lầy. Đời bầm dập nhưng chúng con vẫn luôn giữ gìn nếp nhà yêu thương, hiếu thuận, đùm bọc lẫn nhau.

Còn ba, chốn lao tù khổ sai nơi rừng thiêng nước độc, đói lạnh bệnh tật, cận kề bên cái chết, vẫn đêm đêm cặm cụi khắc tên cả gia đình trên chiếc lược bằng vỏ đạn. Bầy con đông nên chiếc lược khá dài, dài theo niềm thương nỗi nhớ. Miếng vỏ đạn thì lạnh cứng mà nét chữ của ba lại ấm áp mềm mại, bởi ba đã gửi gắm vào từng nét chữ bằng cả trái tim yêu thương mong nhớ. Có lần má đi thăm nuôi ba, dẫn theo đứa con nhỏ, đứa nhỏ đó giờ đã 50 tuổi, vừa kể lại rằng ba cứ ôm chặt nó vừa hôn vừa nói “nhớ con quá… nhớ con quá…”

Rồi ba ra tù trong bộ quần áo màu nâu đất, xộc xệch rách rưới, chân yếu mắt mờ, vàng vọt tiều tụy, suy sụp, kiệt quệ… Nhưng không lâu sau, ba lại vững vàng, sáng suốt, vẫn là cây cổ thụ che chắn, định hướng tương lai con cái. Lần lượt ba đem các em ở quảng Ngãi vào Cần Thơ để đoàn tụ, học hành.

Sau đó, may mắn đã đến với gia đình mình như nhiều gia đình HO khác, ba đã dắt má cùng chúng con đến xứ sở nầy, để chúng con được sống cuộc đời tự do, được hít thở bầu không khí trong lành.

Ba ơi, mảnh vườn nho nhỏ sau nhà được nhiều rau trái tươi ngon, là những món quà yêu thương mà chúng con được nhận vào mỗi cuối tuần khi về thăm ba má. Hổm rày chúng con ăn rau muống, thanh long, chúng con uống nước lựu ép. Từng cọng rau xanh mượt, từng trái thanh long ngọt lành, từng hạt lựu đỏ thắm, từng nhánh hoa thơm…Tất cả, tất cả…đều có bóng dáng ba cạnh má lom khom chăm sóc gieo trồng, vun xới tưới tẩm.

Ba ơi! Từ bữa ba vắng nhà, chúng con luôn xúm xít cạnh má. Cùng kể lại những kỷ niệm về ba. Có đứa kể, lần nọ ba tới nhà em, ba ho, em rót nước mời ba uống. Ba cạn chén, em lại rót tiếp… Cứ vậy… nhiều lần… Tối, ba tủm tỉm cười: “Chưa bao giờ ba được uống nước nhiều như bữa nay!” Em hỏi: “Sao ba hổng biểu con đừng rót nữa?” “Bây lo cho ba, sao ba lại không uống!” Kể xong, em chặm nước mắt: “Ba mình hiền quá! Thương ba quá!” Rồi chuyện đứa này bịnh, đứa kia bị tai nạn… là ba gọi thông báo ngay để chúng con cùng chăm sóc nhau! Bao nhiêu kỷ niệm, mà qua đó, chúng con mới nhận ra rằng ba luôn để mắt quan tâm từng đứa, còn chúng con thì nhiều lúc vô tình với ba. Ba ơi, chúng con xin lỗi ba.

Vắng ba, nhà trống trải quá, đến nỗi đứa chắt mới 6 tuổi của ba má, vừa bước vô nhà, liền hỏi “Ông cố đâu rồi”. Lúc về nó lại hỏi với vẻ mặt ngơ ngác buồn: “Ông cố đâu rồi?” Làm sao tránh khỏi nỗi buồn đau quặn thắt nhức nhối khi vắng ba, ba ơi!

Mấy năm gần đây, dù tuổi già sức yếu, ba vẫn chăm chỉ đi nhà thờ, học lời Chúa, rất sốt sắng trong nhiều sinh hoạt của nhà thờ. Nhìn ba đứng cạnh má trong ban hát, nhìn ba đọc kinh thánh, chúng con vui mừng lắm. Má con hàng đêm vẫn thích nghe và hát Thánh ca. Bài nào má con thích, ba hăm hở in ra cho má hát. Vậy đó, ba luôn dạy chúng con bằng chính việc làm của ba: Bài học về đức tin, về tình nghĩa vợ chồng.

Ba ơi! Ba xa lìa nơi nầy đột ngột quá khiến cả nhà thảng thốt, bàng hoàng, đau nhói, trống vắng, hụt hẫng… Cứ ngỡ chỉ là giấc mộng! Phải, chỉ là giấc mộng thôi mà ba ơi ba ơi…

Nhưng… những lúc tỉnh táo, chúng con nhận ra: sự đột ngột đó lại chính là ước nguyện của ba, vì trước phút chia tay, thân thể ba không hề phải chịu đựng đau đớn. Ba từ giã miền đất tạm nầy thật bình an nhẹ nhàng để trở về chốn phước hạnh đời đời.

Và chúng con cũng nhận ra rằng: Việc ba đột ngột rời bỏ cõi tạm lại chính là lời nhắc nhở chúng con: Hãy sống tốt hơn nữa để khi nhắm mắt xuôi tay, lòng được vui thỏa. Hãy sống bao dung độ lượng nhiều hơn nữa. Hãy sống yêu thương nhiều hơn nữa, bởi vì, chỉ trong tích tắc- Phải, chỉ trong tích tắc thôi, người ta có thể bất ngờ vĩnh viễn xa lìa người thương yêu của mình.

Vậy đó! Cho đến giây phút cuối cùng, cuộc đời ba vẫn là bài học cho chúng con: Bài học làm người, bài học yêu thương.

Ba đã sống vuông tròn cả đạo lẫn đời. Chúng con tin chắc rằng giờ nầy ba đang thảnh thơi thỏa nguyện nơi miền vĩnh phúc.

***

Ba ơi! Bình tâm lại, con nhận ra Trời ( God), vẫn được người Việt gọi là Chúa, đã luôn ở cùng ba trọn lối đi trên cõi tạm và trọn lối về chốn phước hạnh vĩnh hằng.

 Ngày nào ba trong quân ngũ, rồi những năm tháng bị tù đày… Trời đã luôn bảo bọc che chở ba vượt qua tất cả gian lao khó nhọc, hiểm nguy.

Rồi khi con cháu đã được sống cuộc đời tự do, mọi sự đã tốt lành, thì sức ba đã yếu nên Ngài đã nhậm lời cầu xin của ba: Ba không muốn sống với những ốm đau thể xác của tuổi già, không muốn sống đời thực vật.

Nên đúng vào ngày Chúa Nhật, ngày Thánh, ngày của sự Phục Sinh, ngày của Yêu Thương, ngày nghỉ ngơi. Hôm đó cũng nhằm vào ngày Yêu Nước (9/11), ngày Lễ Ông Bà (9/11/2022), Chúa đã chọn ngày đặc biệt đó để dắt ba trở về ngôi nhà vĩnh phúc.

Thế là ba đã hoàn tất cuộc hành trình đời người, đã về đến đích cách hiển vinh, đầy tràn ân điển.

Nhưng dù sao con vẫn ôm nỗi nhớ thương ba.

Hổm rày con cứ mở voicemail để nghe những lời ba nhắn lại mỗi khi con không bắt máy. Giọng ba vui vẻ ấm áp làm sao. Nghe mà thương quá chừng thương. Nghe mà nhớ quá chừng nhớ ba ơi…

TỊNH TÂM
( Trương thị Kim Chi)

KHÓI BẾP TRÊN SÔNG

Hai đứa trẻ thức dậy trước cổng chùa, nhìn xuống sông. Mặt trời chưa mọc, sương mù trôi dày trên mặt nước, bãi cát vắng người. Chúng sẽ đi xuống đó, qua sông về nhà, mẹ chúng sẽ chờ ở cửa, la mắng vài câu cho có lệ rồi vuốt tóc ôm vào lòng. Năm ấy tôi năm tuổi, người anh lớn hơn hai tuổi, ngày lễ tết dẫn nhau qua đò lên thị xã, hai đứa trẻ lang thang giữa đám đông rướn cổ coi diễu hành, tranh với những đứa trẻ khác nhặt nắp chai, đồ chơi trẻ con, lạc vào rừng người, may mà còn nắm tay nhau. Nhìn qua bên kia sông mặt trời đã lặn, đò ngang đưa chuyến cuối cùng, người lái đò đã gác mái chèo, kéo dây buộc vào bãi cát, lững thững đi lên quán rượu sau bụi tre la ngà.

Ngơ ngác sợ hãi, tìm cách về nhà nhưng không dám hỏi ai, đèn đường bật sáng, hai đứa chạy từ góc phố này tới góc phố khác, bên hàng rào kẽm gai trước toà hành chánh tỉnh, một người lính bồng súng đứng im lặng, dưới ngọn đèn đường vàng trong hàng phượng một cặp tình nhân đi đi lại lại, người thanh niên tóc chải dầu bóng loáng, người thiếu nữ kẹp tóc, để lọn dài thả xuống thắt lưng, đi guốc cao gót nhún nhảy, họ đi hết một đoạn đường, qua trước mặt chúng tôi rồi quay ngược lại, nhẹ nhàng nhưng nghiêm nghị, không ai nói gì, người thiếu nữ đưa mắt nhìn kín đáo, tiếng guốc gõ nhịp đều trên mặt đường nhựa, khung cảnh: một thế giới xa lạ, huyền bí.

Đi bộ đau mỏi ở bắp chân, hai đứa trẻ kéo nhau vào cổng tam quan trước chùa, đêm càng về khuya, cảnh càng vắng lặng, trên ngọn ngô đồng cao cuối sân chùa một con chim đi ăn đêm về muộn kêu mấy tiếng, hai đứa trẻ chui vào góc tối trên cổng tam quan nằm ngủ, nhưng không dễ gì ngủ được, cảnh lạ, đói. Sau này lớn lên tôi đôi khi vẫn còn cảm giác ấy, trong một góc phố giữa châu Âu bỗng bồn chồn như sắp đi lạc, sự hiện hữu dừng lại, sự mệt mỏi làm cơ thể loãng ra, như cha nhớ con, chồng nhớ vợ, kẻ lãng du muốn quay về quán hớt tóc đầu thôn, ngồi xuống cái ghế bành cũ, để mặc cho người thợ quàng tấm ra trắng, nhắm mắt lại nghe tiếng mài dao tanh tách, những giây phút ấy trong đời nhắc chúng ta rằng dù từng trải bao nhiêu cũng có khi lạc đường. Chú bé mệt quá ngủ thiếp đi trước anh nó, nhưng chẳng bao lâu sau lại thức giấc, đứa anh nằm xuống bên em, che trước mặt, ngăn gió từ ngoài sông thổi lại, đứa trẻ chạm tay vào anh, không biết ở đây có an toàn không, nó dụi mắt trong bóng tối.

– Anh ở đâu rồi?

– Ở đây nè.

– Em đói.

– Thôi cầu nguyện đi.

Chúng cầu nguyện, một lát sau ngủ thiếp, rồi thức dậy, gió từ ngoài sông thổi vào lạnh, một vật gì lạnh hơn thế nữa, chạm vào chân chú bé, chú ngồi lên: những đồng tiền của ai để rơi lấp lánh dưới ánh trăng, lúc ấy vầng trăng đã qua bên kia sông đăm đăm nhìn lại, mới đầu chú tưởng chỉ một hoặc hai đồng, nhưng nhiều hơn, nhiều lắm, dễ đến chín hay mười đồng tiền kẽm, đồng tiền có hình cây trúc, giá trị năm mươi xu và một đồng. Hai đứa trẻ cầm mấy đồng tiền chạy qua quán tạp hóa bên cạnh chùa, dưới gốc cây sầu đông, bà chủ quán, một bà già có vẻ khó tính nhưng tốt bụng, càu nhàu vì đang ngủ bị đánh thức, hé cửa liếp, đếm tiền, bỏ vào tay chúng những viên kẹo bi tròn tròn đủ màu sắc xanh đỏ tím vàng, hai đứa ngửa tay ra, bụm lại không hết, chúng ngồi im lặng nhai kẹo bi lắc ca lắc cắc trên cổng chùa, nhìn qua bên kia sông, trăng treo lơ lửng trên rừng dương liễu trong nghĩa trang đầu làng, đẹp đến nỗi chú bé tin rằng nó, mặt trăng ấy, sinh ra trên trời vì một mục đích nào đó, anh chú bảo lời cầu nguyện đã được lắng nghe, quả thật, những đồng tiền kẽm ấy là phép lạ đầu tiên trong đời, nhưng ăn xong tạm no bụng thì cảm giác nhớ nhà lại tới, xao xuyến thắt ruột, căn nhà của chú nằm ngay dưới vầng trăng ngay sau rừng dương liễu chạm tay vào là tới mà hóa ra xa quá.

Nằm ngủ chập chờn đến tinh mơ hai đứa ngồi dậy, đi xuống bờ sông chỗ đò ngang vẫn đậu, nhưng lúc ấy sớm quá, đò chưa qua, đứng ngơ ngác, chúng nhìn thấy một con thuyền có mui của dân chài lưới đi đánh cá đêm cắm sào, chúng rủ nhau xắn quần đùi lội ra, muốn năn nỉ người chủ thuyền chở qua sông, nhưng nước sâu quá không ra được, mùi thơm ngào ngạt xông lên từ mui thuyền, mùi của cơm gạo mới, nấu vừa chín tới, ngào ngạt, mùi của canh mướp mà mẹ chú bé thường nấu trong những ngày nóng nực, mùi mướp ngọt, mùi ruốc, mùi tôm khô, bay thoang thoảng trên mặt nước, lặng lẽ như lớp sương mù thứ hai không màu sắc nhưng đầy mùi vị.

Một người đàn ông chắc là chủ thuyền đang ngồi vá lưới ở cuối khoang ngẩng đầu lên nhìn bọn trẻ rồi cầm mái chèo khoắng mấy cái đưa thuyền vào gần bờ, ông ta chỉ tay cho hai đứa leo lên, khi chúng theo nhau leo lên được mạn thuyền, mới nhận ra một đứa bé gái lớn hơn chú vài tuổi, có lẽ bằng tuổi của anh chú, thắt hai cái bím bằng dây cao su xanh đỏ, đang ngồi bên bếp lửa, nồi cơm đã chín ghế qua một bên, hai người chuẩn bị ăn sáng, trên ngọn lửa liu riu một soong canh mướp nhỏ bốc khói nghi ngút, bếp của nhà đò là một cái nồi than bằng gạch có thể di chuyển được, đặt trên cái mâm đồng cũ, đầy tro tàn, cô bé xích qua nhường chỗ cho chúng, quay lại hỏi người đàn ông, cha của nó, rồi chui vào khoang thuyền lấy thêm bát đũa, cô bé lau hai cái bát sành màu xanh ngọc, miệng bát vài chỗ mẻ nhưng sạch, đơm cơm rồi múc canh mướp nóng vào đó, đưa cho chúng, đang đói bụng, khát, hai đứa bưng bát húp lia lịa, không kịp cảm ơn.

Bất kỳ một đứa trẻ nào khi lớn lên cũng giữ mãi kỷ niệm về việc tiếp xúc với người lạ đầu đời, nhưng đó là cảm xúc gì thì chú không biết, vì hãy còn quá nhỏ, sự xúc động trước một điều gì không diễn tả được, ví dụ trước lòng tốt của người đàn ông đánh cá, lòng tử tế của cô bé, nhưng chỉ thế thôi sao? còn hơn thế nữa, điều gì tựa như lòng nhân từ của người phụ nữ, dù đó là một người phụ nữ bé xíu, nhanh nhẹn, ít nói nhưng tinh nghịch, thỉnh thoảng còn đưa mắt lườm chú một cách chế nhạo, như bất kỳ một cuộc gặp gỡ nào cũng ở lại lâu hơn trong lòng ta không chỉ vì cuộc gặp gỡ ấy, những nhân vật trong ấy, mà còn vì cái khung cảnh mà nó xảy ra, mặt nước êm đềm gợn sóng, con sào cắm bên cạnh chiếc thuyền, vầng trăng bạc sắp biến mất, bàn tay con gái nhỏ nhắn bưng tô cơm, nhiều năm trôi qua, đôi khi nó muốn tìm lại con bé kia, giờ này chắc đã có con có cháu đầy đàn, nhưng làm sao tìm lại được?

Đứa bé nhớ họ. Một người thanh niên ngã xuống trong tuổi thanh xuân, dưới rặng dừa, một người nay có lẽ đã trở thành người lái đò hay bà chủ tiệm hay lưu lạc giang hồ thân gái dặm trường, bạn làm sao biết được, bạn nhớ chùa tỉnh hội, nhớ cổng tam quan, nhớ cặp tình nhân đi đi lại lại lặng lẽ và nghiêm nghị bên rào kẽm gai, nhớ hai đứa trẻ thức dậy giữa những đồng tiền kẽm có hình cây trúc như phép lạ sáng bạc lấp lóa, như từ trên không có ai thả xuống đất, thả xuống mùi cơm gạo mới trên mặt nước, thả xuống mùi canh mướp ngọt thơm phức trong sương mù, bàn tay nhỏ nhắn của đứa bé gái nâng bát cơm lên đặt trước mặt đứa trẻ, tia mắt nhìn óng ánh, ngọn lửa của cái lò bếp trên thuyền nhấp nháy sáng như ảo tưởng, như con mắt khác, ngôi chùa tỉnh hội bị bom đạn phá nát, cũng như mọi thứ khác, sau này đã được xây lại trên nền cũ, nhưng hàng phượng vĩ không còn, bãi cỏ xanh không còn, bãi cát vàng với những lon sữa bò những vỏ chai nước mắm nước tương nước magi biến mất, bến đò biến mất. Người lái đò đã chết.

Chúng ta sống nhiều cuộc đời, nhưng chúng ta chỉ nhớ một cuộc đời, một bếp lửa trên thuyền; ba đứa trẻ ngồi vây quanh; một đứa sẽ nhớ lại hai đứa kia, có lần đứa trẻ lớn bảo em nó rằng: ta sẽ đi xa một ngày nào đó, chú em hỏi lại, đi đâu, đi về một nơi thật xa, không có chiến tranh, đứa anh bảo nó, nhưng vì sao phải thế, chú bé hỏi, vì khi người ta lớn lên, người ta phải đi xa, anh chú trả lời, nhưng anh có lớn lên đâu, chú hỏi lại, chú vòng tay ôm ngang lưng anh mình, và bảo, anh hãy còn nhỏ lắm, vào lúc ấy chú nghĩ mọi thứ sẽ vĩnh viễn ở đó, dù có lớn lên rồi khi quay trở lại, bến sông vẫn là bến sông kia, con đò vẫn cắm sào đứng đợi, quê hương chúng ta vẫn là quê hương ngày cũ, nhưng bạn nghĩ, không đúng, một lần sau nhiều năm, chú bé về thăm thành phố, một mình ngồi xuống bậc thềm tam quan chùa trong chiều chạng vạng, bóng tối lan nhanh, một lát sau, không phải một lát, lâu hơn thế, một người khác đến ngồi xuống bên cạnh, không ai nói gì, cả hai cùng ngồi đó, ngồi sát vào nhau, cùng im lặng, cho đến khi bên kia sông vầng trăng mọc lên sau rặng liễu chiếu sáng ngời ngời mặt nước.

NGUYỄN ĐỨC TÙNG

NHỮNG THIÊN THẦN CÒN SÓT LẠI GIỮA TRẦN GIAN

(Cho sinh nhật T. ❤, cháu ngoại của ông.)

Chúng tôi bước dạt lên bờ cỏ để tránh một người đàn ông và một người đàn bà đi ngược chiều. Bởi từ xa tôi đã thoáng thấy người đàn bà che miệng ho. Đại dịch chưa dứt hẳn mà cả hai đều không đeo khẩu trang. Buổi sáng, trời hiu hiu gió. Lũ siêu vi trùng lởn vởn bay. Trong vạt nắng xuyên ngang khe lá, tôi thấy những vẩy bụi; những con siêu vi trùng đánh đu trên những vẩy bụi li ti ấy. Tôi tưởng tượng ra thế. Và tôi sợ. Tôi không ưa những cái máy trợ hô hấp, tôi ghét những mũi kim gài sâu vào tĩnh mạch, và nếu may mắn không bỏ mạng, thì tôi vẫn ghét những di chứng như không còn ngửi được mùi ly cà phê buổi sáng, không nếm được vị thức ăn ngon bữa tối, và mệt đuối người từ ngày này sang ngày khác. Vì vậy tôi sợ, dù tôi đã chích ngừa đầy đủ và còn thêm hai mũi tăng cường. Với chừng ấy thuốc men, nếu nhiễm bệnh, dù đã lớn tuổi nhưng tôi sẽ sống sót, tôi nghĩ thế. Nhưng tôi vẫn sợ.

Qua khỏi hai người ấy một quãng xa, chúng tôi mới bước trở lại lề đường cho người đi bộ. Vừa bước lên nền gạch, con bé níu những ngón tay tôi, kéo tôi lên thềm đậu xe trước cửa nhà người lạ, khom người cúi xuống nhìn người đàn ông nằm ngửa dưới gầm chiếc xe màu trắng, đang cặm cụi vặn những con ốc.

“Are you okay?” Con bé hỏi.

Người đàn ông nằm dưới gầm xe ngưng tay vặn, cái mặt lem luốc vết dầu nhớt xoay qua nhìn con bé. Một vạt nắng từ cành phong bên đường thả xuống, vắt ngang cái đầu bù xù, nhuộm mái tóc một màu nâu thẫm. Con bé gỡ tay tôi ra, ngồi thụp xuống, lặp lại câu hỏi, “Are you okay?” bằng giọng rất trẻ thơ nhưng vô cùng tha thiết. Cử chỉ và câu hỏi bất ngờ của con bé cháu ngoại tôi làm tôi vừa ngỡ ngàng vừa bối rối.

Trong khoảng nhá nhem dưới gầm xe, nụ cười méo mó hé nở trên khuôn mặt người đàn ông. Nhưng ông ta không nói được bởi môi ông ta đang mím chặt một cái đinh ốc.

Tôi đặt tay lên vai con bé, “Ông ấy không sao đâu, con ạ. He’s okay.”

“Ông ấy kẹt dưới chiếc xe,” con bé lắc đầu, đôi mắt đen nhánh ánh nhìn lo âu.

“Ồ, không,” tôi nói vội. “Ông ấy không sao đâu.”

Người đàn ông tóc nâu luồn cánh tay dưới cái khoảng chật hẹp, đưa bàn tay có những ngón tay nắm lại và ngón cái duỗi ra. Đầu ông ta khẽ gật gù.

“Đấy, con thấy không, ông ấy ra dấu là ông ấy okay.” Tôi nói với con bé và cũng đủ để người đàn ông dưới gầm chiếc xe Toyota nghe được.

Con bé “Ô!” nho nhỏ cùng với tiếng thở ra nhẹ nhàng. Và nó nhoẻn miệng cười.

Bỗng dưng tôi chột dạ như vừa nghe ai nói ra một điều không đẹp nhưng trúng tim đen mình. Và tôi bồi hồi như tình cờ gặp lại điều gì đó rất quen thân từ thuở nào xa lơ lắc. Cảm giác ấy làm tôi nghĩ ngợi. Ngày xưa tôi có tử tế và ngây thơ như thế không nhỉ. Và nếu có thì tôi đã đánh mất sự tử tế ấy từ lúc nào?

Vừa tròn ba tuổi (hôm qua sinh nhật nó), cháu ngoại tôi tâm hồn còn trong vắt, bụi đời chưa phủ mờ nên nó còn nhìn ra được những con người. Còn tôi, ông ngoại con bé, thì bụi bặm, nhọ nồi bịt kín tâm hồn, không còn nhìn xa được, chỉ loanh quanh với cái bóng của chính mình; và nhân loại chung quanh, nếu như tôi có thể nhìn ra thì cũng chỉ là những bóng mờ.

Tôi hít một hơi dài, xua vội đi những ý nghĩ lẩn quẩn trong đầu. Chạm nhẹ những ngón tay lên vai con bé, tôi bảo, “Ông ấy không sao đâu. Xe bị hư, ông ấy chui bên dưới để sửa.” Tôi nói câu dài, con bé chắc chỉ hiểu một phần. Nhưng nó nhùng nhằng không muốn bước đi.

“Thôi mình đi, cháu ơi,” tôi cầm lấy bàn tay bé bỏng của con bé. “Ông ấy okay.”

Và tôi dợm bước. Cháu ngoại tôi bước theo, nhưng bỗng dưng nó sựng lại, gỡ tay tôi ra, quay lại khom người nói với người đàn ông dưới gầm xe, “Have a nice day!” bằng giọng ân cần và trong như tiếng hót của một loài chim lạ.

Người đàn ông lại ra dấu bằng ngón tay cái duỗi và những ngón kia nắm lại.

Chúng tôi lại rảo bước trên lề đường dành cho người đi bộ. Con bé nhún nhảy trên những đốm nắng dập dìu vẽ trên mặt đường như chơi nhảy lò cò. Thường ngày, nó vẫn rủ tôi chơi lò cò trên sân nắng và bao giờ tôi cũng hăng hái làm theo dù hai đầu gối thỉnh thoảng lại nhói đau. Hôm nay tôi không nhảy theo nó, bởi đầu óc tôi bận rộn. Con bé làm tôi giật mình.

“Coi chừng ngã, con ơi!” Tôi nhắc. Và tôi nhớ một ngày mùa đông, một đứa bé tóc vàng gỡ tay mẹ, vừa chạy nhảy vừa líu lo hát lời ca quảng cáo Coca Cola trên ti vi, và trượt chân ngã ngay trước mặt tôi. Tôi thụt lùi, bất động, bối rối nhìn lọn tóc vàng vắt ngang mặt tuyết. Tôi không biết phải làm gì. Có điều tôi biết chắc chắn tôi không muốn mẹ nó thưa tôi ra tòa. Tôi đã quen như thế rồi. Chả biết từ lúc nào. Và tôi tránh nhìn mẹ đứa bé. Lách qua một bên, lặng lẽ bước đi. Nghe kể lại chuyện ấy, mấy ông bạn già gật gù tán thành, “Phải rồi, người lạ, bận tâm làm gì.”

Chúng tôi đã quen sống như thế.

Một con chim đậu trong khóm lá phong líu lo tiếng hót. Cháu ngoại tôi đứng lại, ngước lên, đôi mắt săm soi, “Grandpa! Con chim màu vàng kìa.”

Tôi ừ hử chiếu lệ, trong đầu vẫn vướng víu những thắc mắc. Chúng tôi đã quen sống bằng sự dửng dưng. Đã quen thở ra những câu nói dối. Lỗi tại lũ siêu vi trùng hình quả cầu trang điểm bằng những bông hồng đỏ thắm. Trong thế giới những con người xa lạ, tôi làm sao biết kẻ nào đang mang trong người cuốn sổ thông hành của Thần Chết?

Con chim màu vàng vỗ cánh bay đi. Cháu ngoại tôi đứng ngẩn trông theo. Tôi phải cầm tay đánh thức nó. “I love that bird!” Con bé nói nhỏ.

Hai ông cháu lại thong thả bước đi. Một đám năm sáu đứa trẻ vừa nhún nhảy níu kéo nhau vừa tíu tít trò chuyện phía bên kia đường. Nhìn đám trẻ, con bé hỏi, “Họ đi đâu vậy, Grandpa?” Đang lứa tuổi tò mò, cái gì cũng làm con bé thắc mắc. Cháu ngoại tôi vậy đó!

Tôi nhìn lũ trẻ vừa trai vừa gái, áo quần gọn ghẽ, túi xách đeo trên lưng, chuyện trò ríu rít như những con chim nhiều chuyện, “Chúng nó đi học.”

“Con cũng muốn đi học,” con bé nhanh nhảu.

“Thì… mai mốt lớn lên, con cũng sẽ… ơ… đi học,” tôi ngập ngừng câu nói dối.

“Con muốn mau lớn để đi học,” con bé quả quyết, rồi nó vươn cánh tay vẽ một vòng tròn trước mặt, “Lớn như thế này nè.”

Bỗng dưng tôi mong con bé đừng lớn như nó ước mơ, tôi mong nó mãi bé bỏng như nó phút giây này để những trang đời tinh khôi của riêng nó mãi là trang giấy trắng. Ngoài chuyện mong mỏi phù phiếm ấy ra, tôi còn nghĩ con bé sẽ không được đến trường học bởi bố mẹ nó dự tính cho nó học ở nhà sau vụ một tên điên đem súng vào cái trường ngay khu phố này, giết cả chục học sinh vô tội cách đây chưa đầy bốn tháng.

Buổi sáng, nắng mềm, gió ấm. Lòng tôi vừa lâng lâng bay bổng, vừa nặng trĩu kéo lê trên mặt lề đường dành cho người đi bộ. Bằng giọng hót của loài chim, con bé kể cho tôi nghe đủ thứ chuyện. Hai ông cháu đi dạo hết hai vòng khu phố mà con bé vẫn chưa muốn về. Suốt ngày hôm ấy nó quấn quýt bên tôi.

Chập tối, khi tiễn chân tôi ra cửa, con bé níu tôi lại. Tôi ngồi xuống, nó kề tai tôi, hỏi nhỏ, “Grandpa, are you sure he’s okay?”

“Ai hở con?”

“Người đàn ông bên dưới chiếc xe.”

Tôi ngập ngừng, “Ông ấy… ông ấy okay, con à.”

Tôi lại nói dối. Tôi lại không thành thật như cháu ngoại tôi. Tôi biết người đàn ông ấy không okay. Nhưng tôi vẫn bảo cháu tôi là ông ấy okay. Và hai con mắt trẻ thơ lại thắp sáng cơn vui.

Hồi trưa, xe cứu thương hú còi vang dội và chớp đèn lập lòe khu xóm. Lối xóm xì xào với nhau là người đàn ông tiếc tiền, không đem xe ra tiệm mà tự sửa ở nhà. Cây trục sắt – mà ông ta dùng để nâng chiếc xe rồi chui xuống gầm để sửa gì đó – bị gẫy. Người ta phải dùng cần trục nâng chiếc Toyota lên mới kéo ông ta ra được. Thương tích không rõ nặng nhẹ ra sao nhưng chắc chắn ông ta sẽ phải nằm bệnh viện ít lâu.

Một ý nghĩ chợt nảy ra trong đầu tôi. Tôi ôm con bé, nói nhỏ vào tai nó, “Ngày mai ông cháu mình sẽ đi thăm ông ta, chịu không?”

Con bé reo lên, “Thank you, Grandpa!” Và ôm chầm lấy ông ngoại, hôn ghì lên gò má nhăn nheo.

Vậy là hai ông cháu tôi sẽ đến bệnh viện thăm người đàn ông ấy. Gặp con bé chắc ông ấy sẽ ngạc nhiên và vui lắm. Cháu ngoại tôi sẽ vui, còn tôi thì có chút lo âu, bởi những con siêu vi trùng tròn như quả cầu, trang điểm rực rỡ những đóa hoa mào gà đỏ thẫm nhỏ li ti vẫn còn lởn vởn trong bầu không khí ông cháu tôi hít thở.

Con bé níu tay tôi, ghé tai tôi thì thầm, “Con chỉ muốn biết chắc là ông ấy okay.”

Vừa tròn ba tuổi, cháu ngoại tôi đã làm tim tôi lỡ nhịp. Thôi thì hãy cứ tạm coi như nhân loại mất đi tính người một phần cũng vì cơn đại dịch. Bởi người ta sợ lây, người ta sợ chết. Nhưng một ngày sau sinh nhật của cháu ngoại tôi, con bé đã giúp tôi tin tưởng lại vào con người. Vào lòng nhân ái. Vào thế hệ tương lai. Và tin tưởng rằng quanh lũ người chúng tôi vẫn có những thiên thần còn sót lại ở trần gian.

Chứ sao không!

Thế nhưng ngày hôm sau, cái hôm hai ông cháu dự tính đi thăm bệnh, năn nỉ mãi người ta vẫn không cho tôi dẫn con bé vào thăm người đàn ông sửa xe không quen mà chúng tôi gặp ở cuối con phố. Người ta bảo trước hết bệnh viện cấm trẻ nhỏ vào thăm, thứ hai đại dịch chưa hết hẳn nên không cho thăm viếng.

Chuyến viếng thăm của hai ông cháu tôi trở thành khúc phim tôi tưởng tượng trong đầu.

***

Người đàn ông nửa nằm nửa ngồi trên giường, vành băng bột quấn quanh cổ vòng lên đầu thành ra ông ta không gật đầu hay lắc đầu được. Lúc đứng bên giường người đàn ông ấy trong bệnh viện, cháu ngoại tôi chạm nhẹ vào vành băng vải, và lại hỏi, “Are you okay?” Tôi không kịp kéo tay con bé lại. Tôi thấy những con vi trùng, vô số vi trùng, nhưng con bé thì chẳng thấy con vi trùng nào; nó chỉ thấy những vòng băng vải màu trắng quấn quanh cổ và đầu người đàn ông, và nghĩ chắc ông ta đau đớn lắm. Nó lặp lại câu hỏi bằng giọng hót của loài chim, “Are you okay?” Người đàn ông chớp mắt, đưa tay cầm lấy bàn tay bé bỏng của con bé, nói nhỏ, “I’m okay. You’re an Angel, sweetie!”

***

“Ông ấy nói vậy thật hả ngoại?” Con bé hỏi sau khi nghe tôi kể khúc phim giả tưởng hai ông cháu đi thăm người bệnh. Tôi hăng hái gật đầu. Dù cái cổ tôi có sượng lại ít nhiều khi biết chắc mình đang nói ra những điều không thật.

“Mai mốt gặp ông ấy, ông ngoại nói…” con bé ngập ngừng.

Tôi hỏi vội, “Gì hở con?”

“Nói với ông ấy, con không phải thiên thần, con chỉ là a little girl.”

Tôi gật đầu liên tục. Tôi hứa tôi sẽ chuyển lời con bé đến người đàn ông xa lạ. Tôi nói dối, tôi hứa cuội. Bởi sáng hôm ấy khi chiếc trụ chống chiếc xe bị gẫy, chiếc xe đổ sụp xuống, không một ai hay biết. Mãi đến khi có người phát hiện ra, gọi xe cấp cứu thì đã muộn mất rồi. Tin tức trên truyền hình nói thế. Cháu ngoại tôi không được xem ti vi. Bố mẹ nó không muốn đầu óc nó bị vẩn đục. Bố mẹ nó muốn che chở cho nó được chừng nào hay chừng nấy. Bởi con bé là thiên thần, một trong những thiên thần còn sót lại thế gian này.

Bước xuống bậc thềm, tôi quay lại hôn gió cháu ngoại tôi thêm một lần rồi đeo cái khẩu trang lên mặt. Toan bước ra xe, tôi vội lùi lại. Ba bóng người rảo bước trên lề đường cho người đi bộ qua chỗ tôi đậu xe. Tôi chờ cho họ đi qua. Bao lâu cũng được nhưng tôi sẽ chờ.

Đại dịch đã giảm nhưng lại có thêm những biến chủng mới. Biết đâu đấy!

HOÀNG CHÍNH

ĐỐI THOẠI

Họ nói về những bầy chim gẫy cánh giữa trời
về những con người chôn mặt mình trong đất
về cuộc đời giữa những còn và mất
về tương lai trống không và hiện tại chôn vùi

Họ nói về một vầng trăng chết đuối ngoài khơi
về một tình yêu không còn trong trí nhớ
về cái chết và về niềm hãi sợ
về hoang đảo cô liêu chỉ có một người

Họ quên nói với nhau về những tiếng cười
về những ban đêm không thể còn bóng tối
về không-một-trái-tim-nào-có-tội
về không-ai-là-dã-nhân khi còn biết thương đời

Họ bận rộn nhỏ lên nhau giọt lệ ngậm ngùi
nên quên nói với nhau những lời hy vọng
Họ mải miết với quá nhiều phủ nhận
nên không còn gì ở giữa những đôi môi.

TRÂN SA