MÙA XUÂN TRONG TUỔI THƠ TÔI


Một người bạn gái thiếu thời vừa mới qua Mỹ, cô đọc cuốn sách “Tuổi thơ” tôi viết và bảo: “Tao thất vọng quá, trong cuốn sách này mày không viết gì về Nha Trang cả!”.

Ðúng vậy, tôi không viết về Nha Trang vì Nha Trang cưu mang quá nhiều kỷ niệm. Làm sao tôi có thể đem 15 năm sống và lớn lên tại Nha Trang vào một vài trang giấy.  Nha Trang là thời hoa mộng, là áo lụa Hà Ðông, là thơ tình TTKH, là niềm đau, là những đóm lửa tình yêu lóe lên rồi vội tắt, Nha Trang là những ngày thơ tuyệt diệu đầy nắng vàng, trời xanh, mây trắng, là tình đầu, tình cuối, là giông bão, đạn bom…và nhiều hơn thế nữa cho nên tôi không đủ lời, đủ chữ để níu lại Nha Trang!

Tuy nhiên, hôm nay tôi bỗng nhớ, như những đốm tro tàn lóe lên lần cuối, vài kỷ niệm nho nhỏ của ngày xưa.

Căn nhà của chúng tôi nằm trong khu “Xóm Mới”. Xóm Mới chỉ mới được xây dựng trong cuối thập niên 1950. Nhà tôi xa biển chừng một cây số nhưng lúc tôi còn bé, đó là một khoảng đường xa diệu vợi. Sau nhiều lần đi tắm biển, ngang qua những căn biệt thự của người Pháp, tôi thường ước ao được ở trong những căn nhà xinh xắn đó. Tôi nhớ căn nhà tôi thích nhất tên là Villa Colette. Nhà mà cũng có tên như người, sang trọng không kể xiết!

Căn nhà của chúng tôi cũng có tên, nhưng là tên của hai vợ chồng ông thầu khoán, người xây và làm chủ căn nhà trước khi bán lại cho ba tôi. Ông chủ cũ tên tắt là PK và vợ là TX. Họ khắc tên mình hai bên cửa. Ba tôi không thích hai dấu hiêu này nhưng ông không sửa đổi được vì sợ tốn kém. Ông bèn dạy cho chúng tôi rằng: PK có nghĩa là “Phong Kiều” và TX có nghĩa là Trường Xuân. Ông vốn là một thi sĩ nên ông nghĩ ra các từ ngữ ấy, cố tạo dựng một gia sản mới và hy vọng cho gia đình có một đời sống mới vui tươi và nhàn hạ…tại miền cát trắng Nha Trang. 

Đối với người cư ngụ những vùng khác thì họ cho rằng Nha Trang là một thiên đường hạ giới. Nhưng với riêng tôi, Nha Trang là nơi mình định cư; phải chịu đựng thời tiết, phải đi học (chán chết), nhất là phải lội nước lụt đi học khi trời mưa. Nha Trang cho tôi nhiều đêm thiếp đi trong tiếng mưa rạt rào, hạt mưa rơi đồm độp liên miên trên mái tôn, rồi thức dậy buổi sáng nhìn khu vườn hoang tàn: Cây đu đủ trốc gốc nằm dài trong vườn, trái còn xanh, lăn long lóc xuống rảnh nước, tổ chim trên cây khế cũng bay vèo nằm vướng mắc trên cành cây sa bô chê, cây ổi xá lị cũng gảy mất mấy cành và lá chuối bị gió xé ra như răng lược.

Tôi cũng nhớ nhiều buổi trưa nằm dã dượi trên giường, cố nhắm mắt, nhưng không thể nào ngủ vì nhiệt độ nóng kinh hoàng! Gió biển dường như không thổi đến nơi tôi ngủ vì những bức tường, những căn nhà đã mọc lên san sát trên mảnh đất trống bên láng giềng. Mảnh đất một thời được trồng khoai mì và cũng vì tò mò, tôi đã chui qua hàng rào, kéo cây lên để xem củ mì và bị đòn một trận vì hàng xóm qua mắng vốn.

Ngày hôm qua, trong bữa giổ ba tôi tại Cali. Trong lúc tôi ngồi chơi đàn trong góc phòng thì nghe con em kể tội trong bếp. Con nhỏ ni có cái miệng ghê gớm lắm, nó cố tình kể tội tôi nên dù không muốn nghe mà tiếng nói của nó cũng bị lọt vào tai. Nó kể cho mấy đứa em dâu và cháu chắc về con chị của nó (là Tui đây):” bà nớ thuở nhỏ ghê gớm lắm. Bả bị mạ cho ăn đòn nên giận mạ đi trốn tuốt. Bả ngồi trên cây chùm ruột không vào nhà ăn tối. Mạ cho mấy đứa nhỏ đi tìm, tụi nó về báo cáo là chỉ trốn trên cây chùm ruột, vậy là bả trèo xuống, tát mỗi đứa một cái làm cả bầy lăn ra tru tréo khóc lóc vang rân… Nhưng có một lần được ba mạ đem đi Saigon chơi bằng xe lửa. Xe chạy rồi mà chị cứ đứng nhìn ra cửa mà khóc, mạ hỏi tại sao thì chị nói là nhớ mấy em quá nên không muốn đi nữa…

Năm ấy tôi mới 7 tuổi, có thêm ba đứa em và ba mạ tôi mới dọn về miền duyên hải được một năm. Đó là lần đầu tiên mạ tôi được đi Sai Gòn chơi và cũng là lần đầu tôi được du lịch bằng xe lửa. Bây giờ mỗi buổi sáng sớm nằm mơ màng, tôi nghe tiếng còi tàu xe lửa vọng về từ xa, hồn tôi cứ man mát buồn, nhớ một thời bé thơ êm đềm trôi qua như mơ.

Khi tôi lớn hơn một chút nữa, khoảng 12 tuổi thì mạ tôi từ từ giao cho và trọng trách nữa như tập nấu ăn, làm bánh, tập đạp máy may và theo mạ đi chợ để học cách mua bán và nhất là để ăn hàng… (không biết con nhỏ em kế tôi có ganh không nhưng tôi chưa bao giờ nghe nó khai ra điều đó cả; nó chỉ giận là bà vú thuở nhỏ ẳm tôi nhiều hơn nó!)

Trọng trách mà tôi thích nhất và tự nghĩ rằng mình là nhân vật quan trọng nhất là: giúp ba sửa soạn cúng ông bà vào đêm giao thừa. Chiều 30 tết, sau khi mạ và các cô người làm nấu các thức ăn để cúng xong, mạ cho các cô nghỉ ngơi hoặc đi chơi với nhau. Mạ và các bà cô tụ họp chuyện trò rồi đi ngủ sớm. Trong nhà chỉ còn mấy cha con tôi hăng hái xun xoe dọn cỗ bàn. Ba tôi loay hoay với mấy chậu cúc, cành mai, nhánh đào chớm nở, trong mấy chậu sành hoặc trong các bình sứ cổ; ba sửa soạn lư hương, hai chân đèn con hạc sáng loáng bằng đồng, đội hai cây nến mới. Ba phủi bụi các tấm ảnh của ông bà nội, ông bà cố, và nhiều anh chị em quá vãng trên bàn thờ. Ông xoay qua xoay lại, hết vật này đến vật kia, nét mặt ông nghiêm nghị, trầm ngâm. Tôi chắc rằng lúc ấy ông cũng đang hồi tưởng một thời quá khứ của riêng mình.

Các chị em tôi đứa lau chén, so đũa; đứa múc chè, đơm xôi … đứa nào cũng làm việc trong sự hòa bình trật tự, không la hét cãi nhau như bình thường nữa vì… đứa nào cũng muốn chứng tỏ là mình ngoan ngoãn để ngày mồng một được tiền lì xì. Như lũ trẻ con Mỹ bây giờ hy vọng ông già Noel tụt xuống ống khói đêm Giáng Sinh để mang quà cho chúng.

Khi tiếng pháo đầu tiên vang lên là lúc ba tôi sẵn sàng khăn áo, đứng trên chiếc chiếu mới trước bàn thờ với một nắm hương nghi ngút khói. Ông vái lạy Phật, Thánh, ông bà tổ tiên xong thì cắm bó hương vào cái lư đồng bóng ngời chễm chệ giữa bàn thờ. Chúng tôi cũng lần lượt vái lạy, lớn trước, nhỏ sau như các con người máy được vặn dây thiều. Tôi nhớ mãi hình ảnh của Hoành, con trai đích tôn, hắn nhỏ hơn tôi bốn tuổi. Hắn bệ vệ nghiêm trang như ông cụ non, mặc áo dài the đen và đội khăn đóng giống như y hệt như ba. Hắn trắng trẻo đẹp trai và tánh tình nghiêm nghị nên ba cưnghắn lắm. Tuy nhiên hắn cũng là một nguồn ganh tỵ lớn của tôi vì tôi cứ nghĩ là hắn tướt đoạt mất một phần quyền lực của tôi là con chim đầu đàn chỉ vì tôi là con gái. Tôi không mấy quan tâm khi lũ em tôi trách tôi hung dữ … Con chim đầu đàn mà, lâu lâu phải ra oai một chút.

Sau khi ba cúng giao thừa xong, lũ em tôi theo ba đốt pháo đì đẹt ngoài sân thì tôi đem con gà luộc xuống bếp. Tôi xé con gà ra, bóp với tiêu muối và rau răm xắt nhỏ. Bỏ bộ xương và ít thịt vào nấu thêm nồi cháo. Vài phút sau, tôi múc ra một tô nóng hổi, rắc chút tiêu; dĩa thịt gà cũng dọn trên tấm phản gổ. Mấy cha con bắt đầu ngồi nhậu nhẹt với nhau trong đêm trừ tịch, khi tiếng pháo nổ giòn dã trong sân nhà hàng xóm. Ngoài đường vắng vẻ không một bóng người, lũ chó sợ pháo, trốn dưới gậm giường thò mũi ra và thè lưỡi liếm mấy hạt cháo hoặc miếng xương rơi rớt. Đôi mắt ba xa xôi, giọng ba trầm trầm kể chuyện xưa cho các con nghe. Những thằng bé con no bụng, buồn ngủ nằm lăn quay bên cạnh ba. Ông lẳng lặng ẳm từng đứa vào giường…

Đầu mùa xuân Nha Trang trời thường âm u ảm đạm. Đôi khi buổi trưa nắng nhẹ mới về nhàn nhạt trên thành phố. Các cô gái trẻ cùng nhau xuất hiện nhởn nhơ dạo chơi trên đường, đến nhà thăm nhau hoặc khoe những tà áo lụa mới. Người lớn cũng bắt đầu đi chúc tết nhau, không ai muốn đi đạp đất nhà người khác, chỉ có các cụ già đạo mạo, có tài lộc mới đi chúc tết sớm để mang lại may mắn cho gia chủ. Lũ trẻ chúng tôi thường quanh quẩn trong nhà, nấp sau bếp, lắng nghe tiếng chó sủa, báo có khách thì đi pha trà cho ba đãi khách, dọn khay mứt và hạt dưa… thập thò chờ khách hoặc ba gọi ra chúc tết và nhận tiền lì xì…

Những ngày tết khi sống ở Nha Trang là những kỹ niệm rất vui trong thời thơ ấu của tôi.

Trong những năm trung học, tôi nhớ nhiều những buổi chiều cùng các bạn rủ nhau ra biển sau giờ tan học. Ngày cuối tuần chúng tôi cùng nhau đi picnic ở Hòn Chồng và bãi Dương. Hình ảnh các cô gái trẻ trong chiếc áo dài trắng bay theo gió là những hình ảnh tuyệt vời không bao giờ quên được. Tôi nhớ mãi những ngày đi học nhạc tại Thánh Tâm, cây đàn guitar gác trên tay lái xe đạp, đạp hết đường Nguyễn Hoàng ra Lê Thánh Tôn để đến trường, và những buổi tập đàn với ban nhạc của trường bán công Lê Quý Đôn là những ngày thần tiên trong tuổi trẻ của mình.

Đêm văn nghệ mừng xuân sao sáng đầy trời, sân trường tối đen, trên sân khấu ánh đèn sáng soi người ca sĩ  tên Phượng, chị đơn ca bài “dấu chân địa đàng”. Tiếng ca vang vọng nghìn trùng trong trí, trong tim tôi…” Ngựa buông vó, người đi chùng chân đã bao lần, một đời bỏ ngõ đêm hồng, ngoài trời còn dâng nước lên …mắt em”.

Vâng, nước đã dâng lên trong mắt tôi, tim tôi khi nhớ lại những hoài niệm về mùa xuân trong tuổi thơ của mình.

San Dimas – California cuối năm 2021

Tôn Nữ Thu Nga

ĐỜI ĐÁNG SỐNG

Đầu năm 2020, tôi vừa từ nước Úc trở về sau khi hủy bỏ chương trình đi du ngoạn miền cao nguyên Việt Nam. Thời gian này, cao trào người da đen đang nổi dậy đòi hỏi nhân quyền, dân chúng tràn ra phố xá biểu tình cuồng nhiệt, cùng một lúc với con vi khuẩn Corona hoành hành khắp thế giới.

Khi về tới Mỹ, chúng tôi tự cách ly mình hai tuần cho chắc ăn trước khi gặp lại con cháu. Thế giới này, nhất là sống tại Mỹ, chúng tôi không có vấn đề gì về truyền thanh, truyền hình; mỗi khi muốn nói chuyện với con cháu là bấm vào màn ảnh trên điện thoại, thế là ông bà thấy được mặt mày của lũ khỉ con ngay. Tuy nhiên vẫn phải hy sinh những vòng tay nhỏ bé, những nụ hôn đầm ấm cho đến ngày gặp lại nhau.

Thế rồi hai tuần cũng qua, cháu ngoại lên thăm viếng, bà ngoại bận rộn nấu các món ăn Việt cho chúng. Mệt nhưng rất vui!

Hôm ấy, Evan – Thằng bé 13 tuổi mon men vào bếp, nhìn bà ngoại nấu ăn, cậu ta hỏi ngoại:

-Nana, bà có nghĩ là “Black lives matter” không?

Không cần suy nghĩ tôi bảo cháu:

-Evan, bà ngoại nghĩ là “all lives matter”

-Tại sao vậy hở nana-Tại vì nana làm nhà thương 38 năm, Nana chữa trị cho tất cả mọi người. Da trắng, da vàng, da đen, da đỏ đều bị đau đớn như nhau khi bị bệnh cho nên Nana thấy ai cũng có giá trị như nhau cả.

Dường như lời giải thích của tôi đủ làm cho Evan thỏa mãn điều thắc mắc trong trí óc còn non dại của nó nên chú nói cảm ơn nana rồi ra phòng khách tiếp tục chơi và quậy phá thằng em 10 tuổi của nó.

Từ hôm ấy, câu hỏi của Evan cứ vấn vương mãi trong tôi và câu trả lời của tôi dẫn tôi về lại các kỷ niệm xa xôi trong ký ức. Tâm trí tôi bổng hiện ra nhiều khuôn mặt của các người bệnh tôi đã săn sóc trong những năm đầu mới ra trường của mình.

Bệnh nhân đầu tiên của tôi là ông Bullock, một ông già Mỹ trắng, dáng dấp thật giống ông nội của tôi, mái tóc ông trắng xóa, hay ngồi xếp chân trên giường, mũi đeo ống dưỡng khí. Khoảng 4 giờ một lần, tôi phải vào gặp ông, pha thuốc, cho ông thở bằng cái máy áp suất để sẵn bên cạnh giường. Ông nằm đây đã lâu, quen thuộc với tất cả mọi người, hiểu vf nhớ các phương pháp hô hấp trị liệu cũng như tên các viên thuốc ông phải uống hàng ngày.

Lần đầu gặp tôi, ông không nói chi cả, sau khi nhìn tôi chuẩn bị thuốc men, máy móc, ông phán;

-Mày là “greenhorn”

Tôi ngẩn ngơ không hiểu, mặt mày ngơ ngác như mán về rừng, im lặng nhìn ông, thế là ông ta bắt đầu ra lệnh:

-Cái máy này phải dời ra đây.

-OK!

– Mày phải thêm “normal saline” cho tao vì 3cc không đủ.

-OK!

-Tao không mang ống dưỡng khí khi thở máy.

-OK!

Thấy những điều ông nói vô hại nên tôi bằng lòng làm theo ý ông. Sau đó, không bao giờ ông bắt bẽ tôi điều gì cả.Khi xong việc, tôi đi kiếm Micky, bà xếp, tôi hỏi bà:

-Micky ơi, greenhorn nghĩa là gì? Tại sao ông Bullock gọi tôi như vậy?

Micky phá lên cười:

_ Greenhorn là tiếng lóng, ám chỉ những người tuổi trẻ, không có kinh nghiệm nhiều. Ông ta thấy cô còn trẻ như đứa 12 tuổi nên làm tàng đấy.

Thế là câu chuyện ông Bullock gọi tôi là greenhorn được truyền đi khắp chốn trong khu vực bệnh viện nhỏ xíu chưa tới 20 cái giường.

Hôm ấy khoảng 11 giờ trưa, tôi mang túi thuốc tà tà bước vào phòng ông Bullock lần nữa. Chưa kịp bắt đầu, Loretta xuất hiện. Loretta là người y tá Mỹ ñen, khoảng 40 tuổi, bà thấp và tròn trùng trục, tánh tình vui vẻ, lúc nào cũng nói cười líu lo. Bà dựa bên khung cửa, lấy ngón tay dứ dứ vào ông Bullock, rồi chỉ tôi:

-Cô này là bạn của tôi đó nghe, ông phải tử tế với cô ấy nhé!

-Ok Lorreta!
Ông nhìn tôi mĩm cười. Loretta mãn nguyện đẩy xe thuốc đi qua phòng khác.

Khoảng mười phút sau, người y tá trưởng Jim Goodman tạt qua nhìn chúng tôi, ông nheo mắt, cười:

-Mọi chuyện tốt cả chứ?

Tôi gật đầu

-Cám ơn ông Goodman!

Ông ta chỉ vào ngực mình:

-Gọi tôi là Jim được rồi.

Jim chào Mr. Bullock rồi quay đi. Jim Goodman khoảng hơn 40 tuổi, Mỹ trắng, có râu cá trê, ông ta xoắn râu bằng sáp cho nó vễnh lên như râu ông họa sĩ Dali. Xong phần trị liệu, ông Bullock nhìn tôi:

-Chà, mới vào làm việc ở đây mà mày có nhiều người bảo vệ quá nhỉ? Tao đâu có dữ dằn như tụi nó nghĩ.

Tôi mĩm cười:

-Tôi không nghĩ là ông dữ nhưng những người ấy thấy tôi còn mới nên họ quan tâm đến tôi thêm một chút thôi. 

Bệnh nhân khác của tôi là ông James Washington, Ông Washington là một ông Mỹ đen khổng lồ từng đi đánh giặc ở Đại Hàn và Việt Nam. Ngày xưa hút thuốc rất nhiều , về già bị bịnh phổi tắc nghẽn mãn tính ( chronic obstructive pulmonary disease) Ông này thương tôi lắm, có thể ông có yêu cô Việt Nam hay Đại Hàn nào đó trong những năm đi lính. Ông xem tôi như đứa con gái của mình. Ông bệnh rất nặng, ra vào nhà thương như người ta đi chợ. Ông thích ở nhà thương hơn ở nhà vì những khi ông lên cơn khó thở, ông có y tá hoặc chuyên viên hô hấp trị liệu đến giúp liền. Khi bị căn bệnh như ông, chất thán khí trong phổi rất cao vì những túi chứa khí trong phổi bị vỡ, mạch máu nhỏ bị hủy cho nên sự trao đổi khí giảm thiểu. Số lượng dưỡng khí thẩm thâu vào máu ít và chất thán khí tích lũy rất nhiều. Khi phổi bị tàn phá trong giai đoạn cuối; bệnh nhân cứ ngủ gà ngủ gật suốt ngày và sự trao đổi khí càng tệ hơn nữa. Đây là trường hợp của ông Washington. Suốt ngày, có khi cả ban đêm, ông ngồi trong chiếc ghế bành rộng kê bên cạnh giường, mũi mang ống dưỡng khí, ống dài đủ cho ông kéo vào phòng tắm, ông đi chầm chậm đẩy cái xe rất khó khăn và mệt nhọc. Thường thì ông ngồi yên nhắm mắt ngủ từng giấc ngắn, giật mình liên miên khi chúng tôi vào phòng gây tiếng động, ông giương đôi mắt lờ đờ nhìn quanh quất như vừa tỉnh cơn mộng. Vì tình trạng ấy, tôi thường đọc kết quả máu động mạch của ông vào buổi sáng để quyết định chương trình trị liệu cho ông mỗi ngày.

Vì thán khí quá cao, tôi phải cho ông thở khí với áp lực dương, hai giờ một lần, mỗi lần 15 phút. Trong suốt 15 phút ấy, tôi ngồi bên ông, nhắc nhở ông phải ngậm miệng cho kín quanh ống thở, lay ông tỉnh dậy khi ông chợt ngủ, sửa đầu ông cho thẳng lại khi ông ngủ quên, khuyến khích ông cố gắng ho cho đàm rãi xuất ra, làm vật lý trị liệu khi xong phần thở máy. Một ngày làm việc của tôi là tám tiếng, riêng ông tôi phải dành ra ba đến bốn tiếng và phần còn lại tôi phải chia ra cho 5 bệnh nhân khác có tình trạng khả quan hơn. Mỗi ngày, sau khi lái xe 45 phút về đến nhà, tay chân tôi rời rã, đầu óc tôi tê liệt, nhiều khi tôi đặt mình xuống ghế dài, nhắm mắt và thiếp đi một giấc ngắn, rồi phải tỉnh lại để nấu bữa cơm chiều. Đôi khi thấy tôi mệt quá, chồng tôi đi mua bánh mì thịt tại McDonald cho cả nhà ăn.

Ngày hôm sau, tôi chẳng có gì để đem theo ăn trưa, thường thì tôi phải chạy qua nhà ăn trong dãy bệnh xá khác, đi bộ 5 phút. Ngọn đồi quanh khu bệnh xá tuyệt đẹp đầy hoa nở trong mùa xuân; bên vệ đường, hàng cây cọ xoè lá che bóng mát, đôi khi tôi thấy các con sóc, thỏ chạy tung tăng, thỉnh thoảng có bầy nai ngơ ngác nhìn tôi từ xa. Cảnh vật đẹp như vậy nhưng ít khi tôi có thì giờ thưởng thức vì thời gian nghỉ trưa chỉ 30 phút mà mất quách 10 phút đi về. Thời gian ấy luyện cho tôi thói ăn nhanh cho đến tận bây giờ. Thói quen ấy không tốt vì đôi khi bạn bè đi ăn với nhau, họ từ từ chậm rãi, nhẩn nha trò chyện thì phần tôi ăn đã sạch trơn, xấu hổ lắm!

Loretta thường mời tôi đến ăn trưa ở phòng ăn của nhân viên nếu biết tôi cần mua thực phẩm. Bà cho tôi ăn những thức ăn người da đen yêu thích như gà chiên, chân heo muối hầm với đậu, cá catfish chiên giòn, khoai tây nghiền. Hai món khoai tây xay và giò heo muối nấu đậu bà làm rất ngon vì bà bỏ nhiều bơ, nhìn vào phần ăn, bơ chảy vàng lườm; ngon nhưng hại sức khỏe và làm thân thể trở nên béo phì. Biết vậy nhưng tôi cũng nhắm mắt thưởng thức. Lâu lâu Loretta nhìn tôi bảo:

-Cô cần đi cắt tóc!

Lần khác bà ngắm nhìn hai bàn tay khô héo của tôi và bảo:

-Cô cần dùng kem dưỡng da sau khi rửa tay, bà chạy vào phòng tiếp liệu, lấy chai kem bỏ vào túi áo cho tôi. Năm ấy tôi mới hai mươi ba tuổi, đã có hai đứa con nhưng tôi giống như con bé mười hai tuổi nên mọi người chung quanh thường bảo bọc che chở tôi. Nhất là Loretta, bà như một người mẹ mới, thay thế cho mẹ tôi, người còn đang nhớ mong tôi từ chốn quê nhà.

Có một anh y tá người Mễ, khoảng tuổi tôi, tánh tình vui vẻ lắm. Anh hay chọc cười mấy bà già bệnh nhân, có lần tôi bắt gặp anh ta vừa thay khăn trải giường vừa uốn éo cái thân hình tròn trĩnh của mình và hát:

– If you want my body and you think I am sexy.. (Rod Steward)

Bà bệnh nhân Maria Sanchez ngồi cười ngặt nghẻo trong cái ghế cạnh giường. Cười cho nhiều rồi ho khèn khẹt báo hại tôi phải lật đật cho bà thở thuốc. Anh Mễ này cũng thích nói chuyện vẩn vơ với tôi, anh hay hỏi về chiến tranh Việt Nam và cuộc sống của tôi lúc tôi còn bên ấy; có khi còn bảo tôi kiếm giùm cho anh một cô bồ Việt Nam vì anh chán con bạn gái Rosa lắm rồi, lý do là cô ta đã có ba đứa con với chồng cũ mà đòi hỏi hành hạ anh đủ thứ. Bà Loretta bảo tôi:

-Thằng này nói dóc lắm, có hai ba con bồ một lần, thế nào nó cũng bị mấy con bồ giết chết!

Đôi khi hắn chọc ghẹo làm tôi giận lên quát lớn:

-Shut up Kotex!

Tên hắn là Cortes. Loretta cười sằng sặc khi nghe tôi gọi hắn như vậy. Cortes cũng cười, chạy đi chổ khác rồi tiếp tục tìm người để chọc ghẹo!

Mấy hôm nay ông Washington bị trở bệnh vì suy thận, phổi ông ta có nước, từ ngoài cửa tôi cũng nghe được tiếng thở rì rào như tiếng hai ngón tay vo ve mấy sợi tóc. Ông từ chối không muốn chúng tôi đặt ống thở vào khí quản để nối vô máy hô hấp. Ông nói rằng ông đã trãi qua nhiều lần như vậy rồi nên lần này ông muốn được yên thân, chuyện gì xảy ra sau này ông chấp nhận, Thế là chúng tôi phải cho ông thêm thuốc, cho ông thở máy áp suất khí dương mỗi giờ với rượu Ethyl để đánh tan bọt trong phổi, giúp ông khạt ra đờm giãi để dễ thở hơn. Ông không còn ra khỏi giường nữa. Chúng tôi gọi gia đình ông và nhắn nhủ họ lên thăm ông thường xuyên hơn trong vài ngày tới. Mỗi khi tôi vào phòng ông, hai cô con gái ngồi im lặng bên cạnh giường, một cô cầm bàn tay ông vuốt ve, cô kia cầm tấm khăn ướt, lau mấy giọt mồ hôi trên trán cho cha mình. Đôi mắt các cô lo buồn ủ dột. Thấy tôi vào phòng, những đôi mắt ấy thường lóe lên nhiều hy vọng nhưng lòng tôi thì buồn baõ vô cùng vì tôi biết không chóng thì chầy, ông James Washington sẽ từ bỏ mọi người để đi vào một cõi vô tận khác.

Ông Washington từ giã chúng tôi vào một ngày buồn ảo não. Tôi còn nhớ khi loa phóng thanh gọi “Code Blue” tôi bỏ bữa điểm tâm chạy chí tử lên phòng ông Washington, căn phòng số hai, nơi tôi làm việc thường xuyên. Bước vào phòng, hình ảnh đầu tiên là ông ấy đang được bốn nhân viên khiêng lên nằm trên tấm ván để bắt đầu cấp cứu. Cortes hai tay bóp hơi dưỡng khí vào mặt nạ trên mặt ông. Tôi trèo lên cái bục gổ kê bên giường ông, định vị trí, ép hai bàn tay mình, dồn hết sức để ép trái tim hy vọng nó sẽ đập lại. Ông Jim khám nghiệm động mạch để đếm nhịp tim và một y tá khác nối máy đo tim vào trên ngực để kích mạch. Khi thấy tôi mệt, ông Jim kéo tôi rời khỏi bệnh nhân, trèo lên bục tiếp tục cấp cứu. Tôi bước tới đầu giường, phụ tiếp khí với Cortes, ông Washington to lớn quá nên mọi sự việc đều rất khó khăn khi thực hành. Hai tay tôi áp lên vành mặt nạ bên hai má ông, giữ làn hơi bơm sâu vào phổi; lúc ấy mọi sự diễn ra như trong mơ, chúng tôi ai nấy đều cố gắng thực hiện phần công việc của mình trơn tru như cái máy và guồng máy ấy chỉ ngừng chạy khi bác sĩ trực kiểm điểm tình trạng bệnh nhân xong và tuyên bố giờ lâm tử.

Những ngày sau, khi đi ngang căn phòng số hai vắng lặng, tôi bước thật nhanh, không muốn nhớ đôi mắt lờ đờ mệt mỏi của ông nhìn tôi, đôi mắt chứa chan một niềm tuyệt vọng.

Trong khoảng thời gian tôi làm việc nơi đây, tôi học hỏi nhiều kinh nghiệm mới, không chỉ cho nghề nghiêp mà còn nhiều chuyện hay ngoài xã hội, giúp cho tôi thoát được cá tính ngây thơ, non dại và cả tin của mình trong đời sống, trên vùng đất mới này.

Hồi ấy, mọi người quanh tôi ai cũng thông minh và tử tế cả. Vì tánh bản thiện, tôi không để ý nhiều về những vấn đề phức tạp trong đời sống, chỉ biết chăm chú vào học hỏi, làm việc chăm chỉ hăng say để đem tiền lương về phụ giúp gia đình. Còn trẻ tuổi nên tôi có nhiều sức khỏe; thức khuya, dậy sớm; dù có đau bệnh cũng gắng sức vượt qua mọi sự. May cho tôi, nơi tôi làm việc là một bệnh viện nỗi tiếng khó khăn, hiếm khi học trò muốn đến thực tập và họ cũng chỉ tuyển nhân viên xuất sắc nhất. Nơi đây, tôi được họ dang tay đón nhận vào một gia đình gom góp mọi sắc tộc, mọi màu da nhưng cùng có mục đích chính là xoa dịu vết thương, làm giảm nỗi đau cho những ai cần đến.

Một ngưới cần và tìm đến với chúng tôi thường xuyên là bà Chao. Bà bị hen suyễn nặng nên khi bà không tự săn sóc sức khỏe tại nhà thì bà đến với chúng tôi. Nhà bà ở San Marino, một thị trấn đẹp và giàu có thuộc vùng Los Angeles. Bà là nhạc sĩ dương cầm, tánh tình hiền hòa giản dị, thích ca nhạc và mỹ thuật. Trong lúc tôi làm việc với bà, bà dạy cho tôi cách xếp hình con chim, con cá bằng dây nơ đủ màu. Chúng tôi cột sợi cước rồi treo lên trần nhà. Nhờ thế căn phòng bệnh của bà vui mắt như nhà giữ trẻ.

Ngoài tiếng loa phóng thanh của bệnh viện thỉnh thoảng vang lên từ cửa chính, căn phòng bà tràn ngập âm thanh của nhạc cổ điển. Mỗi bản nhạc bà thường nói cho tôi biết: Bản này là “Dạ Khúc” của Chopin, ông ấy người Ba Lan…bản này là “Symphony #40” của Mozart với tiếng nhạc khi réo rắc khi nhẹ nhàng. Thế nhưng bà thích nhất là bản “Bốn Mùa” của Antonio Vivaldi! Vì bà cảm thấy thời gian trôi qua theo dòng nhạc và bà tưởng tượng ra được hình ảnh tuyệt đẹp của trần thế trong khi bà bị giam hãm trong những căn phòng chật hẹp do sức khỏe yếu kém của mình. Bà cho tôi nghe tiếng chim hót qua dòng âm thanh của mùa xuân, sức nóng mãnh liệt trong nắng hè làm lũ chim đứng ủ rũ, rồi líu ríu gọi nhau khi trời chuyển gió. Mùa thu đến, không khí bắt đầu thoáng mát, lá trở màu vàng rực, các nông gia làm lễ hội trong mùa gặt, tiếng chân họ nhảy nhót trên đám lá khô giòn. Mùa đông của Vivaldi bắt đầu bằng tiếng thì thầm nhẹ nhàng của bông tuyết mong manh, dân làng nấp sau cánh cửa, trốn lạnh bên lò sưởi, lắng nghe tiếng gió và mưa vật vã ngoài sân…Bà Chao say sưa giảng dạy cho tôi, muốn cho tôi được chia sẽ với bà thế giới huyền diệu của âm nhạc. Nhưng than ôi, chỉ sau một thời gian ngắn, bà không vào bệnh viện nữa và tôi chắc là bà đã bay theo chiếc lá thu vàng hay tan biến như đóa hoa tuyết của Antonio Vivaldi.

Một hôm trên đường đi làm, 5 giờ sáng, chiếc xe cọc cạch cũ mèm của tôi bị dở chứng, nằm đường trong một khu vực rất nguy hiểm tại hướng tây bắc của thành phố Los Angeles. Tôi lội bộ đến tiệm Seven/Eleven gần đó, nhờ họ điện thoại gọi cảnh sát đến giúp. Người chủ tiệm bảo tôi chờ trong tiệm, đừng có ra ngoài cho đến khi cảnh sát tới. Chừng 10 phút sau, thấy có chiếc xe đen trắng chạy đến, tôi bước ra, trình bày tự sự với …người bạn dân thì anh ta bảo tôi khóa xe lại, anh sẽ chở tôi đến sở và rồi sẽ câu xe tôi đến tiệm sửa xe. Thấy tôi ngần ngại anh ta bảo rằng tôi không thể ở đây lâu hơn nữa vì khu vực này không an toàn. Lúc ây tôi mới chịu trèo lên xe, ngồi ghế trước chứ không bị ngồi băng sau như mấy ông say rượu hay tội phạm khác. Lúc tôi đến sở, các bạn đồng sự tò mò nhìn tôi bước ra từ chiếc xe cảnh sát. Khi rõ chuyện ai cũng thở phào yên tâm và tình nguyện chở tôi đi nhận xe sau giờ tan sở. Hồi ấy, tôi rất trẻ, ốm nhách giống như đứa con nít nên được mọi người rất quan tâm.

Sau hai năm, mệt mỏi vì lái xe đi làm quá xa xôi, tôi xin đổi về một bệnh viện lớn gần nhà. Tôi được làm thường trực trong phòng cấp cứu. Đây là một trung tâm chấn thương nên đời làm việc của tôi rất sinh động. Tôi phải tiếp xúc với đủ hạng người, đủ màu da; vui nhất là gặp người Việt Nam. Đa số nói tiếng Việt và tôi tha hồ làm thông dịch viên cho nhiều ông bà cụ hoặc những người vừa nhập cư. Tuy  không còn nhiều liên hệ thân thiết với bệnh nhân như khi tôi làm trên vùng Altadena nhưng tôi cũng chia sẽ nhiều niềm vui nỗi buồn với các bệnh nhân dù chỉ trong vài ba giờ ngắn ngủi.

Hôm ấy, có một cảnh sát viên bị thương nhẹ. Vì ở trong nhóm chuyên viên cấp cứu, tôi phải luôn luôn có mặt khi có người bị thương được chuyển vào đây. Nhìn người bệnh mắt nhắm nghiền mặt nhăn nhó cầm cự với vết thương trên vai tôi thấy anh quen lắm. Nghe tiếng tôi gọi, anh mở mắt nhìn, ánh mắt lóe lên một tia sáng vui mừng, dù đau anh lên tiếng: I knew who you are! Tôi mĩm cười: Yes, you saved me once before, now it is time for me to return the favor! Anh yên tâm nhắm mắt nghỉ ngơi sau mủi thuốc chống đau và ngoan ngoãn nằm yên cho chuyên viên quang tuyến làm việc.

Vài hôm sau đó, tôi lên phòng bệnh thăm viếng anh, anh trông có vẻ khỏe hơn nhiều, môi nở nụ cười khi nhận ra người thăm bệnh. Bên cạnh giường, một người phụ nữ trẻ cũng nhìn tôi mĩm cười:

-Cám ơn cô, Gary kể cho tôi nghe về cô rồi, và Gary bảo rằng trông cô bây giờ không còn giống 12 tuổi nữa!

Tôi cười xòa:

-Cám ơn nhé ông cảnh sát, nếu tôi còn giống như xưa thì chắc bệnh nhân sẽ không cho tôi giúp họ đâu.

Sau mười mấy năm làm việc bên khu vực người lớn, tôi đổi qua khu săn sóc trẻ thiếu tháng. Cuộc đời lắm nổi thăng trầm, buồn vui đủ chuyện. Mỗi ngày là một bức tranh của đời sống, không ngày nào giống nhau cả. Có lúc sung sướng hân hoan ôm trên tay một đứa trẻ bụ bẩm hồng hào, khóc to điếc cả tai; có lúc tim đập loạn xà ngầu đợi chờ đứa bé non nớt thiếu tháng rồi đem cả tâm sức mình cấp cứu thân thể bé bỏng xanh xao vừa nguyện cầu xin cho hơi thở mong manh bắt đầu cuộc sống. Có lúc ủ dột buồn đau nhìn người sản phụ ôm cái thân thể bé tí lạnh lẽo vào lòng với những dòng lệ tuôn tràn trên má. Sau gần bốn mươi năm thì tôi nghĩ việc, về vui thú điền viên.

Hôm qua, bà bạn thân Annette Chiu của tôi vừa mới qua đời vì bị nhiễm Covid. Bà để lại trong tôi một niềm trống vắng và hiu quạnh khó tả. Bà là người gốc Trung Hoa, du học sinh cuối thập niên 1960. Chồng chết sớm, bà đi làm miệt mài nuôi  bốn người con thành tài; sau đó bà trở thành một nhiếp ảnh gia nổi tiếng. Nhiều năm chúng tôi cùng tráng phim và in hình với nhau, rồi tôi dẫn bà về Việt Nam chơi. Khi đã lớn tuổi, bà không thường đi ăn tiệm và đi du lịch nữa thì chúng tôi hay ghé đến thăm bà, mang theo các thức ăn Việt bà thích. Lần nào từ giã, bà cũng rơm rớm nước mắt nhìn theo. Quay mặt ra đi tôi cũng phân vân không biết lần này có phải lần cuối hay không? Rồi một ngày…

Đời chúng ta thật là ngắn ngủi! Khi còn trẻ chắc không có nhiều người nghĩ ngợi về điều đó. Tuy đời sống ngắn nhưng đời ai cũng đáng sống cả. Dù chỉ thêm một ngày để được thấy màu sắc của cỏ hoa, âm thanh trong cuộc sống, cảm nhận làn gió mơn man trên má, giọt mưa lạnh ngắt trên bàn tay, đừng quên những giọt lệ mặn, ấm trên môi khi nghe nhạc sĩ Võ Tá Hân khẩn khoản: “Ví mà con đổi thời gian được. Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười” (Thơ của thi sĩ Trần Trung Đạo)

Hãy sống vui vì đời ai cũng đáng sống cả. Dù có khó khăn, buồn bã cực nhọc hay vui vẻ sung sướng, ít nhất chúng ta cũng vẫn còn sống trên cuộc đời này, cho nên đối với tôi, “all lives matter”.

Trong dịp trò chuyện gần đây với Evan, tôi nhìn vào mắt nó:

“Evan, bà ngoại mong muốn con suy nghiệm về những điều bà vừa kể…”

Trong ánh mắt màu xanh lá non của Evan, những tia sáng long lanh lúc bình minh lóe lên rất dịu dàng.

Tôn Nữ Thu Nga

San Dimas, 05/22/2021

NHỚ MẸ

Có những nẻo đường đi hoài không hết
Có những nẻo đường lẩn thẩn mình ta
Có những nẻo đường dẫn về đất mẹ
Quanh quẩn tìm hoài những lối bơ vơ.

Sao con không thấy mẹ ngồi sau cửa
Nhìn nắng lung linh trên bụi tre già
Sao con không thấy mẹ cười môi thắm
Tay dắt bé thơ qua mấy chuyến đò

Ngang dọc đi về tóc bay vai nhỏ
Áo tím nhạt nhòa thuở ấy ngày xưa. 
Ngày nay con đi trên đường miệt mài
Mây trắng đầy trời rừng núi mênh mông

Nhớ những con đường ngập đầy cát bụi
Lối nhỏ về nhà có mẹ chờ trông. 
Sao con không thấy mẹ ngồi bên cửa
Nhìn nắng hanh vàng trên mấy hàng cau

Sao con không thấy mẹ gầy như liễu
Đôi mắt buồn thương một nỗi mong chờ
Đi hết đường đời mẹ về thiên cổ
Con đứng một mình trong cõi bơ vơ
Mắt dõi xa vời tìm hình ảnh mẹ
Suối tóc đen dài trong bức tranh xưa.

Tôn Nữ Thu Nga 

VU LAN

Rằm tháng Bảy hoặc ngày mười lăm tháng Tám dương lịch, tương tự như người Hoa và Việt, người Nhật Bản hành lễ Ubon hay Obon, còn gọi là Bon hoặc Urabon. Trong dịp lễ này họ còn cử hành thêm lễ Toro Nagashi tức là lễ thả đèn trên sông để cầu nguyện cho kẻ quá cố.
Nguồn gốc của lễ Ubon hoặc Vu Lan phát xuất từ Phật Giáo Trung Hoa, truyền qua Nhật Bản từ đầu triều đại Meiji. Tôn giáo Á Đông, tin tưởng rằng linh hồn của tổ tiên và người quá cố trở về nhà trong ngày hội Vu Lan. Thức ăn, hoa quả, nhang đèn được bày biện trước bàn thờ, danh từ Nhật Bản là Butsudan, để cầu nguyện cho sự an lạc thiên thu. Đèn giấy treo trước nhà hướng dẫn linh hồn về đoàn tụ. Trong khu vực Hiroshima, đèn màu thắp lên cạnh các nấm mộ lâu năm, đèn trắng dùng cho những người mới qua đời trong vòng một năm.

Ubon là một trong hai dịp lễ quan trọng trong năm đối với người Nhật. Hầu hết các cơ quan hành chánh và cơ sở thương mại đóng cửa nghỉ phép vào ngày mười ba đến mười lăm tháng tám. Nhiều người đi làm xa được chủ cho về thăm gia đình để cùng nhau trẩy hội Vu Lan.
Trong những ngày đầu, ngoài việc đi thăm mộ và cúng giỗ, người Nhật Bản còn có tục lệ nhảy múa gọi là Bon Odori để chào đón linh hồn tổ tiên. Nhiều nơi, vào ngày cuối của tuần lễ Ubon, vào mỗi hoàng hôn dân chúng thả đèn xuống sông hoặc biển, họ tin rằng linh hồn thân nhân sẽ đi theo ánh đèn về miền cực lạc.
Lần này đến Honolulu, tôi ngẫu nhiên khám phá rằng mình đang viếng Hawaii trong tuần lễ Ubon. Từ đầu tuần, bắt đầu sáu giờ rưỡi chiều, các vũ công Nhật bản mặc Kimono và Tabi, hát múa vinh danh tiền nhân trước khách sạn Hawaiian Regent. Đây là lần thứ bảy khách sạn này bảo trợ chương trình lể Urabon. Vào đêm mười lăm tháng tám, tối chủ nhật, chương trình rước đèn hoa bằng thuyền độc mộc bắt đầu vào lúc tám giờ tối tại kênh đào Alawai. Tại đây, một ngàn cái đèn giấy sẽ được thả xuống nước.

Lòng tôi hân hoan mở hội, hy vọng được thấy một đêm Hawaii huyền diệu, bí ẩn với những ánh đèn lung linh trên dòng nước, được nghe tiếng Hạ uy cầm reo trong gió, tiếng lá dừa ngả nghiêng xào xạc và nhất là mùi thơm dịu dàng phảng phất của hoa sứ, một kỷ niệm của Hawaii tôi luôn luôn cưu mang lưu luyến. Năm ngoái, tôi về Huế, được đi thuyền trên sông Hương, nghe ca Huế và thả đèn hoa đăng, lòng còn mang nhiều kỷ niệm thật là êm đềm, nên tôi rất mong được hưởng thêm một kinh nghiệm mới. 
Sáu giờ chiều, sau khi ăn tối thật nhanh tại International Market, tôi vội vã vác ba lô máy ảnh lên lưng, băng qua ngã sau chợ, đi bộ tới kênh đào Alawai. Con đường tráng xi măng dọc theo bờ kênh rất tiện cho bộ hành dạo mát, trên lề đường hoa sứ trắng, hồng tỏa hương êm dịu theo làn gió thoang thoảng. Những cây dừa cao vút nghiêng bóng trên bờ nước và phượng vĩ vẫn còn hoa rực rỡ làm hồn tôi man mác nhớ những kỷ niệm tuổi học trò áo trắng ngày xưa.
Đang tìm chỗ an tọa để chờ màn đêm rơi xuống, tôi chợt thấy một đoàn thuyền độc mộc từ hướng cầu McCully chèo ngược dòng kênh. Trên mỗi chiếc thuyền là một cái đèn giấy trang hoàng diêm dúa, gắn kỹ lưỡng trên một tấm ván lớn, đặt thăng bằng ngang lòng thuyền. Ba cô gái trẻ người địa phương chèo ngược dòng nhanh nhẹn. Thấy tôi chụp ảnh trên bờ các cô chậm tay nhìn lên. Tôi gọi:
-Cho tôi chèo thuyền với!
Cô nhìn tôi:
-Bà có mái chèo không?
Tôi lắc đầu, tiếc thầm bị cơ may dang dở. Mấy cô nói: Sorry, rồi chèo thuyền đi mất. Từ địa điểm hành lễ, tiếng chiêng trống trỗi lên vang dội, kinh cầu bằng Nhật Ngữ và Anh Ngữ, mặc dù đây là đại lễ Phật Giáo nhưng tôi có nhận ra thêm những lời kinh Công Giáo. Khi đọc danh sách của tử sĩ tôi nghe lời cầu nguyện cho nạn nhân chiến cuộc trong các cuộc đại chiến, nhất là những linh hồn uổng tử tại Hiroshima, Nagasaki và Pearl Harbor. Sau nghi lễ tế bái, các đoàn vũ công múa trống, múa đèn. Tôi ở bên bờ sông đối diện, trời lại nhá nhem tối nên không thấy được tất cả những chi tiết hành lễ. Lúc này, tất cả các lồng đèn đều được thắp sáng trên các thuyền độc mộc, tụ tập phía tôi đứng. Bên kia sông, cả ngàn cái đèn giấy đã lung linh ánh nến. Biết rằng phải chụp ảnh đêm, không đèn chớp nên tôi dùng loại phim nhậy sáng, thay đổi tốc độ và khẩu độ khác nhau để hy vọng có tấm hình đẹp. Tôi miệt mài bấm hết ba mươi sáu tấm để rảnh tay thực hiện mưu đồ mới của mình.

Chụp hình xong, cất máy gọn gàng vào ba lô, tôi quan sát các chiếc độc mộc quanh mình. Các anh chị chèo đò lúc này đang nghỉ ngơi, uống nước và ăn tối. Biết rằng nếu tôi kiếm được cái mái chèo thì cơ hội lên ghe của tôi sẽ trăm phần hy vọng. Nhìn thấy một chiếc thuyền đôi chở cái đèn lồng màu hồng thật lớn, chèo bởi sáu anh chàng Hawaiian da đen bóng, sau thuyền họ đem thêm mấy cái mái chèo. Tôi mon men bước đến làm quen và xin chèo thuyền với họ. Sau vài phút ngẫm nghĩ, một anh gọi qua chiếc thuyền bên cạnh xin phép giùm cho tôi được lên thuyền vì thuyền này chỉ có hai tay chèo và anh ta đưa tay rút mái chèo cho tôi mượn. Anh chèo đò trên chiếc thuyền mới hỏi tôi:
-Bà có biết chèo không? 
Tôi do dự chả biết trả lời như thế nào nhưng đánh bạo nói dốc:
-Tôi rất thông minh, cần vài phút thực tập là tôi chèo được ngay!
Anh đưa tay chỉ tấm ván giữa thuyền.
– OK, bà ngồi đây.
Bây giờ nhìn kỹ lại thấy chiếc thuyền sao mỏng manh quá làm bụng tôi bắt đầu đánh lô tô. Biết rằng với tấm thân bồ tượng này, nếu tôi trèo không khéo thế nào cũng lọt xuống sông, làm lật thuyền và làm trò cười cho du khách đang ngồi hai bên bờ. Sau vài giây ngẫm nghĩ, biết rằng sông không sâu lắm, tôi lội đại xuống sông, mang cả giày, trù tính rằng nếu rủi ro tôi có bị lật thuyền thì trước sau cũng ướt, chi bằng bị ướt chút chút trước cho quen. Nước bên hông thuyền chỉ ngang đùi, tôi chỉ sợ cho túi máy ảnh đầy phim và dụng cụ đắt tiền nên nâng lên cao, đặt cẩn thận trong lòng thuyền trước khi nhảy vào thuyền. Người đàn ông trung niên ngồi đầu mũi thuyền tên là Sandy, thấy tôi cầm mái chèo, anh cười khì bảo rằng tôi cầm ngược. Da mặt tôi rất dầy từ khi trở thành nhiếp ảnh gia nên tôi không cảm thấy ngượng ngùng chi cả, tôi bảo anh:
-Anh dạy cho tôi cách chèo cho đúng để tôi khỏi làm lật thuyền nhé.
Anh ta chỉ tôi cách cầm chèo và cách vận động các bắp thịt vai và hông, cách chuyển hướng thuyền rồi bảo:
-Khi nào tôi chèo bên phải thì bà chèo bên trái.
Thì ra chèo thuyền còn dễ hơn là đạp xe đạp, mấy hôm trước, ngày nào tôi cũng đi bơi mà chẳng thấy tay chân mỏi mệt chi cả nên hôm nay tôi cảm thấy khỏe và tự tin. Cuối thuyền, cậu thanh niên trẻ mới mười sáu tuổi tên Mike, người Mỹ trắng, sinh tại Hawaii nên da cũng ngăm ngăm đen vì hay đi trượt sóng. Mike muốn qua học đại học Colorado sau khi tốt nghiệp trung học. Anh Sandy đã hơn năm mươi tuổi, mang dòng máu Hawaii và Trung Hoa, ngày xưa khoảng năm 1970 anh ta đi lính qua Việt Nam. Hai người tỏ ra rất thân thiện, tử tế và vui vẻ.
Bên bờ công viên, buổi tế lễ kết thúc, một hàng ca sĩ và vũ công mặc quốc phục Nhật Bản bước sát bờ nước, hai tay cầm đèn, múa lòng vòng và hát lên những lời ca thật trầm buồn êm dịu. Tiếng ca như làn gió nhẹ mơ hồ trên mặt nước, như cánh bướm lượn trên hoa, như tiếng mẹ ru ơi hời buổi trưa hè vắng…
Từng chiếc độc mộc bắt đầu lìa bến, đến phiên thuyền chúng tôi di chuyển, thấy Sandy dùng mái chèo đẩy thuyền tôi cũng bắt chước anh. Chúng tôi chèo thuyền qua bờ sông đối diện. Bên này các vị có nhiệm vụ gắn đèn, buộc vào đuôi thuyền của chúng tôi một hàng đèn giấy, ít nhất là năm mươi chiếc. Một anh nhìn sát mặt tôi cười:
-A, có một du khách!
Trong cuộc lễ này, các người chèo thuyền thường là người bản xứ nên anh ta có vẻ ngạc nhiên thích thú khi thấy khuôn mặt lạ. Tôi cười và đáp:
-Một du khách can đảm, vì đây là lần đầu tiên tôi được chèo thuyền!
Anh đẩy thuyền ra dòng nước sâu mỉm cười:
-Have a good time!
Tôi sung sướng vui vẻ cám ơn anh ta và chèo ra giữa dòng. Tay tôi cầm cái bơi chèo, khuấy vào nước mát, bên tai gió hiu hiu thổi, tiếng ca vương vấn trầm bổng trong không gian đưa thuyền nhè nhẹ trôi. Trên trời trăng lưỡi liềm, tinh tú long lanh vằng vặc, giải Ngân Hà rạng rỡ trên cao, chia phôi tình Ngưu Lang Chức Nữ. Trước mặt tôi, thành phố Honolulu đã lên đèn, nhìn những cửa sổ cao ốc đèn sáng, tôi liên tưởng đến những cái đèn lồng, không khác mấy những ngọn đèn vuông vức chạy theo chúng tôi sau lưng thuyền.
Bờ kênh phía đường Alawai du khách đứng ngồi ngổn ngang chiêm ngưỡng cuộc diễn hành, đôi khi chúng tôi bơi gần bờ, du khách vỗ tay vang dội để khích lệ, tôi khoái chí cười toe toét đưa mái chèo lên vẫy giống như một quán quân vô địch làm Mike cười nắc nẻ. Qua một đoạn khác, phía gần sân golf, một bầy thanh nữ hát hò có vần có điệu, cổ võ vang lừng thật là vui.
Gần cầu McCully du khách bắt đầu thưa thớt, chúng tôi im lặng chèo qua khúc kênh tối, chợt tôi nghe tiếng kinh tụng trầm bổng rì rào phát ra từ bờ cỏ. Tiếng kinh dìu dặt thê lương, buồn như tiếng niệm ngâm nga cầu cho linh hồn về miền cực lạc. Một cụ già tay cầm tràng hạt, cúi đầu miên man tụng niệm. Lòng tôi chợt cảm thấy dày vò bởi một nỗi ai oán khó tả, không khác với nỗi buồn khi tôi đứng trên đài tưởng niệm Arizona, nghĩ đến những chiến sĩ trẻ bằng tuổi con mình đã hy sinh vì tổ quốc. Tôi cũng thì thầm một lời cầu nguyện cho những linh hồn quá cố được trôi về một cõi bình an, như những chiếc đèn lồng lặng lờ trôi về bến mới.

Thuyền cập bến, sau khi giúp Sandy và Mike kéo mũi thuyền lên bờ, tôi cám ơn và từ biệt. Vòng qua cầu Mc Cully, tôi lên phố để về lại Kuhio Beach, lòng cảm thấy đầy sinh khí và vui sống. Nhìn quanh, so với cả mấy chục ngàn du khách tôi cảm thấy mình thật may mắn vì được trải qua một kinh nghiệm thật thích thú. Trong đêm nhiệt đới thơm nồng hương hoa sứ, tôi thả bộ trên hè phố Honolulu, ngửa mặt lên trời đón nhận những giọt mưa ngâu đang nhẹ nhàng rơi.

Tôn Nữ Thu Nga (1996)
PS: Bài này viết cách đây khá lâu, nhưng hàng năm, đến mùa này, Hawaii vẫn giữ tục lệ tổ chức lễ Obon. Thế nhưng vì đại dịch Covid 19, năm nay tất cả các lễ hội đều phải hủy bỏ để bảo vệ sức khỏe cho cộng đồng. Hy vọng trong tương lai, Obon sẽ được tổ chức lại tại Nhật Bản và Hawaii Islands.
Nếu có một ngày trong tương lai, chúng ta có dịp nhìn lại các nấm mộ mới trong năm 2020 của các nạn nhân Covid 19, bạn nhớ treo lên một lồng đèn trắng hoặc cài lên áo mình một đóa hoa hồng trắng để tưởng nhớ vừa mẹ mình và cả những người đã xa lìa thế giới để qua cõi vĩnh hằng.

Ảnh tư liệu của Tôn Nữ Thu Nga ( 08/16/20)

Ra đi

          

Ra đi để lại bụi hồng
Để sương để gió cuối đường xa xăm. 
Ra đi bước quá âm thầm,
Bàn tay chới với không còn vẫy nhau,
Ra đi chân vội qua cầu, 
Mắt thuyền đắm đuối dòng sâu tìm về. 
Ra đi vĩnh biệt niềm đau,
Thiên thu ngơ ngác tìm đâu thấy người. 
Hương trầm thoang thoảng quanh đây,
Nụ cười năm cũ ngậm ngùi trong ta. 
Thôi thì người đã đi xa!
Nhạt nhòa như bóng chiều sa cuối ngày. 
Ra đi yên lặng thinh không, 
Nhạc rơi mấy nhịp âm thầm tiễn đưa.
Chim trời gãy cánh năm xưa, 
Giấc mơ hồ điệp bây giờ ta bay.

Tôn Nữ Thu Nga
(Tưởng niệm Huỳnh Văn Phố - người bạn đã lặng lẽ bỏ tôi đi-
 tháng 2, mồng 7, 2020).

NHẶT LÁ VÀNG

 

 

Chiếc lá vàng khô rụng xuống rồi!
Trong mùa thu tới có ai hay?
Khi em khẽ nói lời chia biệt.
Là lúc chiều buông ánh nắng phai.

Thuở ấy đường xa tiễn gót người
Sao em không thể đợi ngày mai?
Rồi ngày liên tiếp, ngày sau đó,
Se sắt buồn thương suốt cả đời.

Một thoáng trầm tư nhặt lá vàng.
Ngậm ngùi nghe gió lướt mênh mang.
Tiếng cười văng vẳng từ năm cũ,
Vọng mãi ngàn thu em biết chăng?

Tôn Nữ Thu Nga

10/10/2019

ĐƯỜNG LÊN NÚI NGỰ

 

Vết xe lăn buồn đưa ai về núi
Có con ngựa già mắt dõi xa xăm
Hai lão nông phu lê thêm cuốc xẻng
Một mụ o già lửng thửng theo chân.

Trên một khoảng đường mưa như rãi đậu
Nhảy múa tưng bừng trên ngói rong rêu
Của một vương triều xưa như giấy mục
Sơn phết hoàng kim áo mão tiêu điều.

Con ngựa cúi đầu trên đường thiên cổ
Trí óc mịt mù nhớ những năm qua
Cất vó tung bay giữa trời sương gió
Đồi cỏ rừng hoang xuân hạ mấy mùa.

Bánh xe lăn buồn đưa ai về núi
Bỏ lại phía sau giấy bạc giấy vàng
Bỏ lại phía sau tháng ngày oan nghiệt
Chiều xuống lạnh lùng giữa đám mây tan.

Bánh xe lăn buồn đưa ai về núi
Những hạt bụi vàng rơi rớt mông lung
Con ngựa gầy còm đang đi nước kiệu
Đưa tiễn linh hồn về cõi hư không.

Tôn Nữ Thu Nga

Miền Trung Tây Mỹ Quốc

Người Mỹ rất thích đi du lịch, phần nhiều ai cũng có một danh sách trong trí hoặc viết ra những nơi mình muốn thăm viếng trên thế giới rồi từ từ thực hiện ước mơ ấy trước khi từ giã cõi người. Danh sách này họ gọi là “bucket list”. Bucket list dài hay ngắn, đầy hay vơi là tùy theo tài chánh, sức khỏe và tánh ưa mạo hiểm của cá nhân. Người Mỹ được an hưởng hòa bình khá lâu nên hầu hết ai cũng có niềm ước mơ được viếng thăm nhiều nơi trên thế giới.
Ngày còn trẻ sống tại Việt Nam, mặc dầu tánh phiêu lưu mạo hiểm đã có trong tâm hồn nhưng cái “ bucket list” của tôi nó ngắn lắm vì còn trẻ, không có tiền lại bị ba mẹ còng chân. Niềm ước ao của tôi là được đi Sài Gòn chơi; tuy chỉ cách Nha Trang 434 km, thế mà trong cuộc đời ngắn ngủi của tôi (kể cả lần chạy giặc) tôi chỉ được ngao du thành phố “Hòn Ngọc Viễn Đông” có bốn lần; thăm Đà lạt là một giấc mơ chưa thành tựu cho đến khi tôi được về dưới danh nghĩa Việt Kiều.
Từ ngày di cư sang Mỹ, “bucket list” của tôi dài hơn, dài thêm và dài gần như bất tận. Vì rứa thành ra ngay sau khi sanh thằng con út năm 1976 được bốn tháng, hai vợ chồng tôi bắt đầu cuốn gói bế hai đứa con đi chơi. Dĩ nhiên là ngoài những ngày lễ; chúng tôi nai lưng làm việc để chờ ngày đi chơi tiếp.


Có những tiểu bang miền Trung Tây nước Mỹ chúng tôi chưa từng đến vì không phải là chốn phồn hoa đô hội. Vì thế, sau khi du ngoạn hết 40 tiểu bang khác nhau( không kể những tiểu bang chúng tôi thăm viếng nhiều lần như Hawaii, Florida, Texas, Oregon, NewYork và vùng Đông Bắc vì cảnh đẹp hoặc được bạn rủ rê), lần này, sau khi chúng tôi đi họp khóa Hải Quân Thiên Xứng 2 tại Chicago, tôi dành ra thêm 8 ngày để chu du các tiểu bang vùng Trung Tây Mỹ Quốc.
Thuê chiếc Nissan Murano tại phi trường O’ Hare, hai vợ chồng tôi và cô em gái hớn hở bắt đầu chuyến du hành.

Theo quốc lộ 80 về hướng tây, chúng tôi chạy ngang những thành phố nhỏ như Nettle Creek, Morris, Mineral, Edford, Coal Valley… hai bên đồng ruộng mênh mông, các cây bắp non mới mọc lên chừng nữa thước. Trời xanh thẩm, mây trắng bềnh bồng như bông gòn. Các trang trại ẩn hiện sau chòm cây xanh lục và các nhà kho sơn đỏ viền trắng thật xinh rải rác trên sườn đồi.

Đến một công viên bên bờ sông tên Rock River – nhánh nhỏ tách ra từ Mississipi River –dòng sông xinh đẹp và mát mẽ. Xa xa có chiếc cầu bắt ngang, công viên là một bán đảo nhỏ giữa hai nhánh sông. Trên sông, người lớn cũng như trẻ em, bơi lội, câu cá hoặc phơi nắng. Bị quyến rũ bởi bóng mát của cây cối ven bờ và những con sóng lăn tăn đập nhẹ trên cát, tôi hối hả mang máy ảnh chạy xuống sông. Lúc ấy tôi chưa cảm nhận được nhiệt độ nóng và ẩm ngoài trời. Chỉ hai phút sau, đàn muỗi đói đánh hơi người, bay đến tấn công như vũ bão. Tôi mê chụp ảnh nên nhảy nhót vung văng, vừa đuổi muỗi, vừa quyệt mồ hôi, vừa chụp hình. Chụp được mươi cái hình thì hai bàn tay đã có cả chục vết muỗi cắn. Cô em tôi và ông xã tôi thì muỗi không thèm cắn!!! Sau khi yên vị trong xe, tôi nhìn ra những người khác đang dẫn chó đi bộ, tắm nắng, câu cá; kể cả mấy đứa bé Mỹ, bụ bẩm đi chập chững bên bờ sông nghịch nước, chẳng có ai đuổi muỗi hoặc tỏ ra nóng nực chi hết???

Trên đường, chúng tôi ghé qua thành phố Daventport bên sông Mississipi. Đi dạo trong công viên Centennial chúng tôi chụp ảnh kỷ niệm bên sông, xa xa là chiếc cầu chia đôi hai tiểu bang Iowa và Illinois. Trong công viên dưới bóng cây có bầy vịt Mallard lông màu xanh chen lẫn nâu đang nằm ngủ. Trên giòng sông, một đàn chim bồ nông trắng lượn lờ vây đuổi cá. Nhìn vào con đường dẫn lên phố, hai bên treo những chậu hoa màu sắc rất dễ thương. Cạnh bờ sông có bảng hiệu tiệm phở, chúng tôi reo lên mừng rỡ nhưng nghĩ lại là mình chưa đói bụng nên đi thêm một quãng đường nữa để đến Coralville. Tối hôm đó chúng tôi được ăn phở tại “I love Phở”, do người Nhật làm chủ nhưng nấu cũng khá ngon, sau mấy ngày không được ăn thức ăn Việt, món gì có chút nước mắm là ngon rồi.

Sáng thứ hai, từ Coralville chúng tôi đi Iowa city. Thăm tòa nhà Capitol cũ nay trở thành “The University of Iowa Old Capitol Museum”. Viện bảo tàng đóng cửa ngày thứ hai trong tuần nên chúng tôi đi dạo quanh khuôn viên đại học để chụp ảnh, đuổi muỗi và lau mồ hôi. Dù vậy chúng tôi cũng thấy vui, Tuấn xách máy ảnh đi bộ loanh quanh, chụp hình các dinh thự, tôi và Dung chụp ảnh cho nhau làm kỷ niệm với tượng hình tốt nghiệp của anh chim cú khổng lồ. Trên đường đi Cedar Rapids, chúng tôi ghé thăm hồ Coralville và Hồ Macbride State Park. Đường vào hồ đẹp và thơ mộng; qua khỏi lộ chính với những căn nhà xinh xắn trên các ngọn đồi nhỏ thoai thoải, hoa cỏ xanh tươi; rẽ vào con đường nhỏ thấy có con nai vàng ngơ ngác trong sân nhà ai đó nên ngừng vài giây để chụp hình trước khi nai vàng phóng vô bụi rậm.

Cuối đường hiện ra bờ nước trong veo, quanh hồ cây cao bóng mát, có vài người chèo Kayak, xa xa có chiếc thuyền câu, ít nhất cũng năm hoặc sáu người ngồi nói chuyện và câu cá, xa quá nên tôi không nghe rõ nhưng thanh âm văng vẳng như tiếng Việt. Hai bà đầm Mỹ dẫn theo ba con chó bự, chúng nhảy tòm xuống hồ tắm rồi chạy lên rảy nước lung tung. Có một bà điều khiển cho con chó của mình lao xuống hồ để anh Tuấn chụp hình nên anh thích lắm, cười hỉ hả quên cả chuyện lái xe mệt nhọc. Cảnh hồ thơ mộng mát mẻ, tôi chụp ảnh một gia đình đi câu cá ngồi bên mô đất dẫn ra hồ, khung cảnh đầm ấm và thanh bình.


Lái thêm 15 dặm trên xa lộ 380 qua Cedar Rapids, thành phố đông dân thứ nhì của Iowa (131,000 dân) sau thành phố Des Moines. Chúng tôi ghé Czech Village để xem một thành phố có sắc thái đặc thù của người di dân. Thành phố này đang tổ chức một cuộc chạy thể thao, chúng tôi đi dạo trong làng ngắm cảnh và nhìn các lực sĩ thiểu não lê chân, mồ hôi nước mắt đầm đìa chạy qua từ bên kia cầu. Chúng tôi đứng bên đường hò hét vổ tay khuyến khích. Vào một tiệm cà phê bánh ngọt tên là Sykora Bakery, chúng tôi ăn kem vừa mát vừa ngọt trước khi cất bước lên đường.

Từ Cedar Rapids chúng tôi qua Des Moines, thủ phủ Iowa. Từ trên xa lộ, tòa nhà Capitol hiện ra với tháp vàng chạm trổ rực rỡ nên cứ nhắm hướng ấy mà chạy. Giờ này nắng gắt và nóng. Chúng tôi đậu xe đối diện khuôn viên, băng qua đường đi vào chụp ảnh. Cô Dung ngại nắng, tìm bóng cây bên đường đứng ngắm cảnh vẩn vơ. Tòa dinh thự này thật đẹp, xây năm 1871 tới 1886 mới xong. Gồm có một tòa tháp chính và bốn tháp phụ. Một phần tháp chính đang được tu sửa lại.Đây là một điện Capitol độc nhất có 5 tháp trên toàn nước Mỹ. Capitol ngự trị trên ngọn đồi thấp thoai thoải nhìn xuống thành phố Des Moines, chung quanh tòa dinh thự là bậc cấp, đường đi rộng rãi khang trang, những bồn hoa Iris, và Alium màu sắc hài hòa, tô điểm thêm cho vẻ đẹp của Capitol và thành phố.

Gần ba giờ trưa, chúng tôi đến thành phố Winterset. Winterset là một thành phố thuộc quận Madison, tiểu bang Iowa. Thành phố này là nơi tài tử John Wayne được sanh ra, có căn nhà nhỏ của cha mẹ ông, còn cả các đồ nội thất của thời ấy. Căn nhà gổ màu trắng có bậc cấp đi lên và hàng hiên bao bọc, có mấy cây hoa mẩu đơn hồng, trắng đầy hoa dựa bên thềm. Vòng qua con đường chính là viện bảo tàng John Wayne. Vì rất ái mộ tài tử gạo cội này nên anh Tuấn mua vé vào xem, trong khi tôi và Dung ngồi nghỉ ngơi trong phòng khánh tiết máy lạnh mát rượi.

Quận Madison được nổi tiếng là nhờ cuốn phim “The Covered Bridges of Madison County” do tài tử Clint Eastwood và Meryl Streep đóng vai chính. Đây là chuyện tình thơ mộng và ngắn ngủi của một nhiếp ảnh gia và một người nội trợ sống trong làng. Hậu cảnh là những chiếc cầu mái lợp của quận hạt Madison.

Cầu thứ nhất chúng tôi đến là Hogback covered bridge. Cầu màu đỏ bắc ngang con rạch cạn, cây cối um tùm. Quang cảnh vắng lặng xanh tươi, lâu lâu mới có chiếc xe chạy ngang tung bụi đường mù mịt. Ngoài chúng tôi ra, còn thêm vài ba du khách từ miền xa tới, có một cặp lớn tuổi cũng qua thăm từ vùng bắc California. Dạo quanh vài ba phút, chụp vài tấm ảnh kỷ niệm rồi ra đi, tránh sự nóng bức của một buổi trưa uể oải. Tôi chỉ muốn tìm một bóng cây, ngồi trong yên tỉnh, ngắm cảnh tịch mịch hoang vắng quanh mình, ngắm nhìn chiếc cầu cô liêu bên giòng nước; hiện diện như một chứng tích của thời gian.
Khi đến được Cedar covered bridge thì chúng tôi hoàn toàn thất vọng, cây cầu không còn nữa mà chỉ còn những đống gổ cháy ngỗn ngang. Tìm hiểu với dân địa phương thì mới biết là cầu bị đốt cháy, can phạm đang chờ ngày truy tố và chính quyền sắp xây lại cây cầu mới. Tiếc thay cho những hành động phá hoại của những kẻ không biết tôn trọng chứng tích lịch sử. Rời Cedar Bridge chúng tôi đến Cutler Donahoe Bridge xây năm 1870. Cầu này bên cạnh công viên. Cây cỏ xanh tươi cắt tỉa gọn gàng nhưng khung cảnh không được thơ mộng, thăm viếng vài phút, chụp vài tấm ảnh xong chúng tôi vội vã ra đi.
Chúng tôi đến Holliwell Bridge dễ dàng vì dọc đường luôn có bảng chỉ dẫn, ngoài ra tôi còn theo dõi được con đường xe chạy và vị trí xe mình qua Google map để khỏi lạc đường, vậy mà có lúc hai vợ chồng cũng nổi khùng cãi nhau chí chóe.

Cầu Holliwell bắt qua giòng sông Middle River. Sông nhỏ, nước màu xanh bùn, nhưng dân quanh vùng đến đây thả thuyền Kayak. Khi chúng tôi đến đây, một nhóm thanh niên thiếu nữ đang sửa soạn ra về; người nào cũng rám nắng, bê bết bùn lầy nhưng tinh thần rất vui vẻ cởi mở. Cảnh nơi đây đẹp nên chúng tôi dừng lại lâu hơn, đi xuyên qua cầu, rảo bước trên con đường mòn, hai bên là rừng cây bóng mát. Chụp ảnh hai bên ngạn sông rồi mới ra đi. Định đi thăm cầu Imes nhưng xa quá, sợ trời tối không đi thăm được cây cầu Roseman nên tôi chuyển hướng. Cầu Roseman là cây cầu chính trong phim “The covered bridges of Madison County”. Thời tiết thông báo sắp sửa có mưa giông trong vùng càng làm tôi lo sợ. Nhưng có điều an ủi là cầu Roseman rất gần tỉnh lộ 92 về hướng Omaha, nơi chúng tôi sẽ nghỉ qua đêm. Tôi hy vọng thăm cầu Roseman xong, trời sẽ mưa và chúng tôi có thể lái xe về Omaha trong cơn mưa.


Dọc theo đường đi, tôi mãi ngắm bầu trời chiều, mây bồng bềnh vừa trắng vừa xám, thay đổi liên tiếp theo chân mưa, thỉnh thoảng mặt trời lộ diện sau mây, tỏa những tia sáng xuống cánh đồng. Tôi bảo Tuấn đó là God light, một ánh sáng được nhiếp ảnh gia Robert Kincaid (Clint Eastwood) nhắc tới trong phim. Tôi không ngờ khi du hành qua vùng này mình cũng được thấy God light (Godlight là những tia hào quang dùng làm hậu cảnh cho những tấm hình tôn giáo). Thấy tôi náo nức muốn chụp ảnh, dù thời gian gấp rút, anh Tuấn rộng lượng cho tôi 2 phút bước ra khỏi xe để chụp vài tấm ảnh.

Đến Roseman bridge vào khoảng 6pm. Trời còn sáng, có cô nhân viên thủy lâm ra hỏi chúng tôi có muốn vào thăm trung tâm bán hàng trước khi cô đóng cửa. Sợ thiếu ánh sáng và mưa sắp đến nên chúng tôi từ chối. Trong khoảng hơn hai mươi phút quanh quẩn tại đây, chúng tôi chụp hình kỷ niệm bằng máy điện thoại rồi thêm hình nghệ thuật phong cảnh bằng máy chuyên nghiệp.

Cầu Roseman cũng màu đỏ thẩm, bắt qua giòng lạch như các cây cầu khác nhưng vị trí đẹp hơn. Phía sau cầu không có đường nối dài vì cánh đồng cỏ xanh bít lối. Cuối cầu, nhìn xuống lạch nước tôi thấy một nhánh cây lớn mắc cạn gần bờ. Ánh mặt trời chiều yếu ớt chiếu xuống dòng nước tạo thành một bức tranh tuyệt vời, tôi hối hả chụp cơ hội bấm máy ảnh liên tiếp, chỉnh ánh sáng lia lịa tùy theo từng góc cạnh. Ánh chiều thường xuống thật nhanh nên khi tôi gọi anh Tuấn đến thì mặt trời đã chui mất sau mây. Thấy có ai để lại cây bút marker lớn, chúng tôi cũng bắt chước các du khách khác viết tên mình làm kỷ niệm trên tấm vách trắng hai bên cầu.

Mưa bắt đầu rơi khi chúng tôi chụp ảnh xong (như tôi dự đoán), lật đật thu vén máy móc, chúng tôi nhảy lên xe trực chỉ Omaha trong tiếng sấm đì đùng và ánh chớp chói chan trên trời quê lồng lộng.
Ngủ qua đêm tại Omaha, sáng hôm ấy chúng tôi ra bờ sông Mississipi thăm Heartland of America Park, đến khu vực Lewis & Clark Landing , chụp hình kỷ niệm tại Monument To Labor. Từ đó, chúng tôi qua cầu Bob Kerrey. Cầu này chỉ để cho bộ hành và xe đạp. Cầu bắc ngang qua sông Mississippi chia đôi tiểu bang Nebraska và Iowa. Chúng tôi đi bộ qua cầu, vừa đi dạo vừa chụp hình. Giữa cầu có bảng chia hai tiểu bang, mọi người ai cũng ngưng lại chụp ảnh, một chân bên này, một chân bên kia.

Tuy Omaha có nhiều nơi cần thăm viếng nhưng vì thời gian eo hẹp, chúng tôi chỉ lựa những địa điểm thăm viếng nhanh chóng và có ý nghĩa trong lịch sử và địa lý. Chạy xe vòng qua khu vực the Old Market cho biết thôi chứ chúng tôi không phải là những người thích mua sắm nên không dừng lại. Tìm được Pioneer Courage Sculpture Park chúng tôi đậu xe bên lề đường Capitol để vào xem. Vừa đi vài bước, có người đàn ông da đen mặc quần áo rất lịch sự, nhìn tôi hỏi:” Bạn nghĩ gì khi nhìn thấy những pho tượng này?”- Không muốn bị gài vào một cuộc tranh luận dài giòng về chính trị hoặc xã hội với người lạ, tôi trả lời:” Họ là người di dân như chúng ta và ai cũng phải trãi qua những kinh nghiệm và thời gian khó khăn lúc ban đầu để tạo lập một cuộc đời mới”. Nói xong, tôi chào ông và bước lên gần những pho tượng để chụp hình. Trên ngọn đồi thoai thoải, các tượng đồng đen mô tả hình ảnh những người tiên phong, di cư qua miền Tây bằng xe bò, xe ngựa. Các chi tiết điêu khắc tỉ mỉ và trên khuôn mặt các hình nhân, diễn tả được cảm xúc rất chính xác. Gần trưa nên nhân viên văn phòng các cơ sở quanh phố bắt đầu ra công viên đi bộ hoặc ăn trưa, các cô vừa đi bộ vừa chuyện trò vang rân, các ông chăm chú nhìn điện thoại hoặc nói chuyện trong lúc ngồi ăn trưa trên băng đá công viên.

Rời công viên, chúng tôi qua Saint Cecilia Cathedral thăm viếng một thánh đường được ghi nhận là “National Landmark” vì sự huy hoàng , đẹp đẽ trong cách kiến trúc. Nhà thờ xây gần 50 năm mới xong (1905-1955) và đến 1980 thì được chọn là “National Landmark”. Vòm nhà thờ rất cao, trang hoàng thanh nhã, tỉ mỉ nhưng không rườm rà hình ảnh như Sistine chapel bên La Mã, ánh sáng dọi vào nội điện từ các cửa sổ kính hoa trên vòm cao và ánh sáng từ khu vực bàn thờ soi rõ con đường từ cửa đi vào, nền gạch hoa bóng loáng. Sau hai bức tường gian phòng chính, trổ ra những gian phòng phụ để làm riêng từng phòng nguyện nhỏ, những lối dẫn vào nhà nguyện cũng trang hoàng thật đẹp. Tôi đi quanh quẩn tha hồ chụp ảnh, vì giờ này không có lễ. Ánh sáng huyền ảo khắp nơi làm hình ảnh rất nhu hòa. Quay ra phía trước tôi chụp hình đàn organ vĩ đại chiếm nguyên cả balcony. Tầng phía dưới là cửa vòm chính và hai cửa sổ vòm hai bên có hai bình hoa lớn trang trí. Cả ba cửa ửng màu vàng và xanh trong ánh sáng âm u, màu sắc thật tương phản.

Trên đường qua Ashland, trời đang mưa nhưng tôi chụp được ảnh con gà Tây đi bộ. Sống nơi thành thị, khi thấy con gà tây thì nó đang bị đông lạnh hoặc ngồi chểm chệ trên bàn ăn, trang hoàng rực rở cho buổi tiệc Thanksgiving. Con gà này được đi dạo nhởn nhơ trên đám cỏ xanh, cái mào đỏ chói và bộ lông đen rất đẹp.

Đến Lincoln chúng tôi vào khách sạn, nghỉ ngơi vài giờ xong chúng tôi gọi nhau đi kiếm tiệm ăn.Tìm được một khu buôn bán nhỏ nhưng khá mới tên là “Saigon Plaza”. Khu vực này có chợ Việt Nam, có tiệm làm móng tay, bảo hiểm, và tiệm “Phở Factory”. Tiệm ăn rất đẹp, sạch sẽ, trang hoàng tân tiến và nghệ thuật, nhân viên thân thiện, dễ mến. Tôi gọi một phần bánh xèo, và trố mắt nhìn khi cái bánh xèo to bằng cái mâm được dọn ra trước mặt. Sau bữa ăn, nhân viên tiệm chỉ đường cho chúng tôi chạy qua thăm khu phố chính của Lincoln.

Đến đường K và 14th, chúng tôi ngừng xe bên lề của khu vực Nebraska State Capitol. Tòa dinh thự xây trên đồi thấp thoai thoải cỏ xanh mướt, đỉnh tháp có tượng hình người rải hạt bắp gọi là “the sower”. Hình nhân cao 19 bộ, tượng trưng cho nền nông nghiệp của Nebraska và cũng dùng làm cột thu lôi cho dinh thự này. Mặt tiền của State Capitol có pho tượng lớn của Abraham Lincoln. Bên kia đường, nhà thờ công giáo Saint Mary màu trắng, hai tháp đen vươn lên trên bầu trời hoàng hôn. Buổi chiều nơi đây êm ả, đường phố vắng vẻ, thỉnh thoảng có chiếc xe chạy hoặc vài bộ hành. Trước State Capitol có một chiếc xe cảnh sát đậu, thấy vậy chúng tôi yên tâm quanh quẩn chụp ảnh trong bóng chiều dù không hiểu tình hình khu vực như thế nào.

Hôm sau, chúng tôi đi xem” The sunken garden” vì chị em tôi ai cũng ưa trồng hoa cả. Bây giờ đang cuối mùa xuân, cây lá, hoa cỏ vẫn tươi tốt mặc dù khí hậu nóng nực và ẩm ướt. Tôi rất thích những đóa hoa súng (Victorian Lilies) trắng, vàng, hồng đỏ; tha hồ chụp cận những đóa hoa xinh tươi, các pho tượng và đài phun nước.

Trên đường đi về hướng Saint Louis, vì còn sớm nên chúng tôi ghé qua Indian Cave State Park rộng 3,052 mẫu đất. Công viên này thuộc hai tiểu bang Missouri và Nebraska, chia đôi bởi giòng sông Missouri. Điểm chính để viếng thăm là hang động cổ ngay giữa công viên. Xe chạy qua nhiều di tích lịch sử nho nhỏ của làng St. Deroin, nay đã bỏ hoang, chỉ còn lại khu nghĩa trang nhỏ, vài dấu hiệu chỉ địa điểm đến phố cổ, vùi dập trong cây lá vì lụt lội phá hoàn toàn gần hết. Trời nóng và ẩm thấp, mây trắng bồng bềnh trên nền trời xanh biếc. Sau khi trèo khoảng 50 bậc thang lên xem động, chúng tôi bước ra bờ sông Missouri chụp ảnh giòng sông trong vắt phản chiếu cảnh vật tuyệt đẹp.


Sông Missouri và Indian Cave

Khi biết chúng tôi dự tính đi chơi miền Trung Tây nước Mỹ, nhiều người ngạc nhiên hỏi: Mấy vùng đó có gì để mà xem?!? Có vài lý do tại sao chúng tôi đi chơi miền này: tôi muốn nhìn những cánh đồng mênh mông, trang trại giữa cảnh bao la, trời xanh biếc có đầy mây trắng; những nhà nuôi ngựa và súc vật trên đồi cỏ; tôi muốn nhìn hoàng hôn và những đám mây vàng, cam, đỏ giăng giăng cuối chân trời. Tôi lại muốn nhìn thấy những thành phố nhỏ, không gian thanh bình như trăm năm xưa, tôi muốn nhìn những giòng sông lặng lờ trôi, đem nước nuôi dưỡng những cánh đồng vô tận. Thêm vào đó là các kiến trúc cổ, xây từ những năm đầu lập quốc và Saint Louis Gateway Arch nằm bên bờ sông Mississippi. Giòng sông chia biên giới cho hai tiểu bang Missouri và Illinois và đây cũng là những tiểu bang cuối cùng của nước Mỹ tôi cần thăm viếng để làm cho đầy cái “bucket list” của mình.

Trên đường đi Missouri, Tuấn muốn ghé thăm Topeka, thủ phủ của tiểu bang Kansas. Hôm nay là ngày lể Memorial nên State Capitol mở cửa cho thăm viếng. Nội điện lớn rộng huy hoàng, kiếm được thang máy, chúng tôi lên tầng cao nhất nhìn xuống, chóng mặt nhưng cũng ráng chụp vài tấm ảnh. Trong những tầng lầu khác có thượng viện tiểu bang, phòng thống đốc tiểu bang và nhiều văn phòng làm việc. Chung quanh các vách tường và hành lang, những bức tranh và các pho tượng chiếm nguyên từng bức tường lớn, cảnh dân, quân, xe, ngựa … thời lập quốc. Trên đỉnh tháp có pho tượng người chiến binh Kaw, thổ dân da đỏ, tay cầm cung nỏ hướng về phía sao Bắc đẩu theo câu châm ngôn “Ad astra per aspera”(To the stars through difficulty- hoặc nôm na là cố vượt mọi khó khăn để đến một phương trời cao rộng ? ). Kansas Capitol là tòa dinh thự có vòm cao hàng thứ hai trong 38 tòa Capitol trên nước Mỹ.


Chạy quanh quẩn trong phố một lúc, chúng tôi ghé lại Old Prairie Town thăm Ward-Mead Park Botanical Garden. Đây là một khu vực rộng 2.5 mẩu, gồm có các nhà xưa (1891) và căn biệt thự Ward-Meade được tu sửa và bảo tồn. Tôi đi quanh khu vực, xem các toa tàu lửa, xe ngựa, căn nhà nhỏ xíu làm trường học, nhà thờ. Trong tiệm bán thuốc Potwin Drugstore có bán nước ngọt và kem lạnh. Trên lầu là phòng mạch bác sĩ và nha sĩ…Mua kem và nước, chúng tôi ra sân, ngồi dưới bóng cây, ăn trưa trong khung cảnh tịch mịch. Tưởng tượng như mình đang hiện diện trong thế kỷ trước.

Trên đường về Saint Louis, ngang qua Kansas city chúng tôi chạy quanh xem thành phố. Phố cũng khá lớn và vui nhộn với nhiều bộ hành, vì chúng tôi đi ngang phố chính, gần đường 16th. Thành phố Kansas nằm giữa hai tiểu bang: Kansas và Missouri. Chúng tôi thuê phòng ngủ phía bên tiểu bang Kansas.


Tôi có người anh họ đang sống tại St. Charles. Anh Bảo và chị Tiên mời khi nào qua St. Louis thì đến nhà anh chị chơi. Nhân dịp qua đây, chúng tôi dành ra 3 ngày để đến thăm viếng thành phố St. Louis và ngụ tại căn nhà xinh xắn của anh chị tại St. Charles (hướng Tây Bắc, cách St. Louis 24 dặm). Anh chị có hai cô con gái, Kaitlyn đang học đại học Minnesota, Courtney đã ra trường nhưng sẽ đi qua Prague để học thêm trong một ngôi trường rất nổi tiếng về ngoại giao. Hai cô bé rất xinh và giỏi, tuy mới gặp chúng tôi lần đầu mà các cô đối xử rất thân tình. Những ngày ngụ tại nhà Bảo và Tiên, chúng tôi không muốn họ mất giờ làm việc nên đi chơi riêng. Anh Tuấn lái xe giỏi, còn tôi cũng làm hướng dẫn viên du lịch khá rành (vì đã du lịch nhiều và có thêm google map để tra cứu).
Ngày nào đi chơi về, chúng tôi cũng được ăn những buổi cơm tối thật ngon, các món ăn Ý mới lạ do Bảo nấu (Bảo nấu giỏi như một gourmet cook). Có một buổi chiều, chúng tôi cùng nhau đi ăn tại Fritanga, tiệm ăn Nicaraguan- Tôi đã đi Nicaragua mấy lần rồi nhưng khi ăn tại tiệm ăn này, tôi thấy thích hơn vì họ nấu rất ngon-nhất là vấn đề vệ sinh thì bảo đảm hơn là ăn uống tại ngoại quốc trong khi du lịch.
Tại St. Louis, chúng tôi có dịp đi chơi sở thú – miễn phí, chỉ phải trả tiền đậu xe- trời hôm ấy rất nóng bức, chúng tôi mua vé lên xe lửa, chạy vòng quanh thảo cầm viên, thăm mấy con chim hồng, penguin và polar bear rồi ra đi. Tìm được tiệm ăn Việt tên Mai Lee để ăn trưa. Thức ăn khá ngon, nhân viên phục vụ tốt, tiệm sạch sẽ nên đông thực khách.

Xế trưa, đi qua thăm St. Louis Arch, một địa danh nổi tiếng của St. Louis chúng ta thường thấy trong các quảng cáo du lịch hoặc postcard và cũng là một nơi chúng tôi muốn thấy từ lâu. Tìm được chổ đậu xe tại Laclede’s Landing, chúng tôi đi bộ xuống khu phố cổ, một di tích lịch sử bên bờ sông Mississipi, cạnh Gateway Arch. Sông Mississipi chia ranh giới cho hai tiểu bang Missouri và Illinois.

Từ Laclede’s Landing, chúng tôi đi qua Gateway Arch, vừa đi vừa chụp ảnh mấy cây cầu bắc qua giòng sông , ven sông có công ty du lịch chở khách đi ngắm cảnh bằng trực thăng.
Gateway cao 630 bộ, khó chụp ảnh khi đến quá gần nên chúng tôi đứng từ xa và phải dùng ống kính rộng để thâu ảnh. Công viên quanh Gateway rất lớn, cây cỏ xanh tươi. Dưới chân Gateway Arch có viện bảo tàng, thêm xe kéo chở lên đỉnh tháp nhưng vì mệt và nóng, tôi an phận nằm dài trên bãi cỏ, dưới hàng cây im mát, lim dim nhìn trời ngó đất, ngẫm lại cái thân phận nhỏ bé của mình, duyệt lại những giấc mơ rồi cảm thấy hân hoan sung sướng vì những giấc mộng nho nhỏ cưu mang trong đời mình được thành tựu, và cảm thấy hồn nhẹ tênh như đám mây trắng cô đọng trên đỉnh Gateway kia. Rồi như mây, tôi sẽ bay đi, tìm một nơi nào khác trên thế giới để thăm viếng tiếp.

Sáng hôm sau, trời xám xịt, mây đen vần vũ, khí hậu ẩm ướt và có mưa giông. Buổi sáng chúng tôi ở nhà, nghỉ ngơi, chuyện trò và xem Bảo nấu ăn. Tôi ôm cây tây ban cầm của Kaitlyn, ngồi bên cửa sổ dạo mấy khúc nhạc vừa mới sáng tác, nhìn vẫn vơ ra sân, nghe tiếng gió thổi lao xao qua cành cây ngọn cỏ, tạo thêm âm hưởng mới cho bản nhạc vốn đã buồn man mác của mình. Xế trưa, trời sáng hơn, những đám mây nặng trỉu đã rủ nhau bay về hướng mới, chúng tôi đi qua Old Town St. Charles ngắm cảnh. Main street market place khá lớn, du khách không nhiều có lẽ vì buổi trưa oi ả. Vòng xe ra phía bờ sông, chúng tôi vào thăm công viên Frontier cạnh bờ sông Missouri.

Công viên rộng 16 mẩu đất, có đường đi bộ, xe đạp dọc ven sông, có farmer market, và sân khấu trình diễn nhạc. Trong công viên có tượng của hai nhà thám hiểm Lewis, Clark và chú chó Seaman cao 15 bộ. Chung quanh tượng trồng hoa màu trắng và hồng. Có hai bà đầm dắt chó đi dạo trong công viên, họ có con chó giống hệt như bức tượng chó Seaman. Con chó nhảy vọt lên ngồi trên tảng đá dưới chân tượng, tôi vội vả chụp tấm ảnh ngộ nghỉnh vì hai con chó rất giống nhau.

Hôm sau từ giã gia đình Bảo, để về lại Chicago, trên đường chúng tôi đi ngang qua Springfield, thủ phủ tiểu bang Illinois. Thăm thành phố, chụp vài tấm ảnh tòa Capitol, các pho tượng, nhà thờ cổ rồi về lại Chicago trong một buổi chiều nắng vàng rực rỡ.



Tại khách sạn Four Points gần phi trường O’hare, bước vào phòng khánh tiết, tôi và Tuấn nhìn nhau. Tuy không nói nhưng cả hai đều buồn; nhớ lại những ngày hội họp bạn bè vui vẻ mới tuần trước nay đã xa vời vợi. Bạn bè thân yêu đã bay mất về phương trời của họ, không biết sau này có còn gặp lại nhau? Hôm tiệc hội ngộ, tôi hát một bài tựa đề là “Nha Trang Kỷ Niệm” tôi viết tặng cho Hải Quân khóa 19- Thiên Xứng II. Vì tất cả các anh và nhiều chị đã từng học và sống tại NhaTrang. Câu kết của bài hát là:” Thương Nha Trang, một chiều nắng hanh vàng. Hải Âu buồn gọi bạn thiết tha hơn”. Phải chăng chúng ta đều là những con chim hải âu gọi bạn, và tiếng gọi càng thiết tha hơn trong những năm gần cuối cuộc đời?
Thế là xong một chuyến du hành nữa; sau bao nhiêu năm trả nợ áo cơm, bây giờ tôi chỉ muốn thong dong đi chu du thiên hạ, tìm những gì mình chưa biết và chưa thấy để thỏa mãn giấc mộng hải hồ. Ngày mai, về lại California, hòa nhập vào đời sống bình thường, về lại với nghiệp văn chương,ngồi trước máy vi tính, gỏ gỏ trên bàn phím, kể lại chuyện mình. Hy vọng chia sẽ cho mọi người một niềm vui nho nhỏ nếu bạn chịu khó để tâm trí mình đi theo những dấu chân lang bạt của tôi, và nhìn vào những tấm hình trên để thưởng lãm vài sắc nét đặc thù của miền trung tây Mỹ quốc.

Tôn Nữ Thu Nga – San Dimas, California- July 18, 2018

Trái Chà Là

Mỗi giai đoạn trong thời thơ ấu của tôi, tôi đều giữ lại trong trí óc mình nhiều điều đáng nhớ và dăm ba điều không đáng nhớ.

Ngày xưa, tết là một dịp rất vui vẻ thích thú và đáng nhớ của tôi.  Giữa tháng Chạp là ba tôi đi mua nhiều chậu hoa cúc, thược dược và vạn thọ. Ông sắp chúng hai bên thềm dẫn lối vào nhà, màu hoa rực rỡ dường như làm cho mọi người nói nhiều, cười nhiều hơn một chút. Dĩ nhiên là ông cũng có thêm một cành mai vàng hoặc hồng đào cắm trong một cái bình sứ khổng lồ. Tôi thường nhìn cành hoa khi mới đem về, chằng có gì đẹp đẽ cả. Chúng khô khan gầy guộc, chơ vơ khẳng khiu; vậy mà ba tôi lại thích lắm, vào ngắm, ra ngắm; đôi khi ngồi rung đùi, mắt mơ màng, nhậu ly rượu đế với khô mực. Những khi ấy, tôi cũng lân la bên cạnh ông, nhón bớt mấy sợi mực khô, nhai bỏm bẻm vì mấy cái răng sún, vểnh tai nghe giọng ông ngâm thơ nho nhỏ và lỏ mắt ngó cành cây gầy guộc của ông mà không hiểu ông đã nhìn thấy gì trong những cành cây xấu xí ấy. Bẵng đi mấy hôm, tôi chợt thấy những búp hoa nho nhỏ, điểm trang các cành cây như hạt cườm. Ba hân hoan ra mặt, trầm trồ: “Chà, cành ni nhiều búp quá, chắc mai mốt nở ra đẹp lắm, năm ni nhà mình hên!”.Tôi cũng hớn hở trong lòng, vì tôi nghĩ rằng “hên” có nghĩa là tôi sẽ được nhiều tiền lì xì trong ngày tết. Niềm vui tết của ba là những nụ hoa xuân, câu thơ, câu đối, chén thù chén tạc với bạn bè. Niềm vui tết của mẹ là chuẩn bị thực phẩm cho cả gia đình, lo cho các con và nhiều thành viên khác trong gia đình được no ấm. Mẹ tôi, với nét mặt dịu dàng, yên tịnh như bà tiên luôn mang về cho tôi sự an bình.

Mẹ tôi làm dâu người Huế. Các bà dâu Huế thường là những người giỏi về thủ công gia chánh. Không giỏi cũng thành giỏi vì sống trong những gia đình hoàng phái giổ chạp rất nhiều. Hầu như tháng nào cũng có giổ; những ngày đặc biệt ấy tôi thích lắm vì được xem các cô xúm nhau nấu ăn, làm bánh. Người lớn ai nấy đều bận rộn nên tôi được tự do, chạy quanh quẩn bên các quầy bánh trái. Có cô nhét vào tay tôi mấy hạt sen, có cô cho trái táo, có thím cho viên bánh đậu xanh và dạy cho tôi cách bẻ lá dừa làm hộp bánh su sê…Nhớ những ngày tháng ấy, tôi chỉ muốn đi ngược lại thời gian để hưởng lại những ngày thơ vui sướng của mình.

Nhờ những lần giổ chạp trong gia đình, mẹ tôi trở nên rất khéo léo trong việc làm bánh mứt. Cả tháng trước tết bà đã bắt đầu làm mứt me, dừa, khoai, chùm ruột…

Khi đi chợ mua me xanh, mẹ muốn tôi giúp bà lựa mấy trái me mập và ít quăn queo, mua khoai thì ruột phải thật đỏ, dừa phải lựa thứ dày cơm. Nhà tôi có trồng một cây chùm ruột thật lớn, chua lè nhưng trái to và mập. Tôi được phần việc trèo cây hái trái vì ốm nhom và nhanh như con khỉ! Tôi không làm gãy cành hoặc té cây như mấy cô người làm. Các cô bưng mấy cái rổ lớn, đứng dưới gốc chờ đón những chùm trái tôi vừa hái. Mứt me và mứt chùm ruột làm rất công phu nên mẹ thường làm nhiều để dành làm tặng phẩm. Nhờ lăng xăng bên mẹ, tôi cũng học hỏi được nhiều điều quý giá để xử dụng khi cần trong đời sống hiện tại.

Tôi nhớ rằng chỉ có một vài món mẹ cần mua như hạt dưa, trần bì, cam thảo và một gói mứt chà là. Trong gia đình tôi, không ai thích ăn chà là cả, ngoài bà vú. Năm nào mẹ cũng nhớ mua riêng cho Vú một gói trái chà là khô.

 

Mẹ tôi có người vú em. Chúng tôi gọi là bà vú. Bà ngoại tôi thuê vú là về để cho mẹ tôi bú khi mẹ tôi vừa mới sinh ra. Bà ngoại người ốm yếu, không đủ sữa nuôi con. Khi bà ngoại chết đi sau ba lần sinh đẻ thì bà vú trở thành người thay bà ngoại để săn sóc mẹ tôi, cậu và dì. Ông ngoại tôi không tục huyền, sống đơn độc với dì tôi cho tới lúc mãn phần. Bà vú cũng đi theo mẹ tôi cho đến hết cuộc đời của bà. Khi mẹ tôi đi lấy chồng, bà đi theo săn sóc mẹ và bà trở thành bà vú của tôi khi mẹ tôi sanh ra tôi trong túp lều tranh, cạnh bụi tre xanh bên dòng sông Trà Khúc Quảng Ngãi khi ba tôi trốn khỏi vùng cộng sản  để về lại Huế .Tôi được sanh ra trong cảnh nghèo nàn túng quẩn nhưng đầy tình thương yêu của ba mẹ và bà vú.
Chính ba mẹ và bà vú đã nâng niu bảo bọc tôi, đã lặn lội trốn tránh cộng sản bằng cách đi bộ, băng suối, xuyên rừng để đưa nhau về miền tự do vì ba tôi không muốn bị bắt đi tập kết.

Mẹ kể rằng ba tôi may một tấm lưới muỗi chung quanh cái nón lá, người nào ẳm đứa bé mới sinh thì đội cái nón ấy để chống muỗi mòng. Tuy vậy ba tháng sau, ròng rã đi bộ về tới được Đà Nẵng, các cô tôi cười khì, ẳm đứa bé ra nhìn và kêu tôi là con mọi!

Khi “con mọi” và gia đình về vùng tự do rồi thì chẳng còn gì để lo buồn nữa. Ba tôi được chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cho  làm việc lại nên khi tôi lớn lên tại Huế và theo cha mẹ đi các tỉnh khác làm việc thì đời sống khi thịnh khi suy cũng là chuyện bình thường. Điều tôi ghi nhớ mãi trong lòng là chuỗi ngày có bà vú sống bên tôi.

Bà vú theo mẹ tôi có thể từ tuổi ba mươi. Tôi đoán vậy vì không bao giờ biết được. Bà lớn lên trong nghèo khó, không được học hành, không biết ngày sinh của mình nhưng bà có lần nói với tôi là bà tuổi con gà.Tôi cũng tin rằng bà sinh năm con gà vì tánh cách bà giống như con gà: chắt chiu, cẩn thận, kiên trì…nhưng có một đặc điểm quý giá nhất đối với tôi là bà yêu thương tôi nhất. Ngày còn trẻ, bà bỏ quê, gửi con mình cho người khác giữ để vào làm vú nuôi mẹ tôi, ở với mẹ tôi suốt đời và vì thế tôi trở thành đứa cháu ngoại bà không bao giờ có. Có cái gì ngon nhất, đẹp nhất bà đều để dành cho tôi, bà bênh vực tôi khi tôi bị ba mẹ la rầy, bà khóc khi tôi bị ba tôi quất lên mông những lằn roi mây rướm máu vì tội lêu lổng, ngổ nghịch, không nghe lời cha mẹ. Bà cho tôi mấy đồng bạc quý báu hiếm hoi của bà để tôi ra quán xép mua kẹo dừa, kẹo dẻo. Những lần mẹ tôi biết được bà đều trả lại tiền cho vú và dặn tôi không được lấy tiền của bà. Thế nhưng vì tôi có tánh ma đầu biết cách lợi dụng các tình thế thuận lợi cho mình nên cứ có kẹo ăn hoài mà không cần xin xỏ mẹ!

 

Tôi biết mẹ tôi cũng yêu thương bà như mẹ đẻ và bà là cánh tay dựa cho người mẹ ốm yếu của tôi trong 37 năm trời. Bà là người điều hành công việc nhà cho mẹ, bà phân phát tiền chợ cho người nấu bếp hàng ngày. Bà trông nom và giữ trật tự từ nhà ra ngõ và còn là quan tòa xử án cho các vụ kiện tụng xào xáo giữa những cô làm công việc giữ em.  Nhớ nhất là nhiều buổi trưa hè, dưới bóng cây vải, bà ngồi chuyện vãn với các cô tôi và hàng xóm, tôi cũng nằm co trong lòng bà hay ngồi trên đùi bà lim dim nghe những mảnh đối thoại trên trời dưới đất của họ, mơ màng trong tiếng gà trưa, ngái ngủ trong tiếng ve ve râm rang trên tàn lá. Hàng tháng bà gửi tiền công về Quảng Ngãi nuôi con, mẹ tôi gọi con bà vú là chị Chanh. Tôi có thấy chị Chanh vào Nha Trang thăm một lần, lúc ấy chị đã lớn. Tôi chỉ là con bé lẩn quẩn bên bà vú, xem chị cũng như các người lớn họ hàng, lâu lâu từ nhà quê ra thăm để xin tiền ba mẹ tôi về mua gạo, mắm, áo quần cho gia đình họ. Bây giờ lớn lên, tôi bỗng có nhiều suy vấn và xúc cảm về tình cảnh những người dân nghèo, sống trong xứ mà mẹ tôi gọi là: chó ăn đá, gà ăn muối”, những người đàn bà phải lìa xa gia đình, ra phố thị để làm những công việc khó khăn kiếm sống hoặc kiếm tiền nuôi chồng bệnh, con thơ. Rồi còn những đứa trẻ con khác, thiếu tình mẫu tử, phải đùm bọc lẫn nhau hoặc nương nhờ họ hàng, xóm giềng. Có em thiếu may mắn còn bị hành hạ, đói khát vì không có mẹ chúng kề bên… Thuở ấy, tôi là một trong những đứa bé may mắn mà tôi đâu có biết gì!

Ban đêm, hai chị em tôi ngủ với bà vú vì mẹ tôi có thêm hai đứa con trai nên phải ngủ với chúng nó. Đôi khi chúng tôi không chịu nhắm mắt ngủ mà vòi vĩnh bà kể chuyện cổ tích hoặc chuyện ma. Chuyện ma thì rùng rợn lắm, chúng tôi sợ ma, nhắm nghiền mắt, hai đứa hai bên ôm sát cánh tay bà và ngủ mất không hay. Năm tôi hơn chín tuổi thì sức khỏe bà bắt đầu kém hẳn: bà hay bị bệnh nên ngủ riêng trên cái giường nhỏ gần cửa để khi mẹ làm việc bên ngoài, mẹ có thể nhìn thấy vú. Tôi lúc ấy rất sợ hãi nên ít khi mon men đến gần, chỉ đôi khi bị mẹ sai đem nước cho bà vú. Tôi pha nước, lẳng lặng để xuống cái bàn nhỏ cạnh giường rồi len lén đi ra. Bà trông thật tang thương, tóc bạc phơ thưa thớt, da nhăn nheo mềm nhão. Cánh tay êm ấm ngày nào tôi ôm ấp gối đầu nay chỉ còn da bọc xương. Mẹ lo thuốc thang cho bà, khi hết thuốc Nam đến thuốc Bắc rồi thuốc Tây. Thuốc nào cũng không làm bà hết bệnh, bà nửa mê nửa tỉnh. Khi mê bà nói lảm nhảm những câu lăng nhăng khó hiểu, khi tỉnh bà đưa đôi mắt mờ đục, vô hồn nhìn ra phía mẹ tôi ngồi, môi mấp máy gọi mẹ tôi “chị Hương…chị Hương..”. Không có gì xé buốt tim tôi mỗi khi tôi nhớ lại bà vú; trong những cơn mê sảng đau đớn nhất của bà, lời gọi rõ ràng nhất và khẩn thiết nhất là: “Nga ơi…Nga ơi…” Trong sáu tháng trước khi bà chết, trong nỗi đớn đau tột cùng của cơ thể, bà luôn luôn gọi Nga ơi, Nga ơi! Và vì tôi chỉ là đứa bé mười tuổi, tôi đã bịt tai, chạy qua nhà hàng xóm hoặc nhà ông ngoại để trốn chạy những thanh âm buồn bã kêu gọi mãi tên mình.

Từ đấy tôi không thích tên tôi nữa nhưng tôi không thể nào đổi tên hoặc Mỹ hóa tên mình để trốn chạy những mảnh quá khứ, để tìm quên những âm thanh tuyệt vọng còn vang vang mãi  trong lòng.

Tôi vốn không bao giờ ăn trái chà là khô vì không thích ăn ngọt. Hôm nay đi chợ Costco, thấy có bán trái chà là khô trong hộp nên tôi mua. Mang về nhà, pha thêm một bình trà Ô Long. Tôi ngồi bên cửa nhìn ra sân, mưa xuân phơi phới bay trên những cành lan tươi thắm. Tết đã qua mấy tuần rồi, hôm nay thật sự là tết của riêng tôi. Một mình trong xuân mới, hoài niệm những xuân xưa. Cắn trái chà là ngọt, nhấp một hớp trà thơm, tưởng nhớ những người thân yêu giờ đây xa vắng. Mân mê trái chà là da dẻ nhăn nheo nhưng ngọt ngào mật dẻo, tôi tưởng như ngón tay thơ dại của con bé mười tuổi nay lại mơn man một lần nữa trên gò má nhăn nheo của bà vú, để tôi được trọn vẹn nói câu cám ơn và từ biệt.

Tôn Nữ Thu Nga
San Dimas, California. Tháng hai, 27, 2018.

Đêm mưa bên hồ Hulala

 

Sau sáu giờ ngao du sơn thủy từ Johanesburg, thành phố lớn và giàu nhất của South Africa. Chúng tôi đi về hướng đông tới Lake Hulala. Charles, người tài xế kiêm hướng dẫn viên, lái chiếc xe van vào con đường gồ ghề nhỏ hẹp. Hai bên đường, cây cối rậm rạp, đôi khi cành  lá quẹt vào cửa kính xe. Ngoài trời nắng nhẹ, độ ẩm vừa phải, mùi hương cỏ lá đồng quê thoang thoảng dễ chịu. Lâu lâu, có con chim lạ đậu trên cành cây hay bay vụt lên từ các bụi rậm, Charles giảm tốc độ xe, chỉ cho chúng tôi xem và nói cho chúng tôi biết tên loài chim ấy. Ông Charles có kiến thức rất sâu rộng, trong suốt buổi hành trình, ông diển giải tất cả mọi đề tài, từ chính trị, xã hội, lịch sử, nhân văn, địa chất và sinh vật học. Tôi học được nhiều điểm thích thú sau vài hôm lắng nghe ông nói chuyện.

 

Theo quốc lộ N12 và N4 từ Johanesburg về hồ Hulala, các cây bên đường đơm hoa rực rở, màu hồng tươi khoe sắc dưới bầu trời xanh. Tôi vẩn vơ tưởng tượng tới căn nhà trọ mình sắp đến, tôi nghĩ đến một cây hoa tưng bừng nở rộ trước hiên nhà. Tôi không ngạc nhiên nhiều khi xe chạy vào khuôn viên khách sạn, một cây hoa hồng thắm chào đón tôi ngay trước khách sảnh, con đường lát đá xanh rêu ngoằn nghèo dẫn đến từng căn nhà nho nhỏ lẫn khuất sau cây cỏ xanh tươi. Cây đại thụ trong vườn dang ra những cánh tay dài ngoằn như chở che cho những căn nhà xinh xắn. Không gian tình tứ, thân mật và quá đổi yên bình. Các chú khỉ chuyền cành, tò mò nhìn đám người mới đến, chúng gọi nhau khèn khẹt rồi đuổi nhau trên các mái nhà thâm rêu.Trong lúc chờ đợi số phòng, tôi bước ra sân nhìn qua đồi cỏ xanh, cuối bãi cỏ là mặt nước bạc phẳng lặng. Tiếng cười khúc khích, tiếng khuấy nước nhè nhẹ từ chiếc thuyền đạp trôi chầm chậm giữa hồ thật êm đềm thích thú.

 

Khí hậu nơi đây hơi oi ả và độ ẩm cao làm ai cũng rướm mồ hôi, tuy vậy sau khi đưa hành lý về phòng, tôi vớ cái máy ảnh lặn lội theo con đường đất ven đồi đi xuống mé nước. Thấy có chiếc thuyền không khóa, tôi giao máy hình cho người bạn, cùng Mỹ Tiên trèo lên thuyền. Mới đầu chưa biết điều khiển, chúng tôi bị chuyển hướng loạn xạ, thuyền chạy điên đảo vòng vèo,vừa sợ lật thuyền vừa cảm thấy tình huống khôi hài, chúng tôi cười nắc nẻ làm cho thuyền càng thêm lạng quạng. Tới khi có thêm chút kinh nghiệm, chúng tôi nhẹ nhàng đạp thuyền ra giữa lòng hồ. Thật là vui và sảng khoái khi được trôi bềnh bồng trên mặt hồ xanh êm. Chung quanh hồ, các rặng đồi thấp, bao phủ bởi cây sồi đen hoặc rừng thông xanh ngát. Gió gờn gợn mát trên mặt nước, thổi khô những giọt mồ hôi trên trán, trên môi, cô bạn nhỏ thích quá không muốn trở về.

 

Trên bờ, các nhiếp ảnh gia nhắm vào chúng tôi chụp hình lia lịa. Chúng tôi vừa đạp thuyền vừa gắng cười duyên vì nếu nhăn nhó lỡ hình mình bị ai đưa lên mạng thì lúc ấy xin khóc luôn.

Chán đạp thuyền, tôi lên bờ thơ thẩn đi chụp ảnh. Chốn này hoa thật thắm, lá thật xanh, chim lạ hót vang trong bụi. Trên cành mấy con khỉ nhảy nhót ngộ nghĩnh, chụp ảnh các chú khó hơn là chụp ảnh cho tụi trẻ con. Vùng này vừa mới mưa, những cơn mưa cuối mùa hạ cũng ngắn ngủi như mùa hoa phượng tím, buổi chiều hôm nay cũng ngắn như những buổi chiều đẹp khác trong đời. Theo màu thiên thanh mời mọc của hồ bơi, tôi cất máy, thay áo tắm, một mình chơi đùa, bơi lội trong hồ. Thân thể và tâm hồn bổng nhẹ như đám mây trôi trên trời chiều chốn đồng quê vắng lặng của xứ Nam Phi, tôi cảm thấy rất hạnh phúc và an bình.

 

Khi mặt trời bắt đầu xuống bên kia đồi , tôi vội vã về lại căn nhà nhỏ của mình để tắm gội, thay áo dài tay và quần dài để đi ăn vì sợ bị muỗi cắn. Bước vào nhà, thân thể tôi đã nhũn ra vì thư giãn, tôi vô phòng tắm, thấy chỉ có cái bồn tắm bèn trèo vào. Bồn tắm nhỏ xíu và tôi loay hoay làm sao đó mà nguyên cả cái phòng tắm nước tràn ướt nhẹp, tôi lầm bầm nguyền rủa cái khách sạn chết tiệt, không có chổ tắm vòi sen. Vớ tấm khăn  bông lau khô tóc , tôi nhìn vào tấm kính soi mặt, giật mình, nhìn kỹ lại lần nữa rồi từ từ quay ra sau. Tôi bật cười, và tôi không thể nào nín cười được nữa vì ngay sau lưng mình là một căn phòng kính thật rộng với một hệ thống vòi sen tối tân mà vì lật đật, tôi đã không nhìn thấy. Trên đường đi ăn tối, tôi vẫn còn cười, cười một mình trong bóng tối, chút xíu nữa là đạp trúng con nhái ngồi chóc ngóc giữa đường.

Đêm xứ này tối đen như mực,  tinh tú long lanh như kim cương, tôi lắng tai nghe tiếng sột soạt của mấy chú khỉ, tiếng côn trùng tỉ tê trong bờ cỏ rậm, tiếng tí tách của những hạt mưa còn sót từ cơn mưa nhẹ buổi xế.

Xuyên qua các căn phòng âm u , vắng lặng của gian nhà chính, theo tiếng động của muỗng nĩa chạm nhau, tiếng lanh canh của cốc thủy tinh chuốc rượu, tôi vào phòng ăn. Mọi người chắc cũng vừa yên vị, Tuấn vẫy tay kêu gọi tôi đến ngồi cạnh bên anh. Dưới những ngọn nến, ánh mắt anh nhìn tôi trìu mến, anh biết tôi lại đi thẩn thơ mơ mộng đâu đó. Chị nữ tu Maria trong phim “the sound of music” vì mơ mộng và ham chơi nên hay bị đi trể vào giờ cầu nguyện! Tôi, một linh hồn lang bạt, trể ăn tối vì muốn ôm ấp hương hoa của South Africa hoang dã.

Nửa khuya hôm ấy, nằm nghe đàn khỉ chạy ào ào trên mái ngói, nghe mưa rào đổ xuống dạt dào trên cành lá, tôi thiếp ngủ  dưới tấm mùng lưới trắng phất phơ, trong tiếng quạt trần, quay đều đều . Tiếng mưa, tiếng quạt, tấm mùng thưa đã đưa tôi về lại quê hương và ru tôi ngủ say sưa như ngày thơ tôi nằm bên cạnh mẹ. Chỉ có khác một điều là bây giờ tôi đang nép sát vào người bạn đường. Gần sáng, tôi chợt bàng hoàng tỉnh giấc, cảm thấy tim như quặn thắt, đang mơ màng nhận thức quang cảnh mới, tôi cảm thấy anh đang ôm mình, tay anh vổ về dịu dàng như dỗ dành em bé: Đừng khóc nữa, tại sao em khóc vậy? Tôi đưa bàn tay sờ lên má mình đẩm ướt, không biết rằng mình đã khóc trong mơ!

Tôn Nữ Thu Nga

Lake Hulala – Mpumalanga- South Africa .Tháng 3, năm 2014.