HƯƠNG

 

 

1.

Lúc đó đã hơn hai giờ khuya, trên chuyến xe điện ngầm ấy người ta xuống dần cho đến trạm cuối thì ngừng hẳn. Lẽ ra tôi xuống từ lâu nhưng một người phụ nữ – tạm gọi là Nữ – đi một mình vào giờ đó khiến tôi áy náy. Nếu là một người Mỹ thì tôi không thấy lo, đằng này Nữ là người Châu Á, và rất có khả năng là người Việt. Nữ lại đẹp và ăn mặc khá mong manh như là không biết New York đang chuyển từ thu sang đông. Trong xe ngoài tôi và Nữ chỉ còn thêm một người đàn ông da đen khi xe dừng ở trạm cuối. Tôi vẫn ngỡ subway ở New York chạy 24 trên 24 nhưng đêm đó tôi mới biết không phải vậy. Cửa xe mở toang và có tiếng thông báo đến 5 giờ sáng sẽ tiếp tục vận hành. Nữ bước ra ngồi trên chiếc ghế đặt bên ngoài và lấy thuốc ra hút. Tôi đến bên cạnh Nữ, xin mồi lửa và xin cả thuốc vì tôi không có thói quen này. Người da đen thì lảng vảng quanh đó một chút rồi kiếm một cái ghế khác nằm ngủ..

 

Chúng tôi có được một khoảng thời gian im lặng bên nhau bằng thời gian tàn một điếu thuốc. Khi giúp Nữ vất chiếc bao thuốc rỗng chứa tàn thuốc vào chiếc thùng rác gần đó, tôi chợt nhớ ra vở kịch của Mishima hiện-đại-hóa một tích Noh mà tôi đã được xem khi đến trường Sân Khấu để kiếm người anh họ. Mở đầu vở kịch, một mụ hành khất đi nhặt “dế”- tiếng lóng chỉ tàn thuốc lá- trong công viên để vấn 3 “dế” thành một điếu. Mụ gặp một thi sĩ, anh yêu cầu mụ biến đi, kẻo làm xấu nơi những cặp yêu nhau đang tình tự. Mụ tự hào, xưa ta trẻ đẹp lắm, bao nhiêu người đắm say, có viên tướng được ta báo sẽ nhận lời cầu hôn nếu đến viếng ta trăm đêm, tiếc là chàng đã bị tuyết vùi vào đêm thứ một trăm. Tôi chợt thốt lên: Komachi!. Đó là tên nhân vật nữ chính cũng là tựa vở kịch. Sau lưng tôi, một mùi hương lạ loang tới….

 

Tôi không phải là thi sĩ, nhưng tôi không dễ dàng rời xa Nữ khi tôi còn là một người đàn ông. Chúng tôi đã qua đêm với nhau như vậy. Dưới ánh đèn sáng choang của hầm xe điện ngầm và một vài đường phố lang thang hiu hắt sáng. Nữ bước ra khỏi hầm, tôi lẽo đẽo đi theo. Ði chán và có lẽ cũng vì trời trở lạnh, Nữ lại kiếm một cái hầm khác chui vào. Rồi hút thuốc và chia sẻ thuốc cho tôi tập hút. Không phải cái hầm nào cũng có những người da đen nằm ngủ. Có khi là vài cậu choai choai ngồi với nhau cười đùa vang động cả vòm hầm, và Nữ lại bỏ ra. Người đàn bà này muốn gì? Nếu không có mình, Nữ sẽ ra sao? Nữ chưa bao giờ nghe nói những chuyện cướp của, giết người vẫn xảy ra à? Tại sao cậu không về nhà? Nữ hỏi bằng tiếng Việt. Tôi ú ớ. Lẽ ra người hỏi là tôi chớ. Tôi có muốn không về nhà đâu, nhưng tôi không đành lòng khi thấy Nữ đi lang thang như vầy ở một thành phố xứ người.

 

Chúng tôi không trao đổi nhau nhiều. Giữa những hơi thuốc, là thơ của Komachi do Nữ đọc:

 

Như cỏ đứt rể,

Nước cuốn xuôi dòng.

Thân tôi trôi nổi

Ai có rũ rê,

Sẽ sống phiêu bồng…  (*)

 

Đó là câu trả lời của Komachi khi được một thi sĩ khác rủ đến một vùng đất mới. Đã có người cho là Komachi gần với Hồ Xuân Hương của người Việt: đẹp, tài, đào ba, hư ảo dù hai người cách nhau hơn chục thế kỷ. Người phụ nữ ngồi rất gần tôi kia không thể là Komachi dù Nữ rất đẹp, một nét đẹp bí ẩn bất chấp thời gian như lời thoại trong vở kịch mang tên nàng: “Một mỹ nhân, dù có tăng thêm bao nhiêu năm tháng, vĩnh viễn vẫn là mỹ nhân.” Chính nét đẹp bí ẩn như một cơn mộng ấy khiến tôi không dám gợi chuyện với Nữ vì cứ ngại cơn mộng kia bị tan ra như sương mù khi nắng lên.

 

Cứ vậy, tôi câm lặng theo Nữ, cho đến lúc bốn giờ rưỡi sáng, Nữ ngồi thiếp ngủ một chút. Trong giấc ngủ của khuôn mặt được hóa trang rất khéo ấy, nhiều lúc, tôi thấy thời gian như lướt qua mặt Nữ, khi thì những nếp nhăn, thoáng chớm tóc muối tiêu.. khi thì  cả mái đầu tuyền màu xám sắt… hiện ra rồi lại trôi đi. Lời trong vở kịch trở lại, khi chàng thi sĩ toan lên tiếng yêu nàng, mụ già nhặt “dế” nhắc nhở:

 

–         Ta, mụ hành khất tàn héo, da nhăn nheo, gần đất xa trời, khoác mớ giẻ thối hoắc, rách nát như tổ đĩa. Nhưng hãy nhớ, tuyệt đối không được nói yêu ta vì cái chết sẽ đến với ngươi.

Cuối vở kịch, chàng thi sĩ quyết thốt ra lời yêu. Anh ta nằm thẳng cẳng ngay sau đó. Cảnh sát tới, khiêng xác anh ta đi. Bà già vẫn tiếp tục lượm dế.

 

Tôi ngồi cạnh Nữ, rất gần, để có thể ngữi được mùi hương, rất trầm, toát ra từ thân thể Nữ, mùi hương không làm người ta muốn níu lấy hôn, mà chỉ cảm được rằng, mình nên giữ một khoảng cách, dù bằng một sợi tóc, nếu còn muốn sống.

 

Mãi đến khi trước chuyến năm giờ đầu ngày, có một thoáng hoan hỉ lướt qua mặt Nữ như một cơn mộng đẹp vừa thoáng hiện đâu đó. Ý thức được giây phút chia tay phải đến, tôi không kìm được, định ôm choàng lấy Nữ, ngỏ lời yêu, dù phải đổi bằng sinh mạng mình, thì cũng là lúc Nữ mở mắt ra. Tôi cứng người vì sợ hãi, Nữ đọc nhanh vài câu thơ trong tiếng subway đầu ngày ầm ầm chuyển động:

 

Hoài mãi nhớ nhung,

Đắm chìm giấc ngủ,

Đã tìm thấy nhau,

Nếu biết là Mộng,

Thức chi Người ơi!…  (**)

 

Lại là thơ của Komachi…Rồi Nữ bước vào chuyến xe ấy. Khung cửa khép lại. Tôi chỉ còn thấy một nụ cười. Điều lạ nhứt là toàn thân tôi cứng đờ, chẳng thể nhấc mình lao theo Nữ. Cho mãi đến chuyến subway kế tiếp…

 

 

2.

Năm tháng trôi qua. Khi kể chuyện nầy cho vài người bạn nghe, ai cũng cười tôi sống ảo hơn cả chữ ảo, nhất là sao lần gặp gỡ đó, các cuộc tình của tôi đều không có duyên đưa đến hôn nhân. Nghe kể lần kỳ ngộ đó đang mùa Halloween, có người còn tin lần đó tôi gặp một cô gái giả ma, và cũng rất có thể đã bị một ma nữ ám.

Một lần họp gia đình trên đất Mỹ, gặp lại người anh họ, nhắc lại vở kịch Komachi mà anh đóng vai thi sĩ, anh cho tôi địa chỉ liên lạc với gia đình của Nhụ Hương, người bạn cùng lớp đóng vai Komachi. Sau đó, tôi gọi điện thoại, để lại lời nhắn và gởi thư, đều không được hồi đáp.

Tình cờ, tôi được mời đến Toronto để …hát và nói chuyện. Người mời cho biết gần đầy, những người trẻ nơi anh ở bị trầm cảm nhiều quá, hy vọng những bài hát của một người độc thân chỉ lao vào những việc xã hội như tôi sẽ giúp họ tin và yêu cuộc đời nầy trở lại.

 

Làm xong việc của mình, tôi mua vé bus khuya lên Montreal. Ở chơi một ngày với bạn bè, tôi nảy ý kiếm xe đi Québec, nơi gia đình của Nhụ Hương đang sống với hy vọng người đàn bà tôi đã gặp ở subway của New York lúc 2 đến 5 giờ sáng có liên quan đến chị.

 

Tiếp tôi ở đó là Quê, một người con trai có khuôn mặt khá giống Nữ. Quê khẳng định:

 

–         Đó là chị Hương của tôi. Sau khi gặp anh, chị có gọi về, kể từ lúc lên tầu chị đã định lao vào một đầu máy chạy nghiến tới nhưng khi quan sát từng người khách quanh mình, ngại sẽ làm lỡ việc của họ nên chị hoãn ý đó. Lúc quyết tâm cao độ thì cũng là lúc tàu phải nghỉ khuya. Suốt thời gian bị anh lẳng nhẳng đi theo, trong đầu chị chỉ độc một ý: làm thế nào để mình chết mà không lụy tới người thanh niên kia. Rồi khi chị thiếp đi một chút, đúng là một cơn mộng đẹp lướt qua đã làm sạch tâm hồn chị, không còn đọng chút nào, cơn thèm chết. Nhụ Hương cho là anh đã cứu chị.

 

–         Nhụ Hương bị trầm cảm à?

 

–         Không giống những người trẻ vừa nghe anh hát. Chị vượt biển sang đây. Gặp cướp. Mang thai. Muốn chết. Nhưng thấy có lỗi với đứa bé vô tội nên giẳng co giữa quyết định sống và … đi.

 

–         Giờ có cách nào gặp được?

 

–         Sau cú phôn đó, chị không liên lạc nữa. Gia đình, bạn bè đều không ai biết chị về đâu, còn sống hay không?!. Tôi lấy ngày chị gọi về lần cuối là ngày tưởng nhớ. Đúng là hôm nay.

 

Tôi xin được xem hình. Vì khi đóng vai Komachi, Nhụ Hương hóa trang thành một mụ già ăn xin, lưng còng gần sát đất. Quê đưa tôi tấm hình. Trong ảnh là một cô gái khá giống Nữ dù mái tóc dài bay trong gió che phủ mặt chỉ còn thấy một đôi, mắt trái khóc, mắt phải cười. Sau lưng tấm ảnh là một bài thơ khác, vẫn của Komachi.

 

 

3.

Khi tôi kể cho anh họ tôi nghe, anh nói Nhụ Hương không có em trai. Tôi cho anh biết ngữi được mùi hương trầm thoáng bao quanh Quê và chiếc áo khoác lộn trái mà Quê mặc, anh tủm tỉm cười:

 

–         Em quên sao? Dân Nhật tin mặc áo trái ngủ sẽ có nhiều mộng đẹp. Biết đâu Nhụ Hương giả nam để bỡn em. Đừng quên nàng là diễn viên.

 

Sau nầy, nghĩ tới Nữ, tôi liên tưởng đến Liễu Hạnh, một trong tứ bất tử của người Việt, cô công chúa thứ hai của Ngọc Hoàng đã nhiều lượt xuống trần, vào nhà họ Phạm lấy tên Tiên Nga, vào nhà họ Lê là Giáng Tiên, với mong cầu Nữ – hay Nhụ Hương sẽ tái sanh kiếp khác. Nhiều lúc hụt hơi với đam mê nghiệt ngã của mình, tôi chỉ mong nó như Komachi, biết chạm vào là ngưng thở, vẫn phải tỏ tình với nguồn sống đó.

 

Và bây giờ, trong chuyến bay từ Phoenix tới Austin, hành khách bên trái của tôi đang xem một đoạn video có một cư sĩ nói về Nhụ Mộ Cố Hương, bên phải là một cô gái chỉ khoảng đôi mươi, đang ngủ say trên chiếc ghế sát cửa, một nửa mặt trái giống hệt Nữ. Suốt hai giờ bay, tôi loay hoay mãi, không lẽ đánh thức cô ta dậy chỉ để hỏi cô có bà con với Nhụ Hương không?.

 

Trong lúc mong cô choàng thức để xin tôi bước ra ngoài, tôi đành xem phim. Loáng thoáng cạnh tôi, lời giải thích Mộ là hết lòng mong cầu đạt đến, còn Nhụ Mộ Cố Hương ví như đứa nhỏ lạc loài, nhớ đến mẹ cha. Lời giảng còn dài, nói về tu tập. Người khách bên trái đột ngột chuyển sang xem những tài liệu về khoảng bốn trăm ngàn người Việt giạt trôi đâu đó mất tăm tích giữa lòng biển, xó rừng…

 

Tiếng loa kêu hành khách thắt chặt seatbelt vì sắp vào vùng thời tiết xấu. Cô gái bên tay phải  của tôi vẫn ngủ say. Thoáng hương trầm quen thuộc từ nơi ấy tiết ra. Khi tay tôi chạm vào tay cô, đúng ngay đoạn phim cho biết người chạm vào ma, có thể là một khoảng không, nhưng nếu đó là quỷ, mình cố nắm tay, da sẽ chạm được xương thịt, như với người. May mà cô ta không thức giấc, không thì chắc tôi chỉ nói được một lời xin lỗi. Chớ chẳng lẽ hỏi cô là ai? Là quỷ hay người? Là cô diễn viên đã đóng xuất thần vai bà già còng lưng, ngực gần chạm đất, là cô trinh nữ đã bị hãm hiếp trên biển Đông, là thiếu phụ đã gợi tôi nổi khát khao được tỏ lòng yêu dù biết nói ra mình có thể ngưng thở. Bỗng hiện rõ trong tôi, bài thơ của Komachi viết tay sau tấm ảnh của Nhụ Hương – hay Nữ, của tôi?!

 

Đường đến cõi Mơ

Chân bước tới Người

Đi không ngơi nghỉ,

Nhưng trong đời Thực

Chẳng sao gặp được,

Trong chớp mắt thôi…. (***)

 

Tôi đã gặp. Hơn một cái chớp mắt. Chẳng phải hạnh phúc hơn bao người?

 

Tôi đang ngồi cạnh. Hãy tận hưởng mùi hương đang tỏa ra trong cõi thực, sát bên mình.

 

——–

(*) thơ Komachi, Cổ Kim Tập- Tạp Ca

(**) thơ Komachi, Cổ Kim Tập- Luyến Ca

(***) thơ Komachi, Cổ Kim Tập- Luyến Ca

 

Nguyễn Thị Minh Ngọc

Advertisement

HÃY MƠ, SẼ CHẠM ĐƯỢC

nguyenthiminhngoc

img_1794%20f1

“Đố ai nằm ngủ không mơ..” Trong giấc mộng của mình, người thi sĩ của dân gian mơ thấy: “Nửa đêm trăng xuống, đứng đợi ngoài hiên, Nửa đêm anh đến, bến bờ yêu thương.. Đố ai tìm được tim ai..”
Mỗi lần nghe bản nhạc mang hơi hướng dân ca “Đố Ai” của Phạm Duy tôi cứ liên tưởng tới nhà thơ Tagore. Trong một bài thơ, ông đã xin người thiếu nữ hậu sinh của trăm năm sau, hãy tha thứ cho ông nếu ông hình dung ra dưới ánh trăng im lìm lai láng, nàng đang đọc thơ ông và tưởng tượng “nếu thi nhân còn sống đến ngày hôm nay, ắt hẳn chàng yêu ta” . Ông còn mơ mòng rằng đêm đó, nàng đã chong đèn suốt đêm ngoài ban công chờ thi sĩ đến mặc dù nàng biết chắc rằng người tình sống trước nàng trăm năm ấy chẳng bao giờ vượt được khoảng cách thời gian ấy để đến với nàng.
Đố người sáng tạo nào làm nên những tác phẩm lớn mà thiếu đi yếu tố mơ màng?. Một trong những người mơ mộng đi trước thời đại là June Verne, “cha đẻ” của thể loại “khoa-học viễn tưởng”. Trước khi máy bay, tàu ngầm và phi thuyền vũ trụ ra đời, ông đã cho độc giả được thưởng thức những cuộc hành trình kỳ thú bằng các phương tiện nầy trong các tác phẩm: “Tám mươi ngày vòng quanh thế giới” , “Hai mươi vạn dặm dưới đáy biển”, “Hành trình vào tâm quả địa cầu”…
Chúng ta thường nói đùa với nhau, ước mơ có bao giờ bị đóng thuế, lao vào nó ta chỉ có cửa ăn, cửa huề chớ có cửa thua đâu mà phải ngại ngần giới hạn nó.
Nói như vậy không có nghĩa mơ mộng chỉ có mặt tích cực của nó. Lady Macbeth vì tham vọng quyền lực cho phu quân, đã giải điềm gặp ba phù thủy của chồng thành hành động thúc ép chồng giết vua để đưa đến bi kịch đời họ cùng nhiều người liên lụy. Ta ủng hộ những con người giàu ý chí, có khả năng biến “ước mơ thành hiện thực” cũng như những người “biến đau thương thành sức mạnh” , có thể đứng dậy, vươn cao sau khi té ngã, nhưng cũng mong đi kèm theo đó là một chữ tâm tỏa sáng cho cơn mộng đẹp và lành của cả nhân thế chứ không chỉ thỏa hạnh phúc bình an cho mỗi cá nhân mình.
Năm Quý Tỵ tới đây, thoáng chốc mà tôi đã có mặt trên cõi đời nầy đúng tròn 5 con giáp. Nhìn lại những ước mơ mình đã vun bồi trong đời, tôi thấy mình khá may mắn khi những giấc mơ được biến thành sự thật của mình có thể số lượng ít hơn nhưng mang giá trị sống với tôi và những người chung quanh nhiều hơn những cơn mộng vỡ.
Thử hình dung sau một cuộc chiến quá dài, vào những ngày sau 30 tháng 4 năm 1975, thời gian vừa hòa bình nhưng thất tán người thân yêu, thất tán cả những mộng mơ thời mới lớn, tuyệt vọng trong việc tái ngộ khát vọng nối bước theo con đường nghệ thuật gian nan gần như độc hành của những người thầy, ở tuổi đôi mươi, bưng thùng thuốc lá bán lẻ, trôi từ vĩa hè góc Đinh Tiên Hoàng Hồng Thập Tự sang sân thềm Viện Đại Học ngó sang Hồ con Rùa, rồi góc Pasteur- Nguyễn Đình Chiểu, có những chiều mưa ế, tự làm khách hàng cho chính mình, tôi vẫn không dập tắt chút lửa mơ màng rằng sẽ có lúc mình trở lại cái công việc sáng tạo nầy. Rồi biết đâu, một trong những tác phẩm của mình được chu du .. thế giới và đó sẽ là lý do để thầy trò tái ngộ.
Cuốc sống như sóng sau xô sóng trước, những được mất, thành bại, khóc cười đan xen mà những tiêu cực hậu trường cho đến giờ vẫn chưa thể kể, sau khi trở thành người viết, người diễn, người dựng, người dạy với những hoàn cảnh đôi khi ngoài ý muốn, có cơ hội đi gần hết nhũng tỉnh thành trên đất nước mình và khoảng trên mười mấy thành phố của xứ người, cho đến đúng 32 năm sau, một ngày tháng tư, năm 2007, đang sống tại Bismarck, North Dakota là một thành phố chỉ có mấy chục ngàn dân trên đất Mỹ, tôi nhận một giấy mời báo tin mình được chọn làm nhân vật mà Đại Hội điện ảnh thế giới về Việt Nam(VIFF) ở California, US chọn để chiếu vào -“spot-light” (Được biết năm 2003, mới thành lập, VIFF “chiếu” Victor Vũ, năm 2005, VIFF “ chiếu” chị Kiều Chinh, 2009 là Dustin Nguyễn và 2011 là Khoa Đỗ ở Úc).
Trong giây phút được tuyên dương, nhìn ra và mời được người thầy dạy điện ảnh cho tôi là đao diễn Đặng Trần Thức, nay tóc đã muối tiêu lên đứng cạnh mình, tôi bỗng rùng mình khi cảm giác như mình đã chạm được cơn viễn mơ cách đó mấy mươi năm mà khi khởi mộng, tôi không bao giờ dám nghĩ ước mơ ấy sẽ có ngày thành sự thật.
Bạn tôi, những người trẻ tuổi đã và đang nhen những giấc mơ tương tợ như tôi. Hãy đi, sẽ đến, hãy tìm, sẽ gặp, hãy gỏ, sẽ mở. Hình như kinh thánh đã nói như thế. Và bạn có thể cho thêm vài chữ nữa, HÃY MƠ, SẼ CHẠM ĐƯỢC, trong kinh thánh của tôi, Nguyễn Thị Minh Ngọc, vào những năm tháng trở lại năm sinh Quý Tỵ của mình.

Nguyễn Thị Minh Ngọc

Chiếc Nhẫn

nguyenthiminhngoc

Nói chung, Trấn có vẻ khi dễ mọi việc làm của tôi. Khi nghe tin tôi sắp đi Tây nguyên đóng phim, Trấn nói, bỏ đi. Bỏ đi thì không khó.

Nhưng ở lại Sài Gòn lúc này để làm gì? Lại nghe họ tộc trách móc tui bay giỡn mặt vừa thôi, thiệp cưới tung đi khắp nơi lại đi thu hồi. Lại nghe má ngồi thở dài chẳng thiết nói năng mỗi khi tôi chường mặt về nhà. Lại cảm giác hao đi cái tình yêu gì mà như một cách hủy hoại nhau giữa Trấn và tôi.

Thế là tôi đi, như tự thưởng mình một chút giải lao ngắn giữa bao bộn bề công việc cuối năm. Khi máy bay hạ cách, ngó sơn cúc xưa vàng ngát từng vạt tôi nhẹ bớt nỗi lo những ngày tới phải hòa nhập trên ba mươi con người chưa quen biết. Ngay cả đạo diễn phim, quay phim và chủ nhiệm phim cũng chỉ biết tối qua mấy tấm hình và vài câu trao đổi trên điện thoại. Đoàn làm phim cùng ở trong một khách sạn quân đội cách thị trấn hơn 10 cây số. Cần kiếm ngay một chiếc xe thồ hay một trạm điện thoại công cộng, có khi phải đi bộ đến vài cây. Suốt một tuần rảnh rang, gọi về cho Trấn đủ các giờ chẳng bao giờ gặp. Phố chợ nhỏ, kêu xe ôm đi vài vòng đã hết.

Trước khi tôi lên đây, một người bạn nói cứ đi gặp Ạ, kiếm X. sẽ được giới thiệu những chỗ đi chơi. Gọi điện thoại mấy lần, nghe hai bà vợ diễn tả hai ông chồng có vẻ như không còn thì giờ để thở, nên những ngày vô cùng thong thả ở đây, bạn đồng hành dến các thác, suối với tôi chỉ là những chú xe thồ. Chuyên đề trao đổi giữa chúng tôi thường là về những vụ án và cách phá án mới nhất vừa được đăng trên báo Công An thành phố, như là một cách tạo lòng tin cho nhau giữa hai người khác phái chưa quen nhau bao giờ, cùng đưa nhau đến những nơi vắng vẻ hoang vụ Anh nào cũng khẳng định: xe thồ chưa giết ai bao giờ mà chỉ bị giết để giựt xe thôi, mới có mấy vụ gần đây nè, ở Biển Hồ, ở khu sân bay cũ, ở Bàu Cạn, Đức Cơ.

Những con suối lũng hồ hoang sơ thì đẹp mê hồn, với tôi. Nhất là khi tôi được đến trong những khoảnh khắc chẳng có khách vãng lai nào chịu tới. Có những lúc mất dấu đường mòn, lách vào lau sậy mà đi, cỏ quều rát mặt… Đi đâu rồi tôi cũng dặn tạt về điểm quay trước khi mặt trời lặn. Mỗi lúc đó, chú T. quay phim thường bắt tôi khoác áo, choàng khăn đi lẩn thẩn giữa dã quỳ hay thảo nguyên, lau dại để quay cảnh toàn có bóng tối nhập nhoạng giữa chiều tà. Ông đạo diễn nói riêng với tôi, cuối năm, tiền quay ngoài Hà Nội chưa chịu chuyển vào, phim sắp cạn mà ông ấy cứ thích bày ra quay thêm nhiều cảnh đẹp, tôi chẳng biết dựng vào đâu đây vi cảnh đẹp không có người thì cũng vứt đi. Tóm lại, ông muốn tôi cứ xênh xang đi chơi, lố giờ mặt trời lặn một chút cũng không sao, để trốn ông quay phim duy mỹ.

Tôi sống ròng rã với những cảnh đẹp không người (trừ tôi và các anh xe ôm khác nhau) như vậy suốt mấy ngày. Có những cái thác an nhiên hoang tàn phóng nước tới độ chỉ thèm được đứng trên đầu thác, trượt theo… Có những ngày nắng từng vạt nhiều sắc độ trải trên đồi, đồi vút đụng mây, mây đôi khi rùng rùng kéo nhau đi nhanh tới chóng mặt và đôi khi trời, mây, núi dường như xanh biếc một màu như những gợn sóng trắng xanh hòa trong biển, đảo… Sống ở đây, hẳn người ta không thể hẹp hòi.

Đạo diễn báo đêm nay, từ 12 giờ mới có điện, Nhụ Hương sẽ quay cảnh đầu. Ngày hôm ấy tôi xin sang một tỉnh khác chơi, cách đó hơn 50 cây, hứa về trước 5 giờ. Lần này tôi đón xe. Ven đường ít nhà ở đến nao lòng. Tôi ngúc ngoắc giữa những bao lớn nồng nàn hương chanh cạnh những con người phụ nữ gùi trẻ con trước ngực, giương các đôi mắt nâu thăm thẳm ngó người… Đến bến xe, hỏi thăm, người ta cho biết ở đây ngoài thác, suối, cầu tre, làng người dân tộc,… còn có nhiều nhà thờ đẹp.Đến ngôi nhà thứ hai, hoàn toàn bằng gỗ, tôi tấp vào một đám Tây ba lô, hỏi tụi bay đi đâu cho đi với. Họ chỉ sang một người thông dịch kiêm hướng dẫn viên. Anh ta hỏi đi bộ trên mười cây số có nổi không? Tôi gật đầu, rồi chỉ vào mình nói: “Nhụ Hương!”. Anh ta bảo, gọi anh ta là Quốc. Phần giới thiệu coi như là xong.

Lâu lắm rồi tôi mới đi một chuyện như vậy. Tay không, tiền trong túi, đi ven đường, ven suối, mỏi thì nghỉ, khát thì uống, đói thì ăn, tai lại nghe những lời dẫn giáo. Chỉ khác hồi xưa, lời bây giờ không phải là tiếng nước mình, và những người đi cùng bước chưa phải bạn mình.

Quốc có vẻ thân thuộc với tất cả mọi người, từ nam phụ lão ấu. Anh bày thêm vài câu tiếng Anh cho bọn trẻ reo hò khi bọn người lạ đi quạ Một vài cô nữ sinh đi ngược chiều gật đầu chào thầy.. Quốc càu nhàu: “Tôi đã không nhận dạy nó nữa. Ỷ ba má làm lớn, bỏ học hai buổi, tôi đuổi ngay, mặc kệ ba nó tới xin”. “Anh dạy gì?”. “Anh văn!”. “Anh phát âm gần với người Mỹ”. “à, tôi có học ở đó ba năm. Hồi đó tôi đẹp trai hơn bây giờ nhiều. Nhiều cô mê tôi nhưng chẳng cha mẹ nào của các cô chịu gả. Họ lên đây, liếc sơ qua nhà tôi rồi chê không bằng nhà bếp của họ. Tôi bỏ cô người yêu đó ngaỵ Sau này tôi bị lỡ dở bao mối cũng vì một chữ nghèo đó”.

Trong lúc những người cùng cùng đi lo chụp hình cảnh sinh hoạt bên suối, tôi bổng kể về anh. Hồi đó tôi cũng có người yêu “lựu đạn” như anh. Anh ấy đào ngũ, đi lao công đào binh… Chết rồi. Ở đây. Má tôi nói cho tới giờ ngày tôi chưa lấy chồng có lẽ vì bóng ma người đó ám. Chuyện này tôi chưa kể cho Trấn.

Bọn ngoại quốc lao nhau phân bì, hai đứa bay nói chuyện gì vui quá, cho tụi tao nghe với. Quốc nói: “Chuyện tình, tao có một túi đầy ắp chuyện tình. Tụi bay nghe không, tao kể”. Những chuyện tình được kể bằng tiếng Anh sau đó của Quốc khiến tôi bị cuốn hút theo vì nó hấp dẫn và mới hơn những chuyện tôi đã được đọc. Tôi hỏi nhỏ Quốc, đọc ở sách nào vậy? Quốc vênh mặt, tự hào, toàn là những chuyện của chính anh.

Bây giờ tôi mới nhìn kỹ anh. Người cao, to, đen, lưng thẳng như cột nhà nám bồ hóng. Nước da đen tím làm nổi bật chiếc nhẫn vàng nơi ngón tay áp út. Cũng có thể tin được người này trước đây có một quá khứ đẹp trai. Lâu nay tôi vẫn tự hào về những mối tình dang dở của tôi. Nếu Quốc nói thật, có lẽ đây là một nhân vật không kém gì tôi về việc làm vỡ những mối tình, mà gốc xuất phát từ lòng tự trọng và ít nhiều vụng về, mà nói theo má tôi, thì bị ma nó ám.

Đến cầu treo Đà Linh, Quốc bổng ngồi phệt xuống giữa cầu, xúc động: “Hôm nay là ngày giỗ của cô ấy.. Đó là người con gái tôi yêu nhất và dường như tôi chỉ yêu cô ấy mà thôi”. Mấy người khách, nhất là anh chàng nhóc người Hà Lan tóc vàng sậm như thảo nguyên thung lũng A Sầu háo hức: “Kể đi, anh kể đi!”.

Quốc cố tháo chiếc nhẫn ra nhưng không được. “Đây là chiếc nhẫn cưới cô ta mua cho tôi. Chiều thứ bảy, cô nói với em về rước má lên gặp ba má anh. Tự dưng tôi can: đừng đi em! Cổ tròn con mắt: thì cuối tuần nào em cũng về để đầu tuần lên đi học, có sao đâu. Sáng thứ hai, đi đến gần cầu đó, tôi nghe dân chúng xôn xao. Đêm qua xe đò chạy đến đây, lính gác cầu xin tiền, tài xế không cho, nó bắn dọa chơi mà có một cô bị đạn xuyên cổ chết thật. Đó là vợ sắp cưới của tôi… ” Quốc hạ giọng: “Tôi đã tìm ra được thằng đó, bắn què chân. Từ đó, tôi sợ những chiếc cầu. Từ đó, mỗi lần tôi định cưới ai, tay bổng phồng to không kéo nổi chiếc nhẫn ra để đổi chiếc khác. Dường như cô ấy sợ những cô gái kia không đem lại hạnh phúc cho tôi”.

Đó là câu chuyện tình cuối cùng Quốc kể trong ngày.. Trưa đó, chúng tôi ghé chợ ăn vớ vẩn rồi đi ngược hướng Tây, nơi có cái nhà rông cao nhất và nơi có cây đa tương truyền là đã sống được ngàn năm. Quốc kéo tôi suýt ngã khi tôi định ngồi tựa vào những rễ đa to: “Rắn độc sống nhiều trong đó!”.

Quốc bổng ngó xuống hai tay tôi: “Nhẫn đâu? Cô không có chiếc nào sao?” Tôi xòe tay, khoe khoang: “Lúc nào cũng có một chuyện gì đó xảy ra trước khi có người định trao nhẫn cho tôi, nên từ lúc tôi sinh ra tới giờ, chưa được bao giờ tôi đeo nhẫn cả”.

Khi trở lại khu nhà mồ cuối cùng, Quốc kêu cho tôi một chiếc xe thồ. Rồi bổng rút chiếc nhẫn ra khỏi ngón tay một cách dễ dàng, đưa cho tôi: “Cho cô nè, Nhụ Hương! Chiếc nhẫn bỗng nhiên tháo ra được, vậy là cô ấy đã nhẹ nhàng ra đi. Vậy là lời nguyền đã được giải. Cô cũng nên giữ đi, để giải lời nguyền của riêng cô… ”

Tôi vẫn không dám đeo vào tay và đặt nhẫn vào sợ dây gỗ đeo nơi cổ. Trời tối nhanh và lạnh khủng khiếp trên đường về mặc dù tôi đã trang bị đầy đủ áo khăn găng vớ. Lần này câu chuyện không xoay quanh những vụ cướp xe giết người nữa bởi dạ đã yên khi thấy người chở mình quen Quốc. Ông già lên tiếng trước:

– Sao cô quen ông Quốc “mát” đó?

Tôi giật mình:

– Ông ấy điên à?

Ông già lắc đầu:

– Không phải điên. “Mát” khác!

– Là không giống ai! Một thời đạp xích lô, đi xe thồ như tụi này, cực lắm. Sống với lũ trẻ mồ côi. Hiện giờ lại dạy Anh văn nhiều trình độ, nhiều lứa tuổi, thường kể chuyện xạo cho mọi người nghe, và cứ nhận mình là nhân vật chính trong các câu chuyện đó.

– Còn vợ con?

– Nghe nói vợ chết, nhưng chết cách sao chẳng ai hay.

Trời tối đen khi tôi chưa tới được nơi đóng phim. Ông già nói:

– Cô cảm phiền đi xe khác về. Tôi phải quay về lại vì đường xa, trời lạnh và tối, trễ nữa không đi được đâu!

ông quày quả đi sau khi giao tôi cho chiếc xe thồ khác. Đến nơi, đạo diễn giục tôi hóa trang ngay rồi vào bàn tập thử cảnh đạp chiếc mỏ hàn xì để làm đồ vàng bạc. Chị Nhơn hóa trang nói nhỏ có người tên Trấn vừa gọi lên kêu Nhụ Hương về gấp ngày mai để kịp gặp mặt mẹ anh ở Đà Lạt xuống gặp mẹ tôi dàn xếp lại ngày cưới. Mai cũng là ngày quay cảnh tôi trở lại hòn đá đen giữa vạt sơn cúc năm nào.

Tôi tập đạp chiết mỏ hàn xì. Cảnh này thì tôi đã hết mộng du, nghĩa là đã qua gai đoạn mà Y Linh cứ đứng bên ngoài cười kêu chị Hương ngơ ngơ như con bò đội nón. Tôi tháo chiếc nhẫn của Quốc bỏ vào lửa. Chiếc nhẫn đỏ rực không tan. Những bà mẹ chồng hụt của tôi cứ canh những lúc tôi không thể về để đến. Nhưng mà không sao, lời nguyền đã được giải. Gió luồn đám bạch đàn gần đó kêu rầm rì suốt đêm như sóng. Giữa hai cảnh quay, Y Linh đưa ngón tay lên trên, khen tôi số một, em nghi coi xong phim này sẽ có nhiều ông khùng cầu hôn chị.

Có thật không, mẹ Trấn sẽ đến sáng mai? Có thật không, Quốc? Có thật không, tôi đang mộng du ngồi đây bày trò cho lửa phừng to táp mắt? Có thật không những đồi lũng suối nguồn rực rỡ hoang dã mấy ngày nay? Đã được giải hẳn chưa lời nguyền?

Điều chắc chắn là chiếc nhẫn đang đỏ trên tay tôi là vàng thật. Và dã quỳ sơn cúc xưa của tôi vẫn còn hực hỡ vàng bát ngát mùa đông Tây nguyên. Cùng đất thì đỏ như máu. Nhiều người năm xưa chết quanh quất đâu đây chưa tan được. Cũng như tiếng gió vẫn rì rầm kêu hát suốt đêm tàn đông còn lại tôi sống ở đây.

Nguyễn thị Minh Ngọc

Yêu tinh

nguyenthiminhngoc

Một phụ nữ viết văn có nên yêu và kết hôn?

Tôi là phụ nữ, thỉnh thoảng có viết văn. Nhiều người khuyên tôi, yêu thì nên nhưng lấy chồng thì chớ. Trong những người ấy, có người cũng là phụ nữ và có viết văn.

Tôi chưa được yêu và chưa kết hôn không phải vì tôi là phụ nữ viết văn, mà có lẽ vì duyên chưa tới. Ngoài chuyện viết văn tôi còn dính líu vào nhiều công tác xã hội. Đàn ông thấy tôi chạy xa tám thước, họ không tin tôi có khả năng làm vợ hiền. Tôi cũng không tin mình có khả năng đó. Một cậu học trò của tôi tuyên bố với nhiều người: “Cô giáo em nhiều lắm là chỉ nấu được nước sôi.”

Tôi sống thanh thản trong bận rộn tới tuổi bốn mươi ngoài. Ở cái tuổi mà bạn bè cùng trang lứa đã có con có cháu, đôi khi tôi thấy đó là một điều may mắn. Tôi thích cuộc đời một nhà dạy toán không vợ, không nhà, gia sản chỉ là chiếc cặp đi dạy nhiều nơi trên thế giới, lấy hotel nhiều thành phố khác nhau làm nơi cư ngụ. Nhiều người bạn vẽ ra một viễn cảnh đen tối cho tôi sợ về một tuổi già hiu quạnh. Họ không ngờ tôi đã lường trước chuyện đó rồi. Nếu cuối đời làm lụng có dư, tôi mơ mình sẽ gầy nên một viện dưỡng lão tư nhân rồi chui luôn vào đó ở. Còn không dư thì càng đơn giản hơn nữa, cứ phó thác thân mình cho xã hội, như mình đã từng đi chăm sóc những người già tứ cố vô thân.

Trong tư thế độc thân lại có viết văn, tôi còn là một chuyên viên gỡ rối tơ lòng tài tử cho các chị em bạn gái bế tắc chuyện tình.

Mùa đông năm đó, tôi tình cờ lạc đến New York với một công việc ký kết trong từng ba tháng một. Tôi yêu thành phố ấy, có lẽ vì nó có nét nào đó giống Sài Gòn. Cũng người tứ xứ đổ về, cũng chả cần ai biết ai là ai để soi mói xét nét từ cách ăn bận đến hành vi; cũng là nơi bạn cảm nhận hơn đâu hết về mùi vị thông thống gió lộng của tự do. Tôi có một chỗ ở ngay trung tâm mà không phải bận tâm tiền thuê. Tôi không có ai để phục vụ cơm nước kể cả chính mình nên thường chọn một quán ăn vắng vẻ có chủ người Việt, ở China Town để ăn trưa. Đôi khi đó cũng là bữa ăn duy nhất cho cả ngày, như thế tiện cho công việc hơn. Và người yêu tôi bấy giờ là công việc.

Ròng rã mấy tháng trời, sau khi tôi ký thêm mấy đợt hợp đồng, một hôm bà chủ quán ngoắc tôi nói nhỏ.

– Cô nè, ngó cái ông ở cái góc đối diện cô kìa, thấy chưa?

– Thấy, có gì đặc biệt đâu? Như mọi thực khách khác thôi.

– Cô không thấy ông ta giống cô à?

– Mặt ông sụp sụp xuống kiểu đó, ai biết tròn méo cỡ nào.

– Tôi muốn giới thiệu hai người với nhau đó.

– Bộ ổng nói với bà ổng để ý tôi hả?

– Không!

– Trời đất, vậy sao bà gan quá vậy?

– Ổng có biết cô là ai đâu, hôm qua tôi ngồi với ổng, tôi cũng chỉ chỏ cô, nói y như hôm nay với cô, ổng cũng hỏi y như cô, rồi cũng kêu tôi gan quá.

– Rồi bà nói sao?

– Thì bụng tôi sao tôi nói thiệt. Tôi là chủ quán, thấy có hai người khách cứ giấc trưa bước vô một mình, gằm mặt ăn hết năm nọ tháng kia, tức nhiên hai người đều độc thân. Tôi nảy ý muốn ráp hai người với nhau, mặc dù như vậy có nghĩa là tôi sẽ mất đi hai mối khách.

– Ổng nghe vậy rồi nói sao?

– Ổng nói thử coi.

– Đời tôi làm chuyện tào lao nhiều nhưng giờ phải ngã mũ trước bà.

– Giờ có gật đầu không để tôi xếp giờ cho hai bên gặp?.

Đến ngày hẹn hò của “đôi già”, tôi lượm một bộ đồ văn phòng trông cực kỳ boring cho người đàn ông đi ăn trưa một mình kia coi mắt. Anh ta cũng chẳng kém, trang phục đi gặp tôi được anh chọn ngó lùi xùi như một chú tài xế tắc xi không hề gây chút ấn tượng nào giữa New York.

Buổi nói chuyện giữa hai người diễn ra nhạt nhẽo như hai bộ đồ chúng tôi khoác vào người. Chàng cho biết đã có một đời vợ, từ Âu Châu trôi dạt sang, con đã lớn, lương giờ đủ sống. Tôi cho biết chưa đời chồng nào, nhưng có khá nhiều bạn gái bị chồng bỏ có nhu cầu bước thêm bước nữa để phụ nuôi con; nếu chàng thích tôi có thể giới thiệu cả tá cho chàng lựa. Chàng nhún vai, sợ lấy vợ lắm rồi. Tôi gật gù ra vẻ thấu hiểu, tôi chưa đời chồng nào đây mà ngó đời sống hôn nhân còn ngán, huống chi anh.

Bà chủ quán thất vọng trước tuyên ngôn ủng hộ chủ nghĩa độc thân giữa hai đứa chúng tôi. Cái quán vắng vẻ của bà vẫn còn hai người khách trung thành, thỏa mãn với những bữa ăn trưa, một mình đến và đi.

Câu chuyện nhạt nhẽo này tưởng đã ngưng rồi ở đó nếu đám thân chủ tưởng tôi là chuyên viên gỡ rối tơ lòng và làm đủ mọi cách để truy lùng tôi, cho dù tôi đang sống kiếp cày bừa xuyên lục địa.

H. ở Toronto gọi tới, T. ở New Jersey gọi lên. P. ở Norway, X. ở Úc, cứ canh nửa đêm réo điện thoại tới độ ban đêm tôi phải off phone.

Một hôm thấy trường hợp của Th. khẩn thiết quá, chồng bỏ xong, ba con nheo nhóc, chụp được anh bồ, ai ngờ vì một lý do nào đó, anh bồ biến. Tôi chợt nghĩ hay là giới thiệu cái anh tài xế mà tôi nhớ mang máng là tên bắt đầu bằng chữ Ph.

Bà chủ quán lắc đầu trước ý tưởng của tôi.

– Nè, tôi biết người này tử tế mới giới thiệu. Hạnh phước không dễ kiếm, sao lại đem cho không người khác. Con bạn nào của cô tốt số quá vậy trời.

– Làm ơn truy lùng cái ông Phước Phật hôm nọ của bà đi. Nói là có tơ duyên muốn trói.

Ngày hẹn tới, Ph. chọn một quán ăn ở Broadway, phía Tây. Th. và tôi hẹn nhau ở trạm 42 rồi cùng đón taxi tới. Là bạn của Th. lâu, tôi còn bất ngờ về trang phục của Th. hôm đó. Áo dài tím Huế yểu điệu thục nữ, tóc ngang lưng và thả rìa trước trán.

Th. tuyên bố lạnh lùng sương gió:

– Hôm nay tao sẽ chơi nổi bằng cách không nói gì hết.

Tôi lo lắng:

– Mày có muốn có bạn trai mới thật không?

– Tao cần có người đàn ông lấy tao để phụ nuôi con và cho hai thằng cũ chống mắt lên mà tiếc. Nhưng không nên để tay mới nầy thấy mình sành sỏi quá hắn sợ. Rồi mầy coi, anh nào khi lấy vợ cũng thích rước về một nàng ít nói, nhu mì.

Cả hai bước vô quán trễ vài phút. Chúng tôi ngồi đợi có đến mươi phút. Th. tiểu thư sốt ruột đòi về, miệng đang lầm bầm mắng người New York không đúng giờ bằng người New Jersey thì một người đàn ông phong thái lịch lãm tiến đến bàn chúng tôi.

Th. vừa xuýt xoa:

– Tại sao một người đẹp trai như vậy không phải là Phờ của tao?

Ph. lên tiếng ngay:

– Sorry, đến nãy giờ nhưng hôm nay cô lạ quá, tôi nhìn không ra.

Hôm nay tôi không nghĩ là ngày và người của mình nên chọn váy áo đơn giản, mặt không bôi trét. Huề nhá, tôi cũng nhìn không ra chàng taxi hôm nào.

Ph. còn cho tôi nhiều ngạc nhiên như chọn rượu khá sành. Ph. nói:

– Cô quên có thời gian dài tôi sống ở Âu Châu à? Còn cô, tôi ít gặp cô gái Việt nào uống rượu sành như cô.

– Ờ thì tiệc tùng có nghĩa là đi làm việc. Làm riết rồi quen, nghề dạy lấy nghề. Hai bạn nói chuyện với nhau thoải mái nghen, đừng để ý gì đến tôi, cho bà mai này được thưởng thức những món ngon của cái nhà hàng không xa nơi tôi ở mà mãi hôm nay tôi mới biết.

Th. đá chân tôi khi nghe tới hai chữ “bà mai”. Tôi cũng đá lại chân nó, ý nói, banh tao giao rồi, sút đi.

Th. kiên định lập trường, diễn đúng con đường nó vạch ra, như con nhện giăng cái bẫy mỏng manh chờ con ruồi sa lưới. Nói ít, dùng đũa khươi thức ăn không dám bỏ vào đĩa mình như là trong thức ăn có độc. Còn tôi, ngược lại, tôi nhấm nháp vị ngon của rượu và thức ăn.

Rượu vào, lời ra. Tôi cũng chẳng nhớ mình đã nói gì. Chỉ nhớ mỗi lần Ph. hỏi, chờ mãi mà Th. cứ như là phải uốn lưỡi đến tám lần trước khi trả lời. Tôi “đốp” ngay để còn thong dong thưởng thức hương vị của những món ăn thức uống đêm đó.

Khi chia tay, hai bên trai gái trao nhau số điện thoại và để tự liên lạc. Nhiệm vụ của bà mai coi như xong.

Cuối tuần sau, tôi nhận được tin nhắn của Ph. “Tối nay rảnh không, cô gái? Đi ăn nhé” Tôi gọi ngay cho Ph: “Sao lại nhầm số của cô gái sang bà già, từ cô dâu tương lai tới mụ mối vậy?”

Ph. trả lời, giọng có vẻ trầm trọng: “Hết giờ để nhầm rồi. Chỉ muốn đi ăn với người có số này thôi, cô gái ơi!”

Tôi cảnh giác: “Tôi nhắn Th. cho anh nhá!?”

– Này, cô kéo cái bà yểu điệu thục nữ kia đến là tôi giết cô ngay đó.

Ph. đến đón tôi trong chiếc quần jean, áo chemise trắng. Tôi cũng vậy. Chỗ làm của hai chúng tôi đều chọn ngày Thứ Sáu cuối tháng để kêu gọi nhân viên bận quần jeans để tiết kiệm tiền giặt ủi cho một công việc từ thiện.

Chúng tôi chui vào một quán của Korea. Những người chung quanh có vẻ đều là những người đang yêu nhau.Tôi nói nhận xét đó với Ph. Anh ta chỉ mong có thế để nắm tay tôi.

– Mình cũng vậy mà! Làm vợ tôi nhá, M.?

Tôi rụt tay lại ngay.

– Cầu hôn gì bất tử vậy? Muốn Th. giết tôi sao?

– Nhưng nói thật đi, M. cũng yêu tôi mà. Chúng ta không thể sống thiếu nhau.

– Trời đánh tránh bữa ăn. Ít ra anh cũng cho tôi thưởng thức những món khoái khẩu của tôi rồi sau đó muốn sến kiểu nào cũng được.

Ít ra Ph. cũng rất tôn trọng tôi nhất là chuyện ăn uống. Anh ta ngồi ngó tôi ăn mà không chịu đụng đũa.

– Nói thiệt đi, hôm nay sao không ăn, định bắt chước Th. hôm nọ sao?

– Yêu cầu không nhắc đến tên cô ta nữa.

– Anh biết sợ những người đến tiệm ăn mà không chịu ăn như “ai kia”. Sao không nghĩ rằng sau bữa gặp hôm nay tôi cũng sợ anh như vậy.

– Hôm nay tôi mới biết cảm giác ngon khi ngồi ngắm M. ăn.

– Nghĩa là, hôm nay tôi là mồi của anh. Sao không nghĩ, hôm nọ “ai kia” cũng nhìn anh với cặp mắt ngưỡng mộ?

– Chưa thấy ai cứng đầu như M. Đã yêu cầu không nhắc tới người kia nữa mà cứ tìm đủ mọi cách để nhắc.

– Anh cho ăn ngon hai bữa rất cám ơn, nhưng vẫn tức vì không giúp tôi mở hàng cái job làm mai mối. Anh chê Th. của tôi chỗ nào chớ?

– Tại sao tôi lại phải tiến tới với một bà già giả danh thiếu nữ. Trong lúc trái tim tôi lại rung động với một cô gái giả dạng ni cô. Ngó kỹ coi thần kinh của tôi có bình thường không?

Tôi ngưng ăn 10 giây để ngó lại Ph. một chút. Trời ơi, dường như đây là người đàn ông tôi tìm bao nhiêu năm bây giờ mới gặp. Một người khỏe mạnh, có ánh mắt đắm say như là sẽ theo tôi đi đến tận cùng những điên khùng thường trực sống trong tôi. Tôi đã sai lầm khi ngưng ăn 10 giây, vì sau 10 giây đó tôi không thể ăn được nữa.

Tôi nhủ thầm mình, chuẩn bị chạy nha.

Như đọc được ý tưởng của tôi, Ph. nắm tay tôi.

– Không được chạy! Nếu không ăn nữa thì đi kiếm chỗ khác ngồi với tôi.

– Chỗ nào nữa? Tôi phải đi.

– Bất cứ chỗ nào, có thể là trong một chiếc taxi, có thể là dưới subway, Central Park, Times Square, sang đảo, cầu Brooklyn, China Town..

– Rồi lúc nào anh mới thả cho tôi đi?

– Bất cứ lúc nào cô trả lời cho tôi biết, cô có nhận lời cầu hôn của tôi không?

– Tôi có thể trả lời ngay bây giờ: Không!

– Tôi không tin cô không yêu tôi sau khi ngồi thêm với tôi một chỗ nào khác với tiệm ăn này.

– Thôi được, tôi sẽ đi với anh, với điều kiện anh phải mua cái gì theo để ăn. Tôi muốn có sự bình đẳng giữa tôi và anh. Thật là khó chịu khi mình đã no bụng lại phải trò chuyện với một người bụng rỗng.

Ph. mua vài cái bánh chiên nhân khoai môn của Đại Hàn và mua thêm hai ly kem cho tôi, café cho anh.

Đêm đó, chúng tôi có một đêm thú vị bên nhau. Từ lúc nhận ra đúng đây là người đàn ông mình tìm, tôi cũng quyết định luôn, mình sẽ chạy trốn anh ta. Chỉ tự thưởng mình một đêm nay thôi. Cuộc sống gia đình không phải là cuộc sống của tôi. Yêu nhau mà lại bằng mười phụ nhau. Quyết định như vậy đi. Tôi cũng chẳng dại gì nói cho Ph. biết ý định thầm kín đó của mình khi cùng nhau rời quán.

Như câu thơ “Hai đứa thần tiên suốt một ngày” trong bài Áo Trắng của Huy Cận, tôi cảm như hai đứa tôi cũng đã được “thần tiên suốt một đêm”. Chúng tôi ngồi bên nhau, hết taxi đến tàu điện ngầm. Nói đủ chuyện trên trời dưới đất. Kể gần hết những mối tình của nhau cho nhau nghe. Những mối tình còn nhớ, những mối tình định quên. Giống tôi, Ph. cũng có những mối tình “độc”, cũng có những nhân vật nổi tiếng là tình nhân và suýt cưới làm vợ làm chồng. Một trong những mối tình đó kéo đến hơn mười năm với một người viết nhạc. Mười năm cầu hôn, lúc nào nàng cũng có những lý do hợp lý để dời ngày. Sau này mới biết một mình nàng có đến năm chàng, như công chúa Bạch Tuyết cần đến bảy chú lùn vây quanh; chàng thì để nàng mộng mơ sáng tác về hạnh phúc, chàng thì ký ngân phiếu cho nàng ra CD; chàng thì để nàng quằn quại nỗi thất tình rồi ướp vào giai điệu não sầu; chàng thì có phong thái người hùng cùng nàng đẹp đôi xuất hiện trước các tay săn ảnh để “liệng” lên các thông tin đại chúng; chàng thì có hấp lực thân xác để nàng cảm nhận được những va chạm.

Tôi không ngăn nổi tò mò.

– Anh là ai trong số những người đó?

Ph. không giấu giếm.

– Anh là người thứ sáu, gần như hội đủ các điều kiện của năm chàng kia; kiên trì chờ cả chục năm, mặc lời ra tiếng vào của gia tộc là cắt đứt ngay với người tình vĩnh viễn không bao giờ cưới đó để kéo dài thêm tuổi thọ mẹ già.

– Tại sao không kéo thêm năm thứ mười một, mười hai?

– Một ngày khi một nhân vật nổi tiếng qua đời, người ta điểm qua các phụ nữ đi qua đời chàng, có cả tên nàng của anh.

– Đó là người yêu đích thật của nàng? Anh dở quá, ai lại đi ghen với người đã chết.

– Anh không ghen, nhưng có một cô nhảy vào ghen giùm.

– Cô mới của anh?

– Không, của nàng. Hóa ra chỉ có cô ấy là người thật sự chiếm hết tâm hồn và thể xác nàng. Cô ấy sống trong bóng tối hơn anh đến năm năm. Sau trận đó, cô ta ra đi thật sự, và nàng của anh cũng thất tình thật sự.

– Còn anh?

– Anh chán.

– Chán người nổi tiếng?

– Chán sự giả dối. Đó là lý do anh chọn M. Sau buổi gặp vừa rồi, anh về lục gần hết những tác phẩm của M. ra đọc. Anh thấy M. viết xạo hết. Chỉ có lúc M. ngồi uống rượu và thưởng thức những món ăn của anh gọi mới là giây phút sống thật nhất của M.

Ph. không biết rằng chỉ riêng nhận xét đó cũng đủ khiến Ph. được chín điểm rưỡi trên mười của tôi.

Dưới ánh trăng và sự yên lặng hiếm có trên chiếc cù lao vắng người giữa New York, chúng tôi tung tăng đi bên nhau. Không hôn chặt. Không ôm xiết. Chỉ có lời cầu hôn chờ trả lời của một người đàn ông mới gặp mà tôi thấy yêu đến độ muốn chạy trốn vì cứ sợ mất mình.

Ph. đề nghị.

– Chuyện của anh chán chết. Kể chuyện M. đi.

– Thì đó, bày hết trong truyện, mà anh đã đọc gần hết rồi.

– Nói làm gì những chuyện bịa đặt đó.

– Sao anh biết bịa?

– Qua những gì M. viết, anh thấy M. không biết yêu, M. không biết cả khổ đau và hạnh phúc.

– Nói chung là anh chê tôi viết dở.

– M. chỉ có một chuyện xuất sắc cần phải làm thôi là yêu và nhận lời cầu hôn của anh.

– Giờ thích nghe kể chuyện tình hay cần nghe trả lời?

– Hãy làm bất cứ chuyện gì M. thích.

Chúng tôi ngồi ở trên băng ghế công cộng trên đồi cao nhìn qua New York lấp lánh bên kia dòng nước đen ngòm. Ph. choàng cái áo trên người cho tôi đỡ lạnh vì sương đêm hè. Tay tôi tìm tay Ph.

– Cho nắm một chút để có thêm tự tin mà nói thật.

– Cho cả cuộc đời đó, nắm đi, và cứ nói dối, nếu thích.

– Anh nói đúng, tôi đã không biết yêu, không biết cả khổ đau và hạnh phúc.Trong cái hiện tại này, đây là câu nói thật nhất.

– Có biết là anh đang rất thèm hôn M. không?

– Nếu sau khi hôn, tôi biến mất, anh chọn cái nào?

Ph. im lặng. Có lẽ anh biết tôi nói thật. Anh không thể chọn lựa. Nên từ lúc đó đến khi chia tay, không ai nói thêm câu nào nữa.

Chúng tôi bên nhau như vậy cho đến sáng. Có lúc tôi nằm xuống, đầu gối trên chân Ph. Nhắm mắt và an nhiên ngủ.

Trước khi đi vào giấc ngủ, bỗng trở về trong trí nhớ tôi, những câu thơ thời mới lớn của một người chết trẻ tặng tôi.

Ta tưởng tượng ra em,
Tóc bay mờ vũ trụ.
Nằm ngủ rất tự nhiên,
Giữa một bầy ác thú.
(thơ Du Mùa đông)

Ph. đưa tôi trở về nhà khi trời tờ mờ sáng. Thành phố này không ngủ; đó là sự tương đồng của New York và Sài Gòn. Sài Gòn của Ph. trước khi đi Pháp du học, Sài Gòn của tôi thỉnh thoảng từ tỉnh nhỏ vào lãnh chút nhuận bút nhưng niềm tự hào lớn vì một con bé vô danh chui vào được một tờ báo lớn. Mấy mươi năm sau, xứ lạ quê người, có người vạch mặt rằng tôi bịa hết; rằng tôi bày ra một vai trò, chui vào đó đóng, rồi nhập vai tưởng thật, rồi cứ tưởng cô đơn là phần số của mình cho tới ngày nhắm mắt xuôi tay.

Tôi hẹn Ph. cuối tuần tới sẽ trả lời câu hỏi khó khăn kia. Nếu là tôi bạn sẽ làm gì?

Một cuộc đời gần như chưa biết thế nào là yêu và sống, ngoài những giây phút tưởng là sống và yêu trong tưởng tượng của mình. Bỗng dưng như một giấc mơ đẹp, hoàng tử của mình hiện ra, trễ gần cả nửa thế kỷ. Thật ra chuyện cổ tích thì có cả thế kỷ vẫn là con số quá nhỏ, không là quan trọng. Vấn đề là như tôi đã quyết định từ đầu, tôi phải chạy thôi. Tôi không có thói quen sống với sự thật. Hơn nửa đời người tôi đã quen sống với một tôi khác. Tôi không còn một cái tôi thực như tôi là để sống một đời giản dị chân thật với người tôi yêu.

Tôi phải rời New York. điều đó khiến tôi cảm giác mất mát hơn cả chuyện phải rời xa Ph., người mà tìm mãi mới gặp, dù rằng trong tình cảnh khá trái ngang, tôi chuẩn bị tặng người mộng của mình cho bạn hữu.

Bạn phải biết tôi đã đau đớn như thế nào trước quyết định đó. Như là mình dứt một phần hồn, một phần đời của mình để lại nhân gian. Tôi đổi nghề, đổi nơi sống. Quê nhà không thể về. Quê người cũng không nương náu được. Tôi trôi về một nước thứ ba.

Thỉnh thoảng vọng tới cái hang ổ cuối cùng của tôi, nghe Th. tả về tôi như một thứ yêu tinh, mang Ph. đi giới thiệu cho bạn rồi bỗng tiếc, U-turn! Chụp lại. Kệ Th.

Để tăng chất “ hồ ly” nơi tôi, nhiều cô bạn cũ của tôi góp chuyện vô, rằng Th. không phải là nạn nhân độc nhất của tôi. Họ đồn tôi còn cướp H. của Q., cướp Ng. của Đ., cướp Ch. của S… Họ đồn nữ họa sĩ Sầu Đâu đã mời tôi uống nước để mong tôi cuộn đuôi chồn, trả lại bạn trai, nguồn cảm hứng cho cô trong các sáng tác hiện tại. Họ đồn mỹ nhân M., CEO của một trung tâm media lớn đã đổi cho tôi một cái job thơm ở nước ngoài để tôi buông chàng tài tử có khuôn mặt đàn ông nhất nước cho bà ta. Kệ Q., Đ., S… Kệ Sầu Đâu, và cả một CEO nào đó. Tôi chỉ biết mình sẽ rất hạnh phúc nếu một ngày nghe tin Ph. kiếm được một con yêu tinh khác, và cũng rọi suốt tim gan phèo phổi nó bằng cái nhìn thấu thị của anh.

Nếu Ph. hay ai đó còn quan tâm đến việc viết văn của tôi sẽ thấy những tác phẩm của tôi không còn xuất hiện nữa. Còn mơ mòng về tôi, có lẽ họ sẽ tưởng tượng tôi đang thai nghén một tác phẩm tuyệt vời nào đó.

Bây giờ việc viết hay cho phổ biến tác phẩm với tôi hoàn toàn không quan trọng nữa. Tôi chỉ băn khoăn liệu Ph. có biết rằng sau cái đêm lãng mạn cùng Ph. trên chiếc cù lao hoang vắng đó, khả năng sáng tác, hay nói đúng hơn là khả năng nói dối của tôi đã tắt nguồn cạn kiệt; như các loại Mãng Xà Nữ Vương, Hồ Ly, Hạc Trời, Rắn Xanh, Rắn Trắng… phải trở về kiếp thú, sau khi bị tê liệt khả năng ảo hóa những sự thật trần trụi bởi một cặp kính chiếu yêu.

NGUYỄN THỊ MINH NGỌC

RŨ BỤI CUỐI NĂM

nguyenthiminhngoc

Không dễ mà bốn phụ nữ Mỹ gốc Việt này cùng một cô từ Việt Nam sang có thể cùng tụ tập nhau trên đất Mỹ. Mỗi người có vài cái tên, tạm gọi họ bằng cái nghề, đúng hơn là cái nghiệp mà họ đang theo. Cô Văn, gần lục tuần, là người lớn tuổi nhứt, dù cô luôn tin rằng tuổi trẻ, chính là cái tuổi cô đang có. Cô Nghệ, khoảng năm mươi, làm những công việc phải chường mặt ra đám đông là một việc mà cô rất không thích vì phải chăm sóc vẻ ngoài. Cô Đẹp, là người luôn tránh việc khai tuổi, nhưng khi năm cô tụ lại, thấy rõ tuổi của cô ở giữa cô Nghệ và cô Vũ. Vũ ở Việt Nam sang làm việc, tuổi ở cuối ba mươi. Người cuối, cô Vợ, được bạn bè cho là có sắc mặt biến đổi theo trạng thái tinh thần, lúc như ba mươi, lúc tưởng chừng sáu chục. Tình yêu và hạnh phúc, chính xác hơn là niềm vui và nỗi buồn, đã có thể khiến người ta, nhất là phụ nữ, bị dao động khoảng thời điểm sống của mình như vậy đó.

Kỷ niệm lần gặp nhau hy hữu này, cô Đẹp đề nghị tất cả đi massage. Hè năm ngoái, ba cô, Văn, Đẹp và Vũ tình cờ gặp nhau ở San Jose, Đẹp đãi hai bạn một giờ massage chân ở một tiệm của người Tàu. Như nail trên đất Mỹ, hầu hết đều có chủ gốc Việt, còn sở hữu các tiệm foot massage ở Mỹ thường là các người Mỹ gốc Hoa.

Bấy giờ là mùa Đông, chuẩn bị sang Xuân, năm cô hội ngộ tại Orange County. Nghệ đề nghị.
“Kỳ này mình tới chỗ massage của Korea gần phi trường đi.”
Nghệ biết được nơi ấy do lần trước, khi cô sang làm đạo diễn ở Cali, một nữ nghệ sĩ đã đãi “thầy” bằng vài tiếng tẩy trần trước khi cùng tập luyện. Lần đầu cô Vợ bước chân đến mấy chỗ như vầy. Văn và Vũ thì thỉnh thoảng có đến foot massage, nhưng cũng là lần đầu họ đến một nơi vừa có nhiều phòng Rừng, Muối, Băng, Lửa như ta thường thấy trong phim Hàn, vừa có nơi bán thức ăn, và đặc biệt còn có dịch vụ được gọi là body scrub, khách sẽ được đặt nằm trên bàn cho nhân viên tắm táp.

Cả năm trong năm bộ đồng phục của Y- Spa bước vào căn phòng đầu treo lủng lẳng nhiều bịch tỏa vị thuốc nam. Nghệ kêu chúng gợi nhớ tới những bịch ‘của quý” của các thái giám trong vài phim Hàn, Tàu mà vì nghề nghiệp, Nghệ phải xem. Bốn cô còn lại ngơ ngác không hiểu, Nghệ kể thêm, các thái giám cực kỳ trân quý cái thứ mà vì công danh họ phải cắt lìa nên buộc con cháu, bằng bất cứ giá nào, loạn lạc phiêu dạt cũng phải bảo quản cẩn thận để chôn theo, không thì kiếp sau sẽ lại tiếp tục sống đời hoạn, thiến. Nằm trên những tấm khăn lót nền cho đỡ nóng, hai người đầu tiên không chịu nổi là cô Vợ và cô Văn. Văn kéo cô Vợ sang ngay phòng Băng.

Người kiệm lời nhứt trong nhóm có lẽ là Vũ. Tính ra Vũ là hậu bối nhưng Nghệ cho là tài năng và tấm lòng của Vũ không kém, thậm chí hơn nhiều lớp tiền bối trong nghề. Nghệ đã định cư bên Mỹ, thoi thóp làm nghề, vui là chính, đôi khi đi làm vở phải bỏ tiền riêng đắp vào để đỡ nhục với chồng, vì thù lao cho nghề đạo diễn kiêm viết trường kịch xứ này thua xa tiền tip của nghề nail, so với công sức bỏ ra cho cao lắm là vài ba xuất diễn, còn phải hầu hạ nhiều diễn viên không biết diễn nhưng thích chường mặt với đời bằng mọi giá. Nghệ sang Mỹ trể, muốn đi học nhưng chồng can, nói lớn tuổi rồi, học ra làm được bao nhiêu năm thì phải hưu, thôi ngồi yên đó, chồng nuôi. Nhưng dễ gì Nghệ ở yên với những người quen, dư biết cái nết không thể “say no” của Nghệ nên cứ lôi kéo Nghệ từ tiểu bang ít người Việt bay về Cali để giúp nhau làm nghề. Nghệ hỏi chuyện về những ngày Vũ đi làm việc ở Indiana. “Lính” của Vũ hóa ra không có người Hoa nào như nhiều người tưởng. Người Việt càng không. Ngoài giờ tập, niềm vui của Vũ là xem tin tức ở Việt Nam. Cùng Vũ nhắc những tin nóng vừa đọc được, Nghệ kêu chẳng vui nổi. Vũ thì tóm gọn lại: “Theo em, thì toàn bộ những chuyện thảm hại này đều là hậu quả của một nền giáo dục tệ hại trong nước”

Bên căn phòng Băng, Văn không tin được khi nghe cô Vợ lần đầu kể thiệt, đã lâu lắm, thân thể cô không được chồng chạm vào. Nói đúng hơn, cô không cho chồng làm điều đó. Việc này chỉ ba người biết, cô, chồng, cùng đứa con của hai người, vì từ lúc gặp lại chồng trên đất Mỹ, cô đề nghị được ngủ riêng cùng con gái. Đó là anh chồng thứ hai. Anh chồng đầu đã có với cô Vợ một đứa con trai. Thằng bé là đích tôn. Cả nhà chồng trân quý thằng bé như một ân sũng của Thượng Đế. Họ dồn tất cả tình thương và mọi món ngon vật lạ, áo đẹp, xe máy cho thằng bé trong giai đoạn hậu chiến khó khăn. Chỉ có một điều họ không thích về thằng bé là mẹ nó. Sợ thằng bé bị bắt đi lính sang K. họ dấu cô, đóng vàng để Chồng Nhứt của cô cùng thằng bé vượt biên. Ngủ một đêm, sáng dậy, không còn chồng và con, thấy mình không còn lý do gì để ở lại căn nhà này nữa, cô Vợ xin về sống với mẹ. Nhà chồng hoan hỉ chấp thuận ngay. Ngay sau đó, cô quen người sau này là chồng thứ hai của cô. Trước cô, Chồng Hai đã có mối tình với Chúa, sâu đậm tới độ anh cố học để thành linh mục. Gặp cô Vợ, anh cỡi áo. Họ sống với nhau, với tâm thế vọng về đất Mỹ như vùng đất hứa mà kinh thánh đã ghi. Ngày cô Vợ đi sanh đứa con với chồng mới thì anh đã xuống tàu bằng số vàng cô đi bán thuốc tây lậu dành dụm được. Người mang hoa đến nhà bảo sanh mừng Bé Út ra đời lại là anh chồng Nhứt sau khi ở tù ra. Chuyến tàu của chồng Nhứt khởi đi từ Cà Mau đã bị bão thổi giạt về lại vùng Bà Rịa. Chồng Hai đến Mỹ, một thời gian sau, viết thư về đòi chia tay cô Vợ với lý do: sang đây mới thấy “đời không như là mơ, nên đời thường giết chết mộng mơ” như lời một bài hát. Về sau, chồng Nhứt cũng đi được, trên tàu anh quen một ni cô và khi lên bờ, kết hôn với cô ấy. Cô Vợ mang con sang đất Mỹ, vì con mà ráp lại với chồng Hai, nhưng cô còn giữ thư tuyệt tình xưa để ra điều kiện như điệu Lý Đò Đưa: “lấy chồng thì em vẫn lấy, nằm chung em chẳng nằm”.

Vẫn chưa tới giờ sang khu body scrub, cô Văn chịu không nổi lạnh, để cô Vợ ở lại với cô Nghệ, thêm cô Vũ mới sang. Văn theo Đẹp đến khu hàng ăn. Đẹp nói gần đây thấy truyện của Văn lác đác đăng trên báo hải ngoại, nhưng sao chưa thấy chị viết truyện em kể hôm về Việt Nam năm kỉa năm kìa. Thật ra Văn rất thích mẫu chuyện Đẹp đã kể, thích tới độ muốn phát triển thành tiểu thuyết trăm trang, dĩ nhiên Văn sẽ còn lồng ghép thêm nhiều câu chuyện đời ly kỳ, thuộc loại cấm kỵ khác.

Năm đó, những ngày trước Tết, Đẹp từ Việt Nam gọi về Mỹ cho Văn, âm điệu lâng lâng vì sau chuyến ra Huế dự một Lễ Hội Áo Dài, nguyên văn của Đẹp là cô được vài trai “rượt”. Đẹp cho vào chung kết một trai trẻ kiểu Kim Soo-Hyun trong Vì Sao Đưa Anh Tới – My Love from Star và một chàng có vẻ chửng chạc hơn, như Ji Sung ở Kill Me, Heal Me – mà các trang mạng dịch là Tìm Lại Chính Mình. Đẹp gọi Mỹ Nam trước là Kim, còn Phờ-Tờ-Sờ (Phó Tiến Sĩ) sau là Sung. Cô bị đốn tim ngay khi nghe cả hai đều cho là cô chỉ mới ba mươi. Cô thiệt thà tin hai trai đẹp đều bị nhan sắc của mình khuynh đảo. Cả hai tận tụy đưa Đẹp tung tăng đi chơi không chỉ khắp cố đô Huế. Riêng Sung còn tổ chức đi chơi riêng đến các hang động ở Quảng Bình. Đêm ở lại Phong Nha, Đẹp kể xém thất tiết với ông chồng hờ người Mỹ của mình. Sau một tràng cười ha hả phóng khoáng, Đẹp đố, chị biết cái gì kìm em lại không? Rồi Đẹp giải luôn, văn hóa! Hay nói đúng hơn là văn minh Mỹ cứu em đó. Giường chiếu của một hotel mắc nhứt vùng đó vẫn gây Đẹp cảm giác nhớp nháp rẻ tiền nên cô đã xô Sung ra, vùng chạy.

Văn thích chi tiết đó, nhưng cũng chính chi tiết đó khiến Văn kìm tay lại. Hoàn cảnh Văn hơi hơi giống Đẹp. Chồng vẫn cho Văn về Việt Nam một mình để thăm mẹ già còn sống nơi đó. Lỡ viết ra, chồng Văn không tin chuyện của Đẹp mà nghi Văn kể đời mình, có thể sẽ không thoải mái với những chuyến về thăm mẹ của Văn như vậy nữa.

Văn cũng thích tiếng cười ha hả phóng khoáng của Đẹp khi mồng năm Tết, từ Việt Nam trở về lại Mỹ. Đẹp kể về đến đây rồi, nhận mail mới nghe hai em nó rón rén thổ lộ ý muốn được Đẹp mời sang Mỹ chơi. Hóa ra chẳng phải các ẻm mê nhan sắc thiếu phụ nửa chừng xuân của Đẹp, mà điều cuốn hút của Đẹp nằm ở cái ID mang quốc tịch Hoa Kỳ.

Văn hỏi còn liên lạc hai em nó không, Đẹp cười nhẹ hơn, nói còn giữ Kim thôi vì sau khi lộ tà ý xong, thấy không hiệu quả, nó khai thiệt là gay và xin làm em nuôi của Đẹp. Loại em nuôi đó Đẹp có hàng chục, và không ít các em nuôi tin Đẹp chỉ là con búp bê ngồi rơm nên tha hồ bày trò vòi tiền Đẹp mà không biết rằng những mảng trò ấy Đẹp “rành sáu câu”, cầm bằng mình giả ngu mua vé mắc xem các kịch sĩ tồi diễn kịch.

Tới giờ được tắm, cả năm vào phòng tập thể, tháo hết áo quần, cho nước lên người trước khi vào khu có người tắm cho mình. Ca dao cho là: Hơn nhau cái áo, cái quần, Cỡi ra mình trần ai cũng như ai! Còn Văn thấy bốn thân thể đang ở quanh cô, mỗi người một vẻ, khác hẳn body của cô. Vòng số 2 lớn nhất thuộc về Văn, đứa phải ngồi nhiều để ôm laptop, gỏ. Tương phản với Văn là Đẹp với cái bụng gần như lõm vào. Nghệ nhìn là biết dù Đẹp bỏ nhiều giờ tập luyện để bảo vệ nhan sắc mình nhưng lõm kiểu đó hẳn là phải có dao kéo can thiệp. Vòng số một và số ba hấp dẫn nhất thuộc về cô Vợ. Văn thầm nghĩ, tiếc quá, sự hấp dẫn đó lại phải để hoang phế dù tiếng đời tàn nhẫn, truyền nhau rằng cô mạnh mẻ khát tình trong sinh hoạt mây mưa. Với Văn, thân thể đẹp nhất, hài hòa nhất trong năm đứa chính là body của của Vũ. Ngực Vũ nhỏ nhưng săn chắc như nhiều vũ công và biên đạo múa khác. Dường như biết Văn ngắm mình, Vũ ngượng xoay mông lại. Thâm tâm, Vũ lại muốn được nhìn xuyên thấu Văn, để xem có cái gì trong trái tim của người đàn bà viết văn mà Vũ đã trót yêu.

Năm cô, trần truồng như năm đứa trẻ sơ sinh, ngửa rồi sấp cho năm phụ nữ khác tấm táp, kỳ cọ bằng đôi tay mang găng nhám. Mỗi chiếc bàn có tấm vách lững ngăn nên họ chẳng thấy nhau cũng chẳng thể chuyện trò thêm. Cuối năm, cơ duyên gặp nhau, cùng nhau đi rũ bụi cuối năm, có những niềm riêng tưởng trút theo ra cho nhẹ người, hóa ra chưa đủ giờ, cũng chưa đủ tin nhau nên ai cũng còn giữ chút trăn trở riêng mình.

Như cô Vợ, khi còn đi học, vốn có mối tình đầu rất đẹp, chỉ là một lần nắm tay. Nay Tình Đầu lấy vợ sang Mỹ với hợp đồng nếu hai bên tìm được tình xưa thì buông nhau ra. Thực tế thì Tình Đầu đã tìm tới cô Vợ, tuy không còn chăn gối với chồng Hai, nhưng vẫn đang là Vợ của người ta. Vợ của Tình Đầu, cũng gặp khó khăn tương tợ, nên cả bốn – không, cả sáu – người, nhân danh những đứa trẻ con mình, đồng ý cứ giữ nguyên hiện trạng các cặp vợ chồng trên giấy tờ. Cô Vợ nằm đó, cảm nhận nước tràn trên người mình, mà tưởng như ai đó rưới lệ đời xuống thân thể hoang lạnh của cô.

Còn cô Nghệ, khăn nhỏ đắp mắt. Trong tăm tối vô minh, dường như cô bay lơ lững trên cao, xấp mặt ngó xuống cái xác rỗng của mình, kiểu như Tam Tạng trong ngày cuối chuyến thỉnh kinh thấy chính hình hài mình nổi trên ngọn sóng. Nó còn Là Mình không, khi mình vẫn liên tục “say yes” với những trì níu choán giờ không cho cô sanh nở những tác phẩm vì mình, cho mình?

Tâm hồn đơn giản nhất là cô Đẹp. Nhưng đơn giản không có nghĩa cô không cảm thấy cô đơn. Cô từng học design ở Boston, cô cũng có khả năng trở thành một người thiết kế. Cô biết mình đẹp, cô bỏ giờ nhiều cho thân thể mình. Rồi như chưa đủ tự tin chạy đua với Ác Thần mang tên Thời Gian, cô liệng thêm vào đó tiền để kéo dao can thiệp. Hôm nay, nhìn rõ thân hình bốn cô bạn kia, cô chợt thấy quan niệm về đẹp của mình chông chênh lay đổ. Cô thấy có vẻ như thân thể mình bất toàn nhất, nhưng rồi cô lấy lại bình tỉnh ngay, nếu đẹp là tự nhiên thì cô tin đứa hồn nhiên nhất trong cả bọn chỉ thể là cô.

Hơn ai hết, Vũ mong nước sẽ lôi tuột hết xuống sàn những sợi vấn sợi vương trong cô với Văn. Sẽ không đi tới đâu cái tình cảm trái thường này. Nhiều người nói một phụ nữ viết văn không nên lập gia đình. Vũ thấy câu đó dùng cho các nữ biên đạo thì đúng hơn. Văn đã có chồng ở tuổi ngũ tuần. Bạn bè hồi hộp chờ ngày Văn ly dị, nhưng mười năm rồi, chuyện đó không xảy ra. Có khá nhiều người cầu hôn Vũ, mỗi lần như vậy, Vũ lại nhớ tới Văn. Nhớ điếng. Nhớ ngứu. Như tự mình đưa tay, ôm choàng lấy tim mình, ròi chà, rồi xát, rồi vò, rồi vuốt, y như thân thể cô trong tay nhân viên Y-Spa hiện tại. Vũ tự hỏi, Văn có bao giờ có cảm giác tương tợ với mình, rồi cô tự trả lời, chắc chắn là không.

Đúng như Vũ cảm nhận, hôm nay, nhân gặp lại các cô bạn này, Văn vẫn còn niềm tin rằng tuổi trẻ, chính là cái tuổi cô đang có, nhưng cô cũng không chối được sự thật rằng cô là người lớn tuổi nhứt so với họ. Cái list 50 những điều phải làm trước khi chết cô chưa soạn ra. Giờ cho công đoạn body scrub chỉ có 30 phút này, trong nửa tiếng ngắn ngủi ấy, dường như nhiều ước mơ dang dỡ thời trẻ trôi qua đầu cô. Nào giấc mơ viết về các nhà tù ở Việt Nam qua các triều Pháp, Mỹ, communist, nào dự tính cuốn sách cho trẻ em xem để bọn nhỏ ngoài Bắc biết vùng Nam Kỳ Lục tỉnh có những huyền thoại từng tỉnh, vùng khác nhau để qua đó tụi nó phân biệt được Đồng Tháp khác Cà Mau, Long Xuyên khác Rạch Giá, Bạc Liêu ra làm sao. Đó là chưa kể tới những người trút hết tâm sự vào Văn với mong cầu cô sẽ nhào nắn nó thành phim, truyện, kịch, cô hăm hở nhận lời nhưng rồi buông xuôi theo dòng đời lôi kéo. Cô thấy mình tệ hại không kém gì những lời Nghệ vẫn thường tự trách là đã để mất MÌNH.

Rời khu body scrub, đồng hồ chỉ 11:10. Người nóng ruột muốn đi về liền là Nghệ nhưng ngại các bạn mất vui nên không dám hối. Cô sắp phải nhận một số cuộc gọi từ các nước khác. Văn tỏ ý lo cho cô Vợ nhưng cô Vợ đã nói cứ ở đến giờ đóng cửa, không sao. Không để Nghệ đợi lâu, một nữ nhân viên người Hàn đến nhìn họ, rồi cúi đầu, nói bằng cái âm hưởng broken English:
– Ma’am, please we are closed!

Cô Đẹp càu nhàu, sao lại có thể như vậy được, mình đang tắm, cô ta bận quần áo đầy đủ rồi cứ đứng vậy mà nhìn sao?

Câu nói được lập lại lần thứ hai với Vũ khi cô đang làm động tác nữ tính nhứt là chải đầu. Lần này thì nhóm “đuổi khách” tăng thêm ba người.

Vũ chỉ đồng hồ và tấm bảng ghi giờ đóng cửa là Midnight.

Khi câu ấy được lập lần thứ ba với bốn nhân viên đứng cạnh Văn thì tất cả đều có cảm giác người nói ra câu ấy có một cặp mắt mang hình viên đạn.

Đẹp cất tiếng cười ha hả bất hủ của cô, cho là cô nhân viên này càng hối thì càng làm mình bối rối khiến thời gian hoàn tất vẻ ngoài sẽ bị kéo dài hơn, mới có thể bước ra đúng giờ đóng cửa. Văn nghi có thể cô ta cũng đang có một chuyện nhà nào đó cần kíp phải ra về. Nghệ thêm, biết đâu cô ta lại đi kiếm một Spa khác để nằm yên cho người ta tắm..

Chuyến về, Đẹp lái chiếc xe do mình mướn. Vũ im lặng như thường lệ. Cô Vợ thì tỏ vẻ sảng khoái khác thường. Nghệ sốt ruột hơn khi xe từ Irvine về bị kẹt cả khúc dài. Cô đành ngồi trên xe làm việc bằng viber khi một nữ nghệ sĩ từ Singapore đúng hẹn gọi cô. Văn lấy giấy nguệch ngoạc ghi vài điều phải hoàn tất trong năm tới. Khi cô buông bút, Vũ nắm tay cô hơi lâu. Văn nhìn Vũ như một dấu hỏi, Vũ lắc đầu như không có gì, nhưng Văn đọc được trong ánh mắt và nụ cười mỉm của Vũ những chữ: Love You, My Spring!

Nguyễn Thị Minh Ngọc

Trái Bồ Quân

nguyenthiminhngoc

“Thôi anh Hai, cái gì chớ cái thứ đó đệ xin hàng. Không có mồi thì nhậu suông chớ có chết chóc ai đâu. Bậy nà, đâu phải đệ không ăn bồ quân vì ngán trụy thai bại huyết như bọn phụ nữ, đệ có lý do riêng.

Sao? Anh cười đệ tái mặt khi chị bày ra cái thứ chát chát chua chua này à? Đừng có khích, thêm một xị nữa đi rồi đệ kể cho nghe. Chẳng là nó giống quá, màu nâu bóng của thứ trái này với màu da lì lợm của con bé. Con cái nhà ai chẳng biết. Bọn đệ xí được trong một trận càn quét. Pháo binh dập trước mở đường, Xe bánh sắt tiến theo. Tan hoang mọi thứ. Bọn đệ kéo vào khi những cây trính còn ngã xiên, cháy dở. Chỉ có những con heo giương từng cặp mắt ngu si đứng ngó trân. Gà vịt vài con chạy kêu tang hoác. Và những xác chết còn nóng hổi gục xuống trong những tư thế riêng như đang vót tre hay làm nhà, ngó bộ bình thản trước vẻ tức lộn tức lồng của thằng cố vấn Mỹ.

Trên một nền nhà còn ngún tro than của vách lá, bộ chỉ huy họp khẩn. Thằng Mỹ hầm hè:

– Có nội phản trong chúng ta. Lịnh hành quân chỉ có tôi và các ông biết. Thế mà bây giờ AK đâu, nón cối đâu để ghi vào chiến lợi phẩm? Hay là báo cáo sai? May là tôi đã cho bọn phóng viên thông tấn nằm nhà… Không thì lộ tẩy hết những tin tức chiến trường láo toét thổi phồng.

Cử chỉ đầu tiên của đệ sau buổi họp là ghé thăm lão hỏa đầu quân. Chi cũng “dĩ thực vi tiên”. Không bắt sống được người nhưng bắt sống được gà vịt là đệ khoái rồi. Trong những dịp “về quê” bọn đệ chẳng bao giờ sợ thiếu món này trong khi thằng Mỹ cứ thỉnh thoảng lại bị ăn mất ngon vì lắm hôm không bắt được người sống.

Lão bếp láo liên cặp mắt khi đệ bước vào. Lão lại xàng qua càng lại trước mớ củi đun khiến đệ sanh nghi ông này chộp được một con cầy mà xấu bụng “chơi riêng”.

Tay thộp cổ lão già, tay đệ vổ colt:

– Cây súng của tôi đánh hơi được mùi thịt rồi, nó cứ nhúc nhích muốn ra khỏi bao. Thế nào, ông Bảy có muốn tôi giúp cho món tiết canh không?

Lão Bảy ấp úng ngó xuống đất:

– Đại úy biết rồi thì em xin thưa thiệt. Em đi kiếm nước nấu cơm thì gặp nó ngồi thu lu cạnh giếng. Hỏi gì nó cũng không nói nhưng ngó bộ nó xăng xái giúp đỡ được mọi thứ nên em định xin với Đại úy…

Đệ cụt hứng, phủi tay:

– Ẩu, ảu, tía này ẩu! Lôi nó ra đây coi. Biết đâu Việt Công giả dạng.

Lão già giất nẩy mình:

– Không có đâu Đại úy. Nó nhỏ xíu hà. Con nít lẩm đẩm như ri mà mần chi nổi ai.

Miệng vừa nói, tay lão vừa kéo con nhỏ ra khỏi đống củi, ấn đầu con bé xuống đề chứng tỏ nó quá non nớt. Đệ hất ngược mớ tóc bù xù trước mũi nó, ngắm nghía, gật gù:

– Con nít thành phố cỡ này thì mới sáu, bảy tuổi, nhưng trẻ con nhà quê e cũng chín, mười tuổi rồi đây.

Rồi đệ quay đi kiếm thằng cận vệ giữ rượu, bụng nói lầm thầm: “Bậy, hết sức bậy, thay vì một con bé là một con cầy có phải hay hơn không? Đệ chỉ còn nhớ lờ mờ đôi mắt to như hai khu tô của nó lóe sáng trên một khuôn mặt cũng tròn xoay đen thui như một cái bánh bèo đổ đường đen.

Đệ làm ăn tắc trách, lơ đễnh như vậy nhưng mọi việc không qua nổi đôi mắt sắc lẽm của Tấn, tên phụ tá của đệ. Cơm nước xong xuôi nó mang con nhỏ ra “tráng miệng” ngay. – “Má em đâu?”. – “Ba em làm chi?”. – “Lúc pháo trúng làng em có thấy họ rút đi đâu?’. – “Em có thích súng không?”. – “Súng của anh với súng của họ, em thấy cái nào đẹp hơn?”… Xen kẻ những câu hỏi êm ái này là những “ngón nghề” được gả đem ra phổ biến trông chẳng êm ái chút nào. Lão Bảy thì nhảy quăn cả người như nước nóng đổ lưng, níu đệ cầu cứu:

– Đại úy cứu con nhỏ, Đại úy. Nó biết chi mà trả lời. Biết đâu bom đạn làm nó điếc tai không nghe được.

Không cần đệ can thiệp, thằng Tấn cũng ngưng. Chẳng phải nó chịu thua trước sự lì lợm của con nhỏ đâu. Tất cả chỉ vì tên Mỹ chưa hết cơn bực, nhìn một cách hờ hửng trò tâng công gỡ gạc của gã nọ. Lão Bảy được nước xin xỏ thêm:

– Nó được việc lắm, đại úy. Cho nó theo em phụ vặt. Em bảo đảm mà. Không răng mô. Kệ, Đại úy, giẻ rách đở nóng tay. Có bàn tay con gái, dầu là con nít, cũng đở nhiều.

Ừ, thì đệ cũng kệ. Giẻ rách đở nóng tay lão Bảy thì cũng sạch ngon hơn một chút mớ đồ nhậu của bọn đệ chớ sao?

Những ngày sau bọn đệ vẫn còn phải kéo dài cuộc hành quân về hướng chân núi hoang vắng đầy những bụi cây sơ rơ. Con nhỏ vẫn lặng lẽ đi theo, ngậm miệng như hai vỏ sò úp khít, như một cục than đen muồi lăn lóc theo đít nồi cơm. Nắng vẫn không làm nâu hơn được màu da của nó… Cho đến một hôm, lão Bảy tìm đệ, ấp úng ấp a:

– Đại úy tha lỗi thì em mới dám thưa. Cái con bé này… nó cứ như là ma, Đại úy! Ba đêm nay rồi, nửa đâm dậy làm em thấy mất nó. Đến sáng lại thấy nó nằm đó, ngủ vùi. Hai đêm nay, em có nhờ thằng Lang, thằng Đỏ theo rình xem nó đi đâu chơi thì cả hai thằng đều trở về lắc đầu kêu con nhỏ lách tài quá. Quẹo lối này, chui lùm nọ một lát đến hai thằng chóng mặt rồi thì… thụi nó không thấy con nhỏ nữa. Còn một chuyện này nữa. Em kiểm lại mỗi sáng thì thấy hao hớt gạo và lương khô. Không nhiều. Nhưng kỳ cụa quá. Ngoài nó ra không ai thèm ăn cắp ba thứ đó làm chi. Có điều chi nữa cũng đừng đánh đập nó nha, đại úy. Đại úy để từ từ, em hứa, em sẽ dò la.

Đệ thấy câu chuyện ngộ ngộ vui vui nhưng phải nạt lão Bảy kẻo mất oai:

– Giả thử con nhỏ tiếp tế lương thực cho địch. Giả thử con nhỏ bỏ thuốc độc cho anh em. Mang nó lên đây cho tôi.

Lúc thấy cái mặt tròn vo mà hiền khô của nó, đệ đổi ý ngay. Đệ truyền lệnh cho thằng Phụng, cái thằng nổi danh ca vọng cổ ngọt nhất đám ra tài chiêu dụ con nhỏ. Nhưng cũng như bao giờ, nó im lìm. Con bé trở thành trò chơi xem ai cạy miệng nó nổi. Nhưng ai rồi cũng thất bại. Nói ngọt thì nó chành miệng ra một chút, cười. Nói xẳng thì môi nó mím, còn mắt thì lóe lên, sáng quắc…

Đệ nháy nhó cho anh em rút lui. Thượng sách là trở lại chiến thuật đầu của lão Bảy: theo rình. Như thế mới hy vọng tóm trọn ổ. Chẳng ngờ đến cái trò chơi dễ èo này đám lính của đệ cũng thua con nhỏ. Huynh xem có dễ chém không chớ. Đường đường một đấng nam nhi như vậy mà đầu hàng một con nhỏ hỉ mũi chưa sạch.

Có hôm đệ ra lệnh nhổ trại đi trong đêm. Lúc đó con nhỏ đã biến mất và dĩ nhiên, hao thêm một mớ lương khô. Hai thằng theo rình cũng đã trở lui, chắc lưỡi tiếc rẻ không còn gặp lại con nhỏ nữa để bẹo má nó xem có phải là ma không mà biến tài dữ vậy. Ấy thế mà tờ mờ sáng, lão bếp lại kêu oái lên khi thấy nó về nằm ngủ ngon lành ở cạnh chỗ trú mới của bọn đệ.

Đệ thấy vấn đề trở nên trầm trọng rồi. Không thể để con bé này giỡn mặt hoài được. Hổm rày binh sĩ xôn xao. Phải “tính” con nhỏ này mới được. Cuộc hành quân chẳng biết sẽ kéo dài bao lâu. Cho nó là con kiến tha mồi mãi thế nào cũng hai cái tổ của bọn đệ để dày thêm cái tổ mờ ám nào đó của nó. Ngoài chuyện con nhỏ ra, chuyến đi chẳng có gì để nói. Nhạt phèo phèo. Bọn đệ chỉ gặp đá lổn nhổn cạnh bụi um tùm không một dấu vết chứng tỏ có chân người bước tới. Thằng Mỹ lâu lâu có ghé đến bằng trực thăng. Cái bản mặt của nó càng ngày càng hinh hỉnh. Tuồng như nó cho bọn đệ bất tài không săn ra người cho nó ăn cơm ngon miệng hơn.

Mãi đến cái đêm hôm đó. Cái đêm mà nếu đệ không có sự hổ trợ của ma men thì chắc kho6ng đến nỗi nào đâu. Mà nếu muốn đổ thừa thì có rất nhiều cái để đổ lắm. Tại lão trời nữa. Đêm đó lão trút nước xuống. Mưa nguồn mà. Huynh phải biết, lạnh tái lạnh tệ, có mười cái field-jacket thì cũng che bên ngoài chớ làm sao sưởi ruột sưởi gan. Lính cậu hành quân thì thiếu chi đế. Đệ thúc hai thằng khỉ đột của đệ dậy nhậu chung cho vui. Thằng Nam với thằng Phong. Rồi đệ nhớ ra còn mấy con mực nên kéo đầu lảo Bảy dậy để lão dọn lên.

Cái bộ lão hớt hải:

– Con nhỏ quỷ sứ thiệt. Mưa gió thế này mà nó cũng đi. Có cần phải ai đi theo không, Đại úy?

Đệ quẹt miệng, đứng dậy, hơi loạng choạng chút đỉnh:

– Để tôi, phen này tôi thân chinh đi.

Thằng Nam với thằng Phong cản:

– Đại úy để tụi em. Ngó bộ Đại úy hơi ngà ngà. Gió máy nguy hiểm.

Rồi không đợi tôi đồng ý, tụi nó phóc đi theo lối cũ con bé vẫn hướng về. Đệ cứ khề khà lai rai nhắm mực đợi hai thằng nhỏ. Càng trong càng bặt càng mờ. Mưa thì vẫn âm ỉ trắng xóa cho đến sáng luôn.

Trời sáng bừng thì con bé về mà hai thằng nhỏ không về. Khi trời ngớt mưa, lại cái thằng Mỹ càu nhàu như con khỉ ghé tới. Nhưng mà nói thiệt với huynh, có ông thần ve chai dòm lổ miệng, đệ không có cái tính chó chết như thằng Tấn ưa bày trò để kiếm điểm đâu, đệ xót hai thằng cận vệ của đệ thiệt tình. Mắt đệ cay cay, không nước mắt chảy nhưng mà nhức nhối. Đệ nghĩ hai đứa nó thế mạng mình. Tội nghiệp thằng Nam mới đi hỏi vợ, còn thằng Phong tính nó còn trẻ con lắm, hôm nào trong một lúc dừng quân đệ mới bày nó nhảy valse theo một điệu nhạc trong radio đây.

Trong lúc thằng Tấn gân cổ hoa tay cắt nghĩa cho thằng Mỹ thì đệ dùng dây quấn con nhỏ lại như bó bánh tét. Đệ vừa thắt nút vừa lẩm bẩm:

– Nói đi con ơi, không thì bố hứa sẽ cho con chết không toàn thây. mày không làm sao một mình giết nổi hai thằng kia. Chắc chắn phải có đồng đội giúp sức. Khai ra một tiếng thì được sống.

Hai con mắt nó vẫn giương thẳng, trừng trừng. Xé toạt manh áo bẩn đen lòi cuốn ún lồi và vẫn màu da nâu bóng, thằng Tấn tấm tắc khen:

– Rún lồi lì số một. Nhưng ông ra tay thì đừng hòng con ngậm răng.

Cái biện pháp tra tấn mới này là một sáng kiến của thằng Tấn. Nó đẩy chùi một mớ chất nổ dưới sợi dây căng ngang bụng con nhỏ, nối vào đấy một sợi dây dài xong hò hét anh em dang ra, tay cầm đầu mối, tay bật cái Zippo, miệng đe con nhỏ rằng sẽ đếm từ một đến ba, con nhỏ không nói nó châm mồi ngay.

Con nhỏ vẫn một mực ngậm câm. Thằng Tấn nói là làm. Hơn nữa, nó không thể bỏ dở khi thằng Mỹ đã ghé mắt, gật gù, tỏ những cử chỉ vừa ý đầu tiên kể từ khi mở cuộc hành quân. Khi sợi dây cháy được phân nửa, những cặp mắt đổ dồn, những trái tim tưởng như nghe rõ tiếng đập, lão Bảy cũng đứng im, nước mắt chảy ròng ròng không thèm gạt.

Con bé vẫn nằm đó, không cục cựa nhếch môi như một thứ gì vô giác vô tri nếu không có đôi mắt sáng hơn, phát ra những tia không phải căm hờn mà là một điều gì khó tả. Tuồng như nó muốn nói. Chơi cái gì kỳ quá. Thả trói tôi ra đi.

Đệ bước tới, dẩm tắt lửa, bẹo má nó lần chót. Đệ vẫn nhớ, huynh ơi, như in, cái cảm giác đó. Đôi má nó săn chắc, tay đệ bấm không lõm vào và mồ hôi của nó nhờn nhờn dưới tay đệ. Đó, đó! In như một trái bồ quân. Và cái môi mím mỏng. Ánh mắt thì cũng vẫn vậy. Ngạc nhiên, đôi mày nhíu, khó chịu… Đồng thời, đệ thấy rõ hơn hai khuôn mặt thân cận của Nam và Phong. Đệ thấy cả con vợ của thằng Nam và cái bộ vụng về của thằng Phong trong nhịp Soul đầu tiên. Đệ lại châm lửa cho sợi dây cháy tiếp và hô mọi người tuông chạy ra xa.

Huynh ơi, thịt rơi từng cục, từng cục. Tròn trịa, bóng nâu, đỏ lòm, trắng phếu. Có hai tiếng rú lên của lão Bảy và thằng Phụng.

Bạc ác thì thôi, huynh có biết, chỉ năm phút sau thằng Phong lù lù về. Nó ung dung duổi tay duổi chân than mõi. Thằng nhỏ khoe khoang đã khám phá ra được chốn đến của con nhỏ. Chốn về thì đúng hơn. Đó là cái làng vừa bị tàn phá. Và một miệng hầm ngay chỗ lão bếp nhặt được con nhỏ đang được thằng Nam nấp gần đó canh chừng để Phong về kéo thêm vài tay súng. Đêm qua mưa to quá, hai thằng chờ ngớt mưa mới phân đứa ở đứa về. Ấy thế mà con bé đã băng băng vượt hết mà về, như một người lớn đúng giờ hò hẹn.

Ngay lúc thằng Phong mới về đệ đã nghe lạnh rợn xương sống. Oan thì chưa chắc con nhỏ oan nhưng thằng Phong con sống mà lại đi đối xử con bé như thế quả là có quá tay. Thằng Mỹ hất hàm về phía Phong ra dấu đệ nên kiếm cho nó một cái huy chương nào đó.

Đệ cũng thấy được những nét buồn bả cùa anh em khi xốc lên vai khẩu súng nặng nề đi ngược lại hướng cũ. càng đi càng thấy phục thêm đôi chân nhỏ dẻo dai của con bé. Đi một chập mới thấy lão Bảy và thằng Phụng lót tót chạy theo. Thằng tấn nói nhỏ với đệ: Phải đề phòng hai tên nàyKhi nãy chúng nán lại hốt thịt con nhỏ chôn vun thành mộ.

Cho đệ thêm một xị nữa, anh Hai. Ái chà, làm phiền chị quá, chưa đủ để say đâu chị. Tay bỗng run đến nỗi làm hỏng ly quý của chị chắc vì ngọn gió ác nghiệt này. Mụ vợ đệ nhằn đệ vụ rượu chè này hoài. Nhiều mụ đàn bà, chẳng phải ai cũng như chị đây, thấu hiểu nỗi khổ tâm của người chồng. Không có rượu làm sao quên và không có rượu làm sao đệ chịu nỗi cái giò cụt này hành mỗi khi trời trở gió. Bây giờ chắc huynh đã rõ lý do chính khiến đệ hủy hoại thân thể rồi. Đệ được giải ngủ là một phần. Nhưng nếu không có cái vụ con nhỏ chắc đệ chẳng bao giờ chơi cái trò này. Đệ đã từng tống giam biết bao nhiêu gã đàn em chơi dại bắn tay, đập chân bằng mìn cóc hay xà-beng, chặt ngón trỏ để thành thương phế binh.

Có chi mà hối hận hả? Đệ chưa kể xong à? Thì con nhỏ chết như vậy đó. Còn ở dưới hầm thì chẳng có con mẹ gì gọi là chiến công oanh liệt cả. Một phụ nữ mù và một bộ xương bọc giấy quyến. Huynh hiểu không? Một mụ già gần đất xa trời lạy như tế sao khi bò lên khỏi mặt đất: “Tui đã noái nó đừng tham đồ ăn, đồ uống chi của ai. Cả tháng ni nhịn được thì hà huống chi vài ngày không kham nổi mà lấy chi của người ta”. Chị phụ nữ kia thì mới nhú cái đầu lên đã giương cao đôi mắt trắng dã, nghe ngóng:

– Út Câm mô nà, tới đở mạ lên coi…

Một tên lính nhảy xuống cái hầm cạn vớt lên được mẩu lương khô của bọn đệ còn dấu răng gặm.

Như thế đó huynh, bọn đệ đã nhục nhả. hạ mũi súng sè sẹ rút lui trước hai “kẻ địch” ốm yếu tật nguyền run rẩy như hai con mèo ướt nhẹp chưa mở mắt bị bốc khỏi cái ổ đẻ của mẹ nó.

Trên hướng về, cả bọn tựa một đám âm công thất thểu. Những bước của đệ nghe nặng như đá đeo. Tiếng kêu chậm rãi, lạnh lẽo của người mẹ cứ vẳng theo, đeo dính lấy chân đệ suốt cả đường về.

Còn cái bóng đen nâu của con nhỏ thì cứ mãi đến bây giờ vẫn không khỏi đè lên ngực đệ. Rượu từ đó uống nghe nhàn nhạt, tanh tanh nhưng không có nó càng không chịu nổi… Và cái thứ trái này nữa. Một lần hàng xóm tưởng đệ nổi điên chỉ vì đệ tần thằng con đầu một trận, thừa chết thiếu sống khi nó bóp chẹt nhẹt giữa ngón trái và ngón trỏ một trái bồ quân…”.

Trăng đã quá những hàng đèn bên công viên. Chân búp sen xi-măng cặm giữa như một người chôn sống còn thòi đôi chân nếu trông ngược và chắp đôi tay cầu cứu nếu trông xuôi… Thành phố im lìm. Cây si rũ rể, sựng đứng. Những chiếc lá thu thôi lao chao. Hương thị phảng phất, ngát nồng. Chiếc cốc lăn nghiêng trên nền xi-măng. Rượu thuốc nâu bạc sóng sánh dưới trăng. Tiếng người đàn bà nhỏ nhẻ, rõ ràng trong đêm thanh vắng:

– Xin lỗi anh, có phải làng ấy mang tên Thi Ức ở Tây Nguyên…

Nguyễn Thị Minh Ngọc

SẮC

nguyenthiminhngoc

Tôi gặp nàng ở quán cà-phê “Còn chút gì…”. Tôi không thích quán ấy. Thằng em út của tôi, cu Trần, thì yêu quán ấy cực kỳ. Tôi không thích thằng Trần cũng như không thích gia đình tôi, cái gia đình đã phải đẩy thằng út xuất gia để bù trừ cho phần nào những điều tham, ác mà họ đã lỡ làm và vẫn mãi làm khi nào còn sống.

Tôi không thích nhiều thứ. Trừ nàng. Nàng hớp hồn tôi ngay từ đầu bởi cái bộ lảo đảo hồn phách của nàng khi vừa mới gặp tôi. Nàng là người làm quen trước. Nàng nói tự nhiên như là nếu không nói được câu này nàng sẽ chết. Cách tôi một cái bàn trống, nàng gõ ly:

– Ôi, anh ơi, nói chuyện được không? Ngó anh “thiền sư” quá, dù anh không mặc áo như cái anh kia…

Cái anh kia là cu Trần, đang vung vẩy tay tán tỉnh về những nỗi vui trần thế cho bọn gái, trai phục vụ, ngồi quầy. Tội nghiệp thằng bé, nó đang tuổi lớn, tuổi yêu lại phải khoác áo lên chùa, tập đời chay tịnh… Ai cũng thấy cái người hợp với nhà chùa nhất chính là tôi. Chỉ vì ở nhà tôi ít nói, đố ai đoán được những gì tôi đang nghĩ.

Đáp lại câu hỏi của nàng, tôi chỉ cười. Thế là nàng hiên ngang ngồi chống cằm vừa ngó tôi vừa gọi thêm một loại rượu nào đó như thể tôi là một thứ mồi để đưa cay. Trong ánh đèn mờ của quán, nàng thoắt đẹp, thoắt xấu… Nói thế nào cho chính xác đây. Nàng rất “ma”!. Và rất không giống chị Phương.

Quả tình trong lúc bị nàng ngồi ngó, tôi cứ miên man nghĩ tới chị Phương, mối tình tuyệt vọng của tôi… Chị Phương có cái sắc hương của một người mệnh yểu… Đang sống rất mặn nồng với anh Hai tôi, nửa đêm chị lay anh dậy báo cho biết chị chỉ còn sống vài tiếng nữa vì chị vừa tự tiêm thuốc độc vào người. Cuộc đời chị tưởng đã chết trước khi gặp anh. Tình yêu của anh là một loại hạnh phúc trào ngập tăng dần đến độ chị ngộp thở đành phải ra đi vì… “phúc bất tận hưởng”.

Chị chuẩn bị cái chết của mình khá chu đáo. Buổi chiều, từ giã học trò chị không nói “Au revoir” mà đổi bằng “Adieu”… Chị chỉ cho anh thấy gói quà nào để lại cho ai. Người độc nhất không được gì là cha ruột của chị vì sự độc ác của ông suýt gây nên cái chết của chị trước khi được gặp anh. Quà của tôi là một con trâu nước xanh biếc như ánh trăng đêm chị ra đi.

Lần gặp nhau đầu tiên của chúng tôi chỉ có vậy. Chuẩn bị cho lần gặp sau, nàng đề nghị:

– Anh chọn điểm, tôi chọn giờ. Anh là người ở đây còn tôi là người đi ngang qua. Tôi có một số công việc cùng với những người khác nên không thể bỏ đi chơi bất cứ lúc nào…

Tôi chọn một quán cà-phê gần Hổ Quyền. Nàng thích những cây thằn lằn bấu sát bức tường thành sắp đổ. Chúng tôi vẫn không biết gì về nhau hơn, sau đó. Nàng khoe:

– Tôi có nhiều tên. Anh cứ đặt tôi một tên nào anh thích. Phần tôi, lỡ gọi anh là Thiền Sư thì anh vĩnh viễn là Thiền Sư.

Tôi cố tìm một cái tên ngược với chữ Phương, đầu tiên nên là vần trắc. Nàng chọn ngay:

– Vậy gọi là Sắc đi. Mình gặp nhau mùa xuân, có lẽ sẽ chia tay vào mùa đông. Hãy tạm gọi tôi là Thu Sắc.

Giọng nàng chợt chùng thấp, tâm sự:

– Có lần tôi chia tay một người bạn trai khá thân vì anh ta nhận ra trong tôi, phần thú nhiều hơn phần người.

Bữa đó, nàng thể hiện khá xuất sắc thần khí của một con thú trúng đạn, đơn độc, kiếm chỗ liếm vết thương và hãi sợ tiếng người. Thế nên tôi chẳng dám nói gì nhiều. Nhưng khi chia tay, nàng dư thừa nét đam mê và bí ẩn để xui tôi xin nàng một lần hẹn thứ ba.

Nàng có vẻ phân vân:

– Cuộc sống của chúng tôi phù du lắm. Chúng tôi sẽ ở thành phố này vài ngày nữa rồi phải đi. Vầy đi, tám giờ tối thứ sáu, 13 tây này, anh nên đi xem chúng tôi biểu diễn. Sau đó mình đi chơi cho đến 5 giờ sáng, anh phải trả tôi về để kịp cùng đoàn dọn gánh ra đi.

Hóa ra đây là một cô gái hát rong. Tấm vé nàng đưa có nền màu xanh lục. Những hoa văn, họa tiết trong đó nhắc tôi nhớ nơi đây đang diễn ra một lễ hội lớn với khá nhiều khách đến từ các nước. Nàng có vẻ là một cô gái lai. Mắt nâu trong, tóc màu hạt dẻ. Hôm đầu nàng búi đầu như sương phụ nửa chừng xuân, hôm sau cài một băng giữ tóc kết từ nhiều sợi tóc. Cùng với jupe jean xanh, pull trắng, ngó ngây thơ khỏe mạnh như cô học trò nhỏ của một trường thể dục thể thao.

Cả nhà nhận ra sự khác lạ nơi tôi. Tôi cố hòa vào các sinh hoạt của lễ hội với hy vọng tìm người. Người ta chỉ cho tôi một khu tường rộng bao quanh cho biết đoàn của nàng đang tập dượt bên trong. Tôi đành phải lang thang đi vào các phòng triển lãm, len vào các khu phố ẩm thực, đi dọc bờ sông xem thả diều và ngó những khối đá, thạch cao ngã xiên với những cái tên được xài hoang phí như: “Lời nguyền dòng sông”, “Mây, em và tôi”, “Vũ trụ đìu hiu”, “Sa mạc tình yêu”, “Đời cá”, “Sát na”, “Đại hồng thủy”, “Tiếng thở dài của thời gian”, “Thu cố đô”, “Khúc trầm ca nghiệt ngã”, “Mộng”…

Lạc tới một bãi sông đầy chong chóng giấy quay cuồng trong gió, cảm giác bị nhìn, tôi quay lại và thấy nàng đang chụp trộm lưng tôi. Tôi không dấu được nỗi mừng khi tình cờ gặp không hẹn trước đến độ bị nàng chê:

– Đừng trải phơi ra như vậy, mất đi chất thiền sư.

Tôi nắm chặt tay nàng:

– Mặc kệ, tôi không thể dấu tôi quá vui khi gặp lại Thu Sắc.

Nàng gỡ tay tôi ra:

– Nhưng tôi thích anh vì cái vẻ thiền sư không bỏ được đạo của anh.

Kéo tôi ngồi phệt xuống một phạt cỏ ở bờ sông, nàng say sưa kể cho tôi nghe mối tình tuyệt vọng của cô gái em vua xứ này và vị Thiền sư đến từ đất Gia Định. Lặn lội vào ngôi chùa ở Cù lao Phố với danh nghĩa triều đình để tìm cách tiếp cận người yêu, cô chỉ được Thiền Sư ngồi tiếp sau một bức vách. Đêm ấy cô rủ ông đi trốn. Đến giờ hẹn, ông từ chối. Cô xin nắm một bàn tay, ông đưa tay ra để rồi sau đó chặt tay phóng hỏa đốt mình… Bàng hoàng cô đã lao vào lửa ôm lấy nhục thể của ông để được cùng thiêu chung.

Tôi xỉa trán nàng, cười:

– Ghép ở đâu vào cái chuyện chặt tay… Hình như tích đó là của bà thứ phi Phi Yến.

Ngó bộ nàng sững sờ khi phán:

– Cười đẹp quá, nhưng không nên cười nhiều, chỉ cười với tôi thôi.

Rồi ngó chằm chằm vào tay tôi đến độ tôi phải chìa cả hai tay:

– Nắm đi!.

Nàng lắc đầu, dẫu môi:

– Không dại! Đó là vật dễ cháy, dễ lây lan…

Tôi thèm hôn ngay lên đôi môi nàng lúc đó. Đó là một đôi môi thách thức người ta chiếm đoạt với khá nhiều bạo lực, một đôi môi biết cách đòi hỏi để được hôn…

Như đoán được ý tôi, Thu Sắc áp đôi môi nàng xuống đôi tay tôi đang mở ra. Lửa từ đó lan tỏa toàn thân tôi. Tôi lờ mờ cảm nhận lý do tại sao có người cho là trong nàng phần thú nhiều hơn phần người. Nàng sanh ra để được yêu. Và dường như nàng thích chọn những mối tình không dễ…

Tôi hồi hộp chờ đến giờ người ta cho vào khu đất trống… Còn ba mươi phút nữa vở diễn mới bắt đầu. Trên sân khấu, một người đàn bà trùm khăn áo, ngồi ngó khán giả với giỏ đồ bên cạnh… Chiêng trống khua, người ào ra tới lui, lúc mau, lúc chậm, lúc đông, lúc thưa với những khuôn mặt trắng bệch như ma khiến tôi hoa mắt chẳng đoán nổi ai là Thu Sắc… Nàng là cô công chúa ở xứ cũ, vì mê trai bị vua cha từ phải lìa xứ hay là cô công chúa xứ mới trẻ xinh hơn, được trai mê đến độ dứt nghĩa với vợ xưa. Nàng là chàng thiền sư si tình công nương xinh đẹp hay nàng chính là mụ phù thủy tiên tri những đứa trẻ sẽ xinh đẹp vĩnh viễn ở tuổi lên năm (hay chính nàng là một trong hai đứa?). Nàng là tên quân câm trung thành uốn người qua ống sắt hay nàng là thiếu phụ ngồi dương đôi mắt cú vọ quan sát khán giả từ ba mươi phút trước giờ diễn với túi thức ăn, đồ uống thoáng chốc và bất ngờ được mang ra.

Nhạc chuyển đám cưới xôn xao, cô vợ cũ chuẩn bị mọi thứ như hôn lễ của chính mình, cô cúi xuống cửa mình dùng miệng nhổ ra từ đó một lưỡi dao. Ngậm cán dao trong miệng, cô ngoắc cặp con của mình đến để ôm ấp như mọi ngày. Hai đứa nhỏ xinh như hai con gà kết bằng len tung tăng đến mẹ. Mẹ hôn con để lưỡi dao trong miệng mẹ đâm suốt tim con, cả hai đứa. Lưỡi dao đã được rút ra từ chốn mẹ đã bồng bềnh với hạnh phúc rồi từ đó nẩy nở ra con…

Gây cho người xem cảm giác buốt đau như cũng bị dao đâm khi mẹ hôn con bằng nụ hôn như thế, chẳng biết đây là loại nghệ thuật thấp hay cao. Chỉ biết rất ít khán giả còn tỉnh táo nhận ra đôi mắt cú vọ đã trôi ra gần giữa sân khấu, tiếp tục ăn trái cây, uống nước và ngó khán giả, rồi lại trôi hướng khác một cách chậm chạp đến độ khó ai phát hiện được bà đang chuyển động. Mãi đến khi tuồng vãn vài mươi phút sau, khi khán giả cuối cùng là tôi chuẩn bị rời rạp vẫn thấy trên kia đôi mắt cú vọ tĩnh tại ngồi nhìn…

Tôi đợi nàng ở ngả ba Âm hồn, nơi có gốc si già tương truyền được nhiều người chọn làm nơi treo cổ. Nàng đến từ sau lưng, ôm quấn lấy bụng tôi bằng đôi tay mát lạnh như rắn trườn với lời thì thào:

– Chạy đi anh!.

Tôi đưa nàng đi, như mộng du, ra khỏi thành phố. Ánh đèn đường và ánh sáng trong các loại nhà ở hai bên quốc lộ loáng thoáng hắt vệt ra. Chúng tôi chỉ còn vài giờ ở bên nhau. Trước mặt tôi, vài chục cây số nữa là vài ngọn đèo lớn, một cung biển đẹp, tôi biết đưa nàng đi đâu để không hoang phí vài tiếng đồng hồ quý báu này. Chuyện gì sẽ xảy ra với cô gái tên Thu Sắc và chàng trai bị gọi là Thiền Sư. Hay chính nàng mới là Thiền Sư còn tôi đang sôi sục toàn thân nỗi nôn nao làm thú. Ở một cây xăng dọc đường, nàng nhắc:

– Nhớ 5 giờ sáng cho về lại chỗ diễn kẻo tôi bị bỏ lại mà tôi thì chưa thể sống lạc bầy…

Một tiếng sau chúng tôi phải chọn giữa biển và đèo. Tôi hỏi, nàng nói, anh là đàn ông, hãy chọn đi… Tôi chẳng phân biệt được trăng 14, 15 hay 16, chỉ biết đêm ấy trăng ngập ngụa lá rừng và pha sắc biển trời đêm một màu lạ lẫm. Nàng kêu lên những tiếng rên đầy hoan lạc trong cổ họng đến độ tôi ngỡ phải ngừng xe. Nàng bấm tôi thì thào, chạy tiếp lên đỉnh đi anh, em chẳng ngờ được tắm trong một ánh sáng lạ lùng như vậy và hương biển pha rừng trộn trăng cho ra một loại mùi vị quá sức gợi tình.

Chúng tôi phải né đỉnh đèo vì dù là nửa khuya nơi ấy vẫn là giao lộ chộn rộn các xe qua lại. Tẻ vào một nhánh đường cứu nạn, tôi loay hoay tìm chỗ dấu xe. Tìm ra được một chỗ có thể lót trải một nệm lá êm cho nàng vừa xong, ngó qua thì không còn nàng bên cạnh khiến tim tôi ngưng vài nhịp. Đến khi nghe tiếng cành lá khô khuơ tôi mới nhận ra nàng đang bò ra một khúc đá nhô cao.

Khi tôi theo kịp nàng, Thu Sắc đang quỳ ngửa nhắm mắt, ưỡn người ra phía sau để mặt hứng đầy trăng. Tôi run rẩy tháo những lớp vải trên người nàng. Nàng đưa tay tìm tay tôi, nói khẽ:

– Nghe nè, không phải doạ đâu, nhưng ai đi sâu vào trong người tôi đều chết mà tôi thì không muốn anh chết chút nào. Anh không giống những người tôi đã gặp, anh là Thiền…

Chữ “Sư” chưa thoát ra được đã bị tôi bịt lại bằng một nụ hôn. Tôi không thích phụ nữ nói nhiều… Tôi quý nàng vì sau bao lượt gặp, số lượng chữ nàng rót sang tôi không nhiều mà vừa, gọn.

Đúng như tôi nghĩ, môi nàng sinh ra để khiêu khích người ta cưỡng đoạt nụ hôn. Nàng vùng vẫy một cách tuyệt vọng, đồng thời tôi cũng nhận ra sự côïng hưởng tuyệt vời. Rồi một lúc nào đó, tôi nhận ra mình là người được. Bằng cách nào không rõ, nàng như từng đợt sóng, nâng quấn rồi đẩy chìm tôi để môi tôi được trôi đến đỉnh cao cảm xúc, uống no nê tất cả những mật ngọt tận nguồn. Đôi chân nàng quấn cổ tôi như muốn nghiền cổ kẻ tội đồ tham lam là tôi chẳng bao giờ thấy đủ… Tay tôi quờ quạng tìm kiếm cho đến khi chạm được cảm giác an tâm của trẻ thơ lúc đày đọa được bầu vú mẹ hiền. Mắt tôi không thể mở như là nó chưa hề tồn tại và thật sự tôi chỉ muốn thiếp ngủ một chút để quên đi những nhọc mệt khi leo được đến đây và trước một chút nữa, chuẩn bị một nệm lá vô dụng dưới chân ghềnh…

Lẽ ra tôi nên dừng ở đó hay ngủ thiếp đi lúc đó.

Nhưng tôi, đã không xứng với hai chữ Thiền Sư nàng tặng, không biết vâng lời để ngừng lại trước những bí ẩn đã được cảnh báo. Tôi nhổ mặt mình ra khỏi hai chân nàng. Nàng có vẻ đuối sức nằm đó, thân hình như đá trắng tạc dưới trăng xanh, đẹp đến không ngờ. Phải, lúc đó tôi mới bình tỉnh nhìn toàn thể người nàng. Thân thể nàng đẹp đến độ làm cho người ta sợ, và càng nhớ hơn lời cảnh báo của nàng. Tôi quỳ bên cạnh cái sinh vật sống ấy, hôn từng phân vuông trên khắp người nàng.

Nàng nằm yên với chút ít hơi thở gợn mong manh dưới ngực, mắt ngó trăng hay ngó trời, ngó biển hay cây lá rừng đêm? Tiếng tôi nhỏ nhưng đêm vắng nên nghe vang vang:

– Em… chính là… Thiền Sư…

Nàng cười mệt nhọc, không nói, tay níu tay tôi đặt lên ngực nàng. Tôi nghe tiếng đập hết sức nhỏ nhẻ tội tình và đột nhiên thấy cần thiết biết bao, phải CÓ nàng. Tôi tháo hết áo quần của mình ra, liệng vương vãi một cách nhẹ nhàng và chợt nhận ra nãy giờ nàng nằm trên đá.

Tôi nâng nàng lên, phủi đi những vụn cát đá còn bám vào người rồi bế nàng xuống mảng nệm lá bên dưới. Tiếng nàng van vỉ:

– Sẽ chết mà, nghe em đi, phần thú trong em mạnh mẽ hơn người.

Lỗi tại ai khi trong câu năn nỉ cản ngăn của nàng lại hàm chứa một lời khuyến khích. Như là nàng nói em thèm chết quá, cho em chết đi và tôi hiểu chữ chết là yêu.

Tôi đâm sâu vào người nàng. Người chết là tôi. Tôi rú lên vì cảm giác có một khe hẹp đầy dao nhọn bén chặt rọc đi phần mềm yếu nhất của tôi.

Tôi ngã ngửa người ra, vừa khi nàng uy nghi trỗi dậy. Chúng tôi vẫn chưa thoát khỏi nhau. Và tôi ngất đi trong ý nghĩ hoang mang nàng là ai vậy?.

Là cô công chúa giết con bằng nụ hôn chứa lưỡi dao rút từ nơi đỉnh cao hoan lạc nên cũng là cửa tử. Hay nàng là người mang đôi mắt cú vọ gắn trên một mặt trắng đá lạnh băng.

Khi tôi tỉnh dậy, thấy mình vẫn trần truồng nằm trên nệm lá, áo quần tung vãi ở những ngọn cây thoát khỏi tay tôi với một vùng hạ bộ đau buốt cho thấy những điều đã xảy ra là có thật.

Nắng chiếu vào những mẫu kính và kim loại trên chiếc xe lấp ló sau lùm bụi rồi hắt vào người tôi nóng rát.

Phải chăng nàng đã lấy đi khúc đời còn lại của tôi? Phải chăng sẽ không còn cơ hội cho tôi gặp lại phần thú tuyệt vời nằm tiềm ẩn trong mình lần nữa?.

Tôi chỉ biết chắc mình đã có thể nói adieu với nỗi ám ảnh tên Phương để bắt đầu nỗi ám ảnh mới với “cô-gái-thiền-sư ”

NGUYỄN THỊ MINH NGỌC

TRỜI LÊN CAO SAO ĐÀNH

nguyenthiminhngoc

Ông Ka, những đêm trở giấc mở toang mấy lớp cửa bước trên cỏ mềm đẩm sương, ngẩng mặt hóng một vết sao băng lăn trên má, thế là đã không còn nữa. Mùa mưa đã về, trong đêm qua, rất đổi không ngờ. Tôi vẫn ngỡ ai đó đùa nghịch nửa khuya vòng vòng đạp xe quấn nghiến sỏi đá kêu rào rào. Phòng bên bác quản gia không về, tha hồ trái tim bệnh hoạn làm tình làm tội tôi. Quấn mền ngồi tựa góc phòng thở dốc khó khăn nhìn chớp lóe sáng trưng ngoài cửa kính, ông không tưởng nổi tôi bây giờ xấu xí và tức cười đến thế nào đâu.
Mớ lời lẽ khô cộc dễ ghét như những viên đá dốc ra từ cái bầu tim lộc cộc cứng ngắc của tôi ném về ông được tôi thích thú nhắm cái đau đó. Nhưng mấy lần dụi mắt tôi thấy thấp thoáng ngoài kia khuôn mặt lặng lẽ của ông với những cái hốc tối tăm đọng quanh dốc mũi. Từ cái màu đen lạnh lẽo dửng dưng đó rần rần lệ ứa. Tôi vuốt đôi má khô. Tôi chống to đôi mắt. Ô! không, chỉ là mưa tràn chảy trên kính trong. Nếu tôi đứng dậy, mở tung cửa thì rớt trên mười ngón tay xòe chỉ là chất nước lạnh tanh lăng quăng trên đường chỉ rối, tặng phẩm duy nhất của bầu trời cho gã hành khất van nài hạnh phúc là tôi.
Mưa, mưa đó, ngoài kia ướt át, nhão nhầy. Trong đây vẫn một trái tim khô rốc. Làm sao tôi có thể trèo lên ngọn tháp sắt, nơi có treo lửng lơ đốm nhang đêm lòe lập như biểu hiện cho quả tim thoi thóp đập một cácn tự mãm của ông.
Ông Ka, hãy tưởng tượng tôi đang co chân loay hoay mài miệt với những ô vuông kẻ bằng que cây trên cát ẩm, sủi hòn chàm ghè vỡ từ một phiến đá đỏ nâu, một mình đóng hai vai, phe ta và phe nó. Không phải tôi đang, mà tôi đã… cách đây mười năm. Nhưng tôi e ông không tưởng tượng nổi một người đàn ông, có gia đình, vợ đẹp, con xinh nghĩa là có cái tổ để mê đắm trở về, một chức vụ để giữ gìn mọi thứ… lại ngồi bệt ở một cái chuồng bò, ngắm nghía một con nhỏ mười một tuổi là tôi một cách vui thú, say mê. Nói thế này chắc ông dễ hình dung hơn nè ông Ka, bà P’Luk bảo ông ta điên. Tôi biết mà, rồi cũng phải dùng đến cái ngôn ngữ của người khác ông mới hiểu được những điều tôi muốn diễn tả. Tôi thì không bao giờ nghĩ rằng ông bạn của tôi điên. Ðiên! họa có là lúc mà người ta biểu ông ta đã nhớ lại mọi sự. Và trong mọi sự đó, không có dính một xí bèo nào, cái gọi là tôi. Ông có nghe không ông Ka, không có một chút, dù chỉ bằng đầu ngón tay út của tôi.
Ðể cho ông thấu, chắc tôi phải kể lại từ đầu. Ông vẫn thỉnh thoảng kêu lên: “Tôi vẫn không biết gì về cô hết”. Và vẫn lắng nghe, những mẫu chuyện kể của tôi với cái vẻ diễu cợt cố hữu rất kẻ cả như muốn nói bịa đặt là một vấn đề rất dễ dàng đối với tôi (nếu không muốn nói đó là bản tính). Những điều tôi sắp kể đây, nếu ông không tin, cũng không sao mà.
Ông Ka, của một thuở mới lớn, đối với tôi vừa là địa ngục vừa là địa đàng. Căn phòng phía Tây trên lầu của một biệt thự mà một ông Tây nào đó đã nhượng lại cho ba tôi cùng với khoảng đồn điền cà-phê với trùng trùng lá rợp. Ở đó là ngày tháng co ro thèm thuồng trông ra vùng cây cối rậm rì lan man không biết đâu là Miên, Lào, Việt. Ở đó là những đường roi với tiếng vút lạnh cả tủy xương của bà vú già người Thượng có khuôn mặt rúm khô như vỏ quả chà là chín. Bà nói tiếng Pháp sỏi hơn cả tiếng Việt. Hình như người chủ cũ đã nhượng luôn bà cho ba tôi với một lưu ý đặc biệt như cái thể thức người ta vẫn bàn giao cho nhau những vật dụng tiện ích mà quý hiếm. Ở đó cũng là nước mắt tủi thân chạy ngược lối vào khi cái bóng dáng ngất nghểnh lạnh lùng của ba cả tháng mới gặp lại đang dập dềnh trên lưng ngựa vừa chí chân đèo.
Ấu thời của tôi vừa buồn tẻ từ màu sắc đến âm hưởng của tình thương. Những khối xanh xám chì đục đầm đìa chụp xuống một cuộc đời mới khởi vẫn chưa thê thảm bằng những buổi gặp lại của hai cha con. Trước mặt ba tôi, môi tôi như bị khằn bởi một lớp nhựa dẻo đã cứng đặc. Một đôi lúc mấp máy lắp bắp những lời không rõ ràng đến nổi ba chán nản xoay sang hỏi bà P’Luk về tôi. Thiệt ra lúc bấy giờ trong tôi đang dội vọng một tiếng kêu thương rền lớn đến muốn toát đi từng phế bào li ti: “Ba ở nhà chơi với con đi mà, sao ba cứ đi hoài hủy vậy?”. Ðến bây giờ tôi vẫn còn nhớ rõ cái mùi đất thật rừng rú bốc ra từ cái áo da nai của ba và cái cảm giác buồn tẻ khi những sợi râu cứng cọ vào trán tôi thương xót: “Ở miết trong hốc rừng này với bọn nhân công người Thượng, con bé hóa khờ mất, bà P’Luk à”. Ông thấy không, cũng chỉ là một thương yêu được bày tỏ qua trung gian của một người thứ ba.
Từ đồn điền đi về hướng Ðông Nam, qua ba chặng đèo là đến thung lủng M.Y. Nhà cửa thiệt đìu hiu tựa trúc tre xơ xác. Ðầu làng là một ngôi chợ lèo tèo đôi ba chỏng gỗ. Cuối làng, đứng thật ngậm ngùi, trường nhỏ của tôi. Mỗi sáng, mỗi trưa. P’Luk cỡi trên lưng Huyền Hãn với tôi ngồi phía trước để đưa con bé đi về. Sau những đêm mưa nguồn còn có thêm một sợi dây vải choàng lấy ngực tôi và buộc treo thắt gút sau lưng để tôi khỏi rời khi Huyền Hãn phóng qua những cây đổ và hố xoáy dọc đường. Rải rác theo lối đi có những đứa trẻ người Thượng trạc tuổi tôi cũng cắp sách đến trường. Bọn nó là con của những nhân công trong đồn điền ba tôi và những sở trà kế cận. Chúng chẳng có ngựa nên phải thức dậy đi học từ mờ sáng.
Trong đôi tay cứng như đá đen của P’Luk tôi vẫn ao ước được đi bộ chung với tụi nó hơn. Ừ, chẳng thà mõi chân, dậy sớm co ro trong mù sa vẫn còn thích hơn ngồi trên lưng với một ác thần hung hãn. Tại bà mà tôi không có bạn, tụi nó kêu sợ lắm con roi vung vẫy luôn trong tay bà. P’Luk sử dụng ngọn roi cũng thần sầu như tài phi ngựa vậy. Có khi lý do thiệt là vu vơ: “Vú ơi! Mấy bà Thượng dưới kia hỏi sao má mày đi đâu mất?”. – “Rồi em trả lời sao?”. – “Em nói đại, P’Luk là má em đó”. Ngọn roi hoa lên: “Vú cấm em không được nói chuyện với tụi nó từ lâu rồi mà”.
Kết quả là tôi không còn hứng khởi nói chuyện với ai hết. Người cấm cản người đến với người, tôi xoay sang chơi với cỏ cây muôn thú. Buổi chiều không phải tới trường tôi thường lúc thúc với những hạt giống, cây non và con dao rỉ sét phế thải. Ðất đỏ nâu thơm dẻo nồng nàn cùng hương lá cây ngọt ngào tê lưỡi đã dệt trong tôi một tấm thảm nhung êm ả nào đó, xoa dịu phần nào giấc ngủ đầy dẫy mộng dữ.
Sau trường, một bên vách núi rũ rượi dây leo, một bên là dốc xuống, một con suối lẩn khuất sau những chòm lá trúc tre loáng thoáng xanh hệt như lối lên thiên đàng hiểm trở và đường xuống địa ngục nên thơ. Giờ chơi tuị bạn thường tách hai phe đi “thám hiểm”. Bao giờ tôi cũng chọn địa ngục xanh non để xoay lưng lại thiên đường xám xịt. Ngọn suối chảy đến sau trường thì cạn đường, những ngọn nguồn của nó thì lập lờ quanh co tít ở đâu xa lắm. Tôi vẫn thường đứng thẩn thờ bên suối để phóng mắt tìm hoài cái nguồn không bao giờ thấy được đó nà nghe quyện lại trong óc một khối mơ không bao giờ tan. Lại có những tảng đá bị soi mòn phẳng lì nằm chơ vơ giữa dòng gợi thèm một giấc ngủ trên đó với từng khóm tre La Ngà cong mình che mát. Những quà tặng quyến rũ còn có những bụi táo xe, những lùm hoa dại quấn quíu chân đi.
Năm đó, đột nhiên bỗng thấy ba chăm sóc tôi nhiều lắm. Cụ thể là cặp thỏ cho ngày năm tháng tám. Ông đừng có cười, ông Ka, ấy cũng là ngày Nhân Dân Tự Vệ, ngày Marilyn Monroe tự tử, một ngày sau đó Hiroshima lành bom nguyên tử, ngày đầu tiên tôi thấy ông. Và dĩ nhiên, đó là ngày tôi khóc tiếng khóc đầu tiên trên tay người đàn bà nào đó chưa hề nghe ba nhắc. Lờ mờ cảm thấy rằng sắp có một cái gì thay đổi, xáo trộn đến cuộc sống quá giản dị của mình khi nơi đã đã hết lớp cho tôi học. Ba đã về với tôi nhiều hơn nhưng vẫn lầm lì ít nói, không đả động chi đến việc học hành của con. Tôi thì vẫn sợ sệt không dám hỏi. Có thể sẽ dời xuống phố chợ học tiếp trường trung học của thị trấn. Có thể suốt kiếp khép đời ở đây. Hết một mùa hạ. Hết một mùa thu. Tôi ngao du trong cây cỏ sa mù. Những vòng roi của P’Luk đã lỏng hơn. “Em đã lớn, đã biết, vú không muốn dùng roi nữa”.
Mùa đông rồi đến. Chị thỏ vợ è ạch mang thêm những thỏ con trong bụng. Tôi quấn quít quanh chồng bò suốt ngày. Bỗng một trưa, người đàn ông tóc nậu rậm rịt như cỏ hoang áo quần lếch thếch bỗng xuất hiện đằng sau những chuồng gia súc. P’Luk cho biết ba “nhặt” ông ta ở rừng mang về. Hai vợ chồng thỏ xem chứng quyến luyến ông hơn cả tôi. Và như thế, chúng tôi quen nhau.
Ông Bạn có một nụ cười và ánh mắt ngác ngơ khờ khạo tương phản hẳn với những râu ria thậm thượt dữ dằn. Mỗi một lời nói đều được điểm theo một nụ cười. Tôi thích thú vô cùng với người bạn mới. Ông ta nói chuyện hay ghê. Có những lời ngớ ngẩn sao mà ngộ nghĩnh dễ thương quá thế. P’Luk vẫn cấm không cho tôi chơi với Ông Bạn cùng lời đe dọa: “Không khéo em hóa điên khùng luôn như ông ấy bây giờ”.
Khùng là vậy sao? Ðiên là vậy sao? Có những buổi chiều, những buổi sớm mai, sau khung cửa trên lầu trông xuống, rõ ràng tôi nghe Ông Bạn hát trong lúc say mê bổ củi. Âm hưởng thật u hoài ray rả đó đã lập đi lập lại bài hát này hoài tôi đến thuộc: “Nàng công chúa chờ. Ðầm đầm bóng tối dâng. Nàng công chúa sầu. Ðàn bung dây phím long. Nàng công chúa ngồi. Quạnh hiu đá vỡ toang. Nàng công chúa cười. Lệ trào tim nát tan. Nàng công chúa lòa. Thầm thầm nuôi nấng hoa. Vườn hoa cũng tàn. Sờ soạng trong bóng đợi. Ðợi bóng, rêu khằn quanh quanh núi biếc. Ngàn năm trên đỉnh vọng tha nhân. Trăng tươm cát đổ ngàn sao chiếu. Sóng vữa tuôn ràn rụa đá xanh. Nàng công chúa nằm. Lạnh lùng năm tháng qua. Mùa thu úa dần. Trùng trùng lá lấp thân. Chim uyên túa về. Rộn ràng tiếng vó khua. Chàng quanh suối đàn. Vườn trầm gọi khản hơi. Ðẫm lên tóc nàng. Mà chàng nào có hay. Ðường gươm cuối cùng. Lạnh mờ ánh thép loang…”.
Từng giọt não nùng gõ vào hồn tôi nghe mênh mang hiu hắt thêm cái không gian kẻo cọt lá trúc tre khô như lời than vãn của những hồn thiêng tụ trên đỉnh núi.
Một ngày được nói chuyện với nhau hai lần trong lúc cho thỏ ăn bỗng nghe thân thiết với Ông Bạn hơn ba của mình. Một tháng P’Luk vắng nhà vài lần để mua thêm thực phẩm tươi, tôi sung sướng thoát lồng đi theo Ông Bạn đi đốn củi ở ven chân núi Chu Prong. Ðược thấy thêm những tác phẩm tuyệt diệu của hóa công, những ngọn suối rừng lửng lơ như từng giải lụa vắt dọc theo sườn đá đổ xuống những khối thạch dưới đáy thung lủng. Bọt nước long lanh rây như kim cương đọng trên khối lá bóng mướt của những cụm mai rừng quanh đó. Nghiêng nghiêng theo sườn từng chùm dây leo đong đưa sắc tím, đỏ, vàng. Có khi là nước xanh lơ lơ lều bều đá trắng trong vùng lủng sâu hình lòng chảo. Hình như đó là miệng của những núi lửa đã qua một thời tuổi trẻ cuồng nhiệt nhả lửa. Vẻ oai thống rừng rú quanh đó đã dâng tràn ngập lụt con người. Và đã ám ảnh tôi hoài trong những giấc mộng sau này.
P’Luk một hôm đứng chờ tôi ở chân cầu thang với con roi luôn dính liền nơi tay. Tôi biết thế nào cũng có một ngày P’Luk gặp trắc trở trên đường đi mà về sớm. Tôi chờ, và ngày đó đến. Ông Ka à, có lẽ một trận đòn thật sự đau khi người nhận còn đủ bình tĩnh để gom dồn mọi sức lực của mình ra chống đỡ bằng sự im lặng. Ngậm miệng là khuất phục đầu hàng hay thách thức khinh bỉ… Rắc rối thay là những danh từ, lúc ấy tôi chỉ biết dặn mình hãy lì lợm đừng kêu la khóc lóc. Và tôi thành công, P’Luk chùn tay quất trước đôi mắt mở lớn ứa nước của tôi lúc ngọn roi chạm phải. Ông Bạn bỗng từ đâu áo đến, vừa giựt roi bẻ gẫy vừa cười hiền hòa. Nếu không có nụ cười đó chắc tôi đã giận ông ta lắm. Tôi không ưa những người chứng kiến rồi bất bình can thiệp vào những khổ nạn của tôi. Nhưng nụ cười ngây ngô của một kẻ thất lạc quá khứ dễ thương quá. Nó hóa giải tất cả.
Riêng vẻ sững sờ, thất thế của P’Luk khiến tôi tội bà. Tôi háo thắng nhưng tôi ghét những tia hào quang hắt ra từ cái gọi là sự chiến thắng. Nên lấy đất nhớp, bùn thô che mờ cái ánh vàng bẩn thỉu ấy đi, cũng như những người lính thường bôi đen những mảng kim khí tượng trưng cấp bậc đó, ông Ka. Bà P’Luk quay lưng lại bỏ đi, tay buông thỏng, mỏi rả vì quất tôi và hồn bà ngó bộ cũng mỏi mệt sau khi điểm mặt Ông Bạn của tôi: “Cút ngay! Cút ngay trước khi ông chủ về. Ðồ phản trắc!”.
Ðêm hôm đó, ông ta bỏ đi thật. Ðứng trên lầu thấy ông ta lui hui nơi chuồng thỏ, tôi biết ông ta giả từ chúng nó. Ðó đâu phải là giờ ăn. Tôi quờ quạng xuống cầu thang tối ám, mắt nhức nhối và tôi lúc ấy cứ nghĩ mình sẽ mù, sẽ mù. Ông Bạn già của tôi vỗ đầu tôi: “Tôi phải đi, em à, tôi phải đi”. Tôi níu chặt bàn tay nóng ấm ấy: “Cho tôi đi theo ông”. Hai con thỏ thì không biết nói nhưng tôi biết chúng sẽ chết nếu ở lại trơ trấc không có chúng tôi. Chiếc áo khoát dầy cộm của ông ta có bốn cái túi to nên thỏ vợ nằm trong túi dưới, bên phải, thỏ chồng bên trái. Trời ơi, tỷ như tôi cũng bé nhỏ tựa chuột nhắt để Ông Bạn bỏ gọn vào túi áo trên thì hay biết mấy. Ðằng này tôi cứ láng nháng làm mất thì giờ của ông ta.
Chúng tôi có súng, có giầy cổ cao, có quần áo ấm khi ra đi. Nhưng càng tiến sâu vào những nẻo tắt quanh co, gai góc càng khô càng cào xướt chúng tôi. Mắt tôi sưng to, hẳn là đỏ lắm. Tôi nhìn thấy trong lòng suối hai cái cục đen gắn trên mặt tôi. Sương giá ban đem cắt những phần thịt hở dù Ông Bạn thức từ nửa đêm đổi phiên canh cho tôi ngủ tới lúc tờ mờ. Nhưng mà ông Ka, tôi sung sướng tê ngất trong nỗi nhức nhối, đau xé ấy. Chúng tôi ăn bằng cách nướng trui những con thú chạy lẻ tẻ trong tầm đạn của Ông Bạn và một vài thứ trái quen. Nước suối có chỗ đục, chỗ trong, có chỗ chát đắng mùi lá mục. Tôi mười một tuổi khi tôi có một cuộc đi chơi xa dễ thương tuy đầy cam khổ kinh hoàng với một người đàn ông tuyệt vời. Ông Ka, ông có thấy đó là một hạnh phúc?
Những ngày ấy tôi thấy dài ơi là dài, bây giờ mới tiếc tại sao lại chóng thế. Ngày cuối, trán tôi nóng, tôi trở đau đến nỗi qua suối Ông Bạn phải cõng tôi. Tôi phải làm phiền lụy ông ta quá sức. Càng gần một buôn Thượng càng khó kiếm thịt tươi. Thú phải lãng xa người để sống chớ. Chúng tôi cùng nhịn đói một ngày. Có lẽ vì cái mặt bí xị dễ ghét của tôi mà vợ chồng thỏ bị giết.
Tôi đâu hay chi. Ngủ dậy thấy có thịt tươi, tôi chộp lấy ăn ngấu. Aằn xong tôi khỏe hẳn người ra như dứt hẳn bịnh, như mắt sáng trở lại tới nơi, như ngón chân út không còn toét móng, sưng tấy mủ. Hai cái túi áo vẫn to phồng nhưng mãi đến chiều không nghe tiếng kêu tưởng tụi nó bệnh, sờ vào tôi mới thấy lổn nhổn bên trong đá là đá. Ba xạo như thế, ai dám bảo là điên. Có thể ông ta giả vờ. Có thể ông ta chỉ bị lạc mất trí nhớ, đánh rơi dĩ vãng trong một thời gian ngắn. Nhưng này ông Ka, tại sao người ta không thể chứa cùng một lúc nhiều lớp dĩ vãng. Tại sao khi tìm được cái này người phải tẩy xóa cái kia. Nhưng tôi kinh hoàng thật tình trước cái vẻ dửng dưng xa lạ của một người đã từng sống với mình những ngày như thế.
Vâng, cuối cùng rồi chúng tôi được những người Thượng tiếp đón. Sau bữa cơm vắt, thịt khô, tôi mệt lả nên ngủ vùi. Và tôi thức dậy trong cảnh tượng vui vẻ náo nhiệt của một phòng tạm giam. Chiếc áo da nai của tôi được một thằng nhãi con loắt choắt độ 5, 6 tuổi nhưng mặt mày già khằn nhưng đã năm sáu chục tuổi đoạt. Nó hút lén một điếu thuốc moi từ cạp quần rồi cười hì hì với tôi, xưng hô mày tao ngọt xớt như quen nhau từ thuở nào: “Thằng khứa bế mày vào đây bị mang đi nhà thương rồi. Còn mày thì người ta bảo mày chẳng có bịnh gì hết. Mày giả bộ”. Bỗng nhiên tôi thấy nó dễ thương và đẹp đẽ trong chiếc áo da nai của tôi. Tôi thì thào: “Cho mày luôn cái áo. Tao không đòi đâu”. Nó cười lớn: “Ðúng là đồ làm bộ. Muốn đòi cũng không được đâu con ơi”. Tôi quay mặt chỗ khác, ứa nước mắt. Nhưng tôi không giận nó nổi. Những người đàn ông, đàn bà chung phòng quay nhìn hai đứa bé nhất là chúng tôi với cặp mắt tò mò chế giễu.
Bấy giờ tôi đã biết nhớ cây cối, nhớ núi rừng, nhớ cỏ lá, nhớ suối khe, đồng thời khám phá ra chúng nó dễ thương là nhờ chúng may mắn chẳng được gắn vào mình những cặp mắt tai quái như thế. Nền xi-măng trong phòng tạm giam thì lạnh nhưng không lạnh bằng cặp mắt của ba tôi lúc đến lãnh tôi về. Tôi chịu đựng sự lạnh nhạt của ông thêm vài tháng nữa cho đến lúc sắp dứt mùa đông đó thì ba quyết định gởi tôi về sống với má để học tiếp ở N. Má tôi, cái người đàn bà lạ lùng mà tôi kể hoài không hết cho ông nghe ấy. Những năm hòa nhập vào cái thế giới kỳ cục của má và bạn hữu của bà, tôi khôn ra, biết thêm những điều không nên biết và ngu đi, phải bớt những điều lẽ ra phải cẩn trọng giữ gìn. Ðó là cái chất RỪNG trong tôi mà ông đã nhận xét. Tôi lì lợm, kỳ quái, điên khùng, lãng mạn, tàn nhẩn, ác độc, ngu xuẩn, mất dạy, du côn… hay chi chi nữa, thì ông cũng không nói chi sai lắm đâu. Ba tôi giải thích thế nào về người mẹ, cố gắng dửng dưng ra sao khi tôi ra đi và má tôi đón nhận tôi vào đời sống của bà bằng lối nào và tôi thích ứng với hoàn cảnh mới được đến đâu… chẳng phải là những điều tôi muốn cà kê cho ông nghe. Nếu rãnh rỗi, tôi sẽ vẽ lại bằng những bệt xám trong cuốn tự điển chưa bao giờ viết mà ông vẫn ngạo tôi hoài bằng cách bao giờ gặp cũng hỏi thăm cô có khởi đầu chưa.
Nhưng đêm nay tôi chỉ muốn kể lại cho ông nghe chút đỉnh về Ông Bạn tàng tàng nọ. À quên, đến đấy ông đã hết tàng, ông ta tìm lại cái trí nhớ đã giả bộ hay thật sự đánh mất gì đó. Ấy là cái đêm P’Luk đưa tôi xuống phố chợ để sáng hôm sau lên máy bay sớm, tình cờ cũng là đêm 24-12. Tôi quả là cô Mán xuống thành. Mọi thứ đều quá lạ đối với tôi nhưng không hiểu sao tôi không nghe thích thú. P’Luk thuê một phòng ở B.L… cái khách sạn thuộc khu chợ cũ nhưng gần chợ Mới hơn đó ông. Bà cũng không cho tôi đi lạng quạng mà buộc phải ngủ sớm để mai đi nhưng tôi không thể không hiếu kỳ và bực tức đứng ngoài balcon ngắm đỡ buồn những đoàn xe rước lễ xuất phát từ ngôi nhà thờ trên ngọn đồi gần đó băng ngang bến xe GMC rồi diễn qua phố chính. Những cô nhỏ trạc tuổi tôi mặc áo trắng toát phủ chân, thắt lưng xanh sợi mỏng, đeo cảnh giả bằng bông gòn, mỗi đứa cầm một cành huệ trắng đi nối đuôi nhau dưới sự coi sóc của mấy ông cha mặc áo đen ngòm. Tôi bắt gặp một vài con nhỏ nháy nhó tự hãnh với những người thân quen của chúng trong những người đi xem lễ. Lúc đó tôi chỉ muốn liệng một cục đá cho bỏ ghét.
Rồi tôi thấy ông ta giữa dòng người chen chúc. Tay dắt vợ, tay ôm đứa con trai có vẻ lớn hơn tôi. Tim tôi đập gấp, mừng rỡ. Tôi nhảy từng hai bậc tam cấp, vui thú trước cái vẻ sững sờ trở tay không kịp của P’Luk. Lúc đó tôi chỉ có ý định khoe với ông ta mai tôi về với má. Nói một câu như vậy thôi mà. Tôi khó nhọc chui lách qua những kẻ hở hiếm hoi của nhiều người, nhóng mắt nhìn theo cái áo màu vàng mơ của ông ta. Cho đến lúc tôi vươn tay chộp được túi quần ông ta. Cái cảm giác bấy giờ như có lửa ngoài da và tủy xương đong băng trong cuộc sống khi người bạn cũ hất tay tôi, la giận: “Cái con bé này, ăn cắp cái gì thế”. Tôi ngước mắt nhìn ông, kêu lên: “Em đây mà! Nhụy đây mà!”. Người vợ cất tiếng, cái âm chầm chậm, lười lĩnh như con mèo: “Phải giao nó cho cảnh sát, mình ạ. Tội lỗi quá, cái bọn này cứ lợi dụng những đêm thánh lễ đông đúc như vầy để làm ăn”. Mặc kệ bà ta, tôi lặp lại: “Em đây mà! Nhụy đây mà!”. Nhưng ta vẫn trơ trơ, trố mắt kinh ngạc, giọng điệu êm ái hơn: “Chắc em lầm, em nhỏ!”.
Làm sao tôi có thể lầm. Cái tiếng Bắc thầm thầm. Cái miệng mỏng dẹt môi trên một cách kỳ cục. Ðôi mắt nhỏ thanh dài sắc. Cái mũi hếch cao ngạo mạn. Dầu mớ râu lam nham đã dọn sạch. Tôi hức lên trong lồng ngực một nỗi ấm ức ngộp thở. Rồi, có lẽ để thở được, một cách không ngờ, tôi chộp lấy cánh tay ông ta ngoạm cứng, cắn sâu rồi chui lút vào mớ người trôi một cách khó nhọc như đã khó nhọc tìm ra. Thoát khỏi đám đông tôi lẩn thẩn lang thang không chủ đích theo tôi những bước chân lạ huơ hoắc của bao người lạ để rồi lạc đến một nhà thờ tin lành. Một vị – có lẽ là mục sư – người ngoại quốc bận bộ đồ đỏ viền lông trắng đeo gùi tre đầy nhóc bánh mì giả vờ làm ông già Noel đứng phát bánh và chuối cho những người nghèo khổ đứng xếp dài hàng một ở cái xóm tôn sau lưng chùa Bồ Ðề, gần suối Bo Bo. Tôi đứng lẫn vào trong những đứa trẻ Thượng lẫn Kinh dơ dáy hôi hám trong những hình thù bụng phình, lưng cong, cẳng khoành buồn bã, phơi nửa hoặc toàn thân trong gió khuya. Có cả những người lớn chậm rãi từ từ nhích lên, nhích lên rồi chìa tay ra, dửng dưng, lạnh lùng như những cái bóng lao đao của một thế giới khác. Ðến lượt tôi xòe tay ra, nhận phần của mình, tôi hỏi người ngoại quốc: “Ông già! Ông có thật không?”. Hắn trỏ trên cao, nói trọ trẹ:”Kia kìa, ở xa, xa lắm lắm!”.
Xa lắm! Xa ghê lắm! Tôi nhủ thầm như thế trong những lối đi lẩn quẩn lầm lạc. Trong đêm ấy, một đôi lần tôi trở lại một chỗ mà tôi đã bước qua trước đó vài phút. Trời thì lạnh, sao thì đầy như những đêm mở mắt ra thấy Ông Bạn ngồi dễ thương chống cằm bê đống lửa. Nhưng thay vì cây cối rừng rậm vây quanh thì lại là những người, từng đàn, từng chùm. Mười một tuổi, tôi đã biết thế nào là trạng thái tâm thần ngao ngán.
Rồi tôi cũng tìm ra lối dắt về khách sạn B.L. P’Luk mở cửa, vuốt đôi má lạnh lẻo của tôi rồi dắt vào. Bà mở ra những gói bánh. Tôi vất từ túi áo ra những bánh mì và chuối. Chúng tôi cùng ngồi trên giường, chậm rãi ăn, ngó nhau, một cách vô thức. Hình như lúc bấy giờ bên ngoài là nửa đêm. Chuông kéo nhiều. Ồn ào. Ðường phố bên dưới còn lao xao. Những người mê muội.
Phải không ông Ka, họ mê muội quá sức. Còn tôi ấy à. Ðâu có ai ngủ vùi lấp khuất trong cơn mê lại nhận thức rằng mình đang. Hệt những người say rượu. Họ chỉ thấy những người khác. Ðôi khi lại chỉ trỏ người ta cười vì những vết lọ mà chẳng bao giờ họ ngờ chính mình đang mang trên mặt. Ô hay, có phải tôi muốn ám chỉ mình! Dầu sao thì tôi cũng đã đôi lần được soi cái nhân dạng tức cười của mình vào trong hai cái tròng đen nhỏ xíu của ông. Hai cái ao hồ bình thản lạnh bạc như tấm gương vô tình hắt trả lại một ảo ảnh tôi với đầy đủ các vết lấm nằm trên da mỏng, chơ vơ!
Lại một đêm ngủ nhờ nhà bạn học bài. Tôi ngửa mặt nhìn bầu trời lan man những bệt sao đục, buồn bã nhận ra nó giống như ao mắt đen dửng dưng của ông trong vị thế dốc ngược sau khi được khuếch tán cực đại, soi vào đấy, tôi và một nỗi ngao ngán mới. Nỗi ngao ngán của một con nhỏ 21 tuổi và một con nhỏ 11 tuổi vẫn không khác nhau mấy tí. Ông đã chẳng bảo tôi chỉ là một cô gái nhỏ, mười-sáu-tuổi-ở-một-phương-diện-nào-đó, hay sao? (Những phương diện còn lại, tôi 72 tuổi, tôi 4 tuổi, tôi 36 tuổi và tôi 8 tuổi, chẳng hạn, phải không?).
Ông Ka, sợi khói thuốc (Président) vướng vào mắt, người ta có thể khóc, một hạt cát lẫn vào mắt, người ta có thể mù, nhưng ai lại ném đá một cách sát nhân như thế vào mắt mũi miệng ruột gan của một niềm tin còn sót lại. Sung sướng thay con trai dưới lòng bể ngậm cát cứa thịt mềm nhả máu thành ngọc huyền. Thành phố này phải chăng như cái vỏ cứng vằng vôi giam khít viên ngọc trai ta trong bụng bể tối. Noel, Trung thu, Nguyên đán, Ðoan ngọ, Vu lan… những cái tên gọi đẹp đẽ chỉ có công dụng tô đậm thêm nỗi nhức nhối của những kẻ tử đày ải, tha phương.
Ông Ka, Giáng sinh năm nay ông sẽ có mặt nơi đâu? Một khiêu vũ trường xa lạ hay một cái “bum” thân mật của bạn bè. Hoặc một quán trọ xa, một tiệm ăn lạ. Hoặc trên cái xe lam nham lở nhở nước sơn một cách ngộ nghĩnh như con bọ rùa, ngược xuôi Q.T-Ð.N. qua những đụn cát buồn thiu hay đèo cao mấy vướng với áo giáp, súng dài, nón sắt bên cạnh sẵn sàng lăn quay xuống ruộng bùn lúp xúp ven lộ trình tẻ nhat đó. Hoặc ông ngồi trong căn phòng như cái hòm dựng đứng của ông. Màu vàng dễ ghét của cát và sáp lệt bệt khắp nơi: Hộp kẹo, kệ sách, cây viết, chụp đèn, nến xoắn… Nến sẽ được thắp lên cùng với nhạc trỗi và phòng bên cánh một lớp kính những chậu xương rồng nở hoa trắng xóa…
Và những quân cờ màu ngà xoa lách tách trên chiếc bàn vuông nhắc nhở rằng ván cờ đã hết. Gió đông và gió tây cuốn những văn, vạn, sách nằm ngoan trong ô kéo. Rồi những tháng, những năm lế tiếp, khi ông đã bỏ đi, mọi thứ sẽ được bàn giao cho người mới hay sẽ được xua đuổi, luân lạc, phân tán về một chỗ nào. Rõ ràng cái áo màu vàng đất của cô nàng đứng trong bức tranh Thu Vàng trước mặt ông chẳng còn là sắc vàng kiêu sa của tuổi trẻ thanh thản mà lại là một tuổi trẻ đậm sệt ngao ngán của những nỗi mong cầu bị dẫm vỡ.
Ông Ka, ở cái vị thế mang hố mắt dốc ngược thành bầu trời kia, có lẽ ông sẽ thấy được mọi sự, từ những những cánh đồng trùng điệp hoa vàng ở Tây Nguyên, những khe hốc mà chúng tôi đã lếch thếch đi vào trú trong những ngày hạnh phúc nhọc nhằn xưa kia mà ngày nay đã bị cày xới bởi những bánh sắt… đến những khu phố chợ đông đúc ồn ào, nơi có những cửa hàng mà vợ ông đang coi sóc. Có lẽ ông cũng thấy được hình ảnh của người vợ đẹp lạnh với chiếc cằm vuông của ông đứng tần ngần trước những màu áo sẽ chọn cho buổi dạ vũ đêm Giáng Sinh, cậu con trai đầu của ông đang tỉa bớt chút tóc dài trước khi theo nàng ra mắt bố mẹ nàng trong đêm nay và cô gái út của ông, cái cô nhỏ láu lỉnh thích túm tóc lại phía trên một cách ngộ nghĩnh đang đứng trên ghế vuông, xoay ngắm mình trước tấm gương, tay nâng chiếc váy màu vàng rực rỡ…
Nhưng làm sao ông có thể thấy được tôi, ở một chỗ không phải trời không phải đất, đang thắp lên trong tâm tưởng một dĩa đèn đã kiệt dầu (như tim kiệt máu, người kiệt niềm tin). Và làm sao ông thấy được trong cái ánh nến vàng đỏ chập chờn sau khung kính mù mờ kia cái khuôn mặt lách tách rời rã như một thứ đá vỡ của chính ông.
Vâng, ông Ka! Dù cái gang tấc ngắn ngủi chỉ có một con đường giữa hai ta nhưng rồi cũng như Ông Bạn nọ, dịp nào đâu, ta còn nhận ra nhau trong cuộc đời biến thiên không ngưng nghỉ này, khi những cái cớ đã không còn là cớ. Phải đó, ông Ka, những bức vẽ, tờ thư, xương lá, kẹo hồng, đèn lồng, nến xoắn và cái màu vàng quên lãng nhức ê mắt môi kia chẳng là cái quái quỷ gì nếu thật sự chúng ta không còn muốn nhận ra nhau nữa, trong thành-phố-vỏ-sò này.

NGUYỄN THỊ MINH NGỌC

CẠN DUYÊN

NGUYỄN THỊ MINH NGỌC

file9281319987969

Chưa tới ngày giỗ đầu của cha tôi mà bốn chị em tôi đều có bốn người đàn ông chân thành muốn tiến tới hôn nhân…
Chẳng ai mai, ai mối mà tự nhiên thành… Ai cũng nghi là do vong linh cha tôi phù hộ… Qua giọng điệu trao đổi, tôi có cảm giác là họ nội thoáng một chút gì không vui lắm. Dĩ nhiên, nếu do chính tay họ se được bốn mối duyên lành này thì họ sẽ thích hơn nhiều.

Cứ như là trúng số, một người bạn cũ của chị Sáu ở Na Uy viết thư giới thiệu anh Lễ đến nhà tôi để nhờ chị tôi đưa đi tham quan một số cảnh đẹp của thành phố… Vẫn xe đạp cọc cạch như tự bao giờ, chị Sáu mượn thêm một chiếc xe đạp nữa của thằng Cu Nhí trong xóm để hai anh chị dong chơi qua các phố phường. Khi đã hơi thân, anh Lễ ngỏ ý nhờ chị Sáu tôi kiếm vợ giúp… Chị Sáu đưa anh đi gặp một số các cô gái trẻ trung hơn, bạo dạn hơn, xinh xắn hơn nhưng không ngờ cái vẻ ni cô của chị Sáu lại thu hút anh. Trước khi về nước, anh xin phép được tặng chị một chiếc xe Dream nhưng chị cương quyết từ chối. Chị vốn sợ tốc độ. Anh đề nghị làm lễ đính hôn và hẹn lượt qua sau làm đám cưới, chị cũng không cần. Chị muốn mai mốt cưới hỏi luôn một lượt. Lý do hết sức đơn giản là để bảo vệ tuổi thọ cho má tôi, rút kinh nghiệm từ cái chết của cha tôi sau lượt bốn chàng rể không thành.
Cũng với lý do đó, chị Năm nói với anh Khiết, út Mười nói với Minh và, tôi nói với Quân rằng ít ra cũng đợi mãn tang cha tôi và tổ chức sống chung trong tương lai hết sức đàng hoàng rồi mới cho má biết Tiếp tục đọc

Trăng huyết

Nguyễn Thị Minh Ngọc

Steven Sandner, Red Moon Rising

Steven Sandner, Red Moon Rising

Biển ngợp ngụa trong màu đỏ của trăng. Tôi ngợp ngụa trong cái thứ nước mặn tanh đó. Ðêm lặng gió, sóng nhỏ, những cù lao đen đũi ngoài kia khiêu khích. “Lúc nào buồn em sẽ bơi ra đó bứt một nhúm rong mơ rồi quàng lên cổ bơi về”. Tôi thường nói câu đó với Huyên nhưng chưa bao giờ tôi thực hiện cả. Bởi mọi sự với tôi chưa có gì trầm trọng để gọi là buồn. Sự lỳ lợm đã như một món quà Huyên tặng riêng tôi trong những ngày sinh nhật vào mùa trăng huyết tháng tám. Huyên có cái lối trui luyện em gái như tập tục của một giống dân da đỏ ở vùng hàn đới, nhúng đứa trẻ sơ sinh vào nước suối, và lớn lên một chút, xô nó xuống dòng sông cá sấu, nếu nó chịu được lạnh và cá sấu không ăn được thì coi như trời đã nhận. Tôi sẽ không cãi nếu có ai bảo Huyên không biết thương em. cãi làm gì. Nói ra chẳng ai hiểu đâu. Mà cũng chẳng cần ai hiểu.

Huyên hơn tôi gần mười tuổi nên khi chơi với Huyên, tôi có cái dáng lúc thúc của một con gà con. Ðúng hơn là con gà què. Một chuyến lên núi Tà Cú nhân dịp Trung Thu, cái bánh xe đạp sau quấn nghiền bàn chân tôi, Huyên cõng tôi vào bỏ trong bụng ông Phật nằm, dài 49 thước, để đi kiếm thuốc. Trăng đêm đó cũng là trăng huyết. Hơi trăng hắt sáng qua khe mắt Phật rọi trên gót chân bầm tím của tôi lạnh như ai rắc băng trong tủy. Sau này tôi đi hơi cà nhót. Sao chẳng lúc nào tôi tỏ ý – dù ý thầm – oán giận Huyên. Nhà chúng tôi ở gần một cái đầm nước mặn, dưới chân một đồi cát, kề một nghĩa trang. Bên kia đầm là một vườn rau xanh ngắt ẩn dưới bóng cau rợp lá loáng thoáng thấy được bóng người. Một chỗ nửa chợ nửa quê. Bọc ngoài đồi cát đầy dứa dại táo gai là biển, nơi cung cấp những trò chơi không chán. Ngay trong nhà chúng tôi cũng đã có nhiều thứ để giải trí rồi. Con mèo chột là của Huyên. Con heo vá đen là của tôi. Con nhồng kêu được tiếng người là của Huyên. Ðàn vịt có bệt sơn xanh đánh dấu trên lưng là của tôi. Chúng tôi còn chia nhau nhiều thứ. Cây đu đủ đực, giàn bầu, cụm hoa tường, chậu xương rồng hoa trắng muốt… Có một cái mà chúng tôi không thể chia. Ðó là má. Cũng chẳng biết được má thương đứa nào nhiều hơn. Ðôi lúc thấy Huyên “hành hạ” tôi quá, như là má cũng xót xa, nhưng ít khi nghe bà la anh về việc đó.

Mà mọi sự, rõ ràng còn là sự tự nguyện của tôi, Huyên đâu có ép. Tôi hân hoan được sai khiến hướng dẫn trong mọi trò của Huyên. Ðóng một cái nhà cho con heo sắp đẻ. Dựng thêm giàn cây. Ði quơ cây khô trên đồi về nhà chụp lửa. Khi tôi đang tuổi lớn, Huyên đi học xa. Nên trong một năm đối với tôi mùa hè là mùa thần tiên nhất. Có những chuyến phiêu lưu xa hơn giang san chúng tôi đang ở. Ðến rừng dương lăn trên những nệm đá xanh óng ánh trên triền suối chảy ở Ðá Ông Ðịa. Leo tận đồi mai rừng quanh đồi Lầu Ông Hoàng. Chân vẹo xiêu lẻo đẻo theo anh khắp nẻo. Kỳ diệu nhất là đi trên nước biển. Thuở mới tập bơi, tôi đau đớn lùng bùng với cái chân xiêu vẹo. Cuối cùng, Huyên phải rứt tay tôi bám, xô mạnh. Cứ ngỡ chìm mất mình thì Huyên nắm cổ kéo lên Tiếp tục đọc