Công Chúa và Kẻ Bán Than

Ngự Bình, cô “công chúa” duy nhất trong nhà, sinh ở Huế sau trận lụt năm Ất Mùi (1955).  Ngày đó, mẹ và bốn thằng con trai – anh Quang, tôi, Sang, và Triết – ở trong xóm Cửa Nhà Đồ cùng với thím Lam và chị ở.  Thím là vợ mới cưới của chú Lam em họ cha; cha và chú phục vụ trong quân đội và đóng đồn xa.

Suốt hai tuần cuối tháng Chín, bầu trời xám xịt, mây thấp, và những cơn mưa như trút nước đổ ập xuống.  Nước sông Hương đục ngầu chảy cuồn cuộn, và mực nước mỗi ngày một dâng cao.  Buổi chiều hôm ấy, nước sông xăm xắp tới mặt đường; mẹ, thím Lam, và chị ở ra sức đưa đồ đạc trong nhà lên cao.  Quá nửa đêm, tôi bị đánh thức và mơ màng nhìn quanh thấy nước dâng lên gần tới mặt tấm phản tôi nằm ngủ với anh Quang và Sang, guốc dép và đồ vật nổi lều bều trong nhà, và một chiếc nôốc (ghe nhỏ có mui) áp mũi vào sát phản.  Mẹ ra lệnh cho chị ở,

            “Mi đưa mấy đứa đi với hai bác Hoát tránh lụt, đợi nước rút mới về!”  Bác Hoát hàng xóm cạnh nhà tôi là công chức sở lục lộ hồi hưu.

            “Răng thím với chị Lam không đi?” chị ở hỏi lại.

            “Tau với thím nớ còn nhà cửa đồ đạc phải coi, đi răng được?”

Đứng dưới sàn nhà, nước ngập ngang bụng, thím Lam bưng chiếc đèn dầu soi đường cho mẹ ẵm Triết trao cho mụ Hoát rồi giục giã,

“Đi mau lên kẻo Mệ nuốt chừ!”  Mẹ nói “Mệ” để kiêng tên Hà bá là thần làm chủ sông.

            “Mẹ không đi thì con ở nhà phụ mẹ,” anh Quang hiểu ra và phản đối.

            “Con là chim đầu đàn phải đi mà lo cho em.  Vài ngày thôi con à!” mẹ năn nỉ anh tôi.

Chiếc nôốc chèo đi trong bóng đêm, tôi ngủ thiếp đi.  Khi tôi tỉnh dậy thì trời đã sáng và nôốc đã đậu lại.  Nước lặng.  Biển nước màu vàng đất che phủ mọi vật, chỉ chừa lại đọt (ngọn) cây và mái nhà.  Tôi gọi với hỏi ông Hoát,

“Đây là chỗ ?  Mình làm chi ở đây ôông ơi?”

“Vườn nhà ông Bính; mình đậu nôốc chờ nước rút.”  Nhà ông Bính là một dinh cơ rộng lớn gần cầu Bạch Hổ, cách nhà tôi không tới nửa cây số.

Suốt đêm trằn trọc, anh Quang bồn chồn lo lắng nhưng cố trấn tĩnh dạy tôi và Sang lấy que tre làm cần câu cá, nhưng chỉ được một lát là hai đứa tôi chán, bỏ cần câu qua một bên, và thò tay xuống nước vọc chơi.  Nhưng làm gì thì làm, thằng Bé (tên ở nhà của tôi) bảy tuổi nhớ mẹ quá chừng!  Nước dâng lên thêm một ngày nữa là tới đỉnh và sáng hôm sau từ từ rút xuống.  Trời mưa xối xả khi chúng tôi về đến nhà; ông Hoát nói,

“Mưa xối bùn, hết lụt rồi.  Mấy đứa bây phải cám ơn Trời Phật đã phù hộ cho mẹ và thím bây được bằng an.”

Quanh nhà bùn đất và cành cây nằm la liệt, và bên trong bàn ghế tủ giường lấm bùn nghiêng ngã chỏng chơ.  Mẹ huy động chị ở, anh Quang, và cả thằng Bé quét dọn bùn và phơi phóng vật dụng.  Ở phòng trong phía sau nhà, mẹ và thím Lam lấy các xấp giấy bạc 100 đồng in hình Quốc trưởng Bảo Đại bị thấm nước trong cái rương lớn ra, trải từng tờ trên nia để hong khô, và dùng bàn ủi than ủi phẳng trước khi bó thành xấp như trước.  Thì ra, mẹ và thím Lam ở nhà để bảo vệ tiền bạc của cải trong nhà.

Mẹ kể đêm, sang đêm thứ ba của cơn lụt, Trời Phật đáp ứng lời cầu khẩn của mẹ và thím Lam: Nước dâng tới rầm thượng dưới mái nhà thì ngừng lại.  Mẹ vui mừng nói với thím,

            “Chị em mình có mang mà dầm nước lụt thì đẻ con gái.”

            “Thiệt không?  Răng chị biết?” thím bẽn lẽn hỏi lại.

            “Ông bà mình nói rứa!  Thím có mang con so lại càng ứng nghiệm.”

Quả nhiên, đầu năm 1956 thím Lam sinh con gái đầu lòng đặt tên là Hương.  Một tháng sau, Ngự Bình của mẹ ra đời.  Hai cô em tôi mang tên sông Hương và núi Ngự Bình, hai thắng cảnh vẽ nên phong cảnh hữu tình của cố đô.

* * *

Ngày ở Huế, tôi thường bị giao cho công tác chự (giữ) em vì mẹ nói, “Thằng Bé cẩn thận, chịu khó, và chiều em hơn thằng anh hắn.”  Năm Bình lên ba lên bốn, tôi vừa trông em vừa chơi với Hương, thằng bạn thân ở gần nhà.  Nó học cùng trường và ngang lớp, nhưng không cùng lớp, với tôi và cũng mê đọc truyện như tôi.

Vì thói mê truyện, tôi tự học cách đóng lại sách cũ bằng cách cắt giấy cứng làm bìa, dùng đinh đục lỗ, và lấy kềm cắt dây kẽm làm kim đóng sách.  Bà con họ hàng ai có sách cũ đều đem cho tôi, thay vì liệng bỏ.  Những cuốn sách đó thường mất cả bìa trước, bìa sau, và trang tựa đề.  Tôi ra công chế biến thành cuốn sách tươm tất và cất giữ trong cái thư viện tí hon gồm truyện Tàu, võ hiệp, trinh thám, phiêu lưu mạo hiểm, và tình cảm xã hội.  Kho truyện của tôi thay đổi hằng ngày vì tôi đem truyện đi đổi với của mấy đứa khác, và nhờ đó đọc được nhiều truyện đã xuất bản mặc dù không có tiền mua.

Ngoài giờ học, tôi và Hương đi đổi truyện và mang theo Bình.  Khi phải đi bộ xa, ban đầu Hương ôm sách, tôi cõng em trên lưng, và em thích chí cười nói bi bô.  Một lát sau tôi mỏi vai thì đổi phiên:  Tôi ôm sách, nó cõng Bình, và em cũng vui vẻ bằng lòng.  Các bạn đổi truyện thường nghĩ chúng tôi là ba anh em, và nhờ em xinh xắn dễ thương mà đôi khi hai thằng được nhường cho phần hơn trong cuộc thương lượng đổi chác.

Mười mấy năm sau, cha mẹ gửi Bình từ Nha Trang vào Sài gòn học trường nữ trung học Gia Long và ở với tôi trong nhà cư xá Bắc Hải.  Lúc đó tôi đã tốt nghiệp kỹ sư điện và đi dạy, và Hương đã tốt nghiệp kỹ sư canh nông trường Cao đẳng Nông Lâm Súc.  Ngày học đại học, nó học giỏi và được một ông bạn ba nó đang làm lớn trong bộ Canh nông ngắm nghé gả con gái.  Ra trường nó làm đám cưới, và tôi đóng bộ làm phù rể.  Tiệc cưới linh đình tổ chức ở nhà hàng Bát Đạt trên đường Đồng Khánh trong Chợ Lớn, tôi và Bình – bấy giờ là một nữ sinh lớp 11– được mời lên sân khấu chụp hình với gia đình cô dâu chú rể, và chú rể thuật lại chuyện cõng em đi đổi truyện cho quan khách nghe.

* * *

Cha mẹ ở Nha Trang, Sang đi lính, Triết đi du học, và trong nhà cư xá Bắc Hải chỉ có tôi và Bình và chú Hạ tài xế kiêm đầu bếp nấu ăn.  Ban ngày Bình đi học và tôi đi làm, buổi tối hai anh em thường đi chơi với nhau.  Ngồi ở yên sau chiếc Honda, em theo tôi tới nhà bạn hay đi ăn nhậu và kiên nhẫn ngồi nghe bọn người lớn (hơn) tán gẫu chuyện trên trời dưới đất không mấy liên quan đến em.  Tuy nhiên, ở nhà, cô nữ sinh Gia Long nói năng nhỏ nhẻ là chủ nhà thực sự.  Em nắm giữ việc chi tiêu và sai sử chú Hạ lái xe hơi đưa đón em đi học, chở em đi mua sắm, hay đưa em đi giao dịch cho mẹ.  Em lo hết công chuyện kinh doanh của mẹ ở Sài gòn.  Càng ngày, tôi và em càng gần nhau và có lối suy nghĩ tương tự như nhau.

Cuối năm học lớp 12, Bình thi Tú tài, kỳ thi quan trọng đầu đời của em được cho theo lối trắc nghiệm.  Lối thi này được thực hiện lần đầu tiên ở Việt nam và bị báo chí gọi mỉa là “Tú tài IBM” vì, ngoại trừ bài luận, các bài thi đều được chấm bằng máy điện toán của hãng IBM (International Business Machines Company).  Kỳ đầu được tổ chức vào ngày 26 và 27, thứ Tư và thứ Năm cuối cùng của tháng Sáu năm 1974.  Bình thi ở hội đồng Gia Long, trường của em.  Hai tuần sau có kết quả, em đậu Bình.

Bình học ban C (Văn chương và Sinh ngữ) nên nghề nghiệp tương lai khá giới hạn:  học xong đại học hầu như chỉ đi dạy học.  Tháng Tám em nộp đơn xin thi vào ban Anh văn (ngoại ngữ chính của em) của Đại học Giáo dục thuộc viện Đại học Bách Khoa Thủ Đức mà tiền thân là ban Cao đẳng Sư phạm Kỹ thuật.  Ban này được thành lập từ năm 1962, trực thuộc nha Kỹ thuật Học vụ, không chính thức là trường cao đẳng như trường Cao đẳng Điện học của tôi, và lúc đầu  mỗi năm chỉ nhận mười sinh viên.  Năm 1972, ban được phát triển thành Trung tâm Giáo dục Kỹ thuật Nguyễn Trường Tộ với trường sở ở Thủ Đức.  Năm 1974, trung tâm trở thành Đại học Giáo dục của viện Đại học Bách khoa Thủ Đức, cùng với Đại học Kỹ thuật trong đó trường Điện là một “Ngành” (ban).

Bình đậu vào Đại học Giáo dục, thành giáo sinh ban Anh văn, và hãnh diện làm bạn đồng môn Bách khoa Thủ Đức với ông anh:  Tôi nhập môn trước “tiểu sư muội” chín năm.  Hằng ngày em dậy sớm nhờ Trọng em út lấy xe Honda PC đưa ra trước rạp hát Long Vân gần bùng binh Ngã Bảy Sài gòn đón xe lô đi học.  Xe chạy dọc theo đường Phan Thanh Giản ra xa lộ Sài gòn – Biên Hòa khoảng mười cây số tới Thủ Đức và ngừng trước cổng trường đại học, em đi băng qua sân trường là tới lớp.

Mới hôm nào là một em bé kháu khỉnh tôi cõng đi chơi, Bình trở thành một thiếu nữ mười tám mỹ miều với mái tóc dài xõa ngang lưng, chiếc mũi dọc dừa, và nụ cười duyên dáng không biết từ lúc nào.  Tôi chợt nhớ ra hơn một năm qua em không còn thủ thỉ tâm sự chuyện học hành hay bạn bè ở trường với tôi, và thỉnh thoảng tôi bắt gặp nụ cười ngượng ngập của vài chàng sinh viên đến nhà chơi và lễ phép đứng dậy chào khi tôi tình cờ đi qua phòng khách.  Đặc biệt, bạn tôi là Hòa hình như cũng đang si tình em, nhưng không dám hé môi.

Hòa người Phú Yên là em một người bạn học đệ nhất (lớp 12) cùng với tôi ở Ban Mê Thuột.  Thân hình cao lớn chắc chắn và mặt sạm nắng, Hòa đỗ bằng Cử nhân Vật lý ở Đại học Khoa học Sài gòn và sau khi tốt nghiệp, được nhận làm giảng nghiệm viên phòng Vật lý của Đại học Minh Đức cùng với tôi.  Chàng kính trọng và nghe lời tôi, và tôi yêu mến tính tình chất phác của chàng được biểu hiện trong giọng “Nẫu” Phú Yên cao và trong cất lên ở cuối câu nghe thật thân thiết và gần gũi.  Qua niên khóa thứ hai, Hòa mất việc, nhưng chúng tôi gặp nhau thường xuyên ở lớp cao học điện tử của Đại học Khoa học.  Biết chàng nhà nghèo, vào Sài gòn trọ học mà dạy kèm tư gia không đủ sống, tôi nhường cho chàng giờ dạy ở trường trung học tư.  Hằng tuần tôi ghé lại nhà trọ, mời chàng đi uống cà-phê hay đi ăn nhậu, và nếu về khuya, rủ ngủ lại nhà tôi.

Sau ngày mất nước năm 1975, tôi và Hòa biệt tin nhau gần 15 năm.  Năm 1990, gia đình chàng được bảo lãnh sang định cư ở nam California.  Chàng sống hòa thuận với vợ là Dung người cùng quê và thuộc gia đình giàu có.  Chàng rất “nể” Dung, không bao giờ dám cãi lời vợ.  Khi tôi đi du lịch hay công tác ở nam California, vợ chồng Hòa mời tôi ở lại nhà và tiếp đãi tử tế.  Chàng hỏi tôi số điện thoại Bình và thỉnh thoảng gọi thăm em.  Lúc này, với bằng Cao học Điều dưỡng, em làm giám đốc điều dưỡng cho một hệ thống bệnh viện ở Austin, Texas và có hơn 300 nhân viên dưới quyền, và gia đình sống hạnh phúc.

Trong lần ghé thăm Hòa cuối thập niên 1990, tôi rủ chàng đi dự họp mặt với vài người bạn cựu giảng viên Đại học Minh Đức, một trong những lần hiếm hoi không có Dung đi cùng.  Bị bạn ép uống bia, Hòa hơi quá chén và đâm ra nhiều lời.  Trên đường về, chàng trút tâm sự,

            “Anh biết không, ngày đó tui thương cô Bình hết sức.  Về nhà anh ngủ đêm và được trò chuyện với cổ là những lúc sung sướng nhất đời tui.”

            “Vậy sao?” tôi hỏi vô thưởng vô phạt.

            “Tui suy nghĩ cả năm trời rồi quyết định ôm mối tình câm chớ không cho anh biết,” giọng chàng buồn tênh.

            “Tại sao?” tôi thầm cám ơn chàng đã tránh cho tôi một hoàn cảnh khó xử; tôi biết hồi đó Bình xem chàng thuần túy là bạn thân của ông anh.

            “Tui biết mình thân thế quê mùa nghèo hèn và không xứng đáng với cổ.  Cổ là công chúa; tui là thằng bán than, sao dám ngước mặt vói lên trời?”

Tôi giữ kín nỗi niềm tâm sự của Hòa.  Khốn nỗi, tôi không phải là kẻ duy nhất mà chàng thố lộ tâm tư.  Trong mấy lần tôi trở lại sau đó, Dung hay hỏi tôi những câu xóc óc buộc tôi vào thế phải xác nhận chị thông minh và tài giỏi hơn tôi.  Như thể chị dùng tôi làm bung xung để đua tranh với bóng ma của quá khứ.

Nguyễn Ngọc Hoa

                                                                                          

Download all attachments as a zip file

BẢN LÃNH EM TÔI

Trọng em út sinh sau tôi một con giáp và cầm tinh con chuột như tôi, nhưng có lẽ thông minh hơn tôi . . . một chút.  Ngày nó lên ba, tôi thấy nó cầm cuốn sách học vần của Lâm (anh kế nó, năm tuổi) lật từng trang và đọc rạch ròi.  Tôi rất đỗi ngạc nhiên vì không biết nó học đọc lúc nào.  Hỏi ra mới biết nó xem anh học bài rồi nhớ nằm lòng và theo hình trong sách mà nói lại y chang chứ không hề biết đọc.  Tôi là người duy nhất trong nhà nhận ra tài năng khác thường của nó vì anh em tôi đứa nào cũng cố thu mình trong chiếc vỏ ốc đóng kín và sống riêng một mình để khỏi bị cha để ý tới.  Chúng tôi chỉ có một điểm chung – sợ bị cha đánh đập.

Trong đời, hai lần tôi phục Trọng sát đất vì đã làm chuyện tôi không làm nổi.  Lần đầu, năm em tôi 14 tuổi, khi cha đã về hưu trong tay không còn quyền hành hay tiền bạc, nhưng vẫn hay nổi cơn thịnh nộ bất chợt, thường ra lệnh vô lý, và đối xử với vợ con như thể là quân nhân dưới quyền.  Một buổi chiều tôi đi dạy về, mẹ đứng đón ở cửa và khóc kể Trọng bị cảnh sát bắt giam.

Hồi trưa cha ăn cơm xong, nhưng không đi ngủ trưa như thường ngày mà đi ra đi vào nôn nóng chờ người tới mời đi đánh bạc.  Sau khi chờ hơn một tiếng đồng hồ và biết sòng bạc không thành, cha bày chuyện đóng đinh treo hình trên tường để giết thì giờ.  Chỉ có mẹ và Trọng ở nhà, cha biểu nó lấy đinh và búa trong thùng đồ nghề của tôi và chỉ chỗ cho nó đóng.  Cha không biết, và Trọng không thể biết, là tường nhà đúc bằng bê-tông, muốn đóng đinh phải dùng đinh thép; đinh sắt thường chỉ làm vỡ mặt bê-tông mà không xuyên vào.

Nhà chúng tôi trong cư xá Bắc Hải, trước gọi là cư xá Sĩ quan Chí Hòa, đã được bộ Quốc phòng xây và bán trả góp cho cha.  Dù đó là căn nhà cuối cùng để sống đến hết đời, nhưng mỗi khi thua bạc cần tiền trả nợ, cha dụ ngon dụ ngọt mẹ bán đi rồi “ra ngoài thuê nhà có máy nước nóng ở cho sướng”; dĩ nhiên không đời nào mẹ chịu.  Khi Trọng đóng đinh vào tường, mặt bê-tông vỡ ra, đinh văng xuống sàn nhà, và cha tức giận chửi mắng khiến thằng bé luống cuống làm tường vỡ thêm.  Cha cáu tiết nắm tay lấy hết sức bình sinh cú mạnh vào đầu nó.  Đau thấu xương và trong một phút tức nước vỡ bờ, nó quay lại bặm miệng trợn mắt nhìn cha và giơ cây búa lên cao.  Không nói không rằng.

Mẹ nói cha miệng hùm gan sứa, đột nhiên thấy thái độ nổi loạn của Trọng liền thối lui, hối hả kêu xe ra chi cảnh sát nằm trên đường Hòa Hưng đi vào khám Chí Hòa, và yêu cầu bắt giam nó.  Cảnh sát đến nhà đưa nó về bót “câu lưu.”  Theo lệnh mẹ, tôi đến xin gặp vị đại úy trưởng chi, xuất trình chứng minh thư là giảng viên trường Đại học Kỹ thuật viện Đại học Bách khoa Thủ Đức, và xin lãnh Trọng về.  Ông ta cho biết nó chưa làm gì phạm pháp, cảnh sát chỉ tạm giữ nó để dằn mặt vì vị nể cấp bậc và chức vụ cũ của cha.  Mà dù nó phạm pháp đi nữa thì nó là trẻ vị thành niên, chính cha sẽ là người chịu trách nhiệm.

Tuy vậy, tôi làm đơn xin “bãi nại” nộp cho cảnh sát rồi về nhà giải thích với mẹ.  Mẹ năn nỉ ỉ ôi với cha, nhận lỗi con dại cái mang, và xin cha “tha tội” cho “thằng nhỏ trẻ người non dạ.”  Cha biết không có lối thoát nào khác hơn bèn làm bộ rộng lượng xiêu lòng và biểu tôi chở ra chi cảnh sát ký giấy “bãi nại.”  Trọng được “tha” về, không tỏ vẻ ngán sợ, và được tôi phục lăn.  Tôi không làm được như nó một phần vì sợ cha như sợ cọp và một phần vì những ràng buộc của văn hóa Khổng Mạnh, các bài học luân lý, và câu ca dao,

Công cha như núi Thái sơn,

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

Tôi khám phá ra trong nhiều tháng qua, Trọng không hề đến trường.  Buổi sáng nó dậy sớm lấy xe Honda PC chở chị là Bình ra chỗ đón xe lô lên Thủ Đức học; Bình là giáo sinh ban Anh văn trường Đại học Giáo dục viện Đại học Bách khoa Thủ Đức.  Sau đó, nó tha hồ sử dụng chiếc xe gắn máy, đi đâu cả ngày không ai biết, và chiều ra đón Bình về nhà.  Ngoài ra, một hôm mẹ kéo tôi ra nói riêng nhờ đưa nó đến phòng mạch bác sĩ quen để chữa bệnh phong tình; lúc đó nó 15 tuổi.

* * *

Chiều ngày 28 tháng Tư năm 1975, khi tôi đề nghị cả gia đình theo tàu Hải quân di tản ra khỏi Sài gòn, cha giận dữ bác bỏ và mắng xối xả, “Mi mần [làm] tầm bậy không chết bỏ xác ngoài biển thì cũng tù rục xương!” và cương quyết không đi.  Tôi và các em khóc sụt sùi lạy sống cha mẹ để tạ ơn sinh thành rồi từ biệt.  Chúng tôi đến đảo Guam, sang trại tỵ nạn Trại Pendleton ở nam California, và cuối cùng được bảo trợ về Bismarck, North Dakota.  Ở nhà, trong hai ngày liền, cha tức tối không ngớt chửi rủa tôi đã “đành đoạn bỏ cha bỏ mẹ ra đi.”  Sáng ngày 30, Sài gòn thất thủ, cha mới chịu nghe lời mẹ chạy ra bến tàu, lên thương thuyền Viễn Đông, và sang Hương Cảng tạm trú ở trại tỵ nạn Cửu Long.

Trong những ngày chờ đợi ở Trại Pendleton, tôi ra sức dạy Anh văn cho Lâm và Trọng để chuẩn bị cho hai em vào trường trung học Mỹ.  Hai đứa mê đi chơi hơn ngồi học; Lâm đá banh với bạn, còn Trọng làm gì không biết.  Khi bị tôi la rầy, Lâm biết lỗi im lặng, nhưng Trọng mím môi trả lời, tỏ ra là một thiếu niên có bản lãnh,

            “Anh khỏi lo cho em!  Em sẽ xin vào nhóm unaccompanied minors [trẻ vị thành niên không có người tháp tùng] là yên chuyện!”

Trọng biết tôi sẽ không bao giờ dám để nó tách riêng như thế nên thách thức để tôi xuống nước năn nỉ.  Và tôi năn nỉ nó thật!  Xuất trại ra Bismarck, tôi và Sang em kế có việc đi làm, Bình học trường đại học cộng đồng, và Lâm và Trọng học trung học – đứa lớp 11, đứa lớp 10.  Cha mẹ từ Hương Cảng sang trại tỵ nạn Đồn Chaffee ở Arkansas, và cha một mực muốn đi Texas ở với Triết, em kế Sang sang Hoa kỳ du học từ đầu năm 1972.  May cho Triết, em chưa ra trường, phải nghỉ học làm thợ tiện sinh sống, thuê apartment ở chung với bạn, và không đủ điều kiện bảo trợ cha mẹ.  Cha bấm bụng lên North Dakota nhập chung với anh em tôi, nhưng lòng vẫn oán hận tôi.

Trở lại địa vị chúa tể gia đình, cha xem tôi như kẻ hầu cận để cha sai sử và không bao giờ bỏ lỡ một cơ hội để hạ nhục.  Sáng mồng hai Tết Bính Thìn (1976), cha uống rượu say, đập phá đồ đạc trong nhà, và chửi bới “thằng con bất hiếu bất mục” đã “khinh cha chưởi tổ” và “đội con vợ lên tran mà thờ.”  Tôi và Quỳnh Châu sợ hãi, vội vàng thu dọn áo quần và vật dụng cá nhân, cho vào hai bao rác lớn và cái rổ đựng quần áo giặt, và mang chất lên xe.  Chúng tôi ra đi.

Từ đó, các em tôi kiếm cách ra khỏi nhà vào cơ hội sớm nhất.  Lần lượt, Sang dọn ra ở riêng, Bình đi Austin, Texas học cử nhân điều dưỡng, và Lâm vào nội trú trường đại học, chỉ còn Trọng ở nhà với cha mẹ.   Nó học rất giỏi và tốt nghiệp trung học sớm hơn một lục cá nguyệt.  Rồi giận cha bỏ nhà ra đi.  Tôi không biết chuyện Trọng bỏ đi cho đến khi cha cho gọi đến và biểu báo cáo với sở xã hội là gia đình (“ăn welfare”) của cha không còn có đứa trẻ vị thành niên là Trọng.  Thấy cha chỉ quan tâm về trách nhiệm người lãnh trợ cấp mà không một lời quan hoài đến nó, tôi ngao ngán “dạ dạ” cho xong chuyện mà không báo cáo.

Một năm rưỡi kế tiếp, nhiều người quen của gia đình gặp Trọng lang thang không cửa không nhà ở California, Texas, và Florida với thân tàn ma dại, đói khát, và nghiện ma túy.  Khi cuộc đời xuống tận đáy vực, Trọng tìm đến Bình ở Austin và tỏ ý muốn về North Dakota làm lại cuộc đời.  Là sinh viên nghèo xác xơ, Bình dốc túi tận dụng số tiền tối đa được phép mắc nợ trong thẻ tín dụng để mua vé máy bay cho nó.

Đồng thời ở Bismarck, tôi và ông bảo trợ ra tòa án quận gặp ông chánh án, trình bày hoàn cảnh Trọng, và xin lệnh tòa bắt nó đi cai nghiện.  Máy bay đáp xuống, Trọng vừa bước khỏi cầu thang thì bị hai vị cảnh sát quận áp giải thẳng tới trung tâm cai nghiện.  Trong sáu tuần lễ sống cô lập trong trung tâm, hằng ngày Trọng đi học lớp cai nghiện do các vị cố vấn tâm lý chỉ dạy.  Trong thời gian này, họ đòi hỏi gia đình phải “học” cùng với resident (“người cư trú,” tức là người cai nghiện) một tuần lễ.  Tôi nghỉ làm và đưa mẹ đến dự “tuần lễ gia đình” này.

Trọng được các vị cố vấn tâm lý tin tưởng, nồng nhiệt khen ngợi, và cho đặc ân về nhà ngủ một cuối tuần.  Ngay trong cuối tuần đó, nó đàn đúm với đám bạn giang hồ cũ và chơi ma túy vũ như cẩn.  Thì ra, nó có đủ mánh khóe để qua mặt các vị cố vấn tâm lý.  “Tốt nghiệp” khóa cai nghiện, nó về nhà cha mẹ ở ít lâu rồi ngựa quen đường cũ lại bỏ nhà ra đi.  Trước khi đi, nó lén lấy chi phiếu và giả chữ ký của cha rồi ra ngân hàng rút tiền.  Khi cha khiếu nại, ngân hàng kiểm chứng đoạn phim chụp hình nó nhận tiền tại quầy và đồng ý trả lại tiền cho cha.

Ngân hàng kiện Trọng về tội ăn cắp.  Nó bị bắt giam ở county jail (nhà giam quận) đợi ngày ra tòa.  Mấy đứa bạn giang hồ bèn dàn xếp cho nó vượt ngục; nó dùng drap trải giường nối lại làm dây thừng và chui qua cửa sổ leo từ lầu ba xuống đất.  Chân nó vừa chạm đất thì cảnh sát quận đã chờ sẵn.  Cuộc vượt ngục táo bạo được tờ Bismarck Tribune tường thuật, cùng với hình ảnh, trên trang nhất.

Trọng bị tuyên án sáu tháng tù giam ở penitentiary (nhà lao tiểu bang) North Dakota.  May mắn thay, sáu tháng mất tự do đã hoàn toàn chuyển đổi cuộc đời em tôi.  Mãn hạn tù, nó đi học ở trường Đại học North Dakota (UND) ở Grand Forks, nơi Lâm đang học kỹ sư điện.  Trọng vừa đi học vừa làm đầu bếp cho nhà hàng Tàu và học một lèo lấy luôn hai bằng kỹ sư – một về cơ khí, và một về điện toán – cộng thêm bằng Cao học Cơ khí.  Trong thời gian này, cha mất vì chứng liệt tim, nó về dự đám tang và được mẹ cho món tài sản duy nhất cha để lại là chiếc xe Plymouth Volaré cũ.  Ngày nó lãnh bằng tốt nghiệp, tôi đưa mẹ lên Grand Forks dự lễ.  Mẹ lấy khăn chặm nước mắt cười rạng rỡ.  Đó là lần thứ hai tôi thấy mẹ cười rạng rỡ như thế, lần đầu là ngày mẹ dự lễ tốt nghiệp kỹ sư của tôi.

Trọng đưa mẹ sang Goshen, Indiana làm lễ cưới Kiên Tính, cô bạn học chung trường tiểu học với nó ở Tuy Hòa.  Phía nhà trai chỉ có mẹ và vợ chồng tôi và bé Mạc con đầu lòng.  Sau một lục cá nguyệt dạy lại ở UND, Trọng dời đi Fort Collins, Colorado làm kỹ sư cơ khí cho một công ty chế tạo bộ phận điều chỉnh tốc độ máy phát điện có công suất lớn.  Ngày Kiên Tính sinh con, mẹ về ở với vợ chồng nó để giúp nuôi đứa con đầu lòng, một cô bé xinh xắn.

Con gái thứ nhì của Trọng chào đời ở Orlando, Florida vì nó dời về đây làm kỹ sư điện toán cho một công ty thầu cung cấp cho bộ Quốc phòng rất lớn.  Kiên Tính học nghề uốn tóc và sau vài năm hành nghề, mở tiệm làm chủ và làm ăn phát đạt.  Trọng mua đất hoang ở Chuluota thuộc ngoại ô Orlando, thuê ũi cây cối, phân lô và đặt hệ thống điện nước, bán lại cho bạn bè thân thuộc người Việt, và giữ lại một lô một mẫu Anh để xây căn nhà hơn 5,000 square feet (khoảng 470 mét vuông) cho mình.  Khu nhà Việt nam của nó nằm trên con đường ngắn mang tên “Vina Lane.”

Khi đời sống vượt quá ngưỡng cửa mà người Mỹ gọi là American dream (“giấc mơ người Mỹ”), Trọng nghỉ việc và đi học tiến sĩ cơ khí tại Đại học Trung tâm Florida ở Orlando.  Chương trình PhD của đại học Hoa kỳ đòi hỏi sinh viên phải dành trọn thì giờ cho việc học và phải nghiên cứu tại khuôn viên đại học – cả hai điều đều quá tầm tay của tôi.  Hai năm sau, Trọng trở thành Dr. Nguyễn đầu tiên của dòng họ.  Đó là lần thứ hai tôi phục em tôi.

Lần này, tôi phục Kiên Tính nhiều hơn.  Trong hai năm dài, gánh nặng gia đình con cái trút cả lên vai nàng.

Nguyễn Ngọc Hoa

Đem Tro Chị Về

Hai năm sau ngày được chấp thuận thành ngoại kiều thường trú, tôi và Quỳnh Châu gửi đơn xin nhập tịch tới sở Di trú và Nhập tịch (INS) và trong khi chờ đợi INS xét đơn, ra thư viện mượn sách chỉ dẫn và sửa soạn “thi quốc tịch.”  Ba tháng sau, INS gửi thư báo tin sẽ gửi nhân viên kiểm tra đến Bismarck phỏng vấn.  Vào ngày giờ hẹn, vợ chồng tôi cùng hai công dân Hoa kỳ làm người giới thiệu đến gặp nhân viên INS.  Ông ta phỏng vấn riêng rẽ từng người và đến lượt tôi, điều tra kỹ về lý lịch và nghề nghiệp, nhưng trong phần sát hạch về hiến pháp Hoa kỳ chỉ hỏi đúng hai câu:  “Phó tổng thống Hoa kỳ hiện tại tên gì?” và “Dân biểu Hạ viện đơn vị North Dakota là ai?”  Cuối cùng, trong phần ký tên tại chỗ, ông đọc và biểu tôi viết, “The grass is green” (Đám cỏ thì xanh), có lẽ để tôi chứng tỏ khả năng nói, đọc, và viết tiếng Anh.

Một sáng đầu mùa xuân, vợ chồng tôi đến tòa án liên bang tuyên thệ, nhận chứng chỉ nhập tịch, và nghe ông thẩm phán đọc diễn văn chào mừng công dân mới.  Ngoài mấy người tỵ nạn Đông dương quen biết và một số người Ấn Độ, Thái Lan, và Phi Luật Tân, danh sách tuyên thệ có thêm một cặp vợ chồng người Việt ở Minot, một thành phố nhỏ hơn và cách xa Bismarck chừng 100 dặm Anh về phía bắc.  Tôi nhận ra người chồng là thằng Khuôn học cùng lớp với tôi từ đệ thất (lớp 6) đến đệ tứ (lớp 9) trường Hàm Nghi Huế, nó cũng nhận ra tôi.  Hai mươi năm rồi không gặp nhau, nhưng hai thằng phải đợi buổi lễ chấm dứt mới nhảy cẫng lên nhào tới chỉ mặt nhau cười ha hả và hát,

            Ta là học sinh Hàm Nghi tươi như hoa . . .

Đó là câu đầu tiên của “Hành khúc Học sinh Hàm Nghi” của Văn Giảng mà mỗi sáng thứ Hai chúng tôi nghiêm trang đứng hát dưới sân cờ.  Văn Giảng là thầy Ngô văn Giảng dạy nhạc hiền từ đôn hậu và dáng người hơi quá khổ so với chiếc xe gắn máy Zündapp của Đức mỗi sáng thầy cỡi đến trường.  Tôi mời vợ chồng thằng Khuôn đi ăn trưa; hai thằng miên man kể lại chuyện năm 1975 di tản và tấp lên North Dakota, để mặc Quỳnh Châu và vợ nó tâm sự với nhau.  Nhắc lại thời học trò, bạn tôi giải thích tại sao sau bốn năm Hàm Nghi, hai thằng không gặp nhau,

            “Đậu Trung học Đệ nhất cấp, tau băng (nhảy lớp) đệ tam (lớp 10), qua trường Bán Công học đệ nhị (lớp 11), và thi đậu Tú tài I mới vô trường Quốc Học học đệ nhất (lớp 12).  Đậu Tú tài II, tau thi đậu vô Đại học Sư phạm Huế, học ba năm ra trường, và năm 1967 được bổ về dạy sử địa tại trường nữ trung học Đà Nẵng mới thành lập.”

            “Mày giỏi thiệt!  Học xong ra trường trước tao đến ba năm, và lại được về trường nữ trung học – tha hồ làm le với bọn học trò con gái ngây thơ . . . vô số tội,” tôi cười khì.

            “Trường mới mở thiếu giáo sư nên tau mới được về đó.  Tau được bà hiệu trưởng Diệu Lễ tận tình hướng dẫn vượt qua khó khăn của năm dạy học đầu tiên mà học trò tuổi xuýt xoát với ông thầy,” nó gượng cười và kể về vị hiệu trưởng khả kính.

Bà Diệu Lễ người Huế thuộc dòng họ Nguyễn Khoa danh giá của đất thần kinh và là phu nhân của ông Mãi đại biểu chính phủ Việt nam Cộng hòa (“VNCH”) tại Vùng I, văn phòng đặt tại Đà Nẵng.  Giữ chức vụ hành chánh cao nhất Vùng I, ông có quyền hành ngang hàng với tướng tư lệnh vùng bên phía quân sự.  Trước khi về Đà Nẵng, bà Mãi (bà thường được gọi như thế) là hiệu trưởng trường Bùi thị Xuân Đà Lạt, và ông là phó thị trưởng hành chánh Đà Lạt rồi đi du học Hoa kỳ một thời gian.  Người Quảng Trị, ông thuộc dòng họ quan Phụ chính Đại thần Nguyễn văn Tường (1824 – 1886) đời nhà Nguyễn.  Ông bà sống trong ngôi biệt thự trên đường Hoàng Hoa Thám và có bốn người con:  Viễn con trai đầu đã đi du học ở tiểu bang Ohio bên Hoa kỳ từ ngày ông bà còn ở Đà Lạt, hai cô con gái kế Diệu Minh và Diệu Hạnh, và Quý con trai út.  Diệu Minh tâm thần suy nhược cần được chăm sóc thường trực, và Diệu Hạnh học rất giỏi.

Cuối năm âm lịch trước Tết Mậu Thân (1968), ông bà Mãi đưa con về Huế ăn tết với gia đình nội ngoại và ở trong nhà vãng lai của chính phủ là một biệt thự đồ sộ trên đường Lê Lợi chạy dọc theo hữu ngạn sông Hương.  Đêm trừ tịch, trong tiếng pháo và tiếng súng đón giao thừa, Việt Cộng (“VC”) đột nhập vào thành phố, mở cuộc tấn công, chiếm giữ nhà vãng lai, và bắt giữ ông Mãi giam riêng trên lầu.  Bà và các con bị lùa xuống dưới tầng hầm.  Cậu bé Quý chín tuổi khép nép đứng nhìn bộ tịch lúng ta lúng túng của toán lính VC trên rừng mới về mà không dám cười.

Thí dụ, một tên VC cầm lon bia loay hoay lắc qua lắc lại cả buổi mà không biết làm sao mở ra, cuối cùng tìm thấy cái khoen kim loại dùng để mở, và đánh liều kéo ra khiến bọt bia xịt lên tung tóe.  Hắn ta hết hồn liệng lon bia ra xa, nằm rạp xuống đất, và hô to, “Lựu đạn! Lựu đạn!”  Có lần Quý nghe tên chỉ huy chỉ thị cho đồng bọn,

            “Các đồng chí cần tích cực cảnh giác, ta đã nhận thấy đít phụ nữ Ngụy có lằn.  Ta chưa nắm vững tình hình, nhưng ‘có khả năng’ chúng nó mang ‘đài’ để dọ thám cho gián điệp Mỹ.”

Cái “đài” mà tên VC sợ bóng sợ gió thực ra là chiếc quần lót đàn bà mặc bó sát khiến bên ngoài thấy dấu hằn của đường viền.  Khi rút lui, toán VC bắt ông Mãi đi theo.  Ban đầu, ông bị điệu tới mật khu trong rừng núi tỉnh Thừa Thiên.  Sau đó bị áp giải theo đường mòn Hồ Chí Minh ra Bắc và hứng chịu các cuộc tập kích kinh hoàng của oanh tạc cơ B-52 của Hoa Kỳ.  Khi di chuyển, ông Mãi và các bạn tù đi bộ chân đất, tay bị trói đưa ra đằng trước, và một sợi dây thừng buộc chung người này với người kia.  Họ đi theo hàng dọc, một người trượt chân té thì cả toán tù té theo.  Đêm nằm ngủ không bị trói thì chân bị cùm.  

Ra Bắc, ban đầu ông Mãi bị giam ở trại Thanh Liệt tỉnh Hà Đông và sau đó bị biệt giam trong xà lim các trại Phú Sơn tỉnh Thái Nguyên, Phú Thủy tỉnh Hoàng Liên Sơn, Hà Tây tỉnh Nam Hà, và Vĩnh Phú tỉnh Thanh Hóa.  Ở đâu cũng giống nhau – đói khát lạnh lẽo cơ cực và lúc nào cũng bị cai tù đe dọa.  Sống biệt giam trong xà lim, ông cô đơn khát khao nhìn thấy ánh sáng và người hay sinh vật bên ngoài.  Trong năm cuối cùng, ông được giam chung với những người tù khác và lại chịu các khổ sở khác như lao động vất vả, ăng-ten báo cáo, và cai tù dằn vặt xỉ vả.

* * *

Sau Tết Mậu Thân, bà Mãi đưa con trở về Đà Nẵng, dọn sang căn nhà nhỏ hơn trên đường Lê Lợi, và cố nén đau đớn để lo cho gia đình.  Sau khi đậu Tú tài II với thứ hạng cao, Diệu Hạnh đi du học Hoa kỳ và ở Ohio với Viễn.

Trường nữ trung học Đà Nẵng xây trên một nghĩa trang cũ của người Pháp, trưởng thành nhờ nghị lực và cố gắng của bà Mãi, và sau này đổi tên thành Hồng Đức.  Mùa xuân Ất Mão (1975) trường tổ chức “tuần lễ sinh hoạt Hồng Đức” tưng bừng với hội chợ, triển lãm, và sinh hoạt văn nghệ, báo chí, và thể thao, từ húy nhật vua Lê Thánh Tông (bút hiệu Hồng Đức) đến ngày kỷ niệm Hai Bà Trưng khởi nghĩa.  Nhưng chỉ một tuần sau, đồng bào di tản từ Quảng Trị và Thừa Thiên ùa về, và trường biến thành trại tỵ nạn.  Bà đứng đầu ủy ban cứu trợ, phụ trách phân phối thực phẩm và thuốc men cho đồng bào chiến nạn.  Bà  không muốn và không thể rời bỏ nhiệm sở nên xoay xở gửi Diệu Minh và Quý vào Sài gòn bằng máy bay và căn dặn Quý phải chăm lo cho chị.  Diệu Minh ở nhà một người chị bà, và Quý ở nhà một người em trai bà nhưng hàng ngày đạp xe đến giặt giũ cho Diệu Minh.  Cuối tháng Tư, Quý đi theo gia đình cậu di tản, Diệu Minh ở lại Sài gòn với dì.

Ngày 29 tháng Ba, Đà Nẵng thất thủ, VC vào “tiếp quản” trường, và bà Mãi vẫn còn chân “giáo viên” dạy Pháp văn.  Sau ngày 30 tháng Tư, bà vào Sài gòn đón Diệu Minh về và khi trở lại, bị VC đuổi việc bằng cách ra lệnh cho bà “làm đơn xin nghỉ.”  Bà không còn lý do để ở lại Đà Nẵng và mất hơn nửa năm mới xin được giấy phép di chuyển vào Sài gòn với lý do chữa bệnh cho Diệu Minh.  Bà xoay xở làm đủ thứ nghề như nấu bún bò Huế bán dạo ngoài đường, mở tiệm cho thuê bàn đánh bóng bàn, và làm việc trong hãng phấn.  Cốt để có nghề nghiệp và không bị VC cưỡng ép “đi kinh tế mới” mà khổ sở đói khát cùng cực chờ đợi.

Mười một năm sau ngày ông Mãi bị bắt đi, bà nhận được tin ông.  Lúc này, ông bị xếp vào một thứ công nhân chùa của nhà nước, được báo đã ra khỏi tù, nhưng bị chỉ định sống ở trại tù Vĩnh Phú tỉnh Thanh Hóa, gọi là “tù được tha mà không được thả.”  Ông tình cờ tìm thấy địa chỉ và viết thư cho một bà cô bà Mãi ở Hà nội.  Bà cô theo Cộng sản từ thập niên 1930, đang làm lớn là chủ tịch hội Liên hiệp Phụ nữ Việt nam, và vốn ghét ông nên không thèm mở thư.  Nhưng thay vì liệng bỏ, bà gửi sang Pháp cho một người bà con họ Nguyễn Khoa.  Thư chuyển về Sài gòn cho bà Mãi.  Bà cậy cục đút lót nửa năm trời mới xin được giấy phép đi thăm ông.  Gặp lại nhau lần đầu, ông bà hầu như không nhận ra nhau.

Bà Mãi đi thăm ông trở về, Diệu Minh trở bệnh nặng, đưa vào nhà thương thì bác sĩ bó tay vì không có thuốc men hay dụng cụ chữa trị, và qua đời.  Xác cô được hỏa thiêu, và tĩn cốt được giữ thờ trong chùa.  Một năm sau, cai tù gọi ông Mãi lên và cho biết ông được phóng thích,

            Đáng lẽ ra anh không được thả.  Người như anh không bao giờ cải tạo được.

Ông Mãi vào Sài gòn với bà.  Lúc này, Hoa kỳ bắt đầu chương trình Ra đi Có Trật tự (ODP) cho phép người Việt nam tỵ nạn nhập cảnh Hoa Kỳ.  Vì là viên chức VNCH cao cấp nhất bị bắt với thời gian bị giam tù dài lâu, ông được ưu tiên cứu xét.  Tuy vậy, ông bà phải mất bốn năm để đi qua hàng chục cửa ải đòi tiền hối lộ mới có giấy tờ xuất cảnh sang Hoa kỳ đoàn tụ với con.

* * *

Cuối tháng Tư năm 1975, Quý theo gia đình cậu lên máy bay quân sự ra đảo Phú Quốc.  Vài ngày sau, chàng thanh niên 17 tuổi và hơn 16,700 đồng bào di tản khác chen chúc trên chiến hạm USS Pioneer Contender của Đệ thất Hạm đội Hoa kỳ.  Chiến hạm đưa họ đến trại tạm cư Orote Point trên đảo Guam.  Rồi Quý và gia đình cậu được đưa sang trại tỵ nạn Đồn Chaffee ở Arkansas bằng máy bay.  Sau khi được Viễn đồng ý bảo trợ, Quý chia tay cậu mợ bay về Ohio ở với anh và chị Diệu Hạnh.  Viễn đã tốt nghiệp về ngành sinh vật học, đi làm và lập gia đình với một người Mỹ, và có đứa con trai ba tuổi.  Diệu Hạnh là sinh viên dược khoa.

Quý di chuyển về California học ngành  báo chí tại California State University ở San Diego.  Sau đó, Quý lên San Jose làm cán sự xã hội giúp đỡ người tỵ nạn Đông dương, sản xuất một chương trình truyền thanh, và cuối cùng dọn về San Francisco.  Tiếp theo là một năm làm việc trong phái đoàn Hoa kỳ giúp đỡ người Việt tại trại tỵ nạn Galang ở Nam Dương trước khi trở về San Francisco thuê nhà sửa soạn đón ông bà Mãi từ Sài gòn sang,

Ở tuổi 26, sau chín năm sống riêng một mình, tôi lại có cha mẹ.

Gần gũi cha mẹ một thời gian, Quý sang Luân Đôn làm việc cho đài BBC, nhưng sáu tháng sau trở lại San Francisco làm việc cho KALW-FM là một đài public radio hội viên của National Public Radio (NPR).  NPR là công ty truyền thông tư nhân, bất vụ lợi, và được cả chính phủ lẫn công chúng tài trợ; hầu hết các đài public radio lại do những đại học công lập của tiểu bang làm chủ.  Năm 1989, Quý trở về Việt nam thực hiện một phóng sự cho NPR để “khám phá lại đất nước và tìm hiểu cuộc sống đương thời.” Đồng thời thực hiện ước nguyện đối với Diệu Minh, người chị vắn số:  Đem tro chị về với cha mẹ anh em.

Điều đó Quý đã làm.  Lần đầu tiên trong một thời gian rất dài, gia đình bà Mãi lại có nhau.

Nguyễn Ngọc Hoa

BỪNG CON MẮT DẬY…

Bốn năm sau khi rời trại tỵ nạn Trại Pendleton, mùa thu năm nay (1979), tôi trở lại nam California lần đầu tiên để dự khóa học ngắn về kỹ thuật điện toán tổ chức tại khách sạn Hilton ở Los Angeles.  Chiều thứ Sáu, khóa học kết thúc, tôi xách va-li bước ra lobby (căn phòng lớn dùng làm phòng khách của khách sạn) và thấy Ngân bạn tôi ngồi đợi.  Ngày Sài gòn, Ngân học Đại học Khoa học, đỗ cử nhân hóa học, và mở trường dạy luyện thi tú tài và thi tuyển vào đại học chuyên khoa.  Ngân cười tươi,

            “Hôm nay vợ và hai con em tao trổ tài nấu nướng đãi mày với thằng Bào.  ‘Thằng khỉ’ đó vừa từ Galang qua đây tuần trước.”  Trại tỵ nạn Galang do Liên hiệp quốc điều hành nằm trên đảo Galang thuộc quần đảo Riau của Nam Dương.

            “Thằng Bào luật sư ăn nói khéo léo và giỏi xoay xở, tao biết thế nào nó cũng thoát ra khỏi Việt nam; bây giờ kêu là ‘vượt biên.’  Có vợ con nó không?”

            “Tại thiếu địa (tiền), đúng hơn là thiếu vàng, mua chỗ nên chỉ mình nó đi; vợ và đứa con trai ba tuổi ở lại.”

Bào đưa cả hai tay ôm chặt tay tôi.  Khuôn mặt hốc hác và thân hình còm cõi, nhưng tiếng cười giòn giã và giọng nói oang oang của người bạn cũ vẫn như trước,

            “Ba Hoa ơi hỡi Ba Hoa!  Thế còn chị ‘Chích Chòe’ đâu?”

            “Bà xã để ở nhà, cõng theo làm gì cho bận bịu chân tay,” tôi quay sang các bạn khác, “Bà con ơi, thằng này là thầy kiện mồm loa mép giải, nhưng ăn nói đâu ra đó, không một tấc lên tới trời như bọn Việt Cộng đâu.  Bào à, mày kể tiếp chuyện vượt biên cho tao nghe  với.”

            “Tôi ra đi cùng với 41 người khác trên chiếc thuyền dài 16 mét có 15 phụ nữ từ 13, 14 tuổi đến khoảng tứ tuần và năm trẻ em dưới 12 tuổi.  Vừa ra tới ngoài khơi là nguy khốn bắt đầu:  Thuyền gặp bão dữ, hư máy, và trôi vô định.  Rồi chiếc thuyền chở đầy hải tặc Thái quấn xà-rông xuất hiện, thằng nào cũng có vũ khí.  Chúng bắt già trẻ lớn bé cởi hết áo quần đứng trần như nhộng để lục xét tìm vàng, ra lệnh cho đàn ông ở lại thuyền, và lùa phụ nữ còn trẻ lên thuyền chúng và cưỡng hiếp năm ngày liền trước khi thả chúng tôi đi,” Bào rưng rưng nước mắt thuật lại khổ nạn tiếp theo của đám “thuyền nhân.”

Ba ngày sau lại gặp toán hải tặc khác.  Thuyền không còn gì đáng giá để cướp, đàn ông bị đánh đập túi bụi, và ai có răng vàng đều bị đè ra cạy nhổ lấy vàng.  Phụ nữ lại bị bắt sang thuyền hải tặc và hiếp dâm như trước, lần này chúng bắt cả trẻ em mang theo.  Một ngày sau, toán hải tặc thứ ba xuất hiện và đòi chia “chiến lợi phẩm.”  Hai toán gầm gừ đánh nhau, và hai hôm sau, tất cả bọn chúng đột ngột biến mất trong đêm tối cùng với đàn bà và trẻ em đã bị bắt.

Nỗi tuyệt vọng của những thuyền nhân còn lại lên tới mức tột cùng khi họ thấy một chấm đen ở chân trời lớn dần tiến lại gần thuyền.  Hải tặc lần thứ tư, chỉ có nước chết!  Nhưng khi chiếc thuyền kia lại gần, họ thấy những người thân yêu đang trở về.  Khi nhận ra mình bị bắt đem đi và sẽ không bao giờ gặp lại người thân, các phụ nữ đã can trường phản đối và đòi nhảy xuống biển tự trầm.  Bọn man rợ chịu nhường bước và chở họ trả về.

Bào cầm lon bia uống một hơi, mắt nhắm nghiền như để xua đuổi nỗi kinh hoàng,

            “Con thuyền lại lềnh bềnh trôi.  Không có thức ăn trong nhiều ngày và nước uống rất hạn chế, mọi người thoi thóp nằm yên một chỗ và bắt đầu nghĩ tới chuyện ăn thịt người để sống.  May có một chiếc tàu buôn Anh chạy qua, dừng lại cho thức ăn và nước uống, giúp sửa máy thuyền, cung cấp dầu, và chỉ đường chạy tới Galang.”

            “Phù…ù…ù, rốt cuộc mày đến bờ tự do,” tôi thở ra một tiếng dài.

            “Trong trại, túp lều tao ở nằm cạnh lều một gia đình người Nam năm người, lớn tuổi nhất là ông Trương khoảng ngũ tuần, chững chạc, và rất kín đáo.  Không người nào hé môi lộ ra tông tích gốc gác của mình.”

            “Nhưng sức mấy mà qua mặt đôi mắt tinh như cú vọ của mày,” tôi mỉm cười.

            “Làm ngành luật, tao nhận ra ông Trương là bộ trưởng bộ Tư pháp của cái phường tuồng gọi là chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam,” Bào gật đầu.

* * *

Trương là con thứ hai trong một gia đình Nam kỳ quý phái dưới thời Pháp thuộc có sáu cậu con trai.  Mỗi cậu có riêng một a má là chị vú người Tàu đưa đón đi học và hầu hạ việc ăn mặc, tắm rửa, ngủ nghê, v.v.  Mỗi cậu có riêng thầy dạy kèm các môn học chính ở trường và thầy dạy âm nhạc, mỗi cậu học một loại nhạc khí riêng.  Ngoài ngôi nhà chính ba tầng trên đường d’Espagne (Lê Thánh Tôn bây giờ) giữa trung tâm Sài gòn, cha mẹ Trương có đồn điền cao su ở Thủ Dầu Một (Bình Dương), nhà in tại Sài gòn, nhà nghỉ mát ở Ðà Lạt, và biệt thự mùa đông ở Cap Saint-Jacques (Vũng Tàu).  Cha Trương là giáo sư trung học dạy ở trường Chasseloup Laubat (sau này gọi là Jean-Jacques Rousseau), nhưng dạy lấy tiếng chứ tiền lương chỉ là phụ.

Anh em Trương học trường dành cho trẻ em Pháp.  Lúc đầu bị bọn bạn học người Pháp gọi nhạo là nhaque (đọc là “nhác-cờ,” do chữ “nhà quê”) hay mite (đọc là “mít-tờ,” cách nói tắt khinh miệt của chữ “annamite” người Pháp dùng chỉ người Việt), cậu Ba Trương thấy khó chịu, nhưng rồi cũng quen và nhập tâm bài học lịch sử vỡ lòng, “Tổ tiên ta là người Gaulois.”  Năm Trương 13 tuổi, cha cậu quyết định,

            “Lớn lên con sẽ làm dược sĩ.  Anh con làm bác sĩ, em kế con chủ nhà băng, và ba em sau kỹ sư.”

Tháng Ba năm 1946, trước khi Trương lên đường sang Pháp du học, cha Trương làm lễ đính hôn cho cậu và ý trung nhân là con gái của một bác sĩ và điền chủ giàu có ở Bến Tre và cũng là bạn thân của ông.  Sang Paris, Trương được nhận vào ở trong đại học xá sinh viên Đông dương.  Cùng thời điểm đó, Hồ Chí Minh ăn dầm ở Paris chờ thương thảo về đề nghị cho Việt Minh (Việt nam) độc lập trong Liên hiệp Pháp, hội nghị diễn ra tại Fontainebleau cách Paris chừng 60 km về hướng đông nam.  Nhờ vậy, Trương gặp ông Hồ hai lần.  Lần đầu, ông cho mời cả nhóm sinh viên Việt nam trong đại học xá đến họp chung và lần sau chỉ mời hai đại diện sinh viên người Nam đến “dùng trà với bác Hồ”; Trương là một trong hai sinh viên được đề cử đi.  Với dáng điệu và cử chỉ của một chính trị gia xảo hoạt bậc nhất thế giới, ông Hồ hớp hồn chàng sinh viên 23 tuổi bằng những khẩu hiệu nghe rất kêu như

Không có gì quý hơn độc lập-tự do.

Chúng ta phải chống giặc ngoại xâm, chống giặc đói, chống giặc dốt.  v.v.

Hội nghị Fontainebleau tan vỡ, nhưng lần gặp gỡ ông Hồ đã thay đổi toàn diện ước vọng về tương lai của Trương.  Trương bỏ ngành dược, học chính trị học ở Học viện Khoa học Chính trị, một grande école người Pháp gọi là “Sciences Po,” và cùng một số sinh viên Việt nam đi biểu tình và vận động ủng hộ cuộc chiến đấu chống Pháp của Việt Minh.  Cha Trương giận dữ khi được tin Trương không tuân lời về việc học hành và dính dáng vào chuyện chính trị, nhưng quyết định dùng mật ngọt để khuyến dụ:  Ông sui gia (tương lai) đưa cô vị hôn thê của Trương sang Paris, dắt hai người đi du lịch một vòng quanh Pháp, Ý, và Thụy sĩ, và trở về làm lễ cưới theo nghi thức hành chánh tại quận đường Quận 12, đồng thời với lễ gia tiên của hai gia đình cử hành tại Sài gòn.

Kế sách của hai người cha đưa lại kết quả trái ngược.  Không những Trương không đổi ý hướng mà còn dẫn dắt vợ vào con đường của mình.  Khi hội Người Việt Đoàn kết cử vợ Trương dâng hoa cho vợ tổng thư ký đảng Cộng sản Pháp, bà này cũng là ủy viên trung ương đảng, hai ông già hết chịu đựng nổi bèn ra lệnh cho vợ chồng Trương phải về nước.  Trương cương quyết ở lại và để vợ về một mình, lúc ấy cô mới 20 tuổi và mang thai sáu tháng.  Hai ông già quyết liệt hơn, cắt đứt tiền bạc cấp dưỡng, và buộc cô vợ trẻ ký giấy ly dị.  Lần đầu tiên trong đời, Trương phải tự kiếm sống, rửa chén và gọt khoai cho nhà bếp đại học xá.

Năm 1951, Trương tốt nghiệp cao học chính trị học và ghi danh học luật ở Đại học Paris.  Cuối năm, Trương bất ngờ nhận được thư cha gọi về Sài gòn giúp ông gầy dựng lại cơ sở kinh doanh bị chiến tranh tàn phá để giúp anh và các em tiếp tục việc học.  Để tránh lệnh động viên của chính phủ Quốc gia Việt nam, Trương xin đi dạy ở Châu Ðốc và được bổ làm giáo sư chính ngạch rồi kết hôn với em gái bạn đồng nghiệp.  Vợ Trương sinh con gái đặt tên Loan.  Để tránh lệnh trưng binh khẩn cấp vì chiến tranh lan rộng, Trương xin gia nhập Hải quân và được nhận vào trường Tiếp liệu Hải quân Pháp ở Toulon.  Sau khi Hiệp định Genève được ký kết, Trương tốt nghiệp sĩ quan và xin giải ngũ.

Trương về nước với chí hướng quyết liệt chống đối phe Quốc gia là chính phủ Việt nam Cộng hòa (“VNCH”).  Nhờ bằng cấp cao, liên hệ bạn bè thời Chasseloup Laubat, và thế lực gia đình, Trương được trọng dụng làm tổng thanh tra Việt nam Kỹ thương Ngân hàng và sau đó tổng giám đốc Công ty Đường Việt nam, một công ty hàng quốc gia.  Trong lúc Trương ngầm câu kết với  các tổ chức Cộng sản trong bóng tối, con gái là Loan lại học cùng lớp với con gái Tổng thống Nguyễn văn Thiệu, thường vào dinh Độc lập ăn cơm tối và ngủ lại đêm, và được ông bà Thiệu yêu thương như con.

Tháng Sáu năm 1966, hành tung bị bại lộ, Trương bị cơ quan an ninh VNCH bắt giữ.  Nhờ Việt Cộng bí mật điều đình với tòa Đại sứ Hoa kỳ, Trương và hai tù nhân chính trị khác được trao đổi với ba quân nhân Mỹ bị Việt Cộng bắt.  Thế là Trương ra bưng hoạt động hẳn cho phe Cộng sản.  Sau khi Trương bị bắt, ông Thiệu dịu dàng kéo Loan ra một bên,

“Con yên tâm, ba con với tonton là kẻ đối nghịch. Nhưng con là con cháu nhà này, chuyện kia không ăn nhằm gì cả.”

“Tonton” tiếng Pháp là “chú/bác/cậu” khi xưng hô thân mật.  Sau đó, bà Thiệu bảo trợ cho Loan đi Hoa kỳ du học.  Ngày 8 tháng Sáu năm 1969, Hà nội đưa ra trình làng con múa rối đặt tên là chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam (“CMLTCHMN”) để mà mắt thế giới, và Trương được phong chức bộ trưởng bộ Tư pháp cho đủ lệ bộ. 

Mãi đến sáu năm sau, trong cuộc diễn binh mừng chiến thắng chiếm trọn miền Nam của Việt Cộng, Trương mới mở mắt nhận ra thực chất của CMLTCHMN.  Trên khán đài dựng lên trước dinh Ðộc lập (mới đổi tên thành Thống nhất), chủ tịch đoàn gồm lãnh tụ ngoài Bắc vào và những nhân vật quan trọng khác đứng duyệt khán các đơn vị quân đội diễn hành.  Bộ binh, chiến xa, pháo binh và hỏa tiễn phòng không, v.v. với cờ đỏ sao vàng miền Bắc lần lượt đi qua.  Gần tàn buổi lễ mà không thấy các “đại đơn vị” và lá cờ hai màu xanh đỏ của CMLTCHMN đâu cả, Trương nghiêng vai hỏi Tướng Văn Tiến Dũng chỉ huy quân đội đứng bên cạnh,

            “Các Sư đoàn 1, 3, 5, 7, và 9 của tụi tui đâu?”

            “Mấy thứ đó hả?” ông tướng đưa mắt nhìn Trương và không đắn đo, “Quân đội thống nhất rồi,” rồi quay đầu nhìn xuống đường với khoé môi trề xuống tỏ vẻ khinh miệt. 

Khi vở kịch CMLTCHMN đến lúc hạ màn, Trương ra Hà nội dự lễ phê chuẩn văn kiện “thống nhất nước nhà về mặt nhà nước” chính thức chấm dứt tấn tuồng lừa đảo này.  Trong buổi tiếp tân, có người vỗ vai, Trương quay lại thấy Trường Chinh chủ tịch Quốc hội miền Bắc; ông ta trừng mắt hỏi xách mé,

“Đồng chí là ai mà trông quen quen?”

Trương ngớ người bối rối.  Mới bảy tháng trước, ngay tại sảnh đường này, chính đồng chí lãnh đạo này đã ôm hôn chào mừng líu lo và chiêu đãi rộn ràng Trương và toàn bộ CMLTCHMN.  Trương ấp a ấp úng,

Tui là bộ trưởng bộ Tư pháp miền Nam.”

“Thế à?” mắt Trường Chinh sáng lên khoái trá, “Đồng chí tên gì, bây giờ làm gì?”

Trương tỉnh mộng hoàn toàn, cưới cô vợ mới, và cậy nhờ người em cột chèo trù hoạch vượt biên.  Cuối tháng Tám năm 1978, vợ chồng Trương theo gia đình người em đó lên ghe đánh cá đi từ Long Xuyên đến trại tỵ nạn Galang.  Sáu tháng sau, sang Pháp định cư và sống đời lưu vong.  Ba mươi năm “làm cách mạng” của Trương rốt cuộc chỉ là:

Giấc Nam kha khéo bất bình,

Bừng con mắt dậy thấy mình . . . thuyền nhân.

(Theo Cung Oán Ngâm Khúc)

Nguyễn Ngọc Hoa

                                                                                        

Chuyện “Điên Nặng” ở Texas: Vì Đâu Nên Nỗi?

Sau ngày 23 tháng Chạp đưa ông Táo về trời, tôi khấp khởi mừng thầm vì năm Canh Tý – năm tuổi của tôi – sắp hết mà chưa có điều gì xui xẻo lớn xảy đến.  Không dè đến đêm 27 và 28 tháng Chạp, trời Austin (Texas) trở mưa lớn, và nhiệt độ tụt xuống đến 20° Fahrenheit (khoảng ­-7° Celsius); và sáng hôm sau, 29 tháng Chạp, khoảng 11 giờ sáng nhà tôi bị cúp điện.  Điện nhà tôi do thành phố Austin cung cấp dưới cái tên nghe rất kêu là “Austin Energy.”  Nghĩ trong đầu là không bao lâu sẽ có điện trở lại, vợ chồng tôi hồn nhiên ăn cơm trưa dưới ánh nến (mua dùng cúng Tết), và rồi kiên nhẫn ăn tối và bực bội cúng giao thừa cũng dưới ánh nến.  Đồng thời, chúng tôi lạnh cóng vì không có điện thì máy sưởi dùng động cơ điện thổi hơi ấm ra ngoài không chạy, đành phải mở lò gas nấu ăn lên để giữ ấm một phần nào.  Bước sang năm Tân Sửu lạnh lẽo trong bóng tối, không có máy sưởi ấm, không có Internet, không ti-vi tin tức, và cạn pin điện thoại di động, chúng tôi vào giường buổi tối với hai ba lớp quần áo dày cộm.

Theo lời khuyên của thành phố, để giữ ống nước khỏi đóng băng, chúng tôi để tất cả các vòi nước trong nhà nhỏ giọt suốt ngày đêm.  Mấy ngày đầu năm mới, trời Austin lạnh kinh hồn, hai đêm liền nhiệt độ tụt xuống đến 5 và 6°F (khoảng ­-15°C), và tuyết rơi liên miên chồng chất đến 10–12-inch (khoảng 0.3 m), phủ lấp mái nhà và đường đi.  Ở Austin, hai điều kiện thời tiết hà khắc này chưa bao giờ xảy ra cùng một lúc.  Trong mấy ngày kế tiếp, nhiệt độ nằm lì dưới nhiệt độ đóng băng 32°F, chúng tôi bị “cầm tù” vì đường sá đầy tuyết và nước đá, không đi lại được, và chỉ có cách “tử thủ” và tìm cách sống còn trong nhà mình.  Nhờ để nước nhỏ giọt, ống nước lạnh từ ống nước chính của thành phố vào nhà không bị đóng băng, nhưng nhiệt độ quá thấp khiến cho ống nước nóng chạy trong tường từ máy nước nóng vào nhà kém may mắn hơn, bị đóng băng (và bị vỡ vì nước đóng băng thì tăng thể tích); vậy là chúng tôi mất nước nóng.

image.png
image.png

Sau hơn một tuần mất điện, chúng tôi có điện lại tối mồng 7 Tết.  Trước đó hai ngày, lúc trời ấm lại bình thường, ống nước nóng rã băng và phun nước ào ào từ trong tường ra ngoài, và chúng tôi phải gọi người khóa nước từ ống dẫn chính của thành phố và như thế hoàn toàn mất . . . nước.

Hôm nay, ngày mồng 10 Tết, chúng tôi đang chờ thợ ống nước tới sửa.  Từ năm cũ đến nay, vì lúc đầu thiếu ánh sáng và sau đó thì mất nước, hàng ngày chúng tôi nấu nước nóng và dùng khăn mặt lau người; đó là phương pháp “tắm khô” tôi từng dùng thời còn trẻ bỏ nhà đi bụi đời.  Vẫn cố gắng nấu ăn (vì không thể ra ngoài) nhưng khi rửa chén và nồi niêu soong chảo phải dùng phương pháp rửa tô của các bà bán bún bò gánh ngày xưa ở Huế:  chỉ một thau nước nhỏ và cái khăn lau mà các bà “rửa” hết tô này sang tô khác suốt ngày.  Ngày nay, chúng tôi “tiến bộ” hơn vì có các cuộn paper towel rất tốt và dễ dùng.  Và phương pháp cổ điển này sẽ còn được dùng ít nhất là ba, bốn ngày nữa.

Thực ra, trong tuần lễ “mất điện” đó, điện có trở lại vài ba lần, nhưng lần nào cũng chập chờn khoảng 10 hay 15 phút rồi biến mất.  Lần điện tái xuất giang hồ lâu nhất là khoảng nửa tiếng đồng hồ trước nửa đêm mồng 4 Tết.  Sau đó, tôi nghe tin tức nói ERCOT (Electric Reliability Council of Texas) lúc đó đã ra lệnh cho Austin Energy và các công ty điện lực ở Texas cúp điện luân phiên.  ERCOT là cơ quan điều hành hệ thống điện và chỉ huy các công ty điện lực trong tiểu bang.

Cúp điện luân phiên là một cách giải quyết vấn đề thiếu điện; công ty điện lực chia vùng phục vụ thành từng khu, cho mỗi khu có điện 45 phút rồi cúp đi, và đóng điện cung cấp cho khu khác.  Không may cuộc cúp điện luân phiên thất bại ê chề và khiến cho hơn 40 phần trăm khách hàng toàn tiểu bang bị mất điện tuốt luốt.  ERCOT cho biết, lúc đó nếu không ngưng kịp thời, chỉ trong vòng vài phút hay vài giây là tai ương xảy đến:  toàn thể hệ thống điện Texas sẽ sụp đổ hoàn toàn, và sẽ cần vài tháng mới có thể phục hồi.  Về mặt kỹ thuật, các viên chức có trách nhiệm trong việc quyết định và thi hành công tác cúp điện luân phiên này xứng đáng được thưởng huy chương vàng về sự . . . bất tài.

Vì Sao Nên Nỗi?

Là một kỹ sư điện hồi hưu, chúng tôi đã từng làm việc gần 40 năm trong ngành điện lực Hoa Kỳ, trong đó khoảng 13 năm là hội viên của Reliability Assessment Subcommittee (RAS) là tiểu ban có nhiệm vụ nghiên cứu, tiên liệu, và tìm cách ngăn ngừa những vụ cúp điện rộng lớn ở Bắc Mỹ, tương tự như vụ cúp điện Texas trong tuần lễ vừa qua.  RAS là một ủy ban thuộc North American Electric Reliability Council (NERC), NERC là cơ quan tầm Bắc Mỹ chỉ huy và bao gồm các cơ quan như ERCOT.  Theo lời yêu cầu của anh bạn trẻ Nguyễn Đình Hiếu đang biên tập và trình bày cho Nguyệt san KBC, chúng tôi ghi lại dưới đây một số cảm nghĩ tại sao “dân Texas phải gánh chịu những ngày ‘thảm thương’ như thế.  Lỗi tại ai hay lỗi tại . . . Trời?” (nguyên văn thư của Hiếu).

Lỗi tại . . . Trời

Dĩ nhiên đổ lỗi cho ông Trời, hay “khoa học” hơn là đổ thừa cho hiện tượng “biến đổi khí hậu,” là cách giải thích dễ dàng và an toàn nhất.  Mưa lạnh và tuyết rơi cộng thêm nhiệt độ cực kỳ (nói một cách tương đối) lạnh giá lúc đầu khiến cho các đường dây tải điện đến khách hàng bị đứt, khách hàng mất điện.  Đồng thời, thời tiết giá lạnh làm cho các cơ quan điện lực thiếu khả năng cung cấp điện (“thiếu điện”), càng làm cho việc phục hồi điện cho khách hàng khó khăn và trì trệ.

Nước mưa và tuyết tan thành nước đọng trên dây truyền điện, gặp lạnh đông thành đá, và khiến cho dây nặng quá sức, bị đứt ra rơi xuống, và không thể tải điện từ nhà máy đến người tiêu thụ.  Texas lại có rất nhiều cây cối; nước đọng trên lá và cành cây khiến cành cây trĩu nặng, gãy lìa ra khỏi thân cây, và hoặc là rơi đè lên nối tắt hoặc là kéo đứt các dây phân phối dẫn điện vào nhà khách hàng.  Tóm lại, dây điện đứt là do thời tiết ông Trời gây ra, người đành ngậm đắng nuốt cay mà khó có thể làm gì được.

Nhưng tại sao thiếu điện?  Trong một số năm gần đây, do chính sách của chính phủ và khuynh hướng của quần chúng cổ võ việc bảo vệ môi sinh và ngăn ngừa hiện tượng sưởi ấm toàn cầu, Texas cũng như nhiều tiểu bang khác đã thiết trí nhiều nhà máy phát điện dùng năng lượng gió cũng như khai thác triệt để năng lượng mặt trời.  Cả hai loại “nhiên liệu” tái tạo này có sẵn trong thiên nhiên, người ta chỉ tốn tiền xây nhà máy và dụng cụ, sau đó dùng “miễn phí.”  Austin Energy lôi cuốn khách hàng tư gia thiết trí các tấm pin quang điện trên mái nhà để giảm bớt nhu cầu dùng điện, và do đó giảm nhu cầu xây cất nhà máy phát điện, bằng cách tặng tiền mặt (gọi là “rebate”) cho khách hàng giảm bớt chi phí.  Thí dụ, các tấm pin quang điện giá $25,000, Austin Energy có thể tặng cho khách hàng $10,000 tiền mặt.  Khách hàng còn có thể được miễn thuế lợi tức một phần (40 phần trăm chẳng hạn) của chi phí $15,000 còn lại.  Từ các chính trị gia đến công ty điện lực và khách hàng, ai nấy đều thơ thới hân hoan, vờ quên mất rằng sẽ có một lúc nào đó gió không thổi và mặt trời không hiện ra, lấy điện đâu ra để khách hàng dùng và có được những tiện nghi của đời sống văn minh?

“Lúc nào đó” đã xảy ra.  Trời mưa lạnh và tuyết rơi tan thành nước và đông đá trên cánh quạt của các trụ phát điện dùng năng lượng gió, bão tuyết dữ với gió thổi mạnh có thể bẻ gãy các cánh quạt này, và các trụ phát điện phải ngưng hoạt động.  Năng lượng gió trở thành vô dụng.  Tuyết và mây mù che khuất mặt trời, dân Texas đành hôn chia tay với năng lượng mặt trời; nhu cầu dùng điện tưởng là đã giảm nay lại càng gia tăng hơn vì trời lạnh giá và thiếu ánh sáng mặt trời.  Ôi thôi, thế là anh em ta cùng nhau hô lên là thiếu điện.

Lỗi tại . . .  Người

Theo ý kiến thô thiển của chúng tôi, đổ lỗi “thiếu điện” cho ông Trời thì quả là lưỡi không xương nhiều đường lắt léo.  Nhà nghiên cứu kế hoạch điện lực luôn luôn tâm niệm công ty điện lực có “nghĩa vụ phụng sự” (obligation to serve) khách hàng trong mọi trường hợp.  Ở một cửa hàng bách hóa, nếu khách hàng đến mua một đôi giày mà cửa hàng không có, khách phải ra về hay tìm mua ở cửa hàng khác.  Công ty điện lực không thể làm như thế, bất cứ lúc nào khách hàng bật đèn lên hay cắm một dụng cụ vào ổ điện, khách mong đợi đèn đỏ lên hay dụng cụ hoạt động ngay lập tức.

Để thực hiện sứ mạng của mình, công ty điện lực phân biệt hai loại khả năng của hệ thống phát điện:  Một là “năng lượng” (energy) tương tự lượng kilowatt-giờ công ty điện lực đọc đồng hồ tính tiền khách hàng tư gia.  Hai là “khả năng cung cấp điện” (capability) là công suất điện có thể cung cấp bất cứ lúc nào khách hàng cần tới.  Trước đây, khả năng “được công nhận” (accredited) của các nguồn điện dùng năng lượng tái tạo bị quy là rất thấp.  Thí dụ, căn cứ theo thống kê về hoạt động thực sự của nhà máy phát điện dùng gió, người ta chỉ công nhận khả năng của chúng khoảng 6-10 phần trăm, và các nguồn điện mặt trời khoảng 3-5 phần trăm.  Ngoài ra, NERC và các cơ quan như ERCOT còn đòi hỏi mỗi công ty điện lực phải có đủ khả năng cung cấp điện cho khách hàng ở thời điểm dùng điện cao nhất trong năm, cộng thêm “số dư dự trữ” (reserve margin) thường là 15-18 phần trăm nhu cầu tối đa của khách hàng.  Như thế, dù “có chuyện gì xảy ra,” công ty điện lực vẫn đủ khả năng đối phó với tình thế bất trắc.

Trong những năm gần đây, do chính sách của chính phủ, các yếu tố kinh tế, và tâm lý quần chúng, nguồn điện dùng năng lượng tái tạo trở thành những mặt hàng quý giá.  Khả năng được công nhận của nhà máy gió được nâng lên đến 60-80 phần trăm, năng lượng mặt trời đến 30-50 phần trăm.  Song song với sự “sáng tạo” ra các khả năng cung cấp điện ma, người ta không còn đòi hỏi công ty điện lực có thêm số dư dự trữ, với lý do các hệ thống điện nối liền với nhau và có thể giúp đỡ lẫn nhau khi cần.  Họ vờ quên mất rằng khi thời tiết khắc nghiệt xảy đến trong một diện tích rộng lớn như cơn bão lạnh Texas vừa qua, công ty nào cũng bị ảnh hưởng, cũng bị thiếu điện, và không thể trợ giúp công ty khác.  Không còn tích cốc phòng cơ, tích y phòng hàn (chứa lúa để ngừa đói, để dành áo phòng khi lạnh) như cái thuở không mấy xa xưa ấy.

Xem ra, lý do khiến Texas thiếu điện và nạn cúp điện kéo dài hơn mười ngày là lỗi tại . . . người.  “Người” ở đây có thể hiểu là các chính trị gia hay các nhà quản trị điện lực ở cấp cao nhất; từ năm, mười, hay mười lăm năm nay, họ đã dần dần tạo nên những chính sách và đường lối đưa lại hậu quả chẳng đặng đừng như đã thấy.  Ta cũng có thể đổ lỗi cho các kỹ sư thiếu khả năng tìm ra bột để khuấy thành hồ.  Nhưng trong một quốc gia dân chủ như Hoa kỳ, trách nhiệm tối hậu là của người dân.  Họ đã bỏ phiếu bầu người lãnh đạo, đặt viên chức có thẩm quyền vào những chức vụ quyết định, và chấp thuận các chính sách đề ra.  Nếu chưa kể họ đã tận hưởng những lợi lộc phát sinh từ các chính sách đó.

Tôi đã thấy rõ và tiên liệu những gì sẽ xảy đến, và dĩ nhiên không đồng ý với những chủ trương “cấp tiến” đó.  Nhưng tôi là thiểu số.  Vì vậy mà phe tôi bị thất cử.

Nguyễn Ngọc Hoa

Còn Nợ Một Lời Xin Lỗi

Giữa tháng Mười Một, mặt trời North Dakota lặn sớm, mới năm giờ chiều mà đã chạng vạng tối.  Chiều nay tan sở, tôi và anh bạn Charlie đứng xếp hàng sau chiếc xe chở hàng phân phát gà tây ở góc bãi đậu xe; hàng năm, vào khoảng thời gian này, công ty tặng nhân viên mỗi người một con gà tây để ăn lễ Tạ ơn.  Charlie hiếu kỳ hỏi tôi,

            “Ở Việt nam anh có ăn gà tây hay mừng lễ Tạ ơn không?”

            “Ngày Sài gòn tôi biết hai điều:  Lễ Tạ ơn vào ngày thứ Năm tuần lễ chót của tháng Mười Một, và lính Mỹ đóng ở bất cứ nơi nào trên thế giới đều được ăn tiệc gà tây trong dịp này.  Gà tây thì mỗi năm tôi ăn một lần – vào đêm Giáng sinh, khi được mời dự bữa ăn nửa đêm theo kiểu Pháp sau khi đi lễ mi-xa nhà thờ,” tôi ngượng ngập trả lời.

            “Anh nhớ lễ Tạ ơn nhằm ngày thứ Năm thứ tư của tháng Mười Một chứ không phải thứ Năm cuối cùng vì có khi tháng Mười Một có đến năm ngày thứ Năm,” chàng nháy một bên mắt chỉnh tôi, “Đối với dân Mỹ, lễ Giáng sinh mang tính cách tôn giáo và lễ Tạ ơn thiên về gia đình hơn.  Nhưng cả hai đều là dịp gia đình sum họp vui vầy.  Hàng năm vợ chồng tôi ăn lễ luân phiên giữa hai nhà:  nếu Tạ ơn với gia đình tôi thì Giáng sinh với gia đình bà xã, và năm sau thì ngược lại.”

Ở nhà tôi, trong những ngày trước lễ Tạ ơn, cha rộn ràng mở tiệc “cám ơn Chúa” lần lượt mời ông bà Mục sư Nielsen, ông bà Gardner, cặp vợ chồng “thân” nhất với cha khi đi lễ nhà thờ, và sau hết là bác Kiệt đến nhà “dùng cơm gia đình.”  Tuy cha không giao thiệp với “đám Việt nam không ra chi,” nhưng bác Kiệt là ngoại lệ.  Cha nghe nói trước đây bác mở trường dạy Anh văn ở Nha Trang và chắc mẩm thế nào bác cũng biết cha đã giữ chức vụ quan trọng ở vùng duyên hải và sẽ phục cha không biết để đâu cho hết.

Bác Kiệt mang bó hoa tươi tới tặng mẹ; cha đón nhận và biểu tôi tìm bình hoa cắm vào và để giữa bàn phòng khách, nhưng không gọi mẹ ra chào.  Như các khách người Mỹ dự tiệc trước, bác Kiệt rất đỗi ngạc nhiên nhưng không nói gì khi thấy bàn tiệc chỉ có cha và bác ngồi đối diện nhau.  Xưa nay cha vẫn đãi khách như thế.  Mẹ nấu nướng sau nhà bếp, Quỳnh Châu và Bình phụ giúp để kịp làm món ăn trong thực đơn cha đề ra, và bọn con trai là đội ngũ hầu bàn phục vụ tỉ mỉ.  Bác khen dồi các món ăn mẹ nấu và lắng nghe cha khoe khoang thành tích và quyền hành ngày cũ, nhưng không hùa theo tán dương; có lẽ cha thất vọng lắm.  Bác khiêm tốn,

            “Thưa bác, tôi dạy học nên không biết nhiều về quân sự và chính trị.”

Khi ăn trái cây tráng miệng, cha hết chuyện nói bèn chuyển sang đề tài mà chín người mười ý, dân tỵ nạn lúc nào cũng tranh luận sôi nổi và trong lúc cãi cọ khó lòng giữ được hòa khí:  Tại sao mình mất nước?  Cha đưa ra ý kiến huyền hoặc,

            “Nếu mà thằng Mỹ và thằng Pháp không bắt thằng Thiện từ chức, bây giờ Việt nam Cộng hòa (“VNCH”) mình vẫn còn khả năng chiến đấu và chưa mất.”

Bác Thiện là bạn thân và cũng là thần tượng của cha.  Ngày tôi học đệ tam niên trường kỹ sư, cha muốn kết thông gia với bác và ép tôi làm rể.  Tôi không bằng lòng, cha nổi trận lôi đình từ bỏ “thằng con bất hiếu bất mục,” và tôi cuốn gói bỏ nhà ra đi bụi đời.  Tôi nhớ như in tối thứ Hai 21 tháng Tư (1975), cả gia đình xúm xít trước chiếc ti-vi đen trắng xem trực tiếp truyền hình bác Thiện tuyên bố từ chức tổng thống tại dinh Độc lập.  Không đồng ý với cha nhưng bác Kiệt nhẹ nhàng hỏi,

            “Thế ạ?  Làm sao ông Thiện làm được?”

            “Thằng nớ hắn giỏi ghê…ê…ê…ê lắm,” cha thán phục nói lớn.

            “Thưa bác, ông ấy giỏi làm sao ạ?” bác Kiệt vẫn từ tốn.

            “Tiếng Anh và tiếng Pháp hắn giỏi ghê lắm,” cha suy nghĩ vài giây rồi nói thêm, “Hắn là thằng tướng duy nhất tốt nghiệp đại học trước khi gia nhập quân đội.”

            “Điều này mới, tôi chưa được biết.  Ông ấy học đại học nào ạ?”

“Sau khi học hết đệ tứ (lớp 9) và đậu bằng diplôme (Trung học đệ nhất cấp), hắn học trường Hàng hải và hai năm sau tốt nghiệp sĩ quan hàng hải.  Hắn không thèm làm việc trên tàu biển khi biết tụi Pháp trả lương thấp hơn sĩ quan Pháp và ghi tên nhập học trường Võ bị Quốc gia khóa 1 ở Đập Đá Huế.  Chỉ có tay tài giỏi kinh hồn như hắn mới có cơ lật ngược thế cờ.”

Trường Việt nam Hàng hải sau này thuộc Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật ở Phú Thọ, trung tâm gồm cả trường Cao đẳng Điện học của tôi, và chương trình sĩ quan hàng hải ngang hàng với bậc cán sự kỹ thuật.  Ngày Sài gòn, tuy cãi lệnh cha về việc hôn nhân, tôi vẫn một lòng kính trọng vị nguyên thủ quốc gia vì thấy bác là người đàng hoàng chín chắn nhất trong số các tướng lãnh và chính trị gia đương thời.

* * *

Trong đợt người từ trại tỵ nạn Đồn Chaffee đến Bismarck định cư sau cùng, bác Hòa được mọi người kính nể nhất.  Bác là đệ nhất tham vụ tòa Đại sứ VNCH tại Trung hoa Dân quốc (Đài Loan), nhân vật số hai của tòa đại sứ.  Bác trạc dưới bốn mươi, người tầm thước lịch sự, nói năng dịu dàng, và làm việc ở nha Chức nghiệp North Dakota và chuyên tìm việc cho người Việt.  Bác gái trẻ hơn bác hai, ba tuổi, mặt đẹp như hoa, và thường kiên nhẫn chỉ dẫn cho các bà các cô về lối sống gia đình ở Mỹ.

Bọn đàn ông thường vấn kế bác Hòa về việc mua xe hơi, mua bảo hiểm, và bảo trì xe cộ.  Hầu hết những người này chưa bao giờ ngồi vào ghế tài xế lái xe nên làm chủ chiếc xế tứ và oai vệ lái phom phom chạy ngoài đường là ước ao tột cùng.  Có việc làm và để dành đủ món tiền trả trước là tính ngay đến chuyện mua xe.  Với túi tiền giới hạn, họ chỉ đủ sức mua xe cũ – có tên văn hoa là xe tiền sở hữu (pre-owned) – và trở thành mồi ngon cho hãng và người bán xe cũ.  Những người bán xe cũ học một sách lừa dối khách hàng nghèo mà cần mua xe như nhau.  Thí dụ, dù chiếc xe cọc cạch đã chạy sáu, bảy chục ngàn dặm Anh, anh nào cũng lôi ra bài quảng cáo cũ mèm,

Máy móc và bên trong xe còn mới toanh.  Chủ trước là bà cụ già góa chồng giữ gìn xe cẩn thận và mỗi tuần chỉ lái đi nhà thờ một lần.

Bác Hòa hay kể câu chuyện khôi hài,

Người bán xe cũ và luật sư là hai hạng người chuyên ăn gian nói dối.  Hỏi:  Làm sao biết được khi nào họ nói dối?  Trả lời:  Khi thấy môi họ mấp máy!

Điều kiện cần để mua xe cũ là có vài trăm đô la trả trước và việc làm, tức là có lương để trả góp hàng tháng.  Sau khi hai bên thương lượng giá cả mà thua thiệt về phần người mua, anh bán xe cũ “thương tình” khách hàng và vào trong văn phòng “năn nỉ ông sếp” đồng ý cho vay trả góp số tiền còn lại với lãi suất “rất nhẹ.”  Anh ta thừa biết nếu khách hàng ra nhà băng vay tiền mua xe, nhà băng sẽ từ chối vì khách không hội đủ tiêu chuẩn về lợi tức để trả nợ.  Thế là ông di dân mới hí hửng ký giấy vay nợ mua xe với mức lời cắt cổ 29 phần trăm một năm, rước về chiếc xe cà rịch cà tang, và è lưng kéo cày trả nợ 36 tháng dài.

Tôi không phải qua cầu đoạn trường đi mua xe cũ vì hai tuần sau khi tôi nhận việc, Charlie mua xe mới và tặng tôi chiếc Chevrolet Chevelle đời 1967 cũ của anh; tôi nhận xe và cuối tháng lãnh lương đưa cho anh 100 đô la.  Chiếc Chevelle tám máy to gần bằng chiếc tàu đánh cá di tản ra biển Đông, dư sức chở người và đồ đạc đi câu cá hay cắm trại, thoải mái cõng bàn ghế tủ giường khi dọn nhà giùm, ăn chịu với tôi hơn hai năm, và gồng mình qua ba mùa đông dài không hề ho hen hư hỏng.  Bạn tỵ nạn gọi nó là chiếc “phi thuyền” và chế nhạo tôi kẹo kéo bủn xỉn, đi xe cũ kỹ xấu xí làm “người Việt mình” mất mặt bầu cua với Mỹ.

* * *

Cuối tuần lễ Tạ ơn, mẹ, bác Hòa gái, và vài bà khác tụ họp nấu nướng ở nhà bác Hòa để mừng lễ Tạ ơn trễ, tổ chức thành một buổi sinh hoạt chung.  Sau bữa ăn thịnh soạn, mọi người chia làm hai phe:  Phe đàn bà ngồi ở phòng ăn bàn chuyện . . . đàn bà, phe đàn ông tiếp tục uống bia và cãi nhau chí chóe trong phòng khách.  Như một truyền thống tự ngàn xưa, chuyện gì đàn ông An nam cũng cãi nhau cho bằng được, và chuyện gì họ cũng khăng khăng cho mình giỏi mình đúng và mọi người khác đều dở đều sai.  Thí dụ, khi nói về chuyện bảo hiểm xe cộ, anh nào cũng gân cổ trưng ra lý lẽ chứng tỏ hãng bảo hiểm của mình có uy tín nhất, mình mua bảo hiểm rẻ nhất, và hợp đồng bảo hiểm của mình tốt nhất, và các người khác đều chọn lầm và mua lầm.  Làm tôi nhớ lại chuyện ngụ ngôn “thầy bói mù xem voi”!  Họ chỉ đồng ý với nhau một điều,

            “Bọn Mỹ trong sở tao ngu như bò.  Tao hỏi mua xe ‘mới’ trả bảo hiểm bao nhiêu tiền, tụi nó ngu ngơ lắc đầu không biết và biểu tao gọi hãng bảo hiểm mà hỏi.”

Thấy tôi ngồi yên tay cầm lon bia còn uống dở, bác Hòa bước lại,

            “Sao không nói năng gì cả vậy, anh cần thêm gì không?”

            “Dạ không.  Rượu vào lời ra, cháu chưa đủ đô (dose) nên chưa thưa thốt và còn dựa cột mà nghe,” tôi cười cười.

            “Vậy thì anh qua kia ngồi nói chuyện ba lăng nhăng với tôi.  Hay là muốn sang với ‘cô ấy’ để hóng chuyện ngồi lê đôi mách của các bà?” bác chỉ sang phòng ăn; nói “cô ấy” bác ám chỉ Quỳnh Châu.

            “Cháu mà lết sang bên kia thế nào cũng bị ‘cô ấy’ đuổi trở lại đây, ‘Khu liền bà, anh léo hánh tới làm chi?’  Vả lại, cháu có chuyện quan trọng muốn hỏi bác,” tôi đứng dậy đi theo bác; hơn nửa năm nay tôi băn khoăn thắc mắc về chuyện bác Thiện.

Đầu tháng Tư dân Sài gòn đồn đại bác Thiện ra lệnh cho thống đốc Ngân hàng Quốc gia liên lạc với hai hãng hàng không Trans World Airlines và Pan Am và hãng bảo hiểm Lloyd’s of London để chuyển 16 tấn vàng ra ngoại quốc nhằm tài trợ chính phủ lưu vong và mua vũ khí cho quân kháng chiến trong trường hợp đất nước lọt vào tay Cộng sản.  Đêm thứ Sáu 25 tháng Tư, bốn ngày sau khi từ chức, bác rời Sài gòn bay sang thủ đô Trung hoa Dân quốc là Đài Bắc với danh nghĩa đi phúng điếu cố Tổng thống Tưởng Giới Thạch mất trước đó ba tuần rồi bay đi Anh quốc.  Tiếng đồn lan rộ lên:  Bác lấy 16 tấn vàng mang theo.  Từ đó, mỗi khi nghe người đồng hương lên án bác biển thủ tài sản quốc gia, tôi không biết thực hư nên cứ xót xa trong lòng.  Bây giờ có dịp hỏi bác Hòa,

            “Thưa bác, ông Thiện có mang 16 tấn vàng sang Đài Bắc hay không?”

            “Làm quái gì có chuyện đó!  Trong trại Đồn Chaffee, tôi đã cãi cọ với nhiều người về lời đồn ác nghiệt này.  Thủ phạm không ai khác hơn lũ Việt Cộng lưu manh phao tin láo toét, trong lúc phần lớn dân mình ngây thơ dễ tin.  Nhưng có đôi ba thằng tướng tá vốn hèn nhát ôm vợ con của cải chạy trốn, có tật giật mình, và đồn rân lên để bôi nhọ ông Thiện xuống hàng giun dế như nó,” bác Hòa giận dữ mặt đỏ gay.

            “Sao bác biết chắc như vậy?”

            “Tôi không biết thì ai biết?  Ông Thiện đến Đài Bắc bằng máy bay quân sự Mỹ.  Đại sứ Kiển là anh ông Thiện đi vắng, đi đâu không biết, và đích thân tôi ra phi trường đón đưa gia đình ông Thiện,” bác giơ tay ra quả quyết, “Chính tay này mang tất cả 31 chiếc va-li của gia đình ông Thiện từ trên máy bay xuống cũng như đưa lên máy bay khi họ rời Đài Bắc đi Anh.  Nếu chia đều 16 tấn vàng cho 31 chiếc va-li, mỗi va-li phải đựng vào khoảng nửa tấn, tức là 500 kí.  Làm sao sức người có thể đưa lên đưa xuống máy bay?”

Hơn ba thập niên sau, năm 2006, chính phủ Việt Cộng cuối cùng thú nhận toàn bộ số vàng gồm 1,234 thỏi vẫn nằm y nguyên tại Sài gòn và được bàn giao cho chúng “khớp với sổ sách từng chi tiết nhỏ.”  Nợ bác Thiện một lời xin lỗi những kẻ phe VNCH đã kết tội bác, dù tưởng lầm hay có ác ý.  Nhưng không ai đứng lên tạ lỗi.  Dầu sao đã cũng trễ rồi.  Bác mất năm năm trước tại Boston thuộc tiểu bang Massachusetts.

Nguyễn Ngọc Hoa

Cả Tàu Không Ăn Cỏ

Đầu tháng Mười Một, thời tiết North Dakota chớm vào cuối thu, trời lạnh về đêm, và sáng sớm sương mai đóng băng trên những lá cỏ vàng úa.  Trong vòng một tuần, đợt người tỵ nạn cuối cùng gồm hơn hai chục gia đình người Việt, ba gia đình người Miên, và hai gia đình người Lào từ trại tỵ nạn Đồn Chaffee lục tục kéo về Bismarck và xuất hiện trong các khu nhà apartment ở vùng phía nam thành phố.  Họ là những người còn lại trong Đồn Chaffee khi chính phủ tiến hành việc đóng cửa trại trước khi mùa đông bắt đầu và được chuyển về đây vì North Dakota là một tiểu bang có mức thất nghiệp thấp nhất trên toàn quốc.

Cơ quan thiện nguyện Hội đồng Công giáo Hoa kỳ (USCC) và tiểu bang North Dakota hợp tác để định cư đợt “vét trại” này.  USCC là đại diện chính thức của Hội đồng Giám mục Hoa kỳ trong lãnh vực di trú, nhập cư, và tỵ nạn, và do đó tòa Giám mục Giáo phận Bismarck là cơ quan bảo trợ chính thức của họ.  Cha Thomas Somers, một phụ tá cha xứ ở thành phố Mandan kế cận, được cử làm trưởng ban định cư của giáo phận.  Mandan và Bismarck chỉ cách nhau bảy dặm Anh và được gọi là hai “thành phố sinh đôi.”  Tiểu bang thành lập Ủy ban Đặc nhiệm Tỵ nạn Đông dương gồm thống đốc và đại diện các cơ quan chính quyền và dân sự liên hệ để tích cực yểm trợ chương trình định cư. 

USCC trung ương ở Nữu Ước gửi về hai cán sự xã hội là cô Mary và anh Bob để gánh vác công việc.  Cả hai đều dưới ba mươi và có kinh nghiệm làm việc với người tỵ nạn ở Phi châu và Trung đông.  Ngoài việc lo nhà cửa, ăn uống, thuốc men, và việc làm, hai nhân viên này còn đưa người chưa rành tiếng Anh đi học các lớp Anh ngữ căn bản ở trụ sở tòa giám mục.  Buổi sáng, họ chia nhau đến từng gia đình, chở người lớn đi học, đưa trẻ em chưa tới tuổi đến trường tới nhà giữ trẻ, và chiều tan trường đưa tất cả về nhà.  Mặc dù gia đình tôi không thuộc USCC, mẹ cũng được cho dự một lớp Anh ngữ đó.

Ông Nielsen mục sư trưởng của nhà thờ Ba ngôi Lutheran bảo trợ gia đình tôi có chân trong Ủy ban Đặc nhiệm.  Ủy ban cử ông đến nhà yêu cầu tôi và Quỳnh Châu,

“Trong thời gian đầu, những người mới đến cần người tình nguyện đi thông dịch trong các giao dịch quan trọng.  Chúng tôi không thể không nhờ anh chị.”

“Ban ngày cháu thường rảnh rỗi và sẵn lòng giúp,” Quỳnh Châu sốt sắng và nói tiếp, “Nhưng chồng cháu phải đi làm, chỉ rảnh vào buổi tối hay cuối tuần; chắc không cần anh ấy đâu.”

“Thật ra chúng tôi cần cả hai người.  Ba Hoa, nếu dân tỵ nạn cần anh trong giờ làm việc, anh có thể rời sở ra đi mà không sợ bị khiển trách,” ông vịn vai tôi.

“Thật vậy sao bác?”

“Tôi điện thoại cho ông tổng giám đốc Công ty Tiện ích Montana-Dakota, ông ta nói châm ngôn của công ty là ‘In the Community to Serve’ (Trong cộng đồng để phục vụ) nên cho phép anh giúp chúng tôi trong những trường hợp khẩn cấp.”

Thế là Quỳnh Châu thành “chuyên viên” xin welfare và food stamps.  Welfare là tiền trợ cấp dành cho “gia đình Mỹ có con cần nuôi dưỡng,” và food stamps là phiếu thực phẩm cấp cho người lợi tức kém, ghi trị giá bằng đô-la, và có thể dùng mua thức ăn tại các chợ.  Nàng làm công việc này lâu dài và thường xuyên đến nỗi trong mấy năm đầu đời của Bích Mạc con đầu lòng của chúng tôi, thằng bé nhập tâm cho đó là việc làm chính thức của nàng.  Ngày Bích Mạc lên ba, bắt đầu học nói, và bắt chước điệu bộ và ngôn ngữ người lớn, khi có người hỏi, “Cu Mạc đi đâu đó?” thằng bé làm bộ xách ví đi lon ton ra cửa và vênh mặt trả lời, “Mạc đi xin food stamps.”

Tôi là “chuyên viên” hòa giải khi cơ quan công lực cần tới.  Giữa đêm khuya sở cảnh sát gọi nhờ đi thông dịch khi họ đáp lại các cú điện thoại gọi cầu cứu.  Quỳnh Châu thường thức dậy đi với tôi; nàng nói, “Để cho chồng có bạn và bớt buồn ngủ,” nhưng thực ra biết rằng tôi cần tài phân giải khéo léo của nàng.  Nếu là ẩu đả trong nhà, tức là chồng uýnh vợ, Quỳnh Châu can ngăn và khuyên nhủ chị vợ trình với cảnh sát cuộc xô xát do hiểu lầm mà ra và không khiếu nại.  Tôi thuyết phục anh chồng chịu khó về nhà tôi ngủ một đêm trên ghế xô-pha trong phòng khách, thay vì phòng giam ở bót cảnh sát.  Cảnh sát thấy êm chuyện, không tiếp tục điều tra, và ra về sau khi chúc mọi người ngủ ngon.

Nếu là xung đột dính dáng tới một hay hai cựu quân nhân trẻ tuổi háo thắng, chúng tôi đến thẳng bót cảnh sát vì họ đã bị còng tay điệu về đó.  Ngày Việt nam, họ là chiến binh hào hùng đánh giặc như điên trên rừng và khi về phố ăn nhậu thả giàn, rượu vào lời ra, ai nói gì chạm tự ái là đòi rút dao lụi liền một khi – cái thói quen dữ dằn sang Mỹ chưa chịu chừa.  Đối với luật pháp Hoa kỳ, đánh nhau tay đôi có thể chấp nhận được, nhưng cầm dao (võ khí giết người) là toan sát nhân.  May là các chàng hảo hớn cũng biết ngán, vội vàng buông dao khi nghe gọi cảnh sát, và chưa lần nào gây ra đổ máu.  Nhưng không dễ dầu gì mà thuyết phục cảnh sát thả ra:  Nếu Quỳnh Châu dùng danh xưng giáo sư Đại học Cộng đồng Bismarck mà không thành công, tôi phải gọi Mục sư Nielsen đánh thức ông dậy đến can thiệp.

Cuối tuần tôi và Quỳnh Châu được đền ơn, mời ăn nhậu, và khoản đãi những món ăn khoái khẩu và mắt tiền nhất như tôm càng nướng, cua Alaska loại lớn hấp, hay thịt bít-tết hảo hạng chiên bên ngoài cháy mà giữa còn sống.  Chủ nhân dùng food stamps để mua những thức ăn này.  Tôi không khỏi nghĩ tới giai thoại về người thụ nhận welfare và food stamps mà mấy người bạn Mỹ kể lại:  Hàng đêm vào khoảng hai giờ sáng, khi phần lớn mọi người ngủ để lấy sức sáng mai đi làm, xe hơi sang như Cadillac và Mercedes tấp nập ra vào bãi đậu xe của siêu thị.  Từ trên xe (chắc hẳn do người khác đứng tên), các tay ăn welfare bước xuống vào siêu thị dùng food stamps mua đồ ăn xa xí người Mỹ trung lưu ít ai dám rớ, chất đầy xe đẩy.  Quỳnh Châu lắc đầu không bằng lòng,

            “Anh nhớ rằng đây là bạn tỵ nạn nghèo khó dùng food stamps tức là phần ăn của gia đình con cái họ để mua của ngon vật lạ đãi mình.  Chồng đừng nghĩ quấy cho người ta mà tội nghiệp.”

Từ đó tôi chỉ nhận lời mời nếu chủ nhân bằng lòng cho mang bia tới đãi người lớn và nước ngọt hay bánh ngọt làm quà cho trẻ em.  Tôi cũng bị cảnh sát gọi đi trong giờ làm việc, thường vào lúc bất ngờ nhất.  Một hôm cô thư ký vào phòng họp gọi tôi ngay giữa buổi họp với ông Wally phó tổng giám đốc.  Tôi đứng dậy đi ra, sau lưng nghe tiếng ông vừa bực mình vừa hãnh diện,

“Hôm nào tôi phải gửi cho sở Cảnh sát cái hóa đơn mới được.”

Ông dọa đùa sẽ tính tiền thì giờ tôi làm việc cho cảnh sát.  Và đó là lần tôi đi giúp anh Tân.  Anh là cựu sĩ quan, binh chủng nào không rõ vì anh không tiết lộ thân thế với ai.  Chỉ biết anh độc thân, không bà con thân thích, ở Mỹ cũng như ở Việt nam.  Anh làm việc cho hãng ráp và chế tạo đồ phụ tùng máy cày, để dành tiền mua chiếc xe Renault hai cửa cũ, và cuối tuần và ngày lễ lái đi chơi xa một mình – đi đâu anh không nói.  Chiều nay, anh lái xe ra ngoài đồng ngoài ranh giới thành phố, lấy can xăng tưới ướt nệm xe, ngồi vào ghế tài xế, và châm lửa đốt.  Khi tôi tới nơi, nhân viên cứu hỏa vừa dập tắt ngọn lửa, kéo anh ra khỏi xe, và đặt lên băng-ca (tiếng Pháp “brancard” tức là dá để khiêng người bệnh).

Tôi ký giấy tờ nhận là thân nhân của anh Tân; cảnh sát tin như thế vì tôi cùng họ với anh.  Sáng hôm sau tờ Bismarck Tribune đăng tin, bạn đồng sự đến đưa thiệp phân ưu kèm theo món tiền phúng điếu nhỏ cho tôi, và ông Wally đích thân xuống chia buồn, ra lệnh cho tôi đi về nhà, và nhắc nhở theo điều lệ của công ty, nhân viên được phép nghỉ hai ngày để dự đám tang của anh chị hay em.  Nhưng tôi thà đi làm để tâm trí bận rộn và khỏi nghĩ tới thi hài cháy đen nứt nẻ của kẻ bạc phước.

* * *

Cha Somers trạc tứ tuần, người phốp pháp béo trắng, và hay cười nụ một cách khó hiểu.  Thỉnh thoảng, khi một thiếu phụ giàu có trẻ đẹp ở thành phố Mandan bên cạnh mang vật dụng và áo quần tặng các gia đình người Việt, cha đón tôi đi thông dịch.  Xong việc cha đưa tôi về ngôi nhà lớn và sang trọng của thiếu phụ, nhà vắng người không có ai ngoài ba chúng tôi.  Để tôi ngồi ăn bánh ngọt và uống cà-phê trong phòng khách, hai người lẳng lặng rút lui vào trong.  Có lần tôi giả vờ đi tìm phòng vệ sinh và qua cánh cửa phòng ngủ tình cờ mở hé, thấy họ nằm khắng khít thân mật bên nhau.  (Sau này, khi biết thái độ xem người Việt như cỏ rác của cha, tôi hiểu ra cha đã dùng tôi làm hình nộm đặt giữa cha và người tình có chồng để mà mắt thế gian.)

Một chiều thứ Sáu, mẹ đi học Anh văn về trễ và tới nhà là gọi tôi và cha ra kể chuyện hồi chiều.  Trước đợt vét trại, cha Somers bảo trợ gia đình anh Mục và gửi lên cho một nhà thờ công giáo ở thành phố Williston lo liệu.  Williston là vùng mỏ dầu nằm phía tây bắc North Dakota, từ Bismarck lái xe tới mất khoảng bốn tiếng đồng hồ.  Vợ chồng anh có ba đứa con, cô bé lớn nhất 15 tuổi, và cậu nhỏ nhất lên sáu.  Ba đứa con đã đi học, nhưng anh chị còn thất nghiệp vì việc làm mỏ dầu tuy đầy dẫy và trả lương cao nhưng đòi hỏi phải biết tiếng Anh.  Khi nghe tin đợt người mới tới Bismarck được giúp đỡ mọi mặt, anh quyết định rời Williston, đưa gia đình xuống đây, đến văn phòng cha trong trụ sở tòa giám mục, và biểu cô con gái lớn bập bẹ thông dịch để thỉnh cầu cha.

Cha Somers lạnh lùng hỏi,

            “Sao các người không ở Williston mà về đây làm gì?”

            “Thưa cha, chúng con tiếng tăm không biết, việc vàn không có, bạn bè cũng không, và sống như cấm cung trong nhà.  Chúng con nghe nói Bismarck có đông người Việt và có lớp học Anh ngữ, xin cha cho chúng con dời xuống đây,” vợ chồng anh Mục chấp tay khúm núm.

            “Tôi lo cho các người xong rồi.  Nếu không về lại Williston, các ngươi làm gì tôi không cần biết,” cha từ chối.

Hai vợ chồng năn nỉ lạy lục cách mấy cha Somers cũng không xiêu lòng.  Anh Mục đến đường cùng nước bí,

            “Xin cha thương một lần cuối và giúp phương tiện cho chúng con đi California, ở đó chúng con có bạn bè giúp đỡ.  Sẽ không bao giờ làm phiền cha nữa.”

            “Đã nói không là không, tôi hết trách nhiệm rồi,” cha nghiến răng.

            “Nếu vậy, chúng con sẽ ngồi tại đây đến khi cha đồng ý giúp, hay cả gia đình năm mạng bỏ xác tại chốn này,” anh cương quyết không kém.

            “Các người muốn nằm vạ hay muốn chết thì ra gốc cây ngoài sân mà ngồi.  Tôi có việc phải làm.”

Vợ chồng anh Mục và ba đứa con thi gan ngồi lì dưới gốc cây trong sân, nhưng không ai đoái nhìn tới họ.  Gần bốn tiếng đồng hồ sau, nhóm đồng hương bãi học ra ngoài trông thấy và hỏi thăm tự sự.  Mẹ và các bà khác không cần bàn bạc dài dòng, lẹ làng thu xếp mời gia đình anh Mục về khu nhà apartment ở tạm.  Trong hai ngày cuối tuần, cộng đồng Việt nam nhỏ bé nghèo nàn quyên góp đủ tiền mua vé xe đò và tặng lộ phí cho gia đình bị cự tuyệt để sáng thứ Hai họ lên đường xuôi về miền California nắng ấm.

Tối Chủ Nhật, bác Hòa cựu tham vụ ngoại giao đại diện cả nhóm trao cho tôi thư thỉnh nguyện để nhờ Mục sư Nielsen chuyển đạt đến đức Giám mục giáo phận và ông Thống đốc tiểu bang.  Thư mang chữ ký tất cả các chủ gia đình USCC bảo trợ, yêu cầu cách chức cha Somers, và nói rõ ngày nào cha còn tại chức thì ngày đó học viên sẽ “bãi khóa” không đến lớp.  Hành động của nhóm người thấp cổ bé miệng lột hết ý nghĩa của tình đồng bào, “Một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ.”

Học viên “cúp cua” ở nhà hai ngày.  Sáng thứ Tư, cô Mary và anh Bob đến từng nhà thông báo cha Somers đã bị thay thế và đón mọi người đi học trở lại.  Tội nghiệp cho cái “tàu ngựa” của chúng tôi:  đi tỵ nạn mà lại gặp nhằm ông cha hổ mang!

Nguyễn Ngọc Hoa

                                                                                           Ngày 26 tháng Tám, 2020

Mọi Thứ Tôi Có Được Đều Đã Mất

Rời khỏi trụ sở Công ty Tiện ích Montana-Dakota (MDU), tôi ba chân bốn cẳng chạy về nhà tìm Quỳnh Châu,

            “Chồng em có việc làm rồi!  Ba ‘thằng Thìn’ hết thất nghiệp rồi!”

“Mừng chồng yêu, mừng cho gia đình mình!” nàng rơm rớm nước mắt rồi dường như chợt nhớ ra điều gì, nàng đứng lui nửa bước nghiêng đầu nhìn vào mặt tôi, “Ông kỹ sư đẹp chai của em cần có áo quần mới để đi làm.  Chồng không nên ăn mặc lùi xùi quá, mấy cô thư ký tóc vàng mắt xanh trong sở cười cho mất mặt anh hùng.’”

            “Ai cười nấy hở mười cái răng, anh đi làm chớ có phải đi dự đại hội thời trang đâu mà lo.  Mình nghèo mình mặc đồ cũ, ăn cắp ăn trộm gì của ai mà sợ,” tôi gạt ngang.

            “Anh gọi điện thoại cho ông Gardner liền đi, báo tin cho ông mừng,” nàng cười chúm chím một cách bí mật.

Ông bảo trợ Gardner chúc mừng tôi và nói,

“Tôi đã nói chuyện với Francis hàng xóm của anh và nhờ anh ấy dàn xếp đưa anh đi mua sắm áo quần mới.”  Thì ra Quỳnh Châu đã bàn tính chuyện này với ông Gardner; nàng chu đáo không thua gì mẹ.

“Nhưng cháu không có tiền và không muốn nhờ vả về tiền bạc trong lúc này.  Cháu tính đợi lãnh lương rồi mới sắm sửa,” tôi giãy nảy không chịu.

“Francis làm giám đốc cửa hàng bách hóa J. C. Penny rất lớn dưới phố.  Anh ấy sẽ có cách giúp anh, anh tin tôi đi.”

Chiều thứ Sáu, sau giờ ăn trưa ông Francis sang đón tôi.  Vào cửa hàng J. C. Penney, gặp nhân viên nào ông cũng hãnh diện giới thiệu tôi là người Việt tỵ nạn được nhà thờ Ba ngôi Lutheran bảo trợ và sắp làm kỹ sư cho MDU.  Ông đưa tôi đến phòng Tín dụng để tôi điền đơn xin thẻ tín dụng, ông chấp thuận ngay tại chỗ và giải thích,

            “Thẻ này cho phép anh mua hàng hóa và dịch vụ ở bất cứ cửa hàng J. C. Penny nào mà không phải trả tiền ngay.  Hôm nay, chúng ta dùng thẻ để anh mua sắm.”

            “Vậy là cháu có thể mua hàng mắc chịu.  Nhưng làm sao trả tiền, lỡ cháu không đủ tiền trả thì sao?” tôi nhớ mình nợ tiền vay ngân hàng lúc các em mới đi học, và không biết bao giờ mới lãnh lương.

“Tháng này anh chưa phải lo.  Bắt đầu từ tháng sau, công ty gửi hóa đơn về nhà cho anh.  Anh không phải trả hết một lần, nhưng tùy theo khả năng cần trả càng nhiều càng tốt vì số tiền nợ lại sẽ tính lời với lãi suất rất cao.”

Tôi hiểu ra và nhận xét,

“Thẻ tín dụng tiện lợi thực, nhưng nếu không cẩn thận mà mua sắm bừa bãi thì mang nợ cả đời.”

“Anh nói đúng, công ty cấp thẻ tín dụng để khuyến dụ anh mua hàng càng nhiều càng tốt chứ không phải vì tốt bụng với anh.  Ở xứ này không có gì miễn phí, và không ai cho không ai cái gì cả.  Anh nhớ điều đó,” ông Francis nói với nét mặt nghiêm trang.

“Cháu học về kinh tế và hiểu rằng trong nền kinh tế thị trường của Hoa kỳ, khi ai nấy đều tối đa hóa lợi nhuận của mình thì toàn thể xã hội sẽ đạt tới mức tối ưu.  J. C. Penny là cơ sở thương mại dĩ nhiên cần kiếm lợi tối đa.  Vấn đề là làm sao cháu dùng thẻ theo cách lợi nhất cho mình.”

Cầm chiếc thẻ tín dụng tạm thời (thẻ chính thức bằng plastic in nổi số thẻ và tên họ sẽ gửi về nhà sau), tôi hơi lo về chuyện nợ nần nhưng cảm thấy một thoáng tự hào, mình mua mình trả chứ không xin xỏ ai.  Hôm nay là lần đầu tiên tôi đi mua áo quần may sẵn bán ngoài tiệm.  Ngày còn bé, ngoài áo quần cũ thừa hưởng của anh Quang thải xuống, mỗi năm tôi có hai bộ áo quần mới mẹ đặt may và để sẵn, đến ngày tựu trường và mồng một Tết mới được mặc.  Khi tôi lên trung học, mẹ mua vải đưa trước cho tiệm may quen gần nhà, tôi chỉ việc đến đo ni tấc và đợi ngày tới lấy về.  Khi lên đại học và đi làm, tôi đến vài tiệm may có tiếng ở Sài gòn, chọn lựa mẫu vải và kiểu quần áo thịnh hành chưng bày trong tiệm, đặt may rồi hẹn ngày đến trả tiền lấy về.  Giày mang đi học hay đi làm cũng vậy, tôi đặt đóng ở tiệm giày quen theo cỡ chân với kiểu giày và loại da mong muốn. 

Ông Francis đưa tôi đến khu bán quần áo đàn ông, tôi hoảng kinh nhận ra áo sơ-mi cũng như quần dài, chiếc nào chiếc nấy to tổ chảng, tôi “bơi” bên trong vẫn còn rộng.  Thí dụ, quần đàn ông nhỏ nhất có vòng thắt lưng 34 inch, trong lúc vòng thắt lưng khiêm tốn của người Việt trung bình như tôi chỉ chừng 28 inch.  Đành sang khu bán đồ con trai tuổi choai choai.  Lục lọi áo quần máng trên năm, sáu cái giá dài, tôi tìm được một số quần áo mặc vừa, nhưng kiểu may, loại vải, và màu sắc khó coi.  Không có áo sơ-mi cổ cứng để mang cà-vạt, tôi mua cà-vạt đen (ở Việt nam tôi dùng mang đi đám ma) với cái móc plastic để móc nút cà-vạt vào cổ áo trông như đồ chơi.  Không có com-lê cả bộ, tôi mua áo vest chửi nhau với mấy cái quần dài.  Đứng trước gương trong phòng thử, tôi thấy mình lạ hoắc và trông . . . không giống ai.

Rời khu con trai với hai bao áo quần trẻ em tạp nham, tôi theo ông Francis đến khu bán giày.  Tôi không biết cỡ giày mình, ông ra lệnh cho cô bán hàng lấy máy đo bàn chân tôi,

            “Đây là máy Brannock do một anh chàng tên Charles F. Brannock ở Nữu Ước sáng chế năm 1925.  Anh là kỹ sư có thể tìm hiểu nguyên tắc hay tính chất của máy, còn hàng bán giày chúng tôi chỉ cần anh đặt bàn chân lên máy rồi điều chỉnh các cần đo và đọc cỡ giày anh nên mang.”

Cô bán hàng đo chân tôi rồi cho biết giày tôi cỡ tám rưỡi (8½) D.  Cỡ 8½ là chiều dài tính bằng inch từ gót chân đến đầu ngón chân xa nhất.  “D” là ký hiệu chỉ bề rộng của giày.  Cô dịu dàng nói thêm,

            “Trong cách xếp hạng cỡ giày Mỹ, ‘D’ là bề rộng tiêu chuẩn hay trung bình, ‘C’ là hẹp, và ‘E,’ ‘EE’ (hay ‘2E’), và ‘EEE’ (hay ‘3E’) là cỡ rộng hay rất rộng.  Nếu ông giúp bà nhà chọn cỡ giày, xin nhớ là bề rộng tiêu chuẩn của giày đàn bà là ‘B,’ chứ không phải ‘D’ như ông đâu nhé.”

Phần lớn những kiểu giày bày trên kệ và mấy chiếc bàn thấp đều thô kệch dềnh dàng hay màu mè phô trương, không có kiểu nào thanh nhã như các mốt (mode) Âu châu ở bên nhà.  Ông Francis cầm đưa lên một chiếc giày mũi nhọn có các lỗ thủng nhỏ chạy thành hình cánh chim rẽ ra hai bên tới gần gót giày,

            “Đây là giày wingtip (đầu cánh chim) rất thông dụng trong giới doanh nghiệp, anh thấy sao?”

Tôi nhìn xuống chân ông Francis, đó là kiểu giày ông mang.  Theo lời khuyên của ông, tôi chọn hai đôi wingtip, một đôi màu đen và một đôi màu vỏ dà để thay đổi theo màu quần.  Mất nguyên cả buổi chiều mua sắm nhưng tôi không mua được món nào vừa ý.  Nếu ngày Sài gòn tôi tự hào với tủ quần áo chọn lọc và cách ăn mặc hợp thời trang, hôm nay chỉ biết than ôithời oanh liệt nay còn đâu.

Sáng thứ Hai, tôi trình diện ở trụ sở MDU và bắt đầu cuộc đời đi “làm sở Mỹ” mà áy náy bồn chồn vì bộ vận trẻ em của mình.  Đôi giày wingtip lại quá chững chạc, tương phản ngộ nghĩnh với bộ áo quần bên trên.  Tôi biết các bạn đồng nghiệp mới thấy rõ điều này vì đến cuối ngày trước khi chia tay ra về, anh bạn Charlie khen, “Đôi giày đẹp, Ba Hoa anh khéo chọn lắm!”

* * *

Khoảng một tuần sau, trong bữa cơm tối tôi kể chuyện thẻ J. C. Penney với các em.  Mắt thằng Sang sáng rỡ,

            “Mai anh đi mua giùm tui bộ stereo (máy hát âm thanh nổi) vừa nghe ra-đi-ô vừa nghe dĩa hát.  Tới kỳ lương tui trả tiền lại cho anh.”

            “Mày có dĩa đâu mà mua máy?” tôi hỏi gặng để can nó đừng mua.

            “Mấy thằng bạn ngoài trạm xăng hứa cho một lô dĩa hát mà tui không có máy nên cứ làm bộ ta đây không thèm.  Mà tui mua máy cho cả nhà nghe chớ đâu phải một mình tui!”

            “Được rồi, mai mày ra J. C. Penny với anh,” tôi chịu thua.

            “À, hôm trước anh Ba Hoa ‘bóc lột’ tiền ăn trưa của em để gửi cho cha mẹ, giờ anh phải đền lại cho ‘công chúa’ bằng cái T-shirt (áo thun ngắn tay).  Luôn tiện, anh mua cho chị Châu một cái để tỏ lòng . . . hiếu thảo với vợ,” Bình thừa dịp đòi nợ.

            “Tụi em cần quần lót,” Lâm và Trọng nhao nhao.

Chiếc thẻ tín dụng đầu tiên ấy giải quyết một số nhu cầu cấp bách của chúng tôi.  Sau khi trả xong món nợ vay ngân hàng, tôi được xem có thành tích trả nợ đàng hoàng, tức là “điểm tín dụng cao,” và mời nộp đơn xin thẻ tín dụng VISA của ngân hàng.  Khác với thẻ J. C. Penny, thẻ VISA có thể dùng ở bất cứ nơi nào chịu nhận thẻ, từ cửa hàng bách hóa đến nhà hàng ăn, hãng du lịch bán vé máy bay, công ty cho thuê xe hơi, và khách sạn.  Nhà buôn được lợi là bán hàng hóa hay dịch vụ dù khách chưa sẵn tiền mua, và nhận ngay tiền ngân hàng ứng trước.  Bù lại, ngân hàng ăn ba phần trăm huê hồng.  Chủ thẻ như tôi, nếu cuối tháng trả trọn số tiền mắc nợ thì kể như dùng thẻ VISA vay tiền miễn phí.  Miễn là trả hết; có lần tôi ký chi phiếu trả tiền vô ý ghi thiếu một xu (1¢), tháng sau thấy hóa đơn cộng thêm tiền lời 29 phần trăm tính trên tổng số nợ tháng trước.

Hệ thống “tín dụng” thương mại chi phối mọi khía cạnh của đời sống Hoa kỳ.  Hệ thống này cho phép những người ban đầu túng thiếu như tôi có được những món cần thiết bằng cách mua chịu.  Những gia đình trung lưu có thể có xe hơi, nhà cửa, và các tiện nghi khác bằng cách vay tiền ngân hàng và trả góp hàng tháng.  Xe hơi là phương tiện di chuyển không thể thiếu, và làm chủ một căn nhà là giấc mơ của mọi gia đình Mỹ.  Nhờ đó, người làm việc hưởng thụ cuộc sống đầy đủ và thoải mái, cửa hàng bán chạy hàng hóa, và ngân hàng phồn thịnh nhờ thu tiền lời.  Chỉ cần người vay nợ có lợi tức vững vàng, không vung tay quá trán ăn xài quá sức mình, và thanh toán hóa đơn hàng tháng đầy đủ và đều đặn.

Trong bốn năm cuối thập niên 1970, nền kinh tế Hoa kỳ suy thoái bốn đợt, mức thất nghiệp lên tới tám phần trăm, lạm phát 18 phần trăm một năm, và công nhân bị hãng xưởng sa thải.  Đối với nhiều người Mỹ, mất việc là khánh kiệt, là tán gia bại sản, và là mất tất cả.  Không trả tiền vay mua xe, nhà băng kéo xe.  Không trả tiền vay mua nhà, nhà băng xiết nhà.  Thiếu thốn mọi thứ về vật chất, vợ chồng sinh ra gấu ó cãi cọ ngày đêm, rốt cuộc gia đình tan rã, và chị vợ chia tay mang con ra đi.

Tôi dùng máy stereo của thằng Sang nghe dĩa nhạc và cảm thông nỗi sầu não của cảnh khánh tận thời trước qua bản nhạc đồng quê nổi tiếng “All I Got’s Gone” (Mọi thứ tôi có được đều đã mất),

Whole lot of people bought automobiles,
Didn’t know how they’s a-gonna feel,
Rode around so grand and proud,
Notes come due, couldn’t pay it out.
All they got’s gone, all they got’s gone.

I went to the bank to borrow some money,
I tell you right now, didn’t find it funny,
The banker said he had none to loan,
Get your old hat and pull out home.
For all we got’s gone, all we got’s gone.

(Có khối người đi mua xe hơi,
Không biết họ sẽ cảm thấy làm sao,
Chạy quanh sao thấy cao sang và hãnh diện,
Đến kỳ trả nợ, không tiền trả,
Mọi thứ họ có được đều đã mất, mọi thứ họ có được đều đã mất.

Tôi ra nhà băng mượn một ít tiền,
Phải nói ngay, có gì tức cười đâu,
Chủ băng nói không có gì cho vay,
Chụp chiếc mũ cũ đội và rút lẹ về nhà.
Vì mọi thứ ta có được đều đã mất, mọi thứ ta có được đều đã mất.)

Bản nhạc này được Ernest Van “Pop” Stoneman (1893 – 1968) thu dĩa năm 1934.  Ông là một nhạc sĩ thu dĩa hàng đầu trong thập niên 1930, thời gian đầu tiên nhạc đồng quê được phổ biến thương mại và cũng là thời gian cuộc đại khủng hoảng kinh tế toàn cầu xảy ra.

Nếu người Pháp có câu tục ngữ “Tiền bạc không tạo nên hạnh phúc” (L’argent ne fait pas le bonheur) thì ở Mỹ mất việc có thể đồng nghĩa với chịu trăm cay ngàn đắng nhìn hạnh phúc đội nón ra đi.  Trong 37 năm làm việc ở xứ này, chưa một lần tôi bị cho nghỉ việc.  Không phải người Việt tỵ nạn nào cũng may mắn như tôi.

Nguyễn Ngọc Hoa

Món Quà Ngày Chủ Nhật

Trong những năm gần đây ở Sài gòn các vị lãnh đạo tôn giáo đua nhau xuống đường biểu tình loạn xà ngầu khiến tôi đâm ra ngao ngán coi nhẹ tôn giáo và xem thường đức tin của mình.  Tôi là Phật tử nhưng chỉ đi chùa khi phải đưa mẹ đi, giỏi lắm là một năm ba lần:  Tết nguyên đán, lễ Phật đản, và lễ Vu lan.  Tôi cũng đi nhà thờ Công giáo một năm đôi ba lần khi có bạn rủ đi.  Giáng sinh đi lễ nửa đêm là dịp đáng nhớ nhất:  Hai phe đồng ý hưu chiến, lệnh giới nghiêm tạm đình chỉ, và mọi người đổ xô ra đường hưởng đêm “Sài gòn không giới nghiêm” ngắn ngủi.  Những lần đó, các bạn gọi nhạo tôi là dân “đạo dòng” – đi lòng dzòng mua vui.

Tôi chưa bao giờ đi nhà thờ Tin lành và hầu như không biết gì về đạo này.  Ngoại trừ các bạn người Mỹ, tín đồ Tin lành duy nhất tôi quen là Thanh Phú, người yêu cũ của thằng Tú bạn tôi.  Nàng dịu dàng và hiền lành, không bao giờ than vãn điều gì hay trách cứ ai, và đặt đức tin tuyệt đối vào đấng tối cao,

“Chúa an bài mọi việc, mỗi việc Người sắp đặt đều có mục đích riêng, và làm con của Người trên thế gian phải tin tưởng vào sự sáng suốt của Người.”

Tôi nhớ ngày tôi lên tám, học lớp nhì (lớp 4) trường Vinh Sanh thuộc nhà thờ Chánh tòa Qui Nhơn, và trên đường đi học về, đi ngang qua một bãi đất trống và tò mò dừng lại xem cặp vợ chồng mục sư Tin lành người Mỹ giảng đạo với đám đông gồm trẻ em và người nghèo khổ rách rưới.  Sau khi phân phát các gói bột bắp lớn và một đống áo quần cũ màu sắc lòe loẹt rộng thùng thình, ông mục sư nhắm tít mắt, đưa hai tay thành chữ V lên trời, và cất cao giọng nói tiếng Việt lơ lớ,

            “Các con hãy đến đây, hãy cùng ta ca ngợi Đức Chúa Trời.  Hãy tin vào Chúa, hãy làm con của Ngài.  Để được Ngài cứu rỗi, và linh hồn được giải thoát.  Đến đây, đến đây!”

Những kẻ khốn khó co ro đứng sắp hàng “tin vào Chúa” để lãnh 20 đồng, món tiền vừa đủ mua năm cuốn vở học trò 100 trang.  Bao bột bắp tôi lãnh về nhà lần đầu bị mẹ bắt đi đổ vì “để chật nhà” và không biết dùng làm gì.  Áo quần cũ người lớn lãnh về có lẽ cũng chịu chung số phận.  Những tuần lễ kế tiếp, ông mục sư tiếp tục rao mời như trước, và hàng người xin “được cứu rỗi” vẫn là những người đã lãnh tiền tuần trước, và tuần trước nữa.  Hình như đối với ông bà mục sư, khuôn mặt An nam nghèo đói xác xơ nào cũng giống nhau.  Tôi kể lại với mẹ giữa lúc mẹ đang nói chuyện với mấy bà bạn hàng xóm.  Một bà nhổ phẹt bãi nước trầu, lấy ngón tay vét môi, và cười khì khì,

            “Mấy chị ơi, đạo giáo chi mà cho phép cha cố lấy vợ đẻ con?  Đêm lục đục với vợ mệt phờ râu và ngày lo cơm nước gạo tiền cho vợ con thì còn đâu tinh thần mà dẫn dắt con chiên?”

            “Chị nói y hịch ý tui!  Muốn có vợ thì dù là cha cố cũng phải ve vãn kén chọn cô này cô nọ, tránh sao khỏi ba cái dzụ mèo chuột ghen tương.  Tưởng tượng ông cha đứng giảng kinh trong khi mấy cô chửi bới giành ‘cha’ ầm ỹ bên dưới, tui tức cười bể bụng,” một bà khác bập bập điếu thuốc Cẩm lệ bàn góp.

Chuyện ấy, tôi nhớ mãi.  Nhưng trời không chiều lòng người, ghét của nào trời trao của ấy.  Mặc dù tôi nhất định không dính dáng tới các cơ quan thiện nguyện đại diện tôn giáo, cơ duyên dun rủi khiến tôi được Cơ quan Di trú và Tỵ nạn Lutheran của đạo Tin lành tìm kiếm để bảo trợ.  Lúc ở bên nhà, tôi nghe nói mục sư Tin lành “Baptist” truyền giáo cho người Thượng trên vùng cao nguyên, nhưng chưa hề nghe tên “Lutheran.”  Trong trại Trại Pendleton, tôi học được Lutheran là giáo phái Tin lành lớn gắn bó chặt chẽ với giáo huấn của nhà thần học người Đức Martin Luther (1483 – 1546).  Ông là người đầu tiên hô hào phong trào cải cách đạo Thiên chúa, bác bỏ uy quyền của Giáo hội Công giáo La Mã và giáo hoàng, và khởi nguyên đạo Tin lành.

Lutheran và Baptist, cùng với sáu giáo phái khác như Adventist, Anglican, và Methodist là tám giáo phái Tin lành chính ở Hoa kỳ.  Ngoài ra, còn có trên một chục giáo phái Tin lành nhỏ hơn như Quaker và Irvingian, và vô số tòng phái.  Các tòng phái rất đa dạng, thường bắt buộc hay khuyến khích giáo đồ theo một nếp sống khác biệt nào đó, và hành đạo dưới nhiều danh xưng khác nhau như “nhà thờ,” “quy ước,” “hội đồng,” “nhà,” “liên minh,” và “hội tín hữu.”  Những giáo phái và tòng phái Tin lành hoạt động riêng rẽ, độc lập với nhau, và có quy luật, tín điều, và cách thờ phượng riêng, tuy tất cả đều tin Chúa Giê-su là đấng cứu thế.

Hôm nay là Chủ Nhật, ngày thứ ba tôi ở Bismarck.  Buổi sáng, ông Gardner đến đón gia đình tôi đi nhà thờ và cho biết tôi sẽ có một tiết mục trong buổi lễ.  Nhà thờ Ba ngôi Lutheran nằm cùng một khu phố với nhà tôi ở, qua khỏi sân sau là tới bãi đậu xe của nhà thờ.  Gia đình tôi ngồi ở hàng ghế dài đầu tiên trong nhà thờ với ông bà Gardner, ông là Chủ tịch ban Trị sự của nhà thờ Ba ngôi Lutheran.  Trong bộ áo lễ màu trắng viền đen trang trọng, Mục sư Nielsen đứng chủ lễ.  Lễ Tin lành ít theo nghi thức hơn lễ Công giáo tôi có dịp dự, và tín đồ hát thánh ca nhiều hơn.  Trong tiếng đàn đại phong cầm, lời thánh ca thanh thoát nhẹ nhàng mà tôn nghiêm.  Bài giảng của mục sư chú trọng quanh nghĩa vụ của tín hữu Thiên chúa giáo giúp đỡ những kẻ khốn khó mà không mong đợi được đền đáp.  Đặc biệt, ông nói, những người cần giúp đỡ hiện tại là gia đình tỵ nạn Việt nam mới tới; đó là chúng tôi.

Cuối bài giảng, ông Nielsen cầm một số báo Newsweek và đưa lên cao.  Cùng với tờ Time, Newsweek là một trong hai tuần san nổi tiếng phát hành tại Hoa kỳ và lưu hành khắp thế giới.  Số Newsweek đăng bài viết của Shana Alexander (1925 – 2005) về người tỵ nạn Việt nam, cô ký giả lo ngại họ chưa biết sử dụng máy giặt và máy sấy quần áo và không biết Michelangelo là ai thì làm sao sống nổi ở đất Mỹ.  Ông mục sư lên giọng,

Bài báo này tượng trưng cho sự hợm hĩnh và lòng ích kỷ mà Chúa dạy phải lánh xa.  Hôm qua, Bà Nielsen và tôi thù tiếp gia đình tỵ nạn của chúng ta và được hưởng một buổi tối thú vị.  Họ là những người thông minh nhất mà tôi gặp, và hai cô gái nấu ăn tuyệt vời.  Ba Hoa, chúng tôi may mắn được có gia đình anh ở đây.

Trên bục giảng kinh, ông Nielsen quay mặt xuống nhìn tôi; “Bà Nielsen” là bà Lorene vợ ông.  Tôi suy nghĩ về bài báo và nhủ thầm, học cách sử dụng máy giặt máy sấy không thể mất hơn dăm ba phút đồng hồ, sao làm như ghê gớm lắm?  Michelangelo là điêu khắc gia, họa sĩ, kiến trúc sư, và thi sĩ người Ý Michelangelo di Lodovico Buonarroti Simoni (1475 – 1564) sống vào thời Phục hưng ở Âu châu, công trình của ông gây ảnh hưởng vô song vào sự phát triển nghệ thuật tây phương.  Nhưng có phải người Mỹ nào cũng biết đến nhà nghệ sĩ đại tài này đâu, phần nào thôi chứ!

Tiếp theo, ông Gardner lên trình bày vắn tắt cuộc hành trình tìm tự do của gia đình tôi, ca ngợi chúng tôi là “những kẻ can đảm nhất,” gọi tôi là “người anh hùng” đã dẫn dắt gia đình đến nơi chốn an toàn, và cho biết cha mẹ đang ở trong trại Đồn Chaffee ở tiểu bang Arkansas và,

Nhà thờ Ba ngôi sẽ tiến hành việc bảo trợ ông bà ra đoàn tụ với các con, một khi Ba Hoa kiếm được việc làm bảo đảm sự ổn định kinh tế cho gia đình.

Nghĩa là muốn sớm gặp lại mẹ, tôi sẽ phải có việc làm càng sớm càng tốt.  Đến lượt tôi, tôi giới thiệu Quỳnh Châu và các em, cám ơn họ đạo đã bảo trợ và giúp đỡ chúng tôi trong bước đầu sống nơi xứ lạ, và ước vọng,

Hôm nay chúng tôi là người tỵ nạn, nhưng chắc chắn ngày mai chúng tôi sẽ là những công dân xứng đáng, góp sức xây dựng Hiệp chúng quốc Hoa kỳ ngày càng tốt đẹp hơn.

Sau lễ, chúng tôi theo ông Gardner xuống tầng hầm nhà thờ, vào một phòng hội lớn, dùng bánh ngọt và rượu táo hâm nóng và cà-phê, và gặp gỡ các người trong họ đạo.  Vừa vào phòng, các em tôi được mấy nhóm thanh niên trẻ cùng trang lứa chào đón và đưa về bàn mình trò chuyện.  Riêng Bình, không hổ là giáo sinh ban Anh văn của một đại học uy tín ở Việt nam, em duyên dáng và lưu loát kể chuyện di tản, và những người bạn mới kính phục nhìn em như muốn uống từng lời nói.  Ước chi tôi chụp được tấm hình cảnh nói chuyện đó để gửi cho tờ Newsweek.

Tôi và Quỳnh Châu tiếp những người lớn tuổi hơn.  Họ bắt tay chúng tôi và chào mừng, chúc mừng, và chúc may mắn trong những ngày sắp tới.  Sau cùng, một anh khoảng ba mươi tuổi, người cao lớn dềnh dàng, và giọng nói oang oang đến tự giới thiệu là Mike (tên tắt của Michael).  Anh làm giáo sư trường trung học Bismarck và tuần tới sẽ lo việc ghi tên cho hai em Lâm và Trọng đi học; anh hỏi tôi,

            “Tôi đọc tập sách về người tỵ nạn Đông dương do bộ Ngoại giao phân phối thì thấy nói phần lớn người Việt ở trong những túp lều tranh ở ngoài đồng.  Điều này có đúng không?”

            “Đúng, nhưng vào khoảng . . . ba hay bốn trăm năm trước, ngày Hoa kỳ chưa ra đời.  Lúc ở trong trại tỵ nạn, tôi cũng đọc tập sách đó và vô cùng ngạc nhiên khi thấy một tài liệu do chính phủ Hoa kỳ ấn hành mà lại chứa nhiều dữ kiện quá ư lỗi thời đến thế.  Tôi xem phần tài liệu tham khảo thì thấy tác giả dùng toàn sách cổ do người Pháp viết từ thế kỷ thứ 17 hay 18,” tôi cười nửa miệng lắc đầu.

            “Tôi cũng thấy nói khi gặp các em bé thì không được xoa đầu vì đó là điều tối kỵ.  Tại sao?” Mike hỏi thêm.

            “Tôi không biết, có lẽ là tục kỵ vào một thời xa xưa nào đó.  Dầu sao cũng không nên xoa đầu một cậu bé và làm rối bù mái tóc của cậu ta,” tôi nói đùa.

“Tôi không lấy làm lạ đâu Ba Hoa.  Ở xứ Mỹ này, ai cũng nói công chức quan liêu của chính phủ liên bang chẳng mấy khi làm được việc gì cho đàng hoàng,” Mike kết luận.

Chiều Chủ Nhật, khách tới nhà tôi nườm nượp.  Người trong họ đạo mang tặng chúng tôi đủ thứ áo quần và đồ dùng trong nhà.  Áo quần được giặt sạch và gấp xếp thẳng thớm hay nằm ngay ngắn trên móc áo, phần lớn đã dùng một vài lần, nhưng có một số còn mới toanh và còn nguyên nhãn – với giá tiền đã được cẩn thận lấy ra.  Trong số các đồ dùng, những dụng cụ nhỏ như máy đánh trứng làm bánh, máy xay trái cây, bàn ủi, v.v. được đóng gói trong hộp nguyên thủy và còn tờ chỉ dẫn cách sử dụng.  Quà tặng đi kèm theo với những lời chúc lành thiết tha, những câu an ủy chí tình, và lời lẽ khiêm tốn khiến chúng tôi cảm động vô cùng.  Có người cám ơn chúng tôi đã đến và cho người Mỹ thấy tự do không phải tự nhiên mà có.  Một ông trạc dưới bốn mươi (sau này tôi mới biết làm bác sĩ) đưa cho tôi chiếc phong bì đựng tờ bạc một trăm đô la kẹp trong tấm thiệp ghi “A gift of love” (Món quà yêu thương).  Ông mong tôi nhận tiền mà đừng phiền lòng, vì đáng lẽ ông phải đưa tôi đi mua đôi giày mới.  (Có lẽ ông thấy đôi giày há mõm lúc tôi lên phát biểu ở nhà thờ.)

Lần đầu tiên tôi hiểu thấm thía câu ngạn ngữ Pháp “Cách cho còn hơn của đem cho” (La façon de donner vaut mieux que ce qu’on donne), câu nói của nhà soạn kịch người Pháp Pierre Corneille (1606 – 1684).  Cùng với Molière và Racine, Corneille là một trong ba nhà soạn kịch vĩ đại nhất của Pháp vào thế kỷ thứ 17.  Từ cách cho của họ đạo, món quà quý giá nhất tôi nhận được hôm nay là tấm lòng nhân ái giữa người và người, không phải giữa người bảo trợ và người tỵ nạn.  Món quà ấy tôi dùng mãi dùng hoài trong đời, không bao giờ vơi cạn.

Riêng về “món quà” phủ đầu của Shana Alexander, tôi cũng luôn luôn mang theo trong mình.  Nhờ cô mà trong suốt 37 năm làm việc và đi học ở North Dakota, tôi nguyện với lòng lúc nào cũng phải giỏi hơn người Mỹ trong hoàn cảnh tương tự – và tôi đã thành công.  Nhưng tôi không biết ơn cô hay tờ Newsweek.

Nguyễn Ngọc Hoa                       

TÔI ĐI HỌC

NGUYỄN NGỌC HOA

file9751272655027

Mẹ tôi kể khi vừa mới biết đi lẩm chẩm tôi đã được bà con họ hàng ai cũng khen là kháu khỉnh và hiền như cục bột. Anh tôi lớn hơn tôi bốn tuổi, là cháu đích tôn trong một gia đình hiếm hoi. Ông nội là con một và chỉ có hai người con trai, nhưng người con lớn là bác tôi mất sớm nên chỉ còn một mình cha tôi. Không những ông tôi là trưởng tộc mà gia đình nhiều ruộng đất và giàu có nhất làng; ai nấy đều luôn luôn có chuyện xin xỏ, nhờ vả, hay vay mượn cầm cố. Ông sợ bà như sợ cọp nên bà nội là người cầm quyền sinh sát trong họ ngoài làng.
Khi anh tôi ra đời, ông tôi đặt tên anh là Quang, cái tên ông đã lục gia phả tham khảo và lựa chọn kỹ càng để không những mang ý nghĩa anh sẽ mang lại vinh quang cho dòng họ mà cần nhất là không trùng tên với bất cớ ai, từ tổ tiên ông bà đến làng nước xóm giềng. Nhưng bà nội gạt đi, cấm không ai được gọi anh bằng cái tên đẹp đẽ đó, sợ người cõi âm nghe thấy mà bắt đi. Do đó anh được gọi là thằng Gái để đánh lừa các hồn ma bóng quế. Mỗi khi trời sấm sét bà bắt thằng Gái ngậm mấy hạt gạo giả bộ như đang ăn để tránh sét đánh, vì trời đánh tránh bữa ăn Tiếp tục đọc