
Mùa mưa hai năm sau.
Hợp tác xã không còn làm tập thể, không còn tiếng kẻng sáng chiều báo đi làm kêu beng beng nữa. Mùa trước đã giao đất về cho bà con. Đất cộng hết lại chia đều theo công lao động, có bốc thăm gặp đất tốt đất xấu coi như may nhờ rủi chịu. Làm rồi tính thuế, lúa đóng lúa, đất hoa màu đăng kỳ làm gì thì đóng nấy, bắp đóng bắp, mè đóng mè, đậu đóng đậu… Đóng thuế tính ký, một sào bao nhiêu ký đó cũng tùy theo đất tốt xấu, làm dư thì hưởng. Phân, giống lúa cũng nhận từ hợp tác xã, chỉ giống hoa màu thì tự lo. Những miếng đất bị cỏ ống tràn lan dày đặt thành đất hoang, ai nhận đất này là khai hoang, năm đầu không tính thuế.
Việc giao đất nảy sinh rắc rối lúc đi đóng thuế. Lúc đem lúa ra cân bà con mới thấy lạ, chú Tám Thạnh giãy nãy:
“Mấy ông coi lại chớ sao kỳ cục quá”.
Ông Sáu Hoàng chậm rãi ghi sổ sách hỏi:
“Kỳ chỗ nào chú, tui cân đong rõ ràng có sổ có sách mà?”.
Chú Tám giải thích:
“Tui hông nói chuyện đó anh Sáu ơi, chỉ thắc mắc chuyện này, miếng ruộng tui kề bên miếng thằng Hải, hai miếng coi như cùng loại đất, miếng tui nhỏ hơn miếng nó sao lại đóng thuế nhiều hơn?”.
Ai ai cũng ồ lên thấy đúng như vậy. Ông Sáu Hoàng mở sổ tra kỹ:
“Thì nè, miếng ruộng chú ghi một sào mốt nè, còn của thằng Hải là chín trăm chưa tới một sào, tui tính y như vậy”.
Dì Tư Thể xen vô:
“Rồi, bị lúc đo rồi mấy ông ơi, tui thấy lạ hổm giờ mà chưa nói, có miếng nhỏ lại nhiều mét, miếng lớn thì lại ít”.
Anh Hải tặc gục gật:
“Chị Tư nói đúng chóc, mấy ông ngày trước đo trật lất, mấy ổng sợ mỏi giò có đi đâu, bước bước đại, nhắm nhắm đại mà”.
Có một anh trong tổ đo đạc ngày trước chống chế:
“Lúc đó ai nghĩ sẽ chia đâu, cứ nghĩ vô hợp tác xã cùng mần chung suốt đời thì cứ nhắm chớ sao”.
Anh Hải bực mình:
“Mấy ông làm ẩu làm tả giờ chết bà con thấy chưa?”.
Chú Tám Thạnh hỏi lại:
“Giờ tính sao?”.
Ông Sáu Hoàng với chú Năm Ngàn kêu dừng lại, chờ báo hợp tác xã. Chuyện này chẳng đặng đừng, hợp tác xã không nói sai nói sót gì, chẳng xin lỗi bà con, chuyện xưa giờ rồi làm sai có ai đứng ra nói sai xin lỗi tiếng nào bao giờ, hợp tác xã âm thầm lập lại tổ đo, đi đo lại, kỳ này bà con tò tò đi theo chớ đâu dám để tổ này một mình.
Chuyện đóng thuế cũng bắt đầu nảy sinh năm bảy đường gian lận. Bắp hộp dốt dốt là lẩy, lúa phơi một nắng cho ráo mặt là gánh đi cân cho nó nặng hơn. Rồi lúa phơi ngoài đường lộ có sạn nhỏ nhỏ, bà con gom hết đóng chẳng nghe ai thắc mắc gì, sau thêm sáng kiến kinh khủng là độn thêm vài ký sạn vô trong lúa. Có một thời người ta kêu là gạo lúa hứ, gạo này toàn sạn, trước khi nấu phải lấy rổ rá mà đãi, nhiều người chưa biết cứ để vậy nấu, cắn nhằm sạn phải hứ lên một tiếng… Lúc cân thì xúm quanh cái cân đông đông, thấy người cân ghi sổ lơ là là đạp là nhấn lên bàn cân… Vậy chớ nhiều nhà cứ nợ thuế hoài hoài, năm này chồng lên năm khác.
***
Nó đã tốt nghiệp lớp chín.
Lớp nó gồm hai xã. Xã nó có mười chín đứa, gần một nửa lớp tốt nghiệp, năm đứa rớt, một đứa bị phát hiện gian lận, nó ghi ký hiệu gì đó dù có rọc phách thầy cô chấm bài là “người nhà” cũng biết, nghe nói ba thằng này mời thầy cô về nhà đãi tiệc linh đình rồi nhờ vả, chuyện sau này lan ra nó bỏ hẳn vô bưng không thấy mặt mũi, một phần khi đi học thằng này tham gia phong trào dữ lắm, nhắm chức liên đội trưởng hoài, nhưng chỉ được làm phó. Bị quê dữ là chuyện này, mấy đứa nhỏ ê a: “Anh liên đội phó, bố xin điểm số, gặp ngay sự cố, zê rô tổ bố, rớt bịch xuống hố”. Ông thầy chấm thi cũng bị kỷ luật thuyên chuyển đi vùng núi.
Ngày có kết quả tốt nghiệp nhiều nhà mừng rơn, tiệc tùng đãi cả xóm. Với nó thì bình thường, vui một chút, một nồi chè má nó nấu cùng bạn bè là đủ.
Thi lên lớp mười còn mười bốn đứa, thêm năm đứa “rơi rụng”.
Rồi một ngày tự dưng nó thấy buồn vô kể, buồn không thể tả nổi, chưa bao giờ buồn như vậy. Buồn nhưng lại không muốn nói cùng ai, một mình lao ra khỏi nhà, băng băng chạy ra đồng cỏ vật mình nằm nhìn mây trời, nó lẩm bẩm một mình: “Sao lại buồn thê thảm quá, hỡi cơn gió tuổi thơ ơi!”. Chợt một luồn gió mát, nhẹ nhàng bay tới, nó à lên:
“Thì ra là mày hả cơn gió tuổi thơ?”.
Cơn gió tuổi thơ gật đầu:
“Ừ, mình đây, lâu quá hông nghe bạn gọi, tưởng quên mình rồi chớ”.
Nó ngồi dậy cố mỉm cười:
“Mình phải lo nhiều thứ, lo làm lo phụ giúp gia đình, mình đâu còn nghĩ được chuyện riêng tư”.
Cơn gió ngạc nhiên:
“Bạn phải lo, bạn hông còn hồn nhiên tuổi thơ của mình?”.
Nó gật đầu:
“Phải, giống như ba mình nói đó, mình như mất phần tuổi thơ sau này vậy”.
Cơn gió trợn tròn mắt:
“Thôi chết rồi, vậy là căng à nha, mình nghe nói lại, mất tuổi thơ sau này dễ đánh mất linh hồn lắm đó”.
Nghe cơn gió nói nó liên tưởng tới người lớn, nhiều chuyện xấu nhiều chuyện không đúng xảy ra, phải chăng một số người hiện tại ngày trước không có tuổi thơ?, bị cướp mất tuổi thơ? mới nên nông nổi này?, nó nghĩ về ngày sau của mình và rùng mình, cuối cùng lắc đầu:
“Bây giờ mình đâu có nghĩ gì về sau, trước mắt còn như bóng tối chẳng có câu trả lời đây”
Cơn gió thấy nó rùng mình và lắc đầu nên ngờ ngợ:
“Bạn nói nghe lạ quá” – Cơn gió nhìn nó kỹ hơn, rồi tiếp: “Ý chà bạn đã nhổ giò lên cao chút rồi, giọng khác đi rồi hén, bắt đầu ồ ồ hen, a ha tới lúc bạn sẽ có cơn gió khác, mình phải chào bạn đây”
Nó hỏi:
“Bỏ mình đi thiệt sao?”.
Cơn gió cười:
“Đã tới lúc mình hông còn được phép bên bạn nữa rồi, chớ hông phải mình bỏ bạn ”.
Nó níu kéo:
“Mình hông muốn lớn lên, mình chỉ muốn làm tuổi thơ”.
Cơn gió lắc đầu:
“Không thể làm trái quy luật được”.
“Vậy cơn gió tiếp theo của mình là gì?”.
“À, đó là cơn gió mang hồn lững thững”.
Cơn gió mang hồn tuổi thơ ôm nó lần cuối rồi bay đi.
Nó buồn thêm. Không buồn đứng dậy, nó ngã người tiếp nằm ghĩ ngợi, nghĩ rất mông lung, nghĩ đủ thứ trên đời, tự hỏi đủ thứ trên đời. Đôi khi nó cảm thấy mình có những suy nghĩ rất lạ, không còn giống con nít, mà người lớn cũng không ra người lớn.
Một cơn gió bay lại bên nó nhưng cơn gió này mạnh mẽ hơn cơn gió nhẹ tưổi thơ của nó. Cơn gió chào nó:
“Mình là cơn gió mang hồn lững thững của bạn, bạn đang rất buồn?”.
Nó lim dim:
“Buồn lắm, trước giờ chưa bao giờ buồn như vậy”.
Cơn gió nói:
“Vậy là do bạn đã cảm nhận được rồi đó”.
Nó hỏi lại:
“Như vậy là lững thững?”.
“Ồ không, con người ai cũng phải lớn lên, phải qua giai đoạn tuổi thơ rồi đến trưởng thành, nhưng không phải cái gì cũng ào ào, lững thững như chiếc cầu nối, bạn vẫn còn một nửa bước chân bên này trước khi bạn bước qua hết”.
Nó hiểu ra:
“À, mình vẫn còn là nó”.
Cơn gió gật đầu:
“Kể những nỗi buồn cho mình nhé!”.
Nó cũng gật đầu:
“Ừm để mình kể, nhiều, nhiều câu chuyện buồn, buồn lắm!”.
***
Ngày mùng sáu Tết, cứ khoảng độ ba tiếng đồng hồ là có đoàn người đi ngoài đường lộ ngang trước nhà nó. Đi mà bước chân cứ như chạy lúp xúp, đi từ sáng sớm cho tới chiều tối, giữa trưa nắng cũng đi. Qua ngày hôm sau nữa cũng còn y chang. Thấy lạ mấy thằng con nít còn chơi Tết chạy ra coi thử. Thằng Học lanh lẹ chạy theo kè kè biết được chuyện này, chạy về nói với cả đám đang túm tụm:
“Tao biết chuyện gì rồi”.
Thằng Hào hất hàm:
“Chuyện gì vậy mậy, thấy kỳ kỳ”.
Thằng Học chậm rãi, nói nho nhỏ:
“Họ đang làm đám ma… bài”.
Nó ngạc nhiên hỏi:
“Ngộ dữ mậy, là sao?”.
Thằng Chí học lớp nó ngạc nhiên không kém:
“Lần đầu tao mới nghe”.
Thằng Học cười cười:
“Là vầy nè, tụi bây thấy bốn ông chạy lúp xúp đó hông, bốn ông đó bị bắt oánh bài, bị hình phạt làm đám ma bài”.
Nó hiểu hiểu:
“Là bốn ông đó… khiêng bài đi chôn”.
Thằng Học gật gù:
“Đúng đó mày, mỗi lần mấy ổng khiêng một lá, bốn ông bốn góc, đem từ xã tới núi Đất rồi đào hố mà chôn, chắc cũng năm sáu cây số, hai ông chạy xe kè kè theo có súng là hai ông công an xã đó, hai ổng nói đi chôn cho đủ năm mươi hai lá bài”.
Thằng Hào cười ha ha:
“Ù, hình phạt độc quá tụi bậy, mấy ông này chắc đi rã giò”.
Thằng Cọt chen vô:
“Hơn chục ngày giữa nắng cháy chớ hông ít”.
Thằng Chí gật đầu:
“Về tởn tới già chớ làm sao dám oánh nữa”.
Tháng sau ông bí thư xã bị bãi nhiệm không nói lý do. Ông này về làm thường dân, lẩn quẩn trong nhà chớ ít khi ra đường. Anh Ba Lễ được ra làm công an, ông trưởng công an lên làm chủ tịch, ông chủ tịch thế chỗ ông bí thư. Anh Ngạo hỏi anh Ba Lễ:
“Sao ông bí thư bị về vườn vậy Ba Lễ?”.
Anh Ba Lễ cười ruồi:
“Bị bắt oánh bài ăn tiền”.
“Vậy sao hông bị làm đám ma…?”.
Anh Ba Lễ gạt ngang:
“Thôi ông, dù gì cũng đã từng làm cán bộ, đưa ra mất mặt chớ với lại cũng có công chiếc đấu trong rừng”.
Thằng Hào leo vô:
“Tui nghe nói ổng bị chơi, ông chủ tịch muốn lên huyện nên gài bẫy”.
Anh ba Lễ trừng mắt:
“Con nít con nôi biết gì nói bậy mậy”.
Thằng Hào còn ba gai hơn ngày nào:
“Thằng này hông còn con nít đâu nhe, có sao tui nói vậy”.
Anh Ngạo gục gặc:
“Nghe cũng có lý, mà chắc gài cũng có mà cha nội đó mê bài cũng có, ai mà hông biết”.
Anh Ba Lễ lắc đầu:
“Tui mới ra xã đâu biết gì, thôi hông bàn nữa”.
Thằng Hào bỏ đi nói với lại:
“Ông đừng có oánh bài nghe ông đặng mau mau lên làm chủ tịch”.
Anh Ba Lễ hậm hực lắm rồi cũng bỏ đi lên xã.
***
Anh Ba Lễ hậm hực vì thằng Hào cứ trêu tức hoài mà hông làm gì được. Anh Hùng của thằng Hào đã trở về từ chiến trường trên đôi nạn gỗ. Anh trở về mang theo niềm vui mừng cùng một nỗi buồn cho anh và cho cả bà con xóm làng. Mừng là còn giữ được tánh mạng. Buồn cho thân phận tàn tật. Nỗi buồn nhiều hơn vì với tâm trạng trầm uất, chán nản, vừa về là anh “bầu bạn” ngay với rượu, gây ra nhiều chuyện tai tiếng. Bà con dĩ nhiên thiệt sự thông cảm nhưng phải chịu nhiều khổ ải.
Đám con nít xúm lại kêu anh Hùng kể chuyện chiến đấu. Đi coi phim tụi nó thấy quân ta bắn quân thù gục gã, anh dũng xông pha giữa sa trường đứa nào không khoái, tụi nó nghĩ anh cũng vậy nên mới bị thương.
Anh ngồi nhìn xa xăm, sau đó nhếch mép:
“Tụi bây tưởng hay lắm sao, chiến tranh chết chóc, tàn khốc chớ vui vẻ gì. Nói thiệt với tụi bây lần đầu tiên đi hành quân, gặp phục kích tao té đái ra quần, đứng như trời trồng gương súng lên trời mà bóp cò, đó nhiều cái chết lãng xẹt như vậy đó, đứng như trời trồng tránh đâu khỏi. Bữa đó tao may mắn có những đàn anh đi trước có kinh nghiệm kịp kéo dúi đầu tao xuống chớ hông bây giờ làm ma rừng xơ rơ trời lạ rồi. Lại có những cái chết tức tưởi, vừa hành quân trận đầu, chưa xáp trận gì cả đã dậm phải mìn nổ tan xác hay chỉ vì mải mê rượt theo một con thú, tìm miếng mồi cho đồng đội thiếu thốn trăm bề và bị bắt…”.
Cả đám tiu nghỉ, im lặng chẳng biết hỏi gì, tụi nó đâu ngờ là vậy, và thêm cái giọng chầm chậm, nghèn nghẹn kể từ anh nữa. Anh Hùng tiếp:
“Bây biết hông, phải ba bốn lần xáp trận như vậy mới lấy lại bình tĩnh. Và cho tới lúc bắn trả, bắn chính xác hay quyết chiến là khi nào bây biết hông…- Anh dừng lại nhìn đám tụi nó tiếp tục lắc đầu, làm sao tụi nó biết được, giọng anh càng trầm xuống: đó là lúc đồng đội của mình, người bạn từng chia sẽ điếu thuốc, chia sẽ từng miếng cơm, cùng nằm một giường với mình gục xuống… Sao nữa …? À… là bắn, bắn và bắn, bắn cho sạch, bắn cho kẻ địch rút chạy mà thôi. Rồi tiếp nữa là gì? Là vui mừng đã trả thù được à? Là đã chiến thắng, là đẩy lui được địch à? Có, có vui mừng lắm chớ nhưng cũng xen lẫn tê tái, bàng hoàng, xác người nằm la liệt, máu đỏ loang đổ nhuộm bãi cỏ xanh… Câu hỏi sẽ lẩn quẩn trong đầu, tại sao lại như vậy? Tại sao phải giết chóc lẫn nhau, cả hai phía âu cũng là con người, con người sanh ra là để sống mà, hầu hết có ai muốn như vậy bao giờ, tại sao lại có kẻ tàn bạo đẩy tới bước đường cùng này… Chiến tranh trong mắt tao là vậy, bây thấy có vui sướng hông?”.
Từ chỗ tụi nó tưởng chừng rất vui đã biến thành một bầu trời ảm đạm. Mây xanh mà thành xám ngoét, gió lặng đìu hiu mang máng tiếng chim vịt kêu chiều. Khá lâu sau anh Hùng lấy cây nạn gỗ gõ mạnh xuống đất:
“Thôi bỏ đi, kể nhiều mấy thằng bỏ xác bên đó nó buồn. Theo tao, bây giờ bây coi tao làm anh hùng nè”.
Anh chống nạn đứng dậy khập khiểng bước đi, thằng Hào hỏi:
“Đi đâu anh?”.
Anh đáp gọn:
“Theo tao rồi biết”.
Đi một hồi đám tụi nó thấy gần tới ủy ban xã, thằng Cọt hỏi tiếp:
“Tới xã hả anh Hùng”.
Anh Hùng gật đầu:
“Tới xã”.
Thằng Chí lại hỏi:
“Ủa, tới xã chi anh?”.
“Thì tới đó khắc biết”.
Tới sân xã, anh Hùng ra hiệu đứng lại:
“Tụi bây đứng hết đây, cấm tới gần, lỡ có chuyện gì tao hối hận hông kịp”.
Anh khệnh khạng đi tới sát bật thềm, đứng ngay trước hành lang nhà ủy ban, cái chân cụt gát lên thanh ngang nạng gỗ, móc điếu thuốc lá ra anh châm lửa, nhả làng khói lên trời. Thấy anh Hùng đứng đó, nghểnh đầu phà khói, anh Mừng nay đã là xã đội phó bước tới gần hỏi:
“Có chuyện gì hông Hùng?”.
Anh Hùng nhếch mép cười:
“Tao tới tặng trái này cho tụi bây”.
Nói xong anh móc một trái trên lưng quần ra quăng thẳng vô phòng. Anh Mừng trợn mắt la lớn:
“Lựu đạn, nó liệng lựu đạn”.
Ba bốn người trong phòng hoảng hồn vía, người đẩy bàn bung chạy ra cửa chính, người phóng ào bay qua cửa sổ, bàn ghế giấy má trong phòng đổ ngổn ngang, bay tứ tung. Anh Mừng cũng lui chạy một khúc. Anh Hùng rít thêm hơi thuốc rồi cười ha hả:
“Đúng là mấy thằng chết nhát”.
Chờ một hồi lâu không thấy tiếng phát nổ và vẫn thấy anh Hùng đứng yên Anh Mừng mon men lại gần, thêm vài anh xã đội phòng bên ôm súng từ từ tiến lại, anh Hùng hất hàm:
“Vô đi, vô đi rồi nó bùm một phát đừng trách tao hông báo trước”.
Toán anh Mừng đứng khựng lại rồi lui lui mấy bước và lại nín thở chờ đợi. Anh Hùng ném mạnh cái tàn thuốc xuống đất, nói lớn:
“Nói thiệt với tụi bây chớ lựu đạn khỉ gì, quởn quá tao đẽo trái lựu đạn cây hù tụi bây chơi”.
Anh Mừng nhìn anh Hùng nửa tin nửa ngờ dợm chưn nhưng chưa bước tới, anh Hùng tiếp:
“Tao chơi như quân tử, nói một là một chẳng hai lời, vô coi đi, tao còn đứng chình ình đây thấy hông”.
Lần này anh Mừng tin nên bước vô, anh cầm lên thì đúng là trái lựu đạn cây thiệt, anh cầm rồi bước ra:
“Mày chơi gì kỳ vậy Hùng, sao tối ngày đi phá hoài vậy?”.
Một anh xã đội lên đạn lốp rốp, mặt đỏ phừng phừng:
“Mẹ, bắt nhốt cho nó biết lễ độ, phá rối an ninh trật tự hả”.
Anh Mừng đưa tay cản lại. Tụi nó thì đang run sợ, thằng Chí lắp bắp:
“Mấy… mấy ổng bắt… bắt anh Hùng… anh Hùng…”.
Anh Hùng nghe anh xã đội nói xong quay qua nhìn chằm chằm, nắm áo bứt bựt nút, tà áo bung ra, anh đưa cây nạn gỗ chỉ vào mặt anh xã đội:
“Cha mày thằng nhóc con, chửi mẹ tao hả, mày ngon bắt tao đi, mày ngon bắn đi” – Anh nhích chích lại gần: “Mày ngon bắn vô trái lựu đạn thiệt trên người tao rồi cùng chết nè, dám hông thằng miệng còn hôi sữa, cha mày cũng hông dám nói chi tới mày…”.
Anh xã đội lúc này mặt hết đỏ đã chuyển sang tái, anh Mừng đưa hai tay ra phía trước:
“Có gì từ từ nói, từ từ giải quyết mậy Hùng”.
Vừa lúc đó thì thằng Hào và ba nó chạy lại, thằng Hào thấy tới xã biết sẽ có chuyện xảy ra nên lén chạy nhanh về báo ở nhà, ba thằng Hào nhào lại ôm anh Hùng:
“Thôi, thôi con, về nhà đi con, về đi đừng phá làng phá xóm nữa”.
Anh Hùng chỉ tay về mấy anh xã đội:
“Tui hông có phá xóm phá làng, tui chỉ phá những thằng ngồi mát ăn bát vàng này thôi, ngon cầm súng ra chiến trường mà chiến đấu chống kẻ thù kìa, chui rúc ở đây hù dọa bà con thì giỏi”.
Anh Hùng quay người, đi vài bước anh còn ngoái đầu lại:
“Tao mà nghe bức bà con, khó dễ cô bác tao ra thảy trái lựu đạn thiệt chớ hông giỡn nữa”.
Đám tụi nó cũng xanh lét mặt mày, nhưng không phải chỉ lần này, một vài lần nữa, anh Hùng rủ thêm vài người bạn thương binh kéo nhau đứng giữa đường lộ, chặn xe lại xin tiền. Không cho sẽ bị hù đập bể kiếng hay nằm trước đầu xe, xe nào dám cán qua, dám chống đối với người giắt vài trái lựu đạn…
Anh Mừng ghé xuống nhà năn nỉ:
“Hùng, mày thôi đi, đừng làm vậy nữa mang tiếng xóm làng”.
Anh Hùng cười ngạo nghễ:
“Mày nói hay lắm, mày lo cho tao cái ăn đi tao đâu làm vậy, thân trai tráng vậy mà giờ tao thành ăn bám gia đình mày thấy có nhục hông”.
Anh Mừng gật đầu:
“Tao biết nỗi khổ của tụi bây, nhưng có mà, tao nghe nói sắp có chính sách cho thương binh liệt sĩ rồi”.
Anh Hùng tiếp tục cười:
“Câu này tao nghe nhiều rồi, tao chờ cũng dài cổ rồi, nói hay lắm chớ có làm đâu, tụi tao có khác nào những đứa con bỏ chợ”.
Anh Mừng gục gật:
“Đất nước đang khó khăn, tụi bây ráng chờ, có việc gì nhè nhẹ làm được thì làm cho vui”.
Anh Hùng gạt tay:
“Thôi tao hông nghe nói nữa, nhức lỗ tai, tao đi ngủ sướng hơn, mày về đi”.
Lâu lâu anh Mừng lại ghé một bữa, tiếp tục nói chuyện, anh Hùng có giảm đi nhưng không dứt hẳn mấy chuyện này.
***
Chú Tư râu dắt chú Thành sẹo tới nhà nó. Má nó rót nước trà và hỏi:
“Chà, bữa nay có chuyện gì mà rồng ghé nhà tôm vậy?”.
Chú Tư giả lả:
“Dạ, tui ghé thăm anh chị, ảnh có nhà hông chị?”.
“Ổng đi công chuyện gì rồi tui hông biết nữa, hông có nói”.
“Nghe nói ảnh ở trong rẫy”.
“Vậy chú vô rẫy kiếm coi, tui còn chẳng biết có cái rẫy”.
Chú Tư cười:
“Đâu có ý vậy đâu chị Hai, tui ghé trước thăm sau có thêm chút chuyện”.
“Có chuyện gì chú nói đại tui nghe”.
Chú Tư chỉ chú Thành:
“Chị biết đó, chú Thành ở trong bưng xa xôi, đường đi lại cực khổ quá, nay hỏi xin anh chị cho gia đình chú ra ở nhờ nhà bỏ không của ông Ba Thảnh, đặng mấy đứa nhỏ học hành cho dễ bề”.
Má nó ậm ừ:
“Nhà và vườn trái cây chú Ba Thảnh tui giữ dùm, tui đâu dám cho”.
Chú Tư giọng nằn nì:
“Thì xin chị nói với chú một tiếng, chớ nhà bỏ hoang cũng uổng”.
“Chú Ba Thảnh ổng vô Sài Gòn chữa bịnh tui đâu biết lúc nào chú về, mà có về chú cũng đâu có về đây, chú ghé nhà đứa khác ở đâu tui cũng hông rõ, thôi để tui hỏi lại ông xã tui rồi có gì tui tin cho chú”.
Chú Thành sẹo nói vô:
“Mong chị nói vô, giúp cho em út, con cháu nó nhờ”.
Chú Tư và chú Thành chào ra về. Má nó lầm rầm:
“Tết nhứt còn chưa ghé giờ kêu ghé thăm”.
Má nó bàn với ba, thôi cho ở đại chớ dạo này tụi chăn bò phá phách, trộm trái cây quá, cho ở coi mình khỏi giữ. Vườn là đất thổ canh và nhà chú Ba Thảnh của ba nó, nó kêu bằng ông, có bà con xa, ở cách nhà nó cũng gần, chỉ vài trăm thước, nhưng ở bên đội khác nhờ giữ dùm. Ba nó nói:
“Chú Ba Thảnh chắc đi luôn rồi, lâu lắm đâu thấy về, bà về nói cho ở nhưng viết giấy tờ đàng hoàng, không cho họ chắc chắn làm khó dễ, chẳng mần ăn gì được đâu”.
Vậy là chú Thành sẹo về ở nhà ông Ba Thảnh của nó. Anh em vẫn qua lại hái trái cây, lâu lâu chú Thành hái trái chín bưng qua nhà.
***
Mùa hè tới.
Đoàn phòng giáo dục với thầy Phương và ba người nữa về xã công tác và ở nhà nó. Hai chị cùng phụ với đoàn.
Một bữa thầy Phương hỏi:
“Sao bác hông cho hai em nó đi học?”.
Má nó hỏi lại:
“Học gì được thầy, lý lịch xấu mà?”.
Thầy Phương ngẫm nghĩ một chút rồi đáp:
“Dạ, hai em nó đã xong tú tài một ngày trước tương đương với lớp mười một bây giờ, cho đi học trung cấp sư phạm được đó, sau ra làm giáo viên cấp một.
“Người ta dễ gì cho đi thầy ơi”.
Thầy Phương gật gật đầu:
“Bây giờ đang thiếu giáo viên nhiều lắm với lại con gái cũng đỡ xét lý lịch hơn, để con viết giấy giới thiệu cho xã và trường sư phạm”.
Má nó mừng rơn:
“Nếu được vậy thì còn gì bằng, biết cảm ơn thầy sao đây”.
Thầy Phương tươi cười:
“Có gì đâu bác, tụi con ăn nằm dầm dề làm phiền bác quá chừng chưa nói gì”.
Mấy chị thiệt tình rất muốn được đi học, ra dạy học vả lại Nhà nước lo hết mà. Sao này ra trường chưa cần nói lương đã có sẵn cái sổ mỗi tháng mười ba ký gạo, đâu sợ đói.
Tháng mười thì hai chị được nhập học. Khóa học ba năm. Một hai tuần lễ lúc về thăm nhà lúc má nó đạp xe ba mươi cây số đi thăm, mang ít đồ qua tiếp tế, bù cho cơm canh tập thể, cơm gạo còn mày đen, canh thì được ví là nước muối đại dương, lõng bõng rau muống rau cải bằm như bửa củi và “lặn” tới đáy chưa tìm ra miếng thịt. Thời ăn tập thể này món cơm cháy lên ngôi nhưng cũng săm xoi lựa kỹ bởi dễ gặp cơm cháy hứ, sạn đọng đáy chảo dày đặc không khác hột cỏ, hột cỏ nhẹ xen lẫn vào cơm vẫn ăn bình thường sau cũng phải lựa vì truyền tới tai hột cỏ không tiêu, sanh đau bao tử, có người đau đi mổ moi ra cả bọc còn nguyên…
Còn người chị đầu nó thì không một lời gì với nhà, với ai, lẳng lặng ra đi biền biệt năm trước rồi, phải báo mất tích. Nhưng cả nhà hy vọng là chị chỉ bỏ đi đâu đó, có lẽ là vượt biên, bởi tủ nhà bị cạy lấy mất hai chỉ vàng và ở xóm trên cùng nhóm bạn chơi với nhau cũng có một người y như vậy. Duy chị này có hé lộ chút chút với vài người bạn chuyện bỏ đi xa, đi ra biển cả. Chị nó cùng chị này đi mất cùng một lượt.
***
Cũng trong đầu mùa hè này trong xóm có thêm chuyện buồn, may là chưa tới mức đau thương.
Chuyện lúm xùm giữa anh Hải đất và chú Tòng càn. Dắt díu nhau ra nhà ông Sáu Hoàng cùng bà con phân xử, có cả công an xã xuống dự.
Phó công an xã Trí hỏi:
“Bây giờ từng người thuật lại câu chuyện ra sao?”.
Chú Tòng càn ào ào liền:
“Thằng này muốn giết tui, nó lấy cuốc oánh tui gãy xương sống, bắt nó bỏ nhà đá cho nó mọt gông”.
Anh Hải đất giãy nãy:
“Ông vừa vừa thôi nghen, tui mà lấy cuốc oánh ông giờ ông còn ngồi đó hả”.
Dì Tư Thể chen vô:
“Đúng rồi, nó mà phang một cái chắc giờ ông đoàn tụ với ông bà”.
Bà con cười rục rịch, anh Trí đập tay xuống bàn:
“Bà con trật tự, chú Tòng và anh Hải cũng phải ăn nói đàng hoàng, không có cắt ngang như vậy, tui hỏi là hỏi từ đầu, nguyên cớ ra sao?”
Chú Tòng nói:
“Chuyện là vầy, tui đang mần ruộng hông biết cắc cớ gì nó lấy cán cuốc phang cái ình vô lưng tui, giờ còn sụm bà chè”.
Có tiếng xì xào, dì Tư Thể lên tiếng tiếp:
“Phang vô lưng thì sụm sống lưng chớ sao sụm bà chè cha nội, mà hồi nãy ông lại nói gãy xương sống, gãy xương sống mà đi được ra đây”.
Bà con cười rần, anh Hải phân bua:
“Chú lớn rồi ăn nói cho nó đúng, tui có phang chú tui nói có phang, nhưng tui đã cố tình trở đầu cuốc, phang cán một cái nhẹ hù chú thôi, mà đâu phải tự dưng tui phang, tui ức quá mà…”.
Chú Tòng đứng lên cắt ngang:
“Đó, nó nói có phang tui đó”.
Anh Trí ra hiệu cho chú Tòng ngồi xuống:
“Chú cứ bình tĩnh, để anh Hải nói hết, giờ anh Hải nói tiếp đi tại sao lại oánh người ta”.
Anh Hải nãy giờ bậm môi, anh nói nhỏ dần, mắt chớp chớp rơm rớm:
“Chú Tòng cứ làm càn hoài, tui nói chú nhiều lần rồi mà chú đâu có nghe, ruộng chú bị lỗ mọi hay bị gì đó chảy hết nước, chú tự ý trổ bờ lấy nước ruộng tui, chẳng nói một tiếng, mà đâu phải một lần, nhiều lần lắm chớ, rồi tui hông biết chú có canh lúc tui vừa rải phân hông mà cứ tui rải là chú trổ lấy nước, phân chưa thấm chạy qua ruộng chú hết trơn, tui nhắc chú chú chẳng trả lời trả vốn, chú ghim chú tức tui chú nhổ cỏ ruộng chú hông bỏ lên bờ chú thảy luôn qua ruộng bên này, chưa hết nữa, hổm mưa ngập, sợ lúa úng tui xin chú xả nước ngang ruộng chú một mực nói hông, chú là người lớn, ruộng kề bên nhau xử xự vậy coi có được hông?”.
Chú Tòng ơ ớ chưa kịp nói, chú Tám Phèn lên tiếng:
“Anh Tòng ơ ớ gì nữa, tui nói thiệt chẳng binh bỏ ai, bà con biết tui như ruột ngựa, tui thấy thằng Hải nói hông quá nửa lời, nó trước nay hiền như cục đất ai hông biết, anh Tòng làm bậy quá nó điên lên chớ, nếu là tui chắc hông tới bữa nay đâu, anh coi lại mình đi, chịu gì tui cũng làm chứng hết”.
Anh Ngạo nhảy vô:
“Ổng có biệt danh là Tòng càn mà, thấy bà con hông nói ngày ổng làm càn thấy ớn, lý ra tên Tòng phải xứng là anh hùng võ hiệp chớ đàng này…”
Dì Tư Thể gục gật:
“Ai cũng thấy vậy mà chưa nói thôi đó chú Tòng, chú nên coi lại mình đi”.
Chú Tòng cứng họng hông nói được lời nào. Anh Trí hỏi lại:
“Anh Hải với bà con nói vậy chú thấy sao?”.
Chú Tòng ậm ừ một hồi rồi cuối mặt xuống, nói nho nhỏ:
“Có, tui có làm bậy”.
Ở dưới bà con xì xào, biết vậy là được rồi, đỡ rồi. Anh Trí hỏi bà coi:
“Theo bà con vụ này xử trí như thế nào?”.
Chú Sáu Tình đứng ra:
“Tui có ý này, theo tui thằng Hải nó có lỗi oánh ẩu anh Tòng nhưng thiệt tình nó hông cố ý oánh cho thương tích còn anh Tòng cũng sai, giờ ảnh biết lỗi rồi, chuyện cũng chưa xảy ra gì ghê gớm, thôi thì bỏ qua, dàn hòa, xin lỗi nhau, dù gì cũng bà con lối xóm lại ruộng kề bên nhau, mong từ nay hông xảy ra vậy nữa”.
Bà con ở dưới đồng tình cách xử trí của chú Sáu Tình. Anh Trí suy nghĩ một hồi sau rồi nói:
“Tui thấy cách của chú Sáu cũng được nhưng bị cái chỗ anh Hải có oánh người dù nhẹ hông có kỷ luật gì cũng khó ăn nói với cấp trên, tui sẽ báo cáo lại anh Hải oánh nhưng hù thôi chớ chưa có trúng người, xử anh Hải một tuần lao động công ích, dãy cỏ vòng quanh xã, chú Tòng thì nhắc nhở từ nay về sau phải chấn chỉnh tư cách, hông được làm càn, tui xử có tình có lý, bà con, anh Hải và chú Tòng thấy sao?”.
Bà còn gật đầu, vậy cũng được, chỉ một tuần chớ đâu nhiều lắm. Anh Hải đứng dậy:
“Tui xin lỗi chú Tòng đã nóng tánh, con cháu mà oánh người lớn thiệt xất mặt lắm, xin lỗi đã làm phiền bà con, còn hình phạt vậy tui thấy là nhẹ rồi, tui cảm ơn anh Trí, cảm ơn bà con”.
Chú Tòng cũng đứng lên:
“Tui xin lỗi bà con, chú cũng xin lỗi thằng Hải, tui sẽ cố gắng từ nay bỏ cái tánh kỳ cục này”.
Họp tan, bà con lối xóm ra về ai nấy đều thông cảm.
***
Nó ngừng lại chớp chớp đôi mắt nhìn những đàn chim tay về tổ. Mặt trời còn chừng cây sào là khuất xuống núi Đất. Ánh nắng không còn chói lòa và phát ra những tia sáng rõ hơn trên nền ráng vàng. Ráng vàng thì gió ráng đỏ thì mưa, vậy đã sắp kết thúc mùa mưa rồi. Cơn gió gục gật:
“Ấy dà, buồn”.
Nó nhắm đôi mắt lại:
“Chưa hết đâu, còn thê lương nữa kìa”.
Cơn gió biểu lộ không gì ngạc nhiên hơn:
“Còn nữa à, sao nhiều dữ?”.
“Mình cũng không hiểu”.
Cơn gió nho nhỏ:
“Bạn muốn kể tiếp hông, hãy kể hết cho nhẹ người”.
Nó gật đầu:
“Ừ, ráng chịu khó nghe nhé, mình kể tiếp đây”.
***
Hung tin đến với nhà nó khá trễ.
Ba nó kịp về làm cái tủ thờ thì đã đúng bốn mươi chín ngày mất của ông nội. Tin tức cũng không rõ ràng, chỉ được biết ngày mất, có tin nói ông nội bị bịnh, có tin nói ngoài đó lụt bão lớn lắm, nhiều người già không chịu nổi rồi có tin ông nội bị tai nạn. Nhưng dù tin như thế nào thì ông nội cũng đã về với tổ tiên ông bà. Ba nó thắp nhang trên mâm cơm lầm rầm khấn vái rồi trầm lặng như mấy ngày qua đã trầm lặng, không nói lời nào. Chắc chắn nỗi đau lớn nhứt là không được về bên ông nội. Má nó, mấy chị và anh rưng rưng nước mắt. Nó cũng thấy thiệt buồn rưng rưng theo nhưng thực tình thì vẫn chưa cảm nhận hết, khoảng thời gian ở bên ông nội chẳng được bao lâu, rồi phần thời gian sau này cũng đâu ai đủ nhớ để nhắc nhiều về ông, trí nhớ ẩn mình theo năm tháng bôn ba, lo lắng cho phía trước.
Ba nó thở dài trở lại rẫy.
Nó mong mùa măng tới. Phụ tùng cho chiếc xe đạp đã đầy đủ, giờ chỉ còn thiếu cái sườn nữa mà thôi. Nó muốn một cái sườn ngang bởi nhớ chiếc xe dàn cái ngày trước ba chở lòng vòng Sài Gòn.
Mùa măng cũng tới.
Như mọi năm nhưng bây giờ thì nó không chỉ phụ chỉ lột vỏ, đã lao vào xắn, đã gánh đầy măng về.
Ba nó phải ở nhà với ruộng một ngày và nói:
“Hai con cũng nên nghỉ xả hơi một bữa”.
Nó khá mệt mỏi nhưng nghĩ lại thôi:
“Dạ, ba cho con đi tiếp vì chưa đủ cho cái sườn xe đạp”.
Ba nó gật đầu:
“Ừ, thôi ráng đi”.
Hai anh em không đi Dốc Lớn mà chuyển hướng đi Dốc Lết. Đêm đó anh nó nằm mơ thấy Dốc Lết măng nhiều vô kể. Mà măng Dốc Lết đúng là nhiều, tre cây gỗ phía bên kia dốc cũng còn rất nhiều cây lớn, bởi phía bên đó có sườn núi hiểm trở, Dốc Lết đi ngang qua suối lớn cũng hiểm trở không kém, đã gọi là lết còn gì. Dốc Lết bùn lầy đầy hết, xe bò kéo gỗ qua một cặp không bao giờ kéo nổi, phải móc thêm một có khi là hai cặp nữa, bùn sình lún hết cả chưn bò, còn phần bụng to mới không chìm xuống, bò kéo xe gỗ qua như bơi trong sình, bò khó đi cứ đứng chững, người ta phải nện ình ình bằng cái cây dẻo cỡ bắp tay chớ không còn là roi oánh chóc chóc nữa. Người phải nói là gan lỳ đi ngang thấy cũng phải rùng mình chạnh lòng. Bò chiến kéo xe Dốc Lết chỉ xài được một mùa, mùa sau cho về làm loạch hoạch chuyện nhẹ nhàng, hay bị xẻ thịt.
Vừa qua đứng bóng là anh em nó đã đóng đủ gánh măng. Cơm nước xong nghỉ một chút là rời khỏi lao tre. Hai anh em mừng rơn vì được về sớm nghỉ ngơi. Ra tới đường xe bò một chập nó thấy bóng người ở trần lại đang loay hoay giữa đường, rất kỳ lạ. Tiến lại gần thì gặp gương mặt thằng Thà đầm đìa nước mắt vừa thở hộc hộc vừa rên rỉ. Hai anh em tá hỏa, thằng Thà đang ôm anh Thững của nó đứng dậy định đi tiếp, cẳng chưn anh Thững được bó bằng cái áo của thằng Thà máu nhuộm đỏ gần hết, anh Thững đang vật vã trong cơn đau, anh nó hỏi gấp:
“Có chuyện gì?”.
Thằng Thà thều thào:
“Anh Thững bị thương”
“Nặng hông?”.
“Nặng lắm, đụng tới xương, máu ra xối xả phải lấy áo băng đỡ”.
Anh nó nói tiếp:
“Bỏ hết măng đi, cùng đưa ảnh mau mau về”
Nó sực nhớ ra:
“Ba anh em mình đưa ảnh qua Dốc Lết nổi hông, hay để em chạy nhanh về rẫy kêu ba với chú Ba, anh với thằng Thà đưa ảnh tới Dốc Lết đi còn cả hai cây nữa chớ hông ít đâu”
Anh nó ừ, hối:
“Đúng đó, chạy nhanh đi, à mà cởi áo để lại đây”.
Nó phóng như bay, anh nó băng thêm cho anh Thững rồi cùng thằng Thà cõng thay phiên tới Dốc Lết.
Về báo cho ba nó xong, ba nó nói:
“Con chạy nhanh về nhà báo bà con kiếm chiếc xe lam chờ sẵn ở nhà ông Sáu để chở đi bênh viện tỉnh” – Ba nó cùng chú Ba Mạnh lao đi Dốc Lết, còn nó lao về làng.
Hơn ba tiếng đồng hồ thấp thỏm đợi chờ ba nó và chú Ba Mạnh cõng được anh Thững về tới. Anh Thững lúc ngất lúc tỉnh được chút xíu, người tái ngắt. Xe lam rồ máy, chú Tám Thạnh chạy lại nói nhanh với chú xe lam:
“Chút xíu nữa quên, anh ghé trạm xá lấy giấy giới thiệu”.
Ba nó la lớn:
“Giờ này mà lấy giấy gì nữa, chạy lẹ còn hông kịp”.
Chú Tám Thạnh đưa tay ngăn:
“Anh Hai ơi hông được đâu, ráng chút đi, tui bị rồi hổm đưa cấp cứu không có giấy họ hông nhận, phải quay đầu lại lấy, họ nói phải làm đúng nguyên tắc”.
Xe lam chạy bỏ lại nhiều cái lắc đầu ngao ngán. Tới trạm xá, chị ý tá viết giấy rồi sực nhớ:
“Chết cha, cô trạm trưởng hông có đây, đâu có con dấu, mấy anh chờ em chút”.
Anh Ngạo giựt chiếc xe đạp của chị y tá vừa cầm ghi đông:
“Để tui chạy chở cho lẹ”.
Anh Hải tặc hỏi:
“Có máu hông truyền cho nó đại đi”.
Chị y tá lắc đầu:
“Trạm xá làm gì có máu anh”.
Anh Hải bồn chồn lo lắng đứng ngồi không yên, than trời than đất nhìn anh Thững ngày càng lả đi. Cuối cùng con dấu cũng được đóng và xe tiếp tục chạy hết tốc lực.
Bà con tụ tập ở nhà ông Sáu Hoàng chờ tin. Vừa nghe tiếng chiếc xe lam quay trở lại, mọi người nhào ra, xe vừa ngừng, anh Ngạo phóng xuống hai tay bứt đầu tóc rồi hét lên một tiếng, bưng mặt khóc nức chạy đi mất. Trên xe thằng Thà gục đầu trên người anh Thững chỉ thấy đôi vai run bần bật và nghe tiếng ục ặc ức nghẹn. Anh Hải ngồi thừ như gỗ đá, hồi lâu anh mới thốt ra:
“Nó trút hơi thở cuối cùng khi vừa tới nhà thương, mất quá nhiều máu, phải chi được nhanh một chút… biết đâu… Trời ơi, giấy với tờ…”.
Một không khí ảm đạm chưa từng có bao trùm khắp nơi. Chú Tám Thạnh thở hắc hơi:
“Tối mấy ngày trước nghe tiếng con cú kêu, không ngờ mang điềm tang thương tới xóm mình”.
***
Ba nó bàn với bà con:
“Nhà hai anh em nghèo xơ xác với bà mẹ già nay đau mai bịnh, bà con xóm làng mình cùng xúm xít lo hậu sự cho thằng Thững, tui giờ chạy ngay vô Thầy trong chùa coi ngày giờ với nhờ Thầy tụng cho nó luôn”.
Chú Sáu Tình gật đầu:
“Phải vậy thôi, tui có lóng* gỗ đã đẽo vuông (*khúc gỗ), mấy đứa thanh niên qua nhà khiêng xẻ ngay đóng cái áo coi cho được”.
Má nó nói tiếp:
“Sáng mai tui chạy lên huyện sớm mua vải, tui lấy tem phiếu của tui cho nó, tui cũng chưa cần lắm”.
Dì Tư Thể xen vơ:
“Vậy giờ ai coi phụ được gì thì phụ, lo nhang đèn, nấu chén cơm…”.
Ba nó đạp xe vô chùa, Sư Thầy coi đúng trưa mai phải nhập quan, để một ngày sau là chôn cất. Sư Thầy hẹn tối mai sẽ vô tụng, không dám đi ban ngày ban mặt bởi sợ chính quyền làm khó dễ, họ quy cho cái tội mê tín dị đoan, không thầy không bà tụng tiếc gì cả. Mấy ông ở xã nói xã hội ta không chấp nhận những chuyện đó, xã hội tiến bộ với chủ nghĩa vô thần, chết là hết. Lập bàn thờ ông bà cúng kiếng đã rất khó khăn cho bà con. Lớp nó hôm có đứa ngủ gục, cô giáo hỏi tại sao, bí lối thằng này đành nhận là đi lễ nhà thờ buổi sáng quá sớm để tránh tai mắt cán bộ vậy là bị liệt ngay đạo đức trung bình, vài ngày sau có giấy báo mời cha mẹ lên xã làm việc, thực ra là nghe rao giảng về tư tưởng mới và phải cam kết không được đến nhà thờ. Nó thấy người lớn này đôi khi chẳng khác gì con nít tụi nó, bên xóm chùa trêu xóm đạo là Chúa Jê Su đánh đu gãy cẳng, còn xóm đạo ghẹo lại là ông Phật là ông có tật… Chỉ có khác là với mấy ổng ông nào cũng tào lao ông nào cũng gãy cẳng, ông nào cũng có tật hết.
Về chuyện này nó nghĩ cũng lạ, nó nhớ cái hôm làm cái đường đi vô hội trường xã mới cất, ngay đường vướng cái miếu bà con thờ âm hồn nào đó đã có từ lâu, cán bộ xã kêu dỡ bỏ, kêu chiếc xe ủi đất làm đường bang luôn, bác tài lái xe chạy gần tới là khựng khựng lại rồi máy bị tắt, bật tiếp nhiều lần cũng không nổ cứ cà khựng miết, bác nhảy xuống chỉ có lắc đầu, chẳng biết sao xe hông nổ. Cán bộ xã hỏi nút mở máy, bác tài chỉ, họ cử mấy anh du kích lên bật, cũng chẳng nổ lấy một tiếng. Chuyện này thì không ai biết, bác tài có mánh khóe gì không, cho xe lui thì nổ liền, biết đâu bác hông muốn ủi cái miếu. Cán bộ kêu mấy anh du kích đập đi, ai cũng né tránh bởi nghe bà con người kể khơi khơi một vài câu chuyện, ở xóm này ở xóm kia có người phá miếu phá am, người thì bị điên điên khùng khùng, người bị giựt méo mỏ… nghe qua ai cũng tái mặt. Cán bộ kêu bà con làm, ai cũng lắc đầu, tui hông làm chuyện thất đức, muốn làm gì cũng được. Sau treo giá, đập cái miếu mất chỉ mươi lăm phút nhưng sẽ trả tiền công bằng năm ngày, tưởng đâu sẽ có người làm, ai dè chỉ gặp toàn gài dố de. Con đường vô hội trường không còn thẳng mà phải đi đường vòng, tránh xa cái miếu, mấy ông cán bộ cho trồng mấy cây phủ che bớt, bịt mắt cấp trên chớ bà con cần nhìn rõ để nhang khói…
Qua nhà chú Sáu Tình, thấy hai lóng gỗ anh Ngạo hỏi:
“Lấy lóng nào chú Sáu, bằng lăng hả?”.
Chú Sáu ngẫm nghĩ chút rồi trả lời:
“Ừm… thôi lấy lóng giáng hương đi, tội nghiệp thằng nhỏ, đi mà chưa biết được mùi đời bao nhiêu, chưa vợ chưa con, nên cho nó đồ tốt một chút”.
Mấy anh thanh niên tranh thủ khiêng ngay về xẻ đóng cho kịp.
Mười lăm cây số đạp lên huyện má nó đi rất sớm, má nó sợ đi trễ sắp hàng lâu. Lên đợi hơn tiếng đồng hồ thì cửa hàng thương nghiệp cấp ba mở cửa. Cô bán hàng còn kêu là mậu dịch viên ẹo ẹo đi qua đi lại mấy vòng rồi ngồi vào bàn. Má nó rón rén đi lại nói nho nhỏ:
“Cô ơi cho tui nộp sổ”.
Cô bán hàng đang cuối mặt, soi kiếng hay đọc báo gì đó đáp:
“Thì bà nộp đi chớ nói gì”.
Nhìn quanh quất chưa có một ai, má nó nhỏ nhẹ tiếp:
“Cô ơi…”
Một tràng từ cô bán hàng không ngẩn mặt lên:
“Gì nữa đây, nộp đó thì để đó từ từ giải quyết chớ nói gì, bộ hông thấy tui đang làm việc hả, tui ngồi chơi hay sao, làm như cha chết”.
Má nó giằng mình:
“Dạ đúng, ở làng có người chết”.
Cô Bán hàng bây giờ mới ngẩn mặt lên nhưng trừng mắt:
“Chết thì chôn, làm như cha tui chết”.
Nghe tới đó má nó chực muốn khóc nhưng ráng kìm nén:
“Cô làm ơn, chôn gấp quá”.
Cô bán hàng hỏi như nạt:
“Bà mua gì?”.
Má nó mừng rơn:
“Dạ, mua vải may áo cho thằng cháu trong xóm vừa mất, xin cô bán vải trắng”.
Cô bán hàng tiếp:
“Nhìn tui ngu lắm hả, hông biết bán vải liệm màu gì sao, mua nhiêu?”.
“Dạ, tiêu chuẩn năm của tui nhiêu mong cô bán cho hết”.
Cô bán hàng chề môi:
“Tiêu chuẩn tem phiếu bà còn hai người một năm tám mét mấy, may cho người chết làm gì hết chừng này, chắc bà mua ra ngoài bán chớ gì, tui giải quyết cho bà một người thôi”.
Má nó gật đầu lẹ:
“Dạ, sao cũng được”.
Cô bán hàng nói vậy chớ chưa viết phiếu liền, một người thanh niên đạp xe tới, cầm cái sổ đưa:
“Cô cho tui mua gạo với”.
Má nó đứng dạt ra. Nghe giọng thanh niên, cô bán hàng đon đả:
“Ủa anh Phương đi mua gạo hả, để em ghi phiếu”.
Người thanh niên tên Phương quay qua nhìn nhận ra:
“Ủa, bác Hai nãy giờ con hông để ý, dạ, bác đi mua gì à?”.
Má nó ghìm cơn tấm tức:
“Dạ, đi mua vải về liệm cho thằng cháu trong xóm, nó mới mất hồi hôm”.
Anh Phương trố mắt:
“Dạ, đứa nào vậy bác, con có biết hông?”.
“Chắc thầy hông biết, nó ở xóm trong, ít có ra ngoài lắm”.
Thầy Phương hỏi tiếp:
“Bác mua xong chưa?”.
Má nó ậm ừ:
“Dạ… dạ…”.
Hiểu ý mấy cô bán cửa hàng thương nghiệp cấp ba nổi tiếng là hách dịch, coi bà con đi mua như đi xin, chỉ có những cán bộ, hay những chàng thanh niên các cô thích thì khác, thầy Phương nói ngay:
“Cô, cô giải quyết trước dùm bác tui, bác ở xa lại có chuyện gấp, tui mua sau cũng hông có sao”.
Cô bán hàng cười tươi rói:
“Bác anh hả, để em viết phiếu chuyển cho tổ bán liền”.
Phiếu được viết có đánh dấu chéo màu đỏ, chuyển qua là được xé vải ngay, ký hiệu phiếu đặc biệt giao ước của mấy cô chớ không lại phải chờ thêm dài cổ. Nhờ có thầy Phương má nó mua được nhanh và đúng tiêu chuẩn hai người lại được vải kate tốt chớ hông là vải kalicot, vải tám vải sô. Má nó cảm ơn thầy rối rít:
“Dạ, cảm ơn thầy, có đi ngang thầy ghé nhà uống nước”.
Thầy Phương gật đầu:
“Dạ, vài bữa có công tác con lại ghé nhà bác, bác về cẩn thận”.
Má nó đem vải về là mấy cô mấy dì cùng xúm vô cắt may ngay, may bằng kim tay. Thiệt may là kịp giờ. Sư Thầy thấy quá tội nghiệp cho anh Thững, ngày đưa đi chôn cất, Sư Thầy đi trước đoàn gõ mõ tụng kinh, không e dè gì nữa.
Từ ngày anh Thững mất về sau, thằng Thà một trong những đứa hay vui đùa, hay kể chuyện chọc cười cho đám con nít tụi nó trở nên trầm hẳn, im lìm như người câm, có gì đặc biệt lắm mới hở môi nói một vài lời, chỉ một lần kể lý do anh Thững bị thương. Hai anh em trên đường gánh măng về, cán câu liêm bị gãy, anh Thững chặt cây le thay, cái rựa quá bén với lại ảnh chặt mạnh nên cây le đứt ngọt sớt, mũi nhọn phóng cắm xuống ống quyển luôn, xé thịt thấu tới xương…”
Nhìn thằng Thà lúc này nó mới thấu hiểu được sự im lặng trầm uất của ba nó khi nghe tin ông nội qua đời. Và không lý giải được về giấc mơ của anh nó, có phải là điềm báo, tiếng kêu con cú vọ bay về làng chú Tám Thạnh nói cũng vậy. Nó tiếc rằng phải chi đã báo thì báo rõ hơn anh Thững đã không ra đi sớm. Bà con thì nói có chớ, đó là thế giới tâm linh và cũng có định mệnh, định mệnh của anh Thững là yểu mệnh. Nhưng những chuyện như vậy thì chỉ xầm xì rỉ tai nhau chớ không dám bàn tán lớn ra ngoài.
***
Nó ngồi bật dậy lấy tay che đôi mắt đỏ hoe, giọng nghẹn ứ lại. Cơn gió mang hồn lững thững vỗ về:
“Buồn thiệt, nhưng bạn phải ráng lên, phải vượt qua”.
Nó cố cho trôi ức nghẹn:
“Mình phải… phải… phải làm gì bây giờ?”.
“Tiếp tục như bao lâu nay, gạt bỏ những đau thương, tiếp tục con đường đi học”.
Hoàng hôn dìu dịu buông xuống, một làn khói lam chiều từ một ngôi nhà nhè nhẹ bay lên, nó hít một hơi thật sâu rồi thở mạnh ra, cảm giác như nỗi buồn man mác bay theo đi mất, cơn gió hiểu ý phụ xua cho bay càng nhanh. Nó chào từ biệt cơn gió mang hồn lững thững mà nghĩ về con đường phía trước và như hay nghe người lớn nói: “tiếp tục sống”.
***
Ba năm trung học phổ thông, ngày hai lượt đi về nó đạp xe bốn mươi hai cây số. Trên chiếc sườn ngang ban đầu rất tốt sau dần tàn dần theo vòng quay quá độ. Vỏ xe chạy bung ta lông cặp thêm cây căm cũ đã hư mà may lại bằng dây cước và cây kim may bao bố, không có kim thì mài nhọn cây căm đập dẹp đầu, dũa có nghạnh như lưỡi câu đâm xuyên vỏ móc dây kéo qua. Vỏ còn đỡ ít hư hao, ruột mới ngặt, chạy dăm ba bữa thì lủng, tới hồi lủng lỗ mọt thì liên tù tì, vừa vá xong bỏ vô lại xì, lại tháo ra vá lại, lỗ mọt lỗ nào lỗ nấy nhỏ li ti khó thấy bong bóng nổi khi cho vào thao nước thử, bỏ vô nó lại xì đến tức điên người, có người nói cái ruột như có ma. Đi học lúc nào cũng kè kè bộ đồ nghề, nhứt là vá ruột xe, keo kiếm nhựa thông ngâm xăng, cuộn miếng thiết đục lỗ nhỏ và dày làm cái bào ruột… Líp có con chó chạy mòn lĩn trật lên trật xuống, cắt đế dép xốp chèn vô mệt xỉu, bi bị nghiến bể cũng lấy cây căm uống vòng tròn mà thay thế, cây căm xe thiệt quá lợi hại. Sợi dây sên nữa, chạy đã đời bị giãn chặt đi vài mắt nối lại, chạy giãn hết được chưa bỏ liền đâu mà lật mặt cái cụp chạy tiếp. Ba năm học nó biết sửa xe không thua gì thợ.
Chiếc xe cho nó hai ký ức đậm, mãi về sau nhìn thấy chiếc xe dàn cái thì ký ức lại trỗi dậy.
Một bữa vừa chạy được vài cây số, ra khỏi thị xã sợi dây sên đứt cái rụp, cắc cớ cái chốt văng mất tiêu, tìm mãi miết không ra, tìm quanh tìm quất cũng chẳng có cái gì thay được, cuối cùng phải lấy sợi dây ni lông mà cột ngang lại, dây đi qua cái dĩa hay cái líp bị nghiến lại đứt rụp, trong cái khó ló ra cái khôn, đạp tới một cái canh cái sợi dây gần tới dĩa thôi thì trả lại cũng không cho chạm líp, cứ vậy đạp tới trả lui, đạp tới trả lui như đang đùa chơi mười mấy cây số về nhà. Hà hà, rồi cũng về tới.
Một bữa nữa thì đang đạp xe phát ra tiếng bùm, ruột không xì mà nổ banh xác pháo, chiếc xe thành con bò cho nó dắt gần hai mươi cây số lội bộ. Trước đó một lần cũng vậy, cô bạn còn học đèo nó về, tay dắt chiếc xe bể bánh quặc quẹo vậy là thôi cho lên vai “anh thợ cày vác con bò” cho chắc.
***
Ba năm học buổi sáng buổi chiều có đủ.
Con đường từ nhà tới trường quen thuộc đến nỗi nó có thể nhắm mắt biết được cái ổ gà lớn, ổ gà nhỏ chỗ nào, đoạn đường đá lổm chổm ở đâu để mà lách né. Ổ gà đầy đường, có thêm những cái ổ… voi, vũng trâu nằm nữa. Đường đá xanh lục cục lòn hòn bằng nắm tay người ta rải rồi rải chồng thêm lớp đất, đất lọt xen kẻ vô hốc đá, đá ngóc đầu lên lổm chổm, một chiếc xe lớn chạy qua mùa nắng bụi tung mù như vó ngựa vừa phi qua, đoạn đường này cũng không phải là ít, trải dài một hai cây số, và mấy đoạn. Có những chỗ người ta lại đổ đống đá, đống đất hai bên đường, để ngày này tháng nó thậm chí cả năm chẳng bang bằng ra, những đêm tối trời người đi đường không quen đụng phải lộn nhào đầu là thường tình.
Chuyện sớm hôm đêm tối nó cũng quá rành rẽ, cứ theo dân gian “đêm tháng năm chưa nằm đã sáng, ngày tháng mười chưa cười đã tối”. Bước ra khỏi nhà lúc nào nó biết sẽ đón được ánh bình minh ban sớm, lúc nào nó biết ánh nắng chói chiếu thẳng vào mắt, bước ra khỏi lớp cũng vậy nó biết lúc nào phải ba chân bốn cẳng đạp để tránh đàn bù mắt lờn vờn, lúc nào tà lơn như những chú thỏ nhởn nhơ dưới ánh trăng, mộng mơ một chút với những câu ngâm thơ Hàn Mặc Tử của thằng Chí.
Ba năm trung học, nó, đám bạn học lực hiếm khi có học kỳ đứa ngoi lên hạng khá, trung bình và hàng hàng là yếu. Ngược lại là những “anh hùng lao động” gánh vác cho phần còn lại, “yếu liễu đào tơ” toàn là dân thị xã. Lao động bắt buột tuần một buổi và nhà trường chừng biết được nên giao toàn việc nặng, lúc vét ao, vét giếng nước, lúc ướp cá cho vô thùng lều, gọi là thí nghiệm làm nước nắm nhưng nghe râm rang để thầy cô cải thiện đời sống, nước nắm đóng chai nhãn nhà trường đàng hoàng. Những ngày lao động tụi nó phải dỡ cơm theo, ban đầu chưa biết chạy ra cầu Muối chui xuống gầm cầu mà xực, mắc cỡ lắm chớ, sau tìm ra chỗ tuyệt vời, vắng vẻ ban trưa, đồi dương mát rười rượi với gió biển và tiếng sóng rì rào, nóng nực nhảy ào xuống mặc cho khi trở lại học người rít chịt và lấm tấm những hạt muối trắng li ti.
Mỗi năm thêm lao động tập trung một hai tuần, tùy việc nhiều việc ít năm đó, làm nguyên cả ngày. Và trong cả ba năm là dầm mình đào đất đấp bờ bao thành ruộng nuôi tôm cho hợp tác xã thủy sản. Tụi nó lại là “đầu tàu chìm dưới nước”, nước ngang thắt lưng, nước lờ lợ, xắn từng khối đất sình bùn chen trong những thân cây mắm và những con rắn biển chuyền lên. Năm đầu rất sung sức, khí thế hừng hực bởi nhà trường hứa hẹn “ký hợp đồng lớn với hợp tác xã” sẽ trả công ngày mấy đồng cho học sinh, học sinh mừng rơn, chí ít có cái liên hoan rôm rả cuối năm, kỷ niệm đời học sinh. Rồi lời hứa dần bay theo gió biển về nơi thăm thẳm, có đứa ca thán: “Thầy ơi, sao lại biến lũ học sinh tội nghiệp thành những đàn cừu non”. Thầy – “chú lừa có cánh cất cao”, nói gì đó học sinh nghe không rõ.
Giống chiếc xe nó, ngày càng tàn, bạn bè mười bốn đứa cùng xã cùng lớp như sung lộp độp rơi rụng, giữa năm lớp mười một còn… ba đứa. Khi lên lớp mười hai thì còn lại… một mống là nó. Hai thằng kia lưu ban, một thằng nghỉ tiếp, thằng Chí lọ dọ ở lớp đàn em.
***
Nó với thằng Chí mang nhiều kỷ niệm rong ruổi trên con đường đến lớp.
Một bữa cũng vừa chạy được vài cây số, ra khỏi thị xã gặp một bác già quẩy tay nải trên vai đón lại, nhìn bác ốm nhơ ốm nhách, gương mặt khắc khổ biết chắc không phải người xấu, nó dừng xe, bác nói:
“Con cho bác quá giang với”.
Bác lên xe nó hỏi:
“Dạ, bác về đâu?”.
Bác nói chầm chậm:
“Bác về xa lắm, bác về cách đây hơn trăm cây, còn tụi con về tới đâu?”.
Thằng Chí giựt mình không tin tai mình vừa nghe:
“Bác về xa dữ?”.
Bác gật đầu:
“Phải đó con, bác về mà bác hết tiền, xe hông cho đi ké, bác xin về trên đó kiếm tiền rồi trả họ cũng lắc đầu mà chạy đường này một ngày chỉ có một chuyến”.
Nó nhăn mặt:
“Tụi con chỉ về cách đây khoảng hai chục cây số thôi, còn đường dài bác tính làm sao?”.
Bác im lặng một lát rồi trả lời:
“Thì bác tiếp đi bộ vậy, gặp được ai có lòng tốt như tụi con bác xin quá giang, tới đâu hay tới đó”.
Thằng Chí hỏi tiếp:
“Còn ăn uống nữa?’.
Bác nói ngèn nghẹn:
“Nếu đói quá chắc phải xin thôi, bác mong về tới nhà là được”.
Nó sợ bác dấu bị mất trộm, không nói ra, nhiều người đi đường xa bị chuyện này, có người bị đuổi xuống xe và vì lòng tự trọng không xin xỏ, đi đói quá ngã xỉu giữa đường, nó hỏi:
“Bác bị mất trộm hết tiền phải hông?”.
Bác lắc đầu:
“Hông có, bác đi làm giấy tờ dưới ủy ban tỉnh, ở hơn cả tuần nay nên hết sạch tiền”.
Thằng Chí trố mắt:
“Làm giấy tờ gì phải từ trên đó xuống đây lại mất cả tuần vậy bác?”.
“Bác đi lần thứ hai rồi đó con, lần trước có ba ngày, lần này bác ỷ y cũng như vậy, ai dè…”.
“Sao kỳ vậy bác?”.
Bác ho mấy tiếng:
“Bác cũng chẳng biết, lúc họ nói thiếu cái này, lúc họ nói cán bộ đi họp xa, tới giờ vẫn còn thiếu, chưa xong, còn một giấy bổ sung cuối cùng”.
Thằng Chí nghe ớn lạnh:
“Chưa xong nữa hả bác, vậy phải xuống lần nữa, mà giấy tờ gì mà rắc rối vậy bác?”.
“Chỉ có cái hộ khẩu thôi đó con, ở huyện họ ghi tên lót và ngày tháng năm sanh sai, nay phải xuống tận tỉnh điều chỉnh, đâu có chờ tới đợt làm được, có biết bao giờ tới đợt đâu, khổ lắm mấy con ơi, bỏ công ăn việc làm, tốn tiền tốn bạc, bị hành lên hành xuống mà có phải lỗi mình đâu, từ đội từ hợp tác từ xã xác nhận rồi tới huyện bây giờ lên tỉnh hai tháng rồi đó, nhiều lúc muốn bỏ nhưng hông có thì mấy đứa nhỏ đâu có đi học được”.
Hai đứa nó hết biết nói gì, lặng lẽ đạp xe thay phiên nhau chở bác, nói lái sang những chuyện khác cho vui.
***
Một bữa nữa hai đứa ể oải đạp về trong nắng gắt xế xế trưa, gần tới nhà nhìn thấy cột khói đen bay lên ngùn ngụt. Giựt mình không biết chuyện gì xảy ra, vội vã cắm đầu cắm cổ đạp về. Về tới nơi thì thấy thêm ngọn lửa đã bốc lên cao, lửa gặp mái nhà tranh mùa nắng và gió cháy ào ào rừng rực, nhưng không phải đang cháy nhà nó mà là nhà dì Ba Ninh kề bên. Ngọn lửa đã thiêu rụi đám mía trước nhà đang lan sang vườn nhà nó, bà con chạy tới chạy lui rần rần, la í ới, người múc nước chuyền tay tạt vào dập lửa người tìm cách không cho lửa lan sang chỗ khác, lan cháy cả làng là chết chùm hết, người phụ khiêng đồ ra hết bên ngoài phòng lỡ có chuyện xấu tới. Nhà dì Ba Ninh thì coi như không thể cứu chữa. May sao lửa đang cháy bừng bừng, tàn bay rợp trời tứ tán, chực chờ bay lên nóc nhà nó thì cơn gió khựng lại và đổi chiều, một chuyện lạ lùng xảy ra. Lửa từ từ bị bà con dập tắt. Cả nhà và bà con thở phào nhưng nhà dì Ba thì chỉ còn đống tro tàn. Dì Ba bần thần không thốt ra lời mà nước mắt cứ tuôn rơi. Nhiều người không biết lửa từa đâu, dì Tư Thể hỏi:
“Làm sao mà nên nông nổi này?”.
Dượng Ba Ninh ngơ ngác:
“Tui chẳng biết gì hết, đang nằm hóng mát phía sau nhà, thiu thiu giấc trưa thì nghe cháy rột roạt từ vườn mía rồi, cháy nhanh hơn bão, ào ào táp vô nhà luôn”.
Chú Tám phèn nói:
“Rồi, bị xe than rớt xuống rồi, hồi nãy có một chiếc chạy ra, cháy lại bắt đầu từ ngoài đường cháy vô”.
Anh Ngạo chạy ra phía đường rồi chạy vô, anh giơ lên cục than còn khói:
“Đúng rồi, còn nó đây nè”.
Mọi người lắc đầu:
“Biết làm sao bây giờ, làm sao đền được, nó chạy mất tiêu rồi, lại không bắt tận tay làm sao vây được cánh”.
Tai họa chưa dừng lại. Có ai thấy gì đó trong đống tro tàn nhà dì Ba và báo lên xã. Công an xã lại kiểm tra phát hiện ra nhiều thịt bò bị cháy khét, lục lọi quanh nhà phát hiện thêm nhiều xương khô, những con chó moi lên mà dì Ba chôn không kỹ. Công an hốt hết và mời dượng Ba đi cùng. Dượng Ba phải khai ra là mổ bò lậu đưa đi Sài Gòn, cỡ mỗi tháng một con và làm lậu đã gần một năm nay.
Hai ngày sau trong lúc bà con cô bác lại giúp dì Ba dựng đỡ căn nhà ở tạm thì dượng Ba bị còng và dẫn giải ra chiếc xe lam chở đi. Dượng Ba đi tù sáu tháng. Cũng từ đó nhà nó và bà con cận kề mất phần thịt như đầu, xương, giò cẳng, lòng mà dì Ba bán rẻ như cho, phần chuyển lậu đi chỉ chủ yếu là phần thịt và xương sườn. Mỗi lần nhận phần từ dì Ba má nó cho vô cái nồi gang số năm mươi miệng to hơn cái miệng thúng, thường để luộc măng tươi cả mấy chục ký mùa măng, cái nồi số mười nấu cơm phải hai chục người ăn rồi mà, nồi lớn dấu trong cái thùng phuy bị sét đáy cắt đứt luôn, độn thiệt chặc trấu bên trong, đốt trấu âm ỉ cháy thành cái bếp hâm nóng cho nồi thịt khỏi thiu, khi ăn dở nắp đậy phuy chồng thêm mấy lớp mấy tầng thúng mủng có đồ đè nặng cho kín kẽ mà múc. Dì Ba bán rẻ dĩ nhiên một phần tình cảm phần còn lại cũng ý muốn bà con che dấu, gần kề bên dễ gì không phát hiện. Bà con thì được có thịt thà lại rẻ trong hoàn cảnh khó khăn thì sao lại không im lặng. May là dượng Ba chỉ khai một mình làm, bà con xung quanh không ai biết, chớ không sẽ liên lụy vướng tội không khai báo, tiêu thụ tài sản phạm tội.
***
Từ ngày nhà dì Ba Ninh bị cháy, dượng Ba bị bắt, món thịt đầu, xương, giò không còn nữa, nó thằng Chí bầu bạn với trái khế chua, lá me, lá giang mọc hoang trên những ụ mối sau vườn, lá giang mọc quanh năm, mùa nắng lá nhỏ và lá không còn xanh mơn mởn, chuyển vàng vàng trong nắng gió và chua thêm. Chỉ cần một trái khế, nhúm lá me, lá giang với chất chua này thảy vô nồi nước sôi, chút muối chút bột ngọt, lâu lâu có vài con cá liệt cá mai là đủ đẩy miếng cơm, lát khoai xuống khỏi cổ họng, lấp đầy bao tử. Với tụi nó những loại chua này là “món vàng” theo năm tháng!.
Gần cuối năm lớp mười một, tiết trời sắp mưa nên nóng bức. Nó nói nhỏ với thằng Chí:
“Lát chờ tao cầu số năm nghe mậy, có lạc cũng đừng có về trước”.
Thằng Chí hỏi lại:
“Chi vậy, có gì sao giờ hông nói?”.
Nó đá lông nheo”
“Bật mí chút đi, giờ chỗ đông người”.
Nó tới trước, đứng đợi ngay cầu. Thằng Chí hơi căng căng:
“Có gì hông mậy?, làm tao hồi hộp”.
Nó cười:
“Có khỉ gì đâu mày ơi, hồi nãy hông tiện nói, kỳ thấy mồ, chuyện ăn uống…”
Thằng Chí cắt ngang:
“Tao làm gì bậy hả?”.
Nó giãy nãy:
“Đâu có, đâu có, ý tao nói mày chờ tao cùng về nhà tao, bữa nay có đám giỗ”.
Thằng Chí ạ ra:
“Trời! làm tao hết hồn hết vía”.
Hai đứa cười ha ha, theo con gió bấc đang thổi mạnh đạp vèo vèo.
Hai đứa về tới thưa đi học về, Má nó khựng lại:
“Ý, chết cha, con kêu thằng Chí mà hông nói với má, với lại bà con tới đông, lâu ngày được bữa ăn như tằm ăn rỗi, mì Quảng còn có một tô hà con, hay chia nhau đi rồi ăn xôi gà, xôi gà còn nhiều, dĩa nhỏ với dĩa bàn hột xoài bự đó con”.
Nó hơi buồn, nhưng nghĩ lại thôi, bà con cô bác không mà. Nó nói:
“Ê, mì tao xực hoài, ăn mòn răng rồi, thôi mày ăn tô mì với dĩa nhò, còn tao dĩa tổ chảng này, tao đói lắm rồi”.
Thằng Chí bưng tô mà lựng khựng:
“Được hông đó mày”.
Nó ngoạm miếng xôi gà:
“Gì hông được, mày biết tánh tao mà”.
Thằng Chí húp nước rột rột, cắn trái ớt hiểm:
“Đã quá mậy, má mày nấu đồ ăn là số zdách”.
Nó vừa nhồm nhoàm vừa cười hề hề:
“Ừ, má tao nấu ai chê tao… xực hết, xôi gà cũng tuyệt đỉnh nè mày”.
Thằng Chí xong tô mì, tiếp dĩa xôi gà và gục gật, nó chiến gần xong dĩa bự, nó hỏi:
“No hông mậy?”.
Thằng Chí gật đầu:
“No cành hông, uống nước hông nổi”.
Một dĩa bàn xôi gà nhét vô cái bao tử bụng nó phình lên như cái trống, khệ nệ rinh “cái trống” dẹp dọn ra ảng nước, bưng cái ấm đen thùi vì ám khói đang bắt trên bếp ngậm vòi uống ngụm nước, cái bụng phình ra thêm như bà chửa, tức anh ách khó chịu, mùi mỡ, mùi thịt gà còn vướng lại trên cần cổ còn khó chịu hơn làm muốn mữa ra, nó lấy hết sức vịn chặc bụng cổ, đâu muốn món ngon hiếm có trào ra ngoài. Thằng Chí thấy nó nhợn nhợn hỏi:
“Bị gì hông mậy sao thấy tái lét?”
“Hông có gì, tao no quá thôi”.
Thằng Chí vừa cầm ghi đông xe ra về, nó định bước vô phản nằm xuống nhưng cái bụng cái cổ hết chịu nổi, bụm miệng chạy ào ra bụi chuối, bao nhiêu xôi bao nhiêu gà, bao nhiêu nước tuôn ra, tuôn ra như dòng thác, người nó quay cuồng rồi ngã cái ình trên cái đống mới vừa ói ra. Thằng Chí buông tay rùng mình dìu nó vô nhà lăn xăng tìm chai dầu sức tới tấp:
“Nghi mày trúng gió quá”.
Nó đã thấy đỡ lòm cồm ngồi dậy:
“Hông phải đâu mày, ham ăn hốc uống quá thôi”.
“Đói thấy mồ hông ham sao được, nhìn bụng y như bị mắc tam tích”.
“Ích bụng, tiêu có kịp đâu”.
Hai thằng cười hà hà.
Từ đó về sau này, thịt gà thì nó còn ăn chút ít, nhưng nghe nói tới xôi nếp, và nhứt là xôi gà là nó tránh xa liền, sợ như gặp phải rắn hổ mang, năn nỉ cho tiền nó cũng chạy, thêm hai món nó cũng không bao giờ đụng tới là khoai lang hầm dù có ngào đường và bobo. Về chuyện thấy ớn này nó nhớ lại chuyện anh thằng Hào kể về anh bạn chiến đấu cùng đơn vị, một người gan lỳ từ nhỏ chưa biết sợ điều gì ấy vậy mà từ chiến trường trở về, mỗi lần thấy con bọ hung, hay những con giông giống như vậy, bọ cánh cứng, con gián là nhắm mắt nhắm mũi chạy, chạy mất dép không dám nhìn, một cái ngoái đầu liếc sơ cũng không, nhiều người thấy lạ sau cùng mới biết ra anh đã thấy xác người phân hủy và bị bu quanh đầy là những con vật hình thù này.
Những ám ảnh không bao giờ xóa nhòa được…
LÊ ĐẮC HOÀNG HỰU