VIẾT GIỮA MÙA ÔN DỊCH

GIÀ, RỒI SAO NỮA?

Già rồi chết, chứ trăng với sao gì nữa!

Ừ, thì chết, nhưng chết ra làm sao, chết rồi đi về đâu?

Cái chuyện này chưa biết à nghen, chưa chết sao biết được, với lại ai mà không sợ chết, nói tới cái bộ xương có cánh tay cầm lưỡi hái, sợ lắm!

Sáng trưa chiều tối, lúc này thấy nó cứ lẻo đẻo đi theo như hình với bóng, cái hơi lạnh của nó tỏa ra mù mịt còn hơn cảnh sát dã chiến thả hơi cay nữa kìa, nhưng mà trước sau gì chẳng chết, thôi thì thử nói một lần này rồi sẽ tịt luôn.

Chết là hết thở, không học trường y ai cũng biết. Chết dễ ợt, nhắm mắt xuôi tay thế là xong.

Nhưng cũng chưa xong, còn phải dọn dẹp cái thân tứ đại kia nữa chứ.

Nghe nói, ở vùng núi Hy mã lạp sơn, có một sắc dân, chết không chịu chôn mà lại khiêng lên núi để nuôi lũ chim kền kền.  Cả ngàn con chim trời sinh ra chỉ để ăn xác thối làm sạch môi trường cứ bay lượn trên cao hóng mỏ ra chờ, đợi lũ người sống kia gào khóc chán chê, bỏ ra về, chỉ loáng một cái, chúng phủ thành một đống đen kịt, rồi chỉ trong chớp mắt là lóc sạch cả thịt da phèo phổi, chỉ để lại bộ xương trắng hếu, thêm lưỡi hái và đôi cánh nữa là thành thần…chết.

Một bước thành thần, cũng hay!

Nhưng một vài bộ lạc ở châu Phi còn hay hơn. Những lão già cúp bình thiết như tui, con cháu không nuôi nổi nữa, thế là cụ được mời leo lên cây, rồi cả bọn cùng nhảy múa loạn xạ, chọc quê hả mồm nhíu mũi, làm đủ cách kể cả cầm gậy thọc đít, miễn sao cho cụ rơi xuống, thì lạy chúa tôi, coi cụ như con nai con hoẵng vừa săn được, cả nhà hay cả xóm được no nê (và ngon miệng) một bữa!

Trường hợp nhảy múa hoài mà cụ không rớt xuống thì lại được đem về nuôi, nhưng hiếm khi lắm, gần như không có bao giờ.

Thực là nhanh gọn và tiện lợi. Người chết không để đức mà để thịt cho con cháu, phụ tử tình thâm của xứ đói là như vậy. Đừng chê cười họ man di mọi rợ. Cái nước Tàu có đến những 5000 năm văn minh kia, trong thời kỳ đại nhảy vọt, nhà này đổi con cho nhà kia, để ăn cho đỡ chết đói. Văn minh ở chỗ họ không nỡ hay không dám ăn thịt con mình mà thôi. Còn ăn kiểu gì thì khỏi phải nói, không ai chế biến thức ăn ngon bằng người Tàu, nhất là món thịt người rất quý hiếm.

Ở nước Nhựt, xứ sở ưa harakiri, trong những làng quê nghèo, người già phải biết chọn cách chết sớm nhất để bớt một miệng ăn cho con cháu. Truyện được một nhà văn Nhựt kể lại cảnh anh con trai cõng mẹ lên núi để mẹ nằm chờ chết. Bà cụ rất can đảm, bảo anh con trai đừng quay đầu nhìn lại để mẹ được chết trong lúc tuyết đang rơi là hạnh phúc. Trong khi một lão cùng làng sợ quá tìm cách xuống núi trong sự khinh ghét của mọi người,

Ở nước ta, chỉ có Lục Vân Tiên cõng mẹ, hết chạy ra đến chạy vô, chạy hoài hụt hơi cũng dám chết lắm đó, nhưng nếu thế thì cũng đáng mặt là trai thời trung hiếu làm đầu! Ở Tàu (lại Tàu!), Quách Cự chôn con để cha mẹ sống cũng được vinh danh trong nhị thập tứ hiếu (tội giết người mà được khen, đúng là luật của Tàu)!.

Còn nhiều cách chết lắm! Chết trong đồn công an bằng sợi dây thun nè, (sợi dây thun mà sao siết được cổ tới chết nhĩ, chắc là chết vì nuốt dây thun kiểu như gà)/ Rồi chết có thưởng của Hồi giáo cực đoan nữa nè! Quấn thuốc nổ quanh người, rồi đến chỗ có đông bọn tư bản rẫy chết kích nổ, sau khi tan xác pháo chẳng những được lên thiên đàng mà còn được thưởng đến những bốn mươi cô con gái Ả rập mắt đen và to, đẹp không chịu được lại còn trinh, thế thì ai mà không ham chết kể cả Tây mùi lỏ!

Còn chết rồi đi về đâu, thì mấy ai mà biết được. Sống gửi thác về, ông bà tôi thường nói chết là về quê kiểng, kiểu như đi xa về thăm nhà, hay Việt kiều yêu nước về thăm quê hương. Cái khúc ruột ngàn dặm đó (dài đến nỗi có thể quấn quanh trái đất mấy chục vòng), giờ không nên hát bài nối vòng tay lớn nữa mà là hát bài “nối khúc ruột dài”,mới hợp lòng dân ý đảng, lâu nay nó đóng cục đóng hòn (như táo bón) vì nhớ nhung, giờ nở bung ra sướng khỏi chê.

Các nhà văn và thơ hậu hiện đại thì bảo là đi về thế giới người hiền, ý chê cái thế giớt này ô trọc và hung dữ quá.

Thực ra, nói thế cũng chỉ là cách nói để bớt sợ khi nghĩ tới cái chết mà thôi. Phật và Chúa còn khôn hơn nữa, các ngài vừa dụ khị vừa đe nẹt. Đứa nào nghe theo lời ta làm điều thiện thì được lên Thiên đàng, đứa nào không chịu nghe, làm điều ác thì phải xuống địa ngục. Thiên đàng, hay cõi trời Đâu Suất, không làm cũng có ăn, còn địa ngục chẳng những phải ăn dòi mà còn bị cưa xẻ, bị lửa thiêu cháy nhưng không chết (sao lọa vậy cà?).

Nói là vậy chứ có ai ở thiên đàng hay địa ngục trở về đâu mà biết rằng láo hay thiệt. Thôi thì nói như Bùi Giáng. Rằng “ngày sẽ hết, tôi sẽ đi dù chưa biết đi đâu”.

Ở cõi trần, ông đã Sài Gòn Chợ Lớn đôi nơi/ đi lên đi xuống đã đời du côn*. Thì chết rồi ông vẫn tiếp tục đi, dù hình hài không nhứt thiết phải là một ông già khùng vác cây đu đủ đeo đủ thứ lon múa nhảy ở cầu chữ Y hay cầu NhịThiên đường. Có thể là một hạt bụi âm thầm nhớ đất quê, cũng có thể là chút ánh sáng lập lòe trên lưng con đom đóm. Đi đâu thì cũng chỉ trên trái đất này mà thôi, nơi có gái mọi, có chuồn chuồn bươm bướm và những em dê trắng dê vàng.

Bỡi sao? Bỡi vì ông không thành thần, không thèm gặp cụ Mác cụ Lê, không thèm 40 cô gái trinh, mà chỉ thèm đã đời du côn thôi. Ông chắc chắn sẽ đi vào văn học và ở mãi trong đó chứ không chịu ra. Có điều, ông luôn mang theo cây gậy (du côn mà), các “nhà phê bình” mác xít đứng trên lạp xường giai cấp hay phê bình dóc tổ và láo xược, coi chừng ông phang cho một gậy u đầu!

Khuất Đẩu

Viêt trong mùa ôn dịch

*chớ nhầm chữ đi này với chữ đi khách của các em mà mang họa vào thân!

*Phụ chú chữ già

– già dê, già dịch: già mà cứ láng cháng bên gái trẻ.

– già gân: chỉ cụ Trần văn Hương, cựu thủ tướng VNCH, đi làm bằng xe đạp. Nổi tiếng với câu thơ: Ngồi buồn gãi háng dái lăn tăn.

– già mồm, già họng: cải bướng, sai vẫn cứ cãi. Gái đĩ già mồm

– già khú, già khú đế: quá già

– già si cốc đế, già cúp bình thiết, già hết thuốc chữa, già quá cỡ thợ mộc: đồng nghĩa quá già.

-già mà ham: như già dê, già mắc dịch

-già không chịu chết: rủa sả mấy cs già

-già sao cho sướng: tên tác phẩm của Đỗ Hồng Ngọc

-già rụng răng, già hết răng: tả chân

-già teo chim: tả thực

CHẾT LÀ HẾT, THIỆT HÔN?

Nói vậy chớ không phải vậy!

Đành rằng chết rồi, như Bác nằm trong lăng kia, có biết gì nữa đâu, nhưng quanh Bác còn có 5 triệu đảng viên, hàng triệu thanh niên yêu nước và cháu ngoan bác Hồ. Có nghĩa rằng, chết vẫn chưa hết và không bao giờ hết, vì hãy còn nhiều chuyện, rất nhiều chuyện của người ở lại, tức là người sống. 

Mà những người ở lại thì có biết bao nhiêu chuyện để nói, để hỏi, để thưa, để xin ý kiến, để đàm tiếu…

Như Bác có bao nhiêu tên thiệt và tên giả, có bao nhiêu người yêu, bao nhiêu vợ, bao nhiêu người đêm khuya đem chất tươi vào tẩm bổ cho Bác? Ngay cả phòng nhì của Pháp và điệp viên bí mật của Mỹ cũng không biết chắc.

Thôi thì coi như bí mật quốc gia, nói tới lảm gì cho giảm tuổi thọ (một ngày một giờ lúc này của tôi rất quý).

Giờ hãy nói chuyện tầm phào, kiểu nói láo mà chơi nghe láo chơi của Bồ Tùng Linh vậy.

Đúng là chết vẫn chưa hết chuyện. Nóng hôi hổi lúc này là con virus của Vũ Hán. Nó gây ra biết bao nhiêu cái chết, khiến cho bánh xe tiến hóa của thế giới trật đường ray, nằm chình ình một chỗ.

Người đầu tiên nhìn thấy mặt con quỷ bảy màu đó, là bác sĩ Lý Văn Lượng. Lúc đầu nhà nước Tàu lôi ông ra tòa đòi kêu án vì tội phản bội tổ quốc (rất đúng người đúng tội vì tổ quốc Tàu nói láo còn ông nói thiệt), sau đó rủa sả ông không tiếc lời. Khi ông chiến đấu một mình với nó đến mệt phờ rồi cuối cùng thua cuộc phải vào nhà thiêu xác, thì nhà nước liền quay ngoắc 180 độ,  ca ngợi không hết lời là đại anh hùng! (tiếc gì hai tiếng anh hùng mà không ban khen, ông mà còn sống, dám “chốn” được sang các nước tư boản, là Tập Cận Bình và bè lũ tiêu tán đường ngay)!

Một ngàn năm sau, cái chết của ông cũng chưa hết chuyện để nói! Riêng tôi, cái chết của ông, một lần nữa nhắc nhở cho nhân loại tiến bộ hiểu rằng, chế độ cọng sản, là tổng hợp của đế quốc La mã, của phong kiến Tàu, của Đức quốc xã, quân phiệt Nhật, độc tài Liên xô, tàn bạo và ngu dốt của Mao Trạch Đông, tức là tất cả những cái ngu cái ác nhất của nhân loại không chịu tiến bộ.

Chưa hết chuyện vì cuộc chiến giữa cái ác, cái xấu với cái tốt cái thiện vẫn còn tiếp diễn muôn đời.

Ở nước ta, nhiều cái chết lảng xẹt nhưng rúng động dư luận, tức là ầm ĩ, có thể kể Nguyễn Bá Thanh, Trần Đại Quang. Một người vừa được trao phương bảo kiếm để trừ gian diệt ác, chỉ mới dọa chém tuốt nhưng chưa kip chém đã ngỏm cù đeo, là tại sao?

Một người ngồi ghế chủ tịch nước đang béo tốt phương phi bỗng tái xanh tái mét, yếu đến nỗi cầm dùi đánh trống khai giảng cho học trò mà run lên run xuống, chết trong sự nghi hoặc và tức tối đến nghẹn ngào. Cái ghế bỏ trống nhẽ ra để bà phó lên ngồi theo như thông lệ quốc tế, thì không nói không rằng, cụ tổng nhích cái đít chai cứng vì ngồi trên ngôi cao quá lâu, sang ngồi cho nó đủ bộ bình tích, thế nà thế lào?!

Ngược lại có những cái chết không một tiếng vang, như chết trong đồn công an bằng sợi dây thun, chết khô chết héo bên cạnh đống đơn cao như núi của những người bị cướp mất đất mất nhà, hay chết trên tàu cá vì bị tàu của “nước lạ” đâm chìm!

Có những cái chết cay đắng mà cũng có những cái chết thật buồn cười. Như chết vì già mà ham, ham đây là ham gái chứ không phải ham ăn. Còn chết như thế nào, bộ dạng ra sao, ăn mặc chỉnh tề hay trần truồng vì bị lột sạch cả nghĩa đen và nghĩa bóng, thì xin miễn bàn vì đó cũng là bí mật quốc gia.

Có những cái chết để lại hậu quả nghiêm trọng. Chị bạn tôi kể rằng, một sáng đến thăm mộ chồng vừa mới mất, thấy có bó hoa đặt bên mộ, hỏi mấy đứa con, có đứa nào đến thăm mộ ba hay không, chúng bảo không, thế là lòi ra ngay cái con bồ lâu nay thò thụt dấu diếm. Thôi, từ nay đã có người thăm viếng rồi, tôi tới làm chi nữa cho nó tủi cái thân già!

Tai hại chưa, chết rồi mà vẫn chưa hết chuyện! .

Một ông bạn khác, lúc sắp chết kêu vợ lại gần để thành thật khai báo, rằng, anh lỡ dại đã có một đứa con riêng, khi anh chết, em làm ơn làm phước chăm sóc giùm, thương yêu nó vì dẫu sao đó cũng là giọt máu của anh…chị vợ tức nghẹn họng nhưng cố bấm bụng nhận lời. Thế mà trời xui đất khiến sao đó, anh lại sống nhăn răng. Thế là mời anh go out ra khỏi nhà tôi ngay, đi theo con đĩ nào thì đi cho khuất mắt!

Gần chết mà khủng khiếp như thế huống gì chết thiệt.

Nhưng nói gì thì nói, chết đau đớn nhất và buồn nhất vẫn là con chết trước mẹ (không ai cõng) và mẹ chết trước con (không ai cho bú).

Sau cái chết, chuyện đáng nói, đáng buồn và đáng sợ nhất, theo tôi là những cái mộ, những cái lăng. Có những ngôi mộ tốn hàng chục tỷ đồng, lộng lẫy như một biệt điện, có cả tivi, tủ lạnh xalon cho người chết sử dụng như lúc còn sống. Đến ngày giỗ, ngoài việc đốt cả tỷ đô la âm phủ, còn đốt cả xe hơi, tài xế, con hầu bằng giấy.

Lăng, thì ông vua nào chẳng có lăng. Nhưng qua bao dâu bể hưng phế, chỉ còn lại ở nước ta các lăng của triều Nguyễn. Lăng của Tự Đức nổi tiếng không phải vì đẹp, mà vì những khổ cực dân và lính phải chịu, đến nỗi làm loạn, còn để lại trên bia miệng với hai câu ca dao.  Vạn niên là vạn niên nào/ Thành xây xương lính hào đào máu dân!

Lăng Hồ Chí Minh vừa hện đại vừa hùng vĩ, bao quanh bằng đá quý chọn từ mọi miền của đất nước, đẹp đến nỗi được gọi là bài thơ bằng đá. Để giữ cho cái thân tứ đại của Bác khỏi bị thối rữa, có cả một đoàn chuyên viên kỹ thuật của Liên xô, và cả một trung đoàn tinh nhuệ để canh giữ giấc ngủ nghìn thu của Bác, tốn sơ sơ mỗi năm trên dưới vài trăm triệu đô la!

Vừa rồi, quốc hội có người ăn gan hùm đề nghị biến lăng thành bảo tàng, đưa xác đi chôn hay đốt theo như di chúc của Bác. Nhưng, tất cả lại rơi vào sự im lặng rất đáng sợ, vì không còn ai dám nói nữa và vị dân biểu không rõ còn sống hay đả chết một cách không bình thường như Trần Đại Quang, Nguyễn Bá Thanh.

Với tôi, chết chắc cũng chưa hết chuyện, dù chỉ là một công dân hạng hai chẳng đóng góp chút gì cho quôc gia dân tộc, thì xin đừng xây mộ hoành (bánh) tráng, (nói chơi chứ tiền đâu xây), mà hãy đốt như đốt rác cho khỏi mất vệ sinh, chút tro còn lại thì xin rải trên mồ mẹ, coi như con của mẹ lại nằm trong lòng mẹ, là đủ rồi. Mong lắm thay!

Khuất Đẩu

Viết trong mùa ôn dịch

ÁO XƯA

Áo xưa dù nhàu

Cũng xin bạc đầu

Gọi mãi tên nhau

Trịnh Công Sơn

Áo xưa là áo cũ, chứ không phải áo của vua quan triều Nguyễn ngày xưa, bày ra khoe cho Tây mũi lỏ lé mắt coi chơi. Cũng không phải chiếc áo của anh dân quê hôm qua tát nước đầu đình/ bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen/ em được thì cho anh xin/ hay là em để làm tin trong nhà. Lại càng không phải chiếc áo yêu nhau cởi áo cho nhau/ về nhà mẹ hỏi qua cầu gió bay!

Đó chỉ là những chiếc áo đơn sơ bình thường của những người thân trong gia đình và của chinh tôi đã mặc trong những ngày tháng cũ.

Cha tôi mất sớm, nên tôi không nhớ ông mặc gì: áo trắng, áo nâu, áo vạt hò hay áo sơ mi, chỉ nhớ có mỗi chiếc áo dài lương đen ông mặc một lần khi cúng khai tâm cho tôi.

Cúng khai tâm là cái lễ của những người ngày xưa học chữ nho. Đến thời chữ quốc ngữ, vì ông và cha tôi đều biết chút ít chữ nho nên vẫn giữ lễ để mở cái tâm đang đóng kín của tôi ra, như cách những người làm tượng khai quang điểm nhãn hay vẽ mắt sau khi đóng xong thuyền. Cũng nghiêm trang trịnh trọng lắm. Nghe đâu cha mẹ tôi trước đó không được “gần” nhau, còn tôi được cúp tóc ca rê, tắm rửa sạch sẽ, thay áo mới, đứng trước bàn thờ bày giữa sân lạy ba lạy, chẳng biết lạy thần gì chỉ thấy trước mặt một con gà luộc tươm mỡ đang nằm bẹp trên một cái đĩa to tướng, cùng với mấy tô cháo và đĩa xôi giữa làn khói nhang trầm đang uốn éo bay lờ đờ.

Rồi tôi được ăn nguyên một cái đầu gà nhổ còn sót lông, nuốt luôn cả 2 con mắt đang trợn trừng đến phát sợ, để học cho được sáng trí và mau tấn bộ. Còn cha tôi, áo dài cũng đã cởi, đang ngồi uống rượu cùng ông tôi và bạn của ông.có chòm râu dài tới ngực. Dường như họ đang cầm cái chân gà không phải để nhậu mà để coi xem thần phán thế nào trên mấy cái ngón cong nhiều hay cong ít đó, mà đoán định được tương lai học vấn của tôi. Có lẽ đó là cái chân của con gà ăn quẩn cối xay hay bị què, nên chuyện học của tôi chẳng đi đến đầu đến đũa, cứ lẹt đẹt gần chót bảng!

Mấy tháng sau, cha tôi bệnh thương hàn mà ngày đó chưa có thuốc chữa, ông tôi chỉ biết xì xụp lạy cầu xin tổ tiên cứu giúp, còn bà tôi thì niệm quán thế âm bồ tát xin phù hộ, nên ông không qua khỏi! Chiếc áo để lại cho ông tôi mặc trong những dịp tết, cúng giỗ hay cúng đình. Áo lương đen rất mỏng và thưa, nếu chỉ mặc một mình nó thôi thì người khác thấy cà da lẫn thịt (kiểu như quý bà quý cô sành điệu bây giờ mặc áo xuyên thấu! may mà không có mốt quần xuyên thấu!) Chiếc áo mỏng quá, sợ rách không giặt nên bị dán nhấm càng lúc càng nhiều, đến một lúc nào đó không thể mặc được nữa, bà tôi đem cất kỹ trong rương, coi như kỷ vật của đứa con trai duy nhất.

Chiếc áo quen thuộc thường ngày của ông tôi lại là một chiếc áo bành tô của hải quân Pháp, được ông anh họ có một bà vợ đầm lai, khi tản cư về làng, cho. Áo dệt bằng len thô trộn với tóc, dày gấp chục lần áo lương, mùa hè mặc rất xót, nhưng mùa đông lại rất ấm. Áo có cả chục hạt nút bằng đồng đen xỉn, mỗi hạt đều có hình mỏ neo.

Ông mặc chiếc áo đó từ năm 1945 đến 1965 vẫn chưa rách. Nó chỉ bị đốt cháy cùng với ngôi nhà. Sau đó, khi làng bị đốt trụi biến thành vành đai trắng, ông lén trở về và bị trực thăng bắn chết bên hàng dậu. Phải chi còn chiếc áo ấy đắp lên mình, chắc ông đỡ lạnh khi phải nằm dưới mộ sâu!

Chiếc áo mà tôi lúc nào nhớ tới cũng muốn khóc, là chiếc áo của mẹ tôi. Đó là chiếc áo dài mẹ mặc khi gặp thầy hiệu trưởng, lúc mẹ từ Quy Nhơn vào Ninh Hòa, thăm con. Một chiếc áo thâm đen đơn sơ, hai tà có may hai đường xếp nếp vì đang còn chịu tang ông.

Lúc ấy mẹ trẻ lắm vì hơn con chỉ 18 tuổi, cả trường cứ tưởng là chị cả của con. Chiếc áo đơn sơ quá, dù lúc ấy mẹ đủ tiền để mua một chiếc áo đẹp hơn.

Mẹ là người đàn bà khổ cực nhất trên đời mà con được biết. Cha con chết lúc em mới 3 tháng tuổi, con nghe mẹ gào chứ không khóc, rồi mẹ thảy em cho con bồng, tập buôn tập bán, chạy chợ trên xuống chợ dưới, kiếm từng hạt cơm manh áo để nuôi chúng con.

Có lần mẹ đi chợ về, trông thấy con bế em vụng về như mèo tha dưa cải, mẹ đã quăng cả gánh hàng, nhào tới bế em, mẹ thì khóc còn em và con đều cười toe vì em có sữa và con có quà!

Một lần khác, chưa kịp vào nhà mẹ đã hối “múc cho mẹ gáo nước, đi con”. Cầm gáo nước, mẹ uống như người sắp chết khát, nước vừa chảy vào miệng mẹ vừa chảy trên ngực áo cũng đang ướt vì căng sữa, trong khi lưng mẹ cũng ướt đẫm mồ hôi vì phải chạy trên đường xa dưới cái nắng đổ lửa.

Chiếc áo bạc màu ấy, không chỉ một mà rất nhiều vì cả đời mẹ tôi luôn mặc như thế, và lúc này đây tôi đang khóc vì đang viết về những chiếc áo xưa cũ của mẹ.

Một chiếc áo khác, cũng rất đơn sơ, là áo của bà tôi. Áo nhuộm màu nâu, tay áo dính vôi và nhựa cau, vì bà thường lau miệng khi ăn trầu. Chiếc áo ấy làm tôi vui mà cũng nhiều khi làm tôi sợ, mỗi khi bà leo cau bẻ buồng và bắt chim sáo cho tôi. Trên cao tít, cái dáng mong manh của bà in lên nền trời xanh, là hình ảnh xúc động nhất thường hiện ra trong những giấc mơ của tôi.

Từ khi con trai chết, bà gần như chìm khuất dưới sắc màu toàn là nâu: áo nâu quần nâu, khăn bịt đầu cũng nâu, một màu nâu mộc mạc thật buồn.

Tôi cũng hãy còn giữ một chiếc áo sơ mi, nút xương bò nhưng dệt bằng tơ tằm, gọi là đũi, rất chắc. Đó là chiếc áo được may bằng máy chứ không may bằng tay như áo mặc thường ngày. Bà đã đem bao nhiêu kén do bà nuôi đổi cho người ươm tơ để lấy đũi về may áo cho tôi, khi tôi thi đậu vào lớp 5 tức là lớp 6 cấp hai bây giờ. Kiệt Tấn được mẹ may cho chiếc quần có hai túi trông cũng le lói lắm, tôi thì áo đũi nhuộm nâu, cũng rất sang chảnh đâu có thua gì.

Đây đúng là áo xưa vì đũi lúc nào cũng nhàu nhò, hãy còn được vợ tôi cất kỹ để khoe với mấy đứa cháu nội.

Vợ tôi cũng có một chiếc áo mà tôi rất thích, áo lụa màu tím than, mặc trong dịp vợ chồng cùng được mời đi họ trong lễ cưới cháu trai một người bạn. Ngày ấy, ba vòng chưa bằng nhau, nàng 50  xúng xính bên một ông chồng già 60, trông cũng nhỏ nhắn dễ thương, nhiều người cứ tưởng lầm là gái Huế.

Không phải áo của Bác, cũng không phải áo của hoàng hậu Nam Phương, nên chẳng chiếc áo nào được cho vào viện bảo tàng. Chỉ có trái tim tôi coi như một bảo tàng tư nhân sống, được cho vào một cách nâng niu đầy thương nhớ thương mà thôi.

Khuất Đẩu

Viết trong mùa ôn dịch

LẠI NÓI CHUYỆN XƯA!

Sống mãi đến cái xuân thứ tám mươi không còn xanh nửa, tôi mới nhận ra đươc điều này. Ấy là, càng đi gần tới chỗ không muốn tới mà vẫn cứ phải tới, là cõi tử, chân không muốn bước thêm chút nào nữa, chỉ muốn đứng quay đầu nhìn lại. Mà quay đầu thì chẳng còn chuyện gì để nói ngoài chuyện ngày xưa.

Không phải ngày xưa chúng mình yêu nhau, mà là những ngày còn bé, có khi còn nhồng nhỗng cỡi truồng tắm mưa.

Như chiều nay, sau những ngày nắng như có khói, bỗng dưng một cơn mưa không báo trước, lặng lẽ trút xuống. Mưa mà không có một chút gió, nên hạt mưa rơi theo chiều thẳng đứng (mượn tên một cuốn phim), hạt mưa dài có lẽ đồng  đều nhau, căng từ trời cao xuống đất, lúc nào cũng song song, như sợi vải mắc trên khung cửi, một khung cửi khổng lồ, mà thợ dệt chính là thợ trời.

Cho nên phải nói là quá đẹp, đẹp ở ngoài trời và đẹp ở trong lòng. Tiếc là hạt mưa rơi thẳng trên mặt đường nhựa, bắn tung tóe, chứ không mưa như mưa trong lòng tôi ở quê nhà.

Sân nhà bằng đất, nên hạt mưa rơi xuống làm đất mềm ra, một lúc sau nổi bong bóng. .

Trời mưa bong bóng bập bồng

Mẹ đi lấy chồng con ở với ai?!

Lúc nhỏ, chưa có nỗi sợ nào bằng sợ mẹ (lỡ dại!) bỏ con đi lấy chồng. Những chiếc bong bóng cứ hiện ra rồi vỡ toang như giọt nước mắt của con. Cũng có lúc, giống nước sôi vì con đang tức sôi máu khi nghĩ tới những người đàn ông dám cướp mẹ.

Chưa bao giờ mẹ có ý định đi lấy chồng dù khi cha mất, mẹ mới có 23 tuổi và con nhớ răng mẹ đen, tóc mẹ dài, da mẹ trắng, phải nói là còn trẻ và đẹp. Vậy mà tôi vẫn cứ sợ và ghét những người đàn ông không phải là cha tôi mà lại láng cháng muốn tôi kêu bằng cha. Bọn họ cứ thậm thò thậm thụt, đứng cửa trước chờ cửa sau, hỏi mua thứ này bán thứ nọ, có kẻ mon men cho món này tặng món kia định mua chuộc cái thằng nhỏ cứng đầu là tôi. Cái tiếng “dượng” thật dễ ghét và càng ghét hơn khi có thêm cái tiếng “ghẻ” dơ dáy kèm theo.

Mưa êm như thế này, mà mưa trên nhà lá mái, người nằm trong nhà chẳng hề hay biết. Chỉ có lũ trẻ, trong đó đầu têu là tôi cùng với bọn trẻ hàng xóm ùa ra tắm mưa.

Không gì thích bằng được tắm dưới một cơn mưa mùa hạ, mưa như có hàng ngàn cái vòi sen cùng mở một lúc, nước ngập đầy sân tha hồ mà lăn mà lộn. Có thêm tiếng sét càng vui hơn nữa, cả bọn đều nhảy dựng lên la hét rồi ù té chạy vào nhà.

Bọn con gái đương nhiên không dám tắm truồng, chỉ ngồi trên thềm thò cẳng xuống hứng nước từ giọt tranh hay hái lá thi nhau thả thuyền.

Những chiếc thuyền màu xanh tự bơi tự lái theo dòng nước, có lúc nhanh lúc chậm, cuối cùng ngập ngừng đôi chút rồi buông mình xuống một chỗ thấp hơn, xoay tít trước khi cuốn theo dòng nước chảy xiết đổ ra vườn. Lá đứa nào rơi xuống trước là thắng cuộc đua.

Mưa sẽ ngon hơn, ấm hơn nếu lúc ấy được mẹ hay bà dúi cho một củ khoai lang lùi trong bếp tro nóng. Và béo hơn nữa, thơm ngon hơn nữa, nếu được một cuốn bánh xèo!

Cái tiếng reo nức nở chào nhau của mỡ và bột khi gặp nhau trên khuôn nóng nghe mới tuyệt làm sao. Xèo! Hơn cả hai, hơn cả hế lô. Huế, đặt tên cho con gái tên người nào cũng lạ và đẹp, nhưng đặt tên cho món bánh bằng bột trộn tôm thịt rán mỡ heo là “khoái” nghe điệu đà mà không mấy hấp dẫn. Đọc theo giọng miền nam là “phái” nghe càng tệ hơn nữa, sao bằng “bánh xèo”, chưa ăn đã nghe nước miếng tươm ra đầy miệng rồi.  

Mưa tạnh, cả sân vườn bỗng dậy mùi thơm của cây lá và hương nước mưa. Tôi nói hương nước mưa là nói thật chứ không phải làm văn chương. Vì sao à? Vì mặt sân đang nóng gặp nước mưa, hơi bốc lên ngùn ngụt, mùi của đất, của rơm rạ, có cả mùi hương của cau hương của bưởi thì gọi chung là hương nước mưa cho nó gọn.

Cùng lúc, nổi lên bản hòa âm của oàng ương, ếch nhái và dế mèn. Một bản hòa âm không có nhạc trưởng, mạnh đứa nào đứa nấy chơi, lộn tùng phèo nhưng mà vui, ồn ào một cách rất chi là dễ chịu.

Âm thanh ở quê nhà còn có tiếng võng đưa kẽo kẹt, tuy không ngọt ngào nhưng đong đưa nũng nịu dể làm mình, dù không được ai đưa cũng muốn ngủ. Nghe kẽo kẹt bỡi hai đầu dây nghiến vào gỗ như hai thân tre cọ vào nhau, chứ không phải sột soạt như những chiếc võng nilon núp dưới các lùm cây ở các ngã ba sung sướng.

Buổi xế chiều nghe tiếng xay lúa rào rạo êm êm cũng rất dễ muốn ngủ, thì cứ ngủ đi, một lúc sau sẽ có tiếng chày giã gạo nện thình thịch vào cối gọi mình dậy.

Đến chiều là tiếng cơm sôi trong bếp, rồi mùi thơm của rau lang luộc, mùi cá kho hâm đi hâm lại vẫn cứ thấy ngon, và bữa cơm chiều của nhà nghèo được dọn ra trên chiếc nia đặt giữa sân, rồi tiếng nhai nhót nhép, tiếng húp rột rột, giữa những tiếng heo kêu ụt ịt, tiếng nghé ngọ của trâu bò về chuồng.

Tiếng cơm sôi quê mùa thế đấy cũng đã bước vào văn chương mà không cần phải qua hội nhà văn.

Giang hồ? ta chỉ giang hồ vặt

Nghe tiếng cơm sôi cũng nhớ nhà!

(Phạm Hữu Quang)

Già, tai đã nghễnh ngãng nhưng sao tiếng gì của ngày xưa nghe cũng thật hay. Phải chăng vì trong cái nghe ấy còn có chút ngậm ngùi vì biết đâu chiều nay hay sáng mai, không bao giờ còn nghe được nữa.

Rồi mắt mờ, nhưng vẫn thấy được hàng cau đứng trước nhà như những “liền anh” hát quan họ đội dù đứng đón “liền chị”. Những hàng cau thẳng đuột, thanh mảnh, theo tôi là đẹp hơn cả những hàng tre hay hàng dừa. Thôn Vỹ Dạ nếu không có những hàng cau nắng mới lên, thì đã không có những vần thơ dễ thương của Hàn Mặc Tử. Và cau cũng đi vào văn học, rồi lau lách đìu hiu của Phan Huy Vịnh, rồi lá ngô đồng, vàng rơi, vàng rơi thu mênh mông của Bích Khê…

Bến cũ hay bến xưa với cô gái chèo đò, nhớ sao là nhớ. Rồi xe thổ mộ với tiếng nhạc ngựa nhỏ thưa tràng đạc tiếng còn vọng âm của Huy Cận, Và về mái nhà xưa trông như nấm nhà buồn, để nghe tiếng hú hồn mê oan, của Phạm Duy…

Ôi chao, ngày xưa với nhà xưa, làng xưa, bến xưa, người xưa, áo xưa…những âm “xưa” nghe như tiếng mưa thu thánh thót của Đặng Thế Phong, buồn và đẹp xiết bao!

Sợ rằng, nói thêm một âm xưa nào nữa sẽ phải khóc, nên tôi xin dừng lại.

Khuất Đẩu

Viết trong mùa ôn dịch

MÊ LÀ SAO?

MÊ CÁI GÌ?

NÓI THỬ NGHE CHƠI!

(Viết vì nhớ Kiệt Tấn)

Chữ “mê” đứng một mình ên, như cô bé bên bờ Cửu Long giang (truyện của Lữ Kiều), cô thèm đi đôi guốc mới mua, nhưng thẹn thùng nên lén chị ra bờ sông chỉ để…rửa chân. Rất hiền và rất dễ thương.

Vậy mà khi thêm đầu và thêm đuôi, thì chữ “mê”lại trở nên rắc rối. Kiểu như cô nàng bỗng dưng cởi áo ra rồi mặc áo vào, phơi cả lưng và ngực giữa đất trời bao la, chắc chắn ngòi bút của nhà văn bác sĩ phải một phen bối rối.

Thêm đầu thì có si mê, đam mê, đê mê, ba chữ này nghe rất đã, ai mà chẳng ham, nhưng gây mê để lên bàn mổ, thì xin đừng.

Thêm đuôi, như mê mẩn, mê man,  mê mệt…có vẻ như dẫn ta vào đường tình, không phải tình yêu mà tình…dục.

Thời muốn đẻ bao nhiêu có sức cứ việc đẻ, có một lão nông miền Trung đặt tên con như vầy:

Mai/Tao/Lên/Chơi/

Mê/Say/Quên/Dìa.

Cũng có “kế hoạch” đấy chứ. Tám đứa, vừa đủ 2 câu thơ bốn chữ, thì dừng!

Không như bây giờ, nhà nước vận động kế hoạch hóa gia đình, áp phích treo đầy đường:

GIA ĐÌNH/

HAI CON VỢ/

CHỒNG HẠNH PHÚC!

Nình ông quá đã, (được những hai con vợ, sao không đã!) nhưng nình bà thì quá thua thiệt, xuống đường biểu tình phản đối là cái chắc.

Đem chữ “mê” đặt tên con, xem ra cũng chỉ là chuyện nhỏ. Nhạc sĩ Nhật Ngân trong bản nhạc để đời Một mai qua cơn mê, cứ tưởng là mê tình, không ngờ là mê muội vì hai miền nam bắc, suốt bao nhiêu năm cứ lao đầu vào húc nhau. Đấy mới thiệt là chuyện lớn, vì cuộc chiến vừa qua đúng là một cơn mê dài, quá ngu!

Bản nhạc được viết năm 1971, giữa lúc sắp ký kết hòa đàm Paris, nên ông mơ ước một mai hòa bình “sẽ bay đi muôn phương, sẽ hái trái đem cho mọi nhà”.

Tưởng là tỉnh táo, không u mê, hóa ra bé cái nhầm. Hòa ước ký vừa ráo mực, miền bắc liền phang tới tấp cho miền nam sụm bà chè, rồi đưa cả ngàn thi sĩ, văn sĩ và nhạc sĩ vào tù!

Tản Đà hỏi: Dân hai nhăm triệu ai người tỉnh? Có nghĩa rằng suốt đêm dài Pháp thuộc, nhiều người cứ mãi ngủ mê không chịu thức dậy. Giờ 5 triệu đảng viên, được bao nhiêu người tỉnh ngộ bỏ đảng CS? Lèo tèo, chưa đếm đủ mười đầu ngón tay! Nhưng một vài người rất đáng ngưỡng mộ.

Một người là nhạc sĩ Tô Hải, còn đươc gọi là Tô Hèn vì loạt bài ông tự thú Tôi là thằng hèn, vừa chửi mình vừa chửi đảng rất chi là phản động.

Một người nữa, là nữ nghệ sĩ Kim Chi. Bà nổi tiếng không phải vì đóng phim Cô gài Sài Gòn đi tải đạn mà vì từ chối cái rụp danh hiệu “cao quý” nghệ sĩ nhân dân mà thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng muốn ký tặng. Bà bảo tôi xấu hổ mắc cỡ khi có tên ông ta treo trong nhà. Ngon hết sẩy, chịu chơi hết sẩy. Mới đây, dù đã trên thất thập, vẫn cưới một cụ ông trên bát thập cũng bỏ đảng là tiến sĩ Mạc vân Trang. Hai người, tuy “ đã hết gân rồi còn tái giá”* vẫn được con cháu và cộng đồng mạng chúc mừng rối rít.

Nói vậy, chứ gọi cuộc chiến là cơn mê cũng chưa to chuyện bằng thêm chữ “gái” sau chữ mê!

Mê gái! Không ngờ cái đuôi “gái” này lại dài như đuôi sao chổi Halley, nó làm cho một nửa nhân loại sáng lấp lánh, còn một nửa thì tối sầm vì tím ruột bầm gan. Bài này chỉ xin nói về nửa đám nhân loại có thằng tôi trong đó.

Đúng là “chuyện bây giờ mới kể”!

Kể rằng, cái thằng tôi lúc học lớp ba trường làng, một hôm trời không nắng cũng không mưa, giữa lúc gió đồng vi vu thổi vào lớp hoc, tiếng thước kẽ thầy giáo gõ lên bàn kêu bom bóp, bỗng có một giọng con gái thỏ thẻ (và trọ trẹ nữa), dạ, trò ni đi trễ, xin thầy tha cho!

Chẳng những ông thầy nổi tiếng hung dữ (chứ không ác) quắc mắt ra nhìn, mà cả bốn chục thằng con trai hỉ mũi chưa sạch cũng trố mắt mà nhìn theo! Người bị nhìn dữ dội là một thiếu nữ chừng 13, 14 tuổi, chị của một đứa học trò tản cư chạy giặc từ Huế vào, mới học được mấy ngày. Nghe vậy, thầy cụp mắt xuống, phẩy tay cho cậu em vào. Cả lớp cũng cụp mắt theo, nhìn vào vở.

Vậy thôi. Thầy vô tư, cả lớp cũng vô tư, nhưng cái thằng tôi thì không vô tư! Suốt cả buổi học tôi cứ ngẩn ngẩn ngơ ngơ, đến nỗi bị thầy giáo đến bên cạnh nhéo tai mấy cái đau thấu trời, mới chịu tỉnh ra.

Mấy ngày sau cũng vậy! Vở sách lem luốt, chữ viết như cua bò! Suýt chút nữa bị thầy đến nhà “mắng vốn”.

Hóa ra là tại cô nàng! Không phải vì cái giọng nói trọ trẹ, mà vì mái tóc nghiêng nghiêng và đôi mắt “buồn viễn xứ khôn khuây”! Vậy là mê gái đứt đuôi con nòng nọc rồi, nói cho văn vẻ là tương tư!

Trời ạ, chưa đến mười tuổi mà đã biết tương tư. Cái bệnh này còn đáng sợ hơn cả covid 19, vì theo khảo sát của các nhà khoa học, trong số hơn 15 triệu sinh linh trên trái đất bị con covid nó hành, chưa có sinh linh nào dưới 10 tuổi bị dương tính cả.

Nhưng mà, bệnh tương tư không do virus, nên cách trị cũng khác hẳn và dễ ợt. Chỉ cần cha tôi bắt nằm úp mặt xuống phản gõ, thẳng cánh đánh 5 roi quắn đít là khỏi bệnh ngay. Tiếc thay và cũng mừng thay, ông đi làm mã tà ở cõi âm nên tôi cứ thoải mái mà mang cái bệnh ngọt ngào đó tới lúc học cấp hai.

Cũng một mái tóc nghiêng nghiêng và giọng nói trọ trẹ, nhưng không phải của học trò mà là của cô giáo, (thế mới bỏ mẹ!) Cô ấy vừa mới ra trường, lại đang fall in love một thầy giáo cùng trường, nên “mắt cô ướt và tóc cô mềm như mây mùa đông”.

Là gái Huế, vừa đoan trang (giả bộ) lại vừa diện ngầm với áo tím than và khăn quàng trắng, trông cô thướt tha yểu điệu làm sao, nên cái thằng oắt con là tôi, chết một cửa tứ, bị cô hớp mất hồn. Cha tôi dẫu có sống lại cũng khó mà chữa khỏi bệnh. (vì tôi dại gì mà khai báo, trường cũng đâu biết mà cách ly bằng cách đuổi học).

Bệnh cứ âm ỉ bên trong khiến tôi cứ mơ mơ màng màng, ngồi trong lớp mà cứ tưởng đang bay lơ lửng giữa trời cao, rồi lại nhẹ nhàng rơi xuống như lá mùa thu. Mới lỏm bỏm tiếng Anh, nhưng tôi bỗng hiểu thế nào là fall in love và thầm phục người Anh đặt tên đúng chóc!

Thế rồi, một hôm bỗng dưng cô vào lớp với mái tóc phi dê xoăn tít như râu bắp, chắc là sắp lấy chồng. Ôi chao, trời sập cũng không làm tôi kinh hãi bằng.

Trước, cô thanh cao đài các bao nhiêu, giờ cô nặng nề trần tục bấy nhiêu!

Trước, mắt cô ướt, tóc cô mềm, giờ mắt cô khô tóc cô gãy!

Tôi buồn hắt buồn hiu, không phải vì cô sắp lấy chồng, mà vì từ đây lớp học không còn ấm áp như bếp lửa chiều đông nữa!

Nhưng may quá, cũng từ đó tôi khỏi bệnh!

Thời của tôi là vậy đó, mấy anh chàng mê gái trông là biết liền. Cứ xem cái cách anh ta đi lờ đờ, điên không ra điên khùng không ra khùng, lục trong túi chẳng có một đồng xu teng, mà chiều nào cũng đi bát phố (giờ là shopping), cứ đi tới đi lui, đi lên đi xuống, mỏi chưn thì vào hàng sách, giả bộ coi quyển này lật quyển kia,  chỉ để chờ một tà áo, một mái tóc, rồi xớ rớ đứng gần người sắp gieo mầm bệnh, là đủ sướng đến tê cả người!

Phải nói, thằng con trai nào mới lớn cũng đều mắc bệnh mê gái cả, không mê là coi chừng pê đê, tệ hơn nữa bị gọi là cù lần. Bệnh này không quý phái sang chảnh như bệnh tim, nhưng vẫn  rất đáng được một lần trong đời thử mang bệnh, cho ai đó nổi ghen tức chơi

Nổi danh mê gái (già), mê đến nỗi phát điên phát khùng là thi sĩ Bùi Giáng. Nào Marilyn Monroe, nào mẫu thân Kim Cương, mẫu thân Phùng Khánh. Gọi mẫu thân kính cẩn đề huề, vì các nàng đẹp thì có đẹp, nhưng chắc không hiền, láng cháng coi chừng bị oánh cho bầm mặt. Nhưng khi chỉ một mình, thì ông gọi “em ơi, em đẹp vô cùng/ vì em có cái lạ lùng bên trong”. Cái gì lạ lùng bên trong đó chỉ có ông hiểu và Trời hiểu mà thôi. (vậy nên nói nhỏ, ông khôn bỏ mẹ, điên gì mà điên).

Một thi sĩ mê gái rất mực thanh tao, là Hoàng Trúc Ly, làm thơ rất ít nhưng lại được nhiều người biết tiếng. Có thể ông mê nhiều nường, nên chẳng dại gì mà gọi tên nường nào, chỉ biết rằng nhờ mê gái mà ông để lại cho đời những câu thơ tuyệt hay. Như:

Tôi đứng bên này bờ dĩ vãng/ Trông về con nước ngại ngùng xuôi/ Những người con gái bên kia ấy/ Ai biết chiều nay có nhớ tôi?!

Hay là: Ô hay con gái bay nhiều quá/ Những cánh tay mềm như cánh chim.

Tiếc rằng, anh đau gan, anh yếu phổi, đi lớ ngớ bị xe tông, bỏ lại mẹ già không ai cõng!

Lại một chàng trẻ ranh, nhờ mê gái mà nổi danh thi sĩ, là Nguyễn Tất Nhiên. Mới học đệ tam (lớp 10) mà đã yêu điên yêu dại cô bạn gái cùng lớp. Thơ chàng, được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc, trở thành những bài tình ca bất hủ.

Cái bệnh mê gái của chàng, mê đến chết, nên có thể gọi chàng là Trương Chi thời hiện đại, còn Mỵ Nương là người con gái tên Duyên.

Bệnh mê gái cũng đâu có tha những nhà sư chưa thoát tục. Như Phạm Thiên Thư, dù khoác áo nâu sồng, vẫn cứ mê mải theo chân Ngọ về rồi làm thơ ướt át suốt cả đêm, tu mà như thế đến Phật Thích Ca cũng phải chịu thua.

Các nhạc sĩ thì khỏi phải nói, mê gái có từ trong máu, không mê gái thì không cách gì làm ra nhạc được. Nhạc đây là nhạc tình. Trịnh Công Sơn mê Diễm viết Diễm xưa, mê Thanh Thúy viết Ướt mi,…Vũ Thành An mê đến mấy chục nường, biết gọi tên ai, thôi thì không gọi tên cho chắc ăn, Không tên số một, Không tên số hai… đến Không tên cuối cùng! Nhờ thế, các nường “bỏ anh em đi” đều lẩm nhẩm hát thầm, trong khi đức ông chồng nằm bên cạnh cứ ngáy khò khò, chẳng biết trời trăng gì ráo!

Nhà văn đương nhiên lại càng mê gái hơn. Như Đoàn Thế Nhơn mê cô vợ tên Viễn Phố, bèn lấy bút hiệu là Võ Phiến. Rồi Mai Thảo yêu tiếng hát và người hátThái Thanh, chung tình đến nỗi đến chết vẫn chỉ yêu một người có “tiếng hát vượt thời gian” mà thôi.

Nhưng mê gái như Kiệt Tấn thì đến cả tổ sư G.Marquez ở Nam Mỹ cũng phải gọi bằng ngài, tức Don Kiệt! Cứ thấy gái là mê, tôi mê gái thì học dở còn ngài càng mê càng học giỏi, thế mới lạ. Từ gái quê bồng em, bán nước mía, đến gái phố thị đài các kiêu sa, từ gái nhà lành đến gái đĩ, từ gái ta đến gái tây, từ gái viết sai chính tả tùm lum đến gái thuộc thơ J. Prévert, từ gái không điên đến gái điên…, ngài mê tuốt. Không cần biết xấu đẹp sang giàu, có gái là mê, không mê chết sướng hơn!

Còn nửa nhân loại kia thì sao? Gái có mê trai không? Có đấy! Mà mê bạo hơn, điên dại hơn, ngu muội hơn. Mê nghiêng mê ngửa, mê đứng mê ngồi, mê như bị bỏ bùa.

Một nàng Thôi Oanh Oanh cha chết chưa chôn còn để nằm trong hòm, mà mê Trương Quân Thụy ở Mái Tây đến nỗi dám sai nữ tỳ mang cả chăn chiếu sang chung chăn với chàng. Ngày xưa mà như thế, phải nói là gan cùng mình! Mê đến thế không còn gọi là dại trai nữa,  mà phải nói là chết vì trai!

Lại thêm một gái góa tên Trác văn Quân, chưa hết tang chồng cũng đã bỏ nhà theo trai vì mê tiếng đàn của Tư mã Tương Như!

Nổi đình nổi đám nhất là Vương Thúy Kiều,

vừa mới gặp Kim Trọng mà “tình trong như đã”, nên tuy kín cổng cao tường vẫn lén dòm sang bên kia nhà, rồi đó ra vườn dạo chơi, giả bộ đánh rơi chiếc trâm cài tóc trên cây!

(sao lại rơi trên cây mà không rơi trên cỏ, ấy là để chàng Kim dễ nhìn thấy, có cớ mà làm quen! Vẽ đường cho hươu chạy còn oan nỗi gì!).

Mới quen buổi sáng bên hàng dậu, mà  buổi tối  đã “băng lối vườn khuya một mình”, thì chỉ thua mỗi Thôi Oanh Oanh là không dám mang chăn gối theo mà thôi!

Đó là chuyện mê trai của các người đẹp xưa, còn chuyện mê trai của các người đẹp nay, thì dẫu có cho kẹo tôi cũng không dám nói, vì sợ bà chủ tịch Gia hội và “nhóm lợi ích” của bà!

Chỉ có điều, trộm nghĩ (tức là nói trộm đờn ông mí nhau ) rằng, thì là, xem ra, mê gái hay dại gái, nửa đám nhân loại “vinh dự có tôi đi hàng đầu”kia, cũng chỉ làm đẹp cho dời, chứ có làm chết thằng tây đen nào đâu.

Nào thơ hay như Hoàng Trúc Ly, nào nhạc mê đắm bao thế hệ như Phạm Duy, Trịnh Công Sơn… nào tranh của L. Da Vinci với nụ cười bất tuyệt của La gioconda … chứ mê trai hay dại trai thì sao nào, dù không hại đời cũng hại nhà, như Thôi Oanh Oanh, Trác Văn Quân, bằng không thì hại mình như Thúy Kiều! Mười lăm năm mà sao không tan tác khi phải “thanh lâu hai lượt thanh y hai lần”, nên các cụ xưa cấm con gái xem Thúy Vân Thúy Kiều, cũng đâu có sai!

Sau chữ “mê” còn dài đến cả cây số. Như mê bài bạc, mê đánh số đề, mê xóc đĩa, mê xì phé, mê xì ke, mê mua sắm, mê nhà lầu xe hơi, mê địa vị chức tước, mê quyền lực, mê võ thuật, mê bóng đá, mê chơi games,…còn nhiều thứ mê lắm.

Thôi thì mê gì cũng được, ít nhiều trong mê đều có ngu, có dại, nhưng mê cọng sản thì đáng đem bắn bỏ chứ không “cải tạo” gì được, vì đó là cái mê ngu nhất, dại nhất, chẳng những hại riêng một người, mà còn hại đến nhiều người, chẳng những không lợi nhà mà còn hại nước, phải không phe ta, hả ngài Don Kiệt?!

Khuất Đẩu

Tháng bảy, mùa ôn dịch

*Đã hết gân rồi còn tái giá là vế một câu đối của bà hàng phở nạ dòng. Tức là hết phở gân rồi chỉ còn phở tái và giá sống thôi. Được một ông sồn sồn đối lại nhưng không chỉnh: thì đem xíu quách nhậu cùng anh.

THƯƠNG NHỚ NGƯỜI …CẦM ROI !

Gửi Đỗ Hồng Ngọc

Anh Ngọc à, nếu “nghĩ từ trái tim” như anh thường nói, tôi thấy mình không thể nào thương nhớ nổi đòn roi được, mà phải là thương nhớ người cầm roi, tức là thương cha thương mẹ và thương thầy, những người dạy ta trước khi vào đời. Cũng có nghĩa rằng thương cái cách cho roi cho vọt của họ, nói chữ là cách giáo dục.

Mặc dù “làng tôi không xa kinh kỳ sáng chói”, nhưng vẫn là một làng quê nghèo. Cha mẹ tôi và cả thầy giáo vỡ lòng của tôi, cũng là nông dân từ đầu đến chân và từ suy nghĩ đến hành động. Cho nên cách dạy con của họ phải nói là không được văn minh, nếu không muốn nói là thô bạo, tức là theo cách “thương thì cho roi cho vọt”.

Như bao đứa trẻ khác, tôi cũng thường bị ăn đòn!

Người để lại dấu ấn sâu sắc nhất chính là cha tôi. Ông ấy hơn tôi chỉ đúng 18 tuổi, nhưng tôi tưởng hơn cả ngàn và sợ ông như sợ các bạo chúa Trung Hoa! Vừa gia trưởng, vừa độc đoán, chẳng riêng gì tôi mà cả ông nội bà nội và mẹ tôi đều sợ.

Ngọn roi đầu đời mà tôi được nếm cay xè là thế này. Hôm ấy, cách đây đúng 75 năm, sau khi chạy đi xem ông hàng xóm đánh con gái, tôi về khoe: “cha ơi, ông Ánh ổng ánh con Ánh”, trong bụng tự cho là mình ngon hơn con nhỏ nọ. Cha tôi liền bảo, bẻ cái roi đem vào đây! Tôi nghĩ bụng (chứ không nghĩ từ trái tim) chắc là để đánh thêm con nhỏ đó cho nó chừa, nên tôi ra bụi trảy đầu hè bẻ một nhánh trảy thật dài, thường gọi là roi mót, đánh rất đau. Nào ngờ ông bảo nằm lên phản, nhịp nhịp đầu roi trên hai cái mông. Ông  lớn tiếng:

”nói lại coi, ông Ánh làm gì”?

“Dạ, ổng ánh con ánh!”

“ Trật rồi, ông Ánh đánh con Ánh, nói đi”

Ba lần đều sai cả ba. Cứ mỗi lần nói sai là “ăn” một ngọn roi đau buốt tận óc.

Đánh đủ 3, ông cất roi, bảo: “cho 3 ngày, còn nói sai, đánh đủ 10 roi”.

Lệnh ban ra còn hơn cả lệnh vua, vì không chỉ riêng tôi mà cả nhà đều “ánh ánh…đánh đánh”!

Từ đó tôi không còn nói đớt nữa. Và rất “may” cho tôi, là ông mang roi theo sau một trận thương hàn, mặc dù càng lớn tôi càng mắc nhiều lỗi!

Dĩ nhiên, hồi đó tôi không “thương” ông được. Nghĩ từ cái bụng cho nên tôi không khóc khi ông mất. Nhưng khi bước vào đời, tôi thấy rất cần có ông. Những vấp ngã, những lầm lỡ, rất cần cánh tay vững chải và khối óc sáng suốt của cha hơn là những giọt nước mắt của mẹ.

Và, lúc chớm già, phải chi có một ông “bạn” già hơn mình đúng một giáp rưỡi, mời nhau một điếu thuốc, một ly rượu hay “khà” một tiếng sau khi cạn một cốc bia! Ấm áp xiết bao, dịu ngọt xiết bao!

Còn mẹ tôi, bà không chỉ cho ăn cơm nhai từ cái miệng răng đen mà còn cho “ăn” đòn từ đôi tay đầy chai sạn của bà.

Chuyện là thế này. Tôi đã bớt tiền mua nước mắm để mua kẹo, và tôi được ăn thêm trận đòn nhớ đời.

Không đánh bằng roi mót mà bằng tàu cau. Không nằm phơi mông trên phản mà nằm úp mặt trên sân đất trước nhà. Mẹ tôi như một bà nữ quan, ông tôi và bà tôi như sai nha. Ông thì đè đầu, bà đè chân (sợ phạm nhân vùng dậy chạy trốn). Tôi bị đánh 3 roi, không đau như roi mót, nhưng caí bản tin mà bà ghi trên vách khiến tôi khá đau. Ấy là, để tôi nhớ và chừa, bà lấy than viết trên vách: “thằn Sơn ăng cắp”.* Vì bà mới tốt nghiệp bình dân học vụ nên chỉ có 4 chữ mà đến 2 lỗi chính tả, còn chữ thì như gà bới.

Cũng may là nhà bị đốt cháy, cái bức vách ghi tội lỗi ấy cũng không còn nên tôi đỡ phải xấu hổ với con vợ vừa mới cưới sau này!

Thầy giáo vỡ lòng của tôi, ngoài việc sai những đứa lớn đi bắt tụi trốn học đem về trường, đánh đến quắn đít, còn bắt quỳ xơ mít và bắt đứng ngửa người ra sau vì cái tôi viết chữ đứng không thẳng.

Nói cho cùng, những người cầm roi ấy, quả thật rất thô bạo, nói theo kiểu Âu Mỹ là làm mất nhân cách, tổn hại tinh thần, sẽ bị tòa kêu án ít ra cũng mấy tháng tù treo.

Nhưng nghĩ từ trái tim như anh, tôi thấy họ cũng chỉ đánh bằng trái tim, cho nên, dù vụng về, dù không giống ai, về già mình chỉ thấy thương chứ không hề oán ghét. Còn nên hay hư chủ yếu là do xã hội và nhà trường. Với một thế giới đầy những Putin, Kim jung Un, Tập Cận Bình, Trump. Duterte, Cờ lờ mờ…thì bọn trẻ trước sau gì cũng sẽ trở thành những Hồng vệ binh, vậy thôi!

Nói chơi cho vui, chứ không dám cãi anh đâu!

Gửi anh lời chúc mừng đã đạt ngưỡng “đỉnh cao” Tám Mươi năm cuộc đời!

Khuất Đẩu

22/7/2020

*Vợ anh bạn tôi vừa mới mất, ghi lên bảng mắng con như thế này: “Hãy giết tôi bằng gươm bằng giáo/Xin đừng giết tôi bằng những lời hỗn láo”!

CÀNG GIÀ CÀNG NHỚ MẸ!

Mẹ ơi!
Khi viết những dòng chữ hư ảo này gửi vào thinh không, con đã tám mươi tuổi rồi và xa mẹ đã ba mươi năm hơn.
Ba mươi năm mất mẹ, dù đã lớn, con vẫn là một kẻ mồ côi.

Mồ côi tội lắm ai ơi
Đói cơm khát nước ai người chăm lo!

Cho dù không đói cơm khát nước, nhưng con thèm xiết bao được nghe hai tiếng con ơi từ miệng mẹ gọi
Con ơi, ăn miếng bánh mẹ mới mua nè!
Con ơi, mặc thử cái áo mẹ mới may nè!
Con ơi!
Con ơi!
Ba mươi năm rồi, con chỉ nghe cha ơi, ông ơi, chứ không còn nghe con ơi nữa, buồn biêt mấy!

Chẳng những thèm được nghe mẹ gọi mà con còn thèm được mẹ hôn, cho dù lúc nhỏ con thường tìm cách tránh né vì răng mẹ đen, miệng mẹ đỏ vì ăn trầu.

Cũng cái miệng ấy mẹ đã nhai và mớm cơm cho con, miếng cơm đầu đời dù có màu hồng vẫn cay cay và bị chê là mất vệ sinh, giờ con nhận ra rằng đó là mùi vị ngọt bùi và cay đắng của cuộc đời, mẹ đã tập cho con nếm trước để mai sau bước vào đời không bất ngờ và tuyệt vọng.

Đến tuổi đi học, mẹ  vào giường lay con dậy, rửa mặt, thay áo mới dẫn con đi tới trường. Nhà mình nghèo, cả mẹ và con đều đi chân không, mẹ thường nhấc bổng con lên qua những chỗ đầy bùn và phân trâu bò trên đường làng, khi tới lớp chân con vẫn trắng trẻo sạch sẽ, chân mẹ thì bùn đất lấm lem, đến nỗi mẹ xấu hổ không dám nhìn thẳng vào mặt thầy giáo.

Khi con cảm sốt, mẹ ra vườn hái đủ thứ lá nấu nước xông, sợ rằng con có thể ngã mẹ đã ngồi ôm con vào lòng cùng xông cho đến khi mình mẩy con và mẹ ướt dầm. Rồi cháo hành cho mau hạ sốt, rồi mật ong và cháo nếp cho mau lại sức…và nhiều thứ khác nữa ngay cả khi con đã lớn sồ sinh con đẻ cháu cho mẹ.

Mẹ là như vậy, là miếng cơm nhai cho con dễ nuốt, là chiếc chiếu khô cho con nằm ấm áp, là chỗ đất sạch cho con đặt chân lên, là nồi lá xông thơm lừng cho con khỏi bệnh, là chén mật ong vàng óng cho con tẩm bổ.

Me giản dị như thế, quê mùa như thế, nhưng mẹ là mẹ của con. Mẹ rất tầm thường nhưng với con thì thật phi thường.

Vậy nên. Mẹ ơi, càng già con càng thương mẹ và nhớ mẹ xiết bao!

Khuất Đẩu

Tháng sáu trời không mưa, 2020

TÌNH GIÀ

 

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc trong khi bàn về cái gọi là già sao cho sướng, có đưa ra một lời khuyên: hãy bắt chước ông già lấy le bà già/ chiều chiều dắt ra bờ sông. Lãng mạn thật đấy! Nhưng hai người cũng sẽ rớt xuống sông là cái chắc. Xe cấp cứu sẽ hú còi inh ỏi và thiên hạ sẽ xầm xì rằng, đã già mà sao còn dại!

Dù được thân thiết gọi là bạn già, nhưng tôi chẳng dám đâu. Hãy để cái chuyện dắt ra bờ sông dành cho nhà văn Kiệt Tấn, thưở 17, đã cùng một em tên Tuyết lăn lóc đến nỗi rớt xuống sông (ướt cái quần ni lon) mà vẫn tỉnh queo đèo vespa đưa em về nhà, dọc đường còn tí tởn yêu nhau chút chút.

Vẫn bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc kể kể rằng, nhà âm nhạc học Trần Văn Khê, ở thì tít trên tầng cao của một chung cư, mà ăn thì lấy cơm từ trong tủ lạnh ra hấp trong lò điện, mặc dù tiếng tăm lừng lẫy nhưng giữa lòng Paris hoa lệ mà sống quạnh hiu như vậy, rất là đáng thương.

Nhưng bác sĩ Thân Trọng Minh lại bảo, tuy vậy,  ông vẫn sống rất hạnh phúc vì cuối đời còn có một người yêu ông. Chỉ vào bức ảnh nằm lọt thỏm giữa những chồng sách đụng tới trần nhà, bậc trưởng thượng bảo rằng, đây là mối tình già của hai người, bà yêu ông từ lâu nhưng chỉ sống với ông được vài tháng, rồi mất vì bệnh ung thư. Đương nhiên ông yêu bà không phải vì tóc em ướt mắt em ướt mà vì bà là kẻ tri âm, và hơn thế nữa, ông đã có những bữa ăn với cơm nóng canh sốt rất ấm áp nghĩa tình.

Thưở còn lang thang, có một dạo tôi sống với một đôi vợ chồng già ở Tùng Nghĩa. Hai người không con cháu, sống trong một căn nhà gỗ ọp ẹp tận bìa rừng xa hút.

Ông trước kia, con một điền chủ ở đồng bằng Bắc bộ, theo lời bà, chỉ có mỗi một việc là ăn và chơi. Còn bà là con một vị quan đầu tỉnh ở Thanh Hóa, mẹ mất sớm, rất được cưng chiều.

Những lúc rảnh rổi bà kể, ông nhà tôi ngày trước ghen đáo để. Được bố mẹ chồng mua cho một căn phố, tôi ra đó nấu cơm tháng. Có một anh làm quan huyện còn trẻ đến ăn, thế là ông uống rượu rồi thuê xe kéo chạy quanh suốt buổi, đợi khi anh ta đến, ông bảo phu xe dừng lại trước nhà, rồi nằm gác cẳng lên mà nhìn vào. Anh quan huyện hoảng quá không đến ăn nữa và tôi cũng dẹp tiệm luôn.

Khi di cư vào nam, nhất định không chịu sống ở thành phố, bảo rằng đến đâu cũng phải bỏ giày dép ngoài cửa, mất tự do, nên mua một cái rẫy và chôn chân từ đó đến giờ.

Bà cụ hồi ấy 60, hơn ông những 6 tuổi, vẫn đẹp ngời ngời và rất mực quý phái, khi đi ăn cưới, trang điểm vào trông như người 40, nhưng ông cụ không ghen nữa, chỉ đứng ngắm vợ và cười.

Cái mối tình vừa già vừa nghèo ấy, tình không ở đầu mày cuối mắt mà là ở những bữa ăn, đúng hơn là những bữa nhậu. Gọi là nhậu, chứ thực ra chỉ có nửa góc chai rượu, nửa trái cật hay vài trái chuối già, được bà chế biến rất khéo. Ông ngồi nhậu một mình, thỉnh thoảng hát chèo và đánh trống miệng thì thùng.

Bà tôi, cũng yêu ông tôi bằng cái bánh tráng nướng, mấy miếng bánh hỏi mua về cho ông sau khi bán được cau, chuối trong vườn. Trong những đêm đông lạnh, chẳng những bà nhường cho ông tấm mền duy nhất trong nhà, mà còn đốt than ủ tro lót dưới gậm giường cho ông nằm. Khi còn sống bà thường càm ràm ông để râu nhúng vào canh và hay bỏ quên khăn ở nhà người khác khi đi chúc Tết.

Vậy thì, xem ra cái tình của những người già ở xứ mình, nhất là những người đã thuộc về người của muôn năm cũ, nó tĩnh đến nỗi tưởng chừng họ là những kẻ xa lạ, chẳng những đã không lấy le đưa nhau ra bờ sông mà cũng chưa hề thốt ra một lời nào âu yếm. Chỉ có cằn nhằn và cằn nhằn!

Không như ở Mỹ sáng ông I love you, bà me too, rồi chiều có thay đổi chút ít, bà I love you và ông me too! Ở mình mà ỏn ẻn như vậy thế nào cũng bị mắng cho “biết rồi! khổ lắm! nói mãi!”

Bồ Tùng Linh có viết một truyện với cái nhan đề tình già, rất ngồ ngộ như sau: có một ông cụ nọ chết đi chưa kịp chôn đã sống lại, hỏi sao, cụ bảo trên đường xuống âm phủ, nghĩ thương bà vợ già, sống lủi thủi với đám con cháu, thế nào chẳng bị chúng nó tiếng nặng tiếng nhẹ, buồn lắm!. Thế là đòi quỷ dẫn về và gọi vợ ra cùng chết. Cả nhà ai cũng che miệng cười, bà cụ thì mắc cỡ vì trước mặt con cháu mà lại nằm chung giường với chồng coi sao được. Nhưng thấy ông cụ nghiêm sắc mặt, đành phải nằm kế bên. Thế là xuôi tay đi luôn.

Hóa ra, cái chữ tình của người già ít nhiều đều gắn với cái chết. Sống bên nhau mà bảo là oan gia, nhưng khi một người chết đi, người còn lại mới thấm thía thế nào là cái lẻ bóng.

Thật khác xa với cái xứ Macondo ở Nam Mỹ. Có

một ông già đã 90 tuổi, ham sống đến nỗi muốn rằng, trong đêm sinh nhật thứ chín mươi của mình phải là một đêm nhớ đời với một em hãy còn trinh. Và nhà chứa đã cho ông qua đêm với một con bé mà theo lời bà chủ, là hãy còn mang tã lót. Thấy cô bé có dáng nằm của đứa bé còn nằm trong bụng mẹ, đang ngủ say vì được bà chủ cho uống hợp chất đồng với lá cây gì đó để em khỏi hoảng sợ, thế là ông không hề động đến, chỉ hát ru cho em ngủ. Sau nhiều đêm như thế, ông mới nhận ra rằng dù đã chung giường với hơn 500 người đàn bà, nhưng ông chỉ ăn bánh trả tiền chứ chưa hề biết đến tình yêu là gì. Giờ ông mới thực sự yêu em, biết ghen tuông như trai 17 và nguyện đem hết của cải và những ngày còn lại để làm cho em hạnh phúc.

Ở xứ mình mà còn sung đến thế sẽ bị mắng cho là già mất nết, hay già dịch, già dê.

Mà thôi, nói chơi vậy thôi, chứ già cúp bình thiếc như tôi mà nói tới chữ tình, nó lụp cụp giống như nhai bắp rang vậy.

KHUẤT ĐẨU

10/2019

 

MỘT MÌNH QUA PHỐ

 

Bốn chữ này tôi mượn của Trịnh Công Sơn, không phải để âm thầm nhớ nhớ tên em nào, mà để nhớ lại một thời để yêu và một thời để chết.

Đó là thời của những năm sáu mươi, bảy mươi, thời của hai mươi năm nội chiến từng ngày, thời mà nằm ngủ trên giường, ngồi quán cà phê hay đi xe đò cũng chết huống gì ra mặt trận.

Thời đó, những người con trai mới lớn, vừa bước chân vào đời đã phải đối diện với cái chết, thì tổ quốc, tương lai…chỉ là những tên gọi mơ hồ, tuyệt vọng… chỉ có em, chỉ có tình yêu dù đơn phương, mới là tất cả.

Em là chút mầm xanh của cây đời đang gãy đổ. Em là đóa hoa súng trên mặt hồ lạnh lẽo. Em mong manh, nhưng quý hóa biết chừng nào.

Thì đúng là may mà có em, cuộc đời mới dễ thương, nếu không, Vũ Hữu Định trên đường ra biên giới khác nào tử tội ra pháp trường.

 

 

Một mình, đương nhiên là chỉ một người. Nhưng không phải một mình trên đường lớn rất triết của Tô Thùy Yên, cũng không phải một mình đứng giữa quãng chơ vơ  rất cô đơn của Trần Tế Xương. Lại càng không phải một mình mình một bơ thờ vịn cây cây ngã vịn bờ bờ xiu rất tuyệt vọng như trong ca dao.

Một mình qua phố, tuy mình ên, nhưng rất xôn xao vì còn có tên ai đó để nhớ, còn có ai tan trường về để lầm lũi bước theo sau.

Một mình có thể là anh học trò nghèo bụng lép kẹp nhưng hồn đầy mộng mơ, có thể là nhà tu dù đã tu qua chín kiếp nhưng vẫn chưa rũ hết mùi tục lụy, cũng có thể là một cô học trò lãng mạn đang fall in love viết nên bài thơ này:

Tôi đi trên đường nắng
Thương những buổi trưa vàng
Những bờ hoang xa vắng
Đôi tâm hồn lang thang

Kiếm tìm trên lối ngõ
Bàn chân yêu thương qua
Nhà ai in ngói đỏ
Trời xanh ôm mái nhà*

 

Chữ phố, đứng một mình, không có thành, không có khu  phía trước, cũng không có vắngxa phía sau, rất trơ trọi, nhưng có thế phố mới trở nên thân quen ấm áp. Phố bỗng trở thành một người bạn cùng bước song hành để cho ta rù rì tâm sự.

Mặc dù xe ngựa ồn ào, kẻ đi người lại bon chen, ta vẫn thấy phố thật vắng, thật yên, phố vẫn đi theo ta lặng lẽ như bóng với hình.

Kìa là những cột đèn, những ban công, những mái lầu, rồi tháp chuông và trên cao là mây trắng…

Phố có mùi hương, có thể là của hoa dã quỳ vàng rực, có thể là của hoa ngọc lan đài các, hay hoa sữa nồng nàn, và nếu trời đang mưa, ta có thể nghe ra mùi của hương nước mưa mát lạnh.

Vì đi chỉ để mà đi, cần gì phải ngang qua những con phố sang trọng với cửa hiệu sáng choang, hàng hiệu đắt tiền hay những ba những bảy xập xình…

Thế rồi, trên những con phố nghèo, bỗng dưng dưới một mái hiên hay một khung cửa nào đó, e ấp một mái tóc nghiêng nghiêng, mộng mơ một đôi mắt đuôi dài, thì dù lộn xộn, dù nhếch nhác đến đâu, ta vẫn thấy con phố bỗng trở nên giàu có sang trọng và sao mà nó lại sạch sẽ thơm tho đến như vậy.

Từ đây con phố có linh hồn, và ta bỗng trở nên chàng thi sĩ có thể làm thơ dù là thơ con cóc.

Vậy đó, cứ thế lửng thửng mà đi, vô tình mà bước, không cứ gì phải tìm ai, gặp ai, cứ đi như sông là phải chảy, mây là phải bay và mưa là phải rơi xuống.

 

Cái thời mới lớn của tôi đó, nó nhà quê, nó cả ngố làm sao! Nhưng dù đã xa thật xa, tận cùng trong quá khứ nhạt mờ, tôi vẫn thấy cậu ta bước đi chân không hề mỏi, mắt nhìn đâu đâu, tưởng chừng như đang lạc bước vào chốn thần tiên. Và khi trông thấy con gái bay nhiều quá, những cánh tay mềm như cánh chim**, cậu tưởng chừng cũng sắp bay lên. Ôi chao cậu muốn được ôm tất cả vào lòng chứ không chỉ  một riêng ai.

Tham lam quá phải không, nhưng có như vậy mới đáng để cậu ta một mình qua phố chứ.

 26/9/2019

Khuất Đẩu

* thơ của Nguyễn thị Hoàng

** thơ của Hoàng Trúc Ly

NHỮNG CHIẾC LÁ

 

Nhà viết kịch Lữ Kiều, từng có lần muốn viết một vở kịch không lời. Bối cảnh chỉ có một chiếc ghế dài.

Màn một: Có hai đứa bé, một trai và một gái ngồi trên ghế, phía sau là những khóm cây xanh non. Âm nhạc trẻ trung, tươi vui.

Màn hai: Một chàng trai, một cô gái, cùng ngồi trên ghế, những khóm cây bắt đầu lớn lên, ra hoa. Rất nhiều hoa. Âm thanh có thêm, tiếng trống, tiếng kèn.

Màn ba: Chàng và nàng đã là hai người đàn ông và đàn bà. Âm thanh nỉ non réo rắt bỡi tiếng violon. Những khóm cây trĩu quả.

Màn bốn: Một ông già, một bà già. Vài chiếc lá rơi. Rồi lá đổ muôn trùng. Lá phủ kín cả người họ, ngập tràn cả sân khấu trong tiếng nhạc trầm buồn của contre bass.

Vở kịch nếu được trình diễn, có thể coi như nghệ thuật sắp đặt và tên của nó là cuộc đời.

 

Cũng có một câu chuyện về những chai rượu như thế này:

Một nhóm bạn ở Mỹ trong thế chiến thứ hai, trước khi ra mặt trận, hẹn nhau ngày trở về sẽ gặp nhau một ngày nào đó, ở một nơi cũng nào đó, mỗi người nhớ mang theo một chai rượu để uống mừng.

Chiến tranh chấm dứt. Rất may là hãy còn đủ cả và không một ai bị thương. Họ gặp nhau rất vui, uống hết những chai rượu đã được mang tới.

Năm sau và nhiều năm sau nữa, họ vẫn gặp nhau, có cả vợ con, cùng uống mừng được sống thêm một tuổi.

Rồi có người chết, những chai rượu cứ ít dần đi. Sau còn hai, cuối cùng chỉ còn một. Người chủ của chai rượu buồn quá, không uống nổi. Ông ta dặn con, khi ông chết hãy mang chai rượu chôn theo ông.

Cũng vẫn là cuộc đời, vẫn là nghệ thuật sắp đặt, nhưng người nghệ sĩ dấu mặt kia chính là tạo hóa.

 

Những năm gần đây, bạn bè như những chiếc lá cứ rơi rụng dần. Cái chết của họ dù có tiếng khóc của vợ con, cũng chỉ gây nên một tiếng động rất khẽ như khi lá rơi chạm đất.

Cho dù nhạc sĩ Trịnh Công Sơn được đưa tiễn đông đến hàng vạn người, hay cả ngàn người lặng lẽ đứng chào theo kiểu nhà binh nhạc sĩ đại tá Nguyễn Văn Đông, thì đối với cuộc tồn sinh cũng chẳng hơn gì nhạc sĩ Trúc Phương, chết trong đói nghèo và quên lãng.

Buồn là buồn cho những chiếc lá cứ rơi rụng dần, cho những chai rượu cứ ít dần đi. Nếu sau một trận chiến khốc liệt, chỉ còn một mình mình sống sót, thì đó là cái may hiếm có. Nhưng trong cuộc tồn sinh, nếu là chiếc lá cuối cùng, hay chai rượu cuối cùng, thì không còn nỗi buồn nào buồn hơn.

Vậy nên, giả sử 20 năm nữa mà vẫn còn sống, trong khi bạn bè đã về nước Chúa ráo trọi, thì dù cho chế độ này có tiêu tùng, cũng đâu có gì vui. Đâu có còn ai nữa để mà nâng ly chúc mừng. Một ly mình mà nhiều ly không thì uống để lam gì!

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, người viết rất hay về tuổi gió heo may, về già sao cho sướng, một hôm bàng hoàng nhận ra giờ mọi sự sao trở nên nhạt nhẽo, rồi lẩn thẩn tự hỏi xếp lại cái kệ sách này để làm gì, lục tìm những bức thư cũ, những bức ảnh cũ, cũng để làm gì? Suốt ngày ba tiếng để làm gì cứ gõ đều như tiếng kêu tích tắc của đồng hồ. Để làm gì?! Để làm gì?!

Thế, có nghĩa là đã tới lúc hết muốn sống nữa rồi, mới đó mà đã thấy mình đứng bên bờ huyệt chênh vênh. Cho nên nhiều người bảo sao mà muốn chết quá, là nói thiệt chứ không phải nói chơi.

Thế nhưng cắc cớ bảo những người muốn chết đó, thôi thì một hai ba chúng ta cùng chết, ai cũng bảo để coi lại đã, tưởng đã thu xếp xong xuôi từ lâu rồi mà hình như vẫn chưa, có vẻ như đâu đó còn có tiếng nức nở, ông ơi (hay bà ơi), ông chết đi thì tôi biết sống với ai!

Rắc rối là vậy đó. Con người có thể ví như chiếc lá, nhưng chết không như lá. Lá đổ muôn chiều nhưng con người thì xin đừng rơi rụng cùng một lúc.

 

27/8/2019

Khuất Đẩu

Khuất Đẩu: NGHĨ VẨN VƠ, CUỐI ĐỜI (bài 2) – Quê ngoại của các con tôi

 

 

Tôi không đủ đức tính ngang tàng và bạo mồm bạo miệng như nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn, để có thể tặng vợ bốn câu thơ trời ơi đất hỡi như thế này:

Ta vốn ghét đàn bà như ghét cứt

Nhưng vì sao ta lại yêu em?

Ôi mắt em nhìn như là bẫy chuột

Ta quàng xiên nên đã sa chân.

Tôi cũng sa chân nơi quê ngoại của các con tôi, nhưng không phải vì mắt em nhìn như là bẫy chuột, mà vì nơi đây có những hàng cau rất giống với quê nhà và vì lỡ kẹt không chịu trình diện quân dịch nên không thể rút chân đi đâu được.

Ở quê tôi không hiểu cái nước uống nó thế nào mà khi nói ai cũng ngửa cổ lên như khướu hót, cứ “dẩy na? dẩy na?”. Còn ở đây thì cổ như mắc nghẹn giống nhái kêu, các từ chứa âm a đều biến thành e, rằng đừng có nói léo, hãy đưa teo tờ béo!

Tuy nhiên ngẫu nhĩ trùng phùng cũng có được cái may, miền đất này rất thái hòa nên được gọi là Ninh Hòa, Khánh Hòa. Nhà thơ Quách Tấn còn gọi một cách rất thơm tho là xứ trầm hương.

Đúng là rừng núi ở xứ này từng có một thời lừng danh vì có rất nhiều trầm kỳ.

Có một loại cây tên cây  chỉ mọc ở rừng sâu, khi bị gió bão làm cho cành cội tơi bời, liền tiết ra một chất nhựa quý có vị cay cay đăng đắng, chữa bệnh hay một cách thần kỳ, nhất là đau bụng gió, nên được gọi là kỳ nam. Ngoài kỳ, còn có trầm, tuy không chữa được bệnh, nhưng đốt rất thơm. Cụ Nguyễn Du viết “đốt lò hương ấy so tơ phím này”, là đốt trầm.

Xưa, các cụ thường xông trầm khi đọc sách, thưởng trăng. Trung thu còn có thêm hương hoa cúc và hương mạch nha, lễ mễ công phu như trong Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân.

Những người đi tìm hương liệu cực kỳ quý hiếm ấy trong rừng sâu gọi là đi điệu. Điệu là phải mang tất cả đồ đoàng trên lưng như các bà mẹ Ra đê địu con, chứ không phải ăn chơi sành điệu. Họ là những người nghèo thường đi từng nhóm từ 3 đến 5 người, lặn lội trong rừng sâu núi cao cả tháng mới về.

Không phải người nào cũng trúng, tức là được ông bà thương cho gặp cây dó có kỳ. Thường là chỉ mót được chút ít của những người gặp may để sót lại. Có người đi cả đời vẫn chưa một lần gặp được. Rồi thương tật, rồi bệnh chống nước từ núi rừng mang về, kiếm được bao nhiêu trầm đều phải đổ ra mua thuốc, nghèo lại hoàn nghèo. “Ăn của rừng, rưng rưng nước mắt” là vì vậy

Xưa nhiều người đi lạc, đồn rằng để sống sót trong rừng phải ăn thịt sống, nên hóa thành …cọp! Tiếng đồn “cọp Khánh Hòa, ma Bình Thuận” biết đâu là từ những câu chuyện huyền hoặc như thế.

Có thể nói, đi tìm trầm không khác gì đi tìm cái chết, vì phải đối mặt với biết bao gian khổ, chết chóc. Ngoài việc tin vào “ông bà”, tin vào ở hiền gặp lành, còn phải tin vào bùa ngải, nên mới có thành ngữ ngậm ngải tìm trầm.

Nhưng đó là chuyện trước đây, giờ ít ai chịu khổ làm nghề đi điệu nữa. Một phần vì bao nhiêu cây dó, có kỳ hay không cũng bị chặt phá, đào cả gốc rễ, nên đi cả năm cũng chưa chắc “trúng”. Và phần lớn vì các tay đầu nậu vừa ăn trên đầu trên cổ họ, vừa ăn gian nói dối với người mua, đem chút ít kỳ thiệt đun ra nước rồi ngâm với gốc cây duối giả làm kỳ, hay nhét đinh nhét chì vào cho nặng cân. Các tay buôn kỳ từ Hồng Kông, Ả rập vì thế đều no no chạy dài.

Khánh Hòa chẳng những có rừng sâu mà còn có núi cao. Trên đỉnh nam Trường Sơn thường lẫn trong mây mờ, có hai tảng đá khổng lồ, nhìn xa trông giống như hai mẹ con đang đứng nhìn ra biển nên được gọi là đá Vọng Phu. Nhạc sĩ Lê Thương trong một lần đi ngang qua Khánh Hòa, trông thấy , đã đem xúc cảm từ Chinh phụ ngâm mà sáng tác nên trường ca hòn Vọng Phu bất hủ.

Trong số các con tôi có một đứa bảo với mẹ rằng, mỗi lần về quê nhìn thấy núi Vọng Phu con đều muốn khóc. Tiếc rằng cu cậu không có chút năng khiếu nào về âm nhạc và thơ thì bảo rằng làm cho lắm cũng chỉ nổi tiếng được vài câu mà thôi.

Nơi đây còn nổi tiếng với tháp Bà linh hiển ở Nha Trang. Tháp nằm bên bờ sông Cái, ngó xuống cầu Xóm Bóng và nhìn ra biển Đông sóng vỗ. Xưa, dân Chiêm rất giỏi nghề đi biển, sau khi vượt trùng khơi trở về, từ xa nhìn thấy ngọn tháp, là biết đã về đến quê hương.

Cũng giống như ở Bình Định, tháp là của người Hời. Khi chúa Nguyễn vượt qua ranh giới tại núi Đá Bia do Lê Thánh Tôn áp đặt, để dần dần chiếm trọn đất nước Chiêm, thì tháp Bà biến thành tháp của người Việt, thờ mẫu đọc theo giọng Việt là Thiên Y A Na.

Khi tôn tạo, để ra vẻ Hời, người ta xây thêm một cổng chào khum khum bằng gạch mộc, chẳng ra Hồi mà cũng chẳng phải Phật, trông rất nhếch nhác dị hợm.

Tượng của Po Anagar bằng trầm hương bị Pháp lấy mất đầu được thay bằng xi măng sơn phết lòe loẹt, mặc áo đội mũ như đồng bóng ngồi giữa khói hương mù mịt cho khách thập phương, phần lớn là vợ các quan to đương chức, xì xụp bái lạy xin giữ được ghế càng lâu càng tốt. Bên ngoài, một đám gái nõn nường phấn son diêm dúa giả Chiêm nữ uốn éo múa may, trong tiếng  trống mẹ trống con lum tum lắc cắc và phèn la não bạt tùng xèng…

Bảo rằng đấy là văn hóa truyền thống ngàn xưa, thì truyền thống ba rọi này đâu phải của người Chiêm!

Những dân Hời sống sót sau cuộc bại trận ở Đồ Bàn, chạy dạt vào miền đất sau núi Đá Bia ở Phú Yên, một lần nữa lại bị các đời chúa Nguyễn và nhất là vua Minh Mạng tận diệt, ai nộp được nhiều đầu lâu là được thăng cấp, nên có từ thủ cấp nghe rất rùng rợn

Giờ, chỉ còn co cụm một dúm tại các vùng đất đai khô cằn ở Phan Rang, sống còm cõi với những con dê và cừu ốm đói, không tìm ra cỏ phải ăn cả gai bàn chải. Thử hỏi có ai trong số họ đủ tiền và đủ quyền để được bước vào ngôi tháp của tổ tiên?

Càng nghĩ tôi càng thấy, những kẻ cầm quyền hiện giờ còn ác hơn cả vua chúa ngày xưa. Họ trâng tráo đến nỗi coi việc cướp đất như chuyện đã rồi, không cướp không được, và giả dối gọi dân tộc Hời là dân tộc anh em, như cách nhà họ Tập gọi Việt Nam là nước anh em. Thà gọi đích danh là dân tộc ít người còn dễ nghe hơn.

Vậy nên, nào có mong chi một lời xin lỗi!

Nhiều người bảo, đất Khánh Hòa như một nước Việt Nam thu nhỏ. Rất giàu và đẹp. Có rừng nhiều gỗ quý, có biển nhiều cá tôm, có ruộng lúa mênh mang, mà người dân lại hiền hòa. Dưới con mắt các nhà quân sự, còn có cảng Cam Ranh vừa sâu, vừa kín gió, mà Nga Mỹ và cả Trung Nhật đều thòm thèm. Về kinh tế, vịnh Văn Phong là nơi rất béo bở để xây dựng khu chế xuất, cho thuê đất lấy vàng.

Nếu không có cuộc xuống đường gần như cả nước ngày mồng 10 tháng sáu năm ngoái, thì mấy trăm vị dân biểu đã bấm nút ô kê rồi và nhiều tay cò đất đã trở thành đại tỷ phú!

Bãi biển Nha Trang và Dốc Lết, cát trắng và mịn, đi bên nhau dưới bóng dừa thật nên thơ. Giờ thì từng đoàn xe to kềnh và dài ngoằng từ Trung Quốc chạy sang, đổ xuống bãi biển hàng ngàn kẻ giàu mà chưa sang, có 6000 năm văn hiến nhưng thiếu văn hóa, quần cộc bụng mỡ nị nị ngộ ngộ ồn ào như cả một bầy chim cánh cụt.

Ai cũng kêu trời, chỉ có một nữ văn nhân xa xứ đến hơn 50 năm, về nước khen Việt Nam mình rất khôn ngoan biết cách moi tiền từ túi anh nhà giàu. Rằng, các em từ đây không phải xuống ruộng bị đỉa cắn, rằng ngày làm hai job trong nhà hàng máy lạnh mát mẻ, rằng Hoàng Sa, Trường Sa, giờ thêm bãi Tư Chính có bị lấy mất cũng được thôi, vì miếng ngon nằm phơi ra như thế ai mà chẳng thèm.

Còn có kẻ, chắc như đinh đóng cột là dư luận viên, thì tin những gì nị nói chứ không tin những gì nị làm, bảo rằng chỗ nào có Quảng là của ngộ lớ. Đã có Quảng Đông, Quảng Tây, thì Quảng Yên, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi không của nị thì là của ai. Cũng như Vũng Tàu thì đứt đuôi con nòng nọc là của Tàu rồi!

Khom lưng quỳ gối hít đàn anh như thế, thì thôi rồi, con cháu tôi chắc sẽ thành dân Hời. Và khi đó, đúng là anh em vì cả hai cùng bị mất nước!

Khuất Đẩu

 

Khuất Đẩu: NGHĨ VẨN VƠ, CUỐI ĐỜI (bài 1) – QUÊ HƯƠNG TÔI, XỨ DÂN HỜI

 

 

 

Tháp Đôi (Qui Nhơn)

Quê tôi, một miền quê thuần nông, nghèo nhưng không đến nỗi đói, nằm cạnh sông Kôn, con sông lớn nhất tỉnh Bình Định chảy qua thành Đồ Bàn với rất nhiều huyền thoại.
Từ hiên nhà nhìn ra, sáng chiều và ngay cả trong những đêm tối trời, tôi vẫn thấy tháp Bánh Ít ở trước mặt, như hai búp măng non mọc lên từ lòng đất.
Xa hơn về phía tây, vượt hẳn khỏi những lũy tre ở quê ngoại, là tháp Cánh Tiên rực vàng trong nắng sớm và đỏ thắm trong những buổi chiều tà.
Bên kia sông, cái bóng đồ sộ của một ngọn tháp không rõ tên ở xã Nhơn Thành lại in xuống nước rực rỡ như một khối ngọc khổng lồ.
Và khi đi vào cửa ngõ thành phố Qui Nhơn, lúc nào tôi cũng có cảm giác tháp Đôi như hai anh em song sinh dễ thương đang đứng đón chào.
Như vậy, bốn mặt đông tây nam bắc ở quê tôi đều có tháp. Tháp thờ những ai không biết vì trong lòng tháp trống không chỉ có những mảnh gạch vỡ và những con dơi bay lượn. Nhưng trong cảnh điêu tàn hiu hắt ấy nó vẫn không mất đi cái vẻ thiêng liêng rất hùng vĩ.
Những ngọn tháp đều xây trên những ngọn đồi thấp nhỏ, thuở ấy hãy còn hoang sơ lắm. Nhìn từ xa, trông giống như bầu vú của một người mẹ đang nằm mà tháp là cái núm be bé xinh xinh cho các con bú mớm.
Sự liên tượng ấy càng làm cho những ngọn tháp trở nên thân mật, gần gũi chứ không bí hiểm xa lạ.
Có vẻ như người xưa chung sức chung lòng, xây tháp là để ngợi ca cuộc sống bất diệt, chứ không phải vì sự bất tử của các pharaon như kim tự tháp ở Ai Cập.
Họ đổ mồ hôi, nhưng không đổ máu. Họ ca hát và nhảy múa sau khi hoàn thành chứ không khóc than rên rỉ dưới đòn roi.
Những ngọn tháp vì vậy hãy còn vươn lên mạnh mẽ dưới trời xanh, dù rằng những chủ nhân thật sự đã phiêu tán tận đâu đâu.
Dù là nơi chôn nhau cắt rốn, nhưng tôi chỉ thấy ngậm ngùi chứ không dám tự hào. Vì những ngọn tháp đó là của dân Hời, đâu phải của ông cha tổ tiên tôi.
Cũng như tháp Eiffel là của người Pháp, tháp Big Ben là của người Anh, tượng Nữ thần Tự Do là của người Mỹ…Những di dân bất đắc dĩ người Việt cho dù nhận những nơi ấy làm quê hương thứ hai, cũng không thể và không nên tự hào. Con cháu họ 500 năm sau chắc vẫn còn thao thức tự hỏi quê hương đích thực của mình ở đâu?
Lần theo vết xe của lịch sử, tôi kinh hoàng nhận ra kinh thành Đồ Bàn, cách đây trên 500 năm, (1471) đã bị vua Lê Thánh Tôn cho quân lính san bằng, để lại ba mươi vạn thủ cấp và bắt đem đi hai mươi vạn nô lệ.
Có thể các nhà viết sử thời ấy đã thêm thắt thổi phồng để làm vừa lòng nhà vua. Nhưng dù thế nào, cũng đến non một nửa dân Hời bị bắt và bị giết. Vị vua được coi là anh minh nhất hóa ra là một kẻ xâm lược tàn bạo.
Sau cuộc chinh phạt, về nước vua liền xá tội cho các tù nhân bị án tử, đưa họ vào đất Đồ Bàn đầy những con ma không đầu, coi như tha chết nhưng lại bị lưu đày biệt xứ. Họ rất có thể là ông cha tổ tiên xa xôi của tôi.
Hình ảnh những thân người gầy còm, cổ mang gông chân mang xiềng, kết lại thành từng chùm, lê lết qua đèo qua phá, nhiều đêm lướt qua tâm trí tôi như những oan hồn trong thập loại chúng sinh của thi hào Nguyễn Du.
Cũng có thể, ông cha tổ tiên tôi là những dân nghèo từ các ruộng đồng chiêm trũng, từ những vùng sơn cước hay từ những miền nắng gió bão bùng ở châu Hoan châu Ái, bị vua quan ép buộc phải rời bỏ quê hương để vào nam khai phá vùng đất vừa mới chiếm được.
Họ cũng giống như những cư dân ở các thành phố miền nam bị chính quyền CS đưa đến các vùng rừng thiêng nước độc với mỹ danh rất kêu là đi kinh tế mới.
Số phận của ông cha tổ tiên tôi phải nói là cực cùng bi thảm. Không kể chết đường chết sá, chết bờ chết bụi, chết sông chết biển, nếu đem được tấm thân tàn tới được Đồ Bàn còn tanh mùi máu, thì còn phải chết vì đói, vì bị dân Hời nửa đêm mò tới cắt cổ để trả thù.
Trong số hàng vạn những con người cùng khổ ấy may ra chỉ còn sống sót được vài ngàn người.
Suốt ngày, dưới cái nắng cháy da cháy thịt hay trong cái lạnh thấu xương họ phải chôn lấp những xác chết đang thối rữa, thu nhặt những xương trắng phơi đầy đồng, rồi từ đó làm ra hạt lúa củ khoai, sống còm cõi trong nỗi nhớ quê da diết.
Đồ Bàn xưa cũng như Sài Gòn nay, một khi đổi chủ là bị thay tên đổi họ. Đã không còn là Chà Bàn của Chế Bồng Nga mà là Quy Nhơn biên trấn xa xôi của dòng họ nhà Lê, rồi của chúa Trịnh*.
Nhờ Trạng Trình mách bảo, Nguyễn Hoàng đã xin vào Hoành sơn, trở thành chúa Nguyễn chia đôi bờ cõi bắc nam. Được các hậu duệ chiêu dụ, các nhân tài miền bắc lần lượt trốn vào nam, biến Quy Nhơn trở thành nơi đất lành chim đậu. Trong số đó có Đào Duy Từ người đã xây lũy Thầy và lũy Trường Dục bên bờ sông Gianh và Hồ Phi Phúc lập nghiệp ở Tây Sơn thượng đạo, sản sinh ra Tây Sơn tam kiệt.
Khi đại binh của vua Quang Trung tiến ra đất Bắc, chắc thế nào cũng có cháu con của những người tù biệt xứ . Dù đã trải qua bao đời, nhưng cái giấc mộng về thăm cố hương cũng vẫn còn, nếu không muốn nói là cháy bỏng hơn bao giờ. Có lẽ nhờ vậy mà cuộc hành quân trở nên thần tốc: chỉ mới 5 ngày mà đã vào đến Thăng Long. Được bước đi trên đất cố đô giữa lúc máu quân thù chảy thành sông, xác thù chất thành gò, trong khí xuân thơm mùi thuốc súng, là cả một thoáng huy hoàng của họ.
Tôi nói một thoáng, vì sau đó Tây sơn sụp đổ, đất Qui nhơn lại máu chảy đầu rơi còn hơn cả lúc vua Lê chiếm được Đồ Bàn.
Thành Quy Nhơn lại bị đổi tên thành Bình Định và ấp Tây Sơn của Nguyễn Huệ bị đốt phá san bằng, chỉ sót lại một cây me con nay đã trở thành cổ thụ.
Nguyễn Ánh và triều Nguyễn sau đó đã tiến hành một cuộc trả thù tàn khốc và dai dẳng. Ngoài việc truy lùng những danh tướng như Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân và tất cả những ai cầm giáo theo Tây Sơn, còn cấm tiệt không được ai nhắc nhở đến họ.
Mãi 200 năm sau, bà tôi vẫn phải sợ hết hồn khi đứa cháu nhỏ là tôi, lúc học bài sử đã “rống” lên thật to: vua Quang Trung Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh…
“Gọi là ngụy chớ sao dám gọi là vua”, bà tôi khẽ khàng dặn cháu.
Cái từ “ngụy” đầy hận thù và khinh miệt ấy sau này được bên thắng cuộc tròng lên đầu lên cổ bên thua cuộc, xuất phát là từ đó.
Khi tôi được sinh ra và lớn lên, cái nỗi đau nhớ quê của tổ tiên cũng đã phai mờ dần. Và dân Hời cũng không còn một người nào sinh sống ở đất Đồ Bàn nữa. Nhưng cái tiếng Hời vẫn không mất đi. Nào hời hời khi mẹ ru con, nào ma Hời, mả Hời, vàng Hời, giếng Hời…
Tuy chưa hề trông thấy những con ma Hời sờ soạn dắt nhau đi như Chế Lan Viên đã thấy, nhưng tuổi thơ tôi vẫn luôn ám ảnh về bóng dáng của dân Hời. Tôi như thấy họ đang đóng gạch xây tháp, xuống sông lấy nước đi thành hàng dài, và mỗi lần soi mặt xuống giếng vuông của họ, tôi đều giật mình tưởng chừng như họ đang trốn núp đâu dưới đó…
Một đôi khi, có một vài người da nâu thẫm, mặc toàn đồ trắng, quấn khăn trắng đến các phiên chợ ngồi bán thuốc làm bằng rễ cây. Họ cười nói chào mời, nhưng trong đôi mắt họ vẫn chất chứa một nỗi buồn sâu thẳm, nỗi buồn của những kẻ đã bị cướp mất quê hương.
Không ai viết lại được lịch sử, có nghĩa rằng, không ai có thể thay vua Lê trả lại thành Đồ Bàn cho họ. Nhưng sao không ai dám, như chính phủ New Zealand và Australia có một lời xin lỗi chân thành với thổ dân, vì ông cha họ đã tàn sát và xâm chiếm đất đai bạt ngàn của người bản xứ.
Chẳng những chúng ta nợ họ một lời xin lỗi, mà còn chịu ơn họ đời đời.
Chịu ơn những ngọn tháp, những tượng Chàm. Chịu ơn những những nỗi buồn và cả những nỗi nhục.
Để không bị như họ, chúng ta phải rút ra bài học mạnh mẽ hơn.
Rằng, đừng khóc cho quê hương, mà phải đứng dậy.
Lúc này, khi bọn Tàu phù đang lăm le xâm chiếm vùng trời vùng biển nước ta, ai có súng thì dùng súng, ai có dao thì dùng dao. Ai không có gì hết thì xuống đường và già như tôi, thì dùng bút.

Khuất Đẩu
5/9/2019

*Thành phố Qui Nhơn hiện giờ nằm cách thành cũ Đồ Bàn khoảng hơn 20km.

KẺ LẠ

1.
Bỏ chiếc khung xe đạp chưa sơn xuống thềm nhà, anh ôm con búp bê bằng nhựa, ngồi chờ. Đây là con búp bê anh mua được với một cái giá gần như cho không trên đường phố Sài Gòn sau ngày Miền Nam giải phóng. Đương nhiên nó không đẹp như búp bê của Nga, nhưng vẫn đẹp hơn những búp bê bằng gỗ hay đất sét ở Hà Nội. Chân tay nó hồng hào, mũm mĩm, mà mắt lại biết nhắm biết mở nữa. Để nằm là nó ngủ, để ngồi là nó thức. Nhất định con gái anh sẽ reo lên, bố ơi, bố ơi, con yêu bố lắm.
Và vợ anh, chắc chị sẽ ôm lấy anh mừng mừng tủi tủi. Chị sẽ khóc, khóc nghẹn ngào vì mừng vui chứ không phải vì lo sợ, như 5 năm trước khi tiễn anh lên đường đi B.
Năm ấy, người ta đã không cho chị khóc. Trong buổi liên hoan, chị phải tươi cười, phải hát hò, phải hô khẩu hiệu để động viên anh. Nhưng khi về đến nhà, chị đã rũ xuống như một cọng rau héo. Có bao nhiêu nước mắt là chị để nó tuôn ra hết bấy nhiêu. Cả anh cũng vậy, khóc mùi mẫn, khóc dầm dề, khóc gần như suốt đêm.
Mãi đến khi đã đeo ba lô lên vai, hai người mới nhận ra rằng, sao ngu dữ vậy, sao cứ khóc lóc than thở hoài mà không yêu nhau đi.
Thế là, cũng trên thềm nhà này, chính chỗ anh đang ngồi này, anh vật chị và chị cũng vật anh, nên cả hai cùng ngã xuống một lúc để cho những thứ cần có nhau tự tìm đến nhau. Những thứ đó không thèm dỗ dành, không cần an ủi, cũng không hứa hẹn, cứ trần trụi xông thẳng vào nhau, hùng hục cắn xé như ăn tươi nuốt sống lẫn nhau, khiến cả anh và chị cùng quằn quại, rên siết một cách hả hê đến nỗi người hàng xóm thức giấc chỉa miệng sang: “định giết nhau đấy à?!”.
Chính lần “yêu” tưởng chừng đã chạm đến gót chân của cái chết ấy mà trong những trận đánh khốc liệt nhất, anh đã sống sót một cách thần kỳ. Và cả trong những cơn sốt rét rừng bải hoải, trong những lần bị thương thịt da thối rữa dòi bò lỏm ngỏm, anh cũng vượt qua khi nhớ tới tiếng kêu đắm đuối “em chết mất anh ơi”!
Rồi chốc nữa đây, chỉ nghĩ tới thôi đã thấy sướng ran, thì hãy cứ để mặc cho con bé chơi với con búp bê nhắm mắt mở mắt, cả hai sẽ lén đưa nhau vào buồng, sẽ không dữ dội điên cuồng như buổi sáng hôm ấy, nhưng nhất định không có cuộc ăn mừng hòa bình nào thắm thiết và no say bằng.

2.
Anh chưa hút xong điếu thuốc thì chị dẫn con gái đi vào sân gạch. Ôi, đúng là con bé xinh đẹp và dễ thương làm sao! Nó xúng xính đi cạnh mẹ, miệng lí nhí hỏi nói gì kia, chắc là hỏi có phải bố về rồi, phải không mẹ? A, dường như nó đang chạy tới bên anh. Và anh rướn người lên để dang tay ra, đón bé.
Nhưng không, nó bấu chặt lấy ống quần của mẹ, rồi giấu mặt vào đó.
Nó sợ! Đúng rồi, nó chưa gặp anh lần nào, sợ là phải.
Nhưng mẹ nó, sao lại nhìn anh với cái nhìn lạnh lẽo, khó chịu như nhìn một người lạ.
Anh đang lúng túng, chưa kịp thốt lên hai tiếng “chào em”, thì đã nghe đau nhói vì những tiếng nói khô lạnh, như đá sỏi ném xuống cái mặt hồ đang nổi sóng của lòng anh.
‘Ông gì kia, sao lại ngồi trước hiên nhà tôi?”
Anh ú ớ, : tôi là …là…là sao vậy trời? anh thoáng nghĩ, vợ mình đây sao, người mà mình thường nghĩ tới cứ như Phật như tiên, sao lại có bộ mặt mắt xanh nanh vàng của một bà chằng hé?! Chắc là đùa đấy thôi, phải không nào, cũng có thể là làm mặt lạnh chứ giữa ban ngày ban mặt mà mình đè ra thì xấu hổ chết!
Nghĩ thế, anh lấy lại bình tĩnh, nói như vuốt ve, dỗ dành:
“Thôi mà em, đừng trêu anh nữa, anh đây mà!”
“ Ông là ai mà dám xưng hô anh em với tôi?”
Thế này thì không phải là đùa dai nữa rồi! Anh điên tiết phun ra:
“ Là chồng cô, rõ chưa?”
Chị cũng không vừa, nói như tạt cả một thau nước vào mặt.
“Đồ điên! Bước ra ngay khỏi nhà tôi!”
Như thế này thì trời đất đảo điên hết rồi! Anh phanh ngực ra, gào to:
“ Cô dám đuổi tôi đấy à? Đây là nhà tôi, nếu cô không còn muốn nhận tôi làm chồng thì cứ việc cút xéo đi, nhưng kia là con tôi, con gái tôi”.
Anh lao xuống thềm, giằng lấy đứa bé. Cả hai đều cố sức kéo về mình khiến đứa bé dài ngoằng ra, ngất lên ặc ặc như sắp đứt làm đôi.
Thấy vậy, người hàng xóm bước qua can ngăn. Rồi cả xóm cùng kéo tới chở che cho đứa bé. Anh phân bua:
“ Làng nước có thấy lạ lùng chưa? Tôi sinh ra ở làng này, là thằng Trần Mạnh T. này, thế mà ma xui quỷ ám khiến con mụ này bảo tôi không phải là chồng, con bé này không phải con tôi, nhà này là của cha mẹ tôi chết đi để lại cho tôi, mà dám bảo tôi không phải chủ nhà, đòi đuổi tôi ra, thế là thế nào, thưa bà con làng nước?!”
Tuôn ra cả một hơi dài những người thật việc thật tưởng sẽ được nghe mọi người cùng kêu lên: thì đúng là ông chứ còn ai vào đây nữa, không ngờ những người đứng vây quanh đều im lặng, không một ai nói ra lời nào.
Anh lại gào lên hoang dại: không phải tôi là chủ nhà này sao? Tôi đã chết đâu, tôi là người thật đây mà, tôi bị thương cùng mình nhưng vẫn sống để về với vợ con, tôi đâu phải là ma hiện hồn về, phải không?
Đúng lúc ấy, một người đàn ông rẽ vào. Ông ta quát:
“Mày là thằng chó nào mà dám bảo là chủ nhà này?”
Một tay ông thộp ngực, một tay ông co lại thành nắm đấm dí sát vào mặt anh. Mặc dù vậy, anh vẫn thoát ra được và gằn giọng:
“Tao cũng muốn hỏi mày là thằng nào mà đến đây cướp nhà, cướp vợ con tao?”
Lúc này ông hàng xóm mới lên tiếng:
“Thôi tôi xin. Dù gì, hai đồng chí cũng là bộ đội phục viên. Đồng chí Trần Mạnh T. này (chỉ người đàn ông), thì đúng là người của làng này, ở sát cạnh nhà tôi, trước khi vào Nam còn qua chào tôi thì không thể là ai khác được. Nhưng đồng chí gì đây, chắc cũng có điều chi ẩn ức, hoặc là bị thuốc độc khai hoang của Mỹ nó làm cho đầu óc không còn sáng suốt nữa, nên mới có thể nhận lầm quê quán vợ con người khác là của mình. Tôi đề nghị hãy đem nhau ra đồn công an để làm sáng tỏ mọi việc chứ không nên hầm hầm muốn giết nhau như thế này.

3.
Tại đồn, trưởng công an nói:
“Đồng chí Trần Mạnh T. cấp bực thượng úy, tình nguyện đi B ngày…tháng, tham dự hơn mười trận đánh, trong đó có trận tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân, bốn lần bị thương, được trao huy chương chiến công hạng ba, huy chương anh hùng diệt Mỹ, ngày …tháng…phục viên, được tái nhập hộ khẩu, nhận sổ mua gạo… ”.
“Đó là lý lịch của tôi, anh nói, tuy chưa được nhập hộ khẩu và nhận sổ gạo vì người lạ mặt này (chỉ người đàn ông), đã nhận vơ là tôi, chiếm đoạt tất cả”.
“Tôi không nhận vơ, rõ ràng tôi là con dân của làng này, là thừa kế của dòng họ Trần nhà tôi, là chồng của Nguyễn thị Y. vợ tôi, là cha của con gái tôi tên là Trần thị Tiểu Quyên, yêu cầu đồng chí công an, căn cứ vào hồ sơ lý lịch, giải quyết việc này một cách mau chóng, trả lại danh dự cho tôi. Đồng thời tôi cũng đề nghị điều tra làm rõ âm mưu đen tối của tên Mỹ ngụy CIA này đội lốt bộ đội ta, trước mắt làm tan rã gia đình tôi, sau đó là lót ổ cho đế quốc Mỹ trở lại lần nữa để đánh chiếm nước ta”.
“Tôi còn muốn yêu cầu nhiều hơn nữa, anh nói. Phải đối chiếu chỉ tay và thử ADN của bố và con”.
Sự việc có hai người cùng một lý lịch, cùng một màu tóc, cùng một màu mắt tranh nhau nhà cửa vợ con quả thực chưa hề xảy ra ở làng này. Chỉ có một người biết rõ ai là thật ai là giả, chính là người mẹ. Chỉ cần nghe tiếng bước chân thôi cũng đã biết ai là con của bà, nhưng tiếc thay bà mất rồi. Rối mù như thế nên công an thôn không giải quyết được phải đưa lên các cấp cao hơn.
Trong quá trình điều tra, đồng đội và các cấp chỉ huy đều xác nhận người mà tác giả đang kể chuyện, chính là Trần Mạnh T. Trong khi tại cơ sở, chính quyền và dân làng, nhất là vợ anh, lại khẳng định người đàn ông mà anh tin là ma quỷ đó, thực sự là chồng của mình.
Nhiêu đó đủ điên cái đầu rồi, mà chỉ tay hai người lại giống nhau, ADN cũng phù hợp với ADN của con gái!
Vụ án vì thế thật khó để tuyên bố ai là thật ai là giả. Dẫu có kiện lên tận Trung ương, Đảng cũng bó tay mà thôi. Hồ sơ đành phải xếp lại, Người ta không làm tội anh, nhưng cũng không thừa nhận anh.
Từ đó, anh không nhà cửa, không vợ con, không hộ khẩu, không sổ gạo, sống lang thang vất vưởng như hồn ma bóng quế.
Anh không tài nào hiểu được, bằng phù phép ma thuật nào mà một thằng lưu manh như hắn có thể làm mờ mắt cả làng nước, và vợ anh, người đã chia xương xẻ thịt cho nhau đến nỗi tưởng không còn gì để cho nhau hơn được nữa, lại có thể nhận hắn làm chồng!
Sau này, trên những dặm dài lưu lạc, bới rác kiếm thức ăn, ngủ dưới gậm cầu, anh cũng đã gặp chục hàng trăm, những người đàn ông đi xa một hôm trở về, bỗng thấy trong nhà mình có một kẻ lạ hươ lạ hoắc mà vợ mình lại âu yếm gọi là chồng, con mình lễ phép thưa là cha.
Và cũng không ít những người vợ mất chồng theo cách có một con mẹ nào đó ngang nhiên chui vào giường, làm cái chuyện ấy miên man, rồi má má con con với lũ con mình ngọt xớt.

Phải rất nhiều năm sau nữa, anh mới hiểu được rằng đây là thời của lú, của mê, thời của bọn lộn sòng lộng giả thành chân. Một thời mà nước còn có thể mất, khi có kẻ lạ cứ lăm le nhảy vào làm vua, thì chuyện anh mất cả nhà cửa, mất cả vợ con chỉ là chuyện nhỏ.
Thôi nhé, hãy tìm một chị mất chồng nào đó mà làm lại cuộc đời. Một khi cả hai đều bầm dập thì chẳng còn thằng cha con mẹ nào thèm cướp nữa đâu.

MIẾNG MO CAU

Trong những kỷ vật hiếm hoi mà cô tôi để lại, ngoài đôi bông tai màu đỏ bằng đồng, một chiếc kẹp tóc bằng bạc, những thứ trang sức dành cho một cô gái nghèo, còn có một miếng mo cau hình tam giác to bằng bàn tay, mỗi góc nhọn đều có cột sợi dây dài chừng nửa mét. Tất cả đựng trong một chiếc hộp phủ khăn nhiễu đỏ, chỉ đến ngày giỗ cô, bà tôi mới mở ra lau chùi một cách nâng niu trìu mến.
Vào cái thời mà một miếng trầu cay được đưa vào miệng thường ngày sau miếng cơm, thì cây cau cũng được coi như một loại cây thân thiết của dân quê chỉ sau cây lúa.
Nhà tôi, nhờ vườn rộng nên bà tôi trồng đến cả trăm cây cau. Khi tôi được sinh ra, chúng đã lớn lên cao vút. Những thân cau xám bạc, mảnh mai, đội trên đầu những tàu lá xanh đen, trông từ xa cứ như có hàng trăm người khách đội dù đang đi cà khêu đến thăm nhà tôi vậy.
Vườn cau đối với bà không chỉ vui mắt, phong nhã, đẹp thanh tao mà còn là một nguồn lợi đáng kể trong số thu nhập ít ỏi của gia đình.
Dù đã nhịn ăn đến nỗi cả nhà, ngay cả khi đau bệnh cũng không một ai dám động đến hạt gạo, mà lúa vẫn không đủ để đóng thuế nông nghiệp, vì ông tôi bị quy là địa chủ.
Thực ra, ruộng ông tôi chưa đến hai mẫu ta, dù công cấy và công cày phải trả đến hai mươi công. Nhờ chút danh của ông anh con người bác làm thơ lại ở huyện, mà trong một lần bầu lý trưởng, ông tôi đã được dân làng dồn phiếu cho.
Cái gốc rễ đôn lên địa chủ là từ đó.
Nhưng, nguồn cội sâu xa là từ cái đầu óc đen tối của một tay bần cố nông cốt cán. Hắn ở sau lưng nhà tôi, trong một cái lều xập xệ nhỏ như lỗ mũi. Ngoài cái rẻo đất đó ra, hắn chẳng còn có cục đất nào nữa để ném chó ỉa như cách người ta mỉa mai.
Hắn sống bằng cái nghề mà ai cũng ghét nhưng chẳng dám nói ra. Người ta sợ, cũng đúng thôi, vì hắn thông thuộc hết mọi ngõ ngách của từng nhà, biết chỗ nào cất giữ của quý, biết ai nằm đâu ngủ đâu…
Dù phải tiết kiệm dầu đèn, nhưng mỗi tối bà và mẹ tôi vẫn phải thắp lên soi rọi khắp nhà, vì trong lúc chạng vạng hắn có thể lẻn vào đu người trốn dưới gậm giường, đợi cả nhà ngủ say là khoắng sạch những thứ đồ thờ và nồi chảo làm bằng đồng thau.
Ngoài ra, hắn còn có cái tật ban đêm thích lẻn vào vườn sau nhà tôi để rình xem cô tôi tắm. Cô tôi rất ghét, dù khi tắm vẫn để nguyên cả quần áo. Trong một lần thấy hắn thập thò sau bụi chuối, cô tôi đã lôi cả ông bà tổ tiên nhà hắn ra mà đổ cả xuống sông xuống biển.
Đó là lúc chưa có chính sách thuế nông nghiệp và chưa phát động cải cách ruộng đất. Khi được đảng ủy đưa vào ngồi một trong năm cái ghế chủ tịch đoàn, thì người đầu tiên mà hắn quy địa chủ chính là ông tôi.
Chuyện đó hãy nói sau, giờ xin trở lại với những cây cau của bà tôi. Dù những năm kháng chiến, chẳng còn mấy ai ăn trầu nữa, ngay cả những người già, nhưng cau khô vẫn được mua rất đắt. Người ta bảo cau có thể trị sốt rét và nhất là cầm máu khi bị thương. Ngoài cau sấy khô, bà tôi còn tướt tàu cau bó thành chổi để bán cũng khá được tiền. Mo cau kết thành gàu múc nước, cắt thành quạt mo hay đựng cơm vắt đem ra đồng, rất tiện lợi. Thế nhưng cái miếng mo cau be bé của cô tôi dùng để làm gì, hỏi thì bà chỉ mếu máo cười không nói, ra dấu bảo đi chỗ khác chơi.

Trở lại chuyện trả thù của tay bần cố nông cốt cán.
Dạo ấy là cuối năm 54. Cả làng rùng rùng trống mõ, không đêm nào là không học tập phóng tay phát động quần chúng, tố khổ địa chủ. Ông tôi và cả chục địa chủ phú nông trong làng bị đem ra cho mọi người mắng nhiếc, chửi rủa…tức là đấu lý trước khi đấu lực. Mà đấu lực là bị đánh cho dập mình dập mẩy, ngoan cố thì bị đánh cho đến chết!
Pháp đi càn, đốt nhà hãm hiếp, mổ bụng trẻ con, sợ lắm! Nhưng chưa sợ bằng những cảnh đấu lực khủng khiếp sắp diễn ra! Vì vậy, trong một đêm, ông tôi đã leo lên cây cau cao nhất, định nhảy xuống tự tử. Nhưng khi trông thấy cô tôi đứng dưới gốc gào khóc thảm thiết, ông không còn lòng dạ nào mà chết nữa, đành phải tụt xuống và cả hai cha con cùng ôm nhau ngồi khóc.
Cô tôi, người rất thuộc Kiều, đã nói với ông tôi:
“Thôi xin cha, hãy để cho con bán mình mà chuộc cha!”
Mãi một lúc, ông tôi mới hiểu ra cớ sự, hỏi:
“Bán à, nhưng bán cho ai?”
Cô tôi nói: “bán cho thằng Còn!”
“Thằng Còn nào?”
“Thằng Còn sau nhà chứ còn thằng nào nữa!”
“Thằng ăn cắp đó à?”
“Dạ!”
“Không đời nào! Thôi để cha chết phứt cho rồi! Cha chết là hết chuyện!”
“Không đâu cha! Cha chết, hãy còn mẹ và con. Nhất là con. Nó thèm muốn con từ lâu, nếu lấy được con làm vợ, chắc nó sẽ tha mạng cho cha!”
“Không được! Vậy thì cả cha và con cùng chết, sống như thế nhục nhã lắm!”
“Không sao đâu cha, con có cách sống được mà!”
Ngay từ sáng sớm, cô tôi đã qua báo cho hắn biết cái tin không bao giờ hắn ngờ được, là sẽ lấy hắn làm chồng, thì ngay tối hôm đó, ông tôi đã không bị điệu ra đứng trước nhân dân nữa.
Và, liền hôm sau là động phòng mà không cần cưới hỏi.

Trước cái quyết định như đi vào hang cọp của cô con gái út, thay vì khóc lóc than thở, bà tôi bỗng trở nên im lặng như đất trời trước cơn bão lớn. Bà lấy một cái mo cau còn mới, gọi cô tôi vào buồng, rồi hai mẹ con rầm rì làm những gì trong đó mãi đến chiều tối mới bước ra.
Cô tôi mang theo một bọc áo quần, lặng lẽ ra sau vườn, vạch rào chui qua nhà hắn. Hồi đó chó đã bị giết sạch, nên khi thấy cô tôi bước vào, hắn giật mình kêu ớ ớ, lúng túng không biết gọi cô bằng gì.
Không đèn lồng, không pháo nổ, không đưa dâu, không đón dâu, một đời con gái mà lấy chồng trốn chui trốn nhủi như thế, ông bà tôi rất xấu hổ đau lòng. Ông thì nằm dài trên phản như chết đã ba ngày mà chưa chôn, bà thì cứ ngồi ngoáy mãi cái cối giã trầu đến nỗi làm nó thủng một lỗ mà chưa chịu đưa miếng trầu lên miệng.
Suốt đêm hôm đó hai ông bà không hề ngủ, nín thở chờ đợi mà chẳng biết chờ gì. Có thể là tiếng khóc, cũng có thể là tiếng thét, để cả hai có cớ mà ôm nhau khóc cho đứa con tội nghiệp của mình.
Mặc dù đảng ủy bảo như thế này là sai quan điểm lập trường, là không đúng với đấu tranh giai cấp, nhưng hắn bảo các nữ bần cố có ai chịu làm vợ hắn đâu!
“ Thưa thiệt với các đồng chí, hắn vừa nói vừa cười, con nít thì em biết, nhưng lớn lên thành đàn bà thì em không biết cái đó nó nằm ngang hay nằm dọc, thôi hãy nhắm mắt thông qua giùm cho. Mà nhà đó chiếu theo tiêu chuẩn thì cũng chỉ là trung nông thôi. Địa chủ là do em đẩy lên đấy!”
Vì cần một tên trơ khất có lý lịch đến bảy đời là cố nông để cơ cấu vào trong đội cải cách, nên đảng ủy cũng đành phải bớt cố chấp mà gật đầu. Một trong các vị liền vỗ vai nháy mắt, bảo sắp lên tiên rồi đấy nhé. Sướng thế!
Suốt buổi chiều hắn ngâm mình dưới sông kỳ cọ và vuốt ve cái của nợ, rủ rỉ nựng nịu: “mày sắp sướng ngất trời rồi đấy con ạ. Dài ra hơn nữa đi, to ra hơn nữa đi, cứng lên nào! Đấy, thế đấy, chưa chi đã thấy sướng điên lên rồi!”
Khi cô vợ bước vào, hắn liền đóng kín cửa, và như bọn trai làng cười cợt, chắc là hắn đè nghiến ra như hổ đói vồ mồi. Nhiều người, mặc dù sợ hắn như sợ cọp, nhưng vẫn tỏ ra bất bình và xót xa thương cảm cho cô tôi hoa nhài cắm bãi cứt trâu. Họ bảo bị Tây đen hiếp mà còn ít nhục hơn là làm vợ hắn!
Sáng ra, ai cũng tưởng vớ được con gái nhà địa chủ da trắng tóc dài, là coi như giai cấp vô sản đã chiến thắng, thế nào mặt hắn cũng câng câng, đã dễ ghét lại càng dễ ghét hơn nữa. Rồi thừa thắng xông lên, hắn sẽ đấu cho các nhà khác cũng phải nôn ra hết của cải vòng vàng, nếu muốn giữ lại chút danh tiết của vợ con.
Nhưng không, mặt hắn bỗng trở nên ỉu xìu như một miếng giẻ lau vừa mới đem nhúng nước. Thay vì vác mặt lên hiu hiu tự đắc thì hắn cụp đuôi tiu nghỉu như chó mất chủ. Đêm đấu lý hôm đó, hắn ngồi im re bỏ cả hai chân lên ghế, không còn xỉa xói hò hét, đánh đánh, giết giết như mọi đêm trước nữa.
Chẳng ai hiểu vì sao, nên khi tan buổi đấu lý, nhiều kẻ tò mò liền đi theo hắn về nhà để rình xem. Cả bọn vô cùng kinh ngạc khi thấy hắn bò xuống sàn nhà, vừa van xin vừa rên rỉ như một tên đầy tớ đang chịu tội, trong khi cô vợ nằm lặng thinh trên giường như một bà chủ uy nghiêm khó tính.
Người ta xì xào nhỏ to bàn tán. Có kẻ bảo hắn đã từng đào mồ lên lấy trộm đồ, giờ cùi tận mạng nên bị cô vợ hất xuống giường là phải lắm. Nhưng cũng có người thâm trầm hơn thì bảo, cái giống lưu manh bần tiện nó hùng hùng hổ hổ là vậy, nhưng khi đứng trước một nhan sắc trời cho lại run bắn lên. Làm bậy thì dễ chứ làm chồng một người cách xa mình cả một trời một vực đâu có dễ.
Chẳng biết đâu mà lần. Nhưng cô tôi dù đã sa chân vào hang cọp, cũng vẫn không mất đi cái cốt cách đằm thắm tự nhiên của một người đã được bà tôi dạy dỗ một cách cẩn thận. Mặc cho thằng chồng mặt lúc nào cũng nhăn như khỉ ăn ớt, cô tôi vẫn bình thản, coi như không có chuyện gì xảy ra.
Thế rồi, mấy tháng sau, xệch xạc như một manh chiếu rách, hắn thất thểu bước lên tàu Ba Lan đi tập kết ra Bắc. Cô tôi trở lại nhà, coi như vừa mãn hạn tù.
Khi chính quyền quốc gia đến tiếp thu, có một trung úy muốn ra tay nghĩa hiệp cưới cô làm vợ, nhưng cô lắc đầu từ chối. Cô tâm sự với mẹ tôi: “dù gì, em cũng đã mang tiếng chung chạ với một thằng cán bộ bẩn thỉu, thì chồng và con em nếu có sau này, cũng sẽ chỉ xấu hổ lây mà thôi. Em nhất định ở vậy, thề sẽ không lấy ai nữa!”
Cô sống đến năm ba mươi tuổi thì mất vì một căn bệnh hiểm nghèo.

Phải nhiều năm sau, trong một bữa giỗ cô, cha tôi vừa nhìn lén mẹ tôi vừa giải mã cái bí mật của miếng mo cau do cô tôi để lại.
“ Có gì khó hiểu đâu, ông nói, cô mày đeo cái miếng mo cau ấy vào, giống như cái đai trinh tiết của lính La Mã thời xưa đeo cho vợ trước khi ra trận, thằng Còn chỉ có nước ngồi khóc mà thôi! Nó héo ruột héo gan là vì thế!”
Mặc dù mẹ tôi nguýt dài tưởng chừng vung một đường dao sắc hơn cả dao cau, cha tôi vẫn đưa ly rượu lên môi, uống cạn. Xong, ông khà một tiếng, vuốt chòm râu lơ thơ một cách đắc chí, nói lớn:
“Giỏi thiệt! Chống cọng mà bản lĩnh mưu trí như bà nội và cô mày, đúng là giỏi hơn cả Mỹ!”


QUÊ NGOẠI

Thưở bé, được về ngoại là không gì thích bằng. Mà tôi lại có đến những ba nơi gọi là quê ngoại: một của tôi, một của cha và một của ông nội.
Hai tiếng quê ngoại lúc nào nghe cũng dịu ngọt, ấm áp. Và những chuyện bên ngoại nghe cứ như chuyện cổ tích.
Quê ngoại của tôi ở làng Thuận Thái, một ngôi làng bao quanh những tre là tre nằm dọc phía hạ lưu của sông Kôn, con sông chảy qua thành Đồ Bàn, nơi mà bóng dáng Huyền Trân tưởng chừng vẫn còn thấp thoáng đâu đó bên tháp Cánh Tiên.
Quê ngoại giáp ranh với quê nội, nên tôi có thể chạy một mạch từ nhà nội thẳng đến cổng nhà ngoại, chỉ chừng mười lăm phút. Bà ngoại đã mất sau khi sinh mẹ tôi, nên chỉ có ông ngoại râu trắng và dài tận ngực, ra đón cháu với một miếng đường phèn ngọt lịm.
Tôi nói có thể là sau này lớn lên, chứ lúc ấy tôi mới có bốn tuổi và mẹ tôi phải bồng, tôi mới có thể qua được con đường rẽ vào nhà tối om, đầy gai tre mục.
Nhà ông tôi nằm cạnh nhà ông nghè, là em họ của ông. Ông ấy đậu cử nhân thứ nhì nhưng không ra làm quan, nên vẫn là nhà lá mái lợp tranh, chỉ cửa ngõ xây gạch có đắp hình ông Lã Vọng ngồi câu. Ông là hình ảnh của nạn nhân đấu tố qua nhân vật cụ nghè Nhã của Những tháng năm cuồng nộ.
Làng có một ngôi chợ rất nhỏ lèo tèo vài chiếc lều chỏng chơ, gọi là chợ Rượu, nhưng dạo ấy cấm bán rượu, chỉ nhóm vào buổi sáng và là nơi bà tôi thường đem cau chuối trong vườn nhà lên bán.
Vào dịp Tết, chín cái chòi bé tí mỗi cái chỉ đủ chỗ cho một người ngồi được dựng lên giữa chợ, rồi trống kèn, hò hát, để mọi người từ khắp nơi kéo đến thử vận may. Những ông Ầm, Nọc Đượng, Sáu Cẳng, Bạch Huê …trong trò chơi đánh bài chòi ấy đã in vào đầu óc tôi từ đó. Và cũng không bất ngờ khi nó đi vào tác phẩm Lão tiền bối.
Dân làng, trong một lần đốt rác sau khi dựng chòi xong, đã bị máy bay Pháp trông thấy ném xuống một trái bom giữa chợ. Miểng văng vào tận vườn sau nhà ngoại, giết chết cô cháu gái tám tuổi con dì cùng một tuổi với tôi. Chị ấy mắt đen, da rất trắng, chẳng hiểu sao có tên là Quạ. Đến thời chống Mỹ, một trái nữa lại rơi ngay cạnh nhà, giờ hãy còn một cái hố sâu thẳm không bao giờ cạn nước.
Những ấn tượng đó ít nhiều làm mất dần cái vẻ ngọt ngào đầy yêu thương của quê ngoại, chỉ còn là những vang bóng lạnh lẽo của thương đau mà thôi.
Cái hình ảnh đẹp nhất còn để lại trong tôi, chính là bộ râu dài của ngoại. Trông nó rối rắm nhưng chưa bao giờ làm bối rối những ngón tay bé bỏng của đứa cháu nhỏ, mỗi khi nó được ông cho phép vuốt thử. Cũng may, trong những bài tập làm văn dù đã được nhồi nhét, tôi vẫn không một lần nào đem ra so sánh râu của ông với râu…Bác Hồ!

Quê ngoại thứ hai là của cha tôi. Dù đi bộ phải mất hơn nửa ngày, nhưng tôi vẫn thích theo bà về thăm trong những lần cúng giỗ hay Tết đến.
Mỗi lần như thế, tôi được dịp đi chơi xa, thoát khỏi sự dạy dỗ nghiêm khắc của con trai bà. Tôi lại được những người cháu gọi bà bằng cô chìu chuộng, cho rất nhiều quà bánh và tiền lì xì. Làng tên Lục Thuận, gần ngã ba sông có bắc một cây cầu chữ Y. Bên kia cầu là quê chồng của người chị ruột ông tôi. Ở đó, lính Đại Hàn đã dồn những người đàn ông mà bọn họ nghi là cọng sản vào trong một căn nhà, bên ngoài tưới xăng rồi châm lửa đốt. Một người cháu gọi ông bằng cậu may mắn thoát được nhờ nằm dưới một tấm vách bị ngã đổ.
Con đường đi qua làng của bà là con đường liên xã khá rộng và bằng phẳng, dạo sau này có xe ngựa, đi rất thích. Không gì vui bằng những ngày đầu năm, xúng xính trong bộ quần áo mới, giày mới, được ngồi bên cạnh bác xà ích nhìn cái bờm ngựa vàng hoe phơ phất và nghe tiếng nhạc ngựa leng keng ngọt ngào. Và càng thích hơn nữa, khi trong xe có một cô bé áo tím kiềng vàng cũng theo mẹ đi chùa hay về thăm quê ngoại. Đừng tưởng lấy cớ xe chật mà đụng tay đụng chân như bây giờ, cả hai ngồi im như pho tượng bằng đất sét, chỉ có trái tim, nếu tượng có một trái tim, là nhảy choi choi như muốn vọt ra khỏi lồng ngực. Nhưng cũng hơi buồn là chẳng có một cái liếc mắt nào dù là liếc trộm, chứ nếu có thì chắc đã nhớ nhau từ độ lâu rồi.Quê ngoại thứ ba là của ông nội tôi. Xa, rất xa, tận chân núi Chuông mây phủ, nơi có hai hòn đá một lớn một bé giống hình người mẹ đang ngồi bắt chí cho con. Từ đó phát sinh câu chuyện huyền hoặc: hòn vọng phu. Vẫn là chờ chồng hóađá, nhưng người chồng lại là người anh ruột bỏ đi sau khi biết mình phạm tội loạn luân! Câu chuyện ấy khiến quê ngoại của ông trở nên huyền bí và hấp dẫn. Tôi từng ao ước được một lần leo lên, tận mắt ngắm và tận tay sờ thử cái da thịt kia một khi đã thành đá nó như thế nào. Mãi đến năm đình chiến, ông tôi lần đầu và cũng là lần duy nhất đưa tôi về thăm quê mẹ của ông.Đứa cháu ngoại già đương nhiên không còn mong gặp ông bàngoại, cũng không mong gặp cậu mợ, chỉ mong gặp những người anh giờ cũng đã già như ông. Họ đứng mãi bên thềm, xúc động không nói lên lời. Mãi một lúc sau mới bước vào nhà. Ông tôi khoe đứa cháu trai mười bốn tuổi và họ xem mắt xemmũi tôi thật lâu như thể cố tìm trên đó một chút gì của nhà họPhạm còn lưu lại ở đứa cháu đời thứ tư. Rồi đó, hết nhà ông bác này đến nhà ông bác nọ mở tiệc đón mời. Chưa bao giờ tôi được ăn nhiều thịt như thế. Các mâm cỗ đầy ắp thịt, có cả thịt nai và heo rừng.
Trong bữa ăn, họ hỏi nói đủ thứ chuyện, nhất là chuyện cải cách ruộng đất vừa qua. Họ cũng không quên nói chuyện đi săn, chuyện cọp trả thù và chuyện bắt rết rừng trong những cơn mưa đầu mùa để làm mồi nhậu. Không ai nói chuyện hai mẹ con trên núi Chuông, không biết có phải vì quá quen thuộc hay vì đó là nơi linh thiêng có đầy âm khí.Nhà họ Phạm khá giàu, đã chia một phần gia tài cho cô em, và bà cố tôi đã đem số của cải ấy về tậu ruộng ở quê chồng. Ruộng sát vườn nhà, gọi là đám Ngõ. Lúc bé, mùa lụt tôi thường ra ngồi câu, đến mùa gặt xem thợ gặt và mùa cấy xemthợ cấy. Hình ảnh những cô thợ cấy trên đồng, tuy lam lũ, nhưng theo tôi là dịu dàng và xinh đẹp nhất. Ruộng vừa bừa xong, nước bùn lênh láng, biến thành một tấm gương thật to in cả mây trời long lanh nắng. Các cô gái mười tám đôi mươi, quần đen xắn lên quá gối, nón trắng nghiêng nghiêng, xếp thành hàng dài như những con thiên nga đen trong vở ballet Swan lake. Khi con đầu đàn dứt một câu hò là cả đám cùng cất tiếng hế hò hê nghe thật êm ái.Nhưng, giống như quê ngoại của tôi và của cha, quê ngoại của ông cũng không tránh khỏi bất hạnh do chiến tranh.Một người có cha đi tập kết, mà con lại bị Thượng cọng bắn chết trên đèo Mang Giang, khi bác ấy chạy xe đò trên đường Quy Nhơn An Khê.Một người nữa, là gái, tôi gọi bằng cô, một mình lái xe geep đưa mẹ tôi vào Ninh Hòa trước khi chạy vào Sài Gòn, đến Phan Thiết thì bị lính di tản cướp mất xe. Nghe nói cô ấy ngã xuống bất tỉnh dù không bị bắn, vì trong bánh xe secours có chứa đầy vàng! Quê ngoại buồn như thế đấy! Mà quê nội cũng không ít buồn hơn. Ông tôi đã bị bắn chết bên bờ dậu sau khi ngôi nhà đã bịđốt cháy. Thật không may, thế hệ của chúng tôi, ai cũng có một tuổi thơ ít nhiều ngậm ngùi. Ngậm ngùi hơn nữa nếu mai đây, chẳng những không còn quê nội quê ngoại, mà cả thành phố cũng trở nên xa lạ, nếu đất nước này biến thành một tỉnh của những con chó sói
phương bắc. Đi đâu, dứng đâu, ngồi đâu cũng chỉ thấy rặt một giống tàu, tàu và tàu!Thì thôi, hãy khóc lên đi hỡi quê hương yêu dấu*!

mượn tựa tiểu thuyết nổi tiếng của Alan Paton


Khuất Đẩu

Đầu năm 2019

ĐÔI KHI NẮNG LÊN

Đôi khi nắng lên làm tôi nhớ
Trịnh Công Sơn

Mưa!

Không chỉ một cơn mà nhiều cơn. Không chỉ một ngày mà nhiều ngày. Mưa gần như suốt mùa đông. Có một nhà thơ đã phải kêu lên:

Mưa chi mưa mãi
Mưa mãi mưa hoài
Lòng biết thương ai
Trăng lạnh về non không trở lại.

Đó là những cơn mưa xứ Huế, mưa dầm dề, mưa lê thê. Mưa như một người đàn bà ghen ngồi tỉ tê kể tội chồng mình suốt đêm dài không cho anh ta ngủ.Đất trời chìm trong màn mưa trắng đục, lạnh cả chiếu chăn, lạnh cả hồn.

Thế rồi bỗng dưng mây tan, và nắng lên. Ôi nắng mới ngọt và ấm làm sao. Nắng xối xả, nắng vàng tươi, nắng trên mái nhà, trên đường phố, trên bãi cỏ ven sông… nắng cũng có âm thanh trong veo như tiếng cười. Mọi người đều đổ ra đường kể cả những cụ già suốt ngày ngồi ôm lồng ấp trước ngực. Tiếng người nói, tiếng guốc khua, tiếng còi xe sau bao nhiêu ngày như mất tăm trong mưa bỗng dưng xuất hiện đông vui, rộn rã.

Nhưng cũng chỉ một ngày, có khi chỉ một vài giờ, rồi lại mưa, mưa dầm dề mưa lê thê, mưa như để bù lại cái bất chợt nắng lên.

Lại lạnh cả chiếu chăn. Và, lại lạnh cả hồn.

Nhưng, đôi khi, hay chỉ là một vài khi, như thế cũng đủ ấm lòng người. Trịnh Công Sơn hát:

Đôi khi nắng lên làm tôi nhớ

Nhớ gì nào?

Nhớ những buổi sáng đầy sương mù trên sông Hương, những con thuyền hư ảo như trôi trong mơ, những tà áo trắng của nữ sinh Đồng Khánh biến thành mây trên bến Thừa Phủ.

Và những chiều tím với bao tà áo màu tím than rất riêng của Huế, nhớ tiếng rao hàng ngọt ngào nũng nịu, đã nghe là y như rằng không thể không muốn ăn.

Nhớ sen nở trắng như tuyết quanh hồ thành nội, những mảng tường rêu xanh ở cữa Thượng Tứ, nhớ những quan văn quan võ bằng đá cung kính đứng chầu trước sân đại nội cho dù các ông vua triều Nguyễn đã đi vào thiên cổ, nhớ chợ Đông Ba trên bến dưới thuyền và cầu Trường Tiền như một nét mày cong duyên dáng của giai nhân.

Có lẽ, người ta chỉ thật sự yêu Huế khi đã đi xa. Và cũng chỉ một đôi lần nhớ Huế khi mùa mưa tới. Nhất là một đôi khi nắng lên.

Tôi chỉ ở Huế một mùa thu và nửa mùa đông. Tôi không có một chút ấn tượng nào của núi Ngự, dù rằng Bùi Giáng đã rất thực và cũng rất dí dỏm khi viết:

Thưa rằng: xứ Huế bây giờ
Hãy còn núi Ngự bên bờ sông Hương

Ngọn núi trở thành bình phong của kinh thành nhà Nguyễn ngày nào đã không còn thông reo vi vu xanh ngắt, giờ trơ trụi với mồ mả chênh vênh trồi sụt. Tôi cũng không ưa những lăng tẩm tàn phai buồn hiu hắt. Lăng Gia Long khiến tôi nhớ đến cuộc hành hình tàn bạo đối với mẹ con nữ tướng Bùi Thị Xuân, lăng Minh Mạng nhớ tới cái chết của lão thần Nguyễn văn Thành, lăng Tự Đức nhớ tới giặc Chày Vôi, còn lăng Đồng Khánh thì nửa Tây nửa Tàu rất dị hợm.

Cái còn đọng lại trong tôi ấy là, gần như các gốc cây cổ thụ trong thành nội đều có những ngôi miếu nhỏ lúc nào cũng khói hương ấm áp. Người Huế đã không quên cái đêm kinh thành thất thủ khiến mấy ngàn người chết. Và lại càng khó quên những người chết trên bãi Dâu trong trận Mậu Thân.

Tôi cũng không quên được cái rạp hát bội cũ nghèo nàn trên đường Phan Bội Châu, chỉ lèo tèo một vài chục khách mà đêm nào cũng sáng đèn hự hự ứ ư, quán thịt dê bên cạnh với những con dê chờ chết suốt đêm kêu be be như oán như than.

Và lại càng không quên những chiếc bánh nậm mỏng như chiếc lá, bánh bột lọc trong vắt như kiếng trông thấy cả con tôm nằm im bên trong, chén nước mấm ngon dầm ớt xanh vừa cay vừa thơm ngát.

Hỏi rằng có nhớ riêng cô gái Huế nào không, thì thưa rằng không dám. Nhưng bảo rằng quên thì thực khó mà quên được những chiếc nón bài thơ e ấp, nép bên trong là những mái tóc thề. Gần như các cô gái Huế chưa chồng không cô nào chịu phi dê. Các cô chỉ ra khỏi nhà khi đi học và chỉ đi bộ hay đi xe đạp tới trường rồi lặng lẽ ra về, không tụm năm tụm ba ăn quà vặt hay dung dăng dung dẻ lang thang trên đường. Cho nên cô nào cũng có vẻ tiểu thư con nhà khuê các.

Những cô gái ấy, sau này trở thành bà quận trưởng, bà đại úy lại nói rất nhiều và ghen đáo để.

Tôi có anh bạn, bảo rằng anh đã lầm cái vẻ khuê các đó trong nhiều năm và ngao ngán chịu đựng suốt cả một đời.

Mà thôi, hãy yêu Huế một đôi khi và nhớ Huế một đôi lần, để thấy mình giàu có thêm đôi chút, vậy là vui rồi.

Khuất Đẩu