CƠN GIÓ MANG HỒN LỮNG THỮNG (TT)

ledachoanghuu

…Ba tháng sau ngày khánh thành con đập, hồ tích đầy nước. Còn thằng Chí nhận được hai giấy báo, một giấy báo đậu đại học, một giấy báo… bị đuổi việc. Nữa tháng sau nó cũng nhận được giấy báo, giống giấy báo sau của thằng Chí. Nhưng hai đứa bị đuổi thì không liên quan gì với nhau.
Kèm với tờ giấy báo đuổi việc thằng Chí còn bị một trận đòn nhừ tử. Vài ngày sau nó mới biết được lý do ngay từ người đánh nó, một tay quậy phá xóm làng gần huyện, tay này ăn năn kiếm gặp hai đứa nó mời bằng được ra quán nhậu một chầu, tay tên Chiến lưu linh. Ra quán nhậu, Chiến lưu linh đẩy bộc thuốc bự trên bàn qua thằng Chí:
“Cho anh xin lỗi thằng Chí, trong này đầy đủ thuốc uống, thuốc xoa bóp anh cất công trèo núi lên chùa xin về coi như tạ lỗi, anh vì chút tiền mà chẳng tìm hiểu kỹ, cứ nghĩ cha đó nói thiệt, đâu ngờ chả ba xạo, mong tụi em bỏ qua”.
Thằng Chí hỏi lại:
“Cha nào?’.
Chiến lưu linh rót rượu, gắp mồi vô chén tụi nó:
“Cạn ly đi nghen, ủa mà tụi em hông biết gì sao?”.
Thằng Chí lắc đầu, cả ba cùng cạn, Chí lưu linh nói tiếp:
“Là cha sếp của em đó”.
Hai đứa nó giựt mình, thằng Chí trợn mắt:
“Anh đừng nói bậy”.
Chiến lưu linh khoát tay liên tục:
“Hông nói bậy à nghen, anh nói bậy ông Trời oánh Thánh vật à”.
Nó xen vô:
“Chuyện thế nào, anh nói đi”.
Chiến lưu linh chậm rãi:
“Cha đó nói bữa em gặp chả xin đi học lớp theo tiêu chuẩn phòng phải hông?”.
Thằng Chí gật đầu:
“Phải, ổng hông cho đi, ổng nói hông có người làm”.
Chiến lưu linh cười khẩy:
“Làm gì có vậy, chả sợ thì có”.
“Sợ gì, ổng là thủ trưởng mà?”.
Chiến lưu linh tiếp tục cười:
“Chả hông có trình độ phải hông, chả sợ thằng này học về chả sẽ mất ghế”.
“Đúng rồi, chả chỉ có cái bằng bổ túc lớp chín, đang bổ túc tiếp, mà học hành khỉ gì bổ túc đó, đi cho có vài năm có cái bằng”.
Nó thắc mắc:
“Nhưng hổng lẽ chỉ vậy mà oánh thằng Chí?”.
Chiến lưu linh lắc đầu:
“Đâu chỉ vậy, người ta hông có học chớ có mưu mô đầy mình, oánh thằng Chí là mũi tên trúng hai đích, chả yêu cầu anh oánh cho nhập viện lâu lâu, thằng này có lành bịnh cũng đâu còn chỗ, đã có người khác thế, coi như nhổ được cái gai, hai là báo công được với cấp trên”.
Thằng Chí hỏi lại:
“Báo công?”.
“Ờ, tụi em bị mất trộm sạch sành sanh đúng hông?”.
Hai đứa nó gục gật, Chiến lưu linh đưa ly rượu cụng:
“Thiệt ra là giả đó, chả vô phòng hai đứa tình cờ hay sao chả có được tấm ảnh chụp xe chở vật liệu cho mấy cha cán bộ gộc, chả dàn ra cuộc trộm đó, tụi anh dọn sạch, đưa chả hết xấp ảnh, còn lại tiền bạc, tư trang chả biểu tụi anh chia nhau, có cả cái máy ảnh nè, giờ tụi anh xin trả lại hết”.
Thằng Chí cầm cái máy ảnh Chiến lưu linh đưa trả mà ngèn nghẹn, nó bật ra:
“Cha này đểu quá”.
Chiến lưu linh hất hàm:
“Ờ, mà chưa hết, ba mũi tên chớ hông phải là hai, chả móc nối với kiểm lâm luôn, thằng Chí được phân công vô rừng tìm hiểu về lâm tặc chớ gì, sau khi oánh đổ vạ cho lâm tặc, tụi anh rút êm thì kiểm lâm xuất hiện, có công đưa thằng này về rồi thêm công chặn bắt được lâm tặc khét tiếng, chống trả người thi hành công vụ, giải thoát cho phóng viên, được viết lên mặt báo đó, nhưng có nêu tên thằng lâm tặc nào đâu, được nhận bằng khen, có tiền thưởng ăn nhậu hà rầm”.
Hai đứa nó ngao ngán:
“Phải nói là xảo quyệt”.
Chiến lưu linh thấy lạ hỏi:
“Ủa nhưng mà sao em lại bị đuổi, đâu có nằm nhà thương, đâu có nghỉ nhiều, chỉ hai ba bữa mà?”.
Thằng Chí cười khảy:
“Họ đã xảo quyệt thì bằng mọi cách, thua keo này bày ngay keo khác”.
Nó gục gật:
“Đúng vậy đó anh Chiến, họ muốn đuổi cho bằng được mà, họ bươi móc tìm ra tội, họ lục bài viết của thằng này đời nảo đời nao, lúc đó chẳng nói gì, giờ gán ghép tội”.
“Viết cái gì mà đến nổi vậy?”.
“Cũng viết về rừng rú, về những người đi làm rừng, những người bị cho là phá rừng, đại ý là hỏi những người làm rừng thì người ta trả lời, tui đâu có phá, phá là phải chặt xuống bỏ đó cho hư cho mục, nhưng vì nghèo đói, hai mùa mưa nắng, mùa nắng chẳng còn biết làm gì phải vào rừng làm củi làm gỗ để nuôi thân nuôi gia đình, có thể là khai thác trái phép, khai thác hông đúng nhưng có thấy ai hướng dẫn, khai thác như thế nào, làm ra sao, chỉ thấy kiểm lâm vây bắt rồi xong”.
Chiến lưu linh uống cạn rồi khà một tiếng:
“Nói có lý mà”.
Nó chen vô:
“Mình thì thấy có lý, nhưng họ cho là đâu có lý, họ cho ngược lại là thằng này sai quan điểm, sai lập trường, tư tưởng có vấn đề, a dua theo dân phá rừng mà viết, hết họp cơ quan kiểm điểm, là ngày ngày được tuyên giáo mời làm việc, nói đủ điều, nhiều người giáo huấn làm sao chịu nỗi, thằng này còn tâm trí đâu mà làm việc, công việc bỏ bê chẳng hoàn thành, vậy là cái kết cục thế nào ai cũng rõ”.
Chiến lưu linh thở hắc:
“Thua với tiểu nhân thâm độc”.
Nó bực tức:
“Nhưng hổng lẽ thua, nhân chứng vật chứng đầy đủ hết mà”.
Thằng Chí đưa ly cụng rồi uống cạn:
“Có cũng thua thôi, vật chứng mất hết rồi, họ đã vậy sẽ làm mọi cách, họ lại đông cấu kết với nhau, chuyện gì họ hông dám làm, nguy hiểm tới tính mạnh anh em chớ giỡn, bỏ qua thôi, với lại tao tự đi thi, đậu rồi nên đi học thôi”.
Chiến lưu linh đồng ý:
“Có lẽ vậy là tốt nhứt”.
Nhấm thêm ngụm rượu Chiến lưu linh chỉ nó hỏi tiếp:
“Ủa, còn em sao bị đuổi. có dính dáng gì với thằng Chí?”.
Nó lắc đầu:
“Chuyện em khác, hông dính gì với thằng Chí”.
Nó kể, một bữa về nhà thì hay tin, ông Thành sẹo về lại thị xã, ông ta đem căn nhà và miếng vườn ngày nào năn nỉ ỉ ôi cho ở sang nhượng cho người khác, không một lời với gia đình nó và chính chú Tư râu ký giấy cho ông này chuyển lên xã, xã chứng nhận. Nó tức mình đi tìm chú Tư râu hỏi cho ra lẽ, chú Tư râu trốn biệt không dám giáp mặt lại đưa vợ ra tiếp tục năn nỉ, ông Thành sẹo này thiếu nợ hợp tác xã, hợp tác xã sang nhượng để cấn trừ. Nó tìm hoài hông được, một phút nóng giận đã giựt sập cái chái nhà, vậy là bị ghép tội manh động, xã nhốt cho tuần lễ, báo lên huyện, còn tư cách nào mà làm việc, nhận giấy báo cho về vườn.
Thằng Chí hậm hực:
“Thằng cha Tư râu cũng là hạn tiểu nhân, ngày trước gia đình nó cưu mang cho làm thuê làm mướn kiếm cơm. Sau có cơ hội là trở quẻ, một hạng với Thành sẹo, một hạng với cha sếp của tao”.
Chiến lưu linh lắc đầu:
“Tiểu nhân sao quá nhiều, cứ tưởng mình đã là tiểu nhân có người còn tệ hơn nữa”.
Nó rót đầy ba ly rượu, thở một tiếng mạnh:
“Thôi, bỏ qua bên hết đi, uống rượu chơi, coi như kết thúc thêm một tập”.
Cả ba nâng ly, miệng cười mà lòng man mác…

LÊ ĐẮC HOÀNG HỰU

CƠN GIÓ MANG HỒN LỮNG THỮNG (TT)

ledachoanghuu

Ba tháng sau ngày khánh thành con đập, hồ tích đầy nước. Còn thằng Chí nhận được hai giấy báo, một giấy báo đậu đại học, một giấy báo… bị đuổi việc. Nữa tháng sau nó cũng nhận được giấy báo, giống giấy báo sau của thằng Chí. Nhưng hai đứa bị đuổi thì không liên quan gì với nhau.
Kèm với tờ giấy báo đuổi việc thằng Chí còn bị một trận đòn nhừ tử. Vài ngày sau nó mới biết được lý do ngay từ người đánh nó, một tay quậy phá xóm làng gần huyện, tay này ăn năn kiếm gặp hai đứa nó mời bằng được ra quán nhậu một chầu, tay tên Chiến lưu linh. Ra quán nhậu, Chiến lưu linh đẩy bộc thuốc bự trên bàn qua thằng Chí:
“Cho anh xin lỗi thằng Chí, trong này đầy đủ thuốc uống, thuốc xoa bóp anh cất công trèo núi lên chùa xin về coi như tạ lỗi, anh vì chút tiền mà chẳng tìm hiểu kỹ, cứ nghĩ cha đó nói thiệt, đâu ngờ chả ba xạo, mong tụi em bỏ qua”.
Thằng Chí hỏi lại:
“Cha nào?’.
Chiến lưu linh rót rượu, gắp mồi vô chén tụi nó:
“Cạn ly đi nghen, ủa mà tụi em hông biết gì sao?”.
Thằng Chí lắc đầu, cả ba cùng cạn, Chí lưu linh nói tiếp:
“Là cha sếp của em đó”.
Hai đứa nó giựt mình, thằng Chí trợn mắt:
“Anh đừng nói bậy”.
Chiến lưu linh khoát tay liên tục:
“Hông nói bậy à nghen, anh nói bậy ông Trời oánh Thánh vật à”.
Nó xen vô:
“Chuyện thế nào, anh nói đi”.
Chiến lưu linh chậm rãi:
“Cha đó nói bữa em gặp chả xin đi học lớp theo tiêu chuẩn phòng phải hông?”.
Thằng Chí gật đầu:
“Phải, ổng hông cho đi, ổng nói hông có người làm”.
Chiến lưu linh cười khẩy:
“Làm gì có vậy, chả sợ thì có”.
“Sợ gì, ổng là thủ trưởng mà?”.
Chiến lưu linh tiếp tục cười:
“Chả hông có trình độ phải hông, chả sợ thằng này học về chả sẽ mất ghế”.
“Đúng rồi, chả chỉ có cái bằng bổ túc lớp chín, đang bổ túc tiếp, mà học hành khỉ gì bổ túc đó, đi cho có vài năm có cái bằng”.
Nó thắc mắc:
“Nhưng hổng lẽ chỉ vậy mà oánh thằng Chí?”.
Chiến lưu linh lắc đầu:
“Đâu chỉ vậy, người ta hông có học chớ có mưu mô đầy mình, oánh thằng Chí là mũi tên trúng hai đích, chả yêu cầu anh oánh cho nhập viện lâu lâu, thằng này có lành bịnh cũng đâu còn chỗ, đã có người khác thế, coi như nhổ được cái gai, hai là báo công được với cấp trên”.
Thằng Chí hỏi lại:
“Báo công?”.
“Ờ, tụi em bị mất trộm sạch sành sanh đúng hông?”.
Hai đứa nó gục gật, Chiến lưu linh đưa ly rượu cụng:
“Thiệt ra là giả đó, chả vô phòng hai đứa tình cờ hay sao chả có được tấm ảnh chụp xe chở vật liệu cho mấy cha cán bộ gộc, chả dàn ra cuộc trộm đó, tụi anh dọn sạch, đưa chả hết xấp ảnh, còn lại tiền bạc, tư trang chả biểu tụi anh chia nhau, có cả cái máy ảnh nè, giờ tụi anh xin trả lại hết”.
Thằng Chí cầm cái máy ảnh Chiến lưu linh đưa trả mà ngèn nghẹn, nó bật ra:
“Cha này đểu quá”.
Chiến lưu linh hất hàm:
“Ờ, mà chưa hết, ba mũi tên chớ hông phải là hai, chả móc nối với kiểm lâm luôn, thằng Chí được phân công vô rừng tìm hiểu về lâm tặc chớ gì, sau khi oánh đổ vạ cho lâm tặc, tụi anh rút êm thì kiểm lâm xuất hiện, có công đưa thằng này về rồi thêm công chặn bắt được lâm tặc khét tiếng, chống trả người thi hành công vụ, giải thoát cho phóng viên, được viết lên mặt báo đó, nhưng có nêu tên thằng lâm tặc nào đâu, được nhận bằng khen, có tiền thưởng ăn nhậu hà rầm”.
Hai đứa nó ngao ngán:
“Phải nói là xảo quyệt”.
Chiến lưu linh thấy lạ hỏi:
“Ủa nhưng mà sao em lại bị đuổi, đâu có nằm nhà thương, đâu có nghỉ nhiều, chỉ hai ba bữa mà?”.
Thằng Chí cười khảy:
“Họ đã xảo quyệt thì bằng mọi cách, thua keo này bày ngay keo khác”.
Nó gục gật:
“Đúng vậy đó anh Chiến, họ muốn đuổi cho bằng được mà, họ bươi móc tìm ra tội, họ lục bài viết của thằng này đời nảo đời nao, lúc đó chẳng nói gì, giờ gán ghép tội”.
“Viết cái gì mà đến nổi vậy?”.
“Cũng viết về rừng rú, về những người đi làm rừng, những người bị cho là phá rừng, đại ý là hỏi những người làm rừng thì người ta trả lời, tui đâu có phá, phá là phải chặt xuống bỏ đó cho hư cho mục, nhưng vì nghèo đói, hai mùa mưa nắng, mùa nắng chẳng còn biết làm gì phải vào rừng làm củi làm gỗ để nuôi thân nuôi gia đình, có thể là khai thác trái phép, khai thác hông đúng nhưng có thấy ai hướng dẫn, khai thác như thế nào, làm ra sao, chỉ thấy kiểm lâm vây bắt rồi xong”.
Chiến lưu linh uống cạn rồi khà một tiếng:
“Nói có lý mà”.
Nó chen vô:
“Mình thì thấy có lý, nhưng họ cho là đâu có lý, họ cho ngược lại là thằng này sai quan điểm, sai lập trường, tư tưởng có vấn đề, a dua theo dân phá rừng mà viết, hết họp cơ quan kiểm điểm, là ngày ngày được tuyên giáo mời làm việc, nói đủ điều, nhiều người giáo huấn làm sao chịu nỗi, thằng này còn tâm trí đâu mà làm việc, công việc bỏ bê chẳng hoàn thành, vậy là cái kết cục thế nào ai cũng rõ”.
Chiến lưu linh thở hắc:
“Thua với tiểu nhân thâm độc”.
Nó bực tức:
“Nhưng hổng lẽ thua, nhân chứng vật chứng đầy đủ hết mà”.
Thằng Chí đưa ly cụng rồi uống cạn:
“Có cũng thua thôi, vật chứng mất hết rồi, họ đã vậy sẽ làm mọi cách, họ lại đông cấu kết với nhau, chuyện gì họ hông dám làm, nguy hiểm tới tính mạnh anh em chớ giỡn, bỏ qua thôi, với lại tao tự đi thi, đậu rồi nên đi học thôi”.
Chiến lưu linh đồng ý:
“Có lẽ vậy là tốt nhứt”.
Nhấm thêm ngụm rượu Chiến lưu linh chỉ nó hỏi tiếp:
“Ủa, còn em sao bị đuổi. có dính dáng gì với thằng Chí?”.
Nó lắc đầu:
“Chuyện em khác, hông dính gì với thằng Chí”.
Nó kể, một bữa về nhà thì hay tin, ông Thành sẹo về lại thị xã, ông ta đem căn nhà và miếng vườn ngày nào năn nỉ ỉ ôi cho ở sang nhượng cho người khác, không một lời với gia đình nó và chính chú Tư râu ký giấy cho ông này chuyển lên xã, xã chứng nhận. Nó tức mình đi tìm chú Tư râu hỏi cho ra lẽ, chú Tư râu trốn biệt không dám giáp mặt lại đưa vợ ra tiếp tục năn nỉ, ông Thành sẹo này thiếu nợ hợp tác xã, hợp tác xã sang nhượng để cấn trừ. Nó tìm hoài hông được, một phút nóng giận đã giựt sập cái chái nhà, vậy là bị ghép tội manh động, xã nhốt cho tuần lễ, báo lên huyện, còn tư cách nào mà làm việc, nhận giấy báo cho về vườn.
Thằng Chí hậm hực:
“Thằng cha Tư râu cũng là hạn tiểu nhân, ngày trước gia đình nó cưu mang cho làm thuê làm mướn kiếm cơm. Sau có cơ hội là trở quẻ, một hạng với Thành sẹo, một hạng với cha sếp của tao”.
Chiến lưu linh lắc đầu:
“Tiểu nhân sao quá nhiều, cứ tưởng mình đã là tiểu nhân có người còn tệ hơn nữa”.
Nó rót đầy ba ly rượu, thở một tiếng mạnh:
“Thôi, bỏ qua bên hết đi, uống rượu chơi, coi như kết thúc thêm một tập”.
Cả ba nâng ly, miệng cười mà lòng man mác.

***
LÊ ĐẮC HOÀNG HỰU

CƠN GIÓ MANG HỒN LỮNG THỮNG (TT)

ledachoanghuu

Nó đưa hồ sơ cho thằng Chí xong quay trở vô rừng.
Trong rừng vừa mới có thêm người gia nhập. Anh Mười thọt, anh nói có tật ở chân đi cà thọt. Nó được phân công làm củi chẻ với anh này. Làm gần tuần lễ thấy ở anh Mười có nhiều biểu hiện rất lạ, nghe tiếng động lớn là anh giựt mình, dáo dát ngó nghiêng ra vẻ cảnh giác, nó chọc:
“Anh Mười bị yếu bóng vía hả?”.
Bị chạm tự ái Mười thọt cự nự, mỗi câu nói ra luôm kèm một tiếng chửi thề:
“Đ.m. yếu con c.”.
“Chớ sao thấy anh hay sợ sệt”.
Mười thọt quắt mắt:
“Đ.m. tao sợ kiểm lâm chớ sợ gì”.
“Mình làm củi chẻ, coi như đi mót nhánh kiểm lâm nào bắt, kiểm lâm bắt hạ cây lấy gỗ chớ”.
Mười thọt giả lả:
“Thì tao ngờ ngợ đang hạ cây, đ.m. mày nói nhiều quá”.
Mười thọt làm biếng, đòi nghỉ hoài, nó thì bị cằn nhằn chửi thề suốt. Lúc đưa củi chẻ về lán, tới dốc Bà già bật ngửa chỉ lại giống anh Lãm đã chỉ nó, nó nhảy tót lên oánh xe, Mười thọt cũng chửi:
“Đ.m. đó giờ tao ra lịnh, tao chỉ người khác chớ chưa có thằng nhóc nào dám chỉ tao”.
Xe trượt băng băng xuống, Mười thọt theo không kịp, thả cây thắng xe luôn, xe càng băng băng trượt, ngồi oánh xe nó muốn hú vía.
Buổi chiều lúc tắm nó nói nhỏ với bác Hai:
“Dạ, ngày mai bác Hai cho ai thay chỗ con đi, con có chuyện quan trọng này nói”.
Bác Hai gật đầu ờ.
Lúc ngồi nhâm nhi khề khà, bác Hai chỉ nó hỏi:
“Ê nhóc, muốn học đẽo hông mậy?”.
Nó bật ra liền:
“Dạ, muốn chớ bác Hai, con xin hoài mà bác hông cho”.
Bác Hai chỉ Chú Thiện:
“Mai thằng Thiện làm với Mười thọt nghe, tao chỉ vài chiêu cho thằng nhóc coi như truyền nghề chớ để nghề này mai một”.
Chú Thiện ực ly rượu:
“Chà, coi bộ chú Hai khoái thằng nhóc quá ta, bao nhiêu người kêu truyền nghề mà bác có đếm xỉa gì đâu”.
Bác Hai xì một tiếng:
“Khoái gì, thằng nào cũng như thằng nào, tại tao thấy nó khéo tay”.
Sáng hôm sau nó vác rìu theo bác Hai. Chỗ đẽo gỗ khá xa với với chỗ củi chẻ. Bác Hai hỏi nó:
“Có chuyện gì nhóc”.
Nó nho nhỏ, sợ sệt kể lại bữa giờ làm với anh Mười rồi nói:
“Con thấy cái ông Mười thọt này lạ lắm bác Hai, có gì đó mờ ám, ghê ghê, cái chân ổng hổng phải bị tật đâu, con có lén theo dõi thấy bị thương, băng bó”.
Bác Hai đăm chiêu nghe:
“Vậy hả, bữa giờ bác hông có để ý, ờ mà đâu bao giờ thấy nó cởi cái quần dài ra đâu hen”.
Chú Ba lém nói vô:
“Thằng nhóc nói có lý, tui cũng thấy vậy, thằng này bị cụt một ngón tay, nhớ gặp hay nghe danh mang máng đâu đó”.
Chú Ba Tỷ gật gật:
“Nghe thằng nhóc tui mới thấy đúng là lạ, tối tối thằng này biến mất tiêu cả buổi rồi mới vô nhậu”.
Nghe chú Ba lém nói nghe danh, nó nhớ lại thời còn đi học nghe đồn thổi về tên cướp điên cuồng lắm:
“Dạ, có phải chú ba nói là tên cướp Lũng cụt vượt ngục hông?”.
Chú Ba vỗ tay cái bốp:
“Đúng rồi, thằng tướng cướp Lũng cụt, thằng này lưu manh số một, cướp của giết người hông gớm tay, bị bắt vượt ngục mấy lần, nghe đâu lần này chưa bắt được, dám nó lắm”.
Bác Hai nhíu mày:
“Nhưng chưa chắc là thằng Lũng cụt tướng cướp, còn nếu thiệt thì tính sao”.
Chú Ba Tỷ ngần ngừ, chú Ba lém phẩy tay:
“Ái dà khổ ghê, để tối nay tui kiếm cách kêu tên thử thằng này phản ứng thế nào, đúng thì kêu đi cho, chú cháu anh em mình mỗi người một hoàn cảnh, người trốn tránh, người tu chí, người làm ăn, mang tiếng là lâm tặc đủ rồi, đâu chứa chấp được mấy thằng cướp mà mang tiếng xấu cả đời”.
Bác Hai, chú Ba Tỷ gục gật:
“Ờ, vậy đi”.
Buổi tối quây quần bên ly rượu, kể vài câu chuyện đời xong, bác Hai hỏi chú Bá lém:
“Ba lém mày một thời nổi tiếng ngang dọc, chắc mày là đệ nhứt chớ ai qua nữa hen”.
Chú Ba lém cười khà:
“Đệ nhứt gì chú ơi, tui hạng tép riu – chỉ Mười thọt chú Ba tiếp: Thằng Lũng cụt này mới là số một nè”.
Vừa nghe dứt câu nói, Mười thọt phóng cái ào lại ngay dàn dắt dao rựa, cưa búa, rút cây rựa dài, bén ngót ra thủ thế hét lớn:
“Đ.m. ngồi im đó hết, đ.m. thằng nào bước qua đây tao chém chết, muốn bắt tao hả, đ.m hông dễ đâu”.
Cả bàn nhậu ngỡ ngàng, bác Hai đưa tay chặn lại:
“Mày bình tĩnh Mười thọt, đâu ai bắt mày làm gì, nói thiệt vậy mày là thằng Lũng cụt nổi danh, tụi tao là dân làm ăn hông dính dáng gì mày, chẳng phá đám gì mày, chỉ muốn mày đi khỏi đây thôi”.
Mười thọt hất hàm:
“Tụi bây biết tao là Lũng cụt rồi, đ.m đừng xạo hông bắt, đ.m ai gặp thằng này lại hông muốn bắt lập công”.
Chú Ba lém nhỏ nhẹ:
“Chú Hai nói thiệt đó mày, nếu bắt mày tụi tao đã lập kế chuốt rượu chớ để vậy à”.
Vậy là đúng Mười thọt là Lũng cụt, Lũng cụt hăm he:
“Đ.m nói gì cũng được nhưng đứng yên đó hết, tao nói rồi, bước lên một bước là tao chém chết, đ.m. muốn tao đi cũng được, đi thì đi – hắn cười ha ha: Đ.m. muốn tao đi hả, thằng nhóc kia vô lấy ba lô của tao, đ.m. tụi mày gom hết tiền đưa bỏ vô ba lô tao sẽ đi”.
Nó đang tầng ngần, bác Hai hất đầu:
“Làm theo đi nhóc”.
Nó làm theo, ai nấy lấy tiền ra đưa nhét vô ba lô, chú Ba lém cầm ba lô thảy lại chỗ Lũng cụt, Lũng cụt vừa đưa một tay chụp thì cùng lúc một sợi dây thòng lọng tròng vô người, chú Ba Tỷ là người thảy dợi dây, chú giựt mạnh, Lũng cụt ngã cái rật chổng vó, mấy chú, mấy anh nhào vô đè, tó Lũng cụt lại không đường dãy giụa, chú Ba lém xiết chặc Lũng cụt vô gốc cây và nói:
“Giỡn mặt với anh em hả, mày khét tiếng ở đâu chớ ở đây thì quên đi, đã cho đi còn láo còn cướp à”.
Lũng cụt cựa quậy nhưng không nhúc nhích nổi:
“Đ.m thả tao ra, đ.m. tao mà ra được là chết mẹ tụi mày hết”.
Bác Hai cầm mớ giẻ nhét vô miệng Lũng cụt cho im bặt. Bác Hai gục gật:
“Vô ngồi uống tiếp rồi bàn tụi bây, thằng Ba Tỷ ngón nghề còn ngon hen, tao tưởng mày lụt nghề rồi chớ”.
Chú Ba Tỷ làm thinh thinh vậy chớ võ nghệ đầy mình, chú từng sợ về nhà gặp tay tình địch lang chạ với vợ mình sẽ nổi nóng cho một cước không chết cũng ngáp ngáp, đi tù có ngày.
Uống cạn ly rượu, bác Hai hỏi:
“Giờ thằng này tính sao?’.
Chú Ba lém có ý:
“Mẹ, thằng này ác, cướp của giết người hông gớm tay, để nó nhong nhong ở ngoài nó gây tội nữa, mà mình muốn nó đi vậy mà nó còn cướp của mình, phải cho nó vô tù”.
Ai cũng đồng ý với ý của chú Ba lém. Bác Hai nói:
“Thôi vậy sẵn dịp này, thằng Tỷ đưa về giao cho xã và về thăm nhà luôn nghe mậy, tao với mày cùng thằng nhóc về, thằng nhóc nói tuần sau nhưng thôi về luôn đi”.
Chú Ba Tỷ im lặng, vậy là đồng ý rồi. Anh Lãm hỏi:
“Ủa thằng nhóc về làm gì vậy?”.
Nó lý nhí chưa kịp ra tiếng, bác Hai trả lời thay:
“Nó về lên huyện làm việc”.
Anh Lắm lãng uống cái ực:
“Mày bỏ tụi tao hả mậy?”.
Bác Hai phẩy tay:
“Lãng dữ mậy, có chữ nghĩa để nó đi làm là mừng cho nó mày ơi!”.
Anh Lắm lãng cười hề hề:
“Nói chơi vậy mà bác Hai, mừng cho thằng nhóc nè, mừng cho anh Ba Tỷ luôn nè, uống cạn nghen”.
Nó đứng dậy:
“Con kính ông Bảy, bác Hai, mấy chú với mấy anh một ly, con về nhưng hông bao giờ quên những ngày ở rừng rú này đâu”.
Cả lán trại bỗng im lặng như tờ. Mọi người rưng rưng. Bác Hai ực cái mạnh:
“Thôi nghỉ, mai đưa thằng quỷ cô hồn các đảng này về sớm”.

***

Xếp mấy bộ đồ, mùng mền vô túi xách, thằng Chí đi ngang hú, nó chào má nó rồi đạp xe ra theo.
Lên huyện, mó được nhận vô làm chân thư ký một phòng kiêm luôn thằng lon ton, chạy gởi lá thư này gởi cái công văn kia cho cơ quan đó đây. Công việc dễ ẹc, chỉ tập đánh máy vài bữa cho nhuyễn tay, việc cũng chẳng gì nhiều.
Nó ở chung với thằng Chí, hai thằng một phòng rộng thênh thang. Huyện nằm cạnh ngay đường lộ nhưng bao bọc gần như là đồi núi. Từ phòng ở nhìn ra sau thấy dãy núi, nhìn trước cũng dãy núi, quang cảnh xa xa chẳng khác mấy khi nó ở rừng, buồn buồn chiều chiều hai thằng thôi nấu cơm, ra làm vài xị đế rồi ghé rạp phim coi ké. Rạp không còn chiếu màn ảnh rộng, cái ti vi bự mấy chục in chiếc băng video, chiếu phim chưởng, phim kiếp hiệp của Hồng Kông cho bà con coi nức mắt. Không còn cảnh chen lấn, leo trèo đạp trên đầu nhau, dành chỗ mua vé để coi, dành vé bán chợ đen.
Ngày ngày trôi qua, một tháng, hai tháng trôi qua và lặng lẽ hơn một năm trôi qua.
Một buổi trưa thứ bảy từ cơ quan về, thằng Chí nói:
“Tuần này hông về nghen mậy, mai đi nhậu với tao”.
“Nhậu ở đâu?”.
“Nhậu chùa, mai khánh thành con đập gần đây, đập lớn chắc khánh thành hoành tráng lắm”.
Nó chao mày:
“Làm sao tao đi được, ai cho vô”.
“Đi với tao, tao có giấy mời đàng hoàng, mà mày ở đây cũng lâu, nhiều người biết mặt, biết bạn tao rồi”.
Huyện xây đập lớn thiệt. Xây bờ đê phía cuối thung lũng chắn ngang tạo thành lòng hồ lớn trữ nước, ba mặt kia là đồi núi bao bọc, bờ đê hình thang dài chừng hơn cây số, cao gần chục thước, bề dày cũng lớn, có con đường bên trên xe tải chạy được.
Giống như con đập, lễ khánh thành hoành tráng không thua gì. Có cả từ trung ương, tỉnh và đủ các huyện về dự. Xe bốn chỗ, mười hai chỗ xếp hàng nối đuôi nhau đậu kín hết con đường vô đập. Sân khấu và nhà bạt được đựng lên với cờ xí rợp trời, âm thanh nhạc oai hùng mở vang trời đất. Trước và sau lễ có đoàn ca múa nhạc của tỉnh múa hát phục vụ. Báo đài cũng chộn rộn, quay phim chụp ảnh, phỏng vấn người này người kia, ai nấy nói thao thao bất tuyệt, không thấy vấp chỗ nào kể cả anh công nhân, nói chẳng thấy cảm xúc có lẽ chăm chú quá vào bài cần nói, sợ quên bài học thuộc lòng sẵn. Thằng Chí cầm cái máy hình Canon nó cắc ca cắc củm mua được chạy tới chạy lui.
Chừng hơn tiếng đồng hồ là lễ xong. Mấy ông đứng đầu huyện lên xe đưa mấy ông trung ương, tỉnh và các huyện khác về thị xã chiêu đãi. Phần còn lại, người các ban ngành ở huyện, đội thi công liên hoan tại chỗ. Món ăn, mồi mỡ được đặt sẵn chở đầy hai xe lam vào. Bia cũng xe lam chở đầy, hết xe này chở xe khác. Ăn uống độ từ mười giờ cho tới tối mịt mờ, vừa ăn uống vừa hát ca, đoàn văn công về thì còn đội thông tin lưu động của huyện, và ai khoái ca hát thì lên. Bia uống bia đổ tràn lan xối xả, người ói người cắm đầu xuống lòng hồ không ít, may mùa nắng, hồ chưa tích nước. Nó với thằng Chí cũng xà càng.
Tuần lễ sau thằng Chí lôi ra xấp hình đã rửa đưa nó coi, chụp đầy đủ hết từ lễ hoành tráng cho tới ăn nhậu be bét, bia bọt chảy như suối, nhỏng đầu nhỏng cẳng ói cũng không khác gì. Thằng Chí khề khà:
“Đã hông mậy?”.
Nó nhún vai:
“Dữ quá, đi đứt hông biết là bao nhiêu”
Thằng Chí thảy thêm xấp hình:
“Đây mới dữ hơn nè, cái này mới tốn dữ nè”.
Nó mở ra coi, thằng Chí chụp hình những chiếc xe chở vật liệu từ con đập, rồi hình lại thấy mấy chiếc xe này đổ xuống nhà mấy ông đứng đầu huyện. Nó thật thà:
“Là sao mậy, hổng lẽ…?”.
Thằng Chí nhếch mép:
“Hổng lẽ hổng chẳn gì nữa, mấy ổng chia chác chớ sao, rút ruột hay kê thêm vật tư rồi chở về nhà mình chớ sao, mày hông thấy à, đập chưa xây xong mà nhà đã hoàn thiện bự tổ chảng à, ăn mừng tân gia có thua gì đâu, bởi vậy mới cho trận nhậu lễ khánh thành hoành tráng đó”.
Nó trợn mắt:
“Giống như bịt miệng hả?”.
Thằng Chí gật đầu:
“Thì vậy”.
Nó chỉ vô hình:
“Mấy ông luôn”.
Thằng Chí cười ruồi:
“Thì kéo ban kéo bệ, mỗi người một chút, kể cả mấy ông thi công, mấy ông trên duyệt nữa mầy ơi, một danh sách dài lắm, một mình dễ nuốt à”.
Nó ậm ừ:
“Mày nói tao mới biết, chớ tao biết khỉ mốc gì”.

LÊ ĐẮC HOÀNG HỰU

CƠN GIÓ MANG HỒN LỮNG THỮNG (TT)

ledachoanghuu

Hai tháng sau thử việc với củi chẻ và mài dũa lưỡi cưa, dao rựa nó được cho qua xẻ gỗ bìa, xẻ bốn mặt lóng gỗ tròn thành khối vuông. Cây đốn hạ xuống, chọn khúc thẳng và tương đối tròn đều nhau cưa ra từng lóng. Lóng ngắn nhứt phải hai thước tư, trên thì ba, bốn năm sáu và dài nhứt là tám thước. Hơn nữa khó có cách đưa về, với lại tám thước là đã dài, nhà làm tám thước là lớn lắm rồi, thả đòn tay, rui mè là đủ, trính suốt cũng vậy tám thước là cùng. Cây cưa ra từng lóng rồi canh búng mực bốn đường, sau đó đóng cọc xuống đất, neo con đĩa từ lóng gỗ vô cọc cây giữ lóng cây cho chặt, con đĩa làm bằng sắt gân đặc ruột cỡ phi mười hai, mười bốn, bẻ thành chữ u dài chừng bốn tất, hai thanh chữ u ngắn thôi, chừng năm phân mài nhọn sắc bén để đóng được vô cây cứng, xong là theo đường mực mà cưa ra. Có bác Hai Liên uống rượu ác chiến mà làm cũng ác chiến, thế thần đưa lên xe hay qua dốc là số một, bác không cưa được, bác chỉ đẽo bỏ phách bìa bằng rìu và làm một mình, bởi còn lại thì không ai đẽo giỏi.
Nó mon men lại chỗ bác Hai Liên:
“Bữa nào bác Hai chỉ con đẽo với”.
Bác Hai lắc đầu:
“Thôi, bây học cái này làm chi, đẽo bây giờ xưa lắm rồi, cưa cho nó tiện”.
Nó chỉ mấy vết sẹo dài trên chân bác Hai:
“Bác hai chinh chiến nghề này chắc lâu lắm rồi?”.
Bác Hai cười:
“Ờ, tao làm mấy chục năm rồi hồi cũng cỡ bây bây giờ, mấy sẹo lớn nhỏ là từ rừng ra hông đó, cái dài này là lưỡi rìu nè, hôm đó sơ ý quất một cái bị trợt, may là chưa đứt ống quyển, mất mấy tháng mới lành”.
Nó đã biết hít hà, phả khói thuốc lá. Mọi người chia nhau từng điếu thuốc Hoa Mai, Đà Lạt, hết thì cùng bóc lăn xe, lâu lâu được điếu thuốc thơm có đầu lọc Samit hay Scott. Đội quân làm ở đây đâu ít người nhưng nó hiếm khi thấy có cãi cọ chỉ chia sẽ cho nhau là chính, cằn nhằn chút đỉnh thì làm sao tránh khỏi nhưng to tiếng thì không. Ai nấy lầm lũi làm, có lẽ không ai muốn vậy vì dễ gây nhớ lại quãng đời đã qua, họ muốn chôn vùi quá khứ có phần tăm tối này.
Và nó cũng đã biết nhâm nhi ly rược gạo. Tối tối sau bữa cơm, ở lán trại tập trung hết lại ai cũng lai rai, lai rai ít nhứt vài ly để dễ bề vùi giấc ngủ, khỏi phải suy nghĩ mệt đầu.
Chú Ba Tỷ để ly rượu tới vòng hơi lâu, chú đang nghĩ ngợi gì đó, bác Hai Liên khều chú Ba:
“Làm gì mậy Ba Tỷ, nhớ nhà hả?”.
Chú Ba Tỷ lấy ly uống ực, chẳng nói chẳng rằng chuyền ly qua. Anh Tư cà lăm cà một tràng:
“Ổ…ng… ổng … ổng… mà… mà nhớ… nhớ mẹ gì”.
Chú Lâm lên tiếng:
“Ờ, thằng Tỷ này lạ hen, từ lúc tui vô đây tới giờ, tính ra cũng bốn năm rồi chớ ít đâu, tui chưa thấy nó về lần nào, ai về nó chỉ gởi tiền về cho con cái”.
Chú Ba Tỷ thở dài:
“Thằng Tư cà nói đúng, nhớ làm mẹ gì”.
Bác Hai Liên chậm rãi:
“Có gì mày nói ra cho nhẹ lòng, chứ giữ khư hoài càng ngày nó càng bức bí, mệt mỏi thêm, ở đây coi như người nhà, anh em con cháu chớ ai đâu xa lạ”.
Chú Ba Tỷ cạn ly vòng, rót uống thêm ly nữa, chú nói nhát gừng:
“Tui chẳng muốn về, về tui giáp mặt con vợ tui muốn điên liền, tui chém nó chết”.
Chú Lâm vỗ vai chú Ba Tỷ:
“Bình tĩnh chút nghen mậy, ai cũng có nỗi niềm, tao cũng vậy, nhưng còn con còn cái”.
Chú Ba Tỷ hậm hực:
“Tui biết vậy nhưng chẳng kềm lòng với loại đàn bà lang chạ”.
Bác Hai chậm rãi khuyên tiếp:
“Thằng Lâm nó nói đúng, còn con còn cái, với lại tao ở thăm thẳm trong này chớ tao biết chuyện ngoài đó hết ráo nghen mậy, từ ngày mày bắt con vợ mày làm bậy nó quỳ lại xin mày tha thứ tới giờ ân hận lắm, thui thủi tối ngày trong nhà trong cửa, lo cho con cái, đồ đạt món ngon nào trong này là một tay nó gởi vô đó, làm thằng đàn ông phải biết rộng lượng, ai cũng phải có một lần mắc lỗi lầm, dễ gì tránh khỏi, tụi nhỏ nhớ mày lắm, con nít cần tình thương cha mẹ chớ lơi lơi đâu có được”.
Chú Ba Tỷ im lặng. Bác Hai Liên nói tiếp:
“Mà tao nói thiệt tao thấy mày còn thương con vợ mày, mày hãy để thời gian xóa tan hết đi”.
Chú Ba Tỷ mắt rưng rức. Ông Bảy nói:
“Chuyện thằng Tỷ để nó suy nghĩ, còn thằng Ba lém giang hồ tứ chiến, nổi tiếng ngang dọc hông chỉ thị xã, ra cả mấy vùng lân cận ai cũng biết giờ gát kiếm vô đây coi như tu chí tao hông nói, hai thằng Thiện và Đức thì trốn nghĩa vụ quân sự, còn thằng Lâm mày sao tao chưa biết?”.
Chú Ba lém gục gật:
“Con xin bác Bảy, chú Hai và anh em ở đây chỉ biết vậy là được, một thời giang hồ chẳng có gì hay ho, lại tàn bạo nên con xin bỏ qua hông phải kể, để nó chôn vùi trong rừng rú”.
Bác Hai gục gật. Chú Lâm mân mê ly rượu:
“Tui gần giống như thằng Tỷ nhưng con vợ hông lang chạ, tui là lính chế độ cũ, mới ra trường bậc thiếu úy, bị đi cải tạo gần chục năm, ở nhà vợ hay tin đã chết trong trại, lấy chồng khác tui hông trách, hai đứa con thơ dại nuôi nấng sao đây, phải kiếm chỗ bấu víu, tui lù lù trở về thì đành thôi, hai đứa nó có thêm hai đứa con làm sao tách, tui chẳng còn gì ngoài hai bàn tay trắng, chui vô đây chớ đi đâu”.
Anh Tư cà nghe lính ngày xưa khoái chí:
“Ông… ông… Lâm… làm… thiếu úy oai… oai lắm hen, đi… đi xe ríp… ríp hông chớ gì?”.
Bác Hai Liên hất đầu:
“Thiếu úy xưa hét ra lửa hén, mà nghe cải tạo cực lắm phải hông?”
Chú Lâm cười, nét cười chua chát:
“Cực lắm chớ sao chú Hai, thiếu thốn trăm bề, cũng lao động giữa rừng rú vậy nè nhưng còn khổ hơn, bị tinh thần, nhưng là kẻ thua cuộc mà, phải chịu thôi”.
Ông Bảy chỉ anh Thông:
“Vậy thằng Lâm là bên kia chuyến tuyến với thằng này”.
Anh Thông giãy nãy:
“Đâu có ông Bảy, con mới đi chiến trường Campuchia sau này mà, anh Lâm hồi trước rồi”.
Ông Bảy nói tiếp:
“Ý tao nói hai thằng bây phe này phe kia đó, giờ ngồi chung mâm”.
Bác Hai hỏi:
“Campuchia cũng ác liệt lắm phải hông Thông?”.
Anh Thông dạ:
“Dạ, kinh khủng lắm, giờ con còn ám ảnh, hông muốn nhắc lại, con may mới về được, biết bao xương cốt anh em còn nằm lại, hồn xiêu phách lạc, nhắc tới thêm đau lòng, chẳng ai quan tâm, đi mất xác hay về cũng vậy y như những đứa con lạc loài”.
Chú Lâm lắc đầu:
“Chiến tranh thời nào cũng vậy, ác liệt giết chóc lẫn nhau, tui cũng chẳng muốn nhắc lại làm gì”.
Nó xin qua tua, bác Hai ừ rồi nói tiếp:
“Thằng nhóc này vô đây chi mậy, thất tình bỏ đi nhà đi bụi hả?”.
Nó nãy giờ nghe ngóng, giựt mình đáp:
“Dạ, đâu có bác Hai, con còn nhỏ xíu biết gì yêu đương, con mới nghỉ học hông biết làm gì, vô đây làm kiếm tiền”.
Ông Bảy chỉ anh Tư cà:
“Thằng này mới thất tình nè”.
Anh Tư cà trợn mắt:
“Cái… cái …cái gì ông Bảy, tui thất… thất tình hồi nào?’.
Ông Bảy cười:
“Hông có hả mậy, tao nghe nói mày ngồi tâm sự với con nhỏ nào đó lúc đêm, mày nói, anh… anh… thương…. thương… em, mày kéo dài vậy trời sáng bảnh mất tiêu, con nhỏ mắc cỡ chạy ào đi, đâu trả lời trả vốn gì, mày tưởng nó hông thương, mày thất tình hông phải sao?’.
Anh Tư cà chỉ còn biết nhăn mặt:
“Ông… ông… Bảy này”.
Cả bàn nhậu cười rần với câu của ông Bảy, cũng là câu chuyện kết cho bữa nhậu khá khuya.

***

Gỗ dưới chân núi cạn dần. Bác Hai kêu tiến lên sườn núi.
Trên sườn núi cây gỗ tốt và to còn hàng hàng. Lên giữa sườn núi khá cao, bác Hai tìm được mấy cây gỗ trắc và cẩm lai đoán không bọng, đoàn ngừng lại cưa hạ. Cưa đứt cây gỗ lớn ngã phóng xuống ào ào như chiếc phi cơ thấy thất kinh. Tán lá rộng đi tới đâu là những cây nhỏ gãy ngang đổ rạp theo tới đó, nhìn như có một đường băng. Nó phóng xuống cả trăm thước mới chịu ngừng lại. Trên sườn núi cao nên cưa lóng ngắn, cây lại lớn nên xẻ nhỏ nữa chớ không để khối vuông lớn. Hạ cây và cưa xẻ chỉ khó khăn hơn dưới chân chút ít, nhưng đưa xuống mới là kỳ công. Đóng con đĩa vô một đầu dưới, cột dây vào con đĩa mà nhấc đầu cây kéo xuống, phải nhất đầu bởi sườn núi đá lổm chổm, đá nhỏ nó tuôn phi xuống vuợt qua ầm ầm, gặp đá lớn thì lao ầm vào bị cắm đầu, đứng lại, lại nhấc nhích lóng gỗ né ra và phải canh chừng nhảy né chớ không bị lao vào người. Nó nhớ lại vụ anh Thững nên không thể không cẩn thận với việc này. Xuống gần chân núi còn dốc lên xuống nhưng hết đá thì nặng trì đường đất, kéo muốn xệ vai, trầy da tróc vảy là chuyện thường tình, những lóng gỗ to phải lom khom xài tới con lăn…
Xuống hết sườn, tới chỗ xe bò vô được. Ngồi nghỉ chút trước khi quay lại đưa xuống tiếp, anh Lãm đưa nó điếu thuốc:
“Biết mùi gần hết rồi nghen mậy, thua gì trâu bò”.
Nó cười, quẹt lửa châm thuốc cho hai anh em:
“Sướng hơn chút đỉnh, hông bị oánh”.
Anh Lãm gục gật:
“Ờ, mà mới đó gần hai năm, lẹ ghê, chẳng lẽ mày muốn ở suốt trong này hả?”.
Nó nhún vai:
“Chẳng biết nữa anh ơi, tới đâu hay tới đó, anh thì có tính gì hông?’.
Anh Lãm chề môi:
“Tao biết tính gì, định về cưới vợ, mà sợ bị tó”.
Nó nhả một hơi khói dài:
“Cũng lâu rồi mà, bữa nào anh về dò la coi, êm êm thì cưới, mà cưới rồi anh làm gì?”.
Anh lãm hít sâu điếu thuốc, ém khói luôn:
“Thì tao quay lại đây làm tiếp chớ biết làm gì”.
Hai anh em quay đầu lên sườn dốc.

***

Nó về thăm nhà. Dự tính hai bữa trở vô. Má nó nói thằng Chí hai tháng nay, chiều tối thứ bảy tuần nào cũng ghé coi nó có về không, có chuyện gì đó muốn nói, thằng Chí đã lên huyện làm liền lúc vừa tốt nghiệp. Ở thêm vài ngày nữa chờ thằng Chí, không việc gì làm, nó lôi mấy quyển truyện cũ ra đọc lại. Sách vở đã dồn hết vào cái rương đóng chặt, nó nghĩ khó có bao giờ lôi ra làm gì. Ngấu nghiến hết Thằng Gù Nhà Thờ Đứa Bà Paris, Tereda, Tội Ác Và Trừng Phạt, nó lục lọi dưới đáy rương gặp được Nàng Iseult tóc vàng. Đang đọc thiên diễm tình đẫm lệ tới nửa chừng thì một tờ giấy rơi ra, cầm lên thì ra là tờ giấy chép bài thơ tình Vũ Hoàng Chương:
Mòn con mắt đợi cổng trường
Người ta về… các ngả đường xôn xao
Bóng ai nào thấy đâu nào?
Mây càng thấp gió càng cao…
Một mình…

Nét chữ chép bài thơ là của cô bạn học cùng lớp mà nó cho mượn quyển truyện, thực ra đâu cho mượn, cô bạn này mượn qua cô bạn ngồi kề nó thôi. Nó không thể quên được nét chữ này, cũng như gương mặt hay cả dáng đi dáng đứng. Nó cầm bài thơ mà người bỗng lâng lâng khó tả, lâng lâng như những lúc đứng từ xa nhìn cô nàng, nó đâu dám lại gần, lâng lâng khi thấy đôi mắt ấy quay lại nhìn rất lạ, cũng không thể tả được.
Trời sập tối thằng Chí từ trên huyện đạp xe về ghé nhà nó trước. Gặp nhau hai thằng mừng quá trời quá đất, cũng phải một năm rưỡi hai đứa mới gặp lại. Nó hỏi thằng Chí:
“Mày nhắn gặp tao có chuyện gì?”.
Thằng Chí nhìn nó:
“Chu cha, giờ ra dáng rồi nghe, có gân có guốc, chững chạc lắm, râu lún phún dữ nghe”.
Nó phì cười:
“Dáng cái con khỉ, tao cưa riết nên vậy, còn mày cũng cao lớn hơn nhiều, có khác tao, trắng trẻo mập mạp, đâu như tao đen sì”.
Thằng Chí kéo nó lên xe:
“Thôi, tao mày xuống chỗ xã có quán nhâm nhi trò chuyện tiếp”.
Nó gật đầu, nhảy lên xe:
“Ừ, mày cũng biết uống rượu rồi hả?”.
Thằng Chí cười:
“Biết lâu rồi, lên huyện vài bữa là biết”.
Thằng Chí đạp xe đi, nó nhớ lại thời còn đi học, rồi lại nhớ bài thơ rớt ra, nó hỏi:
“Ê mày Chí, mày nhớ nhỏ Hạnh lớp mình hông?”.
Thằng Chí đáp:
“Nhớ sao hông mậy, mày làm như lâu lắm rồi hông bằng, con nhỏ xinh gái lại học giỏi, mà tao thấy nó mếch mày đó, còn mày cũng mếch nó phải hông?”.
Nó gãi đầu:
“Mếch gì mày ơi, nó con nhà cán bộ, ở thị xã khá thấy bà ai dám…”.
Thằng Chí chọc:
“Xời, mếch nói mếch đại thằng quỷ ơi, bày đặt, con nhỏ mà mếch tao tao cũng mếch lại liền”.
Nó đấm vô lưng thằng Chí mấy cái, kể chuyện bài thơ trong quyển truyện rồi hỏi:
“Nói thiệt mày thấy nó mếch tao hả?”.
Thằng Chí cười ha hả:
“Thấy hông, dấu đầu lòi đuôi, nói chơi chớ tao thấy mếch mày thiệt, con nhỏ dễ thương, sao mày mới gặp nó à?”.
Nó buồn buồn:
“Gặp gì mà gặp, tao ở trong rừng rú suốt từ lúc ra trường tới giờ”.
Thằng chí tiếp:
“Bữa nào mày xuống dưới tìm nó coi sao?”.
Nó giãy nãy:
“Nói chơi nhắc chuyện cũ, nhắc kỷ niệm chớ sao được mậy, tao giờ có ra gì”.
Thằng Chí quẹo vô quán cháo lòng của cô Năm. Hai đứa vô quán bỏ lửng câu chuyện về cô bạn học. Sau này không gặp lại bao giờ nhưng với nó đây như mối tình chớm nở.
Kêu dĩa lòng thêm tô xí quách và xị rượu gạo, rót hai chung nhỏ nó đưa chung cụng cái cốp:
“Mừng hội ngộ, mày làm gì trên huyện?”.
Thằng Chí ực hết chung rượu:
“Mày nhớ hồi còn đi học tao đã viết lách, có đăng báo chút chút hông?”.
Nó gật đầu, thằng chí tiếp:
“Trên huyện có biết, tao học văn cũng khá nên cho tao phụ trách bản tin, bản tin có hai người làm thôi”.
Nó hất hàm:
“Chà, dữ nghen”.
Thằng Chí chề môi:
“Thường thôi mày ơi”.
“Làm khá hông?”.
“Cũng tàm tạm, lương chẳng đủ nhưng được khoảng này khoảng khác, đi công tác có chừng hai ngày chớ mấy, chia hai hướng là xuống hết xã, đi hai ngày hỏi đủ thông tin đóng đủ con dấu”.
Nó thắc mắc:
“Là sao?”.
Thằng Chí giải thích:
“Thì một chuyến công tác là một ngày, đóng dấu đừng ghi ngày, buột lươn lẹo chút mày ơi, đi hai ngày nhưng giấy tờ thanh toán thì mười lăm ngày, mười lăm xã lãnh đủ tiền tàu xe lưu trú, có dư chút tiền xài, rồi viết thêm bài ngoài chỉ tiêu, làm thơ làm thẩn có thêm tiền nhuận bút…”.
Nó gục gật:
“Sướng mậy”.
“An nhàn đỡ cực thân, bởi vậy tao mới rủ mày lên làm, trên huyện còn tuyển người, bữa tao gặp phòng tổ chức nói còn cần, tao kêu cho một chỗ bạn em, chị này nói được, tốt nghiệp mười hai là ngon rồi”.
“Tao biết làm gì”.
“Mày cứ lo bò trắng răng, người ta làm được mình làm được, nhiều người chưa hết lớp chín kìa, vừa làm vừa học hỏi thêm, à mày thấy hông mấy đứa tốt nghiệp lớp chín chớ mấy, hay mấy đứa lớp mình nghỉ ngang giờ làm thầy cô giáo hết rồi, khỏe ru đó”.
Nó chưa hiểu:
“Sao hay vậy mậy?”.
Thằng Chí lắc đầu quầy quậy:
“Đúng là mày ở trong rừng riết chẳng biết gì, bây giờ đổi mới rồi mày ơi, bớt khắc khe hơn hồi trước nhiều, đâu còn chế độ mua bán bằng tem phiếu, sổ gạo nữa mày thấy hông, ruộng đất cũng đã khoán trắng về cho bà con, ai có sức nhận bao nhiêu cũng được, đâu còn khống chế, chia nữa đâu. Còn vụ thầy cô, có đợt tuyển giáo viên cấp tốc, khóa học có ba tháng, có khóa một tháng hà, mấy đứa nó thành thầy cô hết chớ sao, đang thiếu giáo viên trầm trọng mà”.
Nó lơ mơ hiểu hiểu chút:
“Là vậy hả?’
Thằng Chí gật đầu:
“Mày làm hồ sơ đi, thứ hai đưa tao đi ký cho dễ, mấy ông ở xã giờ cũng ngán tao lắm, lạng quạng tao phang một bài là chết, tao nghỉ một ngày, thứ ba tao đem nộp, chắc chừng nữa tháng tao về báo cho làm gì ở đâu”.
Nó trố mắt:
“Thiệt hả mậy?”.
Thằng Chí nảy người:
“Tao nói giỡn sao, chắc chắn trăm phần trăm, mày bạn chí cốt tao tao hông giúp thì giúp ai”.
“Tao biết mày tốt với tao nhưng…”
Thằng Chí cắt ngang:
“Hông nhưng hông nhị gì hết, thứ hai đưa hồ sơ cho tao”
Nó đành gật đầu:
“Thôi cũng được, nhưng để tao vô lại trong đó chia tay với chú bác, anh em”.
Thằng Chí cười:
“Ai cấm mày, mày có nửa tháng mà, à mày cho tao đi với, tao vô tao viết về mấy lâm tặc này coi, xong kêu kiểm lâm bắt luôn – Nó cười ha hả rồi chợt ngưng bặt, trầm ngâm: Giỡn chơi vậy chớ ai muốn vô chỗ bần cùng nhứt này, để mang trên người cái tai cái tiếng, hoàn cảnh và cơm áo… à mà quên hỏi mày làm trong đó sao, đỡ hông?”.
Nó gục gật:
“Mày biết đó, ngày đêm đối mặt với rừng, chừng đó con người, ăn xong vác cưa vác búa đi, tối về sau khi ăn là làm vài ly xong lăn ra ngủ, ngày qua ngày cứ vậy, làm gỗ thì tiền khá, đâu có xài gì giữa rừng, tao có dư phụ bà già. À mà vừa rồi mất một vố khá đau, lâu lâu cũng bị bắt nhưng bắt ít, kỳ này mất trắng, tính ra công cán cả hai tháng trời”.
Thằng Chí nhíu mày:
“Mất nặng dữ vậy, kiểm lâm lùng tới nơi à?”.
Nó lắc đầu:
“Hông, đưa về nơi bán mới bị bắt”.
Thằng Chí ngờ ngợ, nó có nghe vậy đâu rồi:
“Bán ở đâu mậy?”.
“Bán cho công ty gì thuộc huyện đó tao hông biết nữa”.
Thằng Chí nhớ ra:
“Trời, bán ở đó hả mậy, chết rồi, bị gài rồi mày ơi”.
Nó ngỡ ngàng:
“Sao mày biết?”.
Thằng Chí gõ gõ tay xuống bàn:
“Bữa tao cũng có nghe ai nói mà quên, tao định tìm hiểu vụ này mà chưa xong, chưa có chứng cứ, họ bắt tay làm chuyện ác quá, dĩ nhiên đi làm rừng là trái phép nhưng họ đâu có ngăn chặn từ đầu, họ cứ để cho làm rồi bắt, bắt chia nhau mới đau”.
“Chia nhau cách nào?”.
“Chuyện là vầy, công ty thì thiếu gỗ để sản xuất, để xuất đi kiếm lời, vậy là họ bày ra mưa kế, thông báo ngầm sẽ mua gỗ của bà con giá cao, một hai chuyến đầu họ mua trả tiền ngon lành nhưng mua ít thôi, ai nấy đều khoái, thấy bán cho họ được quá, vậy là họ hẹn một ngày tập hợp hết lại, hẹn khuya để che dấu ý đồ, bà con chuyển gần tới là bị phục kích sẵn của kiểm lâm, họ bắt tay với kiểm lâm mà, vậy là bị bắt hết, kiểm lâm đóng búa, kiểm lâm hóa giá rẻ bèo cho công ty họ thành ra gỗ hợp pháp, gỗ hợp pháp xuất đi bán lời gấp mấy, sổ sách thì làm gì ghi lời nhiều, tiền dôi ra chia chác cho nhau, hôm họ xong vụ này kéo nhau ra quán lớn nhứt ở huyện ăn nhậu thâu đêm rần rần ”.
Nó lắc đầu:
“Hèn gì mất trắng, bữa bên tao mất gần chục xe gỗ, may tháo bò chạy kịp, gỗ và xe bò nằm lại, toán tao mất ba xe vậy, tội nghiệp mấy người chở mướn, chưa lấy tiền chở lại mấy cả xe, nghe đâu mấy toán khác còn mất cả bò, bỏ chạy mất xác chớ hông bị bắt đi tù. Thiệt nhiều người thất đức quá, chuyện này người trong đó mà biết chắc trả thù…”.
Thằng Chí lo lắng:
“Mày có nên kể hông, trả thù có được hông, tao thì hông có bằng chứng, chỉ nghe lại thôi nhưng tao biết chắc là vậy, chính người trong đó nói”.
Nó suy nghĩ hồi lâu:
“Thôi, trời cao có mắt, sẽ có quả báo, chớ để trả thù, đổ máu cũng đâu có gì hay, rồi cũng đâu có thoát khỏi tù tội…”.
Thằng Chí gật đầu:
“Vậy đi mày”.
Hai đứa uống đã hết lít rượu, ngà ngà và đêm đã tối, hai thằng ngất ngưỡng đạp xe về và ngêu ngao cho đỡ buồn.( còn tiếp)
***
LÊ ĐẮC HOÀNG HỰU

CƠN GIÓ MANG HỒN LỮNG THỮNG (TT)

ledachoanghuu

Ba năm đằng đẵng rồi cũng trôi qua, ba năm với nắng gió và mưa trên quãng đường trần ai, đôi lúc nó nghĩ vui nếu hứng hồ hôi chắc không tính bằng lít mà phải đựng bằng phuy. Cuối cùng nó được tốt nghiệp, xếp hạng trung bình. Không bị rớt cái đụi đã là may mắn.
Thằng Chí gặp nó nửa mừng nửa buồn buồn:
“Vậy là mày xong hen, tao còn lết một năm nữa”.
Nó cười:
“Tại mày yêu con đường hơn tao, tao nói thiệt ớn lắm rồi”.
Thằng Chí chề môi:
“Chọc tao hả mậy, à mà mày có thi đại học hông?”.
Nó lắc đầu:
“Trình độ nào đậu mậy, thi chi cho tốn”.
Thằng Chí xì một tiếng:
“Xạo mày, tao biết rõ mày quá, mày bị môn trời ơi tiếng Nga, toán lý hóa mày giỏi thiệt cả trường có thằng nào qua, thi tốt nghiệp mày chín mười hông, người ta rặn ra con tám muốn nát óc”.
Nó cũng xí một tiếng:
“Mày nói quá, ờ mà giờ xong mới thấy sợ môn này, khó như quỷ thiệt nhưng nếu ráng cũng học được, chỉ chẳng hiểu cấp II hông được đụng một chữ ngoại ngữ, lên cấp III lại áp đặt vô lớp thị xã đã học bốn năm, làm chạy theo điên cái đầu, còn bị cô chửi ngu si lên xuống, tao nghĩ một số đứa bứt nửa chừng cũng vì chuyện này. Tao thi may hông bị điểm liệt, trời cứu mày ơi”.
Thằng Chí gật đầu:
“Nhiều cái bị áp đặt mà có hé môi được đâu, mày hông thi đại học thiệt hả?”.
Nó cười buồn:
“Thiệt, tao hông thi. Nói nghe nếu sức tao thì đậu hông chắc trăm phần trăm nhưng bảy tám phần có thể hy vọng…”.
“Vậy sao hông thi?”.
“Có đậu cũng như không thôi mày… mày hông thấy sao, bao nhiêu người đi trước đó, vướng cái lý lịch xấu có được học đâu, thôi thì đi chi cho mắc công tốn tiền”.
Thằng Chí gục gật:
“À, tao quên mất, giờ mày tính làm gì?”.
Nó chỉ lên núi:
“Trước mắt tao theo đoàn làm gỗ kiếm nhiều tiền, tao cũng muốn trốn trong rừng”.
Thằng Chí nghe có vẻ hụt hẵng, nó chậc lưỡi tiếc cho một thằng:
“Tính vậy thiệt hả mậy, nhưng biết làm sao hen, mày đi làm cẩn thận, làm gỗ nguy hiểm lắm”.
Nó gật đầu:
“Cảm ơn mày”.

***

Nó đợi xong mùa mưa rồi xin đi chung với những người chuyên làm gỗ, mấy tháng nó phụ chuyện đồng án. Gần giữa tháng chín học sinh đi học xôm tụ, chị nó từ trường chạy về nhà làm má ngạc nhiên:
“Ủa, mới đi chủ nhựt giờ thứ năm về nữa, có chuyện gì sao con, bữa nay không học hả?”.
Chị nó cười giả lả:
“Con xin phép rồi” – chị nó kéo má nó lại gần nói nho nhỏ: “Má ơi người ta đồn rần là hai ba bữa nữa có đổi tiền”.
Má nó trố mắt:
“Cái con này, kệ người ta mắc mớ gì tới mình, đổi thì đổi”.
Chị nó hề hề:
“Dạ, nhưng đổi có quy định đó má, một nhà chỉ được hai ngàn tiền mới hông quá được”.
“Một nhà hai ngàn tiền mới, mà bao nhiêu tiền cũ ăn hai ngàn tiền mới”.
“Dạ, mười đồng cũ đổi được một đồng mới, vậy hai chục ngàn đồng cũ đổi được hai ngàn tiền mới”.
Má nó à lên:
“Vậy thì đâu có gì, nhà mình còn chưa tới mười ngàn, có dư đâu mà lo”.
Chị nó lộ bí mật:
“Con biết vậy nên con mới chạy về đây kêu má tính”.
Má nó hứ:
“Cái con này, tính gì mà tính, lo mần ăn lo học hành, có đổi thì đổi, vậy thôi”.
Chị nó xoa xoa bóp bóp vai má nó:
“Thì tính cũng là mần ăn, có dư chút đỉnh để dành phòng bất trắc chớ má”.
Má nó cười:
“Cha, bây cũng biết vậy nữa hả, mà tính sao nói má nghe thử”.
Chị nó tuôn ra:
“Má à, ở dưới thị xã người ta ào ào mua hàng, mua giá cao bằng ba bốn lần bình thường, có khi còn lên bảy tám đó má”.
“Thì sao, nói vòng vòng hoài vậy?”.
“Con thấy vầy, nhà mình có ít đồ đem bán đi được nhiều tiền để đổi”
“Nhưng con nói chỉ đổi được hai chục ngàn?”.
“Má ơi, nhà mình mà còn có chưa tới mười ngàn thì cả làng mình chắc có ai có hơn, bà con mình con biết, tiền bạc làm gì có tích trữ, có đồng nào tiền chợ bữa đó hết mà, lo cái đói còn căng nữa, mình cứ gởi cho bà con đổi dùm rồi chia lại cho bà con, một nửa cũng được lời chán, giúp bà con có chút tiền nữa”.
Má nó có bộ xuôi xuôi:
“Nghe cũng có lý nhưng làm sao đem đồ đi, lỡ người ta bắt…”.
“Vụ này con cũng tính rồi má à – Chị nó kêu nó lên, chỉ vô nó nói tiếp: Đây, nhờ em con sáng mai đạp xe chở một bao xuống con đón ở chợ lớn con bán, người ta nghĩ nó còn đi học, mấy kỳ cũng chở bao đồ theo đâu có chặn hỏi gì đâu”.
Má nó thấy ngẫm nghĩ hồi gật đầu:
“Con tính vậy cũng hay, má chịu đó, làm theo vậy đi, kiếm chút tiền mua đồ dự phòng”.
Chị nghe má nói xong mừng quýnh, chạy đi lục đồ cất kỹ xếp vô bao. Đồ cất kỹ là từ chị đầu gởi về. Đó là một ngày bất ngờ cách đây mấy tháng. Bữa chủ nhật có hai người lạ mặt chạy trên hai chiếc xe Honda 67 và Dame chở một cái thùng vuông đóng bằng gỗ thông chạy ngay vô nhà, họ tháo thùng xuống rồi bưng vô thẳng bên trong, cả nhà đang ngồi ăn cơm ngỡ ngàng, không biết họ làm gì, chưa kịp hỏi họ đã chìa ra tờ giấy:
“Bác Hai ký dùm con”.
Má nó chưng hửng:
“Ký giấy gì, tui biết giấy gì mà ký?”.
Cô đi xe Dame cười:
“Ủa vậy bác hông biết gì, hông có tin tức gì hả, Trời! tụi con tưởng nhà mình biết chớ, đâu có gì bậy đâu, đây là đồ của chị con bác gởi về, bác ký dùm”.
Má nó còn hoài nghi, sợ người ta gài bẫy chuyện gì:
“Tui có đứa nào đi đâu mà gởi”.
Cô đó giải thích tiếp:
“Bác yên tâm, tụi con hông phải người nhà nước, tụi con là dân chuyển đồ ngoài luồng, kêu chuyển lậu, bác thấy hông tụi con đi chủ nhựt cho chắc đó bác, hông ai làm việc”.
Chú đi xe 67 lên tiếng:
“A, chị đưa cái thơ cho bác coi, đúng nhà, đúng người”.
Cô này sực nhớ ra:
“À, đúng rồi con quên lửng, thơ đây bác”.
Má nó cầm cái thơ, trên thơ là đúng chữ của chị đầu, người chị bỏ đi hông nói tiếng nào và địa chỉ nhà cũng đúng luôn, má nó bậm môi ngăn dòng nước mắt chảy:
“Đúng rồi, đúng của nó rồi ông ơi, bây ơi!”.
“Vậy bác ký đã nhận dùm con hen” – Cô đó nói tiếp.
Má nó ký cái rẹt, cô dặn tiếp:
“Bác dừng nói gì hết nghe, đồ đạc trong đó có sao còn y nguyên vậy, tụi con hông có mở ra, tụi con làm ăn uy tín”.
Má nó hỏi:
“Còn tiền cước thì sao cô?”.
“Xong xuôi hết rồi bác, bên đó trả hết rồi, chỉ cần bác ký là xong, mà con cho địa chỉ này hôm nào viết thư gởi vô đây, tụi con gởi qua bển cho”.
Má nó nhận địa chỉ rồi cảm ơn, mời cùng ăn cơm cô chú lắc đầu:
“Tụi con phải đi liền, đâu có ở lâu được, mọi người chú ý”.
Má nó xé thơ kêu chị đọc. Thơ viết đầu tiên hỏi thăm sức khỏe ba má và các em, kế tiếp xin lỗi ra đi đường đột mà không nói một lời lại lấy cắp vàng chắt chiu của má, chị nói không nói được bởi phải thiệt bí mật chớ hông bị lộ, bị bắt thì khổ. Chị đã tới được Canada, sẽ cố ráng làm gởi về phụ giúp gia đình rồi dặn đi dặn lại đừng cho em út ở nhà nghe theo ai đó mà đi nữa, nguy hiểm lắm, chỉ có may mắn chị mới lọt tới nơi. Nhiều người bị bắt phải vô tù, lao động học tập cải tạo nhưng đó chưa phải là bi kịch, nhiều cái chết bi thương, khi bị vây bắt bỏ chạy bị bắn chết, nhiều người bị chết oan uổng, chết từ ngay cửa biển chưa kịp bước lên tàu, chết vì bị lừa lọc chính do những kẻ tổ chức để cướp tài sản, cướp vàng lộ phí đã nộp như giao kèo, chết vì bị sóng nhấn chìm, chết vì không biết bơi lội, những kẻ thủ ác đôi khi lại hợp tác với những kẻ tán tận lương tâm nằm ngay trong chính quyền, họ sẵng sàng giết sạch để bịt đầu mối… Thêm những cái chết oan uổng nữa, nhiều tàu đã ra khỏi địa phận kiểm soát bị chết máy, hay chạy sai hướng hết nhiên liệu, hết lương thực, nước uống, chưa ai kịp cứu thì đã chết trong trong đói khát, có tàu gặp phải bão táp nhấn chìm, bị làm mồi giữa biển cả, bị cướp biển, đau thương hơn nữa là bị hãm hiếp và giết luôn. Rồi có tàu thuyền vượt biển được cứu vớt nhưng gặp phải tàu cứu vớt không của nước nhận thuyền nhân tỵ nạn, bị buộc ở trong trại tỵ nạn mút mùa, không biết bao giờ đến lượt cứu xét đến nước thứ ba…
Nghe tới đây má nó bật khóc hu hu:
“Chi mà khổ dữ vậy con ơi! ở nhà có mắm ăn mắm có muối ăn muối…”
Ba nó chan canh rồi lùa miếng cơm để đẩy cục nghẹn xuống khỏi cổ, chút sau ba nó nói:
“Thôi bà à, vậy là mừng cho con nó rồi, nó tới được mạnh giỏi là mừng rồi, mấy đứa viết thơ gởi lại cho chị nói bên này nhà mình giờ cũng tàm tạm, chưa đến nỗi nào, nói chị đừng có quá lo, ráng sức mà sinh bịnh tật”.
Cả nhà bên mâm cơm với những đôi mắt đỏ hoe cay xè,
Chiều hôm đó má nó đi chợ mua nhiều đồ, làm một mâm thịnh soạn, cúng tạ ơn Trời Phật, Tổ Tiên Ông Bà, may mắn cho nhà không phải làm thêm cái bàn thờ như nhiều nhà có người thân bỏ hồn bơ vơ lạc lõng nơi biển cả bao la.
Một thùng gởi về nhiều đồ lắm, nêm chật cứng không chỗ nhúc nhích, xà bông thơm quá chừng, áo và vải for quý ai cũng nói mặc mát và bền, quần jean hiệu Hara hay Davis mà thanh niên nam nữ mua được phải mất cả… gia tài, áo có thêm áo gió và riêng áo lạnh chị căn dặn phải để má mặc mùa đông. Chị gởi ít thuốc tây, thuốc chống sốt rét. Chị cũng không quên nhét mấy bịch bánh kẹo, có kẹo sô cô la làm nó nhớ lại cái khoảng thời gian xa lắc xa lơ ở Sài Gòn.
Sáng bữa sau nó chở bao đồ đóng sẵn về thị xã, đi cùng thằng Chí, cái mặt hai đứa nó ba năm trên con đường này ai cũng nhẵn cả ra, chỉ có điều đâu ai để ý nó đã tốt nghiệp, chở cái bao cũng chẳng ai thắc mắc. Ngày mới vô lô lớp mười, một lần nó chở cáo bao như vậy bị mấy chú thuế vụ ngoắc vô, một chú hỏi:
“Ê, con nít con nôi bày đặc tập tành đi buôn hả mậy?’.
Nó chưa hiểu đầu cua tai nheo ra sao thì một chú nữa lên tiếng:
“Nó Chở cho bà nào đó đồng chí ơi. Chở cho ai lấy bao nhiêu tiền khai ra đi rồi chúng tôi tha tội cho, không là giam luôn đó”.
Nó ú ớ:
“Con có chở gì cho ai đâu, của con mà”.
Chú này nói tiếp:
“Cứng đầu nhỉ, nhỏ mà cứng đầu nhỉ, mà chở cái gì trong đó nhờ?”
“Dạ, con chở mấy cái cuốc với cái xẻng đi làm lao động ở trường”.
Mấy chú té ngửa:
“Trời, sao hông nói sớm, chở cuốc bỏ vô bao chi vậy?”.
Nó mở ra cho mấy chú coi:
“Dạ, mấy chú bắt vô hỏi ào ào liền con biết ất giáp gì đâu, con run muốn chết, còn bỏ trong bao chớ hông mắc cỡ thấy mồ, đi đường con nít ở thị xã chọc quê lắm”.
Từ đó nó chẳng bao giờ bị hỏi gì nữa.
Chở xuống gặp chị nó ở chợ, chị cho tiền biểu ngồi quán chè đợi. Chè đá ăn mát lạnh, ngon lắm nhưng lần đầu tiên ngồi quán chè nó thấy nhột nhột, dòm tới dòm lui thấy cái gì cũng lạ, ba năm đi học có bao giờ biết là gì, hôm nào dậy trễ không kịp nấu cơm nhịn đói luôn, nửa ổ bánh mì thịt còn chưa dám đụng tới huống hồ là chè.
Lát sau chị nó ra hớn hở lắm, dúi cho một đống tiền:
“Bán lời quá, hơn ngày thường cả chục lần luôn, em đem về cho má cẩn thận, coi chừng rớt là chết đó”.
Chị nó lấy cái túi nhỏ ra đưa:
“Thôi bỏ vô đây rồi nhét vô túi”.
Nó nhét vô túi quần trước còn sợi dây rút của cái túi nhỏ cột lên dợi dây đai lưng quần cho chắc ăn, chạy về vừa đạp lâu lâu vừa rờ xuống thăm chừng.
Đúng như lời đồn, bữa hôm sau là đổi tiền. Má nó chia tiền nhờ bà con lối xóm đổi dùm có được kha khá mà bà con cũng có chút tiền. Cán bộ đổi tiền thấy lạ, đội này sao nhiều người khá quá, ai cũng có tiền đủ để đổi, bà con im thin thít, của để dành bấy lâu nay đâu có xài việc gì cán bộ ơi.
Sau đổi tiền cũng có nhiều chuyện vui, khan hiếm tiền lẻ quá chừng, mua ký cá có mấy đồng bạc, đưa tờ năm chục lấy đâu mà thối, làm bà con phải mắc nợ lẫn nhau, người bán phải sắm nguyên cái sổ bự chứ nhớ gì hết. Có người nói vui: “giữ sổ chắc như giữ sổ gạo nhe, mất nó cái mặt hông thua gì mặt mất sổ gạo đó”. Má nó thì may, có tiền sợ xài phí nên mua ngay lại lúa gạo và măng khô trữ, chớ không vài tháng sau tiền trượt giá y như chơi cầu tuộc con nít, tuột xuống cái ào, có nhà có mười ngàn, trước giờ làm gì có tới số tiền lớn vậy nên mừng húm khư khư giữ, vật giá nó bay lên… trời nhanh hơn trèo thang cứu hỏa, đem ra cho mấy đứa nhỏ năm chục đồng ngày nào không có tiền thối chỉ mua được vài cây cà rem, cười mà mặt méo xẹo, “kiếp bò lại hoàn bò”.

***

Gần dứt mưa nó đầu quân vào nhóm làm gỗ.
Rừng cây bắt đầu khan hiếm, đã bị người ta làm rẫy, đốt than, làm củi, làm cây gỗ đốn sạch dần, từ cây nhỏ ngày trước bỏ lại hay những cây chê xấu như cứt mọt, vông đồng, trâm nước… cũng bị hạ luôn. Đứng ở đồng không còn nhìn thấy rừng, ở rẫy nhà nó còn rừng lưa thưa, cây gỗ xấu, núi Đất gần nhà nhìn đã gần giống đồi trọc. Làm gỗ phải lùi vào trong rừng sâu, trên núi cao. Làm càng xa càng trốn tránh được kiểm lâm, kiểm lâm đã đặt trạm ở bìa rừng.
Lán trại cất ở bãi đất trống giữa khu rừng già có bán kính chừng hơn hai cây số là chỗ tập kết gỗ. Khu rừng già này nghiễm nhiên không ai được khai thác như quy luật bất thành văn – luật rừng, bởi được hiểu như rừng “phòng hộ”, bao che cho dân làm gỗ ở lán này. Từ lán ra tới đường xe bò vận chuyển về hay đi tiếp vô rừng sâu chừng ba cây số, đưa gỗ vô ra lán không có con đường chính, mỗi lần chuyển là mỗi con đường, tìm đường mà ra để tránh để lại dấu tích.
Lán trại có miếng đất chừng hai sào, đủ để trồng rau củ cho lúc này lúc khác trên dưới hai chục con người ở đây cùng vài đứa nhỏ chăn bò. Lúc thêm người tới lúc người ra đi và lán nằm ngay bên con suối nhỏ có nước chảy quanh năm. Lo việc rau củ và cơm nước là ông Bảy già, ông khoảng bảy mươi mấy tám chục tuổi nhưng còn bửa củi ngon lành.
Trên dưới hai chục con người ở lán là trên dưới hai chục mảnh đời không ai giống ai, mỗi người mỗi cảnh. Người ở làng nó, người ở làng khác gần đó và có cả những người ở xa, ở xứ lạ hoắc mà nó chưa nghe nói tới bao giờ. Rừng ở xa nên người gần nhứt cũng phải hai ba tháng mới về một lần, người nửa năm hay cả năm, có người ba bốn năm ăn nằm dầm dề chưa thấy về.
Mới vào nhập hội nên việc đầu tiên nó được giao là cưa và bửa củi chẻ. Anh Lãm kèm nó. Cũng đi theo đoàn nhưng chỉ cưa những nhánh cây lớn hay những cây cưa đổ bị bọng không ấy gỗ được. Cưa đoạn năm tất, khúc nào đường kính chừng hai mươi thì bửa làm đôi, khúc lớn bửa làm ba làm bốn… Củi chẻ còn kêu củi thước, chất lên cao và ngang mỗi bên một thước thành thước củi, vị chi nửa khối. Bán tính tiền theo thước, mỗi thước bao nhiêu tiền đó, củi chẻ những lò nấu lớn như lò bánh mì thì để nguyên thảy vô chụm, nấu lò gia đình phải chẻ nhỏ ra thêm. Cưa nhắm đủ đầy thùng xe bò thì chất lên chở về lán, lán trại có ba chiếc xe bò với sáu cặp bò chiến. Hai anh em vừa kéo cưa sột soạt anh Lãm vừa chỉ nó:
“Mày vừa làm vừa quan sát nghen, hông có ai chỉ đâu, học nhìn nhau là chính, khi thấy sai người ta mới chỉ cho”.
Nó dạ:
“Em cũng có nhìn, mà cưa cây cho ngã là khó nhứt phải hông anh?”.
Anh Lãm gật đầu:
“Ờ, cưa cây ngã là nguy hiểm nên phải kỹ, phải cẩn thận, phải nhìn cây nó nghiêng theo chiều nào thường ngã theo chiều đó nhưng phải coi thêm hướng gió có thể xê dịch bao nhiêu, từ đó nhắm nó ngã đúng chỗ thì cưa ngang một nữa thân cây ở chiều ngã trước, sau đó cưa nửa bên còn lại, lúc nó sắp ngã, nghe kêu răn rắc là phải lấy cưa chạy tránh ra xa phòng bất trắc, cây trên sườn núi thì phần lớn đổ xuống, hy hữa có cây đổ ngược lên trên nhưng mấy cây này nguy hiểm lắm ít ai dám hạ”.
“Mấy lưỡi cưa đó bén ghê, sắc lẹm à”.
“Ờ, mấy lưỡi cưa cá mập mới ngon, là bén nhứt, phải mua từ tuốt ở Sài Gòn, ở thị xã hiếm lắm”.
Nghe tới Sài Gòn nó cười:
“Em đẻ ở Sài Gòn nè”.
Anh Lãm ngạc nhiên:
“Thiệt hả mậy, hèn gì nghe giọng mày có khác, mà sao mày hông ở trong đó, ở sì phố cho sướng mà lại lạc ra đây chi cho khổ”.
Nó thoáng chút buồn:
“Chuyện dài lắm anh ơi, bữa nào rảnh em kể nghe chơi, còn anh sanh ở đâu?”.
Anh lãm lắc đầu:
“Tao cũng chẳng biết mày ơi, tao theo bà ngoại đi tùm lum, Bà ngoại nói ba má tao mất sớm, chỉ nói vậy thôi, bả dắt tao đi đâu tao đi đó, tao thấy chủ yếu là mấy cái chợ, nhiều chợ tao nhớ mang máng hông biết ở đâu, cho tới khi lớn tao ở thị xã này, tao ở chợ Cồn, chợ cá đó mậy”.
Nó gật đầu:
“Em biết chợ Cồn, em đi học ở thị xã ba năm mà”.
Anh Lãm càng ngạc nhiên:
“Trời, mày học ở thị xã vậy mày học cấp ba rồi, hèn gì mày ăn nói có khác”.
“Dạ đúng đó anh, em học trường cấp III”.
Anh Lãm ngừng tay hút điếu thuốc:
“Làm một ngao mậy”.
Nó lắc đầu:
“Em chưa biết hút”.
Anh Lãm nói tiếp:
“Tập đi, bập bập cho nó vui, đỡ buồn, à mà mày học cao vậy sao không xin đi làm việc mà vô đây?”.
Nó xin bập thử điếu thuốc, hít một hơi nó nghe cũng đã đã nhưng khói đầy họng nên ho sặc sụa, anh Lãm kêu phải hít từ từ, hết ho, trả lời:
“Em định đi học lên nữa mà hổng được, bị vướng lý lịch”
Anh Lãm gục gật:
“À, vậy ha, ba mày sĩ quan Ngụy hả?”.
Nó chề môi:
“Ổng làm bàn giấy thôi chớ sĩ quan khỉ mốc gì nhưng người ta còn xét cả ba đời, đời ông ngoại là địa chủ”.
Anh Lãm lắc đầu:
“Thua luôn”.
“Còn anh, ở chợ cá cũng sướng mà?”.
Anh Lãm trầm ngâm:
“Cũng tàm tạm chớ sướng mẹ gì, tao làm bóc vác, khiêng cá dưới bến lên chợ rồi uýnh lộn, tao uýnh thằng dành mối xém bỏ mạng, tao trốn vô đây”.
Nó cũng ngạc nhiên:
“Nhìn anh hiền khô, em hổng có tin”.
Anh Lãm cười:
“Tao hiền thì có hiền nhưng tao cộc tánh, thằng kia lại ăn hiếp dành mối hoài tao nóng tao bụp một trận, tao úynh thì đừng hòng ai cản”.
“Thì ra là vậy, người ta nói tức nước vỡ bờ”.
Anh Lãm chặc lưỡi:
“Lâu rồi chưa về thăm bà ngoại, chắc cả năm rồi đó, chờ đợt này có tiền tao về, về thăm toàn len lén cũng oải, thôi đủ xe rồi chất lên về”.
Hai anh em chất đầy xe, móc bò vô ách, anh Lãm cầm dây mủi bò nhảy lên phía trước xe hụi bò đi, nó cũng nắm càng xe nhảy thóc lên.
Xe bò bánh cây lộc cộc lắc lư, xốc qua xốc lại, củi chất đầy vun bị lắc riết phẳng xuống bằng thùng. Tới dốc Bà già bật ngửa, anh Lãm cho dừng xe. Nó lôi hai tấm lưới bằng dây thừng lớn ra một cột chặn ngang phía trước một cột chặn ngang phía sau. Dốc Bà già bật ngửa nghe đã thấy ớn rồi, dốc qua suối dựng đứng, bà già đi lên phải bò chớ đi là bật ngửa sao mà hông ớn, nên phải cột chằn cho kỹ chớ có giỡn. Anh Lãm chặt hai đoạn cây cỡ bắp cẳng cặp song song theo thành xe, cột một đầu vô phía trước, một đầu ở sau để kéo trì xuống cạ sát bánh xe như cái thắng giảm bớt lực chạy băng băng xuống. Chỗ khúc cua bên trái thì kéo cây bánh bên phải và ngược lại, cho bò kéo xe xuống dốc, anh dặn:
“Nó xuống lẹ lắm, cẩn thận nghe mậy”.
Nói là bò kéo xuống dốc như thực ra chỉ là trượt xuống, mũi bò anh Lãm ngồi trên xe cầm dây kéo giựt ngược, cái đầu nó ngước lên trời thun sát cục u không còn thấy cái cần cổ, mình bò co rúm cong như con thỏ, chân trước và sau gần chạm vào nhau, thùng xe ủi chạm đít con bò, cứ vậy mà trượt rào rào xuống. Xuống hết dốc, tháo bò cho nghỉ ngơi uống nước, cho gặm cỏ chừng mười lăm phút lấy lại sức, hai anh em cũng xả hơi, mồ hôi mồ kê vãi ra như tắm, cái cây làm thắng cháy khét mòn gần hết phân nửa.
Lên dốc đỡ hơn, tháo cây bên hông làm thắng bỏ đi, nó đi trước cầm dây kéo bò, anh Lãm ngồi trên xe quất mạnh cho bò cố rướn mà lên. Qua dốc với xe củi chẻ, xe nhẹ chỉ cần hai anh em, chở gỗ lóng cần ít nhứt bốn người, lóng gỗ dài cỡ sáu thước trở lên và to thì phải tới tám người, thế thần vững chắc mới dám qua cái dốc Bà Già bật ngửa này…

Lê Đắc Hoàng Hựu

CƠN GIÓ MANG HỒN LỮNG THỮNG

ledachoanghuu

Mùa mưa hai năm sau.
Hợp tác xã không còn làm tập thể, không còn tiếng kẻng sáng chiều báo đi làm kêu beng beng nữa. Mùa trước đã giao đất về cho bà con. Đất cộng hết lại chia đều theo công lao động, có bốc thăm gặp đất tốt đất xấu coi như may nhờ rủi chịu. Làm rồi tính thuế, lúa đóng lúa, đất hoa màu đăng kỳ làm gì thì đóng nấy, bắp đóng bắp, mè đóng mè, đậu đóng đậu… Đóng thuế tính ký, một sào bao nhiêu ký đó cũng tùy theo đất tốt xấu, làm dư thì hưởng. Phân, giống lúa cũng nhận từ hợp tác xã, chỉ giống hoa màu thì tự lo. Những miếng đất bị cỏ ống tràn lan dày đặt thành đất hoang, ai nhận đất này là khai hoang, năm đầu không tính thuế.
Việc giao đất nảy sinh rắc rối lúc đi đóng thuế. Lúc đem lúa ra cân bà con mới thấy lạ, chú Tám Thạnh giãy nãy:
“Mấy ông coi lại chớ sao kỳ cục quá”.
Ông Sáu Hoàng chậm rãi ghi sổ sách hỏi:
“Kỳ chỗ nào chú, tui cân đong rõ ràng có sổ có sách mà?”.
Chú Tám giải thích:
“Tui hông nói chuyện đó anh Sáu ơi, chỉ thắc mắc chuyện này, miếng ruộng tui kề bên miếng thằng Hải, hai miếng coi như cùng loại đất, miếng tui nhỏ hơn miếng nó sao lại đóng thuế nhiều hơn?”.
Ai ai cũng ồ lên thấy đúng như vậy. Ông Sáu Hoàng mở sổ tra kỹ:
“Thì nè, miếng ruộng chú ghi một sào mốt nè, còn của thằng Hải là chín trăm chưa tới một sào, tui tính y như vậy”.
Dì Tư Thể xen vô:
“Rồi, bị lúc đo rồi mấy ông ơi, tui thấy lạ hổm giờ mà chưa nói, có miếng nhỏ lại nhiều mét, miếng lớn thì lại ít”.
Anh Hải tặc gục gật:
“Chị Tư nói đúng chóc, mấy ông ngày trước đo trật lất, mấy ổng sợ mỏi giò có đi đâu, bước bước đại, nhắm nhắm đại mà”.
Có một anh trong tổ đo đạc ngày trước chống chế:
“Lúc đó ai nghĩ sẽ chia đâu, cứ nghĩ vô hợp tác xã cùng mần chung suốt đời thì cứ nhắm chớ sao”.
Anh Hải bực mình:
“Mấy ông làm ẩu làm tả giờ chết bà con thấy chưa?”.
Chú Tám Thạnh hỏi lại:
“Giờ tính sao?”.
Ông Sáu Hoàng với chú Năm Ngàn kêu dừng lại, chờ báo hợp tác xã. Chuyện này chẳng đặng đừng, hợp tác xã không nói sai nói sót gì, chẳng xin lỗi bà con, chuyện xưa giờ rồi làm sai có ai đứng ra nói sai xin lỗi tiếng nào bao giờ, hợp tác xã âm thầm lập lại tổ đo, đi đo lại, kỳ này bà con tò tò đi theo chớ đâu dám để tổ này một mình.
Chuyện đóng thuế cũng bắt đầu nảy sinh năm bảy đường gian lận. Bắp hộp dốt dốt là lẩy, lúa phơi một nắng cho ráo mặt là gánh đi cân cho nó nặng hơn. Rồi lúa phơi ngoài đường lộ có sạn nhỏ nhỏ, bà con gom hết đóng chẳng nghe ai thắc mắc gì, sau thêm sáng kiến kinh khủng là độn thêm vài ký sạn vô trong lúa. Có một thời người ta kêu là gạo lúa hứ, gạo này toàn sạn, trước khi nấu phải lấy rổ rá mà đãi, nhiều người chưa biết cứ để vậy nấu, cắn nhằm sạn phải hứ lên một tiếng… Lúc cân thì xúm quanh cái cân đông đông, thấy người cân ghi sổ lơ là là đạp là nhấn lên bàn cân… Vậy chớ nhiều nhà cứ nợ thuế hoài hoài, năm này chồng lên năm khác.

***

Nó đã tốt nghiệp lớp chín.
Lớp nó gồm hai xã. Xã nó có mười chín đứa, gần một nửa lớp tốt nghiệp, năm đứa rớt, một đứa bị phát hiện gian lận, nó ghi ký hiệu gì đó dù có rọc phách thầy cô chấm bài là “người nhà” cũng biết, nghe nói ba thằng này mời thầy cô về nhà đãi tiệc linh đình rồi nhờ vả, chuyện sau này lan ra nó bỏ hẳn vô bưng không thấy mặt mũi, một phần khi đi học thằng này tham gia phong trào dữ lắm, nhắm chức liên đội trưởng hoài, nhưng chỉ được làm phó. Bị quê dữ là chuyện này, mấy đứa nhỏ ê a: “Anh liên đội phó, bố xin điểm số, gặp ngay sự cố, zê rô tổ bố, rớt bịch xuống hố”. Ông thầy chấm thi cũng bị kỷ luật thuyên chuyển đi vùng núi.
Ngày có kết quả tốt nghiệp nhiều nhà mừng rơn, tiệc tùng đãi cả xóm. Với nó thì bình thường, vui một chút, một nồi chè má nó nấu cùng bạn bè là đủ.
Thi lên lớp mười còn mười bốn đứa, thêm năm đứa “rơi rụng”.
Rồi một ngày tự dưng nó thấy buồn vô kể, buồn không thể tả nổi, chưa bao giờ buồn như vậy. Buồn nhưng lại không muốn nói cùng ai, một mình lao ra khỏi nhà, băng băng chạy ra đồng cỏ vật mình nằm nhìn mây trời, nó lẩm bẩm một mình: “Sao lại buồn thê thảm quá, hỡi cơn gió tuổi thơ ơi!”. Chợt một luồn gió mát, nhẹ nhàng bay tới, nó à lên:
“Thì ra là mày hả cơn gió tuổi thơ?”.
Cơn gió tuổi thơ gật đầu:
“Ừ, mình đây, lâu quá hông nghe bạn gọi, tưởng quên mình rồi chớ”.
Nó ngồi dậy cố mỉm cười:
“Mình phải lo nhiều thứ, lo làm lo phụ giúp gia đình, mình đâu còn nghĩ được chuyện riêng tư”.
Cơn gió ngạc nhiên:
“Bạn phải lo, bạn hông còn hồn nhiên tuổi thơ của mình?”.
Nó gật đầu:
“Phải, giống như ba mình nói đó, mình như mất phần tuổi thơ sau này vậy”.
Cơn gió trợn tròn mắt:
“Thôi chết rồi, vậy là căng à nha, mình nghe nói lại, mất tuổi thơ sau này dễ đánh mất linh hồn lắm đó”.
Nghe cơn gió nói nó liên tưởng tới người lớn, nhiều chuyện xấu nhiều chuyện không đúng xảy ra, phải chăng một số người hiện tại ngày trước không có tuổi thơ?, bị cướp mất tuổi thơ? mới nên nông nổi này?, nó nghĩ về ngày sau của mình và rùng mình, cuối cùng lắc đầu:
“Bây giờ mình đâu có nghĩ gì về sau, trước mắt còn như bóng tối chẳng có câu trả lời đây”
Cơn gió thấy nó rùng mình và lắc đầu nên ngờ ngợ:
“Bạn nói nghe lạ quá” – Cơn gió nhìn nó kỹ hơn, rồi tiếp: “Ý chà bạn đã nhổ giò lên cao chút rồi, giọng khác đi rồi hén, bắt đầu ồ ồ hen, a ha tới lúc bạn sẽ có cơn gió khác, mình phải chào bạn đây”
Nó hỏi:
“Bỏ mình đi thiệt sao?”.
Cơn gió cười:
“Đã tới lúc mình hông còn được phép bên bạn nữa rồi, chớ hông phải mình bỏ bạn ”.
Nó níu kéo:
“Mình hông muốn lớn lên, mình chỉ muốn làm tuổi thơ”.
Cơn gió lắc đầu:
“Không thể làm trái quy luật được”.
“Vậy cơn gió tiếp theo của mình là gì?”.
“À, đó là cơn gió mang hồn lững thững”.
Cơn gió mang hồn tuổi thơ ôm nó lần cuối rồi bay đi.
Nó buồn thêm. Không buồn đứng dậy, nó ngã người tiếp nằm ghĩ ngợi, nghĩ rất mông lung, nghĩ đủ thứ trên đời, tự hỏi đủ thứ trên đời. Đôi khi nó cảm thấy mình có những suy nghĩ rất lạ, không còn giống con nít, mà người lớn cũng không ra người lớn.
Một cơn gió bay lại bên nó nhưng cơn gió này mạnh mẽ hơn cơn gió nhẹ tưổi thơ của nó. Cơn gió chào nó:
“Mình là cơn gió mang hồn lững thững của bạn, bạn đang rất buồn?”.
Nó lim dim:
“Buồn lắm, trước giờ chưa bao giờ buồn như vậy”.
Cơn gió nói:
“Vậy là do bạn đã cảm nhận được rồi đó”.
Nó hỏi lại:
“Như vậy là lững thững?”.
“Ồ không, con người ai cũng phải lớn lên, phải qua giai đoạn tuổi thơ rồi đến trưởng thành, nhưng không phải cái gì cũng ào ào, lững thững như chiếc cầu nối, bạn vẫn còn một nửa bước chân bên này trước khi bạn bước qua hết”.
Nó hiểu ra:
“À, mình vẫn còn là nó”.
Cơn gió gật đầu:
“Kể những nỗi buồn cho mình nhé!”.
Nó cũng gật đầu:
“Ừm để mình kể, nhiều, nhiều câu chuyện buồn, buồn lắm!”.

***

Ngày mùng sáu Tết, cứ khoảng độ ba tiếng đồng hồ là có đoàn người đi ngoài đường lộ ngang trước nhà nó. Đi mà bước chân cứ như chạy lúp xúp, đi từ sáng sớm cho tới chiều tối, giữa trưa nắng cũng đi. Qua ngày hôm sau nữa cũng còn y chang. Thấy lạ mấy thằng con nít còn chơi Tết chạy ra coi thử. Thằng Học lanh lẹ chạy theo kè kè biết được chuyện này, chạy về nói với cả đám đang túm tụm:
“Tao biết chuyện gì rồi”.
Thằng Hào hất hàm:
“Chuyện gì vậy mậy, thấy kỳ kỳ”.
Thằng Học chậm rãi, nói nho nhỏ:
“Họ đang làm đám ma… bài”.
Nó ngạc nhiên hỏi:
“Ngộ dữ mậy, là sao?”.
Thằng Chí học lớp nó ngạc nhiên không kém:
“Lần đầu tao mới nghe”.
Thằng Học cười cười:
“Là vầy nè, tụi bây thấy bốn ông chạy lúp xúp đó hông, bốn ông đó bị bắt oánh bài, bị hình phạt làm đám ma bài”.
Nó hiểu hiểu:
“Là bốn ông đó… khiêng bài đi chôn”.
Thằng Học gật gù:
“Đúng đó mày, mỗi lần mấy ổng khiêng một lá, bốn ông bốn góc, đem từ xã tới núi Đất rồi đào hố mà chôn, chắc cũng năm sáu cây số, hai ông chạy xe kè kè theo có súng là hai ông công an xã đó, hai ổng nói đi chôn cho đủ năm mươi hai lá bài”.
Thằng Hào cười ha ha:
“Ù, hình phạt độc quá tụi bậy, mấy ông này chắc đi rã giò”.
Thằng Cọt chen vô:
“Hơn chục ngày giữa nắng cháy chớ hông ít”.
Thằng Chí gật đầu:
“Về tởn tới già chớ làm sao dám oánh nữa”.
Tháng sau ông bí thư xã bị bãi nhiệm không nói lý do. Ông này về làm thường dân, lẩn quẩn trong nhà chớ ít khi ra đường. Anh Ba Lễ được ra làm công an, ông trưởng công an lên làm chủ tịch, ông chủ tịch thế chỗ ông bí thư. Anh Ngạo hỏi anh Ba Lễ:
“Sao ông bí thư bị về vườn vậy Ba Lễ?”.
Anh Ba Lễ cười ruồi:
“Bị bắt oánh bài ăn tiền”.
“Vậy sao hông bị làm đám ma…?”.
Anh Ba Lễ gạt ngang:
“Thôi ông, dù gì cũng đã từng làm cán bộ, đưa ra mất mặt chớ với lại cũng có công chiếc đấu trong rừng”.
Thằng Hào leo vô:
“Tui nghe nói ổng bị chơi, ông chủ tịch muốn lên huyện nên gài bẫy”.
Anh ba Lễ trừng mắt:
“Con nít con nôi biết gì nói bậy mậy”.
Thằng Hào còn ba gai hơn ngày nào:
“Thằng này hông còn con nít đâu nhe, có sao tui nói vậy”.
Anh Ngạo gục gặc:
“Nghe cũng có lý, mà chắc gài cũng có mà cha nội đó mê bài cũng có, ai mà hông biết”.
Anh Ba Lễ lắc đầu:
“Tui mới ra xã đâu biết gì, thôi hông bàn nữa”.
Thằng Hào bỏ đi nói với lại:
“Ông đừng có oánh bài nghe ông đặng mau mau lên làm chủ tịch”.
Anh Ba Lễ hậm hực lắm rồi cũng bỏ đi lên xã.

***

Anh Ba Lễ hậm hực vì thằng Hào cứ trêu tức hoài mà hông làm gì được. Anh Hùng của thằng Hào đã trở về từ chiến trường trên đôi nạn gỗ. Anh trở về mang theo niềm vui mừng cùng một nỗi buồn cho anh và cho cả bà con xóm làng. Mừng là còn giữ được tánh mạng. Buồn cho thân phận tàn tật. Nỗi buồn nhiều hơn vì với tâm trạng trầm uất, chán nản, vừa về là anh “bầu bạn” ngay với rượu, gây ra nhiều chuyện tai tiếng. Bà con dĩ nhiên thiệt sự thông cảm nhưng phải chịu nhiều khổ ải.
Đám con nít xúm lại kêu anh Hùng kể chuyện chiến đấu. Đi coi phim tụi nó thấy quân ta bắn quân thù gục gã, anh dũng xông pha giữa sa trường đứa nào không khoái, tụi nó nghĩ anh cũng vậy nên mới bị thương.
Anh ngồi nhìn xa xăm, sau đó nhếch mép:
“Tụi bây tưởng hay lắm sao, chiến tranh chết chóc, tàn khốc chớ vui vẻ gì. Nói thiệt với tụi bây lần đầu tiên đi hành quân, gặp phục kích tao té đái ra quần, đứng như trời trồng gương súng lên trời mà bóp cò, đó nhiều cái chết lãng xẹt như vậy đó, đứng như trời trồng tránh đâu khỏi. Bữa đó tao may mắn có những đàn anh đi trước có kinh nghiệm kịp kéo dúi đầu tao xuống chớ hông bây giờ làm ma rừng xơ rơ trời lạ rồi. Lại có những cái chết tức tưởi, vừa hành quân trận đầu, chưa xáp trận gì cả đã dậm phải mìn nổ tan xác hay chỉ vì mải mê rượt theo một con thú, tìm miếng mồi cho đồng đội thiếu thốn trăm bề và bị bắt…”.
Cả đám tiu nghỉ, im lặng chẳng biết hỏi gì, tụi nó đâu ngờ là vậy, và thêm cái giọng chầm chậm, nghèn nghẹn kể từ anh nữa. Anh Hùng tiếp:
“Bây biết hông, phải ba bốn lần xáp trận như vậy mới lấy lại bình tĩnh. Và cho tới lúc bắn trả, bắn chính xác hay quyết chiến là khi nào bây biết hông…- Anh dừng lại nhìn đám tụi nó tiếp tục lắc đầu, làm sao tụi nó biết được, giọng anh càng trầm xuống: đó là lúc đồng đội của mình, người bạn từng chia sẽ điếu thuốc, chia sẽ từng miếng cơm, cùng nằm một giường với mình gục xuống… Sao nữa …? À… là bắn, bắn và bắn, bắn cho sạch, bắn cho kẻ địch rút chạy mà thôi. Rồi tiếp nữa là gì? Là vui mừng đã trả thù được à? Là đã chiến thắng, là đẩy lui được địch à? Có, có vui mừng lắm chớ nhưng cũng xen lẫn tê tái, bàng hoàng, xác người nằm la liệt, máu đỏ loang đổ nhuộm bãi cỏ xanh… Câu hỏi sẽ lẩn quẩn trong đầu, tại sao lại như vậy? Tại sao phải giết chóc lẫn nhau, cả hai phía âu cũng là con người, con người sanh ra là để sống mà, hầu hết có ai muốn như vậy bao giờ, tại sao lại có kẻ tàn bạo đẩy tới bước đường cùng này… Chiến tranh trong mắt tao là vậy, bây thấy có vui sướng hông?”.
Từ chỗ tụi nó tưởng chừng rất vui đã biến thành một bầu trời ảm đạm. Mây xanh mà thành xám ngoét, gió lặng đìu hiu mang máng tiếng chim vịt kêu chiều. Khá lâu sau anh Hùng lấy cây nạn gỗ gõ mạnh xuống đất:
“Thôi bỏ đi, kể nhiều mấy thằng bỏ xác bên đó nó buồn. Theo tao, bây giờ bây coi tao làm anh hùng nè”.
Anh chống nạn đứng dậy khập khiểng bước đi, thằng Hào hỏi:
“Đi đâu anh?”.
Anh đáp gọn:
“Theo tao rồi biết”.
Đi một hồi đám tụi nó thấy gần tới ủy ban xã, thằng Cọt hỏi tiếp:
“Tới xã hả anh Hùng”.
Anh Hùng gật đầu:
“Tới xã”.
Thằng Chí lại hỏi:
“Ủa, tới xã chi anh?”.
“Thì tới đó khắc biết”.
Tới sân xã, anh Hùng ra hiệu đứng lại:
“Tụi bây đứng hết đây, cấm tới gần, lỡ có chuyện gì tao hối hận hông kịp”.
Anh khệnh khạng đi tới sát bật thềm, đứng ngay trước hành lang nhà ủy ban, cái chân cụt gát lên thanh ngang nạng gỗ, móc điếu thuốc lá ra anh châm lửa, nhả làng khói lên trời. Thấy anh Hùng đứng đó, nghểnh đầu phà khói, anh Mừng nay đã là xã đội phó bước tới gần hỏi:
“Có chuyện gì hông Hùng?”.
Anh Hùng nhếch mép cười:
“Tao tới tặng trái này cho tụi bây”.
Nói xong anh móc một trái trên lưng quần ra quăng thẳng vô phòng. Anh Mừng trợn mắt la lớn:
“Lựu đạn, nó liệng lựu đạn”.
Ba bốn người trong phòng hoảng hồn vía, người đẩy bàn bung chạy ra cửa chính, người phóng ào bay qua cửa sổ, bàn ghế giấy má trong phòng đổ ngổn ngang, bay tứ tung. Anh Mừng cũng lui chạy một khúc. Anh Hùng rít thêm hơi thuốc rồi cười ha hả:
“Đúng là mấy thằng chết nhát”.
Chờ một hồi lâu không thấy tiếng phát nổ và vẫn thấy anh Hùng đứng yên Anh Mừng mon men lại gần, thêm vài anh xã đội phòng bên ôm súng từ từ tiến lại, anh Hùng hất hàm:
“Vô đi, vô đi rồi nó bùm một phát đừng trách tao hông báo trước”.
Toán anh Mừng đứng khựng lại rồi lui lui mấy bước và lại nín thở chờ đợi. Anh Hùng ném mạnh cái tàn thuốc xuống đất, nói lớn:
“Nói thiệt với tụi bây chớ lựu đạn khỉ gì, quởn quá tao đẽo trái lựu đạn cây hù tụi bây chơi”.
Anh Mừng nhìn anh Hùng nửa tin nửa ngờ dợm chưn nhưng chưa bước tới, anh Hùng tiếp:
“Tao chơi như quân tử, nói một là một chẳng hai lời, vô coi đi, tao còn đứng chình ình đây thấy hông”.
Lần này anh Mừng tin nên bước vô, anh cầm lên thì đúng là trái lựu đạn cây thiệt, anh cầm rồi bước ra:
“Mày chơi gì kỳ vậy Hùng, sao tối ngày đi phá hoài vậy?”.
Một anh xã đội lên đạn lốp rốp, mặt đỏ phừng phừng:
“Mẹ, bắt nhốt cho nó biết lễ độ, phá rối an ninh trật tự hả”.
Anh Mừng đưa tay cản lại. Tụi nó thì đang run sợ, thằng Chí lắp bắp:
“Mấy… mấy ổng bắt… bắt anh Hùng… anh Hùng…”.
Anh Hùng nghe anh xã đội nói xong quay qua nhìn chằm chằm, nắm áo bứt bựt nút, tà áo bung ra, anh đưa cây nạn gỗ chỉ vào mặt anh xã đội:
“Cha mày thằng nhóc con, chửi mẹ tao hả, mày ngon bắt tao đi, mày ngon bắn đi” – Anh nhích chích lại gần: “Mày ngon bắn vô trái lựu đạn thiệt trên người tao rồi cùng chết nè, dám hông thằng miệng còn hôi sữa, cha mày cũng hông dám nói chi tới mày…”.
Anh xã đội lúc này mặt hết đỏ đã chuyển sang tái, anh Mừng đưa hai tay ra phía trước:
“Có gì từ từ nói, từ từ giải quyết mậy Hùng”.
Vừa lúc đó thì thằng Hào và ba nó chạy lại, thằng Hào thấy tới xã biết sẽ có chuyện xảy ra nên lén chạy nhanh về báo ở nhà, ba thằng Hào nhào lại ôm anh Hùng:
“Thôi, thôi con, về nhà đi con, về đi đừng phá làng phá xóm nữa”.
Anh Hùng chỉ tay về mấy anh xã đội:
“Tui hông có phá xóm phá làng, tui chỉ phá những thằng ngồi mát ăn bát vàng này thôi, ngon cầm súng ra chiến trường mà chiến đấu chống kẻ thù kìa, chui rúc ở đây hù dọa bà con thì giỏi”.
Anh Hùng quay người, đi vài bước anh còn ngoái đầu lại:
“Tao mà nghe bức bà con, khó dễ cô bác tao ra thảy trái lựu đạn thiệt chớ hông giỡn nữa”.
Đám tụi nó cũng xanh lét mặt mày, nhưng không phải chỉ lần này, một vài lần nữa, anh Hùng rủ thêm vài người bạn thương binh kéo nhau đứng giữa đường lộ, chặn xe lại xin tiền. Không cho sẽ bị hù đập bể kiếng hay nằm trước đầu xe, xe nào dám cán qua, dám chống đối với người giắt vài trái lựu đạn…
Anh Mừng ghé xuống nhà năn nỉ:
“Hùng, mày thôi đi, đừng làm vậy nữa mang tiếng xóm làng”.
Anh Hùng cười ngạo nghễ:
“Mày nói hay lắm, mày lo cho tao cái ăn đi tao đâu làm vậy, thân trai tráng vậy mà giờ tao thành ăn bám gia đình mày thấy có nhục hông”.
Anh Mừng gật đầu:
“Tao biết nỗi khổ của tụi bây, nhưng có mà, tao nghe nói sắp có chính sách cho thương binh liệt sĩ rồi”.
Anh Hùng tiếp tục cười:
“Câu này tao nghe nhiều rồi, tao chờ cũng dài cổ rồi, nói hay lắm chớ có làm đâu, tụi tao có khác nào những đứa con bỏ chợ”.
Anh Mừng gục gật:
“Đất nước đang khó khăn, tụi bây ráng chờ, có việc gì nhè nhẹ làm được thì làm cho vui”.
Anh Hùng gạt tay:
“Thôi tao hông nghe nói nữa, nhức lỗ tai, tao đi ngủ sướng hơn, mày về đi”.
Lâu lâu anh Mừng lại ghé một bữa, tiếp tục nói chuyện, anh Hùng có giảm đi nhưng không dứt hẳn mấy chuyện này.

***

Chú Tư râu dắt chú Thành sẹo tới nhà nó. Má nó rót nước trà và hỏi:
“Chà, bữa nay có chuyện gì mà rồng ghé nhà tôm vậy?”.
Chú Tư giả lả:
“Dạ, tui ghé thăm anh chị, ảnh có nhà hông chị?”.
“Ổng đi công chuyện gì rồi tui hông biết nữa, hông có nói”.
“Nghe nói ảnh ở trong rẫy”.
“Vậy chú vô rẫy kiếm coi, tui còn chẳng biết có cái rẫy”.
Chú Tư cười:
“Đâu có ý vậy đâu chị Hai, tui ghé trước thăm sau có thêm chút chuyện”.
“Có chuyện gì chú nói đại tui nghe”.
Chú Tư chỉ chú Thành:
“Chị biết đó, chú Thành ở trong bưng xa xôi, đường đi lại cực khổ quá, nay hỏi xin anh chị cho gia đình chú ra ở nhờ nhà bỏ không của ông Ba Thảnh, đặng mấy đứa nhỏ học hành cho dễ bề”.
Má nó ậm ừ:
“Nhà và vườn trái cây chú Ba Thảnh tui giữ dùm, tui đâu dám cho”.
Chú Tư giọng nằn nì:
“Thì xin chị nói với chú một tiếng, chớ nhà bỏ hoang cũng uổng”.
“Chú Ba Thảnh ổng vô Sài Gòn chữa bịnh tui đâu biết lúc nào chú về, mà có về chú cũng đâu có về đây, chú ghé nhà đứa khác ở đâu tui cũng hông rõ, thôi để tui hỏi lại ông xã tui rồi có gì tui tin cho chú”.
Chú Thành sẹo nói vô:
“Mong chị nói vô, giúp cho em út, con cháu nó nhờ”.
Chú Tư và chú Thành chào ra về. Má nó lầm rầm:
“Tết nhứt còn chưa ghé giờ kêu ghé thăm”.
Má nó bàn với ba, thôi cho ở đại chớ dạo này tụi chăn bò phá phách, trộm trái cây quá, cho ở coi mình khỏi giữ. Vườn là đất thổ canh và nhà chú Ba Thảnh của ba nó, nó kêu bằng ông, có bà con xa, ở cách nhà nó cũng gần, chỉ vài trăm thước, nhưng ở bên đội khác nhờ giữ dùm. Ba nó nói:
“Chú Ba Thảnh chắc đi luôn rồi, lâu lắm đâu thấy về, bà về nói cho ở nhưng viết giấy tờ đàng hoàng, không cho họ chắc chắn làm khó dễ, chẳng mần ăn gì được đâu”.
Vậy là chú Thành sẹo về ở nhà ông Ba Thảnh của nó. Anh em vẫn qua lại hái trái cây, lâu lâu chú Thành hái trái chín bưng qua nhà.

***

Mùa hè tới.
Đoàn phòng giáo dục với thầy Phương và ba người nữa về xã công tác và ở nhà nó. Hai chị cùng phụ với đoàn.
Một bữa thầy Phương hỏi:
“Sao bác hông cho hai em nó đi học?”.
Má nó hỏi lại:
“Học gì được thầy, lý lịch xấu mà?”.
Thầy Phương ngẫm nghĩ một chút rồi đáp:
“Dạ, hai em nó đã xong tú tài một ngày trước tương đương với lớp mười một bây giờ, cho đi học trung cấp sư phạm được đó, sau ra làm giáo viên cấp một.
“Người ta dễ gì cho đi thầy ơi”.
Thầy Phương gật gật đầu:
“Bây giờ đang thiếu giáo viên nhiều lắm với lại con gái cũng đỡ xét lý lịch hơn, để con viết giấy giới thiệu cho xã và trường sư phạm”.
Má nó mừng rơn:
“Nếu được vậy thì còn gì bằng, biết cảm ơn thầy sao đây”.
Thầy Phương tươi cười:
“Có gì đâu bác, tụi con ăn nằm dầm dề làm phiền bác quá chừng chưa nói gì”.
Mấy chị thiệt tình rất muốn được đi học, ra dạy học vả lại Nhà nước lo hết mà. Sao này ra trường chưa cần nói lương đã có sẵn cái sổ mỗi tháng mười ba ký gạo, đâu sợ đói.
Tháng mười thì hai chị được nhập học. Khóa học ba năm. Một hai tuần lễ lúc về thăm nhà lúc má nó đạp xe ba mươi cây số đi thăm, mang ít đồ qua tiếp tế, bù cho cơm canh tập thể, cơm gạo còn mày đen, canh thì được ví là nước muối đại dương, lõng bõng rau muống rau cải bằm như bửa củi và “lặn” tới đáy chưa tìm ra miếng thịt. Thời ăn tập thể này món cơm cháy lên ngôi nhưng cũng săm xoi lựa kỹ bởi dễ gặp cơm cháy hứ, sạn đọng đáy chảo dày đặc không khác hột cỏ, hột cỏ nhẹ xen lẫn vào cơm vẫn ăn bình thường sau cũng phải lựa vì truyền tới tai hột cỏ không tiêu, sanh đau bao tử, có người đau đi mổ moi ra cả bọc còn nguyên…
Còn người chị đầu nó thì không một lời gì với nhà, với ai, lẳng lặng ra đi biền biệt năm trước rồi, phải báo mất tích. Nhưng cả nhà hy vọng là chị chỉ bỏ đi đâu đó, có lẽ là vượt biên, bởi tủ nhà bị cạy lấy mất hai chỉ vàng và ở xóm trên cùng nhóm bạn chơi với nhau cũng có một người y như vậy. Duy chị này có hé lộ chút chút với vài người bạn chuyện bỏ đi xa, đi ra biển cả. Chị nó cùng chị này đi mất cùng một lượt.

***

Cũng trong đầu mùa hè này trong xóm có thêm chuyện buồn, may là chưa tới mức đau thương.
Chuyện lúm xùm giữa anh Hải đất và chú Tòng càn. Dắt díu nhau ra nhà ông Sáu Hoàng cùng bà con phân xử, có cả công an xã xuống dự.
Phó công an xã Trí hỏi:
“Bây giờ từng người thuật lại câu chuyện ra sao?”.
Chú Tòng càn ào ào liền:
“Thằng này muốn giết tui, nó lấy cuốc oánh tui gãy xương sống, bắt nó bỏ nhà đá cho nó mọt gông”.
Anh Hải đất giãy nãy:
“Ông vừa vừa thôi nghen, tui mà lấy cuốc oánh ông giờ ông còn ngồi đó hả”.
Dì Tư Thể chen vô:
“Đúng rồi, nó mà phang một cái chắc giờ ông đoàn tụ với ông bà”.
Bà con cười rục rịch, anh Trí đập tay xuống bàn:
“Bà con trật tự, chú Tòng và anh Hải cũng phải ăn nói đàng hoàng, không có cắt ngang như vậy, tui hỏi là hỏi từ đầu, nguyên cớ ra sao?”
Chú Tòng nói:
“Chuyện là vầy, tui đang mần ruộng hông biết cắc cớ gì nó lấy cán cuốc phang cái ình vô lưng tui, giờ còn sụm bà chè”.
Có tiếng xì xào, dì Tư Thể lên tiếng tiếp:
“Phang vô lưng thì sụm sống lưng chớ sao sụm bà chè cha nội, mà hồi nãy ông lại nói gãy xương sống, gãy xương sống mà đi được ra đây”.
Bà con cười rần, anh Hải phân bua:
“Chú lớn rồi ăn nói cho nó đúng, tui có phang chú tui nói có phang, nhưng tui đã cố tình trở đầu cuốc, phang cán một cái nhẹ hù chú thôi, mà đâu phải tự dưng tui phang, tui ức quá mà…”.
Chú Tòng đứng lên cắt ngang:
“Đó, nó nói có phang tui đó”.
Anh Trí ra hiệu cho chú Tòng ngồi xuống:
“Chú cứ bình tĩnh, để anh Hải nói hết, giờ anh Hải nói tiếp đi tại sao lại oánh người ta”.
Anh Hải nãy giờ bậm môi, anh nói nhỏ dần, mắt chớp chớp rơm rớm:
“Chú Tòng cứ làm càn hoài, tui nói chú nhiều lần rồi mà chú đâu có nghe, ruộng chú bị lỗ mọi hay bị gì đó chảy hết nước, chú tự ý trổ bờ lấy nước ruộng tui, chẳng nói một tiếng, mà đâu phải một lần, nhiều lần lắm chớ, rồi tui hông biết chú có canh lúc tui vừa rải phân hông mà cứ tui rải là chú trổ lấy nước, phân chưa thấm chạy qua ruộng chú hết trơn, tui nhắc chú chú chẳng trả lời trả vốn, chú ghim chú tức tui chú nhổ cỏ ruộng chú hông bỏ lên bờ chú thảy luôn qua ruộng bên này, chưa hết nữa, hổm mưa ngập, sợ lúa úng tui xin chú xả nước ngang ruộng chú một mực nói hông, chú là người lớn, ruộng kề bên nhau xử xự vậy coi có được hông?”.
Chú Tòng ơ ớ chưa kịp nói, chú Tám Phèn lên tiếng:
“Anh Tòng ơ ớ gì nữa, tui nói thiệt chẳng binh bỏ ai, bà con biết tui như ruột ngựa, tui thấy thằng Hải nói hông quá nửa lời, nó trước nay hiền như cục đất ai hông biết, anh Tòng làm bậy quá nó điên lên chớ, nếu là tui chắc hông tới bữa nay đâu, anh coi lại mình đi, chịu gì tui cũng làm chứng hết”.
Anh Ngạo nhảy vô:
“Ổng có biệt danh là Tòng càn mà, thấy bà con hông nói ngày ổng làm càn thấy ớn, lý ra tên Tòng phải xứng là anh hùng võ hiệp chớ đàng này…”
Dì Tư Thể gục gật:
“Ai cũng thấy vậy mà chưa nói thôi đó chú Tòng, chú nên coi lại mình đi”.
Chú Tòng cứng họng hông nói được lời nào. Anh Trí hỏi lại:
“Anh Hải với bà con nói vậy chú thấy sao?”.
Chú Tòng ậm ừ một hồi rồi cuối mặt xuống, nói nho nhỏ:
“Có, tui có làm bậy”.
Ở dưới bà con xì xào, biết vậy là được rồi, đỡ rồi. Anh Trí hỏi bà coi:
“Theo bà con vụ này xử trí như thế nào?”.
Chú Sáu Tình đứng ra:
“Tui có ý này, theo tui thằng Hải nó có lỗi oánh ẩu anh Tòng nhưng thiệt tình nó hông cố ý oánh cho thương tích còn anh Tòng cũng sai, giờ ảnh biết lỗi rồi, chuyện cũng chưa xảy ra gì ghê gớm, thôi thì bỏ qua, dàn hòa, xin lỗi nhau, dù gì cũng bà con lối xóm lại ruộng kề bên nhau, mong từ nay hông xảy ra vậy nữa”.
Bà con ở dưới đồng tình cách xử trí của chú Sáu Tình. Anh Trí suy nghĩ một hồi sau rồi nói:
“Tui thấy cách của chú Sáu cũng được nhưng bị cái chỗ anh Hải có oánh người dù nhẹ hông có kỷ luật gì cũng khó ăn nói với cấp trên, tui sẽ báo cáo lại anh Hải oánh nhưng hù thôi chớ chưa có trúng người, xử anh Hải một tuần lao động công ích, dãy cỏ vòng quanh xã, chú Tòng thì nhắc nhở từ nay về sau phải chấn chỉnh tư cách, hông được làm càn, tui xử có tình có lý, bà con, anh Hải và chú Tòng thấy sao?”.
Bà còn gật đầu, vậy cũng được, chỉ một tuần chớ đâu nhiều lắm. Anh Hải đứng dậy:
“Tui xin lỗi chú Tòng đã nóng tánh, con cháu mà oánh người lớn thiệt xất mặt lắm, xin lỗi đã làm phiền bà con, còn hình phạt vậy tui thấy là nhẹ rồi, tui cảm ơn anh Trí, cảm ơn bà con”.
Chú Tòng cũng đứng lên:
“Tui xin lỗi bà con, chú cũng xin lỗi thằng Hải, tui sẽ cố gắng từ nay bỏ cái tánh kỳ cục này”.
Họp tan, bà con lối xóm ra về ai nấy đều thông cảm.

***

Nó ngừng lại chớp chớp đôi mắt nhìn những đàn chim tay về tổ. Mặt trời còn chừng cây sào là khuất xuống núi Đất. Ánh nắng không còn chói lòa và phát ra những tia sáng rõ hơn trên nền ráng vàng. Ráng vàng thì gió ráng đỏ thì mưa, vậy đã sắp kết thúc mùa mưa rồi. Cơn gió gục gật:
“Ấy dà, buồn”.
Nó nhắm đôi mắt lại:
“Chưa hết đâu, còn thê lương nữa kìa”.
Cơn gió biểu lộ không gì ngạc nhiên hơn:
“Còn nữa à, sao nhiều dữ?”.
“Mình cũng không hiểu”.
Cơn gió nho nhỏ:
“Bạn muốn kể tiếp hông, hãy kể hết cho nhẹ người”.
Nó gật đầu:
“Ừ, ráng chịu khó nghe nhé, mình kể tiếp đây”.

***

Hung tin đến với nhà nó khá trễ.
Ba nó kịp về làm cái tủ thờ thì đã đúng bốn mươi chín ngày mất của ông nội. Tin tức cũng không rõ ràng, chỉ được biết ngày mất, có tin nói ông nội bị bịnh, có tin nói ngoài đó lụt bão lớn lắm, nhiều người già không chịu nổi rồi có tin ông nội bị tai nạn. Nhưng dù tin như thế nào thì ông nội cũng đã về với tổ tiên ông bà. Ba nó thắp nhang trên mâm cơm lầm rầm khấn vái rồi trầm lặng như mấy ngày qua đã trầm lặng, không nói lời nào. Chắc chắn nỗi đau lớn nhứt là không được về bên ông nội. Má nó, mấy chị và anh rưng rưng nước mắt. Nó cũng thấy thiệt buồn rưng rưng theo nhưng thực tình thì vẫn chưa cảm nhận hết, khoảng thời gian ở bên ông nội chẳng được bao lâu, rồi phần thời gian sau này cũng đâu ai đủ nhớ để nhắc nhiều về ông, trí nhớ ẩn mình theo năm tháng bôn ba, lo lắng cho phía trước.
Ba nó thở dài trở lại rẫy.
Nó mong mùa măng tới. Phụ tùng cho chiếc xe đạp đã đầy đủ, giờ chỉ còn thiếu cái sườn nữa mà thôi. Nó muốn một cái sườn ngang bởi nhớ chiếc xe dàn cái ngày trước ba chở lòng vòng Sài Gòn.
Mùa măng cũng tới.
Như mọi năm nhưng bây giờ thì nó không chỉ phụ chỉ lột vỏ, đã lao vào xắn, đã gánh đầy măng về.
Ba nó phải ở nhà với ruộng một ngày và nói:
“Hai con cũng nên nghỉ xả hơi một bữa”.
Nó khá mệt mỏi nhưng nghĩ lại thôi:
“Dạ, ba cho con đi tiếp vì chưa đủ cho cái sườn xe đạp”.
Ba nó gật đầu:
“Ừ, thôi ráng đi”.
Hai anh em không đi Dốc Lớn mà chuyển hướng đi Dốc Lết. Đêm đó anh nó nằm mơ thấy Dốc Lết măng nhiều vô kể. Mà măng Dốc Lết đúng là nhiều, tre cây gỗ phía bên kia dốc cũng còn rất nhiều cây lớn, bởi phía bên đó có sườn núi hiểm trở, Dốc Lết đi ngang qua suối lớn cũng hiểm trở không kém, đã gọi là lết còn gì. Dốc Lết bùn lầy đầy hết, xe bò kéo gỗ qua một cặp không bao giờ kéo nổi, phải móc thêm một có khi là hai cặp nữa, bùn sình lún hết cả chưn bò, còn phần bụng to mới không chìm xuống, bò kéo xe gỗ qua như bơi trong sình, bò khó đi cứ đứng chững, người ta phải nện ình ình bằng cái cây dẻo cỡ bắp tay chớ không còn là roi oánh chóc chóc nữa. Người phải nói là gan lỳ đi ngang thấy cũng phải rùng mình chạnh lòng. Bò chiến kéo xe Dốc Lết chỉ xài được một mùa, mùa sau cho về làm loạch hoạch chuyện nhẹ nhàng, hay bị xẻ thịt.
Vừa qua đứng bóng là anh em nó đã đóng đủ gánh măng. Cơm nước xong nghỉ một chút là rời khỏi lao tre. Hai anh em mừng rơn vì được về sớm nghỉ ngơi. Ra tới đường xe bò một chập nó thấy bóng người ở trần lại đang loay hoay giữa đường, rất kỳ lạ. Tiến lại gần thì gặp gương mặt thằng Thà đầm đìa nước mắt vừa thở hộc hộc vừa rên rỉ. Hai anh em tá hỏa, thằng Thà đang ôm anh Thững của nó đứng dậy định đi tiếp, cẳng chưn anh Thững được bó bằng cái áo của thằng Thà máu nhuộm đỏ gần hết, anh Thững đang vật vã trong cơn đau, anh nó hỏi gấp:
“Có chuyện gì?”.
Thằng Thà thều thào:
“Anh Thững bị thương”
“Nặng hông?”.
“Nặng lắm, đụng tới xương, máu ra xối xả phải lấy áo băng đỡ”.
Anh nó nói tiếp:
“Bỏ hết măng đi, cùng đưa ảnh mau mau về”
Nó sực nhớ ra:
“Ba anh em mình đưa ảnh qua Dốc Lết nổi hông, hay để em chạy nhanh về rẫy kêu ba với chú Ba, anh với thằng Thà đưa ảnh tới Dốc Lết đi còn cả hai cây nữa chớ hông ít đâu”
Anh nó ừ, hối:
“Đúng đó, chạy nhanh đi, à mà cởi áo để lại đây”.
Nó phóng như bay, anh nó băng thêm cho anh Thững rồi cùng thằng Thà cõng thay phiên tới Dốc Lết.
Về báo cho ba nó xong, ba nó nói:
“Con chạy nhanh về nhà báo bà con kiếm chiếc xe lam chờ sẵn ở nhà ông Sáu để chở đi bênh viện tỉnh” – Ba nó cùng chú Ba Mạnh lao đi Dốc Lết, còn nó lao về làng.
Hơn ba tiếng đồng hồ thấp thỏm đợi chờ ba nó và chú Ba Mạnh cõng được anh Thững về tới. Anh Thững lúc ngất lúc tỉnh được chút xíu, người tái ngắt. Xe lam rồ máy, chú Tám Thạnh chạy lại nói nhanh với chú xe lam:
“Chút xíu nữa quên, anh ghé trạm xá lấy giấy giới thiệu”.
Ba nó la lớn:
“Giờ này mà lấy giấy gì nữa, chạy lẹ còn hông kịp”.
Chú Tám Thạnh đưa tay ngăn:
“Anh Hai ơi hông được đâu, ráng chút đi, tui bị rồi hổm đưa cấp cứu không có giấy họ hông nhận, phải quay đầu lại lấy, họ nói phải làm đúng nguyên tắc”.
Xe lam chạy bỏ lại nhiều cái lắc đầu ngao ngán. Tới trạm xá, chị ý tá viết giấy rồi sực nhớ:
“Chết cha, cô trạm trưởng hông có đây, đâu có con dấu, mấy anh chờ em chút”.
Anh Ngạo giựt chiếc xe đạp của chị y tá vừa cầm ghi đông:
“Để tui chạy chở cho lẹ”.
Anh Hải tặc hỏi:
“Có máu hông truyền cho nó đại đi”.
Chị y tá lắc đầu:
“Trạm xá làm gì có máu anh”.
Anh Hải bồn chồn lo lắng đứng ngồi không yên, than trời than đất nhìn anh Thững ngày càng lả đi. Cuối cùng con dấu cũng được đóng và xe tiếp tục chạy hết tốc lực.
Bà con tụ tập ở nhà ông Sáu Hoàng chờ tin. Vừa nghe tiếng chiếc xe lam quay trở lại, mọi người nhào ra, xe vừa ngừng, anh Ngạo phóng xuống hai tay bứt đầu tóc rồi hét lên một tiếng, bưng mặt khóc nức chạy đi mất. Trên xe thằng Thà gục đầu trên người anh Thững chỉ thấy đôi vai run bần bật và nghe tiếng ục ặc ức nghẹn. Anh Hải ngồi thừ như gỗ đá, hồi lâu anh mới thốt ra:
“Nó trút hơi thở cuối cùng khi vừa tới nhà thương, mất quá nhiều máu, phải chi được nhanh một chút… biết đâu… Trời ơi, giấy với tờ…”.
Một không khí ảm đạm chưa từng có bao trùm khắp nơi. Chú Tám Thạnh thở hắc hơi:
“Tối mấy ngày trước nghe tiếng con cú kêu, không ngờ mang điềm tang thương tới xóm mình”.

***

Ba nó bàn với bà con:
“Nhà hai anh em nghèo xơ xác với bà mẹ già nay đau mai bịnh, bà con xóm làng mình cùng xúm xít lo hậu sự cho thằng Thững, tui giờ chạy ngay vô Thầy trong chùa coi ngày giờ với nhờ Thầy tụng cho nó luôn”.
Chú Sáu Tình gật đầu:
“Phải vậy thôi, tui có lóng* gỗ đã đẽo vuông (*khúc gỗ), mấy đứa thanh niên qua nhà khiêng xẻ ngay đóng cái áo coi cho được”.
Má nó nói tiếp:
“Sáng mai tui chạy lên huyện sớm mua vải, tui lấy tem phiếu của tui cho nó, tui cũng chưa cần lắm”.
Dì Tư Thể xen vơ:
“Vậy giờ ai coi phụ được gì thì phụ, lo nhang đèn, nấu chén cơm…”.
Ba nó đạp xe vô chùa, Sư Thầy coi đúng trưa mai phải nhập quan, để một ngày sau là chôn cất. Sư Thầy hẹn tối mai sẽ vô tụng, không dám đi ban ngày ban mặt bởi sợ chính quyền làm khó dễ, họ quy cho cái tội mê tín dị đoan, không thầy không bà tụng tiếc gì cả. Mấy ông ở xã nói xã hội ta không chấp nhận những chuyện đó, xã hội tiến bộ với chủ nghĩa vô thần, chết là hết. Lập bàn thờ ông bà cúng kiếng đã rất khó khăn cho bà con. Lớp nó hôm có đứa ngủ gục, cô giáo hỏi tại sao, bí lối thằng này đành nhận là đi lễ nhà thờ buổi sáng quá sớm để tránh tai mắt cán bộ vậy là bị liệt ngay đạo đức trung bình, vài ngày sau có giấy báo mời cha mẹ lên xã làm việc, thực ra là nghe rao giảng về tư tưởng mới và phải cam kết không được đến nhà thờ. Nó thấy người lớn này đôi khi chẳng khác gì con nít tụi nó, bên xóm chùa trêu xóm đạo là Chúa Jê Su đánh đu gãy cẳng, còn xóm đạo ghẹo lại là ông Phật là ông có tật… Chỉ có khác là với mấy ổng ông nào cũng tào lao ông nào cũng gãy cẳng, ông nào cũng có tật hết.
Về chuyện này nó nghĩ cũng lạ, nó nhớ cái hôm làm cái đường đi vô hội trường xã mới cất, ngay đường vướng cái miếu bà con thờ âm hồn nào đó đã có từ lâu, cán bộ xã kêu dỡ bỏ, kêu chiếc xe ủi đất làm đường bang luôn, bác tài lái xe chạy gần tới là khựng khựng lại rồi máy bị tắt, bật tiếp nhiều lần cũng không nổ cứ cà khựng miết, bác nhảy xuống chỉ có lắc đầu, chẳng biết sao xe hông nổ. Cán bộ xã hỏi nút mở máy, bác tài chỉ, họ cử mấy anh du kích lên bật, cũng chẳng nổ lấy một tiếng. Chuyện này thì không ai biết, bác tài có mánh khóe gì không, cho xe lui thì nổ liền, biết đâu bác hông muốn ủi cái miếu. Cán bộ kêu mấy anh du kích đập đi, ai cũng né tránh bởi nghe bà con người kể khơi khơi một vài câu chuyện, ở xóm này ở xóm kia có người phá miếu phá am, người thì bị điên điên khùng khùng, người bị giựt méo mỏ… nghe qua ai cũng tái mặt. Cán bộ kêu bà con làm, ai cũng lắc đầu, tui hông làm chuyện thất đức, muốn làm gì cũng được. Sau treo giá, đập cái miếu mất chỉ mươi lăm phút nhưng sẽ trả tiền công bằng năm ngày, tưởng đâu sẽ có người làm, ai dè chỉ gặp toàn gài dố de. Con đường vô hội trường không còn thẳng mà phải đi đường vòng, tránh xa cái miếu, mấy ông cán bộ cho trồng mấy cây phủ che bớt, bịt mắt cấp trên chớ bà con cần nhìn rõ để nhang khói…
Qua nhà chú Sáu Tình, thấy hai lóng gỗ anh Ngạo hỏi:
“Lấy lóng nào chú Sáu, bằng lăng hả?”.
Chú Sáu ngẫm nghĩ chút rồi trả lời:
“Ừm… thôi lấy lóng giáng hương đi, tội nghiệp thằng nhỏ, đi mà chưa biết được mùi đời bao nhiêu, chưa vợ chưa con, nên cho nó đồ tốt một chút”.
Mấy anh thanh niên tranh thủ khiêng ngay về xẻ đóng cho kịp.
Mười lăm cây số đạp lên huyện má nó đi rất sớm, má nó sợ đi trễ sắp hàng lâu. Lên đợi hơn tiếng đồng hồ thì cửa hàng thương nghiệp cấp ba mở cửa. Cô bán hàng còn kêu là mậu dịch viên ẹo ẹo đi qua đi lại mấy vòng rồi ngồi vào bàn. Má nó rón rén đi lại nói nho nhỏ:
“Cô ơi cho tui nộp sổ”.
Cô bán hàng đang cuối mặt, soi kiếng hay đọc báo gì đó đáp:
“Thì bà nộp đi chớ nói gì”.
Nhìn quanh quất chưa có một ai, má nó nhỏ nhẹ tiếp:
“Cô ơi…”
Một tràng từ cô bán hàng không ngẩn mặt lên:
“Gì nữa đây, nộp đó thì để đó từ từ giải quyết chớ nói gì, bộ hông thấy tui đang làm việc hả, tui ngồi chơi hay sao, làm như cha chết”.
Má nó giằng mình:
“Dạ đúng, ở làng có người chết”.
Cô Bán hàng bây giờ mới ngẩn mặt lên nhưng trừng mắt:
“Chết thì chôn, làm như cha tui chết”.
Nghe tới đó má nó chực muốn khóc nhưng ráng kìm nén:
“Cô làm ơn, chôn gấp quá”.
Cô bán hàng hỏi như nạt:
“Bà mua gì?”.
Má nó mừng rơn:
“Dạ, mua vải may áo cho thằng cháu trong xóm vừa mất, xin cô bán vải trắng”.
Cô bán hàng tiếp:
“Nhìn tui ngu lắm hả, hông biết bán vải liệm màu gì sao, mua nhiêu?”.
“Dạ, tiêu chuẩn năm của tui nhiêu mong cô bán cho hết”.
Cô bán hàng chề môi:
“Tiêu chuẩn tem phiếu bà còn hai người một năm tám mét mấy, may cho người chết làm gì hết chừng này, chắc bà mua ra ngoài bán chớ gì, tui giải quyết cho bà một người thôi”.
Má nó gật đầu lẹ:
“Dạ, sao cũng được”.
Cô bán hàng nói vậy chớ chưa viết phiếu liền, một người thanh niên đạp xe tới, cầm cái sổ đưa:
“Cô cho tui mua gạo với”.
Má nó đứng dạt ra. Nghe giọng thanh niên, cô bán hàng đon đả:
“Ủa anh Phương đi mua gạo hả, để em ghi phiếu”.
Người thanh niên tên Phương quay qua nhìn nhận ra:
“Ủa, bác Hai nãy giờ con hông để ý, dạ, bác đi mua gì à?”.
Má nó ghìm cơn tấm tức:
“Dạ, đi mua vải về liệm cho thằng cháu trong xóm, nó mới mất hồi hôm”.
Anh Phương trố mắt:
“Dạ, đứa nào vậy bác, con có biết hông?”.
“Chắc thầy hông biết, nó ở xóm trong, ít có ra ngoài lắm”.
Thầy Phương hỏi tiếp:
“Bác mua xong chưa?”.
Má nó ậm ừ:
“Dạ… dạ…”.
Hiểu ý mấy cô bán cửa hàng thương nghiệp cấp ba nổi tiếng là hách dịch, coi bà con đi mua như đi xin, chỉ có những cán bộ, hay những chàng thanh niên các cô thích thì khác, thầy Phương nói ngay:
“Cô, cô giải quyết trước dùm bác tui, bác ở xa lại có chuyện gấp, tui mua sau cũng hông có sao”.
Cô bán hàng cười tươi rói:
“Bác anh hả, để em viết phiếu chuyển cho tổ bán liền”.
Phiếu được viết có đánh dấu chéo màu đỏ, chuyển qua là được xé vải ngay, ký hiệu phiếu đặc biệt giao ước của mấy cô chớ không lại phải chờ thêm dài cổ. Nhờ có thầy Phương má nó mua được nhanh và đúng tiêu chuẩn hai người lại được vải kate tốt chớ hông là vải kalicot, vải tám vải sô. Má nó cảm ơn thầy rối rít:
“Dạ, cảm ơn thầy, có đi ngang thầy ghé nhà uống nước”.
Thầy Phương gật đầu:
“Dạ, vài bữa có công tác con lại ghé nhà bác, bác về cẩn thận”.
Má nó đem vải về là mấy cô mấy dì cùng xúm vô cắt may ngay, may bằng kim tay. Thiệt may là kịp giờ. Sư Thầy thấy quá tội nghiệp cho anh Thững, ngày đưa đi chôn cất, Sư Thầy đi trước đoàn gõ mõ tụng kinh, không e dè gì nữa.
Từ ngày anh Thững mất về sau, thằng Thà một trong những đứa hay vui đùa, hay kể chuyện chọc cười cho đám con nít tụi nó trở nên trầm hẳn, im lìm như người câm, có gì đặc biệt lắm mới hở môi nói một vài lời, chỉ một lần kể lý do anh Thững bị thương. Hai anh em trên đường gánh măng về, cán câu liêm bị gãy, anh Thững chặt cây le thay, cái rựa quá bén với lại ảnh chặt mạnh nên cây le đứt ngọt sớt, mũi nhọn phóng cắm xuống ống quyển luôn, xé thịt thấu tới xương…”
Nhìn thằng Thà lúc này nó mới thấu hiểu được sự im lặng trầm uất của ba nó khi nghe tin ông nội qua đời. Và không lý giải được về giấc mơ của anh nó, có phải là điềm báo, tiếng kêu con cú vọ bay về làng chú Tám Thạnh nói cũng vậy. Nó tiếc rằng phải chi đã báo thì báo rõ hơn anh Thững đã không ra đi sớm. Bà con thì nói có chớ, đó là thế giới tâm linh và cũng có định mệnh, định mệnh của anh Thững là yểu mệnh. Nhưng những chuyện như vậy thì chỉ xầm xì rỉ tai nhau chớ không dám bàn tán lớn ra ngoài.

***

Nó ngồi bật dậy lấy tay che đôi mắt đỏ hoe, giọng nghẹn ứ lại. Cơn gió mang hồn lững thững vỗ về:
“Buồn thiệt, nhưng bạn phải ráng lên, phải vượt qua”.
Nó cố cho trôi ức nghẹn:
“Mình phải… phải… phải làm gì bây giờ?”.
“Tiếp tục như bao lâu nay, gạt bỏ những đau thương, tiếp tục con đường đi học”.
Hoàng hôn dìu dịu buông xuống, một làn khói lam chiều từ một ngôi nhà nhè nhẹ bay lên, nó hít một hơi thật sâu rồi thở mạnh ra, cảm giác như nỗi buồn man mác bay theo đi mất, cơn gió hiểu ý phụ xua cho bay càng nhanh. Nó chào từ biệt cơn gió mang hồn lững thững mà nghĩ về con đường phía trước và như hay nghe người lớn nói: “tiếp tục sống”.

***

Ba năm trung học phổ thông, ngày hai lượt đi về nó đạp xe bốn mươi hai cây số. Trên chiếc sườn ngang ban đầu rất tốt sau dần tàn dần theo vòng quay quá độ. Vỏ xe chạy bung ta lông cặp thêm cây căm cũ đã hư mà may lại bằng dây cước và cây kim may bao bố, không có kim thì mài nhọn cây căm đập dẹp đầu, dũa có nghạnh như lưỡi câu đâm xuyên vỏ móc dây kéo qua. Vỏ còn đỡ ít hư hao, ruột mới ngặt, chạy dăm ba bữa thì lủng, tới hồi lủng lỗ mọt thì liên tù tì, vừa vá xong bỏ vô lại xì, lại tháo ra vá lại, lỗ mọt lỗ nào lỗ nấy nhỏ li ti khó thấy bong bóng nổi khi cho vào thao nước thử, bỏ vô nó lại xì đến tức điên người, có người nói cái ruột như có ma. Đi học lúc nào cũng kè kè bộ đồ nghề, nhứt là vá ruột xe, keo kiếm nhựa thông ngâm xăng, cuộn miếng thiết đục lỗ nhỏ và dày làm cái bào ruột… Líp có con chó chạy mòn lĩn trật lên trật xuống, cắt đế dép xốp chèn vô mệt xỉu, bi bị nghiến bể cũng lấy cây căm uống vòng tròn mà thay thế, cây căm xe thiệt quá lợi hại. Sợi dây sên nữa, chạy đã đời bị giãn chặt đi vài mắt nối lại, chạy giãn hết được chưa bỏ liền đâu mà lật mặt cái cụp chạy tiếp. Ba năm học nó biết sửa xe không thua gì thợ.
Chiếc xe cho nó hai ký ức đậm, mãi về sau nhìn thấy chiếc xe dàn cái thì ký ức lại trỗi dậy.
Một bữa vừa chạy được vài cây số, ra khỏi thị xã sợi dây sên đứt cái rụp, cắc cớ cái chốt văng mất tiêu, tìm mãi miết không ra, tìm quanh tìm quất cũng chẳng có cái gì thay được, cuối cùng phải lấy sợi dây ni lông mà cột ngang lại, dây đi qua cái dĩa hay cái líp bị nghiến lại đứt rụp, trong cái khó ló ra cái khôn, đạp tới một cái canh cái sợi dây gần tới dĩa thôi thì trả lại cũng không cho chạm líp, cứ vậy đạp tới trả lui, đạp tới trả lui như đang đùa chơi mười mấy cây số về nhà. Hà hà, rồi cũng về tới.
Một bữa nữa thì đang đạp xe phát ra tiếng bùm, ruột không xì mà nổ banh xác pháo, chiếc xe thành con bò cho nó dắt gần hai mươi cây số lội bộ. Trước đó một lần cũng vậy, cô bạn còn học đèo nó về, tay dắt chiếc xe bể bánh quặc quẹo vậy là thôi cho lên vai “anh thợ cày vác con bò” cho chắc.

***

Ba năm học buổi sáng buổi chiều có đủ.
Con đường từ nhà tới trường quen thuộc đến nỗi nó có thể nhắm mắt biết được cái ổ gà lớn, ổ gà nhỏ chỗ nào, đoạn đường đá lổm chổm ở đâu để mà lách né. Ổ gà đầy đường, có thêm những cái ổ… voi, vũng trâu nằm nữa. Đường đá xanh lục cục lòn hòn bằng nắm tay người ta rải rồi rải chồng thêm lớp đất, đất lọt xen kẻ vô hốc đá, đá ngóc đầu lên lổm chổm, một chiếc xe lớn chạy qua mùa nắng bụi tung mù như vó ngựa vừa phi qua, đoạn đường này cũng không phải là ít, trải dài một hai cây số, và mấy đoạn. Có những chỗ người ta lại đổ đống đá, đống đất hai bên đường, để ngày này tháng nó thậm chí cả năm chẳng bang bằng ra, những đêm tối trời người đi đường không quen đụng phải lộn nhào đầu là thường tình.
Chuyện sớm hôm đêm tối nó cũng quá rành rẽ, cứ theo dân gian “đêm tháng năm chưa nằm đã sáng, ngày tháng mười chưa cười đã tối”. Bước ra khỏi nhà lúc nào nó biết sẽ đón được ánh bình minh ban sớm, lúc nào nó biết ánh nắng chói chiếu thẳng vào mắt, bước ra khỏi lớp cũng vậy nó biết lúc nào phải ba chân bốn cẳng đạp để tránh đàn bù mắt lờn vờn, lúc nào tà lơn như những chú thỏ nhởn nhơ dưới ánh trăng, mộng mơ một chút với những câu ngâm thơ Hàn Mặc Tử của thằng Chí.
Ba năm trung học, nó, đám bạn học lực hiếm khi có học kỳ đứa ngoi lên hạng khá, trung bình và hàng hàng là yếu. Ngược lại là những “anh hùng lao động” gánh vác cho phần còn lại, “yếu liễu đào tơ” toàn là dân thị xã. Lao động bắt buột tuần một buổi và nhà trường chừng biết được nên giao toàn việc nặng, lúc vét ao, vét giếng nước, lúc ướp cá cho vô thùng lều, gọi là thí nghiệm làm nước nắm nhưng nghe râm rang để thầy cô cải thiện đời sống, nước nắm đóng chai nhãn nhà trường đàng hoàng. Những ngày lao động tụi nó phải dỡ cơm theo, ban đầu chưa biết chạy ra cầu Muối chui xuống gầm cầu mà xực, mắc cỡ lắm chớ, sau tìm ra chỗ tuyệt vời, vắng vẻ ban trưa, đồi dương mát rười rượi với gió biển và tiếng sóng rì rào, nóng nực nhảy ào xuống mặc cho khi trở lại học người rít chịt và lấm tấm những hạt muối trắng li ti.
Mỗi năm thêm lao động tập trung một hai tuần, tùy việc nhiều việc ít năm đó, làm nguyên cả ngày. Và trong cả ba năm là dầm mình đào đất đấp bờ bao thành ruộng nuôi tôm cho hợp tác xã thủy sản. Tụi nó lại là “đầu tàu chìm dưới nước”, nước ngang thắt lưng, nước lờ lợ, xắn từng khối đất sình bùn chen trong những thân cây mắm và những con rắn biển chuyền lên. Năm đầu rất sung sức, khí thế hừng hực bởi nhà trường hứa hẹn “ký hợp đồng lớn với hợp tác xã” sẽ trả công ngày mấy đồng cho học sinh, học sinh mừng rơn, chí ít có cái liên hoan rôm rả cuối năm, kỷ niệm đời học sinh. Rồi lời hứa dần bay theo gió biển về nơi thăm thẳm, có đứa ca thán: “Thầy ơi, sao lại biến lũ học sinh tội nghiệp thành những đàn cừu non”. Thầy – “chú lừa có cánh cất cao”, nói gì đó học sinh nghe không rõ.
Giống chiếc xe nó, ngày càng tàn, bạn bè mười bốn đứa cùng xã cùng lớp như sung lộp độp rơi rụng, giữa năm lớp mười một còn… ba đứa. Khi lên lớp mười hai thì còn lại… một mống là nó. Hai thằng kia lưu ban, một thằng nghỉ tiếp, thằng Chí lọ dọ ở lớp đàn em.

***

Nó với thằng Chí mang nhiều kỷ niệm rong ruổi trên con đường đến lớp.
Một bữa cũng vừa chạy được vài cây số, ra khỏi thị xã gặp một bác già quẩy tay nải trên vai đón lại, nhìn bác ốm nhơ ốm nhách, gương mặt khắc khổ biết chắc không phải người xấu, nó dừng xe, bác nói:
“Con cho bác quá giang với”.
Bác lên xe nó hỏi:
“Dạ, bác về đâu?”.
Bác nói chầm chậm:
“Bác về xa lắm, bác về cách đây hơn trăm cây, còn tụi con về tới đâu?”.
Thằng Chí giựt mình không tin tai mình vừa nghe:
“Bác về xa dữ?”.
Bác gật đầu:
“Phải đó con, bác về mà bác hết tiền, xe hông cho đi ké, bác xin về trên đó kiếm tiền rồi trả họ cũng lắc đầu mà chạy đường này một ngày chỉ có một chuyến”.
Nó nhăn mặt:
“Tụi con chỉ về cách đây khoảng hai chục cây số thôi, còn đường dài bác tính làm sao?”.
Bác im lặng một lát rồi trả lời:
“Thì bác tiếp đi bộ vậy, gặp được ai có lòng tốt như tụi con bác xin quá giang, tới đâu hay tới đó”.
Thằng Chí hỏi tiếp:
“Còn ăn uống nữa?’.
Bác nói ngèn nghẹn:
“Nếu đói quá chắc phải xin thôi, bác mong về tới nhà là được”.
Nó sợ bác dấu bị mất trộm, không nói ra, nhiều người đi đường xa bị chuyện này, có người bị đuổi xuống xe và vì lòng tự trọng không xin xỏ, đi đói quá ngã xỉu giữa đường, nó hỏi:
“Bác bị mất trộm hết tiền phải hông?”.
Bác lắc đầu:
“Hông có, bác đi làm giấy tờ dưới ủy ban tỉnh, ở hơn cả tuần nay nên hết sạch tiền”.
Thằng Chí trố mắt:
“Làm giấy tờ gì phải từ trên đó xuống đây lại mất cả tuần vậy bác?”.
“Bác đi lần thứ hai rồi đó con, lần trước có ba ngày, lần này bác ỷ y cũng như vậy, ai dè…”.
“Sao kỳ vậy bác?”.
Bác ho mấy tiếng:
“Bác cũng chẳng biết, lúc họ nói thiếu cái này, lúc họ nói cán bộ đi họp xa, tới giờ vẫn còn thiếu, chưa xong, còn một giấy bổ sung cuối cùng”.
Thằng Chí nghe ớn lạnh:
“Chưa xong nữa hả bác, vậy phải xuống lần nữa, mà giấy tờ gì mà rắc rối vậy bác?”.
“Chỉ có cái hộ khẩu thôi đó con, ở huyện họ ghi tên lót và ngày tháng năm sanh sai, nay phải xuống tận tỉnh điều chỉnh, đâu có chờ tới đợt làm được, có biết bao giờ tới đợt đâu, khổ lắm mấy con ơi, bỏ công ăn việc làm, tốn tiền tốn bạc, bị hành lên hành xuống mà có phải lỗi mình đâu, từ đội từ hợp tác từ xã xác nhận rồi tới huyện bây giờ lên tỉnh hai tháng rồi đó, nhiều lúc muốn bỏ nhưng hông có thì mấy đứa nhỏ đâu có đi học được”.
Hai đứa nó hết biết nói gì, lặng lẽ đạp xe thay phiên nhau chở bác, nói lái sang những chuyện khác cho vui.

***

Một bữa nữa hai đứa ể oải đạp về trong nắng gắt xế xế trưa, gần tới nhà nhìn thấy cột khói đen bay lên ngùn ngụt. Giựt mình không biết chuyện gì xảy ra, vội vã cắm đầu cắm cổ đạp về. Về tới nơi thì thấy thêm ngọn lửa đã bốc lên cao, lửa gặp mái nhà tranh mùa nắng và gió cháy ào ào rừng rực, nhưng không phải đang cháy nhà nó mà là nhà dì Ba Ninh kề bên. Ngọn lửa đã thiêu rụi đám mía trước nhà đang lan sang vườn nhà nó, bà con chạy tới chạy lui rần rần, la í ới, người múc nước chuyền tay tạt vào dập lửa người tìm cách không cho lửa lan sang chỗ khác, lan cháy cả làng là chết chùm hết, người phụ khiêng đồ ra hết bên ngoài phòng lỡ có chuyện xấu tới. Nhà dì Ba Ninh thì coi như không thể cứu chữa. May sao lửa đang cháy bừng bừng, tàn bay rợp trời tứ tán, chực chờ bay lên nóc nhà nó thì cơn gió khựng lại và đổi chiều, một chuyện lạ lùng xảy ra. Lửa từ từ bị bà con dập tắt. Cả nhà và bà con thở phào nhưng nhà dì Ba thì chỉ còn đống tro tàn. Dì Ba bần thần không thốt ra lời mà nước mắt cứ tuôn rơi. Nhiều người không biết lửa từa đâu, dì Tư Thể hỏi:
“Làm sao mà nên nông nổi này?”.
Dượng Ba Ninh ngơ ngác:
“Tui chẳng biết gì hết, đang nằm hóng mát phía sau nhà, thiu thiu giấc trưa thì nghe cháy rột roạt từ vườn mía rồi, cháy nhanh hơn bão, ào ào táp vô nhà luôn”.
Chú Tám phèn nói:
“Rồi, bị xe than rớt xuống rồi, hồi nãy có một chiếc chạy ra, cháy lại bắt đầu từ ngoài đường cháy vô”.
Anh Ngạo chạy ra phía đường rồi chạy vô, anh giơ lên cục than còn khói:
“Đúng rồi, còn nó đây nè”.
Mọi người lắc đầu:
“Biết làm sao bây giờ, làm sao đền được, nó chạy mất tiêu rồi, lại không bắt tận tay làm sao vây được cánh”.
Tai họa chưa dừng lại. Có ai thấy gì đó trong đống tro tàn nhà dì Ba và báo lên xã. Công an xã lại kiểm tra phát hiện ra nhiều thịt bò bị cháy khét, lục lọi quanh nhà phát hiện thêm nhiều xương khô, những con chó moi lên mà dì Ba chôn không kỹ. Công an hốt hết và mời dượng Ba đi cùng. Dượng Ba phải khai ra là mổ bò lậu đưa đi Sài Gòn, cỡ mỗi tháng một con và làm lậu đã gần một năm nay.
Hai ngày sau trong lúc bà con cô bác lại giúp dì Ba dựng đỡ căn nhà ở tạm thì dượng Ba bị còng và dẫn giải ra chiếc xe lam chở đi. Dượng Ba đi tù sáu tháng. Cũng từ đó nhà nó và bà con cận kề mất phần thịt như đầu, xương, giò cẳng, lòng mà dì Ba bán rẻ như cho, phần chuyển lậu đi chỉ chủ yếu là phần thịt và xương sườn. Mỗi lần nhận phần từ dì Ba má nó cho vô cái nồi gang số năm mươi miệng to hơn cái miệng thúng, thường để luộc măng tươi cả mấy chục ký mùa măng, cái nồi số mười nấu cơm phải hai chục người ăn rồi mà, nồi lớn dấu trong cái thùng phuy bị sét đáy cắt đứt luôn, độn thiệt chặc trấu bên trong, đốt trấu âm ỉ cháy thành cái bếp hâm nóng cho nồi thịt khỏi thiu, khi ăn dở nắp đậy phuy chồng thêm mấy lớp mấy tầng thúng mủng có đồ đè nặng cho kín kẽ mà múc. Dì Ba bán rẻ dĩ nhiên một phần tình cảm phần còn lại cũng ý muốn bà con che dấu, gần kề bên dễ gì không phát hiện. Bà con thì được có thịt thà lại rẻ trong hoàn cảnh khó khăn thì sao lại không im lặng. May là dượng Ba chỉ khai một mình làm, bà con xung quanh không ai biết, chớ không sẽ liên lụy vướng tội không khai báo, tiêu thụ tài sản phạm tội.

***

Từ ngày nhà dì Ba Ninh bị cháy, dượng Ba bị bắt, món thịt đầu, xương, giò không còn nữa, nó thằng Chí bầu bạn với trái khế chua, lá me, lá giang mọc hoang trên những ụ mối sau vườn, lá giang mọc quanh năm, mùa nắng lá nhỏ và lá không còn xanh mơn mởn, chuyển vàng vàng trong nắng gió và chua thêm. Chỉ cần một trái khế, nhúm lá me, lá giang với chất chua này thảy vô nồi nước sôi, chút muối chút bột ngọt, lâu lâu có vài con cá liệt cá mai là đủ đẩy miếng cơm, lát khoai xuống khỏi cổ họng, lấp đầy bao tử. Với tụi nó những loại chua này là “món vàng” theo năm tháng!.
Gần cuối năm lớp mười một, tiết trời sắp mưa nên nóng bức. Nó nói nhỏ với thằng Chí:
“Lát chờ tao cầu số năm nghe mậy, có lạc cũng đừng có về trước”.
Thằng Chí hỏi lại:
“Chi vậy, có gì sao giờ hông nói?”.
Nó đá lông nheo”
“Bật mí chút đi, giờ chỗ đông người”.
Nó tới trước, đứng đợi ngay cầu. Thằng Chí hơi căng căng:
“Có gì hông mậy?, làm tao hồi hộp”.
Nó cười:
“Có khỉ gì đâu mày ơi, hồi nãy hông tiện nói, kỳ thấy mồ, chuyện ăn uống…”
Thằng Chí cắt ngang:
“Tao làm gì bậy hả?”.
Nó giãy nãy:
“Đâu có, đâu có, ý tao nói mày chờ tao cùng về nhà tao, bữa nay có đám giỗ”.
Thằng Chí ạ ra:
“Trời! làm tao hết hồn hết vía”.
Hai đứa cười ha ha, theo con gió bấc đang thổi mạnh đạp vèo vèo.
Hai đứa về tới thưa đi học về, Má nó khựng lại:
“Ý, chết cha, con kêu thằng Chí mà hông nói với má, với lại bà con tới đông, lâu ngày được bữa ăn như tằm ăn rỗi, mì Quảng còn có một tô hà con, hay chia nhau đi rồi ăn xôi gà, xôi gà còn nhiều, dĩa nhỏ với dĩa bàn hột xoài bự đó con”.
Nó hơi buồn, nhưng nghĩ lại thôi, bà con cô bác không mà. Nó nói:
“Ê, mì tao xực hoài, ăn mòn răng rồi, thôi mày ăn tô mì với dĩa nhò, còn tao dĩa tổ chảng này, tao đói lắm rồi”.
Thằng Chí bưng tô mà lựng khựng:
“Được hông đó mày”.
Nó ngoạm miếng xôi gà:
“Gì hông được, mày biết tánh tao mà”.
Thằng Chí húp nước rột rột, cắn trái ớt hiểm:
“Đã quá mậy, má mày nấu đồ ăn là số zdách”.
Nó vừa nhồm nhoàm vừa cười hề hề:
“Ừ, má tao nấu ai chê tao… xực hết, xôi gà cũng tuyệt đỉnh nè mày”.
Thằng Chí xong tô mì, tiếp dĩa xôi gà và gục gật, nó chiến gần xong dĩa bự, nó hỏi:
“No hông mậy?”.
Thằng Chí gật đầu:
“No cành hông, uống nước hông nổi”.
Một dĩa bàn xôi gà nhét vô cái bao tử bụng nó phình lên như cái trống, khệ nệ rinh “cái trống” dẹp dọn ra ảng nước, bưng cái ấm đen thùi vì ám khói đang bắt trên bếp ngậm vòi uống ngụm nước, cái bụng phình ra thêm như bà chửa, tức anh ách khó chịu, mùi mỡ, mùi thịt gà còn vướng lại trên cần cổ còn khó chịu hơn làm muốn mữa ra, nó lấy hết sức vịn chặc bụng cổ, đâu muốn món ngon hiếm có trào ra ngoài. Thằng Chí thấy nó nhợn nhợn hỏi:
“Bị gì hông mậy sao thấy tái lét?”
“Hông có gì, tao no quá thôi”.
Thằng Chí vừa cầm ghi đông xe ra về, nó định bước vô phản nằm xuống nhưng cái bụng cái cổ hết chịu nổi, bụm miệng chạy ào ra bụi chuối, bao nhiêu xôi bao nhiêu gà, bao nhiêu nước tuôn ra, tuôn ra như dòng thác, người nó quay cuồng rồi ngã cái ình trên cái đống mới vừa ói ra. Thằng Chí buông tay rùng mình dìu nó vô nhà lăn xăng tìm chai dầu sức tới tấp:
“Nghi mày trúng gió quá”.
Nó đã thấy đỡ lòm cồm ngồi dậy:
“Hông phải đâu mày, ham ăn hốc uống quá thôi”.
“Đói thấy mồ hông ham sao được, nhìn bụng y như bị mắc tam tích”.
“Ích bụng, tiêu có kịp đâu”.
Hai thằng cười hà hà.
Từ đó về sau này, thịt gà thì nó còn ăn chút ít, nhưng nghe nói tới xôi nếp, và nhứt là xôi gà là nó tránh xa liền, sợ như gặp phải rắn hổ mang, năn nỉ cho tiền nó cũng chạy, thêm hai món nó cũng không bao giờ đụng tới là khoai lang hầm dù có ngào đường và bobo. Về chuyện thấy ớn này nó nhớ lại chuyện anh thằng Hào kể về anh bạn chiến đấu cùng đơn vị, một người gan lỳ từ nhỏ chưa biết sợ điều gì ấy vậy mà từ chiến trường trở về, mỗi lần thấy con bọ hung, hay những con giông giống như vậy, bọ cánh cứng, con gián là nhắm mắt nhắm mũi chạy, chạy mất dép không dám nhìn, một cái ngoái đầu liếc sơ cũng không, nhiều người thấy lạ sau cùng mới biết ra anh đã thấy xác người phân hủy và bị bu quanh đầy là những con vật hình thù này.
Những ám ảnh không bao giờ xóa nhòa được…

LÊ ĐẮC HOÀNG HỰU

XUÂN ĐÃ VỀ RỘN RÀNG TRÊN…

ledachoanghuu

Thân tặng Phạm Thị Thu An

Có hai thằng, một là chúa ở dơ đến nỗi thấy… chí trên đầu nên kêu là Chí. Một còn lại thì đỡ hơn chút đỉnh, phủ một lớp bên ngoài che chắn phần bốc mùi ở bên trong, gọi là Cốt. Hai thằng Chí Cốt cả hai nghĩa đen và bóng từ thuở còn để tóc chổm cho tới nay đã là “sanh ziên”, dù rằng Cốt chánh gốc Sài Gòn, Chí miệt quê xa lắc.
Cuối năm Cốt “oánh dây thép” reng reng…:
“Ê, mai Tất niên, ba đứa như mọi năm nhưng đổi chỗ, ở quán số 7, đường… nghen mậy, tao gọi nó rồi”.
Chí đáp:
“Ừa, được á, sớm sớm chút đặng dìa quê phụ tết với ba má, mơi (mai) gặp hén”.
Nó, con bé xinh xinh, bầu bĩnh dễ thương cùng xóm với Chí, nhập thành bộ ba không lâu sau với hai thằng. Chí Cốt có rồi, coi như có bên ngoài và sâu thẳm tận cùng bên trong, nên đành cho nó lưng lửng, kêu nó là xương, cho vô giữa, Chí Xương Cốt. Tới ngày tóc nó xõa ngang vai óng mượt, đi đứng dịu dàng ý tứ, thấy cũng kỳ kỳ thành thử hai thằng đổi chữ X ra S. Đọc thì Xương nào cũng là… Sương. Với bà con cô bác, bạn bè… thì nó là giọt sương long lanh long lanh, với ba đứa thì long lanh vẫn là xương. Tóc Sương óc mượt cũng có góp công kha khá của hai thằng. Cốt len lén gởi hoài hoài chai dầu gội mà bên ngoài nhãn ghi óng mượt như tơ thì Chí cũng dễ chi chịu thua, dấu dấu nhưng liên tục hái chùm bồ kết đưa tới. Bồ kết mà nấu nước gội đầu thì còn nói gì nữa…
Đúng hẹn tới quán. Long lanh giọt Sương tròn xoe đôi mắt ngạc nhiên một thì Chí ngạc nhiên mười:
“Ngộ dữ mậy, có nhỏ Sương tao thấy bao giờ mày cũng rủ vô quán ốc, sò, cua ghẹ… các loại khoái khẩu của các nàng, bữa nay cắc cớ gì lại quán bê thui?”.
Dấu hỏi bự tổ bố cũng ở trên mặt Sương. Cốt cười hehe:
“Thấy nắng vàng vàng hông?”.
Chí bạnh cầm, Sương thì gật đầu nhè nhẹ:
“Cũng có thấy… xíu xíu… hoe hoe đó anh”. Nói xong nó nhe răng cười khì.
Cốt hất đầu:
“Thì Sài Gòn mà, vậy là ngon lắm rồi. Nhiêu đó cũng đủ gợi nhớ “Ngày Tháng Nào”* đã qua (*Tựa truyện của Tôn Nữ Thu Dung). À, nói chớ cũng nhờ “Tôi Thấy Hoa Vàng Trên Cỏ Xanh”* rần rần hổm rày (* Tựa truyện cũng là tựa phim chuyển thể từ truyện của Nguyễn Nhật Ánh).
Chí nhíu mày:
“Vàng vàng thì có liên quan vụ gì tới bê thui, tao chẳng nhớ mậy?”.
“Em có biết hôn?”. Sương dõng tai chờ đợi bởi Cốt thủng thẳng trộn bột thính, nặng chanh, gắp thịt bê, chuối chát, khế chua, dưa leo và ngắt từng cọng ngò, húng quế, húng lủi, tía tô… cho hai đứa. Rồi Cốt nói:
“Mần* miếng đi (*làm)”. Cốt cũng gắp một miếng, cắn thêm trái ớt hiểm, có hít hà nhưng nhai thấy ngon lành: “Chà chà, cay cay chát chát chua chua nhưng quá đã! Vô trăm phần trăm… trà đá cái coi rồi nói cho nghe”.
Ba đứa cụng ly lốp cốp. Cốt khà một tiếng sảng khoái y như mấy ông già uống rượu:
“Biết… hôn thì đỡ quá, hai thằng này đâu có… ế – hehehe – Nói chớ em là nhân vật chánh chớ còn ai vô đây mà hông biết. Mần nhà thơ mà hổng nhớ sao?”.
Chí càng nhíu mày, nó gõ gõ trán:
“Bán con chó… bó trán. Tao thua, hổng nhớ nổi”.
Sương càng long lanh bởi đồng tử nó giãn hết cỡ thợ mộc:
“Em mần nhà thơ hồi n…à….ooo?”.
“Hồi ở ngoài cánh đồng chớ đâu. Lúc ba đứa đang dựa gốc cây mơ màng nghe bài hát Xuân Đã Về vang vang tới. Mà rất ư là hợp, Xuân đã về có đủ hết ráo trọi, có chim hót trên cánh đồng, có bao tà áo khoe cùng bông tím vàng, có bác nông dân cày ruộng vui xuân sang, có ngàn cô gái quê tươi cười đón gió mới… Rồi trong ngàn cô đó có cô dựa gốc cây với hai thằng tui trở thành…”.
Chí chồm người đập tay cái bốp, cắt ngang lời Cốt tưởng như la:
“Nhớ rồi, thành thi sĩ… – hihi… hi hi… Mới đầu Chí hihi…hihi… rồi không nín được nó bật hì hì liên tục, hì hì liên tục chừng như không dừng được, cũng khá lâu sau nó mới nói tiếng được tiếng mất, chen lẫn trong tiếng hị hị: Câu thơ… hị hị… của… của thi… hị hị… thi sĩ đọc độc đáo lắm, xuân đã về… hị hị… xuân đã về rộn ràng trên… trên lưng con bò nhỏ… hị hị…”.
Đúng ý, Cốt vung mạnh tay trong không khí búng cái bóc:
“Ngay chóc, câu đó đó, có điệu trầm bổng thì hổng là thơ chớ là gì. Xuân đã về… xuân đã về rộn ràng trên lưng con bò nhỏ”.
Cô bé phụ bán quán nãy giờ nép mình phía sau lén nghe, dù đã bụm miệng nhưng vẫn không giữ được, bung ra cười hặc hặc, kéo theo hặc hặc ào ào từ ba đứa nó. Bây giờ thì có tới tám giọt sương long lanh long lanh bởi tuyến lệ phải hoạt động hết công suất. May có cô bé nên bà con cô bác xung quanh mới nghĩ chắc có chuyện gì vui lắm đây, chớ không sẽ nghĩ ngay ba đứa vô duyên khùng điên cán cuốc.
Thấm ướt đẫm cái khăn, Sương nói còn có phần mắc cỡ:
“Anh Cốt này nhớ dai ghê”.
Cốt đáp:
“Hay vậy sao hổng nhớ”.
Chí thắc mắc rồi tự trả lời, xong lại thắc mắc:
“Ở quê rành sáu câu vọng cổ, con trâu con kêu là nghé ọ, sao hổng là xuân về trên lưng con bê, con nghé? À, mất chỉ một từ mà nghe nó cụt ngủn hen. Với lại phải có nho nhỏ nhè nhẹ, cơn gió nhỏ, dòng sông nhỏ, con đường nhỏ… mới nên thơ hén. Nhưng sao lại là con bò, ngộ vậy ta?”.
“Thì lúc đó em nhìn thấy có mỗi con bê, bê con nhảy lưng tưng là rộn ràng, lưng nó mịn màng dải lông vàng như… bông vàng, nắng vàng chớ sao nữa”.
Cốt gục gật:
“Cái tuổi đó mà. Ngộ là mày đó. Lúc đó mày thấy lạ chớ có cãi đâu. Mày đồng tình hết mình hết mẩy luôn”.
Chí nhún vai, nghiêng đầu xòe ngửa hai bàn tay:
“Mày cũng có khác chi”.
Ừ, thì cả hai có khác gì. Ở cái tuổi như nụ chớm nở hoa, đã có cảm nhận những rung động đầu đời dù chẳng hiểu là mấy. Đã biết là… mếch (thích) nó thì ra sức mà “che chờ” chớ không như lúc còn con nít, chòng ghẹo cho tới phát khóc mà thôi. Và cả hai cũng có những cay cú lẫn nhau, nhưng cũng biết bỏ qua những sân si sì sượng mà giữ đủ bộ ba. Giữ cho tới tận bây giờ mà cái sự… mếch nó vẫn còn đầy đặn nếu không muốn nói là đã tràn ra và cái sự cay cú vẫn còn ngập đó. Một bộ ba như xuân với màu vàng phương Nam. Một bộ ba vượt lên cả tình bạn bè. Tình gia đình, tình anh em và cả tình yêu đã len lỏi trong da thịt. Đôi khi trong ý nghĩ ba đứa đó là một mối tình thiêng liêng, thần thánh lắm, không thể phá vỡ. Song, cái ý nghĩ này sẽ mau chóng bị phất phẩy cho qua. Suy nghĩ chi cao siêu cho mệt đầu mệt óc. Chỉ là những đứa bình thường, có thể gặp nhau, bắt đầu bằng một câu chuyện, một câu nói tào lao mía lao, rồi gợi nhớ những “Ngày Tháng Nào” đầy ắp kỷ niệm. Những chui rúc ụ rơm, ùm ùm nhảy sông, lặt lá mai vàng, canh mà ngủ gục bên bếp lửa nấu bánh nồi bánh tét…
“Chia tay hén”. Cốt nói.
Sương gật đầu:
“Hẹn gặp lợi hai anh ở Tân niên”
Chí cười behehe:
“Năm mới, ánh dương về trên lưng… con dê nhỏ – behehe – Gặp một anh thôi”.
“Oánh tù xì mày”.
Hai thằng một hai ba, oánh tù xì ra cái gì cả hai ra cái kéo, bốn năm sáu cùng ra cái búa, bảy tám chín… hai cái bao cùng ra. Thôi thì bao cả ba lại, Chí Sương Cốt, bao luôn cả xuân phương Nam, xuân giản dị lắm, thế thôi hén!.

LÊ ĐẮC HOÀNG HỰU

Cơn gió mang hồn tuổi thơ (TT)

ledachoanghuu

Ba nó và chú Ba Mạnh đắp bờ cuốc lật được mỗi người hai sào ruộng là có cơn mưa đầu mùa. Cơn mưa đầu mùa đổ xuống như trút nước, hơn mười mấy phuy nước. Ba nó nói với chú Ba Mạnh:
“Hổng chừng năm nay mưa dữ à”.
Chú ba Mạnh cũng nghĩ vậy:
“Chắc vậy đó anh, mưa cho lúa tốt”.
Xuống giống bắp rẫy xong là xới mấy luống đất gieo mạ, chờ đủ nước bang đất thì cấy. Gieo mạ là giống lúa Ba Thóc, ngắn ngày hơn Nàng Yếu, Nàng Thơm, Nàng Sậu, chỉ bốn tháng, gạo tuy không ngon bằng, năng suất thì kém xa lúa ngắn ngày cao sản 3A, hột rất thưa nên kêu ba thóc nhưng bà con nói xưa giờ chưa thấy rày riết gì khi trồng lúa Ba Thóc, vậy là Ba nó và chú Ba Mạnh làm cho chắc ăn chớ tiền đâu mua thuốc rày và cũng đang khan hiếm, chợ đen còn khó kiếm.
Trời mưa mấy cây nữa, khoảng hơn nửa tháng sau thì ngưng bặt, im hơi lặng tiếng gần cả tháng. Nắng hạn nhiều ruộng gò đất bắt đầu nức nẻ, bắp chực chờ muốn héo. Bà con lo lắng trăm bề nay càng lo lắng hơn. Cầu mưa suốt mà chẳng thấy đâu, gặp nhau chỉ biết rầu rỉ. Dì Tư Thể gặp má nó:
“Bà con mình làm gì nên tội mà như bị trả báo vậy chị Hai?”.
Má nó lắc đầu:
“Chẳng hiểu dì Tư ơi, như no dồn đói dập vậy, cái khó cái khổ sao cứ ập tới liên miên”.
Dì Tư thể mệt mỏi:
“Kéo dài vài bữa nữa điệu này chết quá”.
Mạ già, không thể khác được, ba nó kêu nhổ cấy khô, cấy trong cái đất deo dẻo sền sệt, có chỗ cứng quá phải lấy cây vạt nhọn đầu chọt lỗ mà cắm xuống, như người dân tộc vùng cao trồng tỉa. Vừa làm vừa ngó trời. Có những buổi chiều mây ầm ầm đen nghịt kéo tới, ai nấy khấp khởi mừng thầm, miệng lầm rầm khấn vái ông Trời mưa xuống, mưa xuống cho bà con nhờ, rồi mây quần quần cả buổi sau kéo đi và tan rã, những cái lắc thẩn thờ lại ở trên đầu bà con.
Mỗi nhà cấy được một sào rưỡi, nửa sao còn lại đất quánh lại, không cách gì chọt được. Gần ruộng còn cái búng nước còn đầy, ba nó và chú Ba Mạnh quyết đào con mương đưa nước vô, được chút nước nào hay chút đó, chỉ mong đất được mềm cấy hết mạ rồi trông chờ mưa. Đào mương hai ngày, nước chảy tàm tạm để đủ cấy cho hết. Buổi chiều anh em nó chạy ra tát cho hết nước trong búng qua mương, cạn sạch nước thì, Trời! cá con lóc nhóc, nhảy búng quá chừng, lấy rổ xúc lấy xúc để, cá lóc và cá trê con bằng ngón út được cả thùng, cá rô nhỏ xíu như hột bí được cả rổ rá lớn, gần cả chục ký hông chừng. Anh em nó mừng rơn. Ba nó cũng mừng nhưng có phần buồn buồn:
“Cá con này kho tiêu hay kho lá gừng là khỏi chê, nhưng nay mai thì cá hông biết có sanh ra hông”.
Chú Ba Mạnh trấn an:
“Chắc có mưa có sanh anh Hai ơi”.
Hai anh em nó dù trời gần sụp tối cũng xách một nửa chạy về, biết ở nhà cũng sẽ mừng lắm. Hai anh em đi một đoạn rồi chạy lúp xúp một đoạn, mệt lại đi, về tới xóm trong trời tối mịt, anh nó gõ cửa nhà thím Ba Mạnh. Tiếng thím ba trong nhà vọng ra hỏi:
“Ai đó, có việc gì đêm khuya đêm hôm?”.
Anh nó trả lời:
“Dạ, tụi con đây thím, tụi con trong rẫy về”.
Nghe vậy thím ba ra mở cửa vẻ mặt lo lắng:
“Có gì vậy hông tụi con?”.
“Dạ, hông có gì, trong đó bắt được mớ cá con, tụi con tranh thủ đem về một ít” – anh nó lấy cá đưa thím ba.
Thím Ba thờ phào:
“Thím cứ sợ có chuyện gì trong rẫy, cảm ơn tụi con nghe, trong đó sao rồi”.
“Dạ, có ít nước búng nên cấy gần xong”.
Hai anh em về tới nhà, má nó giựt mình:
“Trời đất! tụi con đi chi tối tui vậy, nguy hiểm lắm”.
Anh nó cười:
“Dạ, cũng đi nhiều lần rồi nên quen, hông có sao đâu má, tụi con thủ sẵn mấy cây gậy, phòng rắn rít rồi”.
Má nó cầm bọc cá mà rưng rưng, nói giống ba nó:
“Để má làm bây giờ luôn cho nó tươi, cá này kho tiêu là nhứt”.

***

Ruộng lúa hợp tác xã làm ngày càng ẩu nay gặp nắng hạn vàng úa lẫn trong cỏ. Đất hoa màu gần một nửa bị bỏ hoang bởi cỏ ống ngập tràn, một nửa năm nay trồng bắp cũng vàng như lúa, không còn trồng bo bo. Anh Hải tặc kêu anh Ngạo:
“Mấy cái giếng nước cạn queo hết nước xài, xuống bưng đường khó đi quá, mày chạy thử lên đập coi có nước hông mậy”.
Anh Ngạo gật đầu:
“Ờ, để chiều xách xe lên coi sao, sẵn coi ông cụ già hổm nói luôn”.
Chiều anh Ngạo chạy đi rồi về, vừa đi vừa ngêu ngao:
“Nước ơi nước, thuyền ơi thuyền, mây ơi mây…”.
Anh Hải la:
“Tình thế này mà còn hát với hò mậy”.
Anh Ngạo trợn mắt:
“Hông lẽ khóc cha nội, khóc được gì hông… – Quay qua chú Năm Ngạn anh Ngạo tiếp – Mà tui hát đàng hoàng nghen, hông có hát bậy rồi kêu làm này làm nọ à”.
Chú Năm chặc lưỡi:
“Mày lúc nào cũng cà rửng, cà khịa, sao nói đi”.
Anh Ngạo chề môi:
“Thì đó, tui kêu nước ơi nước, mày đâu rồi đó, có giọt nào đâu, khô queo như đồng này chớ hơn gì”.
Bà con thở dài, anh Hải chặc lưỡi:
“Rồi, phải xuống bưng lấy nước về xài rồi bà con, à đập còn hông mậy”.
“Còn… mà còn có một nửa, bay mẹ nó một nửa rồi, ông cụ già nói hay ác ghê, cơn mưa đầu mùa nó thấm đất, vài cơn mưa sau nhỏ xíu mà nó đi một nửa, vài bữa mưa lớn đi hết cái chắc, phải chi nghe ổng đỡ cực công…”.
Anh Hải chặn lại:
“Thôi vậy đủ rồi mày ơi, chuyện đó có người khác lo, mày nói nhiều coi chừng mang họa vào thân”.
Chú Năm Ngàn đồng tình:
“Thằng Hải nói đúng đó mậy, thôi bữa nay nghỉ sớm, bà con tranh thủ đi lấy nước”.
Anh Ngạo nói thêm câu nữa:
“Phải chi ai làm cán bộ ai cũng như ông Năm thì đỡ khổ”.
Dì Tư Thể vừa đi về vừa nói:
“Có người này người kia mày ơi, ở đâu cũng có anh hùng ở đâu cũng có thằng khùng thằng điên”.

***

Cuối cùng vài ngày sau mưa cũng chịu tới. Bà con mừng phát khóc. Cơn mưa cứu tinh, cứu những đám bắp sắp sửa quỵ ngã, lá đã héo. Mấy sào lúa trong rẫy nhà nó và chú Ba Mạnh vừa cấy xong, úa vàng còn kịp nức lá lại chưa cháy khô. Mưa xuống không chỉ cảnh vật háo hức, hừng hực đâm chồi nảy lá vươn lên, bà con cũng như được tiếp sức sống. Nhưng rồi nhìn đi nhìn lại, nhà cửa đã trống huơ trống hoát, thức ăn dự trữ cạn queo, đồ đạc quý giá đã dần dần “đội nón” ra đi về phương trời nao. Chưa tới mùa gì cả, kể cả những dãi khoai lang…
Đói! Làm sao? Uốn nước mưa trừ cơm à?
Câu hỏi của kẻ ở gần cuối đường hầm, không chút ánh sáng. Rồi đến cuối đường chợt may mắn đến, một ánh đèn dầu leo lét lóe lên, ông cụ già xuất hiện:
“Vô rừng đào củ mài củ nần” – Chỉ vậy thôi rồi ông đi.
Bà con ào ào vai cuốc vai xẻng, vai giống vai gánh xông vô rừng, quên cả cảm ơn cụ già, quên cả hỏi ông ở đâu, anh Hải đất vừa đi vừa thật thà:
“Ông già giống ông bụt quá!”.
Anh Hải tặc cười:
“Ờ, giống thiệt nhưng ổng hông phải là ông bụt, ổng ở dưới bưng”.
Anh Ngạo gật đầu:
“Nghe nói ổng ở ẩn, có việc cần kíp ổng mới ra khỏi nhà, căn nhà của ổng cũng khó tìm, nằm trong rừng cây tán lá”.
Dì Tư Thể xen vô:
“Ổng hay thiệt chớ, bà con ai nấy quên bén, tui chỉ nhớ măng rừng nhưng chưa tới mùa, mài nần thì đâu ai đào bới còn từ mùa năm ngoái, năm trước nữa năm nay lớn thêm”.
Chị nó cũng theo đoàn người, chị nó cười:
“Con thì hông biết mấy loại này”.
Chú Tám phèn quay qua chị nó:
“Bây ở Sài Gòn mới về làm sao biết hết”.
Đoàn người tới rừng, khoai nần nhiều lắm đây mọc trải dài có gai nhỏ, lá tròn củ tròn to như khoai sọ, khoai mỡ u u nần nần, dây khoai mài ít hơn lá dài, củ dài thòn, ba bốn năm tất, nhỏ hơn cùm tay. Ai nấy vui mừng đào lấy đào để, gồng gánh về như đi hội. Dì Tư Thể nó:
“Khoai mài là ngon số một, ngọt bùi ngon còn hơn khoai mỡ”.
Anh Hải gật đầu:
“Chị Tư nói đúng, về luột khoai mài liền”.
Đem về nhà, đúng là khoai mài rất ngon, bà con làm tới tới, ngày hai bữa ăn không ngán, bữa cơm độn khoai lang hay bo bo thành bữa dặm. Hết khoai mài xoay qua củ nần, sáng luột củ nần ăn chưa tới trưa thì… lâng lâng, ra đồng anh Ngạo xà quầng như người say rượu, anh Hải tặc thấy lạ hỏi:
“Ủa, mày làm gì như gà mắc tóc vậy mậy, tối hôm qua xỉn lắm hả?”.
Anh Ngạo giọng uể oải”
“Tối qua có uống gì đâu, cơm hông có ăn lấy đâu rượu ông”.
Dì Tư Thệ thấy chị Thu Ba cũng lạ nên hỏi:
“Ủa mày làm gì như con gà quáng vậy Thu Ba?”.
Chị Thu Ba đáp giọng khọt khẹt:
“Dạ, con cũng hông biết nữa, sao sáng giờ người chóng mặt, say xẩm, như say rượu”.
Chú Tám phèn chợt la lớn:
“Tụi bây sáng nay ăn củ nần luột tươi phải hông?”.
Anh Ngạo và chị Thu Ba gật đầu. Dì Tư Thệ đập tay cái bốp:
“Trời! hèn chi, bây hông có biết gì hết, móc họng lẹ ra đi, để nó ngấm càng lâu càng khổ”.
Anh Ngạo và chị Thu Ba phải móc họng cho ói ra hết, vô bụi cây nằm phè, dì Tư Thể tiếp:
“Thằng Hải mày chạy về chỗ bà Bảy Hớn bán quán xin đỡ trái chanh với miếng đường quậy cho tụi nó uống giải độc, tao về nhà kiếm thêm miếng gừng”.
Có nước chanh và củ gừng, dần hồi anh Ngạo và chị Thu Ba đỡ ra, dì Tư Thệ chặc lưỡi:
“Tao tưởng bây biết chớ cái thằng miệng lưỡi bô bô này, xẻ củ nần ra coi, thịt thì vàng để chút xíu là có nhựa đóng liền, mùi ngai ngái hăng hắc”.
Chú Tám Phèn chỉ cách:
“Nần độc lắm, ăn luột liền kiểu này say chết người, trước tiên phải gọt vỏ, xắt lát rồi ngâm nước năm lần bảy lượt mới nấu ăn, phơi khô để dành cũng được”.
Chị nó trợn tráo mắt:
“Nhà con cũng đâu có biết, may quá là chưa có ăn”.
Chú Tám Phèn cười:
“Giờ thì biết rồ nghen, người ta còn nói đói nhăn răng mới ăn củ nần đó con”.
Nhà nó không dám giữ củ nần, sợ quá đem đổ bỏ hết, mà cũng do cái ăn còn chút chút tàm tạm dự trữ. Nói là sợ vậy chớ nần mài củ của rừng tuy ăn được phải rưng rưng nước mắt đã cứu đói không biết bao nhiêu nhà, qua cơn bĩ cực đến giữa mưa, có bắp có khoai lang.

***

Rẫy phát đốt mùa đầu tiên nên không có cỏ, ruộng lúa cuốc lật ủ mấy tháng cũng vậy, cỏ mục tan thành bùn, cho đất tốt. Không mất công làm cỏ ba nó và chú Ba Mạnh tiếp tục đốn cây làm than. Nghỉ hè, anh nó ở nhà phụ má còn nó ở lại trong rẫy phụ chuyện vặt, đưổi chim, đuổi khỉ, heo rừng đêm bằng cái bò cạp và lo cơm nước với ba. Chú Ba Mạnh lượm đâu được chiếc xe kéo ao đó bỏ lại gần đường rày xe lửa kéo về. Ba nó hỏi:
“Của ai vậy chú?”.
Chú Ba đáp:
“Hông biết của ai nữa anh, thấy bỏ ở bãi cỏ, bỏ lâu rồi, tui để ý hổm giờ, chắc là bỏ thiệt chớ hông phải để đó, để đó chi giữa rừng, hư chút đỉnh, sửa lại chắc kéo tạm được”.
Ba nó và chú ba mạnh lục đục cả buổi sửa xong chiếc xe kéo, kéo ngon lành, kéo cây về hầm than đỡ phải vác nặng nhọc. Vài bữa sau ba nó nói:
“Tối nay tui với chú kéo than về”.
“Vậy đi anh chớ cũng lâu rồi chưa đem về, với lại cũng thăm nhà chút, kiếm miếng tiếp tế nữa”.
Chiều ba nó và chú Ba Mạnh chất than lên xe, chú Ba Mạnh lừng khừng:
“Mà có mình thằng nhỏ ngủ lại tui thấy tội quá”.
Ba nó nhăn mặt:
“Nhưng biết làm sao, xe than này tui với chú mới đẩy mới kéo nổi”.
Đứng phụ phụ nãy giờ và ngủ lại cũng lâu lắm rồi nên thấy đâu có gì, nó lên tiếng:
“Dạ, hổng sao đâu, con quen rồi mà, có một đêm chớ bi nhiêu”.
Ba nó hỏi lại:
“Con chắc hông?”.
Nó cười hề:
“Dạ, chắc chớ, hơn cả tháng ngủ trong này rồi mà”.
Chú Ba còn nghi ngại:
“Chắc chắn nghe”.
Nó gật đầu dứt khoát:
“Dạ, ngon lành”.
Trời chập choạng ba nó và chú Ba đẩy xe rời rẫy, còn dặn thêm lần nữa cẩn thận củi lửa, lâu lâu thức oánh bọ cạp như hổm rày.
Đêm xuống, nó – thằng con nít mười bốn tuổi đầu bỗng chợt thấy rùng mình, trống trải giữa màn đêm u tịch, giữa rừng rú xa xăm, giữa đêm tối mịt như đêm ba mươi giơ bàn tay trước mặt còn khó thấy, không tưởng tượng được lúc ở một mình lại như thế này, bấy lâu nay điểm tựa ba nó và chú Ba mạnh mà đâu có nhận ra. Gió rừng lùa thổi qua ào ào nghe như tiếng ác quỷ hay phù thủy trong truyện cổ tích rồi ngừng im bặt, trong cái khoảng thời gian im ắng lâu lâu lại vang lên tiếng động, nó chỉ dám nghĩ có lẽ của cành cây rơi rụng, của con vật nào đó nhảy nhót trong đêm làm giựt mình thôi, nghĩ vậy mà tiếng động còn như hù dọa trêu ngươi rồi. Cứ vậy hết im ắng thì lại tiếp cơn gió ùa qua…
Nó đang quen dần với những tình huống này chợt giựt bắn người, một tiếng động lớn vang vọng tới, đúng hơn là tiếng hú chói tai ập vào, tai nó ong ong lên cả buổi lâu, định thần trở lại thì ra là tiếng còi tàu kèm theo những tiếng xành xạch đi theo, những tiếng lúc bình thường nó vui mừng đón chờ, mong xóa bớt nỗi cô đơn giữa rừng rú cô liêu, thậm chí có những lúc cố lắng nghe từ xa để nhanh chưn chạy ra mà nhìn ngắm chuyến tàu băng băng qua dù chỉ được chốc lát.
Nó chỉ có hai chỗ dám đi, một rón rén bước xuống sạp tới bên bếp lửa cơi cho nó cháy lên và cho thêm củi, hai là nhích người trở về sạp ngồi thu lu, nép sát vào vách, bây giờ vách chòi là điểm tựa cho nó mặc dù đôi khi cũng bị lạnh sống lưng bởi cơn gió len lỏi qua những tấm ván bìa chui vào bên trong chòi.
Phải hơn một tiếng đồng hồ ngồi thu lu như vậy mới vơi dần đi nỗi sợ hãi, nó muốn bước chân ra khỏi chòi chỉ cách đó chừng ba bốn chục bước thôi để oánh bò cạp, phải gióng lên tiếng báo động cho đàn thú rừng biết nơi đây vẫn có người, bắp đã ra trái đâu có thể giỡn chơi được, ấy vậy mà chân nó không nhích, cứng đờ ra như gỗ đá, trong đầu thì mồm một hiện về những câu chuyện kể mà nó nghe được rất nhiều, chuyện con heo độc chiếc dữ dằn, dù bị bắn trọng thương nó có thể quay đầu rượt người đi săn húc lòi cả ruột ra, chuyện cọp về làng bắt trâu bắt bò, còn chuyện khỉ thì chính nó đã từng bị, những con khỉ có biết sợ là gì, những con khỉ quậy tưng sẵn sàng bay vào dành giựt đồ ăn người cầm trên tay chớ đừng nói là chỉ trêu ghẹo…
Nhưng những chuyện này đối với nó cũng không bằng những chuyện về ma quỷ, ma quỷ dẫn người dấu trong bụi tre, dẫn người đi lang thang trong rừng bỏ đói, rồi những người lớn kể với nhau đêm đêm ở ngay làng nhìn ra thấy hàng hàng những người bồng súng cầm đuốc đi như diễu binh, đó là những oan hồn chết trong chiến trận, phải lẩn quẩn không thoát ra được… Những câu chuyện cho nó những nỗi sợ mơ hồ, hư hư thực thực, lạnh ót lạnh sống lưng hơn cả những cơn gió rít qua khe vách.
Nó muốn chống lại nỗi sợ hãi để bước ra với cái bò cạp. Nó tự hỏi bằng cách nào để đè bẹp? Nó nghĩ tới ba, ba một mình giữa rừng là chuyện thường tình đó thôi, nhưng rồi trong đầu lại vang lên cái câu ba lớn rồi, ba lại dạn dĩ, ma quỷ hay thú rừng sợ người lớn, trừ phi bất đắc dĩ mới chống trả. Nó tìm cách khác, hồi sau nó à ra, nghĩ tới cái đói, nghĩ tới củ nần, nghĩ tới bo bo, nghĩ tới nồi cá kho bằng đầu cá cho heo của má nó, nghĩ tới công sức biết bao nhiêu của ba đã phát lao tre làm rẫy, có cả máu đổ và công của nhiều người phụ nữa, trong đó có cả nó, đâu thể để sự sợ hãi làm tan nát được.
Nó thấy hay bởi cách này trấn được bớt được sự sợ hãi. Bước xuống khỏi sạp, chân run run, với lấy cây củi lửa cháy rực nhứt, nó bước ra, vừa rón rén vừa nghĩ, những suy nghĩ ở trên cho đầy ắp trong đầu che lấp hết mọi thứ để mà bước. Không bước thẳng, nó xoay vòng vòng đi tới vì dù sao sau lưng vẫn còn ớn lạnh. Cuối cùng cũng tới được cái bò cạp, kéo dây tới tấp, bình thường chỉ kéo năm bảy cái, lúc này nó kéo lia lịa mười mấy cái, tiếng rầm rầm của cái bò cạp làm yên tâm hơn, xé tan bớt cái đêm như tận cùng này. Oánh bò cạp xong, nó quay đầu chạy một mạch vào bên trong chòi.
Vậy là nó đã tìm ra cách chế ngự bớt cơn sợ hãi. Mệt mỏi, ngã lưng xuống sạp, vẫn nằm sát vách, thiu thiu ngủ, chợt phải bật ngồi dậy, lỡ ngủ quên thì sao? lại nghĩ ra cách nào để thức tỉnh giữa giấc, không còn cách nào hay hơn, nói với chính mình, “lấy dây cột vô cẳng rồi cột vô cây cột, ngủ cách gì không lăn, chưn không vùng vẫy”, vậy là làm theo.
Đêm đó cho tới tờ mờ sáng nó thức dậy năm lần, mỗi lần dậy lại ngồi chập lâu để nghĩ đủ thứ hầm bà lằng để quên nỗi sợ rồi đi vòng với cây củi lửa ra oánh bọ cạp. Lần cuối nó thức thì ba nó và chú Ba Mạnh đã trở vô tới, thấy chân nó cột dây là hiểu liền, xoa đầu nó và khen:
“Giỏi lắm con trai, biết lo vậy là tốt”
Ba nó lấy trong giỏ ra một nồi đậy kín bưng cột thêm dây chằn chịt. Chú Ba Mạnh hỏi:
“Chà cái gì trỏng mà kỹ dữ vậy anh?”.
Ba nó cười:
“Bà xã sợ đổ, bả đổ bánh căn* (*Bánh khọt), mấy mẹ con thức cả đêm xay bột đổ bánh”.
Bắt lên bếp hâm lại nồi nước cá kho, lấy rau lấy bánh ra bỏ vô tô, nước sôi, ba nó chan vô, cùng nó và chú Ba Mạnh hì hụp húp. Ba nó ăn một tô rồi buông đũa:
“Chú và cháu nó cứ tiếp tục, tui hồi nãy mần một tô ở nhà rồi”.
Chú Ba khen nức nở:
“Ngon quá trời, chị Hai khéo tay, nấu món nào cũng ngon khỏi chê”.
Nó cũng ăn thêm tô nữa, lâu lắm rồi, nó không nhớ nổi là bao lâu mới lại được ăn những món ngon, vừa ăn vừa nghĩ giống như phần thưởng cho đêm giữ rẫy vậy, nhưng chủ yếu là cho sự vượt qua sợ hãi. Ăn xong còn buồn ngủ, no nê và sảng khoái, chẳng lo nghĩ gì nữa nó ngả lưng oánh một giấc tới trưa trừa trưa trật mới dậy.

***

Mùa thu hoạch của hợp tác xã gần như mất trắng. Bông cỏ nhiều hơn bông lúa. Bắp trái tong teo. Bắp bà con được chia về luộc chắc được một bữa cho gia đình nhiều người. Lúa không đủ đóng cho hợp tác xã, thiếu chỉ tiêu.
Mùa kế tiếp chẳng ai buồn ra đồng mặc cho tiếng kẻng gõ tới gõ lui nhiều lần. Dì Tư Thệ là người bung phát pháo đầu tiên:
“Nhà tui đói lấy gì ăn mà làm, lo cho tui cái ăn đi tui sẵn sàng, còn bây giờ hông có tui phải tự lo, tui tự kiếm ăn, bắt tui thì tui chịu”.
Anh Ngạo như được mở lòng:
“Tui cũng vậy, hông chừng bắt tui còn khoái, tui khỏi lo đói đỡ mệt óc”.
Người này kéo theo người kia, hiền khô như anh Hải đất cũng lắc đầu với tiếng kẻng ra đồng:
“Mấy ông oánh mấy ông tự làm đi”.
Đất ruộng, đất hoa màu trở thành đất hoang.
Bỏ lao động hợp tác xã, giữa mùa mưa, mùa măng mọc rộ, bà con kéo nhau vác câu liêm vào rừng xắn măng. Xắn măng không nghe cấm, không bị bắt nhưng măng khô chở nhiều đi bán vẫn bị quy vào buôn lậu, phải lén lút. Măng rất được giá, bán tươi liền cũng được, phơi khô được giá hơn. Măng đầu mùa còn măng gốc, đặc ruột chỉ tám chín ký tươi có được một ký khô, giữa mùa phải mười ký, còn cuối mùa măng lên cao rất nhanh, măng lên vùn vụt, một ngày vươn lên mấy thước, măng rỗng phải mười một mười hai ký mới được một ký khô. Măng là cái phao cứu sinh cho không biết bao nhiêu gia đình cứu đói, một mùa măng nhà vài người cần mẫn kiếm chừng hai tạ khô, sống gần được nửa năm chớ khống ít. Nhưng cũng như củ nần, lấy của rừng phải rưng rưng nước mắt, đi xắn măng là cùng cực. Đi sớm lội cỏ le lút đầu còn đọng sương tới được lao tre là ước như chuột lột. Những lao tre già xấp lớp lá mục dày cộp sanh muỗi mồng lũ lũ nhưng măng mới nhiều, tre già thì gai tua tủa, chuyện bị cào xé rướm máu da dẻ mặt mũi là bình thường, áo quần phải vá chằng vá đụp. Dép thì ai dám mang đôi dép Lào, sa bô, bởi đây là những đôi dép vía, mắc mỏ vô cùng chỉ để dành cho dịp quan trọng, tụi nhỏ thì để dành đi học nên dép xài chủ yếu là đôi dép râu, đế dép như vỏ xe, quai chéo, quai hậu xỏ xuống đế giống cắt từ ruột xe, mang dép này trong túi lúc nào cũng kè kè nan tre chẻ giữa để dép có xổ quai mà đút vào lỗ đế kẹp quai kéo qua. Dép cao su đi gặp nước trơn nhớt, bước tới tuột quai ngày một, tuột dép chân trần đạp gai đầy cũng là chuyện thường tình, có những gai lớn đâm xuyên lòng bàn chưn. Một nỗi nơm nớp sợ là những đàn ong, ong chích vài phát sưng vù mặt mũi đau nhứt vẫn còn cầm cự là ong thường, vết chích dù chỉ một của con ong vò vẽ dễ lên cơn sốt, phát bịnh mê man và rắn rít nữa, có người bỏ mạng vì rắn độc giữa rừng…
Má nó cũng bao bị đi xắn măng gần nhà, xắn mắng với đàn bà con gái còn cực gấp bội phần đàn ông con trai. Anh nó hết việc rảnh rỗi cùng vào rẫy theo ba nó vác câu liêm, nó thì chủ yếu đi lột vỏ.
Một buổi chiều gánh măng về đi dọc theo đường ray cách rẫy vài cây số thì gặp một lán trại làm sơ xài cạnh ngay dòng suối, có vài người ngồi trong lán, một người đàn bà chạy tới hỏi:
“Xắn măng về hả anh?”.
Ba nó gật đầu và ghi ngại nhưng không dấu được phải trả lời:
“Dạ phải”.
Người đàn bà chừng hiểu sự lo lắng của ba nó, bà nhoẻn miệng cười:
“Tui hỏi có bán hông chớ hổng có gì đâu”.
Chú Ba Mạnh thấy lạ:
“Chị nói thiệt nói chơi, mua bán gì ở đây, đừng giỡn tụi tui nghe, muốn báo bắt hả?”.
Người đàn bà phẩy tay:
“Cái chú này, ai giỡn kỳ cục giữa rừng rú, nhìn tui ác lắm sao kêu bắt?”.
Ba nó bỏ gánh măng xuống:
“Chị nói hông giỡn giữa rừng vậy là sao?”.
Người đàn bà tiếp, giọng nhỏ đi:
“Mấy chú hông biết gì thiệt hả, thôi để tui nói luôn, vậy nè, chỗ này cái cầu bắt qua suối nó yếu lắm, mấy ổng sửa tới sửa lui cũng vậy, xe lửa qua đây phải chạy chậm lại, chạy rề rề hà, nên bà con thảy đồ lên xuống được, đi buôn đó, tui mua đi buôn”.
Ba nó và chú Ba Mạnh hiểu ra, ba nó hỏi tiếp:
“Chị mua sao?”.
Người đàn bà đon đả:
“Nói thiệt với mấy chú tui đi buôn thiệt, nhưng tui quen biết mấy ông trên tàu đi thẳng Sài Gòn mà hông có mất mát, nên tui mua bán đàng hoàng, giá chợ sao tui mua vậy, mấy chú khỏi mất công gánh về lại khỏi lo cân thiếu đủ”.
Ba nó và chú Ba Mạnh thấy có lý, kêu cân thử, thấy cũng đúng như dự đoán và giá cả nên đồng ý bán. Ngồi nghỉ một hồi ba nó hỏi:
“Chị có mua than hông?”.
Người đàn bà gật đầu:
“Mua chớ, có nhiêu mua bấy nhiêu”.
Ba nó gục gật:
“Tụi tui còn một mớ bữa nào gánh lên chị”.
Vừa lúc này thì có tiếng còi xe lửa tới, đúng như người đàn bà nói, xe lửa xình xịch chầm chậm lại, chạy cà nhích cà nhích qua cầu, ngay chỗ lán bốn năm người đàn ông mình trần trục trục khuân vác bao bao thảy ào ào lên, có mấy người trên xe lửa tóm lấy kéo vào bên trong. Xe lửa người ngồi trên thành cửa sổ, người đu bên hông đầy kịt, người ngồi cả trên nóc toa, có người còn chạy rần rần trên nóc. Nhiều người kể lại nhiều tai nạn thương tâm xảy ra, có cả cái chết vì nhảy vì đu theo tàu như thế này.
Một người trên xe lửa thảy xuống một bao. Người đàn bà cười:
“Cái này ở ngoài Trung đưa vô?”.
Ba nó hỏi:
“Chắc chị cũng lấy hàng từ Sài Gòn ra?”.
Người đàn bà gật đầu:
“Có chớ, chủ yếu là gạo, đường với bột ngọt”.
Ba nó sáng mắt lên:
“Vậy bữa nào tui có măng với than đem đổi chị hén?”.
Người đàn bà cười cười:
“Ừa, được chứ sao hông”.
Trên đường về ba nó nói với chú ba mạnh:
“Vậy được đó chú Ba”.
Chú Ba bập bập điếu thuốc rê:
“Khỏe hơn đó anh, với lại coi bộ bà này cân đúng, buôn bán bây giờ người ta bắt đầu sanh tật rồi, hông như hồi xưa nữa, gian lận thấy ớn rồi”.
Ba nó cũng đang ngậm điếu thuốc, lấy điếu thuốc ra, ba nó đáp:
“Đúng đó chú, với lại mình có thể mua gạo, đường, bột ngọt về bán rẻ cho bà con coi như kiếm chút công, buôn bán giờ sợ quá, đong bằng cái lon sữa bò họ đập móp đít cho nó nu lên, cân mua thì kéo cái rẹt cho đòn cân trì xuống, cân bán thì đè đầu cân cho nhổng, cân đồng hồ thì chỉnh lò xo, khó lường hết được”.
Chú Ba mạnh thở dài:
“Thời buổi gì kỳ cục”.
Nó cũng thấy thêm nhiều điều kỳ cục.
Xóm làng đã bị ăn trộm, ăn cắp. Nhiều người nói ở đâu tới chớ hồi nào giờ dù đói dù nghèo cũng có ai làm vậy. Có những nhà đi làm xa cửa khép hờ, không ai coi vậy là giữa ban ngày cũng bị dọn sạch. Tối đến thì gà vịt rũ cánh ngủ trong chuồn sáng ra lại “vỗ cánh xổ lồng” mất tiêu, đến cả trâu bò còn bị dắt trộm. Đêm đêm bây giờ nhà nhà cửa đóng then cài, thêm chốt chặn chớ không dám khơi khơi như trước nữa.
Rồi thêm “đội quân” đi ăn xin ào ạt xuất hiện. Già có trẻ con có. Tàn tật bình thường có. Mỗi ngày hai ba người ghé xin, ban đầu bà con dù đói vẫn thấy tội chia sẽ cho một ít, sau nhiều quá làm sao? thì làm lơ. Nhưng ngặt nỗi những người ăn xin cứ ù lỳ, đứng nằn nì mãi, nằn nì không xong thì ăn vạ. Tức mình anh Ngạo tìm hiểu vụ này, một bữa anh Ngạo dõng dạc tuyên bố:
“Hông có cho ăn xin nữa, tui nhứt định hông cho, ai chửi tui ác tui chịu”.
Dì Tư Thể hỏi:
“Sao vậy mậy?”.
Anh Ngạo đáp:
“Tui biết rồi, người ta nói có nhiều làng bỏ vào đây đi ăn xin, sao hông chịu đi làm, họ vô nhà xin thì giả lù đù, ra ngoài mạnh khù khỏe ru đó, còn có người bệnh tật gì đâu, băng bó bôi thuốc đỏ chớ đi đứng ào ào, xạo xự hông thôi, xin xong gom lại bao bao còn nhiều hơn nhà minh, đón xe họ chở đi bán, nghe nói về còn xây được nhà cửa”.
Anh Hải đất lắc đầu:
“Người gì kỳ cục, vậy đi xí gạt chớ đi xin gì”.
Dì Tư Thể buồn buồn:
“Tội cho mấy người già, bịnh tật thiệt tình, đi xin giờ khó có người tin”.
Có thêm những người chuyên đi xí gạt nữa. Hai ba người giả vô nhà lúc hỏi xin nước, lúc hỏi nhà người này người kia, người hỏi tứ lung tung, lơ là chút là bị mất ngay đồ quý giá, có người còn bị bỏ thuốc mê, bị ém bùa ém ngãi tự động lấy của cất kỹ trong nhà ra mà đưa…

***

Ba nó và chú Ba Mạnh đổi hết than, thêm măng được kha khá gạo, năm bao năm chục ký, thêm bao đường, bao bột ngọt nhỏ. Chất đầy xe kéo, đêm kéo về, ba nó nói:
“Ngày mai nghỉ một ngày”.
Anh nó năm tới lên lớp mười, phải về tới thị xã mới có trường cấp III. Đường xa hơn hai chục cây số cần xe đạp tốt hơn, chiếc xe đạp mini anh em đang đi đạp bao giờ cho tới. Nhưng mua một chiếc xe đâu có dễ, cách hay nhứt là gom góp từ từ từng món từng món, đủ rồi ráp. Anh em tiếc một ngày nghỉ, xách câu liêm đi luôn, kiếm được món nào hay món đó cho chiếc xe chớ.
Anh nó nói:
“Mình tiếp đi Dốc Lớn đi, xa chút nhưng còn măng nhiều, ngày hôm qua mới xắn có nửa lao”.
Nó đồng tình:
“Được đó anh”.
Từ rẫy tới Dốc Lớn độ chừng sáu bảy cây số. Hai anh em thức sớm như mọi khi nấu cơm ép ghi gô dở theo, bữa nay có khô cá đù ngon, mấy bữa khô cá trích hơi khô, có bữa còn phải ăn với muối ớt muối mè. Tờ mờ là lên đường.
Lao tre hôm qua măng còn nhiều hai anh em miệt mài xắn, anh nó hỏi:
“Em gánh nổi ba chục ký hông?”.
Bình thường nó chỉ phụ gánh mười lăm hai chục ký là nhiều, nó suy nghĩ một chập sau trả lời:
“Ráng chắc được, có gì đi từ từ, vừa đi vừa nghỉ chớ măng còn nhiều quá hông lấy uổng”.
Anh nó gật đầu:
“Ráng đi, anh gánh bốn chục ký”.
Hai anh em xắn tới trưa là đủ. Nghỉ ăn cơm xong là lột vỏ, xế chiều về là vừa. Lột vỏ nửa chừng một cơn mưa lớn đổ xuống, đang ngồi dưới gốc cây to có bóng mát, phải quáng quàng hốt măng chạy tìm gốc cây nhỏ, cách xa cây lớn này, đâu dám ngồi đây, sét rừng rú kinh thiên động địa, oánh một phát gãy luôn cái cây hai ba người ôm như chơi. Cơn mưa dai ẳng, lột và đóng bao đóng gánh xong vẫn chưa dứt, hai anh em quyết đội mưa gánh về, gánh đi còn đỡ lạnh hơn ngồi một chỗ người đã ướt đâu còn chỗ nào để ướt nữa.
Gánh tới ngay Dốc Lớn, con đường băng qua suối, một cảnh tượng khinh hoàng hiện ra trong mắt hai anh em nó, mới sáng khi đi qua, nước suối chảy rỉ rả mấp mé dưới gót chân, hai anh em còn ngừng lại khoát con nước mát trong vắt chảy qua những vùng sỏi rửa mặt mà bây giờ đã biến thành một dòng nước đục ngầu, cuồn cuộn chảy, chảy tràn lên cả trên bờ, cuốn xác lá cỏ khô ầm ập vào những gốc tre nghe rào rạt, nước đập vào những tảng đá rầm rầm bắn nước trắng văng tung toét như những ngọn thác, cỏ hai bên bờ bị cuốn nằm rạp xuống hết. Anh nó nhăn mặt:
“Anh quên mất, mê măng hông hà, nước đầu nguồn hỗn lắm, mưa xuống là đổ ầm ầm liền, mà cơn mưa này lại lớn và dai nữa”.
Nó gãi đầu:
“Bây giờ sao ta?”.
Anh nó bậm môi:
“Chỉ còn cách chờ thôi”.
Nó chắc lưỡi như người lớn:
“Hông biết bao giờ nó mới rút, còn mưa nữa chớ”.
Hai anh em kiếm bụi rậm gần dốc ngồi chờ, mưa từ từ nhỏ dần rồi ngưng. Cởi áo vắt nước và hông gió cho khô, bây giờ mới thấy thấm lạnh, hai thân thể ốm o co ro lo lắng trong khi trời tối dần. Lát sau nó thấy có dáng người đang đi nhanh tới, tới gần thì ra là thằng Cu anh, thằng Cu anh bất ngờ hỏi:
“Ủa anh với thằng này làm gì ở đây?”.
Anh nó đáp:
“Tụi tao đi xắn măng – chỉ con suối anh nó tiếp: Nước đầy tràn hết qua được”.
Thằng Cu anh lắc đầu:
“Biết ngay mà, chạy từ nãy giờ mà hông kịp, chịu thua rồi phải chờ thôi”.
Nó hỏi:
“Ê, mày biết chừng nào nó chảy hết hông?”.
Thằng Cu anh chề môi:
“Mưa lớn này còn lâu à, chắc đêm nay ngủ đây, phải chờ tới sáng”.
Nó trợn mắt:
“Tới sáng hả, chết chắc quá?”.
Anh nó thở ra:
“Phải chịu chớ sau giờ, mà mày đi đâu về đây?”.
Thằng Cu anh nghe hỏi mặt buồn xo:
“Em về kiếm thuốc, cũng đi phụ xắn măng theo đoàn gần chục người, ở trong Núi Lớn, dựng chòi ở lại luôn trong đó nguyên mùa”.
Nó hỏi:
“Núi Lớn xa hông?”.
Cu anh trả lời:
“Xa, đây vô trong đó phải chục cây”.
Anh nó lẩm nhẩm:
“Từ đây về làng hơn chục cây nữa, cũng xa dữ hén, mà nghe nói trong đó măng nhiều lắm phải hông?”.
Cu anh gật đầu:
“Nhiều lắm, măng to hông hà có mụt bằng bắp vế, cỡ bắp chưn mới lấy, nhỏ nhỏ bỏ qua”.
Nó nghe phát thèm:
“Đã quá ta”.
Thằng Cu anh chề môi lắc đầu:
“Đã thì đã mà bịnh cũng đã”.
Anh nó ngạc nhiên:
“Bịnh là sao?”.
Thằng Cu anh tiếp:
“Bịnh dữ lắm, trong đó muỗi kinh, uốn nước nữa, làm biếng nấu nên ai nấy sốt rét, bị dính bịnh tới cữ thường một ngày một cữ là lên cơn run cả tiếng, có khi như giựt kinh phong, bên ngoài nóng hổi đổ mồ hôi còn bên trong lạnh cầm cập, quấn hai ba cái mền còn run, hai ba người đè cũng run bần bật, nắng lên là đem người ra phơi”.
Anh nó than:
“Đúng là rừng thiên nước độc, muỗi mồng với nước, hèn gì ba tao hông cho uốn nước suối bắt phải đem theo nước nấu mà uốn, làm siêng một chút cho đỡ, ba tao còn nói để lỡ bịnh tiền thuốc hông đủ coi như công không”.
Thằng Cu anh gục gật:
“Đúng lắm, mà hổm giờ ỷ y, giờ mới thấy cảnh, may là em lẩn quẩn ở chòi lo nấu cơm, luột măng”.
Anh nó kiếm mớ củi và bùi nhùi nhóm lửa. Củi ướt ba đứa chụm đầu phù mỏ thổi cả buổi mới cháy nổi, rồi bứt thêm lá xanh phủ lên tạo khói đuổi muỗi. Đêm xuống, rừng yên ắng, chỉ nghe tiếng nước chảy dưới suối. Sau cơn mưa lớn bầu trời quang đãng, có anh nó và thằng Cu anh nó không thấy sợ chút nào, ba anh em ngã người trên đám cỏ nhìn bầu trời đếm sao cho qua cơn đói, quên đi cái bịnh sốt rét kinh hoàng mà thằng Cu anh kể, người bịnh da vàng khè ra, mắt hủm sâu chỉ thấy cái hốc… rồi dần dần chìm vào giấc ngủ giữa trời.
Gần nửa đêm ba đứa thức giất bởi tiếng gọi của ba nó và chú Ba Mạnh. Nó ngồi dậy nhìn ánh đuốc chói lòa mà không hiểu chuyện gì xảy, lát sau mới nhớ lại khi nghe ba nó nói:
“Tụi con làm ba hết hồn, may quá cứ sợ liều mình băng qua dòng nước”.
Chú Ba Mạnh hỏi:
“Thằng Cu anh cũng ở đây hả?”.
“Dạ, con từ Núi Lớn về”.
Anh nó hỏi:
“Sao ba biết tụi con ở đây?”.
Ba nó lấy ra mấy trái bắp nướng đưa tụi nó:
“Ba với chú Ba Mạnh trở lại rẫy hông thấy câu liêm biết hai anh em bây đã đi xắn măng chớ đi đâu, chờ tối không thấy về đoán chắc bị kẹt dòng suối, nên đi mà tìm”.
Ba đứa cầm mấy trái bắp ngoặm tới tấp thấy ngon quá chừng. Dòng nước còn lút đầu tụi nó nhưng đã bớt hung hãn. Ba nó và chú Ba Mạnh đưa qua suối rồi về luôn trong đêm.

***
Ba tháng hè, mỗi tuần nó phải về nhà một ngày.
Bữa chiều đi về gần làng gặp thằng Cọt, thằng Cọt hỏi nó:
“Mày trong rẫy về phải hông?”.
Nó gật đầu:
“Ừ, tao từ rẫy về”.
Thằng Cọt hỏi tiếp:
“Tao thấy xa thấy mồ mà sao thấy mày về hoài vậy, hông mỏi chân hả mậy?”.
Nó nhăn mặt:
“Sao hổng mỏi mậy, tại tao phải về một ngày trong tuần để sinh hoạt hè”.
Thằng Cọt ạ một tiếng dài:
“Thì ra là vậy, sinh hoạt hè vui hen mậy?.”
Nó còn nhăn mặt bây giờ thêm lè lưỡi ra:
“Sướng cái con khỉ, cực chẳng đã, còn đi học phải vậy, nghỉ học như mày cho khỏe”.
Thằng Cọt chẳng hiểu:
“Gì kỳ mậy, sinh hoạt phải vui, ca hát rần trời chớ sao lại cực?”.
“Ca hát chi đâu mày ơi, toàn đi lao động dãy cỏ trồng cây, hết dãy cỏ trồng cây tới làm kế hoạch nhỏ, đi lượm bịch ni lông, ve chai, lông vịt, giấy vụn đó mày”.
Thằng Cọt trố mắt:
“Vậy à, tao cứ tưởng…”.
“Cứ tưởng… ờ nghe sinh hoạt tưởng hay lắm chớ gì, bây giờ sân trường thành sân bãi phơi mấy loại này rồi mày ơi”.
Hai thằng đi sóng đôi nghĩ ngợi, hồi sau nó nói thêm:
“Đi lượm thì ve chai bể có, bịch ni lông bay ngoài đường ngoài đồng cũng có, giấy cũng có, nếu có thiếu giấy thì tìm ở nhà mà đem nộp cho đủ chỉ tiêu, chỉ có lông vịt là thiệt khổ, có vịt ai dám ăn, để bán kếm chút đồng chớ, có ăn nhân dịp giỗ quảy cũng dễ gì đổ bỏ, tụi con nít như mình chờ chực vừa nhổ là xin liền, rồi khư khư phơi chẳng để bay một cọng, lông vịt có giá bán kiếm kha khá mà”.
Thằng Cọt nói buồn buồn:
“Tao nghĩ học cũng có lý”.
Nó nghe giọng thằng này biết nghỉ học cũng cực chẳng đã, nó cũng vậy đi học thấy mệt mỏi nhưng thực sự thì cũng không muốn nghỉ, nó an ủi thằng Cọt:
“Tao cũng muốn nghỉ cho rồi mà ba má hông cho”.
Hai đứa tiếp tục sóng đôi, chợt nó nhớ lại nó hỏi:
“Mày nhớ cô Oanh hông?”.
Thằng Cọt sốt sắng:
“Nhớ sao hông mậy, cô dễ thương ghê”.
Giọng nó lắng xuống:
“Cô bị chuyển đi mấy tháng trước rồi mày, tội cô quá”.
Thằng Cọt thảng thốt:
“Cô bị chuyển rồi hả, đi đâu mà tội, mà tại sao?”.
Nó chầm chậm nói tiếp:
“Cô bị kỷ luật, chuyển lên vùng núi”.
Thằng Cọt than vãn:
“Trời đất! đi tuốt lên núi, khổ dữ ta”.
Cô Oanh dạy văn tụi nó. Cô dạy rất hay, cô hiền và sống rất tình cảm, tụi nó thấy ẩn hiện trong cô chất lãng mạn, học trò rất thương quý cô. Cô ở lại nhà tập thể, dãy nhà được cất gần trường cho thầy cô ở. Phía sau có miếng đất chừng hai sào thầy cô trồng thêm rau củ phụ cho bữa ăn, có cả nuôi heo gà…
Đùng một bữa tới lớp tiết văn không còn cô dạy, thay bằng cô khác, cô mới nói cô bị thuyên chuyển lên vùng núi. Tụi nó ngỡ ngàng, mới ngày hôm kia còn gặp cô đây mà. Hết giờ mấy đứa chạy tới nhà cô, cô chưa đi nhưng đang đóng gói đồ đạc, chẳng có gì nhiều, vài ba thùng cạc tông, quần áo mùng mền, sách vở… Thằng Chí khoái môn văn nhứt, nó không hiểu chuyện gì xảy ra, nó nhào vô hỏi cô liền:
“Sao cô bỏ lên vùng núi vậy, tụi em làm gì cô buồn phải hông?”.
Cô lắc đầu, mắt cô rưng rưng:
“Hông phải đâu các em, cô… cô… bị kỷ luật”.
Cả đám trố mắt, nhỏ Nga càng thấy lạ:
“Cô bị kỷ luật? cô mà bị kỷ luật mà kỷ luật gì vậy cô?”.
Cô chậm rãi:
“Các em còn nhỏ chưa hiểu gì đâu, sau này các em hiểu sẽ thông cảm cho cô”.
Tụi nó đứa nào đứa nấy nhăn mặt, thằng Chí nói tiếp:
“Em có thấy cô làm gì sai đâu, cô hiền thấy mồ mà”.
Mắt cô ngấn nước:
“Cô cảm ơn các em, cô bị kỷ luật thiệt, thôi bỏ qua chuyện này đi, ngày mai cô đi rồi, hay chiều nay các em tới cùng ăn với cô bữa cơm tối, cô trò mình chia tay, hông biết có còn gặp lại hông nữa”.
Mấy đứa con gái sụt sịt, con trai còn phải chớp chớp chặn cho nước mắt khỏi rơi kia mà.
Sau này tụi nó biết cô bị kỷ luật vì bị cho là mất tư cách đạo đức. Cô và anh Thái ở đội hai yêu nhau nhưng bị nhiều người ngăn cản và nói ra nói vào. Anh Thái học hành ít, chỉ đâu lớp bốn lớp năm. Nhiều người cho rằng không xứng không hợp, đường đường là một cô giáo lại đi yêu tay nông dân cù lần, nhà quê. Cô lại xinh đẹp nên rất nhiều người theo đuổi, nhiều người có chức có quyền. Bất chấp cô vẫn bỏ ngoài tai tất cả. Sau này tụi nó nhận được thư cô giải thích rằng cô nhận được ở anh Thái sự chân thành, sự bao dung, anh không học hành đến nơi đến chốn là do hoàn cảnh khó khăn chớ trong anh còn có sự hiểu biết còn hơn những người có ăn có học. Tụi nó không bao giờ trách cô, tại sao lại không đấu tranh tới cuối cùng, để vượt qua bởi không dễ, khó vượt qua rào cản lắm, hết rào cản này lại gặp rào cản khác. Cô bị bắt tại trận vào một ngày tối trời, người ta rình mò như đặc công bắt được khi cô và anh Thái ngồi tâm sự phía sau nhà, biên bản ghi rõ đây là tình yêu không trong sáng, không báo cáo tổ chức, dẫn nhau trong bóng tối làm chuyện đồi trụy, quần áo hớ hên, nút áo không cài để làm gì không phải để làm bậy, cô giáo mà không thuộc cái câu từ xưa à: “Nam nữ thọ thọ bất thân”. Anh Hải tặc ví von mà nghe mỉa mải: “Tình yên hoa nở bình minh, Đêm về khép lá giữ mình nữ trinh”. Nữ trinh anh Hải nói ngược của hoa trinh nữ còn gọi là loài hoa mắc cỡ, lá mắc cỡ ai động vào hay chiều chiều xuống là bắt đầu khép ngủ qua cả đêm…
Cô ra đi, anh Thái mãi về sau cho tới lúc nó còn biết được không nghe nói đã có vợ con.

LÊ ĐẮC HOÀNG HỰU

CƠN GIÓ MANG HỒN TUỔI THƠ (TT)

ledachoanghuu

Dì đã đi bịnh viện.
Nó một mình ở nhà, má nó vô bịnh viện liền luôn. Gần một tuần lễ má đi đi về về, rồi dì cũng về nhà. Chiếc xe xích lô chở dì và má vô tận bên trong, dì vẫn còn đau, đi đứng khó khăn. Nó chạy ra phụ dìu dì vào:
“Dạ, dì mới về”.
Dì nói nho nhỏ:
“Ừa, đì mới về, chà cái thằng hồi nhỏ ú na ú nần, trắng bóc giờ đen như than và ốm nhách, tội nghiệp bây quá”.
Nó cười:
“Tại con dang nắng với lại vọc than đó dì”.
Dì nó quay qua má nó:
“Khổ quá, hay tụi bây dắt díu nhau trở lại trong này, coi vậy chớ trong này còn dễ thở, buôn bán nhỏ nhỏ cũng đủ sống”.
Má nó lắc đầu:
“Dạ, em cũng nghĩ nhiều rồi, muốn đi mấy bận cuối cùng tính tới tính lui hông được đâu chị…”.
Dì nó cắt ngang:
“Sao mà hổng được, người ta sống được thì mình được”.
Má nó tiếp:
“Dạ, hông phải vậy, chị hiểu sai ý em rồi, là vầy, giờ mà đi là chỉ có đi chui ở chui thôi, đâu ai chứng giấy tờ, tụi em lớn thì hổng sao chứ sắp nhỏ lấy gì học hành”.
Dì nó gật đầu:
“Ừa hén, bây nói tao mới nhớ, phải cho đi học kiếm mấy chữ, sau này đỡ cực thân”.
Nó thì thấy học hành bắt đầu chán chán, nửa muốn tiếp tục nửa muốn không, nhưng theo lời ba má thì phải đi. Thằng Cọt đã nghỉ học ở nhà chuyên chăn bò và phụ đi rừng. Nó nhớ lại bữa ngang nhà nghe ba má thằng Cọt cũng cãi rần vụ này.
Ba thằng Cọt:
“Cho nó nghỉ đi phụ tui kiếm ăn chớ học hành làm gì”.
Má thằng Cọt:
“Học hành có lợi sau này”.
“Bà chỉ cái lợi tui coi?”.
“Thì như ông Sáu Hoàng đó, ổng có cái chữ khỏi phải ra đồng”.
“Bà hay quá hén, có mình ông Sáu chớ mấy, mà nói thiệt tại ổng già làm hông nổi nên người ta để ổng cầm viết, còn ông Hai Sài Gòn kìa, thằng Hải tặc kìa, bao nhiêu người nữa đó, chữ nghĩa đầy mình có mần được cài gì hông hay phải cầm cuốc với lại mấy người có mấy chữ cũng làm cán bộ rần rần”.
“Biết đâu có may được như ông Sáu Hoàng, chú Tư”.
“Ở đó mà chờ may rủi, với lại bà có tiền đóng nổi hông, trăm thứ tiền chớ có như xưa đi học miễn phí đâu, tiền cơ sở vất chất, tiền sách tiền vở, tiền bút tiền mực, tiền ủng hộ quỹ này quỹ nọ, phong trào này kia, nói là ủng hộ nhưng thiệt ra bắt đóng hết chớ bộ, biết bao nhiêu là quỹ một năm”.
Má thằng Cọt tới đây hết cãi lại. Thằng Cọt còn bị ghép thêm một tội nặng khó phai dấu tích, vậy là nó phải nghỉ. Mùa nắng, đói khát, bao nhiêu sự thèm thuồng, thèm một lát thịt, thèm một con cá… tràn lên cuống họng đám con nít, đám chăn bò tuổi ăn tuổi lớn, và kế sách bao ngày suy tính bàn bạc được đưa ra, cùng thả bầy bò dưới chưn núi Đất, lùa cho con bò tơ vừa đủ tuổi kéo cày thằng Cọt chăn của hợp tác xã vào gần đám cỏ còn xanh bên trong hàng kẽm gai rồi giả tảng lờ bỏ đi xa, con bò cũng đói với đồng hanh nắng cháy có thua gì xăm xăm tiến lại, một tiếng nổ phát uỳnh tung bụi tung luôn cái cẳng con bò, mảnh đất còn cấm vì chưa gỡ hết bom mìn thuộc cái đồn trấn giữ trên lưng chừng núi, bò ba cẳng chẳng thể trở thành “dân chơi cầu ba cẳng” nằm vật bị xẻ thịt chia thôi, thằng Cọt đã gồng mình chấp nhận mọi hình phạt từ ban đầu rồi…
Dì đỡ bịnh, má con nó trở về. Mang hai chục bánh mì ổ to, bánh mì Sài Gòn thơm ngon, để lâu chỉ xìu xuống, đem nướng sẽ giòn trở lại chớ không cứng như đá và một thùng mì gói về chia cho bà con lối xóm thân thuộc, có được ổ bánh mì, vài gói mì tôm mà như bắt được vàng. Má nó mua thêm chôm chôm nữa, đem trái cây nhiều người thất cười quở: “Trời đất! chuyện nghịch đời, chở củi về rừng”.

***

Họp đội thông báo, mỗi lao động chính phải đóng góp mười ngày công xã hội chủ nghĩa. Nhà nhiều lao động được giảm bớt, nhà nó phải đóng góp ba chục công. Đang mùa nắng, đội làm theo chủ trương xây dựng thủy lợi. Chị nó thay gia đình đi làm cả tháng trời.
Ngày ra quân làm thủy lợi cả hợp tác xã rầm rầm rộ rộ, loa kèn vang vang khúc nhạc, ông chủ nhiệm phát biểu hăng say: “Chúng ta phải thay đổi thiên thời, có sức người sỏi đá cũng thành cơm”… và ở dưới thì chủ yếu là thanh niên vung tay hô quyết tâm quyết tâm khí thế.
Đại hội hợp tác xã đã bầu chú Tư râu vô ban kiểm soát, đội nó giờ đội trưởng là chú Năm Ngàn. Chú Năm Ngàn xìu xìu ểnh ểnh, nữa muốn làm nửa muốn không, nghe đâu chú Năm có bà con gì với chú Tư râu hay ai đó nên được vận động làm, chú nhận một cách miễn cưỡng.
Chú Năm Ngàn dẫn đoàn người vác cuốc, xẻng, xà beng, gióng gánh đi.
Chú Tám Phèn hỏi:
“Đi làm ở đâu vậy?”.
Chú Năm trả lời:
“Ở núi Đất”.
Anh Hải đất hỏi theo sau:
“Làm thủy lợi là làm cái giống gì?”.
Chú Năm Ngàn như người mơ ngủ ậm ờ:
“Nghe nói đắp đập, đào kinh, đào mương gì đó”.
Anh Hải tặc lắc đầu:
“Ông cũng chẳng biết gì luôn hả?”.
Chú Năm Ngàn làm thinh một hồi lên tiếng:
“Có phổ biến cho tui rồi mà tui thấy nó sao sao á, lên núi đất đào đá khiêng về đắp đập”.
Anh Hải hỏi tiếp:
“Đắp ở đâu?”.
“Ở con suối gần dưới chân núi luôn đó, sẽ có người hướng dẫn chỉ chỗ, đào mương cũng vậy, có mấy ông kia kìa – Chú Năm chỉ mấy người đang vác cái máy đo đạc có ba chưn – Mấy ổng đâu trên huyện về, đo đo ngắm ngắm bữa giờ rồi”.
Đến sườn đồi có bãi đá của núi Đất, đoàn người chia nhau người nậy đá lên người khiên xuống dưới suối cách đó chừng gần cây số rồi toán người dưới suối lựa đá mà xếp chồng lên nhau.
Hai tuần sau con đập hình thành, đập nhìn hoành tráng đắp chắn ngang dòng suối cao vượt bờ, chiều dày thì tới bảy tám thước. Nghe nói có con đập vừa đắp xong, cán bộ vui lắm. Có cụ già lững thững tới coi, chắp tay sau đít, ông cụ cả tóc râu đều dài và bạc phơ đi tới lui một hồi, cười cười phán:
“Tui ở đây gần cả đời chưa thấy ai làm kiểu này, con suối ở đây là con nước hỗn bởi gần nguồn, dốc núi tụ tập đổ xuống, có mưa là ào ào cuồn cuộn, mấy cục đá này có cái gì kết dính đâu, được ba bữa hông bị cuốn mất cái gì tui cũng chịu, nói thiệt nước mà, cho tảng đá cả tấn xuống thử có trôi hông chớ mấy cục lòn hòn”.
Nhiều người nhìn ông cụ mà nghi ngại, anh Ngạo hỏi:
“Chắc hông ông?”.
Cụ già quay qua anh Ngạo:
“Sao hông chắc, tui giỡn chơi à, cá gì tui cũng cá, dám bán nhà tui cũng cá”.
Anh Ngạo gục gật:
“Con hông dám cá với ông đâu, nghe ông nói có lý, với lại bữa giờ cũng nghe mấy người nói rồi”.
Dì Tư Thể hỏi:
“Mày nghe ai nói mậy, nói ba xàm coi chừng bị gông cổ nghe con”.
Anh Ngạo lè lưỡi:
“Có nghe thì nói có nghe, dám nói bậy, tui đâu muốn xộ khám”.
Anh Hải đất thấp thởm:
“Nghe ai nói nói lẹ coi”.
Anh Ngạo tiếp:
“À, hổm tình cờ tui nghe mấy ông kỹ sư đo đạc nói đó…”.
Dì Tư cắt ngang:
“Nói sao, mày cứ cà dần cà dà như ông già”.
Anh Ngạo cười khì:
“Thì một ông nói giống ông già là nghi quá, rồi một ông cản lại kêu thôi mày ơi, bàn cãi gì nữa, ở trển quyết vậy rồi cứ làm thôi, mày hông thấy ông tổ trưởng mình hả, ổng cãi bây giờ ngồi chơi xơi nước đó, hông chừng cho giảm biên chế thấy cha luôn”.
Chú Tư râu đứng sau đâu nãy giờ mặt đanh lại:
“Thôi nghe mậy Ngạo, mày làm hông lo làm đi hóng chuyện, nói hoang đàng chi địa, còn ông già cổ hủ ơi, thời buổi giờ khác xưa rồi, người ta làm có sách có vở, có tính có toán chớ khơi khơi đâu, ông về dùm đi, ăn nói lung tung quá”.
Ông cụ lắc đầu nói ngắn gọn và bỏ đi:
“Để rồi coi”.
Anh Ngạo không chịu thua:
“Đúng đó cứ để rồi coi” – Quay qua chú Tư râu, anh Ngạo tiếp: “Tui có sao nói vậy nghe ông, nói chình ình ngay lỗ tai tui tui phải nghe thôi chớ thèm hóng à, ông đừng gắp lửa bỏ tay người”.
Anh Ngạo mới đi làm chung với bà con đợt này, anh không chỉ ngang tàng hơn anh Hải tặc mấy lần mà còn ba lém nữa, nghe đâu anh là dân chợ búa đâu đó mới chuyển về. Anh Ngạo suốt ngày cà khịa nhứt là với chú Tư. Có mặt chú Tư bà con mỗi người lôi tên anh Ngạo và vài từ tưng tửng: “Ngạo đâu? Có Ngạo. Ngạo nè. Ngạo à, Ngạo hả? Ngạo luôn. Làm một ngạo đi. Cho một Ngạo. Chơi một Ngạo…”. Chú Tư đã khổ với anh Hải nay lại thêm anh Ngạo.
Đắp đập xong tới đào mương. Đào băng từ đập đá về cánh đồng lớn, cánh đồng này thuộc hai đội ba và đội bốn. Giữa trời nắng nóng, nắng đôi khi muốn cháy da người, nhiều người sạm đen như người ở vùng xích đạo, đoàn người lầm lũi đào tung bụi mù, gặp chỗ đất mềm không nói gì gặp chỗ đất cằn sỏi, đất gò chỉ có nước than trời, than đất, tiếng cúp cuốc xuống nghe chát chúa mà chẳng xuống được bao nhiêu, băm băm như đục đá, còn gặp phải đá thì tóe lửa xoẹt xoẹt…
Một buổi chiều vừa xong giờ làm, chú Năm Ngàn gặp anh Hải tặc và anh Ngạo:
“Tối mày về làm dùm tao cái bảng kiểm điểm”.
Anh Hải và anh Ngạo ngạc nhiên:
“Kiểm điểm vụ gì cha nội?”.
Chú Năm giải thích:
“Hai thằng bây xuyên tạc bậy bạ quá”.
Anh Hải cãi lại:
“Tui xuyên tạc cái gì?”.
Chú Năm nói:
“Hổm thằng Ngạo hát hò tầm bậy tầm bạ mày cũng rần rần hát theo mà hông chịu dòm rước ngó sau để ông Tư ổng đi ngang ổng nghe”.
Anh Ngạo cười hà hà:
“Ạ, tui hát bài nhạc chế, cây cuốc cong mình chờ mong cho nó gãy cây cuốc gãy thì mình khỏi ra đồng, khỏi ra đồng thì đừng mong có lúa… chớ gì, tui hát chọc cười bà con chơi cho qua cơn mệt chớ gì mà la làng”.
Anh Hải nhếch mép:
“Cha Tư này thù vặt, chả ghim tui lâu lắm rồi, nay thêm cha Ngạo gặp chuyện chả làm tới”.
Chú Năm năn nỉ:
“Thôi lỡ rồi, làm ơn viết đại vài dòng cho nó qua chuyện, đừng làm khó tao nữa”.
Anh Ngạo gật gù:
“Ờ, viết thì viết ba mươi giây xong ngay, có khỉ gì, ông Hải sẵn chữ viết dùm tui luôn cái coi, tui hậu tạ ông sau, mà ông viết mùi mùi nghe ông”.
Anh Hải gật đầu:
“Để tao viết, mày làm như ca cải lương viết mùi mùi, một xị đế nghen mậy”.
Anh Ngạo cười ha ha:
“Cho ông một lít lên bờ xuống… mương luôn”.
Hai tuần sau mấy cây số mương về tới cánh đồng cũng là xong công xã hội chủ nghĩa.

***

Nó bị hai trận đòn nhớ đời!
Một trận lỗi nó.
Đội có thêm quy định về tiếng kẻng, thứ sáu hoặc thứ bảy hàng tuần lúc hai giờ có bốn tiếng kẻng báo hiệu bà con tới nhà ông Sáu Hoàng mua cá, cá từ dưới thị xã lên bán theo tiêu chuẩn. Lúc này bán hàng cho dân nhà nước có thêm cái cửa hàng thương nghiệp cấp ba và bán theo tem phiếu, theo sổ hộ gia đình. So với giá bên ngoài, ở chợ thì kiểu bán này rẻ hơn rất nhiều. Mất cái sổ hay tem phiếu là khổ, coi như đói, gặp gượng mặt nhăn nhó khó chịu người ta ví như mặt mất sổ gạo là vậy. Tem phiếu tính theo nhân khẩu, nhà nó mua được bốn ký cá. Và nó được giao canh giờ nghe tiếng kẻng để đi mua. Mua cũng vậy, bán mua bao cấp, nhà nước lập mấy trạm thu mua lương thực, nông sản của dân giá theo quy định cũng như bán rẻ như bèo.
Thứ sáu nó nằm dài cổ chờ, lâu lâu nghe văng vẳng tiếng két két keng leng là nhổm dậy liền nhưng nghe kỹ thì không phải, bốn tiếng kẻng rất rõ ràng. Chiều thứ bảy nó tiếp tục ngã người trên tấm phản dưới gốc mít trong cái gió liu riu. Gió liu riu buổi chiều làm mắt nó ríu xuống vậy là chìm vào giấc mộng. Oánh một giấc đã đời giựt mình thức giấc, trời ơi đã bốn giờ. “Vắt giò lên vai” mà băng đường tắt bất kể gai gốc phi tới nơi xếp hàng và dĩ nhiên là… xếp chót, cuối cùng tới lượt thì còn được… một ký mà bác bán hàng ngắt bớt vài con của người này người kia dành cho.
Tối về nó ăn nó một trận đòn. Má nó nghi cho cái tội ham chơi. Mà cho ăn đòn cũng phải, nó không trách móc gì. Lấy đâu tiếp tế vô trong rẫy cho ba nó, làm lụng cực khổ với cái nắng gay gắt lại nhai toàn với mắm muối, vài con khô đét làm sao chịu thấu. Ngoài chợ thì cá hiếm, cá mắc mỏ có mua nổi đâu. Bị oánh đau thiệt nhưng còn khó trào nước mắt hơn hổm trước, nó tận mắt thấy, má đi chợ mua được mớ cá mua luôn mớ đầu cá nói về cho heo, má nó chẳng dám ăn cá chừa để đưa vô rẫy cho ba và vài con cho anh em nó, còn mình lặng lẽ lựa trong mớ đầu cá, đầu nào còn tươi còn ngon đem kho cho mình, cá dành cho heo thử hỏi cái nào còn ngon (?!).
Một trận thì oan ức.
Tóc quá dài, cô giáo nhắc mấy lần nó giả tảng lờ, không biết cách nào kiếm tiền mà xin má thì ngại quá. Cô giáo hăm lần cuối: “Em không hớt cô gởi giấy về mời phụ huynh lên đó”. Nó vắt óc suy nghĩ rồi nảy ra một ý, đi học về ghé vô tiệm hớt tóc ông Tư bạc, tiệm không có khách, ông Tư ngả người trên ghế ngáy khò khò, nó ngồi đợi, quá giấc trưa có lẽ tới giờ đói ông Tư thức giấc, thấy nó ông hỏi:
“Hớt tóc hả nhóc con, sao hông kêu ông dậy?”.
“Dạ, con thấy ông ngủ ngon quá”.
Ông Tư tiếp:
“Nhưng chờ ông về ăn cơm cái đã”.
“Dạ, ông ăn cơm lẹ lẹ nghe ông, con chờ ông oánh cờ…”
Nghe tới oánh cờ, “món” khoái khẩu của ông, ông mê lắm nên phủi tay luôn:
“Oánh cờ hả, oánh luôn, cơm nước từ từ”.
Nó cũng muốn oánh cho nhanh để còn hớt tóc rồi về:
“Nhưng con có giao kèo”
Ông Tư lấy bàn cờ ra:
“Nói nghe coi”.
“Dạ, oánh ba ván, nếu con thắng, ông hớt tóc cho con hông lấy tiền, con thua con mới trả”.
Ông Tư gật gù:
“Được”.
Bàn cờ được sắp ra, ông Tư nhường nó đi trước, cùng dàn trận nhanh cấp kỳ rồi từ từ ông Tư chậm dần, suy đi tính lại từng nước đi. Cuối cùng ông thắng, ván đầu tiên coi như nó đi tong. Nó tự dặn mình phải chậm rãi, không được lơ là bởi phân tâm lúc chờ ông Tư. Ván thứ hai lấy lại quân bình, một đều. Ván thứ ba tiếp tục xảy ra căng thẳng, nó tập trung hết mức, nếu thua ván này thì toi mạng à. Ông Tư bóc con xe vượt sông thẳng tiến, thấy ông bị hở sườn nó với tay định bóc con xe phản công, ông Tư ngăn lại:
“Khoan khoan, hông đi con đó”.
Ông Tư đi con khác, lát sau tới nó đi trật nước cờ ông Tư cười khà khà:
“Chiếu bí nghe con”.
Nó giựt con cờ lại:
“Khoan, con đi lại nước này”.
Ông Tư trợn mắt:
“Thua rồi, đi lại cái gì”.
Nó sấn cổ cãi:
“Thì hồi nãy ông cũng đi lại đó, nếu hông con đi nước nữa là chiếu ông rồi”.
Ông Tư gãi đầu:
“Ờ… ờ… thì… thì đi lại đi”.
Chơi một chập nữa nó chiếu bí, ông Tư bực tức hết xưng con:
“Ván này hông được mày, huề đi, chơi lại ván mới”.
Nó nhìn mặt trời, trời đã quá xế nhưng nó cũng chẳng biết làm sao đành gật đầu:
“Nhưng lần này hông có đi lại đì gì hết nghe ông”.
Ông Tư rổn rảng:
“Hạ thủ bất hoàn, oánh lại ba ván, hông như ba ván hồi nãy”.
Thấy ông Tư không về ăn cơm, con ông đơm một cà mèn xách ra, gặp ông oánh cờ, chị này nói:
“Trời, ba oánh cờ quên cơm luôn, thôi ba nghỉ chút để đói à”.
Ông Tư ậm ờ:
“Ờ để đó, tao ăn giờ”.
Ba ván tiếp theo tỷ số là 2-1 nghiêng về… nó. Nó mừng rơn dợm đứng dậy bước vô ghế hớt tóc, ông Tư đập tay vô bụng:
“Khoan mày, tại tao đói quá… run tay chớ dễ thua hả, ba ván nữa mày”.
Nó tui nghỉu:
“Con cũng đói vậy, ông chơi… ăn gian”.
“Ăn gian hồi nào, mày ăn gian thì có, tao đói nói tao đói”.
Hai mái đầu, một bạc trắng, một còn xanh… non còn cãi qua lại một chập nữa, biết khó thay đồi ý ông Tư, lỡ ông hông chịu hớt tóc cho thì khổ, nó dịu dọng:
“Thôi, oánh ba ván nữa, nhưng ông ăn cơm đi để hồi ông đổ thừa”.
Ông Tư gạt ngang:
“Oánh tiếp, tao hết đói rồi, hạ thủ bất hoàn nghe mậy”.
Chú Tám Phèn ghé vô tiệm hớt tóc ông Tư:
“Chú Tư hớt cho con cái tóc”.
Ông Tư ừ, à:
“A… a, mai đi Tám”
Chú Tám hỏi lại:
“Sao giờ hông hớt, mê cờ quá hả”.
Ông Tư không ngẩn mặt lên:
“Làm gì có, tại… tại… gởi cái dao cạo… đi mài rồi, mai mới lấy, hớt hông cạo coi sao được”.
Chú Tám nửa tin nửa ngờ nhưng thấy ông Tư chăm chú vào ván cờ quá nên thôi:
“Dạ, thôi mai con ra, chà thằng nhỏ con anh Hai oánh cờ cũng dữ hen, dám oánh với ông Tư”
Nó cười cười:
“Dạ, oánh cho vui chớ con oánh dỡ ẹt”.
Hai ván tiếp theo bất phân thắng bại, lại là 1-1. Ván thứ hai oánh trong trời nhá nhem cho tới hết thấy đường, chuẩn bị ván thứ ba, nó đứng dậy:
“Dạ, thôi coi như huề, con về” – và nó chờ trận đòn.
Ông Tư lần chần, rồi đứng dậy đốt cây đèn dầu:
“Khoan, vô đây ông hớt nhanh cho rồi về”.
Ngồi lên ghế mà lòng thấp thởm, hớt xong nó lóng ngóng:
“Dạ… dạ… con hông có tiền”.
Ông Tư cười xuề:
“Ông hông lấy tiền, biết bây làm gì có tiền…- ông Tư được nước nói luôn – Ông thả cho bây đó chớ”.
Nó mừng quýnh chạy biến trong bóng tối nói với lại:
“Bữa nào rảnh con ghé oánh cờ với ông Tư”.
Nhưng nó vẫn không thoát trận đòn vì cái tội đi biền biệt.

***

Mỗi lần bị oánh đòn đau thì có đau nhưng thường hay được bù cho những thứ khác sau đó như dành cho sẵn nguyên con cá tươi ngon trong bữa cơm, nấu chén chè chén cháo… Gắp con cá cho mà má nó rưng rưng, nó cũng vậy, biết má nó đâu muốn oánh chỉ vì quá nóng giận và trong hoàn cảnh này khó có thể không bực tức. Cá chè… nó khoái lắm nhưng khoái nhứt là tối đến được má cho gát đầu trong lòng nằm trên bộ phản để má mân mê tuốt trứng bắt chí trên đầu, đã ngứa và êm ái vô cùng và lại còn được nghe tiếng ngâm nga những câu ca dao, những bài hát dân ca, có những bài mà mãi về sau này nó không thể quên:

“Ngó lên hàng kẽm Đá Dừng
Thương cha nhớ mẹ quá chừng bậu ơi
Thương cha nhớ mẹ thì về
Nhược bằng thương cảnh nhờ quê thì đừng”.

“Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”.

“Ngó lên hàng núi cao măng
Thấy ba ông đội cởi trần nấu cơm
Một ông xách chén đòi đơm
Hai ông ứ hự nồi cơm đương vần”

“Đói lòng ăn nửa trái sim
Uốn lưng bát nước đi tìm người thương
Người thương ơi hỡi người thương
Đi đâu mà để buồng hương lạnh lùng”…

Má nó như cái kho tàng chứa ca dao dân ca, tục ngữ, bài vè, câu hò câu hát, hát đối hát bội… phải nói nhiều như trứng như chí trên đầu nó. Nó chẳng mắc cỡ vì điều này, ai ai từ lớn tới nhỏ lại không vậy, nó còn ít hơn đó chớ. Nhiều đứa trứng trắng đầu, trứng no tròn bóng lưỡng đi trong nắng mà thấy ánh lên những tia phản chiếu, có đứa đang học ngứa quá, lấy tập để trước mặt, tay quào quào cào cào mái tóc là chí rớt lộp độp xuống, ấn ngón cái giết kêu lốp bốp. Lại có đứa chí mén nhỏ xíu len lỏi trong từng chân tơ kẻ tóc rất khó bắt, khó chải rơi rụng hết bị cắn ngứa quá gãi tróc da đầu thành ghẻ chóc lục cục đầy. Có đứa phải cắt tóc sát nhưng thành lỏm chỏm để trị ghẻ, cạo đâu có được. Còn có chuyện rùng rợn, có đứa em của thằng nào đó mà nó không dám nhớ tên đau nhứt cái ghẻ chóc trên đầu quá, đứa anh gở mày ghẻ thì thấy cái chấm trắng ngỡ là mủ nhưng nặn hoài không ra, cưng cứng và lâu lâu nhúch nhít, kiếm được cái nhíp khựi và gắp ra thì muốn té ngửa, là con dòi, trời ơi nó đóng xung quanh sắp lớp một dề, gắp ra gần cả chục con, nghe muốn ớn lạnh hơn cảm cúm. Chí nó sanh và lây lan lẹ làng kinh khủng trong khi xà bông nào có, có được xà bông cục 72% cứng như đá hay hộp xà bông kem màu xam xám sền sệt để giặt giũ, ai lấy gội đầu tóc cháy vàng hoe như râu bắp. Nhiều người lấy sáng kiến từ cách giã than nhuyễn hay cát để rửa chén với sơ mướp khô cho bớt dầu bớt mỡ, bỏ lên đầu mà gội nhưng có mấy công hiệu gì, tội tình thêm, rồi tìm kiếm lá này lá nọ nấu nước tắm gội mà trị. Lâu lâu dì nó gởi ra ít đồ trong đó có cục xà bông gội Camay hay Lux là mấy chị nó nhảy chân sáo cất kỹ đâu tới lượt mấy nhóc con. Ôi thôi! đâu chỉ vụ chí đã khổ không đâu, lại sanh đâu ra rận rệp, rận rệp trong ngóc ngánh nào trên giường, trên mùng mền, chiếu gối nó cũng chui rúc ẩn mình được, chờ chực đêm về có hơi người là mò ra mà chích, mà hút máu, rận rệp sanh cũng không thua kém gì con chí. Dăm ba bữa phải đem vạt giường, chiếu gối… ra sân nắng đập giũ và phơi, sanh nhanh quá cách bình thường giết bằng tay trị không nổi phải dùng tới thuốc rày mà phun mà phết, nhà cửa vương vấn cái mùi nồng nặc của thuốc, thuốc rày độc hại khỏi phải nói, vậy mới giết

LÊ ĐẮC HOÀNG HỰU

CƠN GIÓ MANG HỒN TUỔI THƠ(TT)

ledachoanghuu

Hợp tác xã oánh kẻng họp tối.
“Họp hành hoài hoài” – nhiều người ngán ngẫm. Bà con tới đông đủ chú Tư râu thông báo:
“Ngày mai bà con đi làm đông đủ và phải làm thiệt hăng say, đi làm ngày mai được chấm hai công điểm, ai không đi bị trừ năm công, đi làm cũng nên ăn mặc đẹp chút” – Buổi hợp chỉ thông báo vậy thôi.
Có người thắc mắc: “Ngày mai là ngày gì mà lạ vậy”.
Chú Tư nhắc lại:
“Bà con cứ theo vậy mà làm, mai biết, thắc mắc làm gì, ở trên hợp tác xã thông báo xuống thì nghe”.
Sáng hôm sau tập hợp điểm “quân số” xong chú Tư đưa ra dãy ruộng lúa tốt nhứt, hiếm có của đội. Lúa non xanh mơn mởn tạo sóng trong làn gió nhè nhẹ. Dì Tư Thể gục gật:
“Chắc dự báo thời tiết bữa nay trời đẹp, có chuyện gì vui đây”.
Chú Tám Phèn tằng hắng:
“Dự báo xấu thì có chị ơi, báo mưa là nắng báo nắng là mưa mà”.
Dì Tư hỏi chú Tư:
“Làm gì ở mấy miếng ruộng này ông, mới làm cỏ mà?”.
Chú Tư trả lời:
“Thì làm tiếp, cứ thắc mắc hoài, tìm cỏ diệt cho sạch, đàn ông làm cỏ bờ cho rát vô”.
Dì Tư chưa tha:
“Ông này ngộ chưa, chưa biết thì hỏi, còn hỏi nữa nè, sao hông làm mấy chỗ cỏ đầy nhóc đó, quởn quá lại đám lúa xanh um tươi tốt mà lội chơi”.
Chú Tư bỏ đi, anh Hải cười he he:
“Gặp chị tuổi cây tre rồi cưng, mắc nhặc lắm, thắc mắc hoài cho chết”.
Dì Tư cũng cười:
“Mày cũng vậy hơn gì tao, mày còn cà khịa dữ”.
Lát sau đúng là do trời đẹp, có một đoàn người ăn mặt chỉnh tề, áo trắng bỏ trong quần đầu đội nón cối, vài người ôm cặp táp, vài người cầm tập ghi chép, có người vác cái máy quay phim xuất hiện. Đoàn người được ông chủ nhiệm giới thiệu là trên có trên tỉnh, trên huyện, có đâu trên trung ương nữa, cười cười nói nói, chỉ chỏ gục gật gục gật liên hồi, chú Tư râu lăng xăng chạy đầu này đầu kia, cũng chỉ chỉ trỏ trỏ.
Anh Hải đất ngó rồi ngẫm nghĩ một hồi sau lên tiếng:
“Đoàn quay phim bà con ơi, mình được quay phim”.
Anh Hải tặc quay qua anh Hải đất:
“Quay cái đầu mày chớ quay phim, đoàn kiểm tra đó mày?.
Anh Hải đất ngờ ngợ:
“Nhưng họ vác máy quay làm gì?”.
Anh Hải tặc ký anh Hải đất cái cốc:
“Mày dốt vừa thôi, họ quay phim phát trên tivi, chắc nói mần hợp tác xã hay lắm, đồng lúa xanh rì, bà con chăm chỉ, hăng hái thi đua”.
Anh Hải ấm ức:
“Nhưng có tivi đâu mà coi”.
Chú Tám phèn bật cười:
“Mày đúng là dốt, bộ người ta quay phát cho mày coi à?”.
Anh Hải vẫn ngơ ngơ:
“Chớ cho ai coi?”.
Dì Tư Thể không chịu được dừng tay đang dặm lúa:
“Mấy ổng phát mấy ổng coi, mấy ổng sướng, hổng lẽ tao nói mày là con…”.
Anh hải thật thà:
“Ờ hen, đầu tui y như bò, ờ mà chắc có phát ô bặc lưa”.
Anh hải tặc bực mình:
“Ô bặc lưa, bặc lưa, từa lưa thì có, mày khoái lắm hả, mấy cha nói xạo xự mà tưởng hay à, báo cáo thành tích là hay chớ có thiệt đâu, có vậy mới dẫn ra đây chớ đầy ruộng cỏ úa ai đếm xỉa tới đâu”.
Anh hải tặc gãi đầu gãi tai:
“Tại tui thấy vui vui”.
Dì Tư Thể cũng bực mình:
“Vui cái nổi gì, đói tới nơi”.
Ngoài đường lộ đã dựng trụ kéo dây, vài trăm thước trên cột gắn cái ô bặc lưa truyền thanh đài phát thanh của tỉnh. Ngày ba bữa sáng trưa chiều phát chừng đâu nửa tiếng, nói tin tức, thời sự xen kẽ ca nhạc… vui nhà vui cửa vui đường xá. Một bữa đang đi học về chợt nghe loáng tháng rồi dừng lại nghe kỹ, nó kéo thằng Hào:
“Ê mậy, nghe gì hông?”.
Thằng Hào vừa đi vừa giỡn với mấy thằng nữa nên nó trả lời:
“Nghe gì đâu mậy, nghe nhạc teng tèng teng”.
“Lắng nghe đi tụi bây, nãy tao nghe nói tới đội mình”.
Thằng Cu anh hỏi lại:
“Vậy hả mậy, mà nói cái gì?”.
“Tao chưa biết mới nghe tới trường mình, tên đội xã rồi nghe nhạc”.
Tiếng nhạc dứt, tụi nó hóng nghe, loa phát ra gương người tốt việc tốt, nói bạn ấy tuy rất vất vả, một buổi đi học một buổi phải chăn bò và phụ giúp thêm việc gia đình lại còn trông em nhỏ, nhưng bạn luôn cố gắng hết sức, chăm chỉ siêng năng nên việc học lúc nào cũng đạt thành tích tốt, không những vậy, bạn còn luôn luôn giúp đỡ bạn học tốt như mình, bạn là tấm gương cho tất cả các em nhỏ… Thằng Hào phá lên cười:
“A, thằng Ân xóm mình”.
Thằng Cọt chưng hửng:
“Ủa, nhà thằng này có bò đâu tụi bây?”.
Thằng Cu anh gãi đầu:
“Làm gì có bò, thằng này học thì được nhưng giúp gì cho ai, nhà khá lắm chớ bộ, còn nhà ở thị xã”.
Nó lắc đầu:
“Thua luôn, hông biết ai nói vậy, hay hay chú Tư râu ta?”.
Thằng Hào cãi:
“Thôi mày ơi, cái này dính gì ông Tư, cái gì cũng đổ ổng, chắc ở trường mình mày ơi”.
Mấy thằng gật đầu, thằng Cọt tiếp:
“Thằng này mới oánh lộn với thằng Học con dì ba Ninh”.
Thằng Hào hỏi:
“Oánh lộn vụ gì?”.
Thằng Cọt đáp:
“À, bữa hai thằng chọc ghẹo nhau, thằng Ân này hát chọc thằng Học, ông Nang ý a ông Ninh, ông ra đầu làng ông gặp ông Ninh, thằng Học chế lại bởi ba thằng Ân tên ông Đình, hát ông Nang ý a ông Đình, ông ra đầu đình ông gặp ông Đình, bị thằng này chế có hơn chữ Đình thằng Ân tức quá gây sự nói thằng này hát bậy, hai thằng cự cãi rồi oánh nhau luôn, hổm tao hông can hông biết oanh tới chừng nào”
Thằng Hào cười khặc khặc:
“Thằng Học hay ta, thằng kia bị gậy ông đập lưng ông hen”.
Thằng Cu anh lè lưỡi:
“Vậy mà sao nó được nói trong ô bặc lưa ta, độc quá?”.
Mấy thằng tụi nó đâu giải thích được chỉ biết lắc đầu. Nó nói:
“Giống mấy người lớn nói đó, báo cáo thành tích thành tung gì mày ơi, mà chẳng có thiệt, vụ này đáng lẽ phải đưa thằng ông kẹ Hào, Cọt đúng là chăn bò có anh đi bộ đội, ở nhà coi em, mỗi khi em khóc thì… oánh em”.
Nghe nó nói oánh em thằng Cọt nói thêm:
“Nói thằng Hào cà xấc, cà xược, ba gai, ghẹo Ba Lễ tối ngày luôn hen”.
Cả đám gục gật cùng cười ha hả.

***

Mỗi tuần ít nhứt hai bữa thanh niên nam nữ trong đội tập hợp quây quần sinh hoạt văn nghệ, tập hát tập hò, lúc ở nhà ông Sáu Hoàng, lúc đi nhà khác, chủ yếu những nhà có sân và nhà cửa rộng rãi, còn có cái ăn, có cái chiêu đãi chút chút. Nhà nó là một địa điểm. Đội sinh hoạt này đã tới nhà nó mấy lần rồi, vui thì có vui nhưng tiêu tốn không ít cho đoàn mấy chục người, khi thì nồi chè to tổ chảng, khi nồi xôi nếp chấm muối mè muối đậu… Buổi chiều ở ngoài đồng đội thông báo lại đến nhà, nó chạy nhanh về nhà báo trước cho má, má nó nhăn mặt:
“Cái gì cũng cạn gần hết biết sao giờ đây ta”.
Nó nói:
“Hầm đại nồi khoai lang đi má”.
Má nó ngần ngừ:
“Hầm khoai lang… hông được đâu con, khoai lang củ luộc chấm muối đậu còn may ra, khoai lang hầm giờ ai cũng ngán tới cổ rồi, mà khoai lang củ mới có hai tháng…” – Má nó chặc lưỡi một hồi rồi tiếp: “Hay con ra vén dây, moi có củ lớn bứt vô đi”.
Nó dạ rồi xách rổ chạy đi, kèm thêm cái rổ nhỏ:
“Con tìm thêm mớ ổi chắc đã chua”.
Má nó ừ:
“Leo trèo cẩn thận”.
Năm nay nhà nó chỉ trồng nửa sào khoai lang. Moi vồng ra khoai dãi rất nhiều nhưng lớn thành củ mới được rất ít, to nhứt bằng ngón chân cái, họa hoằng lắm mới có củ bằng cùm tay, cỡ ngón tay cái nó cũng bứt luôn, moi mấy vồng nhứt rát mấy đầu ngón tay mới đủ, phải moi nhẹ nhàng bằng tay chớ đâu đám lấy cuốc lấy dao, lỡ đứt dãi thì toi, moi xong đấp đất trở lại cho dãi lớn tiếp. Vô vườn cây ổi, mấy con chim se sẽ đang chuyền cành ríu rít, chim thật dạn dĩ như chẳng màng đến sự có mặt của nó, có lẽ những con chim cũng biết nó đâu có hại gì mình. Lục lọi trong lá um tùm một hồi hái được đầy rổ, ổi vừa già tới chứ chưa chín.
Tối xuống, trời quang mát, đêm có trăng sáng, anh Hải tặc vác cây đờn ghi ta tới đầu tiên, anh vừa đi vừa nghêu ngao, tới nhà anh chào má nó:
“Dạ, con chào Bác Hai”.
Má nó nhoẻn miệng cười:
“Tài tử tới rồi hả, cơm nước gì chưa?”.
“Dạ chưa, nhà con hông có cơm”.
Má nó tình thiệt:
“Vậy xuống bếp kiếm ba hột bỏ bụng”.
Anh Hải cười hề hề:
“Dạ, con nói chơi chớ con ăn rồi”.
Anh Hải ngồi xống dạo một khúc nhạc, nghêu ngao một mình, anh chơi đàn ghi ta là số một hát cũng được, tánh nghệ sĩ lắm và cũng ngang bướng trời thần, mái tóc dài của anh bị chú Tư Râu gặp đâu là nhắc tới nhở lui anh vẫn tảng lờ như không, đôi khi còn cà khịa: “Ông cho tiền hớt đi”.
Dạo chừng vài ba bản nhạc là mọi người lục tục kéo tới, chập sau là đông đủ. Bắt đầu hát những bài ca tập thể, “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng”, “Kết Đoàn”, “Con Kênh Xanh Xanh”… Hát tập thể xong là tới màn hát đơn, người hát xong chỉ người kế tiếp hát, tới đây nhiều người không biết hát úp mặt trốn muốn chết, có khi bị bắt phạt, ra giữa làm trò nào đó, thụt dầu chẳng hạn.
Nó bưng rổ khoai lang luộc nóng hổi với rổ ổi lên mà thầm nghĩ chắc kỳ này khoai lang ế rồi. Ấy vậy nhưng không, ngồi đông vui thêm vài câu chuyện tiếu lâm từ chàng tài tử Hải tặc rất có duyên, rổ khoai và cả rổ ổi “bốc hơi” lẹ làng trong chốc lát, rồi tiếp tục hát hò.
Về khuya, người lục tục ra về, một số người còn ở lại, anh Hải móc trong túi quần sau ra quyển tập, bên trong những dòng chữ viết tay nắn nón, những tựa đề ca khúc được vẽ bay bướm, những hình vẽ uyển chuyển theo chủ đề ca khúc, nhìn rất đẹp mắt, vậy là chuyền tay nhau tiếp tục ca hát, nhưng hát thật nhẹ nhàng, êm dịu, hát liu riu cho nhau nghe. Đó là những ca khúc tiền chiến, những giai điệu bolero, rumba… những bản nhạc dù là tình ca nhưng sáng tác trước 1975, ở miền Nam thuộc chế độ cũ sẽ bị quy hết là nhạc vàng, văn hóa đồi trụy, bị cấm tiệt.

***

Không còn chăn bò, nó chủ yếu vô rẫy phụ giữ với ba và chú Ba Mạnh, Người lớn thay phiên nhau ở lại đêm mà canh. Bắp đã kết trái đâu có chơi được, đêm liên tục thức giấc để oánh bọ cạp phòng ngừa heo rừng, gặp đàn có con heo độc chiếc dẫn đầu hung hăng húc tung cả hàng rào chớ không có giỡn. Ban ngày thì phòng chim chóc nhứt là những đàng két và khỉ khọt.
Hôm đi ngang nhà hai con nhỏ chằng lửa, hai đứa bẽn lẽn rồi nhỏ chị cũng hỏi:
“Đi vô giữ rẫy hả”.
Nó gật đầu:
“Ừ, đi phụ coi rẫy”.
Nó trả lời mà thầm nghĩ bụng, “Trời! hai con nhỏ này sao bữa nay dễ thương ghê”, nhỏ em tiếp:
“Ở trỏng bọng chim sáo nhiều lắm, anh tìm bắt cho về nuôi với”.
Nó thấy nhột nhột, ý chà con nhỏ này mấy bữa còn thủ võ đòi uýnh lộn giờ còn kêu anh nữa, chần chừ một hồi nó đáp:
“Ừ, để lúc rảnh đi tìm cho”.
Chim sáo dễ thương, chim nuôi từ nhỏ mới lọt lòng còn đỏ hỏn sau lớn lên rất khôn. Chim sáo ngoài nhảy lưng tưng vui vui còn biết nói nếu nuôi dạy giỏi, ít bỏ bay đi như những con chim khác khi xổ lồng và được cho tự do ra ngoài, luôn quanh quẩn bên người chủ nuôi. Sáo làm tổ trong bọng cây. Như lời hứa nó tìm bắt được ổ có hai con cho hai chị em chằng lửa và còn trộm mấy trái bắp trong rẫy vừa chín tới đưa hai chị em sau khi căn dặn phải giữ kín miệng. Có được hai con sáo và mấy trái bắp hai chị em mắt sáng rực lên liền, nó trở thành người anh quý của hai đứa.
Việc trộm bắp nó đắn đo suy nghĩ rất lâu, cái việc mà nó chưa bao giờ làm. Có lúc nó thấy quá xấu hổ cho việc này, rồi có lúc nó thấy chẳng có gì lớn lao bởi liên tưởng tới những việc người lớn, người lớn rồi mà có nhiều việc làm đâu có đúng, nó ngần ngừ từ sáng tới chiều lẫn lộn trong hai ý nghĩ này cuối cùng quyết định trộm thêm chục bắp đem về nhà. Nó vòng ra cuối rẫy bẻ bắp trái rồi nhổ luôn cây, kiếm chỗ vắng vẻ khó có ai tới, đào lỗ chôn cây bắp xuống luôn, chờ trời gần tối mới về, về tới làng là tối thui mặt mũi, không ai thấy gì. Đem về má nó biết ngay, gặp cái trợn mắt:
“Chết nghe con, người ta bắt được là chết cả nhà nghe con, đừng làm nữa nghe chưa, mà cũng không được làm vậy, đói cho sạch, rách cho thơm”.
Nghe má nó nói mới chợt biết sợ, nếu lỡ có ai bắt được thì đâu phải mình nó mà cả nhà mang tiếng xấu, xin lỗi rít rít mới được tha trận đòn.
Bắp chín, trái nào trái nấy to tròn, chắc hột nhờ đất tốt. Hợp tác xã quyết định thu hoạch bắp tươi. Lao động cả đội cùng đi hái bắp với hai chiếc xe bò. Chặt bắp tới trưa, chú Tư râu kêu mọi người được ăn bữa bắp thoải mái, ai nấy hớn hở cất cơm dỡ theo để dành buổi chiều, nhanh chân đi kiếm củi nhóm lửa, không đợi có lửa than, thảy bắp còn nguyên vỏ vào nướng, cháy hết vỏ thành như bắp luộc mà ngấu nghiến, phần lâu ngày mới ăn lại bắp, phần thiếu thốn toàn ăn khoai lang hầm, được bữa nên gặm ào ào, mấy chỗ chưa chín tới còn sực sực cũng gặm và nhai sạch sẽ. Ai nấy ăn cho bỏ, ăn bụng đầy uống nước không nổi. Đêm về bụng bắt đầu trương sình lên, đầy hơi cho tới vài ngày sau, chút chút lại thải ra cái xì, cái xịt, cái bộp. Nhưng có lẽ chuyện để đời về sau là cái tên của chị Tư tĩn, nghe tên của chị nếu chưa biết ai đều nghĩ rằng chắc ngày trước chị ở dốc lò tĩn, cái dốc cua chuẩn bị vào thị xã, có chất rất nhiều tĩn để bán cho bà con, ở đây lò làm tĩn rất nhiều, cái tĩn là cái hủ nhỏ bằng đất nung để muối mắm.
Đó là bữa hôm sau, đội vẫn đi thu hoạch bắp. Anh Hải tặc đang chất bắp lên xe bò kêu chị Tư rồi sực nhớ chuyện lúc đêm qua vui miệng đặt thêm tên cho chị luôn:
“Tư ơi, Tư ơi, Tư ôm mớ bắp cây lại cho mấy con bò ăn dùm đi Tư… t..ĩ…n”
Dì Tư Thệ thấy lạ hỏi:
“Tư tĩn, ủa hồi nào tới giờ mới nghe đó mậy, Tư làm lò tĩn hả?”.
Anh Hải cười khặc khặc đáp lại”
“Tên tui mới đặt làm sao ai biết, nó làm gì ở lò tĩn”.
“Chớ sao, chớ sao?” – Vài người cũng tranh nhau hỏi bởi cái tên ngồ ngộ.
Anh Hải tiếp:
“He he, bà con nghe nè, tui nói thiệt hôm qua cái bụng tui nó sình lên một đống bây giờ còn, nó muốn xả thì tui xả cái ào cho nó ra liền, còn con nhỏ bày đặt mắc cỡ …”
Anh Hòa ngắt lời:
“Nói lẹ đi cha nội, vòng vo hoài làm sốt ruột”.
Anh Hải vẫn chậm rãi:
“Thủng tẳng chớ là gì dữ vậy, nói tiếp nghe, hôm qua nó đi học lớp bình dân học vụ, nó cũng đâu thua gì tui, bụng cũng chướng cũng trương nhưng con nhỏ mắc cỡ tới lúc xì thì lại ém hơi, ém sao được mà ém, hơi nó đâu có chịu nổi vậy là nó phọt ra, bị ép chặc dưới ghế nên thành cái… t…ĩ…n chớ sao”.
Nghe tới đây ai nấy cười rần rật, anh Hải còn chưa tha:
“Nó tĩn một cái mà cái đèn dầu hột vịt người ngồi sau tắt ngúm luôn”.
Thêm một trận cười muốn bể bụng nửa cho bà con. Chị Tư đỏ mặt tía tai:
“Đồ quỷ sứ, ông vừa vừa nghe ông Hải, ông cứ nghe nói lại, ông nhiều chữ có đi học đâu mà biết”.
Anh Hải lúc này mới an ủi:
“Nói vậy thôi chớ có ai mà hông tĩn” – Anh hô lớn: “Đội sáu…t…ĩ…n”.
Lớp bình dân học vụ là lớp học ban đêm dành cho những người mù chữ, gọi là xóa mù. Học được dăm ba bữa phần tốn dầu tốn lửa phần cả ngày đi làm mệt dần dà tan rã, báo cáo của đội một trăm phần trăm đã xóa mù chỉ nhìn mặt chữ thì… đui.
Bắp thu hoạch về đổ một đống lớn sân nhà ông Sáu Hoàng, mỗi hộ được chia hai trăm bắp trái, hết khoảng một phần tư, số còn lại chở về hợp tác xã, chở về làm gì rồi đi đâu tiếp không ai biết và chẳng ai giải thích. Bà con giờ đã chán ngán hỏi, mạnh ai nấy cứ lấy bắp mang về, mọi sự thể ra sao gần như không còn màng tới.

LÊ ĐẮC HOÀNG HỰU