NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, “Lạy Chúa toàn năng, tại sao họ có thể làm như thế?”

nuocmattruocconmua

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, nguyên tác Anh Ngữ “Tears Before The Rain” là một tập sử liệu về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam, do Larry Engelmann, Giáo Sư Đại Học San Jose State thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn nhiều thành phần: người Mỹ, người Việt, kẻ thắng người bại …Những cuộc phỏng vấn này khởi sự từ 1985, sách xuất bản năm 1990. Bản dịch Việt Ngữ do nhà văn Nguyễn Bá Trạc thực hiện năm 1993, xuất bản năm 1995 tại California.

KEYES BEECH
(Nhật báo Chicago Daily News)
“Lạy Chúa toàn năng, tại sao họ có thể làm như thế?”

Trước khi nói về Á Châu và Việt Nam, tôi cần mở lời mào đầu rằng tất cả chúng ta đều là sản phẩm của thời đại và môi trường chúng ta. Tôi thuộc thế hệ Đệ nhị thế chiến. Tôi vẫn thích chiến thắng hơn chiến bại. Kể cả chiến tranh Việt Nam cũng vậy. Cho nên, có lẽ dù tôi là một kẻ thua cuộc tệ hại, nhưng tôi vẫn không thích cái lối mà mọi sự đã diễn ra ở đấy.

Tôi không thích cái lối mà mọi sự đã xoay chuyển ở đấy, và tôi cho rằng không cần phải để xảy ra cách thức ấy. Nhưng đây là một câu chuyện thật dài, tôi không muốn phải… đánh một trận chiến Việt Nam từ đầu trở lại một lần nữa.

Tôi là một loại già nua lỗi thời và đã biết quá nhiều về cuộc chiến ấy, ngay cả từ trước khi đến Việt Nam. Đối với đa số thông tín viên có mặt ở đấy, họ đều là những người trẻ dễ thương, chịu khó, đôi khi rất gan dạ, xông xáo tìm tin, đủ mọi thứ, tuy nhiên đây vẫn là cuộc chiến đầu tiên họ tham dự. Phần tôi, tôi chẳng lấy gì hứng thú lắm về cuộc chiến này. Tôi cũng gần như chẳng bị xáo trộn gì về ý niệm đạo đức, như phần lớn các thông tín viên khác đã bị. Đối với tôi, mọi cuộc chiến đều vô-đạo- đức, và một vài cuộc chiến này có thể ít vô-đạo-đức hơn một vài cuộc chiến khác, có lẽ. Tôi đã là Thủy quân Lục chiến tại Thái Bình Dương thời Đệ nhị thế chiến. Là thông tín viên chiến trường của Thủy quân Lục chiến trong trận Triều Tiên. Rồi từng làm tin ở rất nhiều nơi khác, từ các cuộc cách mạng nho nhỏ đến các cuộc chiến be bé khắp Á Châu, phần lớn tại Đông Á, tại các cuộc chiến Ấn Hồi. Và chót hết, là trận chiến Pháp tại Đông Dương. Cho nên tôi không phải là kẻ lạ mặt trong bối cảnh này.

Tôi cư ngụ tại Sàigòn từ năm 1965. Bấy giờ tôi đang viết cho tờ Chicago Daily News và cho Dịch vụ hải ngoại của Chicago Daily News. Cùng thời ấy, cũng có các tay ký giả khác đến Việt Nam với tôi như David Halberstam, Mai Browne và Neil Sheehan. Trước đó tôi vẫn phải di chuyển giữa Tokyo, nơi tôi cư ngụ, và Sàigòn, cho mãi đến năm 1965. Bấy giờ vì chúng ta đã gởi quân chiến đấu sang và phải viết thường trực, nên tôi đến ở luôn đấy. Tôi ở đây mãi cho đến 1971, trừ một thời gian ngắn rời khỏi xứ. Rồi tôi đi Hồng Kông. Nhưng không bao giờ tôi thực sự rời xứ này. Người ta không bao giờ thực sự rời Việt Nam, và tôi vẫn cứ đi đi, lại lại như thế.

Khi bản hiệp định Ba Lê được công bố, ngay đám phóng viên phản chiến – Đám phóng viên trẻ – cũng phải thốt lên rằng: “Đây quả là chuyện bán đứng.” Tất nhiên, đó là việc bán đứng. Cho đến thời điểm này, chúng ta chỉ quan tâm có một việc duy nhất thôi: Làm sao lấy được tù binh về. Chúng ta cóc cần chuyện gì khác. Đúng vậy. Và để đổi lại việc lấy tù binh về, chúng ta hợp thức hoá cho sự hiện diện của quân Bắc Việt tại miền Nam, dàn xếp cho Bắc Việt có thể tùy thích đánh thắng người miền Nam. Đó chính thực là khởi đầu của một sự kết liễu. Tôi không hề thấy Hoa Kỳ đặt cho miền Bắc một mối đe dọa nào sau đó. Tôi cho rằng chẳng một ai bị bịp gì về việc này. Thực quá rõ rệt chúng ta đã rút ra, cuộc chiến đã kéo dài hơn chúng ta mong muốn. Tôi nghĩ làm ăn như thế là không tử tế. Tôi cảm thấy việc chúng ta đối xử với chính phủ Nam Việt Nam, một chính phủ hoàn toàn tùy thuộc vào chúng ta, như thế là đê tiện. Thiệu không đích thực là người thuộc cỡ chính trị gia uy tín, nhưng trong quan điểm của tôi, ông không tệ hại như cách chúng ta tạo ra. Tôi nghĩ ông đã cố gắng hành động tốt nhất với tất cả khả năng của ông, trong điều kiện và hoàn cảnh ấy. Tôi nghĩ chính chúng ta mới là bọn đê tiện trong sự đối xử với ông Thiệu.

Xin quý vị nhìn xem cách chúng ta áp đặt các tiêu chuẩn luân lý của chúng ta, những thứ quy tắc dân chủ của chúng ta lên một quốc gia chưa hẳn là một quốc gia, Lạy Chúa tôi! Đây chỉ là một nửa miền Nam của cái bán đảo chưa được thống nhất và đã có hai ngàn năm lịch sử. Vậy mà chúng ta đã đòi hỏi, đã yêu cầu họ phải sắp xếp, phải bầu cử, phải làm đủ mọi trò tử tế với cái lối chúng ta vẫn muốn những chú đồng minh bé nhỏ của chúng ta phải làm, phải tôn trọng nhân quyền, Lạy Chúa, chúng ta giờ đây vẫn đang tiếp diễn những trò ấy dưới miền Nam Mỹ.

Tôi sẽ không đi quá xa để nói rằng chính là giới báo chí đã làm chúng ta thất trận, nhưng quả họ đã phụ giúp sự thất trận. Họ không cố ý như thế, nhưng những bài viết, những bản tin tiêu cực một cách tàn nhẫn, không xót thương, không đếm xỉa đến viễn tượng, thì trong quan điểm của tôi, đã là những gì xói mòn sự yểm trợ cuộc chiến. Tất nhiên, cũng còn nhiều dữ kiện quan hệ hơn thế. Ví dụ như việc Lyndon Johnson không bao giờ cố gắng giải thích cho dân chúng Hoa Kỳ hiểu ý nghĩa cuộc chiến này là gì. Ông e sợ dân chúng nổi nóng và sẽ thiệt hại phần nào đến chương trình “Đại Xã Hội” của ông ta.

Tôi cũng cho rằng các ký giả truyền thanh truyền hình đã tạo nhiều tác động mãnh liệt hơn giới ký giả làm báo. Một thông tín viên làm báo không có danh dự gì lắm trong xứ anh ta đến làm tin bởi lẽ ít khi người ta nhìn thấy được đồng nghiệp của họ làm gì. Còn đối với tôi, mặt khác trong ngành truyền hình, dẫu các thông tín viên có giỏi đến đâu, bản chất truyền hình vẫn là việc làm ăn kiểu sân khấu điện ảnh. Tôi xin cho quý vị một ví dụ. Tôi quen một phóng viên làm việc cho hãng thông tấn AP (Associated Press). Một tay sáng sủa, nhiều khả năng mà tôi sẽ không nêu tên. Anh ta đã chán hãng tin AP.

Thông tấn truyền hình ABC đề nghị việc làm. Anh ta nhận làm cho họ. Tôi bảo “Thế là cậu vào kỹ nghệ sân khấu điện ảnh rồi phải không?” Anh trả lời: “Không. Tôi sẽ làm việc cách khác. Tôi sẽ làm một cách thẳng thắn. Tôi chắc chắn sẽ thực hiện được. Tôi tin như thế.”

Thế rồi có một vụ biểu tình của một vài nhà sư Phật giáo. Một tên nào đó ném chai bom xăng làm bắt lửa, cảnh sát chạy đến, đuổi theo hắn. Họ chẳng đánh đập ai, chính tôi đi ngang qua, đã đứng lại chứng kiến mọi việc, ở Sàigòn, chuyện này chẳng đáng gì. Việc xảy ra chỉ có mặt chừng hơn chục người tham dự. Tuy nhiên, trong mọi biến cố, người của chúng ta đều có mặt. Anh cựu phóng viên AP đang thu hình, quay phim. Anh ta thâu cảnh ấy, cẩn thận đưa máy lướt qua khắp đường phố để chứng tỏ khách quan rằng mọi người vẫn đi lại bình thường, vẫn làm ăn buôn bán trong đời sống hàng ngày, như thường lệ, trên đường phố Sàigòn.

Tất nhiên phim của anh ta đã làm thành đoạn tin buổi tối. Bản tin truyền hình có lửa khói bốc lên! (Lửa của chai bom xăng trở thành lửa nhà sư tự thiêu!) – Đấy, mọi việc bây giờ trở thành như vậy. Điều ấy cũng hoàn toàn dễ hiểu thôi. Ai mà muốn xem hình ảnh một đống xe cộ chạy qua, chạy lại trên đường? Người ta chỉ muốn xem bóp cò bắn súng “pàng, pàng,” thế thôi.

Anh bạn quả có kèm lời dẫn giải, quả có nói mọi việc làm ăn buôn bán ở Sàigòn vẫn bình thường. Nhưng trong những vụ xáo trộn ở Sàigòn trở lại từ thời 1960, người ta vẫn cứ tưởng cả Sàigòn chìm trong biển lửa. Còn vụ biểu tình này chỉ có mặt vài người. Nhưng người ta đã chiếu ra thế, với đầy đủ màu sắc sống động, lại đặt ngay vào bản tin quan hệ của chương trình truyền hình buổi tối.

Tôi biết, Morley Safer là một phóng viên truyền hình, một người rất đáng tự hào về các công việc của ông ta tại Việt Nam. Dĩ nhiên ông có quyền đưa ra các quan niệm riêng của ông. Bản tin mà Morley làm ở Cảm Nê năm 1965 (thu hình lính Thủy quân Lục chiến Mỹ dùng hộp quẹt Zippo châm lửa đốt nhà dân làng), bây giờ đã trở thành cổ điển, nhưng tôi vẫn nghĩ loại ấy chỉ là loại giật gân gây xúc động. Khi nói thế, người ta có thể bảo tôi sai lệch, vì chính tôi từng là cựu Thủy quân Lục chiến. Tôi có thể bị người ta cáo buộc có thành kiến, nhưng tôi không nghĩ rằng tôi là người có thành kiến. Sự thật xảy ra thế này: Đây là một ngôi làng rất ương ngạnh. Lính Thủy quân Lục chiến đã nhiều lần cảnh cáo. Họ lập đi lập lại nhiều lần rằng nếu có ai tiếp tục bị bắn mỗi khi qua làng, họ sẽ đốt làng. Và tôi nhớ viên Tiểu đoàn Trưởng Thủy quân Lục chiến – người mà tôi quen biết từ nhiều năm tại cuộc chiến Triều Tiên, lúc ấy hãy còn đeo lon thiếu úy – sau khi xem câu chuyện Safer chiếu trên truyền hình, anh ta buột miệng nói: “Vâng, một xạ thủ Thủy quân Lục chiến dưới lằn lửa đạn tất nhiên không thể hành xử như một viên Đại sứ thiện chí được.” Nhưng câu chuyện của Morley Safer trên truyền hình đã không nói gì về những điều như thế.

Một thời gian ngắn sau đó, Safer ra Đà Nẵng bị Thủy quân Lục chiến chơi một vố. Ông ta tìm tôi yêu cầu giúp đỡ. Tôi hỏi: “Ông muốn tôi làm cái gì?” Tôi không phải là loại người hay giúp đỡ đâu. Chưa kể, Morley là một người Gia Nã Đại. Tất nhiên chẳng phải vì ông ta là người Gia Nã Đại mà tôi chống báng, nhưng có lẽ tôi không khoái chuyện người Gia Nã Đại nhảy xổ vào dạy dỗ chúng ta phải vận hành cuộc chiến khốn kiếp ấy thế nào. Tôi nghĩ trong thời gian ấy mọi chuyện đều có vẻ như vậy.

Tôi không tin người ta có thể thực sự đưa ra được sự thật trên vô tuyến truyền hình. Không bao giờ có sự thông hiểu toàn diện giữa một phóng viên tại chỗ và các nhân viên mãi tận New York, nơi người ta phát hình. Tôi cho có lẽ như vậy. Tôi đoán việc ấy dĩ nhiên cũng có thể thực hiện được, nhưng tôi biết đã không xảy ra trong thực tế như thế.

Về mặt khác, tôi nghĩ: Thực cũng rất khó biện hộ cho một số viên chức Việt Nam (miền Nam). Việc người ta cố ý làm cho hình ảnh của họ trở thành xấu xa tệ hại, việc này không khó, vì chính họ cũng đã tự làm cho hình ảnh của họ xấu xa tệ hại rồi.

Nhưng tôi cũng nghĩ sự thiếu hiểu biết của các thông tín viên đã rất lớn lao. Nhiều điều người ta thường mãnh liệt kết án người Việt Nam (miền Nam), nhưng trong quan điểm chính họ, những điều ấy không nhất thiết xấu xa. Lấy thí dụ: Chức vụ Tỉnh Trưởng, một chức vụ được rất nhiều người mong muốn. Đối với Mỹ, tất cả các Tỉnh Trưởng Nam Việt Nam tự trong định nghĩa, đều là những kẻ tham nhũng. Theo tiêu chuẩn chúng ta, họ tham nhũng, vì lẽ họ đã nhận tiền, họ thâu góp mua bán chức vụ: Chủ tịch Xã trả bao nhiêu, Trưởng ấp trả bao nhiêu, người ta đều phải trả tiền cho ông ta. Tuy nhiên trong cặp mắt người Việt, những việc ấy không chướng tai gai mắt đến độ khủng khiếp, vì viên Tỉnh Trưởng cũng sẽ bị xem là xao lãng bổn phận đối với gia đình, nếu ông ta không lo săn sóc cho gia đình, cho bà con ông ta trước. Chúng ta gọi việc này là chế độ gia tộc (nepotism), thói bao che dung túng người nhà, nhưng người ta vẫn thường dễ dãi chấp nhận trong truyền thống. Việc ấy, bấy giờ đã xảy ra như thế này: Thoạt đầu, có lẽ người Việt cũng chẳng nhũng lạm gì hơn mọi xã hội cổ truyền khác. Nhưng rồi chúng ta đã đến với đầy rẫy tiền bạc, mọi thứ đều cùng đến với sự hiện diện của người Mỹ, và người ta trở nên nhũng lạm hơn bao giờ hết, vì đã có quá nhiều thứ để mà nhũng lạm. Với một đề tài như thế, làm sao người ta có thể giản dị diễn tả ra trong một bản tin chỉ có ba phút vào phần tin tức truyền hình buổi tối?

Nội việc nhắc đến những đề tài ấy trong hình thức bản tin cũng đã là một hành vi lăng nhục thái quá. Làm sao có thể diễn tả đầu đuôi, có thể nói hết trong truyền hình, trừ khi làm hẳn một phim tài liệu để diễn tả hoàn cảnh, phong tục, tập quán, tinh thần của người miền Nam Việt Nam. Nhưng không ai chú trọng việc này. Lúc ấy tôi có viết chuyện ấy, thỉnh thoảng nhiều bài được đăng lên báo, nhưng tôi không rõ có ai để ý đến không.

Tham nhũng trở thành một vấn đề khủng khiếp tại Việt Nam khi nó lan tràn xuống các cấp dưới. Nguyên thủy, đời xưa vấn đề tham nhũng trong xã hội Việt Nam chỉ xảy ra ở giới cao cấp thôi. Một phú thương muốn hưởng vài đặc ân, anh ta có thể đến xin yết kiến quan thượng, ông quan này có thể phán: Nhà ngươi đang làm xáo trộn cái dòng yên tĩnh ở đây! Câu đó có thể được hiểu: anh ta cần phải đền bù lại việc đã làm gợn sóng trên mặt nước yên tĩnh của dòng lịch sử đang chảy trôi. Và việc này không ảnh hưởng gì đến nhiều người khác.

Tôi nhớ người đầu bếp của tôi, tên Nguyễn Văn Minh, có lần đến tìm tôi. Anh ta rất xúc động, giận dữ. Anh ta nói Cảnh sát gọi anh, họ chẳng kể gì đến việc anh đã có tám đứa con và đã trên bốn mươi tuổi, nay họ tống giấy bắt anh nhập ngũ. Anh ta không có khai sinh của mấy đứa con để chứng minh. Tuy nhiên Cảnh sát cho biết có thể tìm ra những giấy khai sinh này nếu anh chịu mười lăm ngàn đồng bạc. Vâng, anh Minh nổi giận không phải về việc Cảnh sát đòi ăn hối lộ. Anh Minh nổi giận vì Cảnh sát đòi nhiều quá. Anh Minh cho rằng tổng số mười lăm ngàn là quá nhiều, anh phải thương lượng để hạ bớt, nhưng họ vẫn không chịu – Vâng, chính tôi là người đã trả cho anh ta số tiền hối lộ đó. Anh đã được tha, không phải nhập ngũ nữa.

Tôi ở vị thế khó biện hộ cho người miền Nam Việt Nam, vì chính tôi cũng đã từng chỉ trích họ. Tuy vậy, tôi vẫn không cho rằng họ quá xấu như người ta sơn phết ra. Mặt khác, hãy thử nhìn xem họ có đặc điểm nào đáng đề cao để bù đắp lại hay không? Vâng, nhiều người đã tận tình chiến đấu. Trong hầu hết các cuốn sách viết về những ngày cuối cùng của cuộc chiến Việt Nam, đều thấy bằng cớ nói về các đơn vị đã chiến đấu cực giỏi. Một số sĩ quan, thay vì đầu hàng, đã tự sát.

Cũng đừng nên quên khi Quốc hội cắt viện trợ, sự kiện này có một ảnh hưởng tiêu cực cao độ giáng lên tinh thần binh sĩ miền Nam. Bấy giờ chúng ta đang có mặt trong một xứ sở mà trên nguyên tắc đáng lẽ phải có đầy đủ phương tiện để chiến đấu, và khi rút đi, tối thiểu chúng ta cũng phải cung cấp phương tiện cho họ. Nhưng rồi kết cuộc, chúng ta cắt cổ họng họ bằng việc cắt viện trợ. Tôi không cho hành vi này là một hành vi tử tế.

Khi Ban Mê Thuột mất vào tháng ba, 1975, tôi cảm thấy đây chính là màn khởi đầu của sự kết liễu. Bấy giờ tôi đang ở Tokyo, trên đường về Hoa Kỳ nghỉ phép. Tôi vừa rời Hồng Kông, nhưng vẫn theo dõi mọi sự, tôi bèn vài lần đề nghị văn phòng cho tôi trở lại Việt Nam, vì e một người làm việc không đủ. (Lúc ấy chúng tôi đã có một người tại Việt Nam). Thế là tôi quay lại và đã chứng kiến tình trạng hiển nhiên đang xảy ra. Quả thực Ban Mê Thuộc chính là điểm khởi đầu của kết cuộc.

Trong những ngày cuối cùng ấy, biết bao phái đoàn đã lui tới Việt Nam. Tôi không buồn để ý đến việc lấy tin viết về họ vì lẽ tôi nghĩ các phái đoàn ấy toàn là những tên độc ác ghê tởm. Thực sự mà nói: Không phải tất cả đều xấu. Ngay cả Bella Abzug cũng trở nên mủi lòng khi bà ta chứng kiến những chuyện ở Cam Bốt. Họ không phải là người xấu, nhưng tôi không tin những bọn du khách lượn lờ đến thăm viếng chiến tranh. Về một mặt, chính họ là những kẻ khai thác chiến tranh. Tôi còn nhớ khi Nghị sĩ Ted Kennedy, người mà tôi xem thường – thực vậy, tôi vẫn xem thường ông ta – một lần có đến Việt Nam, rồi đi ra thăm Bình Định, một tỉnh tình hình khá dữ dội. Bấy giờ ông ta đang nói chuyện với một số nhân viên AID (cơ quan phát triển quốc tế) và một vài thường dân Mỹ ở đó. Ông ta bảo: “Thưa quý ông, có điều gì quý ông cần tôi giúp đỡ chăng?” Một anh tên là Krieger bèn bảo “Vâng, có chớ. Ông có thể nằm nhà để yên cho chúng tôi làm việc ở đây.” Kiểu nói chuyện này có lẽ không nên dùng để đối xử với một quan khách thăm viếng, nhưng đấy chính là điều mà anh ta thực sự cảm thấy như thế vậy.

Tôi không bao giờ tiên đoán được cái chung cuộc xảy ra thê thảm như cách chúng ta phải tuôn chạy từ trên nóc nhà toà Đại sứ. Tôi thực sự không muốn nghĩ đến chuyện chúng ta thất trận. Có lẽ, với lý trí, tôi biết chúng ta sẽ thua, nhưng trong tình cảm, tôi khó chấp nhận việc này vì lẽ chúng ta đã đầu tư vào đấy quá nhiều, và theo quan niệm của tôi, chúng ta không cần phải thua cuộc. Tuy thế, lúc ấy, hiển nhiên chúng ta đã bại trận rồi. Trong mắt tôi, chúng ta đã thua cuộc chiến ngay tại Hoa Kỳ, chớ không phải ở Việt Nam. Tôi biết, đó là một bản đúc rập khuôn, chúng ta không bao giờ thua ở các trận đánh, nhưng chúng ta đã thua một cuộc chiến tranh. Và tôi không thể mường tượng giờ chót đã xảy ra như thế. Tôi chẳng bao giờ nghĩ chính tôi cũng phải leo tường chui vào toà Đại sứ tuôn chạy khỏi Sàigòn ngày 29 tháng Tư năm 1975 ấy.

Giữa tháng tư, tôi có ra Xuân Lộc. Tôi không bao giờ nghĩ họ có thể giữ được nơi này. Tôi nghĩ họ sẽ cố đánh một trận ngoạn mục, nhưng tôi không nghĩ nơi này có thể tồn tại lâu được.

Ngày 14 tháng Tư, tôi viết một bài dựa trên các dữ kiện của Trung ương Tình báo mà chúng tôi có, trong bài này tôi nói Hà Nội sẽ tiến chiếm, họ sẽ không buồn chú trọng gì đến các giải pháp tô điểm để giữ thể diện cho miền Nam Việt Nam. Sẽ không có một giải pháp chính trị nào. Họ sẽ vào thẳng mà chiếm đất thôi. Tất nhiên, đấy quả là những gì họ đã làm.

Có một số thông tín viên ở lại, tổng cộng khoảng đâu chừng tám mươi người. Tôi không ở lại, vì hai lý do. Lý do thứ nhất: Tôi biết câu chuyện lớn sẽ là sự sụp đổ Sàigòn. Tôi muốn mang câu chuyện này ra. Tôi không dám chắc tôi có thể gửi bài viết về câu chuyện này ra nếu tôi ở lại. Đó là vấn đề có tính thực dụng. Thứ hai, và cũng quan trọng như lý do thứ nhất, tôi không muốn ở lại. Không, cảm ơn quý vị. Về phương diện tình cảm, tôi không thích chứng kiến bọn Cộng sản kéo vào. Điều ấy không có nghĩa là tôi sợ khi bọn chúng vào, chúng sẽ bắn giết người Mỹ hay đại loại những gì như thế. Và đây là sự thật, sau khi rời Sàigòn, đang ở trên một chiến hạm ngoài biển Nam Hải, người ta loan báo trên máy phát thanh rằng tất cả các thông tín viên ở lại Sàigòn đã bị Cộng sản hành quyết. Tất cả thông tín viên trên tàu cười ồ, bảo “Cứt khô!” Không ai tin chuyện ấy. Không đúng như thế. Tôi không rõ mẩu tin này từ đâu ra, có lẽ chỉ là cái sản phẩm từ lòng mong muốn của bọn quân đội thôi.

Tôi mong được đi Sàigòn sau khi chiến tranh đã chấm dứt. Nhưng người ta trả lời tôi: “Ô, thưa ông Beech, nếu ông trở về Sàigòn, e chừng ông sẽ đụng phải một vài phần tử xấu trong đám bạn bè cũ của ông ở nơi đây.” Tôi bèn bảo: “Tôi không biết vì sao, nhưng tất cả các phần tử xấu mà tôi quen biết tại Sàigòn, bây giờ đều ở Mỹ cả rồi. Tôi nghĩ họ đều đã ra đi cả. Họ được an toàn, chứ không như bọn khốn khổ đáng thương các anh lúc nào cũng phải tự hỏi bữa cơm sắp tới đây, lấy cái gì bỏ vào mồm!”

Đứng về phương diện nghề nghiệp mà nói, tôi rất thích trở lại Sàigòn.

Nhưng tôi sẽ không van nài họ để xin phép trở lại. Tôi là một thông tín viên hải ngoại chuyên nghiệp. Tôi có một tiểu sử ba mươi ba năm làm việc ở Á Châu. Tôi không thuộc loại những cậu phóng viên đặt bản doanh ở Hoa Thịnh Đốn hay ở Los Angeles hoặc nơi nào khác.

Tôi quen (Tướng) John Murray, Tùy viên Quân sự đầu tiên, từ lúc ông hãy còn là một Đại úy ở mặt trận Triều Tiên. Ông là một người rất tử tế. Trước khi rời Việt Nam, ông thường nhiều lần giãi bầy tâm sự với tôi bởi chúng tôi đã có nhiều năm quen biết. Một hôm, ông đầy xúc động. Ông ngồi, nước mắt chảy dài trên hai má. Và ông bảo “Lạy Chúa toàn năng, tại sao họ có thể làm như thế?” Ông biết rằng nhiều đơn vị quân đội miền Nam không còn đủ đạn dược nữa.

Người ta có thể bảo: Ừ, trước sau người miền Nam cũng vẫn bị đánh bại, có cho thêm quân dụng thì chỉ giản dị là kéo dài nỗi thống khổ của cơn hấp hối trước cái chết vậy thôi.

Nhưng nếu người ta có mặt ở Việt Nam lúc ấy, người ta sẽ không có cái nhìn như thế.

ĐI VỀ ĐÂU ?

tranthitrucha

Khi sinh đứa con đầu lòng, chàng không còn chìu chuộng nàng như trước nữa.
Có lẽ công việc làm chàng mệt mỏi, cũng có thể nàng bây giờđã hoàn toàn thuộc về chàng rồi, gia đình, pháp luật công nhận, mất đi đâu mà sợ.
Và nàng cảm thấy uất ức !
Nỗi uất ức cứ mỗi ngày một trào dâng…
Vậy là nàng quyết định ôm con về nhà mẹ.
Một tuần lễ ở nhà với mẹ thật là sung sướng, nàng có cảm giác như mình nhỏ lại như thời con gái son rỗi. Cơm nước có mẹ lo mà còn được bồi bổ những món ngon, con nhỏ có ba ẳm bồng nâng niu…
Nhưng đến ngày cuối tuần mẹ nhẹ nhàng đuổi khéo ” Con à, có lẽ nghỉ ngơi vậy đủ rồi, con đưa em về cơm nước cho ba nó, tội nghiệp !… đàn ông con trai bếp núc vụng về… không biết mấy ngày nay ăn uống ra sao?!… ”
Nàng ứa nước mắt “Vậy là mẹ đuổi con về”.
Mẹ tủm tỉm cười “Ừ thì mẹ đuổi con đó, con gái con đứa có chồng rồi phải biết nhẫn chịu con à, giận một chút là bồng con về nhà mẹ thì làm sao yên ấm nhà cửa được hở con?”.
Vậy là đành phải trở về!

Đến khi sinh đứa con thứ hai, lại giận hờn, lại bực bội, chàng cứ mặc kệ… không năn nỉ , không dỗ dành… Nàng nghĩ đến ngôi nhà của mẹ với sự nghỉ ngơi thư giãn…
Và xếp áo quần vào valy, nói với con gái đầu lòng: “Con ở nhà với ba, me đưa em về ở với ngoại”
Con gái mếu máo thật thảm “Me ơi! Cho con đi với me, đừng bỏ con ở lại”
“Vậy me để em ở lại với ba, con đi với me về ngoại ở”
Con gái vội vàng chạy đi lấy áo quần nhét vào valy, nhìn em một lúc, rồi mếu máo “Me ơi, cho em về ngoại với, đừng bỏem lại tội em”
“Ừ thôi ba mẹ con mình về ngoại ở luôn”
Con gái đứng tần ngần một lúc lại năn nỉ: “Me ơi, cho ba đi với, bỏ ba ở lại tội ba…”
Nàng bực quá hét lên “Trời ơi !…”
Chàng đứng ngoài cửa phòng im lặng chứng kiến, nhẹ nhàng bước ra khoá trái cửa cổng bằng dây xích loảng xoảng rồi thủng thẳng đi vào nói với ba mẹ con “Không đi đâu hết, ở nhà với ba”
Vậy là cuộc đào tẩu thất bại!

Mùa hè nóng bức, bà ngoại đưa cháu về quê nghỉ hè cho mát mẻ.
Đó cũng là dịp con cháu về quây quần bên ông bà.
Tha hồ cho bọn nhỏ chạy nhảy trong vườn rợp bóng cây xanh.
Và nàng cũng được nghỉ ngơi thư giãn…
Nhưng chàng và nàng lại giận nhau vì những lí do không đâu vào đâu.
Cuối cùng chàng hét lên “Em bướng lắm ! Anh không chịu nổi em nữa, em muốn làm gì thì làm!”
Vậy là nàng lại xếp áo quần vào valy và ra đi…
Lần này chàng im lặng nhìn theo.
Đẩy valy ra khỏi cổng nhà rồi mà nàng cũng không biết đi đâu.
Về với mẹ là không dám rồi, mẹ sẽ mắng và đuổi hết cả mẹlẫn con như lần trước.
Nàng nhớ tới cô bạn thân !
Cô bạn ngày xưa học cùng lớp hiền như bụt.
Lúc nào cũng cận kề nàng như chị gái chăm sóc em, nhường nhịn chẳng thèm hơn thua với nàng, vì thế cả hai chơi với nhau suốt thời con gái mà không một lần hờn giận. Phải chi chàng giống tính cô bạn của nàng thì nàng hạnh phúc biết bao !
Ngày đám cưới nàng cô bạn thân mắt đỏ hoe, một năm sau cô bạn cũng lên xe hoa về nhà chồng ở ngoại ô thành phố. Tuy khoảng cách xa xôi và ít gặp nhau nhưng nàng vẫn luôn nhớbạn.
Vừa nhìn thấy bạn, nàng oà lên khóc tức tưởi.
Cô bạn hoảng hốt ôm chầm lấy nàng vỗ về như đứa trẻ.
“Nín đi mà , nín đi mà! Có mình đây , đừng khóc!”
Nàng tức tưởi “Cho mình ở luôn được không?”
Cô bạn trố mắt ngạc nhiên “Có chuyện gì vậy?”
” Bạn có cho mình ở không thì nói, đừng hỏi lí do vì sao!”
Cô bạn hoảng hồn “Cho mà, cho mà, ở mấy cũng được, nhưng đừng khóc nữa nghe.”
Nàng gật đầu, cô bạn lấy khăn lau nước mắt cho nàng.
Thế là nàng ở lại nhà bạn.
Bạn không hỏi gì đến lí do.
Và cứ tíu tít kể chuyện ngày xưa rồi cười rúc rích.
Nỗi buồn trôi đi nhẹ tênh!
Nhưng bạn cứ tất bật thật tội, miệng nói tay làm không ngừng nghỉ…
Buổi sáng bạn thức dậy thật sớm, nàng còn mơ màng trong giấc ngủ đã nghe tiếng gàu múc nước va nhẹ vào thành giếng, nàng bước ra với bạn ngáp dài như còn ngái ngủ, bạn cười:
” Ngủ thêm đi, dậy làm gì? Có xôi đậu ngự muối mè mình nấu trên bếp còn nóng đó, ăn đi !”
Nhìn thấy đống áo quần bẩn chồng chất, nàng ngao ngán cho bạn :
“Áo quần đâu mà dữ vậy?”
“Mấy hôm trước bị cảm không giặt được, nên ứ lại!”
“Trời đất! Bịnh mà ông xã không phụ giặt dùm sao?”
“Hi hi… mình thấy áo quần bẩn nhiều quá, mang ra giặt ổng la… Còn cảm mà giặt áo quần lặm nước đó… để khi nào hết cảm thì giặt…Và kết quả bây giờ là thế đó!”
Nàng nghĩ thầm, chàng của mình cũng không đến nỗi nào !
Phơi xong đống áo quần trên dây treo, bạn quét dọn nhà cửa, rồi cho gà, lợn ăn… Sau đó mới gọi chồng con dậy ăn sáng và đưa con đi học, bạn nói với nàng:
“Ở nhà đọc sách , nghỉ ngơi nha, mình đưa bọn nhỏ đi học,tranh thủ đưa trứng cho bạn hàng và đi chợ luôn thể.”
Nhìn bạn đứa trước đứa sau còn cồng kềnh giỏ trứng tòn ten trong khi anh chồng áo quần tươm tất thong dong chạy xe một mình nàng thấy tức ứa gan cho bạn
Sao bạn mình lại ôm hết việc vào người như trâu cày vậy hởtrời?
Buổi trưa bạn lại cơm nước, rồi lại đón con, rồi lại gà lợn…
Buổi chiều tiếp tục như vậy.
Buổi tối khi các con đã ngủ, bạn ôm nàng thì thầm:
“Ổng đi nhậu rồi, chắc khuya mới về, kệ ổng, có dịp cho hai đứa mình trò chuyện”
” Nhậu thường xuyên hay lâu lâu mới nhậu?”
“Thường xuyên, nản lắm!”
Khi nàng chập chờn trong giấc ngủ thì nghe tiếng gọi cửa. Bạn nhẹ nhàng ngồi dậy nhưng nàng vẫn nghe tiếng lè nhè “Em ơi!Nước, khát nước”, rồi sau đó ói mửa chua nồng…
Bạn nàng lặng lẽ thu dọn.
Chàng của nàng không bao giờ như vậy, chàng thỉnh thoảng vui cùng bè bạn nhưng chàng luôn biết lượng sức mình đểnàng không phải chịu đựng khổ sở .
Sáng hôm sau thức dậy , nàng xếp áo quần vào valy và nói với bạn:
“Thôi mình về đây!”
Bạn tủm tỉm cười “Vậy mà nói ở luôn với người ta, nhớchàng rồi hở?”
Nàng gật đầu cười với bạn và thấy thương bạn đến nao lòng.

Bây giờ thì nàng không còn sức để hờn giận và ra đi nữa .
Bởi vì cũng chẳng biết đi về đâu ?!…

TRẦN THỊ TRÚC HẠ

Cuối ngày, cuối đường .

 

phamngoclu

Ngồi cạnh Chấn là người đàn ông có dáng dấp của một thư ký hành chánh sắp về hưu. Qua nét mặt và cách phục sức của ông, anh dễ liên tưởng đến sự chăm chỉ mẫu mực của kẻ suốt đời an phận ngồi sau đống hồ sơ công văn. Cô gái ngồi kề ông ăn mặc hơi xuề xòa nhưng không vì thế mà vẻ đẹp dịu dàng trên khuôn mặt trái soan kia bị thương tổn. Hai người đàn bà tiếp theo chắc là dân đi buôn, chẳng có gì đáng nói. Chấn liếc mắt nhìn ra mấy hàng ghế sau và thất vọng không thấy một thanh niên nào trạc tuổi mình cả, hầu hết là ông bà già và phụ nữ nếu không kể một người lính xanh xao ốm yếu dường như mới nằm ở quân y viện ra. Nỗi lo âu vẫn lăn tăn trong bụng, một lần nữa Chấn chồm về phía trước hỏi nhỏ người tài xế :

– Đường Bình Đê, Sa Huỳnh an ninh chứ bác ?

– Không sao !

– Chắc ?

– Không sao mà. Rủi lắm mới bị.

Lối trả lời mập mờ lấp lửng của ông ta làm Chấn hoang mang. Dù sao anh cũng không thể thối lui được nữa. Tối nay anh phải đến Huế cho kịp giờ đám cưới của Phương. Chấn lại nhìn khẽ cô gái ngồi cách mình một ghế, bây giờ anh mới hiểu cái cảm giác quen quen khi mới gặp cô ở bến xe chính vì cô ta có nhiều nét hao hao giống Phương, thấp thoáng hình bóng Phương qua dáng người, màu tóc, nước da, nhất là hàng lông mi quá dài như lông mi giả kia.

Biết đâu chốc nữa đây tai họa bất ngờ sẽ xảy ra dọc đường mà anh là một nạn nhân oan uổng, liệu Phương có biết ? Phương sẽ âm thầm tội nghiệp giùm anh trong giây phút ? Phương sẽ trách anh đã rồ dại khi bôn ba vượt muôn dặm đường dài trở về sắm vai kẻ tình chung ?

Thử tưởng tượng tối nay, khi tiệc cưới của nàng bắt đầu, kẻ tình chung sẽ bất ngờ xuất hiện với dáng dấp của một tên lãng tử khinh bạc phóng túng. Y sẽ nổi bật trước đám tân khách áo quần diêm dúa sang trọng. Người ta sẽ lo ngại cái bàn tay y thủ trong túi áo khoác như đang hờm sẵn một chuôi dao, một trái lựu đạn, mưu toan bày trò thích khách. Nội cái phong thái tàng tàng bất cần đời của y cũng đáng bắt họ đề cao cảnh giác. Thử tưởng tượng nàng sẽ trố mắt nhìn y như nhìn một vật lạ từ cung Trăng rơi xuống và chú rễ thì bẻn lẻn tiến ra bắt tay y, lúc đó y sẽ gật đầu cười chua chát “Tôi là kẻ đến trước nhất mà bây giờ hóa ra muộn nhất…”

– Chiều ni có chắc mình về nhà kịp không ba ?

Người đàn ông đeo bộ mặt im lìm như tượng buông cái gật đầu tựa ngủ gật.

Đúng như Chấn đoán, hai người là cha con. Anh gợi chuyện :

– Bác ra Huế ?

– Phải.

– Nếu không trắc trở gì thì khoảng sáu giờ rưỡi chiều xe tới Huế.

– Anh cũng về ngoài mình ?

– Dạ. Cháu về thăm một người quen bên Gia Hội.

– Anh chưa đi lính ?

– Dạ rồi. Cháu được biệt phái.

– Tui có thằng con đầu đi Sư đoàn 22

– Chắc bác đi thăm về ?

Đôi mắt người đàn ông bỗng mờ đi, xa vắng :

– Hắn vô phúc chết hồi Tết Mậu Thân rồi. Tui vô viếng mộ.

– Bác chôn anh ấy ở trong nầy ?

Người đàn ông rơm rớm nước mắt :

– Chôn với cất chi. Hồi nớ cả nhà tui chạy giặc bán sống bán chết có biết chi mô.Một tháng sau mới có tin con tử trận. Khi tui vô tới nơi, người ta chỉ cho nắm đất vừa xanh cỏ và miếng bia trơ trụi. Thảm lắm anh…

Cô con gái khẽ thúc vào hông cha như ra dấu hãy giữ im lặng. Chấn cúi đầu. Giọng người đàn ông còn mếu máo gì đó không rõ. Chấn ngẩng lên và bối rối trước những giọt nước mắt mau mắn lăn dài trên má ông. Anh áy náy tưởng như chính mình vừa gây ra nông nỗi. Cô gái có vẻ bực bội vì sự xúc động dễ dãi của cha mình, nói như phân trần với Chấn :

– Ba tui thương anh nớ lắm, mấy năm ni hể nhắc tới là khóc.

Chấn mấp máy môi nhưng không nói được tiếng gì. Hai mụ đàn bà ngồi gần cửa thì mở cặp mắt  tò mò nhìn người đàn ông đau khổ một cách lỗ mãng.

Xe đang đi giữa một vùng đồi thấp, những trái đồi tròn trĩnh nom thật thà hiền hậu. Nắng mai rực sáng trên cánh đồng vừa tan sương. Bỗng Chấn níu cửa xe suýt kêu lên mừng rỡ khi nhìn thấy vài ba cánh cò đang lượn lờ quanh một đầm nước nhỏ, lòng anh hớn hở tưởng như vừa gặp lại một cố nhân. Đã mười mấy năm nay anh chưa hề thấy một bóng cò trên các cánh đồng thấm mùi lửa đạn. Mười mấy năm nay, hàng vạn chim bồ câu được người ta tung lên khung trời an lành ở các thành phố để cầu nguyện hòa bình thật là phí phạm, bởi chưa ai biết tung một cánh cò. Chấn khẽ ra dấu cho cô gái cùng nhìn về phía đầm nước. Cô ta chăm chú mở lớn mắt nhưng không chia xẻ với anh nỗi mừng rỡ ngây thơ.

– Chim chi rứa anh ?

– Chim “thái bình” !

– Tên ngộ quá.

Chấn cười. Cô gái chớp mắt e thẹn, một ngón tay bối rối đưa lên gải nhẹ khóe môi.

– À, nhớ rồi. Hồi học tiểu học, tui có con bạn cao ngòng và ốm teo, nhất là cái cổ, nên bị cả lớp gọi là Cò. Nhưng nó chết rồi, tội ghê !

– Ngày nào dứt chiến tranh, bóng cò sẽ bay rợp trên khắp các cánh đồng quê hương, cô thích không ?

– Biết ngày mô ?

Bất giác người đàn ông thở dài quá lớn tiếng. Chấn hiểu, ông vừa trả lời cho con gái mình. Có thể tính ra đằng đẵng thời gian trong cái thở dài ấy.

Xe qua khỏi Tam Quan, dập dềnh trên đoạn đường lở lói. Hành khách níu ghế chịu đựng những dằn xóc liên hồi. Nét mặt người đàn ông nhíu lại đau đớn, chốc chốc ông

đưa tay lên trần xe như muốn nâng đỡ che chở một vật gì đó. Cô gái cũng ngước mắt trông theo bàn tay cha, nhíu mày lo lắng.

– Sắp tới quãng đường nguy hiểm.

– Chỗ mô rứa anh ?

– Bắt đầu từ ngọn đèo thấp trước mặt.

– Anh biết rứa mà cũng dám đi xe đò.

– Chắc không sao. Hôm nay ngày tốt lắm, hồi nãy cô có thấy hai ba đám cưới ở Bồng Sơn ?

Người đàn ông quay qua con gái mình nói nhỏ :

– Lo chi. Có vong hồn anh mi đang phù hộ trên đầu trên cổ.

Cô gái lại thúc hông cha ra dấu giữ im lặng. Chấn cẩn thận rút ví lấy những giấy tờ có liên quan đến lính tráng nhét vào đáy xách tay. Tay anh đụng phải tấm thiệp cưới màu hồng phấn của Phương. Phương giờ nầy hẳn bóng loáng màu hạnh phúc, rực rỡ như nét chữ kim nhũ tô điểm tên nàng bên cạnh tên một kẻ lạ. Chấn đã thiếu thốn nhiều điều kiện để tiến lên đứng song song bên nàng ngay từ buổi dầu, vậy cớ sao anh còn quay về ? Không lẽ chứng mất ngủ tai hại suốt mấy đêm rồi đã góp phần quyết định chuyến đi không trù tính nầy ? Anh tưởng lòng mình  nguôi ngoai êm ả sau khi đã gởi cho nàng cái điện tín chúc mừng hạnh phúc, không, anh vẫn còn nhiều điều chưa nói hết với Phương. Gạt đi những bọt bèo tự ái để nhìn thẳng vào đáy lòng mình : than ôi, anh vẫn còn yêu nàng quá đỗi !

Chấn ngẩng đầu lên và bắt gặp đôi mắt dịu dàng của cô gái :

– Anh đội cái nón ni lên đầu. Xe sắp lên đèo rồi.

– Không sao đâu.

– Đừng giỡn mặt.

Giọng cô gái gần như mệnh lệnh. Chấn bẻn lẻn quàng quai nón ngang cằm, cười :

– Trông tôi giống phụ nữ chút nào không ?

– Thôi mà. Cúi đầu xuống.

Sau lưng Chấn, người lính đã thay bộ quần áo lính bằng bộ pyjama từ hồi nào và đầu cũng che nón lá như anh. Xe vòng lên tới chóp đèo, tăng tốc lực, rú lên hớn hở như con thú dữ vừa đánh hơi mùi tử khí phảng phất đâu đây. Một người nào đó nói khẽ :

– Sắp tới Sa Huỳnh

Sa Huỳnh, Đức Phổ, Mộ Đức… Núi xanh rờn tai ương lớp lớp. Đồng gầy guộc xương xóc hoang tàn. Chốc chốc ven đường xuất hiện những dãy lều tạm bợ bằng tôn gỉ và giấy bìa của dân tỵ nạn trông như cảnh đóng trại của đám người đi khai hoang. Rải rác những tường xiêu cột cháy nhà hoang của trùng trùng những tháng năm khói lửa. Tìm đâu bóng cò bay lả bay la ?

Chấn khép mắt ngủ chợp được một giấc ngắn trong cái nóng hun đốt hâm hấp trên đầu. Gió Lào từ những ngách núi tràn xuống ào ào, muốn xô bạt cả xe. Trong xe, nhiều tiếng ngáp lộ liễu nối nhau hô hố, những cặp mắt lờ đờ nhá nhem, những chân cẳng tê cứng nhức mỏi. Đường vẫn còn xa hun hút.

Mười một giờ xe tới bến Quảng Ngãi, đây là trạm nghỉ trưa của những chuyến xe xuôi ngược vào ra nên nhộn nhịp ồn ào tiếng rao hàng mời níu lao xao, cả tiếng la tiếng chửi trộn với tiếng máy xe rầm rì, tiếng còi xe thúc giục toe toe. Chấn xuống xe, hai bàn chân nhẹ hẩng như mất hẳn trọng lực. Người đàn ông nhô đầu ra ngoài, ngước lên mui xe kiểm soát lại hành lý, mắt ông nheo lại, có vẻ bất bình.

– Mời bác và cô xuống kiếm gì ăn trưa.

Cô gái chải lại mái tóc rối tung :

– Cảm ơn anh, tui không dám ăn chi cả, cứ sợ mữa.

– Thì uống gì đó qua loa.

Cô gái lắc đầu cười. Chấn ngần ngừ rồi bỏ đi.

Lúc anh trở lại, người đàn ông đang loay hoay xếp đặt gì đó trên mui xe. Anh trao lon Coca cho cô gái :

– Cô uống chút nước đỡ khát.

Người đàn ông tụt xuống đất, đôi mắt đỏ hoe như vừa mới khóc.

– Phải tìm tấm vải chi che lại chứ nắng gớm quá…

Cô gái nháy mắt bảo cha im. Ông dụi mắt ngó quanh rồi bương bả đi qua chỗ bán tạp hóa. Chấn nói :

– Cô xuống một tí cho đỡ cuồng chân.

Nàng vén vạt áo tần ngần bước xuống, nhăn mặt :

– Xe chạy chậm quá anh hí, mệt đừ người.

– Chốc nữa xe chạy cô gắng ngủ một giấc để giết thời gian.

– Ở Huế anh ở chỗ mô ?

– Má tôi là người Huế, quê ngoại tôi ở Kim Long. Gặp cô, nghe giọng cô nói tự dưng tôi “nhớ nhà” ghê. Huế bao dung tôi một thời thơ ấu tuyệt vời, nhưng…

Người đàn ông vừa mua về một tấm vải nhựa và nhờ người lơ xe phủ lên cái rương gỗ trên mui. Lát sau ông còn leo lên kiểm soát và giằng buộc lại thật cẩn thận. Bây giờ Chấn mới hiểu, chính cái rương gỗ đang bị phơi nắng ấy chính là đầu mối lo lắng nãy giờ của ông.

Khi lên xe hai cha con vô tình ngồi lộn chỗ của nhau nên bây giờ Chấn ngồi cạnh cô gái. Xe rời bến Quảng Ngãi, tiếp tục chuyến đi. Bữa ăn trưa dù vội vã qua loa nhưng cũng tạo lại sinh khí tươi tĩnh trên nét mặt hai mươi mấy hành khách. Chuyện vãn ròn rã, tở mở.

Hồi lâu Chấn tưởng cô gái đã khép mắt ngủ được. Nhưng mỗi lần xe cán phải ổ gà nhảy rùng lên, nàng hốt hoảng níu tay cha. Người cha thì ngẩng đầu lên trần xe như một phản ứng. Ông sợ cái rương gỗ rớt mất chăng ? Thỉnh thoảng ông lại chồm ra cửa ngó lên dõi chừng.

– Sao bây giờ cô im lặng quá ?

Nàng vuốt nhẹ má, cười gượng :

– Nói nhiều sợ anh nhớ nhà.

– Nhưng mai mốt, mỗi lần nhớ nhà chắc tôi phải nhớ đến cô.

Nàng nguýt anh, không nói.

– Ra Huế, hy vọng còn gặp lại cô.

– Chắc không có mô !

– Biết đâu chẳng dịp tình cờ.

– Con gái tụi tui không thích hai tiếng “tình cờ”. Răng nghe nó mong manh quá !

Xe qua khỏi Chu Lai, bon bon giữa những trảng cát trắng không bóng cây không mái nhà, chỉ dằng dặc một màu hoang dã mông quạnh lạnh người.

– Cô có thấy những nhà ga xe lửa trầm ngâm như những tháp Chàm hoang phế ?

– Dạ.

– Cô đi tàu lửa lần nào chưa ?

Chấn quay đầu vào. Cô gái đang thiêm thiếp ngủ. Anh nhận rõ sức nặng của một phần thân thể nàng đang truyền qua vai anh, mềm mại, âm ấm, tưởng như đếm được từng dây tơ cảm xúc run rẩy e ấp. Vài ba sợi tóc của nàng bay nhởn nhơ ngang mặt, tinh nghịch, chọc ghẹo, bất giác anh ngậm lấy, cắn chặt. Có mùi hương thoang thoảng vỡ ra đâu đó. Hương xưa ? Mái tóc Phương ? Giờ nầy, hẳn mái tóc kia đã được bới cao lên, cài hoa giắt lược rỡ ràng ?

Xe qua khỏi thị trấn Tam Kỳ. Vẫn những trảng cát buồn thiu. Gió lộng. Chấn thiu thiu ngủ. Vai anh bỗng nhẹ hẩng đi. Hai cha con cô gái đang nói nhỏ với nhau gì đó. Một lát, người đàn ông lại chồm người qua phía anh, thò đầu ra ngoài. Chắc cái rương gỗ kia đựng những đồ quý giá lắm ? Xe dừng lại ở một trạm kiểm soát. Từ Quảng Ngãi ra đây quá nhiều trạm kiểm soát, khổ cho Chấn phải trình giấy lia lịa. Như mấy chỗ kia, người lính nầy nhắm ngay vào gã thanh niên duy nhất trên xe là anh :

– Cho coi giấy tờ.

Như một cái máy, Chấn trao cho anh ta xấp giấy đang cầm sẵn trên tay.

– Giấy hoãn dịch của ông đâu ?

– Tôi là quân nhân biệt phái.

– Ông không có thẻ tại ngũ. Mời xuống xe.

– Có giấy chứng nhận của Trưởng cơ quan kia. Tôi là công chức.

– Ông đào ngũ. Xuống xe !

Cô gái mở lớn mắt lo lắng nhìn Chấn và phân bua giùm anh :

– Những trạm kiểm soát trong tê đều….

Người lính trừng mắt, nạt :

– Cô biết gì. Nhớ là tôi chưa xét giấy cô. Ông có xuống xe không ?

Chấn quay qua cười với cô gái :

– Thôi bác và cô ra Huế trước. Cãi cọ dùng dằng chỉ làm phiền cả xe.

Chấn lững thững bước xuống bờ đường. Xe chạy. Cô gái ngoái đầu nói gì đó anh không nghe rõ. Tấm vải nhựa đậy cái rương gỗ lay bay trên nóc xe như vẫy tay chào anh. Anh quay lưng lại, đây là chỗ nào ? Người lính giữ mớ giấy tờ của anh thì đi thẳng vào cái quán cóc chuyện gẩu với một người đàn bà còn trẻ. Y cười hể hả , đắc thắng, chị đàn bà cũng hí hửng cười, khứng chịu. Chấn coi đồng hồ, sốt ruột. Anh bước vào quán, tiến lại phía người lính, xuống giọng năn nỉ :

– Giấy tờ tôi hợp lệ, anh thông cảm, tôi đang nôn nóng về nhà. Chiều nay đám cưới… em tôi.

Chấn rút tấm thiệp cưới của Phương đưa ra trước mặt y để làm chứng cho lời mình nói. Người lính tạo lại bộ mặt lầm lì khinh khỉnh, xẳng giọng :

– Tôi không biết. Ông vào Bộ chỉ huy Trung đoàn hẳn hay.

– Tôi gấp về, em tôi đang trông ghê lắm. Anh hiểu cho…

– Ông ra ngoài kia đứng. Chốc nữa có xe đến giải giao về Ban 1 Trung đoàn.

Chấn mím môi. Sự tức giận khiến anh chóng mặt, thốt ra một tiếng chửi thề cộc lốc. Người lính đứng dậy hung hãn :

– Mày vừa nói chi ?

– Ông hãy đưa tôi về cấp chỉ huy của ông gấp bây giờ. Để tôi còn đi.

– Tao giam lỏng mày ở đây. Mày tiếc con nhỏ trên xe hả ? Đào ngũ mà tình tứ quá.

Chấn cười gằn bước ra ngoài nhổ một bãi nươc bọt. Anh bối rối nhìn cây kim đồng hồ đang quay nhanh, thật nhanh. Anh tiu nghỉu nhìn theo từng chiếc xe đò đang chạy ra hướng Đà Nẵng sau khi chỉ dừng lại chốc lát. Người lính vẫn hú hí chuyện vãn với người đàn bà, chẳng thèm ra kiểm soát để bắt thêm bọn “đào ngũ”. Chấn nhìn bóng mình đổ dài trên bờ đường, lẩm bẩm chửi thề.

Một giờ đồng hồ sau, một người lính dùng xe Honda áp giải Chấn  về Bộ chỉ huy tận trong chân núi. Anh gục đầu trên lưng kẻ lạ và nghĩ đến Phương xa vời. Thôi muộn cả rồi. Kẻ tình chung đành dở dang vai kịch. Chấn chồm lên vai người lính :

– Anh có biết hôm nay người yêu của tôi đi lấy chồng ?

Người lính ngoảnh mặt lui ngơ ngác. Chấn hét lớn :

– Khi người yêu bỏ đi lấy chồng thì mình có nên đến dự đám cưới không ?

– Đ.M. dự làm chó gì !

Chấn cười hô hố theo anh ta :

– Phải lắm. Cảm ơn các ông đã bắt giữ tôi lại. Không thì chiều nay tôi ngu ngốc dẫn xác tới chiêm ngưỡng hạnh phúc của một kẻ bội tình !

Chạng vạng tối Chấn mới về tới Đà Nẵng, mệt phờ người. Anh tạt vào cái phòng ngủ ở bến xe thuê một chỗ nằm để nằm dài ra thở dốc. Thở no nê, anh cảm thấy mình ngứa ngáy và nhớp nhúa như một miếng giẻ rách. Tắm rửa xong, Chấn thay áo quần ra phố. Phố chưa bớt tấp nập ồn ào nhưng nhờ thế anh bớt lẻ loi thui thủi. Giờ nầy chắc tiệc cưới của Phương đã bắt đầu. Kẻ tình chung đã không về kịp, Phương an tâm ? Chấn bước vào một tiệm ăn có vẻ mặt bề ngoài khá sang trọng nhưng thức ăn thì quá tồi, anh bỏ mứa, kêu rượu. Không có. Cho một chanh tươi không đường. Cho vừa lòng anh đang chua ngoét.

Chấn trở về phòng ngủ với chai Napoleon mới mua. Bỗng, anh đứng khựng lại ở cầu thang, đôi mắt dướn cong lên như một cặp dấu hỏi. Cô gái bỡ ngỡ nhìn anh trân trối :

– Anh….

– Tên lính đó bướng bỉnh phá tôi chơi. Tôi lên cấp chỉ huy của hắn trình giấy lại rồi đi liền. Mà sao cô ở đây ?

– Đường đèo Hải Vân bị kẹt, xe quay lui hết. Không biết sáng mai đi được chưa.

– Bác đâu ?

Cô gái chỉ tay lên lầu. Chấn thở dài, hoan hỉ :

– Không ngờ còn gặp lại cô, thật hi hữu. Cô thấy chưa, cuộc đời còn lắm tình cờ.

Nàng che miệng cười, ngượng ngập :

– Anh thuê phòng số mấy ?

– 12, đằng kia. Để tôi lên thăm bác một chút.

Lên khỏi cầu thang cô gái dừng lại, ngập ngừng :

– Chắc ba tôi đang nằm nghỉ, thôi mình chớ khuấy rầy ông.

Chấn gật đầu và bước lại khoảng bao lơn hẹp phía trước, đặt chai rượu xuống chân. Cô gái nhìn theo :

– Anh uống rượu ?

– Đêm nay tôi không muốn phải thao thức trằn trọc.

Nàng bước tới gần, dựa lưng vào tường. Chấn khoác tay vu vơ :

– Tôi phải quên đi một chuyện buồn. Cô biết, giờ nầy ở Huế, người yêu tôi đang rực rỡ hạnh phúc bước xuống thuyền…

– Chỉ có rứa mà anh phải uống rượu ?

Chấn nóng nảy, bực dọc :

– Tôi đau khổ ghê lắm. Cô bắt tôi phải làm gì nữa khi đành chôn chân ở đây ?

– Anh tưởng say là quên được ?

Chấn cúi đầu, trầm ngâm :

– Ừ nhỉ, còn gì mà nhớ mà quên.

Chấn chụp chai rượu đưa lên ngang mặt rồi bất thần ném thẳng xuống đường. Cô gái hốt hoảng đưa tay bịt tai lại. Một tiếng vỡ khô, đục và nghẹn. Chấn cười lớn :

– Cô nhìn kia, người yêu tôi đang la ơi ới, tên đàn ông nọ thì mảnh chai găm trúng mặt. Cả đám tân khách xô bàn tiệc giẫm lên nhau mà chạy. Ha ha !

– Anh say rồi.

– Và tôi cũng vừa quên hết rồi. Thôi ghé lại thăm bác, sớm mai tôi quay về Quy Nhơn.

Cô gái bước lại mở hé cửa và bối rối xô Chấn lui. Nhưng anh cũng vừa thấy kịp cảnh tượng trước mặt : người đàn ông đang gục đầu lên cái rương gỗ khóc tức tưởi, bên cạnh bó nhang tỏa khói và mấy ngọn đèn cầy leo lét, buồn thảm. Cô gái chảy dài nước mắt, nói mếu máo :

– Tội nghiệp anh tui phải nằm lại dọc đường đêm nay… Cái rương gỗ ấy đựng hài cốt anh tui !

PHẠM NGỌC LƯ

Tuy Hòa, 1973

                                               

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, “Vậy mọi sự đều dẫn đến bước này.”

nuocmattruocconmua

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, nguyên tác Anh Ngữ “Tears Before The Rain” là một tập sử liệu về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam, do Larry Engelmann, Giáo Sư Đại Học San Jose State thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn nhiều thành phần: người Mỹ, người Việt, kẻ thắng người bại …Những cuộc phỏng vấn này khởi sự từ 1985, sách xuất bản năm 1990. Bản dịch Việt Ngữ do nhà văn Nguyễn Bá Trạc thực hiện năm 1993, xuất bản năm 1995 tại California.
ED BRADLEY,
(Hãng tin CBS)
“Vậy mọi sự đều dẫn đến bước này.”

Ngày cuối cùng của tôi ở Sàigòn, giản dị là một ngày điên cuồng. Vào buổi sáng 29 tháng Tư, đài phát thanh quân đội Hoa Kỳ đang chơi những bản nhạc thông thường. Đột nhiên ngưng nhạc, họ loan báo: “Sàigòn nóng một trăm lẻ năm độ, nhiệt độ đang gia tăng.” Tiếp theo là bài “Giáng Sinh Trắng” do ca sĩ Bing Crosby hát. Bạn phải nhớ lúc ấy đang cuối tháng Tư. Việc này cho thấy trình độ tinh thần của những người trong quân đội Mỹ. Thực tế, muốn biết cuộc di tản bắt đầu lúc nào, chỉ cần nhìn qua cửa sổ. Bạn sẽ thấy những anh Mỹ mắt thao láo, tay xách va li bước trên đường phố. Và khi người Việt thấy thế, họ cũng thừa hiểu người Mỹ đang ra đi, họ bắt đầu chạy theo. Họ cũng muốn được rời khỏi xứ.

Chúng tôi ra khỏi khách sạn, đến các địa điểm di tản được ấn định, nhưng chẳng có ma nào. Chúng tôi đợi một lát, quyết định đến địa điểm thứ hai. Cũng chẳng có ai. Rồi địa điểm thứ ba. Nơi này là một trường học, toà nhà đã khoá. Khi chúng tôi sắp rời nơi này để tới địa điểm thứ tư, tôi bảo: “Thấy chưa. Hiển nhiên mọi việc không được tổ chức chu đáo. Nhưng cứ đợi đây, có lẽ sẽ có xe buýt tới đón.” Tôi nói đúng. Có những ba chiếc xe buýt chạy đến. Nhưng tới lúc này, đã có đến gần 150 người tụ lại chờ xe. Tôi giúp người ta bước lên xe buýt một cách trật tự. Rồi họ lái đến phi trường. Tới cổng phi trường, bọn lính gác bắn chúng tôi. Chúng tôi vòng xe lại, chạy về thành phố. Lúc ấy mấy chiếc xe buýt đã lạc nhau chạy riêng rẽ cả.

Sau khi quay khỏi phi trường, tài xế chẳng biết phải làm gì. Anh ta mất bảy tiếng đồng hồ lòng vòng trên đường phố Sàigòn để tính xem có thể đi đâu, làm gì. Tài xế là một gã vô tích sự. Thoạt đầu, hắn không tìm ra chìa khoá. Hắn phải câu dây bình để nổ máy xe, máy chạy thì hắn lại để chết máy. Mỗi lần máy tắt, chúng tôi phải xuống câu dây, vậy mà, chắc bạn không tin nổi, hắn tự gọi mình là “Tổ sư lái xe.” Sau nữa, hắn cóc lái được xe buýt. Từ nhiều năm trước, chính phủ đã cho chặt hết cây trên một số đường ở Sàigòn để các xe nhà binh đi lọt. Bạn nghĩ là cha tài xế sẽ tìm mấy con đường rộng rãi mà chạy chăng? Cố nhiên không! Hắn tìm mấy con đường nhỏ, chật chội khít khịt nhất mà đi. Bạn hãy nhớ ở các ngã tư đường Sàigòn đều có đầy những quán ăn bé tí. Đó là những quán mì, gánh phở, với mấy cái nồi kê trên lửa, bên trên che bạt mà họ gọi đó là những tiệm ăn. Vâng, cứ mỗi lần cha tài xế quẹo qua một góc đường, hắn lại xô sập chừng ba cái tiệm ăn. Cứ thế suốt bảy tiếng đồng hồ!

Sau cùng, hắn quyết định đưa chúng tôi xuống dưới Cảng chờ trực thăng đến đón. Thế là hắn lái xe chạy tuột xuống dưới cảng, nơi đây đã có khoảng mười ngàn người đang cuồng loạn tranh nhau nhảy lên tàu. Có người hụt, lộn đầu xuống sông. Thấy cảnh tượng ấy, tôi bảo tài xế: “Bộ anh thả chúng tôi xuống đây mà đi sao? Anh bảo chúng tôi là trực thăng sẽ hạ xuống ngay đám đông người Việt này mà đón chúng tôi à? Và lại không có lính gác? Bộ anh nghĩ những Việt này sẽ ngồi yên nhìn chúng ta bỏ họ mà đi sao? Anh khùng quá rồi!”

Nhưng lúc ấy có nhiều người bước khỏi xe buýt. Tôi cảnh cáo đừng nên. Một cha Việt Nam bước ra với gia đình, anh ta không có căn cước hay bất cứ giấy tờ gì. Thế rồi chúng tôi cho xe chạy, anh ta không quay lại kịp. Tôi nhớ tôi đã nhìn qua cửa sổ lúc xe trở bánh chạy, anh ta đang vùng vẫy chen vào đám đông. Một tay xách va li, một tay dắt vợ, vợ anh lại kéo lê hai đứa nhỏ. Những người ở đấy dằng cái va li, chụp lấy cái đồng hồ của anh ta. Chúng tôi bỏ gia đình này lại. Cho tới bây giờ tôi vẫn còn nhìn thấy vẻ kinh sợ trên mặt anh khi chiếc xe bỏ anh ta lại.

Cuối cùng, chúng tôi tới toà Đại sứ, leo tường vào. Đêm hôm ấy tôi đi bằng trực thăng từ nóc Toà Đại sứ. Trên đường bay ra, tôi có thể nhìn thấy lửa cháy chung quanh thành phố, tôi biết Bắc Việt đang trên đường tiến quân vào. Tôi không thấy một dấu hiệu nào về bọn chúng, nhưng toàn thể cảnh tượng này trông như không thực. Nhìn xuống thành phố, chúng tôi biết chúng tôi sẽ ra đi mãi mãi, tất cả những gì tôi nghĩ bấy giờ là: “Vậy mọi sự cũng đều dẫn đến bước này!”

Những ngày chót ở Sàigòn quả là những ngày đáng kể. Chẳng khác trận chiến Waterloo. Những ngày này là những ngày lịch sử quan trọng. Cho đến nay hiển nhiên người Mỹ vẫn chưa bình phục được sau vụ Việt Nam. Người Việt Nam vẫn chưa bình phục lại được tại Việt Nam. Người Cam Bốt, người Lào đều chưa bình phục khỏi cơn bịnh Việt Nam. Không có gì khác trong đời tôi có thể quan trọng hơn Việt Nam. Đó thực là một thảm kịch. Chúng ta đã gửi đến biết bao thanh niên lương hảo. Biết bao con người lương hảo. Để làm gì?

Bạn biết, khi tôi thoạt đi Việt Nam lần đầu vào mùa thu 1972, những người chỉ huy quân đội Mỹ bảo tôi: Có ánh sáng ở cuối đường hầm. Năm 1975 tôi lại nghĩ đến câu này. Quả thực có ánh sáng ở cuối đường hầm. Chính đó là lúc chúng ta bay ra khỏi xứ lần cuối cùng.

TỤC DU

 

trantrungdao

Ðời ta cắn cỏ trăm đường
Khai sinh kết nghĩa với phường tục du
Lá buồn từ độ sang thu
Ta buồn từ độ sương mù mới sa
Lang thang trong buổi chiều tà
Tìm trăng trăng khuyết tìm hoa hoa tàn
Từ ta tan giấc mộng vàng
Quê hương nghìn dặm ngỡ ngàng bước chân
Hỏi đời ai kẻ tri âm
Về cho ta gởi tấm lòng viễn phương
Hồn ta là một con đường
Mà ai qua đó còn vương phấn hồng
Hồn ta là một giòng sông
Chở bao nhiêu nước về lòng biển sâu
Hồn ta là một nhịp cầu
Mà ai qua đó để sầu lại đây
Hồn ta là một cành cây
Ai về ngủ đậu chờ ngày mưa qua
Hương tàn phấn đã bay xa
Thôi về mộng với màu hoa năm nào.

Trần Trung Đạo

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, “Này, ông bạn, tôi sẽ kể ông nghe cho hết đầu đuôi công việc.”

nuocmattruocconmua

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, nguyên tác Anh Ngữ “Tears Before The Rain” là một tập sử liệu về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam, do Larry Engelmann, Giáo Sư Đại Học San Jose State thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn nhiều thành phần: người Mỹ, người Việt, kẻ thắng người bại …Những cuộc phỏng vấn này khởi sự từ 1985, sách xuất bản năm 1990. Bản dịch Việt Ngữ do nhà văn Nguyễn Bá Trạc thực hiện năm 1993, xuất bản năm 1995 tại California.
PETE Mc CLOSKEY
(Dân Biểu Hoa Kỳ)
“Này, ông bạn, tôi sẽ kể ông nghe cho hết đầu đuôi công việc.”

Chuyến đi Đông dương của phái đoàn quốc hội vào tháng 3/75 là nhằm cứu xét tình hình Việt Nam và Cam Bốt, vì lẽ Tổng thống Gerald Ford bấy giờ đang yêu cầu Quốc hội chi 222 triệu Mỹ kim cho Cam Bốt, 300 triệu cho Việt Nam. Tổng thống Ford khuyến khích chuyến đi. Ông nói: “Chúng tôi biết rõ công việc ở đấy, nhưng quốc hội không biết gì.” Tôi bèn đi trước với Thượng nghị sĩ Dewey Barlett. Vài ngày sau, sáu dân biểu khác đến nhập chung. Đó là Bill Chappell thuộc ủy ban quân vụ, rồi Bella Abzug, và John Flynt, Don Fraser, John Murtha, Millicent Fenwick. Phil Habib cũng đến với tư cách phụ tá ngoại trưởng đặc trách Á Đông, Thái Bình Dương sự vụ. Như vậy, chuyến đi gồm tám người thuộc quốc hội, và tôi nhớ trong chuyến về, khi tổng kết các ấn tượng và quan điểm, chúng tôi đã chia ra bốn với bốn, bốn diều hâu bốn bồ câu. Có một vài điều tôi muốn làm trong chuyến đi. Điều thứ nhất, tôi muốn so sánh tình trạng năm 75 với tình trạng tôi đã chứng kiến vào năm 1970 tại quân đoàn IV, vùng châu thổ, quân đoàn III, vùng ngoại vi Sàigòn, quân đoàn II ở Pleiku, Kontum, quân đoàn I ở Đà Nẵng. Tôi muốn biết vị thế chiến trường, so sánh giữa hàng ngũ phía chúng ta và đối phương, giữa miền Nam và miền Bắc. Tôi cũng muốn kiểm điểm tinh thần của người miền Nam, lượng giá ý chí chiến đấu của người miền Bắc.

Ngân khoản mà tổng thống yêu cầu bấy giờ là một ngân khoản viện trợ quân sự phụ thêm cho Việt Nam. Quân đội miền Nam Việt Nam, theo tôi nhớ, vượt trội hẳn quân số Bắc Việt. Miền Nam có chừng 740,000 binh sĩ. Miền Bắc không bao giờ có hơn 450,000 quân. Miền Nam phải phòng thủ một diện tích khá dài, nhưng họ có những tuyến truyền thông nội bộ. Tôi nhớ, mặc dầu vậy, thống kê cho thấy miền Nam đã sử dụng pháo binh gấp mười ba lần miền Bắc, điều ấy có nghĩa phần lớn số tiền này sẽ đổ vào vỏ đạn pháo binh.Tôi từng là Trung úy Thủy quân lục chiến tại mặt trận Triều Tiên. Sau đó ở lại lực lượng Thủy quân lục chiến trừ bị, đặc trách phản du kích. Tôi là dân biểu quốc hội duy nhất đã bốn lần đến Việt nam. Năm 1967, tôi là dân biểu Cộng Hoà đầu tiên đắc cử với lập trường chống chiến tranh Việt Nam.

Khi tranh cử lần đầu, người ta hỏi quan điểm của tôi về Việt Nam. Tôi đáp: Chúng ta không nên có mặt ở đấy. Chiến đấu ở chỗ ấy là sai lầm, sai địa thế, sai kẻ thù. Chúng ta đã phung phí tài nguyên nước Mỹ khi cố đánh một trận chiến như vậy.

Tôi nghĩ đương nhiên Nam Việt Nam sẽ sụp đổ sau khi Hoa Kỳ triệt thoái. Cái ý tưởng của tôi chủ yếu thế này: Sự chia cắt Việt Nam vào năm 1954 là một sự chia cắt giả tạo. Tất cả mọi người đều nghĩ Việt Nam phải thống nhất. Khi đến Việt Nam lần đầu, vào năm 1967, một điều đập ngay vào ấn tượng của tôi là: Khắp nơi, từ những làng mạc thôn ấp nhỏ bé, đến các trụ sở quận, trụ sở vùng, nơi nào cũng treo những bản đồ của một nước Việt Nam duy nhất. Ngay người miền Nam cũng không bao giờ thừa nhận là chỉ có miền Nam Việt Nam. Bất cứ lúc nào nhìn tấm bản đồ Việt Nam, ngay tại miền Nam Việt Nam cũng vậy, quý vị luôn luôn thấy đó là tấm bản đồ cả nước, không phải là tấm bản đồ dựa trên sự chia cắt giả tạo này.

Hiển nhiên, mỗi người Việt Nam đều nghĩ đất nước của họ là một đất nước thống nhất, vậy câu hỏi được đặt ra là liệu Hoa Kỳ có thể hỗ trợ cho sự chia cắt giả tạo ấy chăng? Và dựng nên một xứ sở mới hay chăng? Chúng ta đã làm như thế. Chúng ta gọi đó là “Xây dựng quốc gia.”

Khi sang đấy, tôi vẫn sẵn sàng chấp nhận cái sự kiện là chúng ta có thể tạo ra một quốc gia mới ở Nam Việt Nam như vậy, nếu họ có ý chí chiến đấu. Họ đông quân hơn lực lượng miền Bắc. Họ có phòng tuyến nội bộ. Nhìn chiến trường người ta thấy miền Bắc có 13 sư đoàn, miền Nam có 16 sư đoàn. Miền Nam có đủ thủy, lục, không quân. Miền Bắc thì không. Chúng ta đã cho họ tiền bạc, viện trợ, giúp đỡ. Chúng ta đã huấn luyện họ sử dụng vũ khí và phương pháp chúng ta. Vậy toàn thể câu hỏi cần được đặt ra là: Liệu ý chí chiến đấu của người miền Nam Việt Nam có thắng ý chí chiến đấu của người miền Bắc Việt Nam hay không?

Chúng ta gặp các phản ảnh trái ngược. Nói về phẩm chất quân đội miền Nam – các tướng lãnh nói một khác, các sĩ quan cấp úy và các cố vấn làm việc tại địa phương lại nói với chúng ta những chuyện hoàn toàn khác hẳn.

Đúng, quả miền Nam có những đơn vị chiến đấu tinh nhuệ: Thủy quân lục chiến, nhảy dù rất dũng mãnh, đầy khả năng. Nhưng quân đội thông thường là Bộ binh thì không. Họ không muốn đánh. Không có động lực đánh. Lực lượng thông thường này gồm đa số những người bị bó buộc nhập ngũ, thực sự, họ không có gì căm ghét Việt Cộng nhiều.

Và rất rõ ràng ngay từ lâu người ta đã biết có kẽ hở trong khắp các cơ cấu. Việt Cộng lọt vào các lực lượng chính phủ. Không một Tư lệnh Thủy quân lục chiến nào tôi biết – kể từ lần đầu tôi sang bên ấy cho đến lần cuối – lại thông báo các kế hoạch hành quân cho phía đồng minh Việt Nam, họ đều biết làm như thế là sẽ lọt ra ngoài.

Tôi xin trình bày với quý vị thật ra Kissinger và tất cả mọi người khác đều đã biết từ năm 1971 là sớm hay muộn Nam Việt Nam cũng sẽ sụp đổ.

Nhưng bây giờ không phải vô căn cứ khi nghe các người lãnh đạo Nam Việt Nam tuyên bố: “Nếu bọn Mỹ khốn nạn các ông đánh trận này như các ông đã đánh ở Âu Châu thì chúng tôi đã thắng. Phải chi các ông đánh miền Bắc, phải chi các ông chiếm một số thành thị, phải chi các ông đuổi chúng vào bụi rậm.” Lập luận của tôi về điều này là: Đúng, chúng ta đã có thể làm như thế. Chúng ta có thể phá hủy đê điều trên đồng bằng sông Hồng. Chúng ta có thể triệt hạ Hà Nội. Chúng ta có thể trải thảm bom, quét sạch từng thị xã nào có từ 100 dân trở lên. Nhưng một khi hành động như vậy rồi chiến thắng, và một khi chúng ta rời khỏi đất nước này, điều gì sẽ xảy ra? Những lực lượng cai trị đất nước này sẽ có lòng tin của dân chúng, hay sẽ chỉ có các phương tiện để bắt dân chúng hỗ trợ mà thôi? Kỳ, Thiệu và cả đám ấy kể từ Diệm trở đi chỉ dấy lên được nhờ sự giúp đỡ của Mỹ. Ở miền Nam, không có một khuôn mặt quần chúng nào như Hồ Chí Minh ở miền Bắc cả.

Trước khi đi chuyến này, tôi nhận được tin có một số tù nhân chính trị, một số nhà báo bị bắt giữ, bị tra tấn. Tôi muốn tới nhà giam gặp để nói chuyện với họ. Vì thế, khi đến Việt Nam tôi nghĩ đại sứ Graham Martin đã cảm thấy cá nhân tôi là một sự thách thức. Cho nên ông đã có những bài thuyết trình soạn sẵn cho tôi.

Một trong những bài thuyết trình ấy phụ trách bởi Trưởng cơ sở Trung ương Tình báo Tom Polgar. Về bài thuyết trình này thì, trời đất! Điều mà người ta trông đợi ở một sĩ quan tình báo bất cứ ngành nào là sự lượng giá vô tư về năng lực kẻ thù – Không thấy – chỉ thấy nói về các ý định của kẻ thù. Chúng ta cần biết khả năng của họ thế nào. Họ có thể làm được gì. Ta có thể đoán được các ý định của họ, nhưng còn năng lực họ thế nào? Đó mới là vấn đề then chốt. Nhưng Tom Polgar toàn thuyết trình cho chúng tôi những thứ rác rưởi vớ vẩn: Nào kẻ thù chẳng có gì, nào là người của chúng ta mạnh mẽ xiết bao!

Vì vậy tôi rời buổi thuyết trình đi ra Quân đoàn I. Tôi gặp Tư lệnh ở đấy là tướng Ngô Quang Trưởng. Chính buổi nói chuyện của ông ta đã đưa tôi trở về mà nói lại với cả Ford lẫn Kissinger rằng: “Quí ông không cách gì thắng nổi. Địch có thể phá thủng bất cứ chỗ nào.” Chuyện này có thể ông Trưởng còn nhớ. Tôi đã đi thăm ông Trưởng với tư cách cá nhân vì một người bạn có nói với tôi rằng ông ấy là vị tướng khá nhất của quân đội Việt Nam và đúng như thế.

Ông Trưởng trấn thủ Vùng I. Xin nhớ vùng I gồm năm tỉnh dọc duyên hải, bao gồm khu Phi quân sự. Trước, có lúc chúng ta phải dùng đến cả năm sư đoàn Mỹ để chiến đấu ở trong và chung quanh vùng này. Nào đệ nhất sư đoàn không kỵ… và Trời biết còn gì nữa. Hồi tưởng lại, tôi nhớ tổng cộng miền Nam có 13 sư đoàn thì tướng Trưởng có ba sư đoàn để đương đầu với chừng ba sư đoàn Bắc Việt, và trấn ngay tại địa đầu biên giới. Ông Trưởng đã mất bộ quân phục thiện chiến của ông chỉ vì Thiệu đã hoảng hốt rút quân về Nam để phòng thủ Sàigòn.

Là một Đại tá thủy quân lục chiến, biết khá rõ về trận địa, nói chuyện với một tướng lãnh Việt Nam, tôi nghe Tướng Trưởng bảo “Không có cách gì.” Ông ta chỉ tấm bản đồ mà nói: “Nếu họ muốn đưa một sư đoàn vào chỗ này, hay chỗ này thì chịu, không thể phòng vệ được. Tôi phải có một sư đoàn đặt dưới này, tại Quảng Ngãi. Phải có một sư đoàn nữa trên này, ở Đà Nẵng. Phải có một sư đoàn khác tại vùng Phi quân sự – Họ có đủ khả năng: nếu họ muốn chuyển quân, họ có thể phá thủng bất cứ điểm nào trong vùng.”

Phải, đối phương đã chọn ưu tiên chọc thủng Vùng II. Nhưng như ông ta đã nói, đối phương có thể phá thủng bất cứ điểm nào trong vùng của ông mà không có cách gì ông phòng vệ được. Bởi vì, đối phương có thể chọn lựa. Mà đây là một trong những nguyên tắc của chiến tranh: Tập trung toàn thể sức mạnh vào chỗ nào địch quân yếu kém.

Điều khác nữa, nếu quan sát các đơn vị của Nam Việt Nam quý vị sẽ thấy: Sĩ quan luôn luôn ở đàng sau. Quý vị sẽ thấy sự lệ thuộc vào pháo binh. Thấy họ từ chối không tỏ ra hăng hái trong các cuộc tuần tiễu năng nổ. Tất cả những điều ấy chúng ta đã cố dạy họ. Nhưng khi người của chúng ta vừa rời đi, họ quay lưng lại đục lỗ mà ẩn núp và thương lượng với nhau. Tôi nghĩ đã có nhiều cuộc ngưng bắn riêng tư như thế xảy ra giữa các đơn vị Việt Nam cả đôi bên.

Còn một ông nữa gây chú ý cho tôi là ông chỉ huy Vùng III, tướng Toàn. Tôi đã xem con số thương vong, nhìn tỷ lệ đạn dược pháo binh ông ta sử dụng so với số đạn pháo binh địch sử dụng. Graham Martin bảo tôi không có pháo binh, chúng ta không thể thắng được. Và ông Tướng này cho tôi thấy ông đã bắn 9,600 trận pháo. Quý vị đã rõ các trận pháo kích của đối phương bắn đến cũng đều được đếm. So hai con số chênh lệch, hiển nhiên người ta thấy miền Nam không còn hăng hái đánh bộ binh nữa.

Với những gì ông Vùng III đã nói, với những gì ông Vùng I đã nói: Không có cách gì cả. Nhìn vị thế trận địa Vùng III: họ không phòng thủ được nữa. Cảm tưởng của tôi là nếu thêm 300 triệu Mỹ kim cũng không thay đổi gì, không còn chạy chữa được những gì đã xảy ra trên trận địa.

Martin có nhiều cố gắng với tôi. Ông đưa tôi đi khắp nơi, kể cả dẫn tôi vào phòng riêng của ông mà nói “Này, ông bạn. Tôi sẽ kể ông nghe cho hết đầu đuôi công việc.” Ông ta là một đại tá bộ binh về hưu đang hồi xuân. Nếu Polgar đã cho chúng tôi nghe những chuyện rác rưởi lăng nhăng, thì Graham Martin lại là một người mất trí. Tôi thực tình nghĩ ông ta đã mất trí.

Tôi không rõ có ai tiên đoán sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam ra sao, nhưng người ta có thể đoán được dựa trên sự biện giải tâm lý các sự việc. Sự việc làm tôi ngạc nhiên là người miền Bắc đã đổ vào các sư đoàn trừ bị của họ. Thông thường, họ không bao giờ tấn công cho đến khi đã thực tập nhuần nhuyễn trên sa bàn. Họ hết sức – hết sức là thận trọng. Nhưng hiển nhiên, họ biết họ đã có đủ sức mạnh che giấu ở miền Nam, họ có đủ kỷ luật, bởi vậy vào năm 1975 họ đã đổ vào tất cả những gì họ có.

Sau, tôi yêu cầu gặp mặt một số nhà báo bị bắt ở Sàigòn. Tổng thống Thiệu rất ưu ái đã ban cho tôi cái đặc ân vào lao xá gặp gỡ những người Việt Nam trẻ tuổi này.

Lao xá gồm những xà lim nhỏ bé chật hẹp mà chúng ta đã xây cho họ. Có hai mươi nhà báo bị bắt, tôi nghĩ là gồm có một người đàn bà, tất cả bị nhốt trong dãy xà lim liên tiếp kế cận nhau. Tôi nói “Này nhé, chúng tôi được nghe nhiều dư luận rồi, tôi muốn đánh tan các dư luận đấy nhé.” Nhưng trong mọi trường hợp, mỗi khi chúng tôi nói chuyện với tù nhân, các lính gác người Việt cứ lăm lăm súng ống đứng đấy lắng nghe.

Tôi nói chuyện với một cô gái. Có hai hay ba người trong phái đoàn chúng tôi vào phòng giam cô này. Khi rời phòng giam, anh Việt Nam ra trước, một người nào đó đi giữa tôi và anh ta, vì vậy có một khoảng thời gian ngắn anh ta không nhìn thấy tôi và cuộc phỏng vấn đã xong. Cô gái nắm cơ hội, nói thầm với tôi. Cô ta bảo: “Sự thực không đúng thế. Họ đánh đập chúng tôi mỗi ngày. Họ đánh tôi rất nhiều.” Cô ta kể một câu chuyện hoàn toàn khác hẳn câu chuyện kể qua người thông dịch khi họ ở đấy.

Cảm giác của tôi vì vậy là: Tất cả mọi sự đều bị rình rập, tất cả những người tù khác mà chúng tôi phỏng vấn chắc đều đã được dặn dò tương tự: “Khi các dân biểu tới thì phải nói với họ như thế này, như thế kia.”

Cô gái mệt mỏi, khóc lóc nhưng không thấy có một dấu hiệu bên ngoài nào để tôi có thể bảo cô ta đã bị đánh đập. Nhưng như tôi đã nói, cô ta thầm thì mà bảo “Họ đánh đập chúng tôi.”

Tôi nhớ phái đoàn chúng tôi đã chia ra năm chống ba, hoặc bốn chống bốn nếu chúng tôi bỏ phiếu về việc cấp thêm viện trợ. Quan điểm của tôi là không cho miền Nam Việt Nam gì nữa hết vì họ sẽ sụp đổ. Còn về Cam Bốt, phải cho họ một chút gì, lý do là nếu Cam Bốt sụp đổ tất sẽ có tàn sát.

Chúng tôi đi Cam Bốt, ở đấy một ngày. Tôi hoảng kinh. Những gì xảy ra ở đây hoàn toàn khác hẳn Việt Nam.

Phil Habib tháp tùng chúng tôi. Hạ cánh xuống phi trường Nam Vang, chúng tôi biết thỉnh thoảng phi trường vẫn bị pháo. Không nhớ bao nhiêu quả đã rơi khi chúng tôi đến, nhưng có vài quả nổ trước đó và vài quả sau đó. Ngay Bella Abzug cũng chấn động khi hạ cánh ở phi trường với những xác máy bay cháy nằm ngổn ngang ven biên. Họ đưa chúng tôi ra, ấn vào xe, chạy vội qua các đường phố Nam Vang đến toà Đại sứ, ở đấy sẽ có buổi thuyết trình đầu tiên. Chúng tôi biết chúng tôi sẽ phải rời ngay đêm ấy. Trừ một số ít, tất cả nhân viên sứ quán đều đã di tản rồi.

Có hai bài thuyết trình chính thức dành cho chúng tôi. Một bài do Lon Nol phụ trách. Nhân vật hí họa nhỏ thó buồn cười này bước vào phòng, ngồi xuống. Ông ta kêu gọi chúng tôi giúp đỡ. Nhưng họ bảo họ có 40,000 binh sĩ Cam Bốt đóng ở phạm vi chung quanh Nam Vang. Họ ước lượng sức mạnh Khờ Me Đỏ ngoài phạm vi này là 60,000. Đây là một quốc gia có dân số 6 triệu. Quý vị tự hỏi nếu chỉ có bấy nhiêu và họ đã có tất cả những binh sĩ Cam Bốt được huấn luyện siêu việt, trang bị đủ thứ khí cụ, thì tại sao chúng ta đã không thể giữ đừng cho đối phương đến gần?

Nên tôi nói với ông Đại sứ: tôi được thuyết trình đủ rồi, tôi hỏi tôi có thể ra ngoài làm một vòng quan sát tiền tuyến chăng. Tôi có một Đại úy là tùy viên quân sự và một xe jeep, chúng tôi rồ máy ra tiền phương. Chúng tôi đến tư lệnh sư đoàn trước, rồi đến bộ chỉ huy Trung đoàn, tôi đòi nói chuyện với các tiểu đoàn trưởng hoặc vài ngưòi trong đại đội. Tại trụ sở bộ tư lệnh, tôi yêu cầu: “Tôi muốn nói chuyện với một vài tù binh Khờ Me Đỏ của quý vị,” thì họ đều bảo: “Chúng tôi không có tù binh nào.”

Sau xuống tiểu đoàn, ở đây gặp các ông mặc quân phục ngụy trang mầu đen trong một ngôi chùa nhỏ. Họ là một đại đội đang chuyển về hậu cứ, sau khi lãnh lương, họ sẽ quay lại đơn vị. Tôi hỏi một thiếu tá về tù binh, ông ta nói: “Chúng tôi không giữ tù binh. Bắt được là ăn.”

Viên Đại úy giải thích cho tôi rõ khi giết một người lính, mọi người mang dao ra xẻo một miếng thịt rồi ăn, họ tin rằng họ tăng sức mạnh khi ăn thịt địch quân. Tôi nghĩ: “Lạy Chúa! Việc gì sẽ xảy ra khi vùng này thất thủ? Có cả hai triệu con người đang ở nơi đây!”

Trở về tôi nói: “Nhân danh Chúa, hãy cấp cho những người này đủ ngân khoản đến mùa mưa để họ có thể phân tán mà ra khỏi Nam Vang,” bởi lẽ khi Nam Vang thất thủ, sau những vụ tù binh Khờ Me Đỏ bị ăn thịt, tôi nghĩ địch quân sẽ tàn sát thẳng tay tất cả mọi người trong thành phố.

Đó là lý do tại sao khi về tôi đã diễn thuyết, nói chuyện ở các Đại học Stanford, San Francisco. Tại sao tôi chống chiến tranh mà lại muốn cấp tiền cho Cam Bốt? “Vì nếu chúng ta không chịu cấp ngân khoản cho Cam Bốt là chắc chắn sẽ có một cuộc tàn sát tập thể.” Tôi đã tiên đoán thế. Lúc ấy tháng Ba. Cam Bốt thất thủ giữa tháng Tư, theo tôi nhớ. Và nơi đó đã xảy ra cuộc tàn sát.

Trở về Mỹ tôi cùng với Phil Habib mở họp báo nói phải cho Cam Bốt tiền để sống sót qua mùa mưa. Nhưng Việt Nam, tôi không thể chấp thuận việc cho tiền. Habib tranh luận với tôi, một ông bên bộ Quốc phòng thì nài nỉ yêu cầu hỗ trợ việc cấp tiền, tuy nhiên tôi không thể làm việc ấy. Đối với Việt Nam, đây chỉ là vấn đề thời gian. Đây là một lý do đã mất.

Nhưng khi trở về tôi có viết một báo cáo trao cho Gerald Ford. Báo cáo này được ít nhất ba hay bốn thành viên của phái đoàn tán thành. Trong báo cáo, chúng tôi kết luận chúng ta cần phải có tình báo chính xác. Tôi tin rằng bộ máy tình báo ở Việt Nam đã trở nên thiên vị và đã trở thành một kẻ biện hộ. Sĩ quan tình báo đáng ra phải cung cấp các tin xấu, không phải các tin tốt. Với ông Polgar, thứ gì cũng là tin tốt: “Chúng ta đang thắng, chúng ta sẽ thắng.”

Sau tôi gặp riêng Kissinger và Ford tại phòng Bầu Dục. Tôi nhớ Ford quay sang hỏi Kissinger là không biết chừng tôi đã nói đúng. Kissinger bảo: “Không cách gì. Việt Nam còn có thể đứng vững hàng năm.” Ông ta nói họ có tinh thần cao, họ có khả năng chiến đấu tốt, họ được huấn luyện kỹ, tất cả những gì họ cần chỉ là tiền mua tiếp liệu, mua khí cụ, mua các bộ phận thay thế mà thôi vân vân.

Cảm tưởng của tôi bấy giờ là Tổng thống Ford tin ông ta và không chấp nhận những gì tôi nói.

Tôi trao báo cáo của tôi cho tổng thống vào đầu tháng Ba. Bắc Việt tấn công cao nguyên Trung phần trong vòng tuần lễ sau. Rồi miền Nam tan rã. Tôi đã nói những điều như thế sẽ xảy đến và chỉ là vấn đề thời gian. Rồi họ tấn công. Rồi báo chí suốt sáu tuần lễ kế tiếp đã tràn ngập tin tức về Cam Bốt và Việt Nam.

Tôi không có gì để cãi cọ với những người miền Nam Việt Nam cả. Nếu đặt tôi vào địa vị họ, tôi cũng sẽ cảm thấy chua chát với tất cả mọi người, nhất là đối với những người đã đến đấy để phán đoán xem họ có đáng được nhận thêm hai mưoi, hay năm mươi triệu đô la nữa hay không. Nhưng câu hỏi đặt cho họ là: Làm thế nào có thể tự lừa dối mình mãi về phẩm chất chiến đấu của những người của họ? Làm thế nào có thể để sụp đổ ngoại vi Sàigòn!

Tôi nghĩ những gì chúng ta đã làm ở Việt Nam là một tai họa và một thảm kịch. Và tôi nghĩ khi chúng ta đã đi tới cái điểm rút quân ra, chúng ta không còn muốn chết ở đất nước ấy nữa, nhưng chúng ta cứ tiếp tục dội bom xuống – thì điều ấy thực quá đáng. Nếu người miền Nam Việt Nam có khả năng tự lo liệu, hãy tăng sức mạnh cho họ. Còn thực tế họ đã không thể tự lo liệu được thì điều ấy không nhất thiết là lỗi của ai khác hơn là của chính các tướng tá của họ.

Phố núi của em

npphan

Nhớ VHĐ

Phố núi của em không còn mù sương
Em bây giờ có còn môi hồng má đỏ ?
Giữa mênh mông cao nguyên nắng gió
Mãi âm vang tiếng cồng nghìn năm

Đôi mắt của già làng cứ dõi về phía xa xăm
Những cánh rừng cứ lùi dần, dần xa, xa mãi
Những buôn làng cứ buồn tê tái
Khi không còn lời vỗ về của những điệu khan

Cả màu xanh ngút ngàn của rừng núi mênh mang
Rồi sẽ thay bằng một màu đỏ rực
Màu bùn đỏ kinh hoàng chết chóc
Mùi bùn đỏ tanh nồng sẽ thành nỗi ám ảnh khôn nguôi

Một giấc mơ Chapi * vĩnh viễn xa rời
Mà cứ vẫn rung lên theo nhịp trái tim của Tây nguyên đẫm lệ
Cả màu trời cũng rồi sẽ không còn xanh như thế
Cứ khóc đi, trái tim của núi rừng yêu thương

Phố núi của em đã không còn mù sương
Thì làm sao em môi hồng má đỏ ?
Nếu một mai anh quay về chốn cũ
Liệu có còn không, một chốn cũ để quay về ?

NP phan

* Tên bài hát của nhạc sĩ Trần Tiến gắn với tên tuổi Y Moan

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, “Kệ các ông nói gì thì nói, chúng tôi cứ đến”

nuocmattruocconmua

JOHN DEGLER,
(Nhiếp ảnh viên tàu U.S.S. Midway)
“Kệ các ông nói gì thì nói, chúng tôi cứ đến”

Khi chiến dịch di tản “Frequent Wind” bắt đầu ngày 29 tháng Tư, chúng tôi đều ở trong một trạng thái kích xúc tinh thần. Mặc dầu cảm giác kích xúc ấy được kiểm soát, chúng tôi vẫn thấy căng thẳng, vì chắc chắn chiến dịch này là một chiến dịch hết sức đặc biệt, nó ở ngoài mức độ bình thường. Chúng tôi đều là thành viên của một lực lượng đặc nhiệm khổng lồ. Suốt đời, tôi chưa hề có dịp chứng kiến cảnh tượng có nhiều chiến hạm đến như thế và đều tập trung vào cùng một chỗ như trong những ngày cuối tháng Tư năm ấy tại biển Nam Hải.

Nhiệm vụ của tôi bấy giờ là thu hình chiến dịch để lưu trữ trong hồ sơ của tàu. Sau ngày đầu tiên, mệt nhoài, nhưng tôi nghĩ tôi đã làm một công việc tốt đẹp.

Vào sáng sớm ngày 30 tháng Tư, tôi đứng trên từng năm để thu hình tàu (từng năm là boong thứ năm kể từ boong chính). Người sĩ quan phụ tá đứng cạnh trong lúc tôi quay phim. Tôi đưa máy lướt qua chân trời bỗng thấy một cái gì như bụi lốm đốm trên ống kính. Tôi quay máy lại, lau bụi bám trên mặt kính rồi hướng máy về lại chân trời. Đầu tiên, tôi thấy một cái gì như đàn ong khổng lồ đang vượt qua mặt nước, hướng về phía chúng tôi. Nhưng khi đến gần, hoá ra là chi chít những chiếc trực thăng Hueys. Tôi bước lui, đụng phải người sĩ quan phụ tá. Anh cũng đang chăm chăm nhìn những chiếc Hueys mà nói: “Cái quỷ quái gì thế?” Rồi anh ta bảo: “Ôi, Chúa ơi” và rời khỏi từng thứ năm.

Cảnh tượng thực phi thường, bởi lẽ đột nhiên cùng một lúc tất cả những chiếc trực thăng kia bay tụ về hạm đội. Họ không liên lạc vô tuyến, không hề báo trước. Trong khoảnh khắc chúng tôi lo ngại không rõ đây là bạn hay địch. Thế rồi những chiếc Hueys rà rà bay đến, mọi người trên boong la ó, vẫy tay ra hiệu đuổi họ đi. Nhưng rồi mọi người chạy tứ tán: trực thăng bắt đầu hạ xuống. Bất cứ chỗ nào trống, họ hạ cánh. Sự rối loạn tập thể diễn ra. Mọi việc xảy ra gần như người ta muốn bảo: “Kệ các ông nói gì thì nói, chúng tôi cứ đến.”

Tất cả đều đã được theo đúng kế hoạch – cho đến giây phút ấy. Tôi bắt đầu cho chạy máy quay phim để thu hình những chiếc Hueys đang tiến đến gần. Rồi đột nhiên, tôi cảm thấy một luồng gió nóng ngay sau lưng, và tiếng “hụp, hụp” của cánh quạt trực thăng Hueys. Tôi quay lại, thì ngay sau lưng, những lưỡi cánh quạt đang quay tít, chỉ cách tôi từ sáu đến mười bộ Anh. Tôi có thể thấy rõ cả mắt viên phi công. Anh chàng này đang cố hạ xuống giữa một chiếc cần trục khổng lồ và mé thành tàu. Bấy giờ vì chiếc tàu lắc lư và những cơn gió mạnh cuốn đến, chiếc trực thăng chao đảo trong không trung hệt như một chú ong ngớ ngẩn. Tôi gần va phải sàn tàu, tôi biết không cách gì người phi công này có thể hạ xuống một khoảng hẹp như thế trong cơn gió. Thế mà anh ta vẫn cố hạ xuống.

Sau cùng, anh ta cho trực thăng lui ra. Bên dưới, người ta hoảng hốt vẫy tay làm hiệu cho anh tránh đi, vì nếu chiếc máy bay rớt xuống thì tất cả công tác di tản sẽ rối rắm, chiếc máy bay sẽ sát hại không ít nhân mạng trên tàu. Anh ta vừa lùi sang hướng khác, lập tức người ta dùng một chiếc trực thăng trên tàu để trấn ngay khoảng trống ấy hầu cho những chiếc khác đừng cố hạ xuống chỗ này.

Cảnh những chiếc Hueys hạ cánh thực không tin nổi. Những chiếc trực thăng nhồi nhét chật ních đàn bà, trẻ con. Có một chiếc, tôi sẽ không bao giờ quên, đã chất đến 53 người, chưa kể viên phi công chính và phi công phụ.

Tôi thu hình một trong những chiếc Hueys đầu tiên hạ xuống tàu. Cảnh tượng này có chút khôi hài: Viên phi công nhảy ra, đến nói chuyện với thủy thủ đoàn. Tất cả đều chăm chú nhìn vào một chiếc bản đồ. Chỉ có trời biết họ nhìn bản đồ làm gì. Trông cảnh này, có vẻ như các thủy thủ đang cố giải thích cho viên phi công hiểu là anh ta đã đi lạc, cần phải quay trở lại. Thật tức cười!

Sau khi những chiếc Hueys đáp xuống, lập tức Thủy quân Lục chiến tiến đến khoá trục quay cánh quạt, tước khí giới hành khách. Chúng tôi lúc ấy rất sợ xảy ra chuyện có kẻ phá hoại chiến dịch di tản, và nếu xảy ra thì chả cách nào chặn lại. Với quá nhiều trực thăng Hueys đổ xuống như vậy, giả thử chỉ một chiếc chở chất nổ bay đến, sức phá hoại sẽ gây thiệt hại khôn lường.

Để săn sóc cho những người tỵ nạn, chúng tôi vội vã tổ chức mọi thứ. Chúng tôi cố sắp đặt trật tự trên sàn trực thăng hạ cánh. Nhất thời, chúng tôi gặp nhiều trở ngại không lường. Các cánh quạt trực thăng quá mạnh, những người Việt lại nhỏ con, một vài người đầu tiên bị thổi trượt ngã, bay sang phía bên kia boong tàu. Do đó để giữ an toàn, chúng tôi sử dụng giây thừng để hướng dẫn, lúc họ rời trực thăng thì nắm lấy băng qua boong tàu, xuống dưới cầu thang đến trung tâm làm thủ tục. Phương pháp này giúp họ an toàn qua boong, giữ cho họ khỏi bị những chiếc trực thăng khác đụng, đồng thời ngăn ngừa việc đám đông tụ lại ở một điểm trên boong. Khi người ta dắt họ đi băng qua boong bằng sợi giây thừng, họ giống như một đàn sâu tiến ra khỏi những chiếc Hueys mà đến phía thành tàu.

Suốt hai ngày trong chiến dịch “Frequent Wind” tôi hoàn toàn đắm vùi vào công tác di tản. Tôi biết đây chính là lịch sử. Tôi biết giá trị cao độ của công tác thu hình tôi đang phụ trách, nó chẳng khác công cuộc quay cuốn phim vĩ đại “Chiến thắng ngoài biển cả.” Tôi hy vọng một ngày kia những tài liệu tôi thu được có thể đem sử dụng cho một cuốn phim tương tự. Vì vậy tôi làm công tác một cách hăng say, thâu tất cả mọi thứ vào phim. Nhưng tất cả mọi thứ chỉ đều được tôi nhìn qua ống kính, qua các góc độ và ánh sáng. Cho đến khi có một chi tiết đặc biệt xảy ra. Ấy là lúc tôi quyết định theo một nhóm người để thu hình, từ lúc trực thăng hạ cánh xuống, lúc người ta ra khỏi boong tàu, lúc làm thủ tục, khám xét, ăn uống, rồi theo một trực thăng khác để đưa sang một chiếc tàu khác nữa trong hạm đội.

Lúc ấy tôi chọn một chiếc trực thăng vừa bay tới. Chỉ một giây sau khi chiếc này hạ cánh, tôi tiến ngay đến thu hình những người vừa xuống tàu. Tôi thu hình họ bước ra, trao vũ khí mang theo, rồi được hướng dẫn băng ngang sàn bay. Tôi tiến theo họ đi dọc con tàu, lùi lại đầu kia sàn bay, nơi có một chiếc trực thăng đưa họ sang tàu khác. Tôi hạ mình thấp xuống để bắt hình ảnh họ bước lên trực thăng, cái cầu kéo lên, chiếc trực thăng cất cánh. Khi chiếc trực thăng cất lên, tôi vẫn nằm dài trên sàn bay tiếp tục thu hình, tôi cảm thấy bị sức quạt đẩy tuột về cuối sàn bay. Tôi bị đẩy suốt sàn tàu, mắc lại phía cuối, một chân thòng qua mé tàu. Tôi vẫn tiếp tục quay. Cho đến khi chiếc trực thăng đi khỏi, hạ máy xuống, mới bắt đầu nghĩ: “Chết chửa làm gì thế.” Tôi hoàn toàn quên bẵng mối an nguy của tôi, tôi đã thu hình với tất cả cảm giác về những người tỵ nạn kia. Đúng lúc ấy tôi mới chợt nhận thức tất cả ý nghĩa việc ấy, cái ý nghĩa thực sự của nó. Ngay lúc ấy, tôi đã ở trong trạng thái bàng hoàng về những hoạt động liên tục, những kích thích, vội vã, tiếng rú động cơ, sức đẩy của cánh quạt, tiếng quay của cánh trực thăng bay vào, bay ra. Nhưng đột nhiên tất cả chợt đập mạnh vào nhận thức tôi, tôi hiểu ý nghĩa của nó là gì. Chúng tôi đương cứu người. Tất cả những con người này đang tơi tả vì đất nước họ. Tất cả những nỗi thống khổ đang hiện rõ trên mặt họ. Rất nhiều người trong bọn họ đã rời quê cha đất tổ chỉ giây phút trước khi cái chết chụp lấy. Khi tất cả các công tác này xong xuôi, chúng tôi sẽ có một mái nhà để trở về, nhưng họ thì không. Vào lúc ấy, tôi hiểu tôi đang thâu hình những giây phút đầu tiên của một cuộc đời hoàn toàn xa lạ sẽ dành cho những con người khốn khổ này đây.

Tôi rất hãnh diện về công việc mà tôi đã phụ trách. Tất cả những người làm việc trên tàu Midway đều tràn ngập niềm hãnh diện sau khi công tác hoàn tất. Chúng tôi nhận ra chúng tôi đã cứu được một số không ít những người đang lâm tình trạng hiểm nghèo. Chúng tôi đã làm được một điều chưa từng làm trước đây. Mỗi nhân viên trên tàu, từ sàn bay đến hầm máy, chúng tôi đều hãnh diện đã làm việc chung trong cùng một tập thể, chúng tôi đã thành công. Sự nhận thức đó giúp chúng tôi gắn bó nhau. Có lẽ người ta khó cảm thấu được điều ấy trừ khi người ta thực sự trải qua.

Chỉ trong vài giờ đồng hồ, con tàu đã trở nên một thành phố chứa hàng ngàn người tỵ nạn. Chúng tôi săn sóc giúp đỡ họ, cung cấp cho họ đồ ăn thức uống, thuốc men và tiện ích vệ sinh. Các thủy thủ đã nhường chính giường mình cho người tỵ nạn nằm nghỉ khi họ có mặt trên tàu chúng tôi. Chúng tôi dành cho họ những sự đối xử vương giả. Tôi tìm cách nói chuyện với vài người, hỏi họ từ đâu đến. Họ hết sức khiêm tốn, biết ơn và sợ sệt. Họ luôn luôn nhắc đi nhắc lại nhiều lần những lời “Cảm ơn. Cảm ơn.” Mỗi khi chúng tôi biếu một thứ gì, hoặc đối xử lịch thiệp, họ lại tràn ngập chúng tôi với những lời cảm ơn.

Tôi cũng chứng kiến rất nhiều nước mắt ràn rụa trên mặt người tỵ nạn. Nhiều người ôm ghì lấy nhau khi tìm ra bạn hữu đến được tàu Midway. Ngày hôm đó, biết bao xúc động biểu lộ trên con tàu.

Vào giờ phút cuối của chiến dịch di tản, chúng tôi gói ghém mọi thứ, sẵn sàng rời khu vực. Tất cả đều đã được sắp xếp ngăn nắp. Trực thăng đều đã đặt vào hàng lối trên tàu. Thế rồi, đúng giây phút cuối cùng ấy, một chiếc máy bay nhỏ bé đơn độc hiện ra trên bầu trời.

Khi chúng tôi đang ngồi trên con tàu ở vùng biển Nam Hải, anh chàng này bất ngờ chẳng rõ từ đâu bay tới. Anh ta cho chiếc máy bay lượn vài vòng chung quanh con tàu. Chúng tôi không rõ anh là ai, muốn gì, vì lẽ không có máy vô tuyến để liên lạc với anh ta. Cứ mỗi lần lượn qua, anh ta lại ném một vật xuống. Ba lần hụt sàn. Đến lần thứ tư, anh ta ném một cái mỏ lết vặn đinh ốc, cái mỏ lết rơi trên sàn tàu. Buộc quanh mỏ lết là một tấm giấy viết ghi chú. Tấm giấy nói rằng anh ta là Thiếu tá Bường, anh ta có vợ năm con trong chiếc máy bay nhỏ này, anh ta muốn hạ cánh xuống sàn bay chúng tôi. Cái máy bay của anh giống như một chiếc Cessna nhỏ, loại O-1.

Ngay khi được tin, Thuyền trưởng lập tức huy động chúng tôi bắt tay vào việc. Trong vòng ba mươi phút, chúng tôi dồn tất cả trực thăng và máy bay lên mũi tàu để trống sàn bay cho Thiếu tá Bường hạ cánh. Tất cả mọi người trên tàu đều hiểu việc hạ cánh này nguy hiểm thế nào. Đó là một chiếc máy bay quá nhỏ, chở quá nặng, con tàu lại đang chòng chành giữa đại dương. Tất cả mọi người hăng hái dọn dẹp để giúp anh hạ cánh dễ dàng hơn, nhưng cuối cùng, chính anh mới là người phải tự đương đầu việc hạ cánh máy bay.

Tôi mở máy chuẩn bị thâu hình lúc anh ta bay xuống, chắc chắn chờ đợi một vụ rớt máy bay xảy ra. Nhưng rồi anh ta trôi lượn đến như một cánh chim. Máy bay nẩy lên hai lần, lăn chậm và dừng lại. Lúc ấy tất cả mọi người trên tàu ùa lên hò reo hoan hô. Chúng tôi vỗ tay, nhảy cỡn, chúng tôi quá vui mừng cho anh. Cả một đám người ào đến vây lấy chiếc máy bay, vừa vỗ tay vừa cười vang. Đám người kéo đến mỗi lúc một đông. Tôi vác máy quay phim chạy đến thu hình anh bước ra khỏi chiếc máy bay. Trong lúc anh ta đang giúp vợ và mấy đứa con bước ra, một người la lên: “Ê! Cậu học lái máy bay ở đâu vậy?” Anh chàng quay mình lại, đáp: “Texas!” Thế là cả đám đông ồ lên la ó. Chúng tôi mừng vui điên lên về anh chàng ấy.

Đấy là kết thúc chiến dịch di tản – cuộc hạ cánh của Thiếu tá Bường. Đấy là một kết thúc vui vẻ. Chúng tôi không thể nào trù liệu được cách gì tốt hơn nữa. Đấy là một chiến thắng nho nhỏ khá tốt đẹp vào giây phút cuối cùng.

Ngày ấy, tôi mới hai mươi bốn tuổi đầu. Kinh nghiệm này làm tôi thay đổi sâu đậm hơn. Trước kia tôi đã từng trải qua nhiều việc, nhưng chỉ những ngày ở ngoài khơi nước Việt mới thực sự mở mắt cho tôi. Tôi đã chứng kiến cuộc đời của những con người khác, nó đánh thức tôi dậy, nó làm tôi hiểu trên thế giới này có nhiều nơi có nhiều việc đáng khiếp sợ xảy ra. Là một người Mỹ, tôi chưa từng bao giờ có thể tưởng được những việc như thế xảy cho con người.

Sau chuyến đi, tôi có một sức mạnh mới. Tôi nghĩ tất cả những người làm việc trên tàu Midway chúng tôi đều có một sức mạnh mới. Chúng tôi khám phá rằng chúng tôi có đủ khả năng hoàn tất công việc nếu chúng tôi được giao phó. Sau những ngày ấy, chúng tôi đều trở nên trưởng thành. Tốt đẹp hơn hết thảy, là khi công tác hoàn tất, chúng tôi biết chúng tôi là những người thiện hảo, chúng tôi đến để cứu nguy. Chúng tôi đã làm những gì đúng đắn.

Khi trở về, chẳng ai nghênh đón. Nhưng bây giờ nghĩ lại, tôi ước chi người ta đã ra nghênh đón chúng tôi. Bởi vì, ước chi có được nhiều người hơn có thể biết đến những gì chúng tôi đã làm ở ngoài khơi nước Việt vào những ngày cuối cùng của tháng Tư năm ấy.

Một Ngày Của Đồng Chí Chủ Tịch

 

thegiang

Hội Đồng Nhà Nước Việt Nam
Văn Phòng Trung Ương
Thông tri số:…

Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc

V/v: Đôn đốc các địa phương thi hành triệt để các chính sách:
-Cắt giảm tiêu chuẩn lương thực.
-Phân phối điện cho mỗi hộ gia đình.
-Qui định lại mức tiêu thụ nước tính theo đầu người.
-Kiểm tra chặt chẽ việc cấp giấy phép đi lại cho nhân dân (Giao riêng cho ban thanh tra chống tiêu cực Bộ Nội Vụ)
-Sinh đẻ có kế hoạch phải được thực hiện trong cả nước.
-…?

—Còn việc gì nữa nhỉ?

Người đàn ông thấp lùn tuổi trạc bát tuần, cái đầu tròn vo như cái mâm oản hai tay chắp sau lưng đi đi lại lại trong phòng suy nghĩ.

—Sắc luật mới về việc thu thuế nông công thương nghiệp thì mình đã ký rồi… Tăng giá cước phí bưu điện cũng đã… à còn việc qui định giới hạn tiêu chuẩn được phép nhận quà từ nước ngoài.

Ông ta thở phào bước thoăn thoắt lại bàn làm việc và lật trang sau của tờ thông tri.

—Đây rồi… thế thế… thằng này làm ăn cũng cẩn thận, không đến nỗi nào… Ờ, sao nó kê bao nhiêu điều linh tinh nữa thế này? Những việc nhỏ không cần để ý… đâu rồi, phần ký tên và đóng dấu đâu…?

Ông nắn nót đặt ngòi bút vào khoảng giữa hai hàng chữ ký tên và đã ký, rồi một con giun đen chậm rãi ngoằn ngoèo bò ra. Đến phần cuối của tên ký, ông phất mạnh bút cho nó bay thoắt lên.

—Cách ký tên liên hệ rất quan trọng tới vận mệnh mỗi con người. Từ ngày vẫy được đuôi của chữ “H” lên là quyền uy thay đổi, gần 60 triệu mạng người đã nằm dưới chữ ký của mình rồi.

Người đàn ông nở nụ cười mãn nguyện, dí cái kính viễn thị cho sát vào sống mũi hơn, ông từ từ ngước mắt lên đọc lại phía trên tờ thông tri.

—Gì thế này…? Cái gì thế này? “…đó là chính sách áp dụng tương tự hình thức thăm nuôi đối với tù nhân…” Sao lại dính dáng gì với tù nhân trong việc này?

Liếc xuống phía dưới, mắt ông lại đụng phải hàng chữ “Bộ trưởng Nội vụ” nằm phía trên chữ ký của mình.

—Thư ký đâu!

Người đàn ông giận dữ quát vọng về phía cửa. Ngay lập tức như đã chờ sẵn, một khuôn mặt hồ hởi bước vào:

—Có tôi! thưa đồng chí chủ tịch!

—Lại đây, lại ngay đây và đọc lên cho ta nghe anh đã viết những cái gì. Người thư ký biến sắc mặt bước gần như chạy lại phía bàn.

—Đừng có lục lọi lung tung lên như vậy, đọc ngay thứ tự của trang anh đã xếp sẵn cho tôi… Sao? Sắc lệnh qui định quyền nhận quà và tiền của thân nhân từ nước ngoài gửi về, ai cho anh ví như một hình thức thăm nuôi đối với tù nhân? Và tại sao anh lại đưa cái chức vị bẩn thỉu của thằng Bộ trưởng Nội vụ cho ta ký? Tại sao?
Người đàn ông nhảy bật người trên ghế lấy sức đập tay xuống bàn đánh rầm một cái.

—Tại sao?

Người thư ký càng lính quýnh thêm sau mỗi tiếng thét, tay run rẩy lật vội hết trang nọ đến trang kia, hai chân chộn rộn đổi chỗ cho nhau như muốn té ra quần.

—Xin thủ trưởng bình tĩnh.

—Chủ tịch Hội đồng nhà nước!

Người đàn ông gằn giọng sửa lại.

—Xin… xin đồng chí chủ tịch Hội đồng nhà nước Việt Nam bình tĩnh cho một chút, tôi sắp xếp trang có hơi lầm lẫn một tị… đây rồi… Thưa đồng chí, số là hôm qua đồng chí Phạm Hùng có nhờ tôi soạn lại qui chế đối với tù cải tạo, tới khuya mới làm xong, mệt quá nên tôi xếp lẫn sang tập thông tri của đồng chí. Còn trang tiếp của đồng chí đây.

Người đàn ông già chợt yên lặng. Xoáy cái nhìn tận đáy mắt người thư ký, ông hỏi nhỏ như tỏa hơi lạnh tử thần vào cái mặt trắng bệch:

—Anh bắt đầu làm việc cho Phạm Hùng từ bao giờ?

Người thư ký chết điếng người nói không ra hơi:

—Việc gì… việc gì, ý đồng chí muốn nói việc gì?

—Cái việc bẩn thỉu đó, việc nhòm lỗ khóa ấy.

—Không không, tôi chỉ giúp đỡ ông ấy những việc thuần túy theo chức nghiệp của mình thôi.

-Ờ… ờ, cái nghiệp cũ ấy hả… ta đã lôi anh ra khỏi cái nghề sát sinh, tắm rửa thay quần áo và mở cho một con đường thênh thang về chính trị, thế mà vẫn chứng nào tật nấy, ăn cháo đái bát, cái máu rình mò bẩm báo công an chưa nhạt được hả?

—Trời đất… thật là kinh khủng, thưa vâng đồng chí vừa có những ý nghĩ thật khủng khiếp cho tôi…
Không đợi người thư ký thanh minh ông già cắt băng vấn đề.

—Đi học thêm ba năm ở trường Nguyễn Ái Quốc nhé? Hay qua Mặt trận Tổ quốc, hoặc Quốc hội? Một trong ba nơi đó tùy anh chọn.

—Trời đất ơi… mong đồng chí bình tĩnh trở lại để cho tôi được biện bạch…

—Chọn chỗ nào?

—Chỗ nào cũng khổ cả, tôi đã từng bị ba năm giam lỏng trong trường đảng rồi, đường lối chính trị, sách lược… thuộc hết cả rồi, mới được ra ngoài thở một chút thì đồng chí lại tống vào…

—Thế thì sang quốc hội vậy?

—Tôi biết làm gì ở cái Viện dưỡng lão ấy?…

—Ý anh thích Mặt trận Tổ quốc hơn cả?

—Để rồi suốt đời tôi như thằng mõ đi cổ động đồng bào mua công trái, phát kẹo cho thiếu nhi, sửa sang nghĩa trang liệt sĩ, vận động sinh đẻ có kế hoạch?

—Anh cũng biết việc lắm nhỉ?

Ông già cười mát châm biếm, còn người thư ký vò đầu bứt tai cố moi đống giấy tờ trong cặp táp của mình.

—Đây rồi thưa đồng chí Chủ tịch Hội đồng nhà nước Việt Nam, nó đây, mớ tài liệu suýt nữa hại đời tôi đây… đồng chí đọc từ đầu đến cuối và sẽ hiểu những việc đồng chí Phạm Hùng nhờ tôi không dính dáng gì đến mục “bảo vệ lãnh đạo hết”.

Cầm mớ giấy tờ trên tay, ông già chiếu cái nhìn trắc nghiệm vào người cộng sự của mình.

—Được, ta sẽ đưa thư ký đọc kỹ lại rồi báo cáo; ấy, không được, việc này liên quan đến tư cách của anh, phải giao cho thư ký Hai. Mà anh đã kịp liên minh ma quỉ gì với nó chưa, hay lại móc ngoặc với nhau rồi báo cáo láo. Thật không còn tin ai được nữa.

—Tốt hơn hết xin đồng chí đọc ngay tại đây để có gì thắc mắc tôi còn được giải bày…

Người thư ký vật vã van xin, và ông già đành chấp thuận.

—Ừ… ừ, cũng chưa có gì tệ hại đến phẩm chất đạo đức của anh. Thôi được, một sự hiểu lầm, anh có thể quên nó đi được ròi… người già tính hay xúc động, anh hiểu đấy.

Thoát khỏi cơn hiểm nghèo, mặt người thư ký tươi rói như củ sâm sống. Xoa hai tay vào nhau, anh lấy lại vẻ hồ hởi:

—Còn công việc ngày mai tôi đã sắp xếp xong, xin đồng chí xem qua rồi tự quyết định cho.

—Ta đã ký rồi, anh đóng dấu rồi trao cho các cấp hộ. À này, vụ quà cáp ấy ta nghe nói trong Nam có người được bốn năm lần nhận là sao vậy?

—Thưa đồng chí tôi đã liên lạc với thành ủy thành phố Hồ Chí Minh, họ giải thích sở dĩ có lần thứ năm là nếu các hộ gia đình nghiêm chỉnh chấp hành luật nhận quà thì được hưởng thêm một lần nữa.

—Á à, bậy thật; thằng Mai Chí Thọ lại định qua háng trung ương đây, cái mầm cục bộ địa phương ấy đánh chết vẫn không chừa. Nói cho biết là đồng bào miền Bắc cả đời không có một thùng quà nào mà họ vẫn sống, vẫn xây dựng chủ nghĩa xã hội nghe chưa!

Thấy cơn lôi đình có cơ tái phát, người thư ký vội dạ vâng cho xong chuyện.

—Còn bài viết “Chống tệ nạn quan liêu trong đảng” của ta anh gọi điện cho thằng Hồng Hà biết tự nó phải lên trang lấy, xếp trọn bài ở trang một chứ đừng ngắt ra trang hai, ba như tuần trước là biết tay ta đấy.

—Thưa đồng chí, anh Hồng Hà mới đi Praha dự hội nghị Tổng biên tập các báo đảng anh em ngày hôm qua

Ông già lại bực bội hừ trong họng.

-Ta lại phải thân chinh xuống báo Nhân Dân tối nay rồi. Không thể nhờ cậy thằng nào được. Việc thì bù đầu.

-Nếu đồng chí cho phép, chiều nay tôi sẽ xuống báo chỉ đạo số ra ngày mai.

Người thư ký ngước mắt thăm dò.

-Không được, anh phải giúp ta chuẩn bị bài nói ngày mai trong cuộc họp chống “Mao ít” trung ương.

—Thưa đồng chí, nếu tôi không nhầm thì tuần trước đã họp rồi, mai lại họp nữa?

-Họp, họp nữa, họp mãi! Chủ nghĩa Mao nó ngấm vào tận xương tủy các anh rồi, ta phải quằn cho tróc da trầy vảy may ra mới nhả hết độc được.

-Nếu vậy thì tôi xin phép được đi gọi điện thoại một chút.

—Để làm gì?

Ông già cau mày hỏi.

-Tôi dục thợ may sửa nhanh bộ complet cho đồng chí kịp mai đi hội nghị.

-Sao? Lại dở cái trò ma quỉ gì ra nữa đây? Ta hết không còn quần áo gì hay sao mà phải may vội như chạy tang thế?

—Thưa không phải vậy đâu ạ, số là quần áo của đồng chí toàn loại “đại cán”…

—Lại dùng Hán văn rồi!

Ông già bực bội ngắt lời.

—Thưa toàn loại áo Tôn Trung Sơn…

-Tôn Trung Sơn người Việt Nam hả?

-Dạ dạ,… áo “cán bộ” ạ, thưa đồng chí, chả là dạo này một số đảng viên thoái hóa xì xào loan truyền rằng đảng ta có ông “Mao nhiều” lại làm trưởng ban chống “Mao ít” cho nên đồng chí tạm không mặc cái áo Mao trong cuộc họp chống Mao ngày mai thì có lợi hơn không ạ…?

-Láo! Cái bọn phong kiến quân phiệt này ăn phải bã hình thức chủ nghĩa rồi; “nội dung quyết định hình thức”, anh ghi ngay vào, ngày mai ta sẽ cho thảo luận lại đề tài này trong cuộc họp cho đến khi nào thông mới thôi.

Hai tay chắp sau lưng, ông già giận dữ nện gót giày quanh phòng. Thấy nguời thư ký đang há hốc mồm vì kinh ngạc, ông gầm lên:

—Còn cười hả? Cút ngay khỏi mắt ta cái thằng phù thủy này!

Người thư ký cuốn nhẹ ra ngoài như chiếc lá bay, song vẫn không quên đóng cửa lại.

Thế là hết một ngày làm việc.

THẾ GIANG

TƠ VẪN CÒN VƯƠNG.

tranvannghia

Tôi về nhặt dưới sân rêu
Mảnh đời du thủ với nhiều ăn năn
Nhớ đêm , nhớ chỗ ai nằm
Gió tưng tửng ghẹo vầng trăng dại khờ

Dỗ dành tìm đến giấc mơ
Có em mềm mại cánh cò trú đông
Có hương ruồng rẩy nội đồng
Lang thang mây khói qua sông chẳng về

Nhớ tình giũ áo phu thê
Mênh mang sương phố nhập nhoè đường xưa

Tôi về nhặt dưới sân mưa
Bóng nghiêng lầm lũi theo mùa đang qua

TRẦN VĂN NGHĨA