SỢ

nguyentri

Tôi chắc rằng cả thế gian từ Âu sang Á ai cũng sợ ma. Tôi cũng vậy, nhưng đó là trước kia, thuở còn bé. Sau nầy vì thương khó, làm ăn lụn bại, của cải, cả nhà cửa đội nón ra đi. Nợ vây bủa bốn hướng, nửa đêm tôi phải gồng gánh cùng vợ dẫn bầy con trốn nợ. Đến xứ khác làm lại đời, tha nhân thương tình cho bầu đoàn tôi thuê một căn giá rẻ kề bên nghĩa địa.
Buồn cho thân phận, tối nào tôi cũng giăng võng vào hai cây Bạch Đàn nghe vi vu gió thổi, kề bên là chai ba xị với tí mồi, mắt chong ra mồ mã mong gặp một anh chị ma để phiếm luận cho vui. Có đêm say quá tôi ngủ luôn trên võng, suốt một thời gian dài, tôi chả mơ thấy một giai nhân, hoặc một anh áo trắng tay cầm lưỡi hái nào gọi là ma hay thần chết cả, mới hay rằng ông Bồ Tùng Linh thật đáng mặt tài danh, bộ truyện Liêu Trai Chí Dị của ông thừa sức để cả thế giới tin rằng có ma và ông ấy từng gặp ma.
Có người bạn nói tại vía tôi nặng nên ma không cho thấy, lại thêm rằng có ngon tôi cứ ra giữa nghĩa địa kê đầu lên một cái mã nào đó sẽ biết ma có chân hay không chân. Gì chứ ra giữa nghĩa địa ngủ có mà điên, đúng ra là tôi cũng hơi ơn ớn. Sau nầy khi con gái út của tôi chẳng may về đất mẹ, thêm thằng con lớn bị ma túy, thêm đứa con dâu bỏ cháu cho tôi để đi theo tình mới. Buồn quá, tôi ra nghĩa địa thắp sáng cho con ấm mả lúc mới chôn. Đầu hôm lũ trẻ bạn con tôi đông đảo lắm, chúng rượu trà đàn ca ( Miền Đông, có đám ma là có đàn địch hát xướng) đến nửa đêm chúng về ráo. Còn lại tôi, buồn ơi buồn, tôi kê đầu lên một ngôi mộ, mệt mỏi sau ba ngày thức trắng tôi ngủ một giấc, tỉnh dậy là do ánh sáng mặt trời rọc vô mặt. Nghe tôi ngủ cả đêm ngoài nghĩa địa ai cũng kinh tâm. Về sau tôi ra thăm con bất kể đêm ngày, Tôi còn biết được ở nghĩa địa những đêm có trăng đáng sợ hơn không trăng. Vì sao? Ánh trăng mờ ảo rọi ánh sáng xuống những ngôi mộ xây, hắt cái bóng đen mờ của những tấm bia làm ta liên tưởng đến có ai đó đang ngồi bên mộ mình. Đêm đen thì tối mịt, thành không thấy cái mờ ảo đó. Chỉ vậy thôi. Ma ở đâu? Hay là tôi nặng vía? Chưa hề thấy ma vì thế tôi không sợ.
Tôi lại chắc rằng mười tay dân ngu tầm tôi sợ nhất cái anh công quyền. Đi chuyển hộ khẩu, chứng cái giấy, làm khai sanh cho con vân vân. Nghèo muốn cho mau chóng, nhưng vấp cái dân cần quan bận, phải biết điều, li cà phê gói thuốc được qui thành tiền bỏ vô cái phong bao, len lén nhét vô túi anh. Chẳng may anh đóng phim thanh liêm, móc ra đập lên bàn là mình mang tội đưa hối lộ. Mà không có tiểu tiết ấy thì anh hẹn. Làm sao? Phải có cái anh cò, ta đưa cái bì kèm cò điếu thuốc, thế mới qua. Sợ thật đấy, nhưng lại không sợ vì anh chịu ăn thì chuyện chi cũng qua. Có lần làm thuê tháng, thằng tôi trông coi và điều hành công việc cho một tay chủ rẩy giàu có. Vợ chồng hắn ăn rồi tụ tập nhập sòng. Một hôm nghe ồn tôi vào và chứng kiến cả hai bị Công An Thành Phố còng với sự có mặt của Công An xã. Hỏi, Anh Công An sở tại nói không biết phạm tội gì mà cặp nầy bị truy nã. Không biết? Dân trong tầm kiểm soát của anh mà không biết về nhân thân họ là sao?
Ma và công quyền không sợ. Vậy anh sợ chi? Tôi sợ gì?
Không biết thiên hạ sao, riêng tôi đó đây mười hướng đất trời, làm dăm bảy nghiệp kiếm cơm, biết hết mười hai bến sĩ nông công thương ngư tiều canh mục yên ba tửu chước, cả cái bến tắm ngựa cũng rành. Sợ nhất cái anh, cái chị… xạo.
Xạo tức nói dóc, nói láo. Nó hoàn toàn khác với nói khoác. Những tay một tấc đến trời như Bác Ba Phi. Thủ Thiệm. Mười Giáo… với những câu chuyện tin không nổi của họ làm người nghe, người đọc sảng khoái cười. Chuyện của họ đại loại như: “ – … Tao điên lên xáng cho con vợ bạt tai, nó đâm đầu bỏ chạy, tao cũng phê chai ba xị lăn ra ngủ, tới sáng không thấy ẻm đâu, chạy qua bà già vợ cũng không thấy, ra chợ tìm suốt buổi cũng không, tao tưởng ẻm bỏ tao rồi. Buồn tình tao về nhà xách dao ra sau vườn cắt cải nấu canh, vừa thò dao vô thấy con vợ đang khoanh dưới lá cải ngủ ngon lành… Mày chưa thấy đám cải nhà tao đâu, lá nào lá nấy to bằng cả mái nhà…. Hoặc: “- Quê tao có một cái cây nó cao đến độ có một tổ chim bị gió thổi bay, trứng rơi xuống mới tới nửa cây đã nở thành con, rơi tiếp xuống hai phần ba cây đã đủ lông cánh để… bay tiếp.
Nói khoác cho đời vui kể cũng đáng biểu dương.
Nhưng nói dóc thì ngược lại. Thật đáng sợ cho quý ông quý bà dóc tổ. Họ sẵn sàng phịa ra những chuyện không thể tin được, và nói bằng một cái giọng cực nghiêm chỉnh, buộc nguời nghe phải tin rằng họ đang nói thật.
Tôi là nạn nhân của rất nhiều nguời như vậy. Là do cái tánh hay cả nể của tôi, lại luôn lắng nghe những gì tha nhân nói và gật gật cứ như anh nói tôi tin lắm, nói nữa đi… Thành Dù – Bạn tôi – Thuở chiến chinh với tầm cao mét bảy, Thành đi lính Nhảy Dù, sau ba tháng quân trường bị đẩy đi giải tỏa Cổ Thành Quảng Trị, bị một phát vô bụng, thoát cái chết về phố cứ ba tháng lảnh kì lương thương phế binh. Thành ba hoa rằng:
Bây biết không? Ba tháng tao nhảy năm chục sô dù .
Nghe là không lọt tai. Chín mươi ngày nhảy năm chục sô. Ngày rưởi một sô. Thời gian đâu mà ôm súng tập bóp cò? Nghe mà thẹn giúp cho Thành. Tôi cả nể không nói, nhưng có thằng vặc lại:
– Mày đi lính năm bảy mốt, lúc đó làm đếch gì có huấn luyện nhảy, mà nếu có mày nhảy sao mà ra năm mươi sô nói tao nghe coi.
Mày biết khỉ mẹ gì, tao nhảy mướn cho mấy thằng chết nhát.
Đúng là trời ơi đất hỡi. Lính tráng mà có thuê mướn, xạo tầm đó là không ai bì. Chưa hết. Sau thống nhất bọn tôi đi đục đá tấm ở mấy sân bay dã chiến của quân đội Mĩ. Những sân bay nầy được đổ bằng bê tông có cốt thép, dày những hai mươi phân. Một toán đi đục ít nhất là bốn người, sức khỏe và cơ bắp tầm Lí Đức, Phan Văn Mách ngày nay mới dám đụng vô. Búa tạ chín cân anh, cán bằng cây Lão Mai dẽo như vũ nữ Chăm múa Ápsara, Con chạm bằng thép, lộng vô hai thanh tre gai già. Kẻ rê chạm, người vung búa, đánh suốt ngày dưới cái nắng bén như thủy tinh. Thằng nào dai lắm vung hai mươi búa là thay tua, cở tôi chín búa là hết đát. Lại cũng Thành Dù:
– Hồi còn ở quân trường tao có thằng bạn, búa mười lăm cân anh nó đánh từ sáng đến trưa không nghỉ mà chỉ đánh có một tay.
Đang nắng, nghe xạo. Cảnh Thời Tân quặc lại:
– Mày xạo vừa thôi, làm đếch gì có búa mười lăm cân anh, mày có hiểu vì sao người ta gọi búa ba kí, năm kí, chín kí không? Là cái lực mày đánh ra đó ông nội. Ở quân trường đánh búa tạ tế bà tụi bây hả?
Mày biết khỉ mẹ gì, bọn tao đi đóng nọc sắt làm hàng rào quân trường.
Đợi tới mày đi lính người ta mới làm hàng rào phòng đào ngũ chắc?
Mày biết khỉ mẹ gì?
Câu nầy Thành Dù luôn nói khi ai đó cự lại.
Vào Miền Đông, dân rẩy sở tại thuê đào ao nuôi cá, Vai u thịt bắp chúng tôi ra sức thi công. Những Leng, Xẻng thi nhau xắn, đào quăng đất lên bờ. Thoạt tiên gần và cạn đất bay ra còn xa, lúc xuống sâu cứ đặt lên bờ rồi lại quăng tiếp. Thành – lại Thành – :
– Hồi tao về Tiền Giang đào đìa, quen thằng bạn nó dùng leng ống quăng một phát xa chín thước.
Một người trong toán nói:
– Chín thước thì tôi quăng cũng tới, vì đìa Miền Tây là sình, trơn như thoa mỡ vậy. Tôi chứ vợ tôi quăng cũng chẳng chi khó.
Đó là tao chưa nói hết.
Nói hết đi.
Hầm sâu bốn mét, nó quăng xa thêm…
Đến đây thì cả bọn phá ra cười. Cả nể như tôi cũng không nhịn được.
Quả thật đáng sợ cho Thành.
Nhưng cở Thành cũng chưa mùi mẻ gì so với Thu Hương bà chủ nợ của tôi.
Hương xấu ình, mắt con nhỏ con to, đã hăng rô còn sún hai cái cửa. Tôi đã cả nể lại còn là con nợ của Hương. Thực ra cô chẳng giầu có chi, chỉ tại cái tôi quá ư nghèo. Thời gian khó tôi những bốn đứa con nheo nhóc. Chạy ăn từng bữa toát mồ hôi của Ông Trần Tế Xương mùi mẻ gì, tôi toác cả máu ra mà vẫn đói. Hương khác, nhờ xấu nên không ma nào dám vô gá nghĩa, vậy nên cô có của để dành. Ai túng ngặt cô cũng rộng lòng làm phước, lãi rẻ rề mười phần trăm một tháng. Đành vậy, lúc túng ngặt cở nào cũng phải năn nỉ mong chị mở cái ruột tượng cho con ve sầu em có cái mà ve ve.
Hương cảm mến tôi lắm, vì tôi luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu lời cô nói. Chao ôi, thật cực hình, thật sợ khi phải ngồi nghe tràng giang đại hải những khoe khoang, những hiểu biết, những mắt không hề thấy, tai chưa hề nghe, thậm chí não còn không luận ra được, vậy mà cô nói ngon nói lành cứ như đang là người trong cuộc… Tôi phải gật, phải biểu đồng tình, phải biết tròn xoe mắt ở những cái gọi là cao trào. Hương thú vị thật sự khi tôi là kẻ để cô trút bầu … xạo. Không vậy, e chừng hầu bao cô không mở để thằng tôi qua bẩn chật.
Hồi đó ở Miền Đông có rất nhiều đoàn Sơn Đông bán thuốc dạo. Một chiếc xe con cóc, dừng lại một chợ miền Kinh Tế Dân Lập nào đó. Họ bày ra những Cao Đơn Hoàn Tán, đủ mọi gia truyền trị bá chứng, dân tình xem đông lắm vì có biểu diễn xiếc, thi triễn công phu, có cả hai tay võ sĩ so găng với nhau để thu hút hiếu kì. Nhưng chủ xị của đoàn luôn là những võ sư tên tuổi. Đến đâu họ luôn tìm đến nhà những người yêu thích võ để làm quen. Ra biểu diễn họ luôn nói rằng : “- Chúng tôi tài hèn sức mọn, đến địa phương nầy để phục vụ bà con, biễu diễn ba cái vụn vặt để bà con xem chơi, không dám múa rìu qua mặt thợ, mong các bậc cao minh chỉ giáo, và nếu có chi thất thố mong bà con niệm tình bỏ quá cho”. Mấy giang hồ nầy là bạn rượu của tôi. Những Dương Hải Thanh. Đặng Hồng Minh, Trần Kim Quang…Ai nấy đều dễ thương và cực khiêm tốn.
Một hôm Hương đến nhà tôi, mặt lộ nghiêm trọng, cô kể rằng:
Anh nghe tin ông Trần Kim Quang bị đánh chết chưa?
Tôi lỏ con mắt ếch. Hương tiếp:
Ông bị nhỏ Lý Phi Yến người tàu Chợ Lớn ở Định Quán đánh chết ngay tại chợ.
?
– Anh biết sao không? Ổng dám thách dân Định Quán ai có tài cứ ra dợt với ổng, nghe vậy nhỏ Yến nổi tự ái cho ổng một trận, bị trúng một đòn đá ổng chết ngay tức khắc.
Rồi có sao không cô?
Công An có đến nhưng mà đâu bắt nhỏ Yến được vì ông Quang thách đấu…
Nghe qua tôi cũng không hiểu sao mà cô ta có thể dựng được chuyện vô lí vậy. Đâu chừng nửa tháng sau Trần Kim Quang về xứ tôi kính thưa bà con cô bác tiếp. Và cũng lại Hương:
– Bữa nay ông Trần Kim Quang về chợ mình bán thuốc, vậy mà không biết ai đồn ổng bị bị đánh chết ở Định Quán.
Thiên hạ đồn bậy thôi cô ơi, chấp làm gì.
Sao mà họ xạo được nghĩ cũng hay.
Lẹo tẹo sao đó bụng Hương lớn phổng lên. Ông bà nói đúng thiên hạ cười ba tháng chứ chẳng ai cười nổi ba năm. Hương chả sợ ai, cô cần có đứa con để khi về già có người hủ hỉ. Cũng đáng sợ thay cho thằng ôn dịch nào ôm được Hương mà ngủ với cô. Tôi nói với vợ:
Chắc thằng đó say khướt nên ai cũng hóa Hằng Nga.
Vợ tôi bảo:
– Cả người điên mà còn phải đẻ, huống gì con Hương có tiền. Nó xấu nhưng kết cấu của nó đẹp. Ông đừng có mà….
Mỗi lần vợ “sai” tôi qua Hương mượn chút ít tôi sợ lắm lắm. Hãy nghe:
– Anh biết không, con gái em lúc mới sanh ra, có một sợi giây từ rốn quấn lên cổ của nó, sợi dây đó hiếm hoi lắm, ai được nó quấn sau nầy là ông nầy bà nọ, giàu nứt đố đổ vách đó anh.
Nghe tiếp:
Ba của con em đang ở Mỹ, ảnh nói sẽ gửi tiền cho con bé ăn học.
Vậy à?
Ảnh mới gửi về cho em một ngàn đô la Mỹ. Ảnh thương em lắm.
Cô Hương thật may mắn…- Tôi nịnh.
Đùng một cái Hương đau bụng. Tôi đích thân đưa cô lên bệnh viện, con gái cô vợ tôi chăm. Hương phải mổ. Phải chuyển viện. Nói chung là cần nhiều nhiều tiền. Lúc đó mới biết cô không đủ chi phí cho phẩu thuật. Nhìn cô ảm đạm quá tôi phải tập trung mấy tay đang là con nợ của cô (cả tôi luôn) hồi tiền lại để cô qua cửa tử mà nuôi con. Vẫn không đủ. Tôi diện nghèo, bà xã tôi được xã hổ trợ cho cái bảo hiểm y tế. Tôi phải khai gian với y tế cô là vợ, để cô được hưỏng đặc ân. Biết là gian dối, nhưng thây kệ.
May quá, mọi chuyện qua. Nhờ có bảo hiểm, thẳng tay chắc Hương phải bán cả nhà. Thoát tay thần chết, Hương nói với đầu trên xóm dưới rằng:
– Bảo hiểm chỉ tính có hai mươi phần trăm mà em tốn hết năm mươi triệu. May mà có mấy đồng đô ba con gái em gửi về , nếu không em chết chắc.
Thật là tình. Đồng ý có cái giá năm chục triệu, nhưng cô chỉ tốn có hai mươi phần trăm trong số đó. Cô nổ với thiên hạ chả nói làm chi, lại xạo với chính vợ tôi.
Vậy thì có sợ không người hỡi?
Cũng có người ương bướng, không vì tiền mà ba phải như tôi. Họ độp thẳng vào mặt Hương, thậm chí còn nói bà quăng lựu đạn vừa vừa, nổ banh xác thiên hạ hết. gặp những người đó Hương tắt đài, chỉ có tôi là cô tha hồ trút.
Tôi nghĩ suy và ngộ ra những người ấy vốn dốt nát, bất tài nhưng luôn muốn thể hỉện mình. Khoe khang để người khác ngưỡng mộ. Có sợ, nhưng tôi tội nghiệp họ hơn. Những loại ấy cũng dễ trị, ta có thể đánh trống lãng nếu nhu nhược không dám thẳng vào mặt họ.
Loại có học, có tiền mới kinh hồn. Tôi đi xây dựng cho một tay thầu, anh có Card-visit là Kĩ Sư, thầu những công trình tầm cỡ, dưới trướng trên trăm công nhân. Trừ xây dựng anh còn là một nhà thơ. Anh ta gom đâu chừng năm chục bài in thành tập cả nghìn bản trên giấy tốt để tặng anh em. Bọn vôi vữa chúng tôi đứa nào cũng có. Thứ bẩy anh tụ cái hội của anh lại để ngâm ngợi những thơ ca hò vè, và ăn nhậu. Không hiểu sao tôi ngu độn đâu biết gì thơ thẩn vẫn được anh mời, có lẽ tại cái ba phải chi cũng khen, chi cũng gật gù, nên anh mến tôi chăng?
Hội thơ của anh Kĩ Sư kiêm Thầu Khoán đủ nam nữ. Men bia vào, ai cũng ngâm ngợi, ca hát, và khen nhau. Tôi đọc thơ, nghe bạn bè tụng anh là thi sĩ, tôi cũng phong anh lên hàng ấy. Kệ đi, ai thích chi tôi cho nấy, không mích lòng là được rồi. Nhưng thơ anh chỉ xà quần trong hội, và cái hội không quá chục nhân mạng. Lí do? Anh bảo:
Anh biết không, tôi có gửi cho mấy tờ báo lớn, nhưng họ không in.
Sao vậy anh?
Thầu Khoán trầm ngâm:
– Nói chung, họ không nhìn thấy ý ẩn trong thơ tôi. Thứ nữa, muốn in trên báo ta phải quen biết, bằng không anh gửi đến họ vứt vô sọt rác hết, vì thế nên tôi bỏ tiền ra tự in ấn để lưu giữ cho con cháu về sau.
Sợ mình ngu không hiểu được ý ẩn như anh nói, tôi về lôi tập thơ nghiền ngẫm lại. Quả tôi ngu thật, không lôi ra được ẩn ý, liền lôi ra ru cháu nội mong ngộ ra khi đọc lớn. Đến câu tuyết rơi trên cánh đồng. Vợ tôi hỏi:
Thơ của ai vậy?
Của anh Trúc Tuệ.
– Ở đây hai mùa mưa nắng, mùa mưa còn nóng hơn mùa hạn, đồng khô cỏ cháy, tuyết đâu mà rơi, toàn bậy bạ không à, ông ru thằng nhỏ vậy ba bữa lớn lên nó cũng xạo cho ông coi.
Vợ tôi giật tập thơ trong tay tôi lướt qua vài bài rồi vụt vô xó nhà:
Vầy mà ông đọc được, kể cũng rảnh dữ à.
Rồi cô nhặt lên lại:
– Sách đẹp vầy, bỏ ra chắc nhiều tiền lắm đây. Tôi cũng không hiểu tại sao người ta lại cấp phép cho cái loại thẩn thơ như vầy, và cái ông nhà xuất bản cũng vì tiền quá lắm. Tiền in tập thơ nầy để cho mấy đứa ăn mày như tôi và ông còn có ý nghĩa hơn.
Thật đáng sợ.
Nhưng sợ nhất, chưa phải là là xạo, là dóc tổ. Sợ nhất là lới hứa.
Hứa mà lèo, nó hơn cả ma quỷ, là chúa xạo. Thực vậy.
Trước mùa bầu cử, các Ứng Viên long trọng rằng:
– Tôi đã từng…Tôi đã là… tôi đã… đã… đã và đã, nếu được bầu vào… tôi sẽ…sẽ… và sẽ..
Sau đó thì mèo vẫn cứ là là mèo.

NGUYỄN TRÍ

NHÃN TIỀN

nguyentri

Cáp Diệp mất con bò Nu ngoài ba tạ, trăm phần trăm cư dân ấp Sông Trầu chắc nụi thủ phạm là cha con Tư Tấu. Không ai vô, họ tin thế. Nhưng Cáp Diệp không tin:
– Lúc bầy bò đi ăn về tôi và Tư Tấu đang nhậu ở quán Tài Rùi…
– Thôi ông im đi cho tui nhờ – Bà Diệp hét lên – ông lúc nào cũng chỉ ba giọt rượu…
Diệp già im thít. Lại đội áo mưa đi kiếm tiếp. Cả hai tiếng đồng hồ, bốn đứa con, bà vợ cùng một lốc anh em xóm giềng xúm vô lục tung mấy cái lô cao su tìm cho ra tăm tích. Nhưng mà thiệt hay, con bò như ông khổng lồ bốc hơi không tăm dạng. Trộm kiểu nầy thì quả là thần khốc quỷ khấp, giữa ban ngày ban mặt nữa mới chì. Và ai cũng nghĩ đến cha con Tư Tấu:
– Bà má nó – Tư Rừng lên tiếng – Tao quá rành thằng Tấu. Nó rủ thằng Diệp nhậu, trời mưa, đi chăn bò lạnh thấy bà nội có rượu uống, có bạn tâm sự tao còn uống nói chi ai. Nó nhậu nhưng hai thằng con trai ra tay. Bây hiểu hông?
Nhưng mà con hỏi chú dấu đi đâu trong cái khu dân cư nầy?
– Vậy mới là Tư Tấu. Mấy vụ trước đây không phải cha con hĩa(1) đem tao chặt làm ba khúc lấy cái đầu cho bây ngồi chơi. Dấu đâu hả? Tụi nó có âm mưu, chỉ một chiếc xe tấn rưởi đậu đâu đó là con bò ra tới miền campuchia luôn. Trong khu dân cư nầy xe ra vô hà rầm, ai hơi đâu mà để ý, hiểu hông mấy ông nội?
– Chú nói như là có tham gia.
– Tham cái bà cố mày.
Cuộc truy tìm đến tám giờ tối thì ai về nhà nấy. Cả gia đình họ Cáp cũng giơ tay xin hàng. Thật là muốn ói mật, con bò hai mươi triệu ngoài, cả một đời dành dụm, ăn nhín nhịn thèm, nay bị mất quả là tức, giận, hận dồn một nùi vô cả gia đình nầy. Bầy con thì chả nói chi chứ vợ chồng Cáp Diệp khóc ra cả biển nước chứ không ít.
Trời ơi, ai chứ Cáp Diệp và vợ đến con bò còn sướng hơn. Được mấy sào đất làm không nên ăn Diệp phải nhờ vô bò, bò cũng nuôi rẽ của người ta mà ra. Ngó vậy chứ con bò đến cái chất thải của nó cũng là tiền. Bao năm trôi qua, từ thuở hồng hoang của ngày còn trẻ đến nay ngoài sáu chục. Vợ chồng Diệp nào biết chi đến hai từ thong thả. Tất cả đều phải dụm dành vì tương lai bầy trẻ. Không có cái đận nhà nước thu hồi đất làm đường, thì Cáp Diệp dễ chi có cái nhà đàng hoàng mà ở như hôm nay. Tuy ở khu dân cư nhưng Diệp vẫn cứ bò mà nuôi. Đất được chia ba trăm mét. Diệp làm cái chuồng trăm rưởi vuông chứa sáu con bò, chỉ sáu mà thôi, hơn là gã cho mấy lò mổ, ai cần nghé Cáp ta chu cấp liền. Mấy thằng chơi kiểng khô kiểng ướt đặt hàng cho Diệp hàng tấn phân khô một lần. Thu nhập tuy bạc lẽ nhưng bầy con Cáp Diệp cũng ngon lành, đứa nào cũng xong cấp ba… Nếu không có cái kiểu sống đãi cứt gà lấy tấm dễ chi được vậy.
Vậy mà mất con bò thì ói mật là đúng quá.
Và khi cơn tức chận ngang bộ ngực già nua lép kẹp thì chả ai ngủ được cả. Cáp Diệp cứ ra vô lên xuống trong cái phòng khách mà chép miệng. Dám lắm – Diệp nghĩ – Tư Tấu gài mình uống rượu, hai thằng Hải và Hà con trai Tấu ra tay. Nhưng mà nó dẫn con bò đi đâu? Mấy lô cao su quanh khu dân cư đã được cày nát. Giữa ban ngày ban mặt, không người nầy thì người kia phải thấy chớ. Còn xe? Nếu có thì dấu bánh phải có, trời mưa dấu chân chuột còn thấy nói gì cái khác. Vậy con bò bốc hơi đi đường nào? Tức, cha chả là không chịu nổi.
Nghi cho cha con Tư Tấu, cũng không chắc. Vì sao? Vì lúc kiếm bò thì thiên hạ thấy anh em Hải Hà đang ngồi trong quán Cờ Tây nhâm nhi ba sợi. Tụi nó nhậu còn ai đi trộm? Bộ có phép phân thân à? Nhưng Tư Rừng nói:
– Cha con thằng Tấu ăn trộm có nghề, thấy vậy mà không phải vậy đâu. Tin tao đi, ba đời ở xứ nầy, tao rành dòng họ Tư Tấu thuở còn nhà lầu năm tầng chứ không phải ra cái thân xơ xãi như ngày hôm nay đâu… À mà khoan…
– Khoan sao chú?
– Tụi bây có kiếm chỗ cống hộp trên đường mới chưa?
Rồi. Có thấy chi chú ơi.
– Vậy là tao cũng xin thua, thật ra cả cái xã nầy, phía chính quyền cũng biết Tư Tấu là cha của Đạo Chích nhưng bó tay vì không quả tang. Cha con nó còn hơn cả Thời Thiên trong truyện Thủy Hử nữa
Gặp tui, tui lôi lên phang cho một trận là lòi ra hết.
– Mày nói chuyện như hài, có bắt được đâu mà phang với đấm. Bộ tưởng dễ đánh người lắm sao? Mà thôi, xem như Cáp Diệp mất hai chục triệu, và chính quyền xứ nầy bị trộm vuốt râu. Tao dzề à.
Còn sớm mà chú… kể chuyện Tư Tấu tụi con nghe chơi xí được không?
***
Tư Tấu hả?
Rằng ông nội Tấu tên Tiền cha của bầy con trai có tên Tính, Tinh, Tình, Tịnh. Tịnh là cha của Tấu. Còn có một một bà cô tên Tâm. Họ giàu nhứt xứ. Sự giàu có bắt nguồn từ cái nghèo rớt mồng tơi mà ra.
Ông Tiền cùng bầy con tha phương đến xứ nầy. Tạt vô một góc rừng cất cái chòi ở tạm, kiếm sống bằng nghề ve chai lông vịt. Vợ chết trên đường lưu lạc. Năm đứa con như năm cái tàu há mồm, Tiền ra hết sức mà mấy cái bụng vẫn cứ ỏng eo. Nhìn qua rất chi tội nghiệp, nhưng bà con ai cũng khó nên thây kệ cha con bây. Ai đó tới chòi rách tặng cho cái chép miệng cám cảnh là quý hóa lắm rồi. Con Tâm là chị lớn, uy lắm, nó trị bầy em như nữ tướng, chẳng thằng náo dám cà cháo với bà chị tuổi Dần.
Có một chuyện mà cả ba quân cười chết bỏ và có rất nhiều người chứng thực. Một hôm ông Tiền lôi cả bầy con đi lượm xương bò, lục nát bấy thùng rác mấy quán phở, hủ tíu… đến tận lò bò, lò heo tận thu xương. Gom thành đống, thôi thì nó thúi inh trời đất, dân tình chửi như nước lũ tràn bờ. Sau đó xe và lái tới cân. Lúc nầy dân tình mới biết xương cũng có tiền, xúm vô hỏi, Tiền cũng thật thà nói người ta thu đủ thứ xương để nấu cao. Lái xương thông báo cho bà con cứ gom đống họ sẽ mua. Vậy là cả xóm bỏ việc đi lượm. Chả hiểu họ truy ở đâu mà nhà nào cũng một đống không to thì nhỏ, lần nầy chả ai than thở chi vụ thúi tha. Chỉ có mấy đứa con gái tha hồ ụa, vì dòi ngo ngoe lổm ngổm trên đống xương nhìn mà kinh tâm, rởn gáy.
Sau đó dòng sông chảy qua ấp Sông Trầu phải chịu trách nhiệm nuốt hết xương bò. Bà nội cha nó – họ chửi – chửi cũng phải thôi, bọn lái một đi không trở lại, lúc đó mới nghe nói tụi nầy tính màn nấu xương bò ra cao hổ nên thất bại. Vụ nầy ai chăm chỉ chừng nào thua lớn chừng đó. Gia đình ông Tiền đậm nhất vì có kinh nghiệm đi lượm xương. Ông Tiền nghèo nên khôn lắm, vô luôn trong lò bò phụ việc lấy thù lao là xương bò. Kha kha kha… nghe buồn cười chết bỏ.
Cốt khỉ nên chả có chi đáng lo. Ông Tiền lại vươn vai kiếm sống. Nhưng ông chủ lò bò lại đến nhà tìm Tiền để nhờ giúp việc, lương lậu hẳn hoi. Thấy hoàn cảnh Tiền bi đát quá, liền lôi cả bầy về cho ngụ một gian trong lò. Bầy trẻ mừng lắm, đang cạnh mí rừng nghe cú kêu sợ chết bà nay vô tường gạch ấm áp gì đâu.
Ông chủ khỏi luận chi cái vụ giàu, chả hiểu ông ta nghĩ sao có một đứa con gái mà lại chơi một căn năm tấm. Đứa con gái tuy đẹp nhưng suốt đời đội tóc giả, không phải cô cầu kì mà vì cái đầu không một sợi tóc. Thiên hạ nói nhỏ nhau nghe rằng cái nghiệp nầy nó vậy đó… Đó là đó làm sao? À… kiểu như ăn mặn khát nước vậy mà… Lại thêm rằng ông chủ nói, ai chịu lấy con ổng làm vợ ổng cho nguyên cái lò bò. Năm đó Tịnh cha Tấu mới mười sáu, còn cô chủ đà mười tám. Chả hiểu ra làm sao mà cô cậu yêu nhau. Chắc là lửa gần rơm nên bén. Vậy là anh làm thuê tên Tiền thành sui gia với ông chủ lò.
Cả hai đẻ ra Tấu, duy nhất Tư Tấu vì hai ba không nuôi được. Đẻ tiếp thì cô vợ tóc giả mất vì hậu sản. Ông chủ lò buồn tình ôm cháu ngoại làm ba sợi sương sương, vấp chân té đập đầu vô tường, máu mồm chảy như suối, bệnh viện chào thua vì động mạch chủ bị vỡ. Đã cao huyết áp mà còn dộng rượu vô thì thánh còn chết nói chi người.
Tịnh nghiễm nhiên là chủ lò.
Dưới sự điều hành của ông Tiền và cô Tâm, lò bò dười thời ông chủ Tịnh cực kì rực rỡ.
***
Sự giàu có của gia đình ông Tiền còn dững dừng dưng hơn cả truyện Chum vàng bắt được. Đúng nghĩa của trên trời rơi xuống. Không đúng sao? Người ta mời ông tới nhà, kết tình sui gia rồi lăn ra chết giao cả cơ ngơi cho ông, thiệt là nhẹ hơn bấc, không làm sao mà luận cho ra. Dễ như làm một con bò vậy.
Thật vậy. Một con bò cả hai tạ ngoài, dềnh dàng vậy mà ông Tiền nhoáng không quá mười lăm phút là gọn. Con bò khi chết không biết đau đớn là gì, với một cái búa hai đầu tròn, tục gọi búa củ tỏi, cô Tâm xách vàm mũi lên, gõ nhẹ vào tam tinh, ngay lập tức con bò sụm gối. Kĩ thuật nầy chỉ một mình cô Tâm là siêu đẳng. Những con bò thiến bị lại dữ dằn khét tiếng, chả hiểu làm sao đứng trước mặt cô là rúm ró, tay búa vung lên, bò chưa kịp sụm gối thì lưỡi dao phay trong tay ông Tiền đã vào tim, huỵch ra đất là xong cái vụ tiết. Thiên hạ nói nhiều về cái uy của cô Tâm lắm, có lẽ vì vậy nên tuy giàu có, nhan sắc không đến nổi tầm thường mà cô lại chết trong cô đơn, đã uy lại tuổi dần nó thế.
Quăng lưỡi dao phay, ông Tiền cầm lưỡi dao rọc. Nó nhọn hoắt và bén như nước, loại dao nầy hơn cả dao xắt thuốc của xứ Cao Lãnh. Ba thằng con Tính, Tinh, Tình phụ nắm tấm da cho cha rọc. Không quá năm phút là xong, ra thịt thì khỏi chê, một cục xương quăng ra bảo đảm con chó ngửi rồi bỏ vì chả có còn chi mà liếm láp. Từng loại thịt được xếp vô cần xé. Tịnh, với tư cách ông chủ sẽ đánh xe ra chợ và thị trấn. Da bò được quăng vào một bể nước muối, cứ mươi, mười lăm tấm là những cơ sở thuộc da sẽ mang đi một lần. Mỗi sáng lò cha con ông Tiền hạ thủ hai chú bò, và trên dưới chục chú trư. Làm ăn vậy mà không giầu thì làm chi?
Cái ngon lành nhất của một lò mổ là mua của bọn trộm. Người ta thả bò đi ăn ngoài mông quạnh. Chỉ cần chủ ý một tí là có thể ung dung dắt một con lẫn vào rừng hay vào một nơi kín đáo nào đó rồi chờ đêm xuống. Những con bò nầy ông Tiền mua với giá rẻ hơn bèo. Một loại khác cũng bèo là những con đã sức tàn lực kiệt hay bệnh tật. Chủ dắt đến năn nỉ hết phép Tiền mới hạ cố mua cho. Một thứ khác là thịt đã ra thành phẩm của bọn trộm, chúng đưa tới cả cần xé nhờ lò bò giải quyết… Nói chung nghề nghiệp chi cũng có cái gian manh của nó. Và dưới trần gian nầy cái gì mà thiên hạ không ăn? Có câu vè rằng thợ may ăn vải thợ hồ ăn xi măng, đồ tể thì ăn thịt nhưng chủ lò sát sinh thì uống luôn cả máu của ta bà nghèo chăn nuôi.
Ông Tiền sinh ra lớn lên trong nghèo khó. Một thứ dân cấp phó. Phó dân Tiền và bầy con kiếm cái ăn đà chết lên chết xuống. Mắt luôn ngó xuống đất, lâu lâu ngước mặt nhìn đời thấy kẻ ăn trắng mặc đẹp đều dân có chữ múa cây bút mà ra tiền. Vẫn biết một chữ đáng giá ngàn vàng, dù không chức phận cũng nhàn tấm thân. Nhưng cha con ông Tiền đâu có cơ hội. Thôi thì kẻ có trí bán trí mà ăn, ta không có thì bán sức vậy. Đùng một cái tất cả hóa thành chủ, tiền bạc vô như nước. Chữ nghĩa không mảy may tham gia vô sự giàu có của gia đình nầy. Tuy không hò reo mừng rỡ, nhưng họ biết giải tỏa nổi niềm khi chén chú chén anh, cái nghề ngập ngụa trong máu đỏ, khiến họ uống thôi là uống. Đảm bảo Võ Tòng cả Lỗ Trí Thâm chả dám tạc thù, mấy thằng rượu cỡ Lệnh Hồ Xung hay Kiều Phong trong kiếm hiệp của Kim Dung là đồ bỏ.
Cả cô Tâm cũng làm một li trước khi vung cái búa củ tỏi vào tam tinh chú bò. Cô sợ ư? Vâng, sợ. Đôi mắt của loài vật nầy vốn to, tròn và u buồn rất chi tội nghiệp. Khi cô Tâm xách vàm mủi giơ lên cao, biết chết nên nước mắt nó ròng chảy, chúng luôn ụm bò bi thiết trước khi đầu củ tỏi vô tam tinh. Quen tay và lạnh lùng như đá cục cỡ ông Tiền mà còn tu ừng ực trước khi vung dao vào cổ họng con bò. Để tránh cơn hãi sợ với nghề. Họ dùng rượu làm bạn.
Trước khi ra tay. Rượu. Hoàn tất, lại rượu cho tới bến. Tỉnh giấc lại tiếp tục, đứa đi bắt heo, thằng đi xem con bò, con trâu ở a bê chi đó kêu bán. Tối lại cùng nhau trên bàn rượu. Cứ vậy hết ngày dài rồi lại đêm thâu. Ngày qua tháng qua năm qua. Thiên hạ hỏi:
Sao mấy thằng con ông không thằng nào lấy vợ vậy ông Tiền?
Kệ mẹ nó, chuyện gì đến nó đến ông ơi.
Còn lâu chuyện mới đến. Vì sao?
Khi rượu thấm vô tim gan phèo phổi và hòa cùng máu lưu thông trong cơ thể, thì đảm bảo cái vụ giường chiếu là đồ bỏ. Người ta dùng rượu để hoàn thiện cái vụ kia, uống hoàn thiện và uống bất thiện khác nhau như nước với lửa. Chuyện đàn bà khi thích thằng trai mới tìm đến, không một kẻ nghiện rượu nào trên trần thế nầy cần đối tác. Rượu hủy diệt bản năng, chắc chắn thế.
Với ông Tiền chả quan trọng chi vụ nối dõi tông đường. Nghèo trong cốt đó không là vấn đề, với lại út Tịnh cũng có thằng con trai ngon cơm rồi. Thêm cái ngon thứ hai là trong khi ai cũng như hủ chìm thì Tịnh tuyệt không, dù một giọt. Anh ta ung dung cầm lái chiếc Daihatsu. Cái thời mà ai có của, được chiếc Lambro 550 đạp hộc gạch mới bành bành bành mà tới là xem xem thiếu gia. Tịnh đề nhẹ là máy nổ, êm ru bà rù mà tới luôn bác tài. Có câu một trăm lời nói không bằng làn khói Daihatsu. Vợ chết Tịnh có liền một người đẹp nhảy vô thế chỗ. Em chả cần cưới xin chi ráo. Vớ được cái hủ vàng ngu sao làm giá, nó đổi ý là vong liền.
Tịnh dẫn cô vợ về nhà cũng chả ai kêu rêu. Kêu cái gì? Ai có việc có phần nấy. Cả Tư Tấu cũng chả quan trọng mẹ ghẻ con chồng. Cái phòng của ba nó ai muốn ngủ thì ngủ mắc chi đến nó. Bà hai cũng chả dám động chi Tấu. Cặp mắt nó lườm lườm nhìn thấy ớn. Thôi yên cho xong. Tịnh quý vợ mới lắm, em muốn chi anh chiều nầy. Tịnh ra chợ mua cho người đẹp một chỗ trong sạp thịt, cả cây vàng chứ không ít. Còn thịt thì ngày nào Tịnh cũng giao cho vợ cả tạ. Vợ cứ thế mà ung dung thu tiền. Chị Tịnh nổi tiếng khắp chợ về nết hào phóng, chị cho bên nầy, đãi bên kia. Uy tín lắm lắm nên khi vợ Tịnh ra tay cầm cái hụi là chị em hùa theo xin góp của. Đúng là tiền đẻ ra tiền, không tiền đẻ ra nợ. Có tiền nhưng cha con ông Tiền chả ham hố chi sang cả, chỉ riêng một Tư Tấu khỏi chê cái vụ xài. Thích một con chim đội mũ, còn gọi chào mào đỏ đít Tấu bỏ ra cả năm chỉ vàng để có cho bằng được. Chơi chán Tấu quăng lồng ra cho con mèo đùa chơi.
Tấu cũng được đi học đó chớ, nhưng con nhà giàu, giàu quá, thêm cái gia đình mà chữ nghĩa là một cái gì đó xa xôi, đâu ai quan tâm đến sự học. Tấu lại khoái ông nội lột da bò và ra thịt, sáng nào cũng thức sớm xem cô vung búa, nội vung dao. Ông Tiền chỉ một thằng cháu nên cưng lắm, cho mày chơi mút mùa lệ thủy. Tấu la cà với giới thương lái bò lậu, những kẻ mà đêm đêm đi rình rập nhà người cùng những kĩ thuật bắt trộm heo, bò. Bắt mà không kêu mới gọi là thầy. Tưởng khó khăn chi lắm, ai ngờ dễ ẹc. Bọn trộm canh ke xong nhảy vào chuồng, chú lợn chưa kịp kêu thì miệng bao đã kề mặt, hít một hơi thì bao nhiêu tro bếp đã vào đầy phổi… bò thì chỉ cần một đụn cỏ tươi là vong mạng. Quan trọng là làm sao cho gia chủ ngủ yên, ngủ thật yên.
Bọn trộm gia súc lớn nầy bè lũ, phe cánh không ít. Có nghề và gan dạ mưu trí không kém ai. Chả hiểu ra làm sao mà giầu có, cơ ngơi hùng hậu vậy Tư Tấu lại khoái nghiệp nầy, khoái nên chơi cho thỏa chứ chẳng cần chia chác chi. Một thằng hoạn là sư phụ của Tấu trên bước đường hội nhập vào giới đạo chích. Thằng nầy ngây thơ ông cụ lắm, hắn la cà làng trên xóm dưới, thôn nầy ấp kia thổi cái kèn toe toe. Nhà nào cần thiến heo bò là ra tay kiếm tí tiền còm. Trong khi thiến hắn quan sát kĩ càng nhà gia chủ rồi thông báo cho đồng đội ra tay. Bọn chuyên sẽ đột kích vào nhà và làm sao đó cho gia chủ mê man. Bỏ thuốc mê vào lu nước sinh hoạt của chủ nhà là chiêu đắc dụng nhất.
Tấu chăm chú nhìn sư phụ hoạn lợn. Nào, gia chủ đâu, xách hai cái cẳng sau giở lên cao cho tôi. Chú heo eng éc inh ỏi khi lưỡi dao cau thọc vào hạ bộ lấy hai hòn nan của nó ra, một sợi nhợ nằm trong mũi kim khâu chớp nhoáng khâu lại vết mổ, hay nhất là lọ nồi, nó được bôi vô vết thiến để sát trùng. Ra cái thứ đen thui nầy là trụ sinh cho lợn đấy. Mỗi chuồng heo khi hoạn ít cũng mươi con. Hai mươi hòn nan ấy ông thầy hoạn làm một đĩa để nhâm nhi cùng ba xị đế.
Thiến trâu thì không vậy, công cán bằng hai mươi lần thiến heo vì khó và mệt lắm. Công việc nầy một mình là không thể. Những con trâu tới thì động, chúng dữ dằn hung tợn không tưởng được. Nhưng con nào tốt đẹp sẽ được giữ để làm nhiệm vụ truyền giống, con nào xấu một nết thì phải chấp nhận cày kéo cho hết kiếp. Người ta hủy diệt cái hung tợn bằng cách lấy hai hòn nan của trâu làm thức nhấm nhậu chơi. Thứ nầy với loài người là đại bổ.
Người ta cột chặt bốn chân trâu vào bốn chiếc cọc được đóng thật chắc chắn. Một đòn dài hai mét, đặt lên cần cổ và sẽ do hai tay thanh niên lực lưỡng ghìm xuống thật chặt. Đến lúc ấy thầy hoạn mới ra tay. Lưỡi dao cau ngọt như nước rọc nhanh vào bìu, hai hòn nan được lấy ra. Vết mổ sẽ được khâu lại bằng dây cước và cũng được bôi lọ nồi. Khác với con heo khi thiến xong được quăng vào chuồng, bẩn thỉu chi cũng mặc. Con trâu thì không vậy, sau khi thiến nó sẽ được nhà chủ luân phiên dẫn đi, trâu nằm xuống bị nhiễm trùng hay bục chỉ là vong mạng. Họ sẽ dẫn đi chí ít ba ngày đêm ròng rã, có thể hơn, khi nào vết thương lành chú trâu mới được quyền nằm.
Nhưng để hoạn một con bò thì không vậy, nó khó hơn bội lần. Có câu yếu trâu hơn mạnh bò. Con trâu lấy hai hòn nan của nó, nhưng vẫn cứ là trâu, cày bừa hay kéo đều uy phong lẫm lẫm. Bò thì không vậy, một đực bò sau thiến sẽ hóa một mụ bò vô dụng. Bò cái thì còn đẻ và cho sữa, kẹt còn có thể móc ách vô đi kéo đi cày. Còn gã bị thiến thì chỉ biết ăn và cuối cùng bán cho lò mổ. Vậy nên khi thiến bò thầy hoạn phải làm sao cho gã bị thiến phải lại.
Đó là một tuyệt kỹ. Nếu lấy hẳn hai hòn nan ra khỏi bìu thì ai cũng làm được, miễn xem chuyện tanh máu là thường. Nhưng làm sao để lại? Và phải lại đủ để không thèm cái vụ truyền giống, gã bị thiến phải uy và mạnh mẻ như… trâu mà phục vụ cho lợi ích của con người. Muốn được vậy phải là sư hoạn thượng thừa. Thiến bò phải có đồ nghề loại đặc biệt. Rất ít người mục kích nói chi biết bộ đồ nghề nầy.
Một cái đe bằng gỗ, tầm cao từ sáu đến bẩy tấc, sao cho khi đặt giữa hai chân bò thì hai hòn nan phải nằm gọn trên đe. Một cái búa gỗ và mũi ve (đục) cũng bằng gỗ. Hoạn dùng vải bó chặt nan bò rồi dùng búa gõ nhẹ vào đầu mũi ve chung quanh cuống của hạ bộ. Con bò không thể động đậy vì bốn chân cũng bị cột chặt và cổ bị vít xuống như khi thiến trâu. Nó phì phì thở để chống lại đau đớn mà không thể kêu la. Lí do? Đơn giản muốn kêu thì phải ngước, nay cổ bị vít xuống thì làm sao kêu? Hoạn vừa dùng tay lắc, vừa ghè búa… Hai mươi phút đi qua, sự đau đớn đủ để con bò ba ngày sau không thể đưa cái lưỡi liếm mật đường trộn cám. Răng thiếu điều rụng vì đi qua khủng khiếp. Và một tháng sau chủ nhân mới có thể biết con bò có bị lại hay không mà thanh toán tiền công cho Hoạn. Nếu lại, hoạn sẽ hả hê, còn không chỉ một chầu nhậu là hết. Nghề nầy phải kẻ cùng đường mạt vận mới theo vì ai cũng cho nó thất đức vào bậc nhất. Ba Me – người Tư Tấu gọi thầy – là một loại sư hoạn có tên, lừng lẫy lắm nhưng mười con đực vào tay nhiều lắm là sáu em lại hồn. Cho hay rằng thiến để lại một con bò không hề dễ:
Tư Tấu hỏi thầy:
Sao lại dùng đe búa bằng gỗ vậy ông Ba?
Mày có biết người bị hoạt tinh không?
Không. Sao?
– Hoạt tinh là khi bị xúc động mạnh tinh trùng sẽ tuôn ra như khi làm tình. Bệnh nầy rất nguy hiểm vì làm tiêu hao nguyên khí của con người. Muốn trị nó phải đông y và một vị không thể thiếu là Hà Thủ Ô Huyết, khi khai thác người ta phải dùng dao, hay vật nhọn bằng gỗ để đào. Thiến bò muốn lại phải sử dụng mọi thứ bằng gỗ, và chỉ duy nhất loại gỗ Tung mới được… Mọi thứ khác là thất bại. Hiểu không?
Ai bày ra vụ này vậy ông?
Tao đách biết, thầy tao biểu sao tao hay vậy. Xưa giờ vậy.
Tư Tấu theo Ba Me gọi thầy. Gã hoạn heo được xưng thầy khoái lắm, có bao nhiêu ngón truyền hết cho trò. Trò con nhà giàu nên vung tiền cho thầy bớt cảnh lầm than. Ba Me ba đời vợ nhưng không con. Mụ nào bá vô Me vài năm là dông tuốt kiếm cái hậu duệ khi về già. Thiên hạ nói Ba Me làm nghiệp hủy diệt mầm sống thì không sự sống nào theo. Me cười:
Bà nội nó… tao không làm, ai làm?
Tư Tấu nghe có lý nên làm luôn. Khi Ba say không cầm nổi dao cau hoạn lợn đã có trò Tấu. Tấu làm nhanh gọn và đẹp hơn thầy nhiều. Riêng cái thiến bò thì về sau Tư Tấu danh qua mặt thầy. Mười đực vào tay Tấu là mười em hoàn hảo. Việc nầy nhờ rất nhiều vào cái chết của ông Tiền. Một cái chết cực ngoạn mục.
***
Chết sao mà ngoạn mục hả chú Tư?
– Khì khì…là vì sau khi ông Tiền chết nó kéo theo một lô một lốc những cái bi thiết khác trong gia đình ổng.
Con nghe kể ổng chết thảm lắm hả.
Cũng chả thảm đạm gì, nhưng mà kì lạ.
Ông Tiền ngụ trên tầng năm của căn nhà. Trong gian riêng nầy là nơi thờ phượng của bà vợ, vợ chồng ông sui và cô con dâu bạc mệnh. Ông Tiền thường ngủ trưa ở đây.
Căn lầu nầy có ba cái lỗ thông gió hình tam giác. Ngày xưa thợ làm vậy để thoáng khí. Hôm đó là tháng giêng, trời oi bức kinh khủng, ở xứ nầy thời tiết vậy cũng chẳng ai lấy làm lạ vì nó vốn vậy. Bổng nhiên gió ào ào kéo mây đến làm đen nghịt cả bầu trời và ầm ầm sấm động. Bầy con nít hò reo mừng mưa trái mùa, nhưng mấy ông già lắc đầu, rằng không mưa đâu, sấm trước thì không bao giờ mưa… Rồi trong tiếng rền rền một luồng chớp lóe lên sáng rực, giáng xuống ngay mấy cái ô tam giác. Luồng sét đánh nát một góc lầu. Ông Tiền lảnh trọn.
Mấy ông già nói thiệt hay, gió lại ào ào thổi tan mây và bầu trời xanh trở lại.
Tính, Tinh, Tình, Tịnh khiêng cha xuống lo hậu sự. Nhìn cái xác khô khốc và đen thui bởi sét thiên hạ táng đởm kinh tâm. Họ xì xào to nhỏ về cái quả của nghiệp đồ tể. Thiên hạ nghĩ cũng kì, thêm thắt toàn những tích cũ đầy mê tín dị đoan. Con trâu, con bò, nói chung tất cả các loại con, nuôi mà không ăn thịt thì để mà tế à? Không giết thì nó ăn luôn mình chứ đừng có đùa. Nói ác thì quý ông bà đừng có ăn, nhất là mấy bợm nhậu xơi cả bò tái, có cha đòi cho bằng được hà nàm(2) của bò, chứ heo thì nghĩa địa gì.
Thiên hạ nói vậy mà không chừng trúng đó nghe. Sau cái chết, tai họa bắt đầu ập đến ngôi nhà nầy. Bắt đầu là chị Tịnh bị vỡ hụi. Bọn em út hốt xong là xù. Xù chứ không dông. Chúng không đóng mà còn nhơn nhơn cái mặt kiểu tao không đóng làm chi tao. Để dằn mặt chị vung tiền ra thuê du đãng chém kẻ nào dám ngang ngạnh. Thằng du đãng ngu như bò làm ăn sao để bại lộ, trốn không thoát bị cảnh sát hốt cốt, nó khai do chị Tịnh thuê làm. Cảnh sát lôi chủ Tịnh lên, muốn yên thì chung. Bằng không con dại cái mang, chồng hoang vợ chịu, nay vợ làm chồng phải lo. Tịnh bỏ tiền ra đền bù cho người bị hại, chung chi thiệt đậm cho cả cuộc trưởng cuộc cảnh sát quốc gia, còn không họ đóng cửa lò bò, vì tình nghi trong lò có chứa việt cộng. Mẹ ơi, súng nói thì khỏi cãi. Chị Tịnh được thả về, canh me ôm mớ tiền rồi bay cái vù. Cái dòng rỗ rá cạp lại, không do tình nó vậy.
Tư Tấu phải thay ông nội việc thọc tiết, rọc da, ra thịt tất cả các loại con. Đúng là ông nội truyền cháu nối, Tư Tấu danh trấn ngay tắp lự cái sự vụ thiến bò. Khi lột cái bìu để lấy trứng làm mồi nhậu, Tư Tấu lĩnh hội được chiêu thức thiến bò làm sao để lại mười con như một. Chiêu nầy Tấu sẵn sàng nói bí quyết cho tất cả nhưng không ai làm được. Tấu cười:
– Chỉ có mổ bò thường xuyên mới biết. Trong mấy cái dây gân níu hạ bộ phải biết sợi nào là ống dẫn tinh. Ai làm tê liệt ống đó là tiêu. Tao mổ bò thường xuyên nên biết. Mấy cha nội kia chỉ ăn may, còn tao là chính xác.
Tiếp tục đến mấy ông bác bị rượu giết. Ông Tính bị chết vì xơ gan. Ông Tinh bị bể mạch máu vì cao máu và ông Tình cũng chết nốt. Trong một năm ba con người ra nghĩa địa, nó làm cư dân Sông Trầu hốt thật sự. Kẻ bảo gieo nhân gặt quả, người nói ông Tiền chết nhằm ngày trùng nên lôi con cháu theo cho vui. Nhưng Tư Tấu cười khè khè:
Nhân quả cái cóc khô. Trùng tang cũng cóc chết luôn. Mấy ổng uống quá nên phải vậy.
Trẻ và rất khỏe. Sau cái điểm búa của bà cô, Tư Tấu ra tay một mình chả cần ai giúp. Mọi việc trong lò vẫn chảy, tuy có hơi lừ đừ một chút. Vì sao lừ đừ ư? Sau những biến cố long trời chủ Tịnh phải bán Daihatsu, tậu lại chiếc 67 để làm phương tiện giao dịch. Thịt bỏ cho mối mang đương nhiên phải hóa lừ đừ.
Nhưng lò ngưng hoạt động sau cái chết của chủ Tịnh.
Hôm ấy có người kêu bán một con trâu. Mấy vụ nầy, tình thiệt mà nói là mánh hời. Khi ta đi tìm, giá nào cũng phải chung, còn đối tác kêu là chắc chắn gia đình không bị nầy cũng nọ, ta có quyền chẹt. Kẹt quá chủ phải bán. Tịnh dong 67 cùng đối tác đến nhà.
Đường đến phải qua cả mười cây số lộ nhựa. Thời chiến xe nhà binh chở lính tráng chạy ào ào. Ba ông cộng hòa thôi thì khỏi chê cái vụ phóng nhanh giành đường vượt ẩu. Tịnh tăng tốc 67 để vượt qua một GMC chở đầy lính mặc đồ hoa mũ nồi xanh. Thằng tài thủy quân lục chiến cũng tăng tốc đua chơi, tay bán trâu kể lại:
– Tao tưởng theo ông bà rồi. Má nó… thằng Tịnh ngu như bò… Chiếc 67 bị cuốn vô gầm rê em xê… may quá tao bị hất ra, còn nó và chiếc xe nát bấy dưới lòng xe.
Đang hành quân, mấy ông cảnh sát sợ lính chết bà, đâu ai dám rảnh mà vi bằng hay ăng kết. Tư Tấu phải bò xuống gầm xe lượm xác cha. Tịnh bị bấy bá không thể nào ráp lại thành nhân mạng, hai cái chân bị kẹp giữa hai bánh xe, phải tháo bánh mới lôi ra mà bỏ vô quan tài.
Tư Tấu treo bảng bán nhà, tính kiếm tí vốn kiếm nghề khác làm ăn. Nhưng loại nhà nầy ai dám ở mà mua? Tính phải tiếp tục nghề giết và thiến… Đang lây lất qua ngày thì cái biến mùa hè đỏ lửa đến. Bên đánh bên giải tõa, một chiếc máy bay mang bom đi thả, và một trái rơi xuống lò bò. Cô Tâm có lẽ không biết mình vì sao mà chết. Lúc ấy Tấu đang thiến bò không có mặt, bằng không cũng không còn xác để ra nghĩa địa mà đoàn tụ cùng ông bà cha má.
Cuộc đời Tư sinh ra và lớn lên trong nhung lụa, tiền bạc như rác rưởi. Ăn chơi chả thiếu chi, may thay, Tư chơi và thân với bạch ốc cùng đinh nên khi tay trắng cũng đủ bình tâm mà bước tới. Tấu che tạm và vá víu một túp lều đủ cho mình và một gú, mẹ của hai thằng Hải và Hà. A ha, thiên hạ cười rằng:
Vậy là Tấu cũng có con trai. Bảnh thiệt.
***
Đến đây thì Tư Rừng kêu lên:
Bà nội mẹ ơi, mấy giờ rồi bây? Tao dzìa à, kiểu nầy mệt với bà xã rồi đây.
Một thằng trẻ bấm cái di động:
– Ái da… một giờ rồi. Tại chuyện nhà Tư Tấu ly kì, hấp dẫn quá… Ủa mà ai đi ngoài lộ giờ nầy vậy kìa?
Cả bọn nhìn ra đường, một thằng khác kêu lên:
Mẹ ơi… Ông Diệp, chắc ổng đi kiếm bò.
– Ê, Cáp Diệp – Tư Rừng kêu lớn – Vô đây cha, giờ nầy mà kiếm gì nữa. Bỏ đi, gầy con khác, ông còn năm con nữa mà.
Cáp Diệp co ro trong chiếc áo mưa, trông tội nghiệp làm sao. Những kẻ bị mất của luôn luôn có gương mặt của người di dự đám ma. Tư Rừng rót rồi đưa cho ly rượu cho bạn già. Cáp Diệp ực một phát, mắt nhìn ra đường. Có một bóng đèn của xe mô tô rọi sáng con đường ở hướng chùa Y Ngọc. Tư Rừng bật kêu lên:
Ê, tụi bây có kiếm chỗ miếng đất trống sau lưng chùa Y Ngọc chưa?
Rồi, lúc chiều ghé đó rồi chú Tư.
Tao nghi quá.
Nghi sao?
Tụi nó dấu con bò đâu đó rồi nửa đêm đi thịt sau chùa…
Dám lắm à – Một thằng hưởng ứng – Nếu không giờ này ai chạy xe hướng đó.
Mình xuống đó coi thử đi.
– Mày có bị khùng không? Tụi trộm liều chết mẹ, mình xuống đó tụi nó dám thọc luôn để đánh tháo à, lỡ suông đòn sao mậy?
Mày gọi điện thoại cho Công an Trường nói có trộm ở chùa là nó đến liền.
Mười lăm phút sau tay công an tên Trường có mặt.Tay nầy dạng săn bắt trộm có tiếng khu vực Sông Trầu. Chưa kịp nhằn nhò khuya khoắt đêm hôm làm mất giấc thì Tư rừng vỗ mạnh lên vai:
Mày coi kìa Trường?
Trường nhìn theo hướng tay Tư Rừng. Một ngọn đèn xe đang từ lô cao su chạy về hướng chùa Y Ngọc:
Gì vậy chú?
– Tao nghi bọn trộm xẻ con Nu của Cáp Diệp sau lưng chùa, chỗ bờ sông. Tao chắc tụi nó đang chuyển thịt đi tiêu thụ.
Dám lắm nghe… Ông để tui.
Nói xong Trường móc di động. Alô… Tao đây…. Mày xách xe chạy gấp xuống chùa Y Ngọc cho tao, tạm giữ bất kì ai lãng vãng xung quanh chùa. Tao lên liền… Mày kêu thằng Tâm trực thế nghe… rồi rồi, cứ vậy mà làm… ô kê.
Dưới sự điều động của Trường. Một mũi gồm ba em, một tập kích ngõ trước, một ngõ sau, ập vào bãi đất trống. Đèn pin loang loáng bật. Y như rằng, hiện trường còn cái đầu bò và tấm da. Đúng là cái đầu của con Nu. Cáp Diệp thẩn thờ:
Vậy là coi như tiêu.
Ông già ngồi ôm cái đầu bò thấy mà tộị.
Công an viên tên Trường thiếu cái văng tục:
Bà má nó… tao mà bắt được chắc tao cho bọn nầy ăn cù loi.
Nói vậy cũng như không. Quả tang chắc không đến lượt Trường. Bọn nầy đúng vuốt râu hùm. Trộm mà có nghề thì trời còn chết nói chi ba con cọp không vây. Thôi, chấp nhận thua cho xong. Tư Rừng an ủi:
Thôi thì chấp nhận ăn đầu bò Cáp Diệp ơi.
Một thằng trẻ lên tiếng:
Ủa sao hồi nảy tui nghe chú Trường lịnh cho lính xuống đây mà sao không thấy?
Đúng lúc điện thoại trong túi Trường reo lên:
A lô… Thắng hả? Tao đây… mày đang ở đâu?
Gương mặt Trình có vẻ căng thẳng qua cuộc gọi:
Có gì mà mày nghiêm như Bao Công vậy?- Tư Rừng hỏi.
Thằng Thắng nói có tai nạn trong lô ba ba. Mấy ông đi với tui vô đó không?
Đi thì đi.
Cả bọn lại kéo nhau vào lô cao su ba mươi ba. Đường lô đen như mực, không có đèn pin, đảm bảo chẳng ma nào dám vô. Tay công an tên Thắng đang đứng giữa đường, đờ rim xình xình nổ. Thấy có người Thắng lên ga và ánh đèn rọi sáng rực một gốc cao su. Ở đó là một chiếc honda 78c ngã ngang, trên ba ga là một giỏ cần xé. Một thân người, đầu chúi vô gốc cao su, chân vẫn nằm trong xe. Cảnh tường rất kinh dị và có máu chảy. Trường run giọng:
Sao vậy?
Tui cũng không biết. Anh biểu xuống chùa, mới tới đây thì thấy vầy rồi.
Mày có đụng vô cái gì chưa?
Ông nội tui cũng không dám… mà hình như…
Sao?
Hình như thằng Hà chết rồi.
Hà nào?
Hà con Tư Tấu.
Mẹ ơi…
Trường rọi đèn pin vào giỏ cần xé. Một giỏ thịt. Thịt bò. Nghĩa là tay nầy chở thịt bị va vô gốc cao su mà chết. Mà sao vậy ta? Thật khó hiểu… Trường gọi cho hình sự huyện. Bốn giờ sáng mọi sự được giải quyết êm xuôi. Cái xác đưa về nhà vĩnh biệt của bệnh viện cho pháp y xác định nguyên nhân cái chết. Tư Tấu và thằng con lớn tên Hải được triệu về công an xã để trả lời vài câu hỏi liên quan.
Ở quán cà phê, bà Tư Rừng bận nghe thời sự quanh vụ mất bò và cái chết bất đắc kì tử, đâu có thời gian mà nhằn ông chồng ham vui đi cả đêm không về. Một nhiều chuyện luận rằng:
Chắc chắc là mấy con ma lạc loài xô thằng Hà đòi mạng .
Ma cái đầu mày. Ma ra sao mày chỉ một con tao xem thử cái coi.
– Mày đúng là không trời đất thành thần gì ráo… Dòng họ thằng Hà tay vấy toàn máu, nay anh em nó cũng máu luôn, quả báo mày ơi. Nhất là cái nghiệp ăn trộm, không chết vì cái nầy cũng chết vì cái kia… Không tự nhiên mà nó đâm vô gốc cao su.
– Mày nói nghe không lọt tai, bộ mày hay tao hay tất cả mọi người ngồi đây không chết chắc? Còn chuyện nghề nghiệp, xứ mình giết con trâu con bò cho là ác, mày coi trên truyền hình, thấy trong lò mổ ở mấy nước châu âu họ giết lần cả trăm con bò, đâu có ai tin vô ba cái nhãn tiền này nọ. Tin như mày lấy đâu ra thịt bò đóng hộp mà ăn?
Vậy sao ở nhà không chết lại đâm đầu vô lô mà chết.
Chuyện lạc tay lái là thường thôi mày ơi.
Tư Rừng xen ngang:
Thôi yên đi hai ông thần nước mặn. Đợi đi, thằng Trường tới là biết liền.
Và Trường tới. Anh bảo rằng tội nghiệp Tư Tấu quá, nghe tin con chết ông ta rủ như tàu lá chuối khô. Khai sạch bách đầu đuôi chuyện con bò. Xã cho ổng và thằng Hải về lo hậu sự cho thằng Hà rồi tính tiếp:
Không sợ ổng trốn sao anh Trường?
Trốn đâu mậy?- Tư Rừng nạt – Cha con hĩa dấu con bò ở đâu mà thần tình vậy Trường?
Trong cống hộp.
Ủa, chớ sấp nhỏ kiếm ở trỏng rồi mà.
Đứng ngoài nghìn vô làm sao thấy chú Tư…
Hải và Tư Tấu đưa anh em dân phòng vào nơi dấu con bò. Đường cống hộp từ trong khu công nghiệp đổ ra lộ có mỗi cạnh cả hai mét. Cống phụ nối vô cống chính mỗi cạnh của nó cũng mét năm. Nước thải tuy đã qua xử lí nhưng vẫn đen ngòm, ba cái nước nầy toàn chất độc hại thải ra, đi kiểm tra mà anh em phải mang giày ống mới dám vào. Tư Tấu dấu trong đó rồi mười hai giờ đêm dẫn ra khúc sông sau chùa hạ thủ. Với tay nghề lão luyện, con bò được vào cần xé tống lên chợ thị xã. Hải và Tư Tấu ra thịt, Hà chở đi. Lúc Hà bị nạn thì Tấu và Hải đang ngồi nhậu bò tái chanh ở nhà…
Thằng Hà chạy xe có nghề lắm mà tai nạn thì…
Thì sao nói luôn đi ông nội.
Thì trời trả chớ sao?
Trả cái đầu mày… lại mê tín dị đoan.
– Thôi yên đi – Trường nói – Là thằng Hà chạy xe khi có rượu. Mấy ông nghĩ coi, cha con Tư Tấu xưa nay uống như hủ chìm, làm cái gì cũng có ba xi đế kề bên. Cái xe thằng Hà chạy không còn một giọt xăng, nhưng không phải hết vì ngã xe bị chảy…
Vậy là tui hiểu rồi.
Hiểu sao?
– Xe hết xăng khi đang chạy, ông con một tay giữ ga , một tay kéo e chạy cho hết xăng trong bình xăng con chớ gì?
– Mày nghĩ giống tao. Đã chạy đêm, cần xé cả tạ thịt, miệng đầy mùi hèm không làm chủ được tay lái lao vô gốc cây thì chết là phải quá.
Còn cái cần xé thịt tính làm sao?
Mọi người nhìn nhau. Dường như ai cũng tự hỏi “ Còn cái cần xé thịt tính làm sao?”

NGUYỄN TRÍ

TÌNH SẦU

nguyentri

Tôi đến khổ với Thu Hương.
Là bạn của chị tôi, vì vậy tôi phải gọi cô bằng chị cho phải phép, chứ thực ra Hương hơn tôi chỉ một tuổi. Nếu là bạn tôi Hương phải gọi, không anh thì cũng tên như bao cô khác cùng chung lớp. Đó không phải lí do để tôi than khổ mà vì một cái khác. Cái nầy lỗi trước là do tôi. Cái thói hay khoe khoang không phải cách của thời mới lớn. Cái thuở mười sáu mười bảy cũng võ vẽ yêu đương và thư tình cứ là đầy trong trang vở.
Đi học tôi khá nhất môn văn. Cứ mỗi kì thi cá nguyệt là từ đệ nhất đến đệ nhị cấp, thằng tôi cứ ôm bài thi Việt Văn về làm sơ-mi. Hai từ sơ-mi thì chỉ có khoảng thời gian đi học trước 75 mới biết. Nghĩa là trò nào cao điểm nhất trong bất kì môn thi nào là ôm bài về nhà làm thứ tự điểm cho Giáo Sư dạy môn đó. Đó là vinh dự và là niềm hãnh diện cho bất kì ai. Bạn bè nhìn với đôi mắt ngưỡng mộ có pha tí tí tị hiềm. Cánh tóc dài thì luôn đưa tia nhìn trìu mến đến với mấy nhân vật nầy.
Tôi thường ra cái vẻ ta là nhân tài. Vậy mới khốn. Bà chị có lẽ nghĩ tôi sẽ là một nhà chi đó lớn lắm trong tương lai nên khoe tôi với bạn của bà, trong đó có Thu Hương. Cô đến và nhờ tôi viết tình thư.
Chả là Hương và Tuấn yêu nhau. Tuấn là dân sống bằng nghề sửa xe tải. Nhà có garage bề thế ở thị trấn. Hương tốt nghiệp lớp ba trường làng thì chia tay bút mực. Tuấn thì tôi e là thấp hơn vì những lá thư anh ta gửi cho Hương, tôi thẩm định trước khi trả lời, phải đọc và chí ít cũng cả ngày mới thẩm thấu hết ý tứ.
Thoạt tiên tôi khoái lắm vì tài năng được công nhận, kế tiếp là Thu Hương chung tiền. Nhà Hương tương đối có ăn có để. Hương cũng làm ra tiền nhờ nghề thợ may. Không biết họ yêu nhau ra làm sao mà cứ luôn luôn giận hờn. Mỗi lần vậy là Tuấn viết thư xin lỗi, Hương vất tiền ra nhờ tôi viết trả lời. Cô lớp ba nên chữ nghĩa như gà bới, tôi thì thuở ấy, nói không phải khoe, văn đã hay thêm cái chữ tốt. Nội san hoặc báo tường do tôi đích thân viết và trang trí. Và riết rồi tôi đâm chán cái nghề viết thư tình mướn kiểu nầy. Cứ hai ngày một lá thư thì ai đâu luận ra được ý để mà viết. Thực là chán chết đi thôi.
Chán đến độ mỗi lần bóng Hương thoáng ở đầu ngõ là tôi trốn. Nhưng có trốn cũng không thoát. Khổ lắm, có mỗi một đề tài là giận hờn trong yêu đương thì có thánh cũng bó tay chịu trói. Có lần tôi hỏi sao chị không gặp ảnh mà giải quyết vấn đề phải nhanh gọn và đẹp hơn không? Té ra là như thằng tôi, Tuấn ta tuy tướng tá bặm trợn, mình mẩy toàn dầu nhớt, tay chai sạn bởi cờ lê, mỏ lết nhưng yêu nhau qua thư là chính, còn có gặp nhau thì thanh thiên bạch nhật thì chớ, thêm cái đông người mới không bối rối. Điều nầy hôm nay, trong kỷ in tờ nét nầy nói ra bầy trẻ cho rằng tôi xạo chúa. Nhưng thật vậy. Nói chi cho xa xôi, chả phải là ông Đỗ Trung Quân viết rằng … là bài thơ còn hoài trong vở, giữa giờ chơi mang đến lại mang về đó sao? Cái thời yêu nhau của những năm cuối thập niên 70 kỷ 20 thường là vậy.
Chuyện xẩy ra về sau tôi càng cực hơn dù có đồng minh. Hè năm ấy để chứng tỏ mình là tao nhân mặc khách như ai, tôi và những người bạn quyết dựng nên một thi văn đoàn. Không lí những kẻ yêu văn thơ đến nhiệt cuồng, thành tích là được thầy cô khen nức nở. Lại có thơ, có truyện in trong nội san, đặc san mà không dựng được một sân chơi cho mình sao? Vậy là Tôi, Ngô và Trịnh ra sức đi săn thêm vài tao nhân khác để dựng hội.
Ngô cùng trường, nhưng học trên tôi một lớp. Lớp trên mà chơi với lớp dưới là không đùa. Chẳng qua là tài văn của tôi đã vươn ra khỏi ngưỡng cửa… lớp và lan ra đến tận mọi ngõ ngách trong sân trường, vì thế Ngô mới hạ mình xem tôi là bạn. Tuy hơn tôi hai tuổi nhưng Ngô cũng cho tôi mày mi tao tớ cho thân mật. Với Ngô tuổi tác chả có kí lô gì trong trường văn trận bút. Thi văn đoàn được lập có tên Nắng Sân Trường chủ nhiệm là Ngô, phó là Trịnh còn thằng tôi là Thư Ký Tòa Soạn. Bài vở thì cả ba đi vận động.
Trịnh chuyên thơ. Thơ của Trịnh phải nói là chỉ dưới thiên tài một chút thôi. Bằng chứng là ngọai trừ ngưỡng mộ Trịnh tôi còn ganh với nó nữa. Hể cứ đọc thơ của Trịnh là tôi biết mình là con chí mén bên con chí đực, có tức không? Lúc đầu tôi cũng có võ vẽ thơ, nhưng sau khi biết mình không ra ôn gì trước Ngô và Trịnh tôi lui về gò lưng với truyện. Trịnh yêu thầm một em bên trường Trinh Vương. Tên nàng là Kim Loan. Nhà nàng cách nơi cư ngụ của lũ chúng tôi hai cây số. Bằng cách lội bộ toát mồ hôi Trịnh lôi tôi và Ngô đến nhà nàng, mời nàng tham gia cái gọi đoàn thi văn. Trịnh đẹp trai, cao ráo, lại tài năng. Nó và Kim Loan nếu mà ra một cặp thì phải gọi là hết ý. Kẹt cái Kim Loan đi học thường cặp kè với một anh trên Trịnh một lớp. Chắc chắn là Kim Loan không ngó chi đến tình nên thơ Trịnh chất chứa sầu buồn. Tôi thì đang thất vọng bởi yêu dám tỉnh tò luôn nhưng nàng chê tôi là ranh con nên văn chương cũng ủ ê. Hôm đó tại văn phòng hội là nhà tôi. Ngô cười khà khà mà rằng:
– Hai thằng mầy đúng là đồ ủy mỵ. Con gái là cái thớ gì mà bây quan trọng quá?
Tôi ra cái vẻ am hiểu tình trường:
– Mày thì biết khỉ gì. Không nghe câu sống mà không có tình yêu là chết mà biết thở à?
Đúng lúc ấy Thu Hương có mặt.
Cũng cần diễn tả qua tí nhan sắc của nàng. Hương thấp thấp nhưng không ú. Dáng nhỏ nhỏ thanh thanh, tóc dài đến vai. Mắt xanh như lá hành, môi đỏ như tương ớt, da trắng như giá sống. Ăn nói thì phải nói đúng dịu dàng và duyên dáng. Cô thân mến gật đầu chào rồi gọi tôi ra ngoài nói nhỏ. Chuyện chi thì từ đầu tôi đã nói. Vậy là sau đó tôi cầm lá thư của bạn tình cô, chuẩn bị vắt óc trả lời. Thấy tôi vuốt mép(dù chả có cọng ria nào) đăm chiêu. Ngô hỏi:
– Nhỏ nào vậy?
Vậy là bao nhiêu nổi khổ về Thu Hương tôi đem ra tâm sự với hai nhà thơ lớn. Nghe xong Ngô gật gù:
– Mày đưa lá thư tao coi thử.
Xem xong Ngô trầm ngâm:
– Để tao viết rồi mày sao y lại.
– Có lý đa. Mày giúp tao cái. Mỗi lần nó cho tao một trăm ( Lúc đó một ổ bánh mì thịt đặc biệt chỉ bốn chục đồng) tao chia mày năm chục.
– Khỏi, tao không cần, cho mày hưởng hết luôn.
Nhưng khi nhận cái hồi âm từ Ngô. Đọc xong tôi không duyệt:
– Mày viết vậy là không ăn, sao lại nói đến chia tay. Con Hương không muốn vậy đâu.
– Mày dốt quá. Là giả vờ nói chia tay cho thằng sửa xe nó sợ, hiểu không? Phải xé chuyện ra mới có đề tài mà viết chớ, đúng không?
Tôi nghe cũng có lí, nên bàn với Thu Hương rằng chị phải làm giá một tí, phải ra vẻ mình con nhà vân vân và vân vân. Vậy là nường đồng ý. Lá thư được tống đi và vấn đề đương nhiên căng như giây đàn. Không phải sao? Bên viết thư xin lỗi chuyện đã qua, bên bảo thôi ta nên chia tay. Cả ba lần như vậy, và tất nhiên tình của Hương và Tuấn có nguy cơ tan vỡ. Chả có thằng nào không tự ái khi mình ỉ ôi mà người đẹp cứ đòi chia với lìa. Sau đó Tuấn chả thư từ gì ráo. Và vậy là tiếng thở của Hương thăm thẳm dài. Cô hoảng lên khi thấy bạn tình có vẻ như muốn chia thì chia.
Mọi diễn biến đều lọt vào tầm ngắm của Trịnh. Trịnh nói riêng với tôi:
– Mày mắc vô mưu thằng Ngô rồi.
Tôi ngu si:
– Mưu gì?
– Tao nói có sai cho trời sập đi. Thằng Ngô cố tình chia lìa cặp Hương Tuấn.
Tôi tiếp tục ngu:
– Chi vậy? Chia mà tế bà nó hả?
Không ngăn được Trịnh mắng luôn tôi:
– Mày ngu không can được. Văn thơ gì cái loại mày. Mày không thấy thằng Ngô nó có tình với con Hương à.
Tôi ngớ người ra một lúc, không tin điều Trịnh nói. Sao lại có thằng mưu mô kì cục vậy kìa? Ngẫm một hồi mới ngộ ra. Không loại trừ Ngô si tình người đẹp rồi tung chiêu thức nầy ra để chia uyên rẽ thúy. Rẽ được rồi Ngô nhảy vô. Có lí lắm. Tôi hỏi Ngô:
– Mày thích bà Hương phải không?
Vậy là Ngô tâm sự rằng mới gặp Hương lần đầu cu cậu đã bị mái tóc, dáng đi, điệu cười của nường mê hoặc. Nay diễn biến trên tình trường đã nghiêng về chiều có lợi cho Ngô. Nên với tư cách là bạn bè, lại cùng hội thơ văn Ngô xin tôi và Trịnh ủng hộ hắn nhập cuộc chơi:
– Thì làm hoa cho người ta hái, mày muốn thì làm sao đó thì làm. – Tôi nói.
– Tao nhờ mày đưa dùm tao một lá thư cho em.
– Ok. Có gì khó đâu.
– Có cái hơi khó…
– Cái gì?
– Tao viết bằng tiếng Anh…
Không đừng được tôi và Trịnh lăn ra cười. Không phải sao? Lớp ba trường làng viết tiếng em chưa chắc em hiểu, viết tiếng anh đúng là khùng tầm cỡ bao bố tời. Ngô giãi thích:
– Hai thằng mầy dốt đặc. Em đang buồn vì tình tan vỡ. Nay có người khác theo em phải chú ý, thơ tao viết bằng tiếng Anh em phải tò mò, phải nhờ người dịch. Vậy là em sẽ thích thú khi được người có trí thức đeo đuổi. Mà trí thức thì phải hơn thợ sửa xe. Tao nói hai thằng mày nghe có lí không?
– Hết sức là có lí. Nhưng ai sẽ dịch cho nàng nghe, trúng cái thằng chơi ác nó dịch tầm bậy là mày ăn chổi chà đa con.- Trịnh nói.
Ngô nhìn tôi:
– Mày dịch. Chắc chắn là nàng sẽ nhờ mày dịch, đúng không?
Tôi lắc đầu. Tâm sự rằng gì chứ tiếng Anh tôi dốt đặc. Tuy mang tiếng học đến hai ngoại ngữ là Anh và Pháp, nhưng tình thật mà nói tôi chỉ biết yes là vâng, no là không trong anh ngữ, oui là vâng, non là không trong tiếng pháp. Ngô nói:
– Mày cứ thuộc lòng bản tao dịch là xong ngay.
Thực thà mà nói tôi có hàm Ngô tí ơn. Tôi yêu một nường, có nhờ Ngô làm chim xanh. Tuy tình tôi chẳng ra ngô khoai gì. Nhưng làm thằng đàn ông có ơn không trả là đâu có đạo. Vậy nên tôi đồng ý học thuộc lòng bản dịch và chim xanh lại cho Ngô. Tất nhiên là chả có hồi âm hay phúc đáp gì. Nhưng chỉ sau ba lá thư loại nầy Ngô tiến một bước rất rõ. Nó bảo tôi:
– Ngày mai mày dẫn tao tới nhà em chơi được không?
Với tôi, nhà Hương không lạ gì. Nhưng kể ra Ngô gan góc hơn tôi và Trịnh nhiều. Dám tới nhà người mình yêu là ngon cơm. Chả bù tôi với Trịnh chỉ gặp thôi đã run như run thần tử thấy long nhan. Tôi nói với Ngô:
– Nếu mày thích thì đi với tao.
Nhà Hương tuy bằng gỗ nhưng hai tầng. Dưới là tiệm may, trên dùng để tiếp khách. Hương mời ngồi thì chớ còn có nước trà và bánh ngọt tiếp khách. Ngô, tôi và Trịnh được Hương ân cần như thượng khách. Tất nhiên là kịch đã được dàn dựng. Hai thằng chầu rìa tôi rút êm để Ngô muốn đao hay kiếm chi đó giữa trận tình mặc kệ nó.
Sau đó Ngô lúc nào cũng phởn phơ như người bắt được trân châu mã não. Năm tôi đậu đệ thất cha tôi đã thưởng cho một cây đàn guitar. Tôi võ vẻ cũng nhạc nhẽo như ai, ba cái giai điệu từ bô-lê-rô đến van viếc chi tôi cũng tàm tạm. Ngô chả biết chi đàn địch, nhưng cũng ôm đàn mò mẫm bài Anh Yêu Em và hát rằng: “ anh vẫn biết… anh vẫn biết… yêu em là tuyệt vời và tình yêu.. và tình yêu …không đến với riêng ai…
Ngô say sưa đến độ Trịnh phải lôi ra khỏi mộng tình:
– Mày dẹp dùm tao cái. Bài vở cho thi văn đoàn đang ứ đây nè.
Tỉnh mộng Ngô lao vô hoàn tất cho kịp trước niên học mới. Số một của tuyển Nắng Sân Trường được hai chục bài thơ và mươi truyện ngắn. Tổng cộng có ba mươi tác giả. Tôi phải gò lưng gõ máy chữ còn Ngô và Trịnh lo vụ quay rô-nê-ô. Thời ấy in ấn kiểu nầy là dạng sư chứ không đùa. Bìa do Trịnh vẽ. Đến lúc cuối Ngô nói:
– Tao đề nghị như vầy hai thằng mầy nghe được không?
– Nói.
– Tao thấy ba từ Nắng Sân Trường có vẻ con nít quá, mình nên thay một cái tên khác cho lớn chút được không?
Trịnh biểu đồng tình:
– Cũng có lí. Theo mày thì tên gì?
Ngô nói:
– Nắng Thủy Tinh. – Quay qua tôi, Ngô hỏi – được không thằng khùng?
Đang thất vọng vì tình tôi trả lời:
– Tao sao cũng được.
Vậy là Nắng Thủy Tinh ra đời. Nó gồm ba mươi ba cuốn. Ba mươi cho tác giả. Còn ba cuốn. Một, tôi tặng tình tuyệt vọng của tôi. Trịnh cho tình của nó. Còn Ngô tặng em Thu Hương.Trong ba thằng chỉ duy Ngô là thuận buồm mát mái.
Vào năm học mới. Chúng tôi vẫn cố gắng duy trì cho bằng được đoàn thi văn. Và Giáng sinh năm ấy đủ bài cho số thứ hai. Vẫn nhà tôi là tòa soạn. Ba thằng vẫn cứ là những ông trời con sinh sát cho bài được vào tuyển hay không. Hôm ấy Hương đến trên honda 67. Tài xế cho nàng là Tuấn thợ máy. Cả hai vào nhà và họ gửi … thiệp mời đám cưới.
Tôi thường nghe nói đến ba từ chảy chữ nải. Xưa nay tôi chưa biết chữ nải là chữ gì, e là thiên hạ cũng hiếm người có cơ hội mục kích. Và tôi cùng Trịnh đã biết thế nào là chữ nải. Nó buồn xo và dài sọc trên gương mặt của Ngô.
Tôi và Trịnh phá ra cười. Trời ơi cười. Buồn cười quá đi mất. Riêng Ngô cứ như một cao thủ bị tẩu hỏa nhập ma. Xụi lơ.
Và rồi vì chiến cuộc chúng tôi chia tay mỗi đứa một phương trời. Thằng nầy cứ tưởng thằng kia đã chết bởi bom rơi đạn lạc. Ngờ đâu cả ba vẫn sống nhăn. Rất tình cờ tôi thấy Ngô và Trịnh trên một bìa sách. Cả hai bây giờ đã là những nhà thơ có tiếng. Chỉ mình tôi là bận kiếm cơm nên chả ra ôn dịch gì. Tôi gọi điện hỏi thăm về gia đình về sự nghiệp vân vân. Cuối cùng:
– Mày nhớ Thu Hương không?
– Hương nào? – Ngô hỏi.
Tôi không ngờ Ngô đã quên chuyện xưa. Buồn quá tôi hỏi Trịnh;
– A lô … Trịnh hả? Tao nè Trí khùng nè. Mày nhớ tao không?
Chuyện xưa được nhắc lại, nhưng Trịnh cũng không nhớ. Nó trả lời như Ngô:
– Mày hỏi Kim Loan nào? Tao quên mất tiêu rồi. Bốn mươi năm rồi có nhớ gì đâu.
Vậy mà tuần sau bưu tín viên của xã ghé qua nhà và tôi kí nhận hai bưu phẩm. Ngạc nhiên quá tôi mở ra. Và bàng hoàng khi đó là hai tập Nắng Thủy Tinh bản photo.
Đúng là tình đầu mà nếm mùi sầu đố ai mà quên được.
NGUYỄN TRÍ

KÌ BẺO

nguyentri

Năm có đôi mắt mơ tròn xoe đẹp tuyệt. Vậy mà chả hiểu làm sao cư dân Suối Nho gọi Năm Hí. Do giọng cười hí hí chăng? Giọng cười chỉ một mà thôi, chết danh là do kiểu sống như ngựa hoang của Năm.
Vợ Năm, cũng đôi mắt mơ và một nhan sắc mà vừa mới từ Trà Vinh lên Suối Nho, cô đã hớp hồn chí ít cũng chục thằng làm thuê bốn phương kéo đến. Thanh niên sở tại đánh nhau vì cái đẹp nầy không ít. Tình thiệt mà nói, nếu Yến – tên cô gái – gật đầu với một anh sở tại thì cô thoát cảnh thuê mướn liền. Suối Nho là kinh tế mới dân lập. Tự động vào rừng khai hoang thì phải có của mới đặng. Vậy mà chả hiểu làm sao Yến lại mê đắm mê đuối Năm, một gã tha phương cầu thực. Năm từ miền Trung vào, sở hữu chủ một căn nhà tranh vách ván vẻn vẹn bốn chục mét trên lô đất một trăm vuông. Có lẽ vì đẹp trai, đôi mắt u sầu và trữ tình mà Yến cho không biếu không Năm chăng? Vâng. Ngoại trừ là trai đẹp, Năm lại không dầm nắng phơi gió kiếm cái ăn. Ai cũng lôcachân mà lết, Năm bao giờ cũng chỉnh chện trên xe đạp. Sáng ung dung ra quán làm li cà phê kho. Thiên hạ vấn thuốc rê Năm thuốc gói, có hôm chơi cả đầu lọc, bảnh như thiếu gia con nhà giàu. Không riêng Yến mà cả mươi em thích anh Năm. Trai tráng sỡ tại đành buông cung, thẩn thờ nhìn nhan sắc lớn bụng.
Chao ôi là tội nghiệp cho Yến. Đúng là khi yêu người ta tối mắt lại. Về nhà tranh vách ván không cho mẹ lấy một ly rượu còn làm khổ bà khi vượt cạn. Bể ra mới biết chồng sống bằng nghề cờ bạc. Năm thâu đêm ở sòng. Ngày vùi đầu vô ngủ, tỉnh dậy là ngồi luyện ngón trong mùng. Có vợ rồi Năm thường xuyên vắng nhà. Có khi đi cả tháng, về với vợ không quá hai ngày, quăng cho vài đồng lại tiếp tục đi. Vợ đẻ mặc kệ vợ. Với Năm, dưới gầm trời nầy sòng là số một. Năm là con ma. Gã phải đi, vì không ngu mà chơi ở nơi cư ngụ. Làm chi tệ hại cũng phải chừa ra một phương để sống chớ, đúng không?
Năm cờ bạc vào bậc thầy. Kỳ bẻo gồm hai loại. Thầy và thợ, còn lại là dân nai, nai cũng hai loại là chà và nhung. Trăm thợ mới có một thầy. Để biết thế nào là thầy cần phải biết sơ qua thợ một tí. Chuyện xáo, chẻ bài như làm xiếc chú tâm luyện vài tháng thì dân chơi sành hơn cả phim tầu. Cái quan trọng của thợ là phải biết làm dấu bài. Chơi xì dzách, tiến lên, xập xám và các ngón khác trong bộ bài năm mươi hai lá, thợ phải làm sao để sau ba ván là biết bài. Khi cầm tay cái, các cây bài ưng ý phải thuộc về thợ. Bàn tay phải cực nhạy cảm để khi chia, cây nào đã bấm dấu không được lọt vào tụ đối phương. Vậy mới thắng. Những môn chơi ăn thua đủ và lớn như xóc đĩa thợ phải chủ động trong việc xóc. Chẳn hay lẻ là do thợ. Xóc bằng đồng chinh phải biết sử dụng nam châm, xóc bằng đồng tiền cắt từ lá bài phải biết bấm dấu sao cho nặng nhẹ tùy ý mình. Có vậy mới ra giang hồ mà đánh thuê, phải biết đóng vai tà lọt hầu đại gia. Sòng lập ra các ông chủ ăn thua. Nửa đêm chủ mệt hoặc cần xã xui, nhường bài cho tà lọt. Lúc ấy thợ ra tay.
Để trở thành thợ, thằng người phải có máu mê. Mê đến bàn thờ tổ tiên còn dám bán để phục vụ cho cái ghiền, vợ con cha mẹ anh em đợ được là đợ. Thua quá mới ngộ ra trong cờ bạc không bao giờ có đỏ đen, may rủi. Tất cả đều gian manh, lọc lừa. Lúc ấy tay chơi ngồi bó trán điều nghiên để hiểu vì sao. Hiểu ra, quý ngài mới tìm cách phục hận lấy lại cái đã mất bằng cách phải điếm đàng như thiên hạ. Muốn trở thành thợ phải luyện không thua chi mấy thằng vai chính trong truyện kiếm kiệp. Đôi bàn tay thợ kì bẻo quý như kim cương, dịu dàng, mềm mại như nghệ sĩ chơi đàn Piano.
Nhìn Năm Hí biểu diễn thiên hạ cứ tưởng Năm có bùa. Nhưng Năm nhấn mạnh:
Chả có bùa ngãi chi. Thực ra bài đã được đánh dấu, chỉ có thợ mới biết.
Người nghe cầm bộ bài lên trố mắt ra săm soi, nhưng chả ai phát hiện ra được dấu:
Mắt như tụi bây thì không phát hiện ra nổi đâu.
Năm lấy ra một kính lúp, soi và chỉ vào từng chỗ đánh dấu, bầy người ngồi nghe. Nghe xong chúng xáo bài yêu cầu diễn lại. Và trăm lần như một Năm rút bài, xướng tên làm cả lũ phục lăn. Năm nói:
– Phải luyện, nhất là bàn tay thuận, phải như cái lưỡi của dân đầu bếp. Rút lá bài thì vân tay phải phát hiện ra dấu. Dấu nằm ở góc nào là con gì. Hiểu không?
Không, hiểu chết liền.
Chiều ngang của lá bài, thợ bấm vô góc trái nếu là ách, ở giữa lá hai, góc trái ba. Chiều đối diện là bốn năm sáu, nhưng vị trí dấu sẽ cách góc năm li. Chiều dọc của lá bài cũng tương tự như vậy. Mười ba cây bài nằm mười ba vị trí khác nhau. Chỉ tay người làm dấu mới biết. Như vậy những tay mơ đen đỏ chỉ có chết và chết mà thôi. Quan trọng là dấu phải bí hiểm. Điều nầy thợ lâu năm trong nghiệp có thể chủ động một cách thần tình, ngón tay của họ phải luyện đến độ siêu thần nhập thánh. Thợ không có thời gian rỗi, phải luyện tập bất kể ngày đêm. Tỉnh giấc họ lì luôn trong mùng chỉ để luyện. Phải như vậy mới có thể xeo chuồng heo nhà người về nhà mình.
Nhưng thầy thì khác. Cả trăm thợ mới có được một thầy. Thầy phải được sinh ra và lớn lên trong gia đình có truyền thống cờ bạc. Năm tuy chả thống hay truyền gì, nhưng đời hắn khá li kì. Năm kể rằng mẹ và bốn anh chị bị chết trong chiến tranh. Chiều chiều mấy ông pháo binh trên tiểu khu khạc cà nông vô núi diệt cộng, một trái trăm lẽ năm đang bay rớt nguyên con vô nhà, Năm thoát chết là nhờ đang chơi ở nhà hàng xóm.
Quá hận, mình phục vụ cho cộng hòa mà nay cộng hòa giết sạch gia đình mình, cha Năm bỏ ngũ gia nhập ngành đỗ bác. Ông đưa thằng con duy nhất tới sòng ăn ở luôn với cha. Mới sáu tuổi Năm đã quen biết cây bài và tất cả các môn chơi khác. Đồ chơi của Năm là những quân bài được chủ sòng thải ra. Thấy thợ trong sòng múa bài đẹp quá, Năm tự luyện, nó thích nhất bộ bài tây. Nếu chỉ vậy mà sống với xiếc bài e Năm thành danh chứ chẳng chơi. Nhưng xưa nay kẻ lấy sòng làm nhà thì phải biết ăn thua đủ với đồng bạc giữa sòng. Một vài thằng thợ chỉ cho Năm vài ngón ma đạo. Năm luyện riết mà thành cao thủ. Mười tuổi là tay chia bài cự phách. Nhưng kẹt cái, giữa một rừng thợ, anh bấm dấu bài là bị phát giác ngay tức khắc. Chính vì thế Năm phải luyện một chiêu khác, và chiêu nầy xứng đáng gọi thầy.
Năm hơn thiên hạ bằng đôi mắt. Nghĩa là nhìn cây bài đã biết con chi. Tụ bài ấy cái gì bên dưới. Thiên lí nhãn chăng? Không. Tuyệt đối không. Cái hay của bậc thầy là nhìn trên mà biết dưới. Thợ có mày mò cả trăm năm cũng không biết. Thầy khác thợ ở tính sáng tạo và may mắn. Năm suy nghĩ, nghĩ mãi. Làm sao để có thể biết được bài đối phương là chi. Cầm từng lá bài, dùng đủ loại kính nhưng chả có kính nào có thể rọi thấu nói gì đeo lên mũi. Năm thử làm dấu ở phía trên, nhưng như đã nói, dấu là không thể qua được tay thợ. Năm dùng móng tay cái miết nhẹ cạnh trên của lá bài, cái cạnh mầu trắng nầy chỉ ba milimet, ngay lập tức mầu trắng bị đổi, cũng trắng, nhưng ngà hơn một tí, chỉ một tí.
Một tí ấy đã làm Năm ngợp. Gã miết tất cả các lá bài còn lại, quả là mầu trắng đã ngà hơn và chỉ có kẻ ra tay mới biết. Rồi như những tay thợ bấm dấu bài, Năm cho ách cơ nằm tâm của góc bán nguyệt, ách rô dưới một li, cứ thế cho các lá còn lại. Bây giờ có quyền biết bài đối phương bằng mắt của chính mình. Để thử nghiệm Năm kêu đệ tử thân tín đến:
Hai thằng mầy xem thử bộ bài nầy có gì lạ không?
Hai thằng em, cũng dân kì bẽo chính hiệu, săm soi bằng cả kính lúp mà cũng chẳng nhận ra chi. Năm biễu diễn bằng cách chia tám tụ xì dzách, và nói vanh vách điểm mỗi tụ. thậm chí cơ rô chuồn bích, Năm nói luôn. Cả hai thằng cứ xoe mắt mà thán phục. Hai thằng đệ nầy là thần giữ của cho Năm. Làm thằng chuyên nghiệp cờ bạc cũng lắm khổ hận. Không hộ vệ quân là không xong.
Chuyện gài độ dụ nai và lột sạch nào có khó chi với Năm, nhưng ôm tiền ra được khỏi sòng mới là điều quan trọng. Anh đến xứ người vung tay múa ngón. Thằng thua kề dao vô cổ lấy lại là thường. Vì vậy Năm phải chiêu mộ anh tài, hai trong những tay cháy túi sẵn sàng theo anh thắng trận, làm bất cứ cái chi anh cần. Hai thằng nầy võ nghệ và sự liều lĩnh không chê vào đâu được, thứ mà vợ bán con đợ thì miễn bàn. Chúng chỉ có một thứ để tôn thờ: Tiền.
Làm đệ tử của Năm thì không lo chi vụ tiền. Với dân kì bẽo bậc thầy tiền là giấy. Mỗi khi ra giang hồ để tranh bá, thầy và đệ tử như những ông hoàng con. Đến phố lớn họ ngụ khách sạn hàng sao. Chỉ những nơi ấy mới có những tay chơi thứ thiệt. Họ ăn nên làm ra từ chính đáng đến chính không đáng, sẵn sàng vung tiền để thỏa đam mê. Những con cáo ấy lột sạch tiền con nai vàng ngơ ngác Năm Hí. Kẻ thua chỉ biết rời sòng thở than mình xui quá mà thôi. Tuy thua nhưng dây chuyền, cà rá, lắc trên tay trên cổ Năm nặng trìu trịu.
Những con cáo đánh ra mùi một con nai tầm tỷ phú, vậy là tìm cách dụ ra đồng trống để ăn thua. Con nai nhung say mùi vội đi theo, ở đó đại gia đã cho thợ trà trộn vô sòng hòng lấy cặp nhung đầy máu. Đến nước nầy mới thấy tầm quan trọng của thầy trò Năm Hí. Thầy sẽ hóa giãi chiêu thức và lùa thợ vô tròng. Đệ tử sẵn sàng đánh tháo trước khi thầy bị dao kề cổ. Sự cần thiết của võ và liều luôn luôn được sử dụng trên bước trường chinh.
Làm đệ tử của thầy sướng vậy thì vợ con thầy ra sao? Chao ôi, chả còn ai bi thiết hơn vợ Năm Hí. Nhìn chung bất kì một phụ nữ nào lấy phải một thằng chồng vô tâm còn tệ hơn đàn đứt giây. Ở không xong, bỏ càng không được. Năm vắng nhà dăm ba tháng là thường, có khi biệt cả năm. Khi nào bại trận Năm mới bò về thăm vợ. Ủa giỏi vậy mà bại trận là sao? Thưa rằng ai trong nghiệp kì bẻo mới biết sáu chữ ma đưa lối quỷ đưa đường. Không nghe thiên hạ phong bài bạc lên hàng ma sao? Ma bài. Nếu anh thắng trong lĩnh vực nầy thì sẽ bị thua ở lĩnh vực khác. Ăn bài thì thua bóng đá. Ăn bóng thì cúng cho đá gà… vân vân. Những bà nhỏ của những ông lớn trong sòng đẹp như tiên sa. Thua, quý nương cũng sẵn sàng kiếm chỗ xã xui. Trong khách sạn thì nữ lưu dành cho quý ông không bao giờ thiếu. Cái nào quý ông cũng chung tiền, nhưng chung cho đối tác bao giờ cũng có cái thú riêng. Năm đã thua phần lớn đồng bạc cấp thầy của mình cho dạng nữ lưu nầy… Và như đã biết, các cô đến sòng toàn hồ li chín đuôi, miệng mồm dẽo như mật và mắt luôn đẫm nước. Vậy mà Năm Hí lại tin sái cổ mới chết cha.
Năm đi cũng phải thôi, nếu Yến đẻ cho gã thằng con trai thì hay quá, đằng nầy cô ba năm ra hai con vịt trời. Thấy Năm biền biệt, vài tay đa tình mê nhan sắc và cái cần cù của Yến những muốn nhào vô nhờ sửa túi nâng khăn. Yến giỏi lắm, cô nhờ mẹ chăn con, còn mình chạy chợ. Một mình vẫn cho con đến được trường học. Con gái cô ngoan cực kì, thông minh như… cha vậy. Nó học giỏi, nhớ bài học như cha nhớ năm mươi hai lá. Yến đang xiêu xiêu bởi một anh trung niên góa vợ thì một hôm có một nữ lưu đến. Trên tay cô nách một thằng cu:
Dạ – nữ lưu nói – Em là vợ của anh Năm…
Yến rụng rời. Cô chả ghen tuông chi nhưng mà uất. Thế nầy thì có chết không? Cô gái thưa rằng quê ở miền Tây xa xôi, nghe lời ngon ngọt của anh Năm mà nhẹ dạ. Giờ có con ảnh đi đâu mất hút. Nghe nói gia đình ở xứ nầy nên đi nhận bà con. Cô gái ở chơi được hai ngày rồi ra đi, bỏ thằng cu lại. Yến phải gồng. Con chồng thì cũng như con mình thôi. May quá, hai con chị khoái thằng cu lắm, chúng quấn nhau như một chỗ chui ra. Được vài tháng Năm bò về thăm, hỏi mới biết mẹ thằng cu trả con để bước thêm bước khác.
– Ông Năm nè – Tha nhân hỏi – bài thường thì dấu hay chơi kiểu của ông còn được, chứ bài nilon của Mỹ thì có mà chịu sầu.
Năm cười mà rằng:
Chơi sòng lớn ai chơi bài cotton, nilon hết mấy em ơi.
Sòng lớn. Tiền lên hằng trăm triệu bọn thợ bó tay với bài nilon. Vậy còn Năm? Cái để được gọi là thầy luôn luôn lớn. Năm kể rằng để cho hai đệ tử chơi cho đến nửa đêm, chúng có quyền thua, thua rạt gáo. Miễn sao đối phương hả hê trong men chiến thắng. Nửa giấc về sáng mới là lúc Năm tỉnh giấc và nhập trận. Kẻ thua ra chầu rìa, người thắng tiếp tục sát phạt để gồm thu lục quốc về một mối. Và những lá bài trong tay làm đúng chức năng mà Năm muốn.
– Tụi bây biết đó. Bài nilon không ai làm dấu được. Chỉ đỏ đen mà thôi, và trong sòng bài kẻ nào nhiều tiền, trụ được lâu kẻ đó phải thắng. Còn tao, tao chơi sách đổi màu trên lá bài. Vậy thôi.
Nilon mà cũng đổi màu được à?
– Tao có chiêu thức riêng.
Chiêu gì?
Chả có chi khó hoặc bí mật. Năm dùng móng tay út cạo bựa chân răng. Móng tay cái sẽ miết bựa vào cạnh mầu trắng của lá bài. Đối phương đã hết nửa đêm mỏi mệt, có phấn khởi vì thắng lớn mắt vẫn không tinh tường để nhận ra sự khác biệt tinh vi nầy. Vậy là tiền về tụ của Năm. Đang thắng, đối phương sẽ tối mặt sau vài cây thua đậm. Mà đã tối thì chỉ một phương chết, đổi bài mới cũng bó tay với chiêu nầy. Ai cũng biết bựa chân răng, lại là răng của bọn kì bẽo, chúng ăn, thôi thì đủ, thêm cái trắng đêm cùng khói thuốc, bựa dẽo nhẹo, miết vô đâu nằm yên đó. Mắt Năm sau một giấc đầy, tinh chả khác mắt Dương Tiễn.
Ngon lành vậy mà thân danh bại liệt có lạ không?
***
Sao mà ông ra vầy?
Năm đưa hai bàn tay chỉ còn tám ngón lên cao. Hai ngón cái đã bị cụt, ngậm ngùi:
Nếu tao đừng lên Bãi vàng X đã không bại liệt như vầy.
Sao lại phải lên bãi vàng? Dễ hiểu lắm. Thằng bài bạc như Năm rất dễ nổi tiếng trong giới. Dân chơi truyện miệng về một Năm Hí có bùa Lỗ ban. Vì thế nên Năm khó lắm việc nhập sòng. Năm tính qua Malaixia vì các sòng ở Lào, Campuchia đã nhẵn mặt. Nghe nói bãi vàng X làm ăn được nên Năm làm một chuyến lên thâm sơn.
Dân bãi bán đời cho hầm sâu. Giãi trí bằng rượu, gái và cờ bạc. Họ chơi xã láng và không tin ai có thể gian lận được mình. Nhất là dân chủ hầm. Vậy là Năm tha hồ hốt mồ hôi và máu phu bãi. Một buổi sáng Năm và hai đệ tử quyết định về phố để tẩy trần, đang bên li cà phê Năm hân hạnh được một thứ thiệt giang hồ vỗ vai:
Biết tao không?
Dạ biết.
Ai?
Dạ… Anh Minh.
Minh gì?
Dạ… Minh Tàn.
Năm dạ là trước mặt thôi, còn sau lưng thì Minh Tàn chả nghĩa địa gì. Tha phương nên đến đâu Năm mua lòng sở tại đến đó. Ở bãi đáng sợ nhất là đàn anh địa phương, cái thế gà gần chuồng bao giờ cũng mạnh. Thân thiết với bọn nầy thì tứ xứ phải kiềng và Năm đã mua cái lòng người ở bãi bằng tiền ăn trong sòng.
Sỡ dĩ Minh Tàn gặp Năm Hí là vì đêm ấy sau tan sòng có một cô gái nhảy hầm tự sát:
– Nhỏ đó tội nghiệp lắm – Minh Tàn nói – Hai vợ chồng nó lên bãi bán quán. Làm ăn ngon lành thì thằng chồng vướng ma túy. Đêm qua thằng chồng bị mày lột sạch, con nhỏ buồn quá tự vận. Bấy lâu nay mày ăn thua với chủ hầm và phu bãi sao tao không biết. Nay chơi với tao một trận được không? Tao cần vài đồng giúp thằng chồng đưa xác con nhỏ về quê.
Dạ, em xin biếu anh ít tiền…
– Tao không xin của ai, tao muốn xem thử mình hên hay xui.
Ừ thì thích thì chiều. Năm cũng biết bọn thứ thiệt như Tàn lắm. Trưởng ca bao giờ chẳng nhiều vàng. Được rồi, muốn chết đây sẵn sàng cho chết. Cả bọn đàn anh, đàn em trong quán xúm lại xem cuộc tỉ thí tay đôi. Ba quân thiên hạ như vầy khỏi lo vụ ăn vùa thua giựt. Cả hai đồng ý binh xập xám chướng. Với Năm, nhã cho đối phương ăn vài cây mở hàng. Sau bốn ván thì bài đã được Năm cho đổi màu ở cạnh. Cũng sau bốn ván Tàn ăn tám chỉ vàng. Cả bọn chầu rìa chép miệng liên hồi qua cái sự hên. Năm vờ nóng máu khi tay cái về mình:
Bà mẹ nó… Đánh mạnh đi.
Tao theo Minh Tàn hai chỉ được không? – Một anh hai xướng.
Được, tôi khui tụ một cây.
Vậy là thêm mấy anh đứng ngoài thẩy vàng theo Minh Tàn. Mệnh giá đúng một cây. Cả hai cùng binh bài và đặt xuống. Khui đi. Khui lẹ đi. Cả làng hối Năm Hí.
Nhưng khi Năm thò tay để giở bài thì Minh Tàn lên tiếng:
Khoan… Tao muốn nói vài câu được không?
Đù má… mày đừng nhiều chuyện. Nói lẹ đi.- Đàn anh Dũng Voi lên tiếng.
Tao biết bài thằng Năm đang là gì. Nếu tao nói sai bây chặt đầu tao.
….?
Bài nó đang sảnh thùng phé đầu đôi xì. Tao nói đúng không Năm Hí?
Cái gian lận của Năm Hí bị bày ra trong quán với đầy đủ tứ chiếng giang hồ. Một loại người mà Kim Dung có tưởng tượng hết thế cũng không ra được nét lạnh lùng của họ. Vậy là hai đệ tử của Năm no một trận đòn, Năm bị dân bãi đè tay lên bàn và hai ngón tay cái ở lại bãi.
Một trong hai thằng đệ tử lết được về Suối Nho và mẹ Yến cùng ba đứa con bò lên bệnh viện đưa Năm về, anh ta còn lại cái xác toàn xương vì sốt. Bây giờ Năm ở nhà phụ vợ pha cà phê và bưng bê cho khách. Kể cũng còn may cho con ngựa hoang. Bà xã Yến mà quay lưng thì Năm vác bị đi ăn mày. Thiên hạ bình:
Không có ba đứa con, con lâu bà Yến mới nối lại tình xưa.
Nói vậy là tầm bậy. Bà Yến yêu Năm Hí chết bà luôn, bằng chứng là Năm dừng chân bên vợ hiền mới mấy tháng bụng Yến đã lum lên. Không yêu còn lâu mới vậy. Đúng không?
Quá xá đúng.

NGUYỄN TRÍ

TRỜI CAO ĐẤT THẤP

 

nguyentri

Chấn động cả xã, lớn đến độ Công an Huyện có mặt. Chớ sao, bắt cóc là lớn chuyện chứ đâu phải chơi. Cả gia đình già Mười Giáo gồm năm cặp vợ chồng bu quanh trong một căn nhà, ngoài sân thì bà con cô bác đến xem chơi và luận. Con nhỏ làm thuê trong nhà, tục gọi ô sin, mở tủ lấy năm chục triệu bạc, hai cây vàng ẳm luôn thằng cháu nội của Mười Giáo dông tuốt. Thấy ông bà cố tổ đợt nầy rồi. Đủ thứ ai mà có ngờ. Tưởng cha nội quần đùi áo cánh nầy khố rách áo ôm, dè đâu vàng tiền cả một gia tài. Cũng không ngờ con nhỏ ở ba năm trong nhà lại vung tay rút kiếm đâm một phát ngọt xớt như vầy. Chết thiệt chứ chơi sao?
Nói vậy chứ đừng có giỡn mặt với công quyền, ăn cắp vặt thì có thể chứ bắt cóc thì thoát lên trời. Con ô sin nầy tù chắc. Đúng là đồ vong ân bội nghĩa, không có vợ chồng Mười Giáo thì nó vong rồi. Hồi đó á hả…
Hồi đó sao?
Chuyện nầy kể cũng rối như tơ. Chả biết nói làm sao cho có đầu đuôi gốc ngọn… Lúc đó con vợ thằng Út Mén ở Đài Loan về…
Sao lại có đài điếc dính vô đây?
Từ từ, từng chút một mới ra ngô ra khoai, độp một cái thì thánh cũng bó tay. Cha nội Mười, trước cũng khá lắm, đất đai cả hai mẫu chứ ít sao? Nghèo như hôm nay là do đẻ đái mà ra. Vợ chả đẻ là thiên hạ xứ nầy phải kinh tâm. Mới đợt đầu một phát sinh ba. Ba thằng con trai khiến từng sào đất ra đi cho vụ sữa bú dặm. Tưởng vậy là hết, mẹ ơi, lần thứ hai bả cho ra đời hai con vịt bầu. Cuối cùng chỉ còn lại đúng một sào đất cao làm thổ cư. Thằng Út Mén đúng nghĩa chí mén luôn. Anh chị nó ra riêng, một đứa được trăm mét vuông cất nhà, đứa nào đứa nấy nghèo mướt, vợ chồng Mười Giáo chăn cháu nội ngoại đừ ống điếu đự. Út Mén ở với cha mẹ, được cái lớp chín rồi vô công ty Đài Loan làm công nhân.
Lớp chín nhưng những mười tám tuổi, cũng thông cảm cho Út, nhà nghèo mà cạy cục được mớ chữ vậy là nổ lực lắm. Bám theo công ty năm sáu năm ròng, cần cù chịu khó nên Út được thăng lên tổ trưởng. Mình ên chăm hai ông bà già kể cũng tươm. Hai mươi sáu tuổi Út bị nhỏ tên Loan, người miền Trung, dương cung bắn một mũi tên ái tình, Út lãnh một phát ngay tim. Nhỏ cũng khoái anh Út đẹp trai và galant nên gật đầu cái một. Sau mấy tháng yêu nhau, cũng đám cưới nhà hàng như ai. Nhờ cái uy tổ trưởng nên anh em trong công ty giúp cho cũng kha khá, gọi là có tí mua dây chuyền, cà rá bừ bự đeo chơi.
Công ty của Út có kế hoạch đưa những công nhân, gọi là ưu tú đi nâng cao tay nghề ở công ty mẹ, gọi là lao động hợp tác. Ai cũng khoái là vì làm ở công ty mẹ lương cao gấp năm lần xứ ta. Khoái, nhưng điều kiện đưa ra cũng khá khắc nghiệt. Anh chị phải chịu khó và quan trọng là đạo đức tốt. Giỏi và chịu khó thì đương nhiên, làm thuê cho nước ngoài ai dám lười? Nhưng còn khoản đạo đức tốt mới khó, ở nơi làm việc ai chả tốt, còn sự thật thì ai biết? Cái nầy thì chỉ có mấy ông phó giám đốc người mình mới biết. Chỉ cần ổng duyệt rằng a bê xê chi đó tốt là thông qua liền. Muốn thông ư? Ta làm sao?
Ta cứ đến nhà anh, anh sẽ chỉ cho cách. Dễ ẹc. Út Mén phải chạy cái suất đi Đài của mình là bảy chục triệu. Mười Giáo dơ hai tay:
– Má ơi, tao còn cái khỉ khô. Gì mà dữ vậy con?
– Đâu phải một mình thằng phó ăn đâu ba, mấy Tổng người Đài cũng có phần. Mỗi suất cha phó chừng một chục, còn bi nhiêu tụi Đài ăn hết… Nhưng ba má yên tâm con làm năm tháng là dư tiền chuộc sổ đỏ liền. Lương con ở bển tính tiền việt mình là hai chục triệu ngoài. Phải đi mới đổi đời ba ơi, còn ở đây thì hết kiếp nầy cũng công nhân.
Biết sao giờ? Không lý hai mẫu đất lo cho anh chị nó, giờ không lo cho Út ngó sao đang? Vậy là Út có một suất. Hai vợ chồng bay về Trung thuyết phục cha má Loan thêm một suất. Gia đình cô gái nghe rễ nói cũng bùi tai, liền tháo vòng vàng, cầm thêm nồi đồng mâm thau. Của nả hai vợ chồng gom sạch. Y như rằng, qua Đài chưa đến năm vợ chồng đã lấy lại những gì đã chi. Thêm năm nữa Mười Giáo kêu vật liệu đến và một căn cấp bốn tương đối gọi là ngự trị. Nghèo nên Mười giỏi lắm, cả bầy trai gái cũng giỏi luôn. Ba thằng trai sinh ba là thợ hồ loại xịn. Nhà Mười Giáo xây xong không tốn một đồng công thợ. Nhỏ Loan mà không bầu bì thì không chừng lên luôn từ đó.
Ở Đài được ba năm Loan về lại công ty:
Sao về? – Bạn hỏi.
Cấn bầu rồi.
Đúng là dân Trung có khác. Thương khó hết ý luôn, Loan cứ sáng đi tối về thiên hạ tăng ca làm sao Loan làm vậy. Bầu đến tháng thứ chín mà vẫn rồ ga chiếc waveS đi làm:
Nghĩ cho rồi mầy ơi, tham nó vừa thôi.
Loan chuyển bụng ngay tại công ty. Taxi phải đưa cô đến bệnh viện. Vậy là có quyền nghĩ thai sản sáu tháng vẫn có lương. Cô đẻ ra thằng cu đẹp như thiên thần. Nó bú mẹ đúng chuẩn, lâu lâu Loan còn dặm thêm cho cu hộp sữa ngoại. Bố nó ở Đài nhớ vợ thương con chi xiết kể, nhưng chuyện làm ăn, chuyện tương lai thì đành vậy chứ biết làm sao? Tiền Mén gửi về không khả quan như đã tính. Hỏi. Út trả lời do cái suy thoái nên ít được tăng ca. Nhưng Loan không tin. Cô rành chồng lắm.
Rành làm sao?
Trời đất. Vậy mà cũng hỏi. Thằng đàn ông trên thế gian nầy mà thiếu đàn bà mà chịu được đêm dài vắng lặng xin đi đầu dưới đất. Mấy tay nước ngoài làm ăn ở xứ ta mang cả vợ hoặc nhân tình đi theo mà còn nhảy dù đến phố mờ đèn. Thằng ta đi xứ người nào có thua chi. Xứ ta, nói ra nghe tự ái dồn cục, chứ trăm bạc thêm chai nước mười ngàn là có quyền ôm, thêm trăm nữa có quyền cùng một xinh mơ tới bến. Ở xứ người hả? Giá đó thì đừng mong nắm tay một đứng đường. Ít cũng ba mươi đô la mỹ. Mén của Loan, Loan biết lắm, không có vợ kề bên thì sao chịu được, vậy nên tiền gửi về không như ý cũng chả có chi lạ.
Tuy buồn nhưng ánh mắt, nụ cười và tiếng khóc của bé con cho Loan rất nhiều niềm vui sống. Và thời gian nó vùn vụt trôi. Một tháng trước kì hết thai sản. Loan nói với mẹ chồng:
Má trông giúp con cu Phong, con đi làm nha má.
Bà má phải gật chứ biết làm sao. Nhờ, nhưng Loan ái ngại lắm. Má chồng cô hom hem lắm rồi, cả một đời chỉ biết chăn con và cháu, không biết lấy một lần đi đó đi đây. Đến cái quê miền Tây vài trăm cây số đường mà mỗi lần về thăm khó còn hơn đi Pháp. Loan phải nịnh bằng cách đưa bà về Tiền Giang thăm bà con cô bác. Và ở xứ nầy cô gặp Thu Hiền.
Chồng Hiền ở tù vì giết người trong một cơn say. Con gái sáu tháng tuổi cũng mất vì bạo bệnh. Cô gái sướt mướt khóc vì bất hạnh và đau nhức bởi hai bầu sữa căng cứng. Thấy cu Phong, Thu Hiền ôm cho đỡ nhớ con mình. Thằng cu liền rúc vô nách, thương quá Hiền vạch vú cho bú, cu con chả nề hà chi kẻ lạ người xa. Nó say sưa nút và ngủ. Loan nhìn và bâng khuâng nghĩ, nếu cô Thu Hiền nầy mà chịu ở với mình thì vẹn cả đôi đường. Đang thì thất nghiệp, sông nước kiếm tiến vất vả quá, nghe đề nghị Hiền gật đầu cái một và ngay lập tức khăn gói lên miền Đông.
Ở Đài. Mén ta nghe vợ đầu đuôi sự kiện, liền quyết định:
Để anh điện cho thằng phó Lộc giúp một suất, em qua đây với anh.
Thực là hết sức tốt. Cô giao việc nuôi con lại cho Thu Hiền. Vợ chồng Mười Giáo mừng rơn. Thu Hiền nghiễm nhiên là mẹ cu Phong. Cho nó bú không mẹ thì là gì? Vừa được làm mẹ, vừa có tiền gửi về quê giúp cha mẹ già. Ổn định cả ba năm ròng, vậy mà nở bắt con, ăn cắp tiền, lấy luôn chiếc WaveS ra đi.
Nghĩ sao mà làm vậy hả trời đất?
***
Và một cuộc rượt đuổi vô cùng ngoạn mục xẩy ra. Công an về đến Tiền Giang thì kẻ bắt cóc đã phi về bà con đâu đó ở Trà Vinh. Hết Trà Vinh lại rong ruỗi qua Đồng Tháp. Đến đâu cũng nghe câu trả lời nó mới đi có hai tiếng. Hai tiếng trên phân khối lớn thì đúng là bóng chim tăm cá. Hết mấy tỉnh miền Tây thì cô em đã phi lên thành phố chục triệu dân trú ngụ. Giữa cái biển người mênh mông nầy mới thiệt sự nhức đầu. Thiên hạ:
Phải tìm ra cho lẹ, bằng không nó mang qua K là xong phim.
Vụ bắt cóc xẩy ra lúc Loan về đến sân bay Tân Sơn Nhất. Vừa mở máy liên lạc đã nghe anh chị em bên chồng báo sự cố. Cô điếng người, chồng Út Mén cũng rụng rời tay chân.:
Em bình tĩnh, anh về liền đây.
Không về ở bển mà tế ông nội mầy à? – Thiên hạ lại bỉu môi – Bà mẹ tụi bây tham vừa vừa thôi, con cái mới là tài sản quan trọng nhất. Té ra cái vụ nầy cho bây biết lệ đổ đổ lệ ra làm sao. Con cái hơn hay tiền hơn? Mà vụ nầy cùng không trách được con Hiền. Tao kề bên nhà tao rành sáu câu…
Rành làm sao chú Hai?
– Bây biết không? Con Loan quăng con cho con Hiền, con nít ai chăm sóc kĩ, gần bên là nó theo ngay, lại thêm cái bình sữa đầy ặp. Con Hiền nuôi thằng nhỏ gần ba năm, tình như ruột thịt, nó không chồng, không con… máu của thằng Phong toàn sữa con Hiền, bây nghĩ có tội nghiệp không?
– Nhưng đâu phải vậy mà chôm tiền cướp xe bắt cóc con người ta chú hai? Người ta cũng trả công cán mình đàng hoàng mà.
– Tao đồng ý với mày cả hai tay hai chân. Nhưng làm ơn hiểu cho cái mẫu tử tình thâm ở đây dùm tao cái. Mày không nghe câu công sanh không bằng công dưỡng sao?
– Cho con xin đi ba… tiền công đàng hoàng rồi nghe, nhớ dùm cho cái đi.
– Nhưng thằng nhỏ nó đâu cần biết chuyện đó. Nó chỉ biết con Hiền là mẹ và con Hiền hiểu điều đó hơn ai hết…-
– Chắc nó cũng hiểu vậy là bắt cóc, là chết ông hiểu không ông Hai? Mà sao tui thấy ông binh nó vậy, bộ nó bà con với ông hả? Hành vi của nó là phạm tội rành rành, ủ tờ dài hạn luôn, khôn hồn nó đầu thú thì may ra… mà sao nó ngu quá vậy kìa?
Có chi khó hiểu đâu? Ông già Hai nói rằng, mỗi năm Loan về thăm con hai lần. Ngay lần đầu tiên thằng Phong đã không còn nhớ mẹ là ai, nó đeo quyết con Hiền. Về Trung thăm cha mẹ ruột Loan phải đưa cả Hiền đi theo. Thấy vậy già Hai nói:
– Con mày mới một năm tuổi, mày nên ở nhà mà chăm sóc con, đi miết nó không nhận ra mày nữa cho coi.
Loan cũng nhận ra điều đó, nhưng đã chung cả trăm triệu bạc cho suất đi cô đâu thể để xôi hỏng bỏng không được, với lại cô nghĩ gì gì nó cũng con cô, có lên trời nó vẫn cứ là con nên yên tâm đi tiếp. Những lần sau đều vậy, thấy tình hình không yên nên chuyến nầy cô quyết định về và ở luôn để gần con cái. Cô gọi điện cho mẹ chồng và có ý định sẽ cho Thu Hiền nghĩ việc khi cô về.
Nghe trộm được cuốc điện thoại ấy, Hiền có qua nhà già Hai vắn dài tâm sự, và có lẽ sợ mình sẽ bị đuổi, nghĩa là không còn có cơ hội chăm sóc thằng cu, tuy không phải con mà còn hơn là con nên Hiền đã hành động tiêu cực chăng?
Chắc là vậy quá.- Già Hai kết luận.
***
Loan về đến nhà. Thôi thì khóc, cô ròng rã khóc cả ba ngày, cho đến khi chồng về. Út Mén đi ra đi vô trong căn nhà những người là người, năm cặp vợ chồng anh chị Út, vợ chồng Mười Giáo, cháu, tha hồ cháu và bà con xóm giềng. Cái nhà ồn như chợ vỡ. Thiên hạ bàn cho vơi bớt âu lo. Ai cũng tin vô sự thần sầu của công an. Họ kể một thằng cũng bắt cóc, ghê gớm hơn con Hiền nhiều mà bị túm không quá hăm bốn tiếng. Nói chung phải tạo hy vọng cho nạn nhân có niềm tin.
Y như rằng, chiều ngày thứ ba có điện thoại của Công an huyện báo tội phạm đã bị túm ở thành phố Bác. Thị đang ngụ trong một nhà trọ ở Bàu Cò Láng Le. Cái tên nghe là ra cả một trời lạnh lẽo:
Láng Le ở đâu?
Ai biết, biết chết liền.
Ra cái địa danh nầy ở Bình Chánh, Vậy là cặp vợ chồng trẻ vội vàng lên honda-ôm phi nhanh lên nơi đang tạm giữ thằng cu và cô ôsin. Già Hai cũng rồ ga chiếc city cà là mèng:
Chớ đi đâu vậy ông Hai? – Bà Hai hỏi.
Tui lên trển coi nhỏ Hiền ra sao… Dù gì nó cũng coi mình như cha mẹ.
Cặp vợ chồng trẻ mừng hết lớn luôn. Vậy là thôi nghe, đã nói ba cái vụ bắt cóc nầy không thể nào lọt lưới được đâu.
Ở phòng công an huyện. Đôi vợ chồng trẻ nhận lại tất cả tài sản đã mất, thủ phạm không tiêu lấy một đồng. Thằng cu về với vòng tay mẹ. Nhưng cu không chịu. Nó khóc. Trời ơi nó khóc và dẫy dụa, luôn miệng gọi mẹ Hiền của nó. Và xưa nay con khóc thì chả có bậc cha mẹ nào chịu được.
Trong phòng tạm giam Thu Hiền cũng rũ rượi khóc. Khẩn khoản lắm già Hai mới được phép vào thăm cô gái mà ông khai là con nuôi. May quá, dù sao cũng chỉ là tạm giam. Cô gái dại dột ôm ông già:
Sao mà dại vậy con?
Cô gái bất hạnh vì chồng tù, con mất nay phạm tội khóc mùi khóc mẫn:
– Con sợ không được nuôi cu Phong. Con nghe chị Loan nói sẽ cho con về quê, con dại dột quá giờ làm sao chú Hai ơi, chú cứu con với… Con nuôi cu Phong ba năm nay, giờ mất nó con chết mất chú ơi…
Ở bên ngoài tiếng khóc cu con ngằn ngằt vọng vào, cặp trẻ dỗ bao nhiêu cũng không được. Họ đưa mắt nhìn nhau.
Làm sao bây giờ hả trời đất?

NGUYỄN TRÍ

TRẮNG TAY

nguyentri

Thanh cúi xuống , xốc con trai lên tay rồi đi thẳng vào phòng riêng. Cả nhà nhìn theo, mắt ai cũng lộ giận dữ. Hậm hực nhất là cô em chồng:
Đố mất dạy…
Quay qua anh trai cô nói tiếp:
Tưởng vợ ông làm sao, chứ thứ nầy ông bỏ đi là vừa.
Trong phòng bước ra. Thanh, tay nách con, tay kia một xách tay. Dũng gằn giọng:
Cô đi đâu thì đi nhưng không được ẳm con tôi theo.
Con anh à? – Thanh cũng gằn giọng – Có cái gì để chứng minh nó là con anh không? Không đăng ký kết hôn tôi không là vợ, không khai sanh nó là con anh sao?
Tao bạt tai vô mặt mày bây giờ. Đừng có bướng.
Dũng giật cu con ra khỏi tay mẹ, tất nhiên là nhóc ré lên. Thằng cu mới tám tháng tuổi với tay theo, ngằn ngặt khi mẹ cầm xách tay đi thẳng ra cửa. Cô em chồng vói theo:
Giỏi thì bà đừng có về cái nhà này nữa nghe.
Thanh quay lại quắc mắt:
Tao mà quay lại cho sét đánh tao đi.
Mẹ chồng thở dài
Và cha chồng lắc đầu.
Ở cổng, Thanh quay lại nhìn ngôi biệt thự. Cái xa hoa tráng lệ nầy chắc chắn không bao giờ là của cô như đã từng nghĩ và đã trăm kế để lọt vào. Thở dài, Thanh cúi bước dưới điện đường đến bến xe ôm. Xe dừng trước nhà và mẹ cô mở cửa.
Không trả lời một câu hỏi nào của mẹ. Cô nằm sấp, úp mặt trên gối. Lạ là nước mắt không rơi. Đôi khi uất lòng người cũng trơ như đá tảng.
Nhưng cô bật dậy vì mẹ gọi giật ngược ngoài phòng khách. Thanh nhếch mép khi thấy chồng và mẹ chồng. Nửa đêm mà họ đến là biết không vừa. Vừa sao được khi thằng cu con tám tháng tuổi khóc ngằn ngặt đòi mẹ. Nó bú mẹ, và từ thuở ra đời nó chả theo ai. Cô ẳm con, quay trở lại không nhìn bất kì ai.
Bướng bỉnh đến vậy là cùng. Có chuyện chi ta ngồi lại bàn tính, chuyện vợ chồng đâu phải trò chơi và còn có người lớn để phán xử, đúng không? Và giận hờn nhau để ảnh hưởng đến con trẻ là có tội. Thanh đâu có dốt mà không hiểu điều ấy, nhưng cô biết gia đình chồng và cả chồng không thể chăm được con cô. Càng thương cháu bấy nhiêu thì càng không chịu nỗi khi nó khóc. Họ đã phải lụy vì thằng nhóc là đích tôn. Mà có chi lớn đến nỗi phải đến bước đêm hôm về nhà vậy? Bộ gia đình chồng khắc nghiệt lắm à? Đã nói rồi, đừng có thấy giầu có mà ham, đừng có tưởng cứ đẹp là một bước nhập lên trời. Mẫu thời trang hay nghệ sĩ thời danh cũng phải lao động cật lực mới có để mà hưởng phú quý, chả có cái gì từ trên trời rơi cho cả.
Và muốn có hạnh phúc thì hôn nhân phải bắt đầu từ tình yêu. Có yêu thì khó nào ta cũng san mà bước tới. Nói vậy bộ Thanh không yêu Dũng chắc? Không yêu sao lớn bụng trước? Và đám cưới của họ cũng ngô khoai nếp tẻ đâu ra đó chứ không đùa. Gia đình chồng cô cưới vợ cho trưởng nam oách nhất thị xã. Dũng đã phải kì công mới được lòng người đẹp, phải vượt qua trên một chục nam nhân tài tuấn, Dũng mà không vận đến xế hộp của cha thì nàng đã lên tay ga của trai đẹp mà vù mất dạng.
Và như bao kẻ khác trên đời, ai chả bị cái vật chất và lời nịnh hót đánh cho sụm gối. Bọn trai lơ khi đã thích, chúng chiều chuộng đến đá còn chảy nước nói chi Thanh. Và Dũng, đã con nhà giàu lại còn trưởng nam, người mà, đẹp như và hơn Thanh cả chục nường muốn nâng khăn sửa túi. Một bước lên bà ai chả ham. May mà Dũng say Thanh, cô mà không nhanh, hoặc cao giá ra cái vẻ thì mất như chơi. Vậy nên cô bầu trước cho ăn chắc. Yêu hả? Thì khi gạo đã thành cơm ta có câu lia thia quen chậu, lúc đó yêu cũng không muộn.
Nhưng Thương, chị Thanh cảnh giác:
Mày thực dụng kiểu đó coi chừng chết. Vật chất không qua tình yêu đâu.
Khì khì khì… bà lo cho thân bà đi há.
Nhưng khi đã nên vợ chồng. Thật phủ phàng, sau ngày hồi dâu Thanh đã bị mẹ chồng lột sạch bách ba cái gọi là vàng từ kiềng cho đến lắc. Họ để lại cho cô chiếc nhẫn cưới bé tẹo và đôi hoa tai nhỏ xíu. Bà mẹ chồng bảo cất giúp bởi thằng con là đại phá gia. Thanh như một bước bị hụt chân té cái oạch. Và vỡ ra nhiều điều sau một tuần tại vị trong căn biệt thự nóc Thái nầy.
Dũng không hề là một cậu ấm đúng nghĩa. Cũng ấm, nhưng loại ấm đất, không sứ tráng men như Thanh lầm tưởng. Thoạt tiên anh cũng được gia đình cho như các thành viên khác. Đất đai bán xong, may mà từ khi khu công nghiệp vào hoạt động, cái vùng ven đang khỉ ho cò gáy bổng nhộn nhịp thị tứ. Cái gia đình chuyên bán mặt cho đất, bán lưng cho trời phủi một cái hóa danh gia ngay tức khắc. Dũng và em gái cùng hai em trai ai cũng tay ga đời mới vi vu. Ăn chơi kiểu cậu, may mà chưa bị tệ nạn giết chết nhưng Dũng cũng kịp từ tay ga xuống xe số, từ số xịn xuống số tàu… Nếu không mê đắm nhan sắc của Thanh dám cậu ấm đất xuống cái cấp đi chân không.
Đi cưa cẩm Thanh, Dũng mượn xe của em, nay E lắc, mai A ti là. Để cho bọn tay ga biết lễ độ Dũng na luôn xế hộp của cha đến nhà Thanh mời nường đi nhà hàng cấp thị xã ăn đặc sản biển. Thằng người khi mê đắm ai, chúng dụng mọi thủ đoạn để chinh phục cho bằng được. Vậy là Thanh gật đầu cái một và tốc hành làm đám cưới, ba cái đăng kí đăng kiết sau rồi tính.
Cái danh gia của gia đình Dũng chỉ là loại phèn dính kẻ chân, nhưng ra cái vẻ chảnh chẹ. Họ coi Thanh bèo bọt như lục bình trôi sông. Ra cái gì khi mà chửa trước? Họ không đủ mới để xem chuyện cơm trước kẻng là thường, không đủ cũ để rõ nét nho gia, nửa nạc nửa mở nên khó chịu lắm. Nhất là cô chiêu, loại chiêu lì, coi thường chị dâu ra mặt, chì chiết như là từng chửa đẻ rồi:
Có chửa thì phải hoạt động, nằm ườn ra đó rồi ba bữa chửi chồng.
Thanh bỉu môi, cũng chả nói với gã chồng vô tích sự. Mà Dũng đúng thật tệ. Còn quá trẻ để hiểu tâm tình vợ. Nếu chuyện giường chiếu Dũng tốt một tí thì còn có thể làm cho người đàn bà của mình, vì cái thú này mà quên đi xâu chuỗi cô mơ đã hóa ra bọt nước, đằng nầy chồng chỉ biết mình mà không biết chi đến vợ. Xong việc, hắn lăn ra ngáy pho pho. Không hay người đàn bà bên cạnh đang quạnh vắng. Đã vậy còn nghe em gái và mẹ mới chết cha:
Thì em chiều má một tí. Làm gì mà cứ để bả mè nheo anh hoài.
Thanh lạnh lẽo:
Tôi làm gì mà má và em anh đố kỵ?
Im đi, đừng có bướng.
Thanh quay mặt vô vách và xô tay chồng ra khỏi vai mình khi anh ta lại muốn cái vụ kia.
Cứ mỗi ngày một ít. Nó tích lại trong tâm Thanh và bật ra dữ dội:
Tôi chả có cái gì trong nhà nầy, một tí danh phận cũng không. Tôi bị anh lừa. Anh dẹp đi, muốn thì ra mấy quán ôm. Tôi chán anh rồi.
Thằng ruộng lên đời học hành không đầy cái lá mít, quen ngôn ngữ bụi liền văng và đòi bạt:
Vậy ra mày lấy tao chỉ vì tiền?
Cái nầy Dũng nói đúng. Thanh yên lặng hối tiếc. Biết bao trai đẹp bủa vây mà bây giờ cô nhục nhã như vầy? Đó là lí do vì sao cô không chịu đi đăng ký kết hôn để làm khai sanh cho con. Gia đình chồng cô cũng không thiết. Họ tin có cho vàng Thanh cũng không dám bỏ chồng. Khi giằng con lại Dũng không nghĩ Thanh bỏ về nhà mẹ. Bà má chồng không chịu được tiếng khóc của cháu nội đã phải đến tận nhà cho nó ôm mẹ. Bà cũng tin đứa con dâu mê trai ấy, chửa trước là mê quá chứ gì nữa? Bà tin con lâu nó mới bỏ chồng, và nếu có bỏ đi nữa thì cũng chả sao, cháu chít thì lá rụng đương nhiên về cội.
Nhưng bao giờ thì lá rụng khi phơi phới thế kia? Chỉ ba ngày Dũng đã phải xuống nhà thăm con. Nhưng bà má vợ nói Thanh ở nhà trọ, đơn giản là bà không chứa con gái cứ giận chồng là bỏ về nhà mẹ. Thanh không nhờ được mẹ và chị thì có phòng trọ, còn về lại với Dũng thì cô tuyệt không. Xưa nay chồng phải lụy vợ con âu cũng thường tình, còn vợ khi thấy chồng xuống nước lại làm giá thì cũng thường luôn. Và bọn trẻ luôn bị cái nóng nảy, ích kỉ, hẹp hòi làm chuyện nhỏ hóa to:
Tôi đủ sức nuôi con tôi, không cần anh. Còn nếu anh muốn bắt thì cứ tự nhiên.
Dũng phải hết lời ỉ ôi năn nỉ, nhưng Thanh cứng như thép, bao nhiêu uất ức nào mẹ Dũng chì chiết, em chồng không nể nang…Càng kể Thanh càng nóng tiết lên, và khi nóng nảy người ta lỡ đôi chục lời cũng chả sao, nhưng có câu nầy làm Dũng tự ái:
Anh lấy tôi chỉ để làm tình, thậm chí việc đó anh cũng không biết làm. Không đăng ký kết hôn, cứ xem như tôi chưa biết anh.
Máu côn đồ bộc phát, Dũng phủ liền hai bạt tai. Với Thanh chuyện nầy không lạ, nhưng má cô nóng phừng phừng. Bà đi theo anh con rể để tìm cơ hội hàn gắn. Đứng ngoài nghe con gái kể tội chồng bà hiểu ra con mình bị thiệt, tự ái nhất là chuyện lấy lại vàng đã cho con bà. Thấy con rể vũ phu, mẹ vợ liền xuất hiện:
Mày đụng tới nó một lần nữa là không yên với tao à.
Vậy rồi bà ẳm cháu ngoại, biểu con gái thu xếp về nhà. Giận dữ Thanh nói:
Mày và má mày nuôi được tao để cho nuôi.
Vậy là chén nước bể luôn nói chi cái vụ tràn.
***
Thằng chồng đến khổ vì cái việc đi thăm con. Bắt về thì không đặng vì chả ai rảnh mà chăm con mọn. Con mày thì mày nuôi, ông bà cô chú chỉ có bổn phận thương, nhưng với điều kiện là không khóc à. Muốn ỉ ôi để vợ về lại là không xong. Ở riêng ư? Điều nầy Dũng không nghĩ đến. Nhà đâu mà riêng với tư? Thanh lạnh như đá tảng, cô không ngó tới cái gã gọi là chồng. Nhờ mẹ chăm sóc hộ con trai, Thanh đi làm, nhà nghèo đâu nuôi kẻ báo cô.
Và Dũng thất vọng khi đầu ấp tay gối của mình đến công ty có kẻ đưa đón. Cũng phải thôi, gái một con, trẻ trung và đầy hấp lực ai chả thích? Một tối kia Dũng mục kích vợ vào nhà nghỉ với gã ấy. Cô cũng tỉnh bơ bơ khi bắt gặp Dũng ngoài cổng, tự nhiên ôm eo ếch gã trai cứ như vợ chồng. Vậy nên Dũng đến và đặt vấn đề về đứa con chung. Thanh nói:
Anh lấy quyền gì nói tôi nghe? Anh đâu có nuôi mà đòi giữ.
Nhưng cô có chồng thì nó phải thuộc về tôi.
Đợi đến lúc đó rồi tính đi há? Còn bây giờ thì không có chuyện đó đâu. Anh về đi.
Tình mới của Thanh là một loại đàn ông đúng nghĩa. Gã nói với cô:
Anh yêu em. Con em là con anh, chuyện đó là tất yếu. Tin anh đi.
Thanh tin lắm chứ. Không tin sao đi nhà nghĩ với anh? Thêm nữa, anh độc lập trên mọi phương diện. Tuy không bằng Dũng, như những cái anh có là chắc nụi. Mua được đất ở phố công nghiệp và đang cất nhà. Làm vợ anh đương nhiên Thanh là chủ. Trong công ty lại là Phó giám đốc, lương ngoài chục triệu. Anh cất nhắc Thanh một ghế ở phòng kinh doanh. Tiền hai người góp lại chừng một năm lên bốn bánh đời mới là chắc. Người vậy, tương lai vậy, ai từ chối kẻ ấy đại ngu. Thanh thì ngoại trừ đẹp còn thông minh. Cô biết mình phải làm gì, cô yêu con. Yêu lắm. Nó ở với cô, điều ấy không chối được khi tình mới sẵn sàng yêu nó như con:
Không được đâu – Bà má nói – Mày lấy chồng thì nó phải ở với cha ruột. Cũng không có chuyện tao nuôi con giùm mày. Hiểu không?
Thanh ngẫm ra cũng đúng. Đồng ý là anh yêu của Thanh sẵn sàng cho trách nhiệm làm cha, nhưng câu chuyên tiếu lâm có cái kết: “ anh ơi con em với con anh nó đánh con mình” ám ảnh cô. Nhờ mẹ là không được. Lấy nhau rồi không lí cu con ngủ chung với với vơ chồng cô? Giao cho chồng thì…? Ái chà, chuyện nầy phải nghĩ cho thật kĩ à. Nghĩ riết cô ngộ ra nếu dồn Dũng vô bước cùng, điên lên. Anh ta thuê xã hội đen xử tội là chết thiệt luôn. Nhưng mà… đợi cưới đã rồi hãy tính. Còn bây giờ. Được, anh muốn đưa về thăm bà nội thì tự nhiên.
Còn Thanh? Cô vi vu cùng tình mới. Anh đưa cô đi nhà nghỉ.
Nhà chưa xây xong biết làm sao?
***
Ở cái phố công nghiệp nhỏ xíu xìu xiu nầy được vài cái hotel cấp thấp. Chúng chỉ hơn nhà nghỉ bình dân tí đỉnh ở cái khâu máy lạnh. Đôi nhân tình trẻ vẫn thường đến những hotel loại nầy để tâm sự. Cũng chăn êm nệm ấm, cũng có truyền hình, đầu đĩa phục vụ cho quý thượng đế thân yêu. Có cả hương hoa hồng nhân tạo thơm nồng nàn. Không khí ấy, ôm nhau mà nói chuyện tương lai thì trên cả tuyệt vời:
Có lẽ em giao cu Tính lại cho bà nội nó. Được không anh?
Quyền của em thôi… nhưng mà em không tin anh sao?
Em tin anh… nhưng mà…
Thì em cứ làm theo ý mình. Anh sợ em trả con lại cho cha nó rồi nhớ mà khóc thì tội nghiệp anh lắm nghe.
Thanh cũng có nghĩ đến điều ấy chứ. Con cô hai tuổi rồi… Tách nó ra khỏi cô quả là một điều ngoài tưởng tượng. Nhưng làm sao? Và nếu cô cứ khư khư giữ khi đã có chồng liệu Dũng có để yên cho cô hạnh phúc? Thật là rắc rối… May quá, cái rối rắm ấy được tình lang cô phủ ngập và xua tan bằng thân thể cường tráng của hắn.
Thanh thật hạnh phúc khi được thần tình yêu đưa lên đỉnh vu sơn và trên đỉnh cao ấy, Thanh nắm được cái cầu vồng với đủ sắc mầu của nó. Không phải một mà những vài lần như vậy trong đêm yêu đương.
Cực kì thỏa mãn Thanh chìm vào giấc ngủ.
Và tỉnh dậy khi đụng vào một cái lạnh bất thường khi trở mình.
Cái lạnh ấy toát ra từ thân thể của tình nhân cô. Trong cái ảo mờ của ngọn đèn ngủ, cô cảm nhận được một khủng khiếp.
Gã trai của cô đã chết.
***
Một mình bên lạnh lẽo của chết chóc, trong mờ ảo và khuya vắng, Thanh suýt hét lên vì kinh sợ. Niềm kinh sợ đến khủng khiếp tràn ngập tâm hồn cô, nó rùng rùng, rùng rùng lan từ đỉnh đầu xuống tận gót chân, từ trong trái tim, cái lạnh, như những con sóng chạy ra toàn thân, Thanh nghe rõ cả người mình rờn rợn ốc. Cô chết sửng đi cả mươi phút rồi dần nhận ra tình thế bất lợi của mình. Cực kì bất lợi.
Thanh bật điện. Dưới ánh sáng huỳnh quang, cô nhận ra mình chỉ độc xì và coọc. Vội vã mặc áo quần cũng vội vã suy tính. Phải trốn gấp, vỡ lỡ ra cô chết tám kiếp cũng không hết niềm xấu hổ. Thiên hạ sẽ thêu dệt nghìn lẽ một điều không hay về cô chỉ để vỗ bụng cười. Cô nhìn lại cái xác lạnh giá rồi chợt nhận ra lòng lạnh tanh, rõ cô không yêu, nếu yêu cô đâu có hãi sợ, đâu vội vã trốn gấp. Đúng không?
Thanh mở cửa phòng, rất bình tĩnh đi hết hành lang, xuống tam cấp và đụng mặt gác dan:
Về sớm thế cưng? – Gã nói.
May quá, Thanh nghĩ thầm, hắn xem cô như trăm cô gái bán hoa khác vẫn mượn nhà nghĩ làm nơi hành sự. Thanh lẫn nhanh ra đường và honda ôm đưa cô về nhà. Bà má nói:
Liệu đó mà giữ nghe, đàn ông không tin nổi đâu, chán chê nó bỏ cho mày coi.
Thanh yên lặng. Cô nghe lòng rổng không, pha một ít chán chường và hãi sợ. Nhưng dù sao cũng qua rồi, cô tự trấn an mình, chuyện sẽ qua, chắc chắn thế.
Nhưng đến sáng thì mọi chuyện chuyển biến theo chiều hướng xấu. Lúc Dũng ẳm cu con về với mẹ và bà ngoại thì xe của công an đến. Họ vào nhà và cả nhà không hiểu việc gì xẩy ra với Thanh khi cô được mời lên Huyện để làm rõ một vài vụ việc. Mặt Thanh tái như chàm đổ. Cô ôm thằng cu con, hôn nó thắm thiết rồi đi ra xe.
Chắc là chả sao, chắc chắn vậy. Thanh đâu có giết người mà sợ. Đúng không? Còn vì sao gã trai chết, ai mà biết. Thì Thanh có đến nhà nghỉ với anh ta, có đủ thứ như vợ và chồng, nửa đêm anh ta chết. Thanh sợ quá nên bỏ về vậy thôi, còn vì sao thì bên điều tra sẽ biết. Mà chắc cũng chả lâu la chi. Bọn trai trẻ lúc nào cũng thể hiện ta là đàn ông đích thực, chúng yêu cho đến tận, đến cùng, có thằng còn xài cả viara để tình nương mê đắm. Chả phải đã hơn một lần báo chí đưa tin có kẻ chết vì lạm dụng đấy sao? Còn chuyện chết vì thượng mã, hay phạm phòng thì nhan nhãn hỡi người ơi.
Ở trong chiếc xe bít bùng Thanh đưa tay bưng lấy mặt.
Cô nhận rõ mình không còn gì.

NGUYỄN TRÍ

TRONG TRƯỜNG GÀ

nguyentri

Ấp một là trung tâm thương mại của xã Thành Hội. Nói văn huê chữ nghĩa lấy le với thiên hạ chứ đất nầy trước là cái chợ tự phát. Ấp nầy cũng là trung tâm văn hóa của bảy ấp còn lại. Đây cũng là một cách nói chữ cho vui chứ hóa huyết chi, chả qua mỗi khi có đoàn hội chợ làng nào về, dân các ấp tụ tập nghe ba ông đực rựa mặc váy ưỡn ẹo con bốn theo trai là con bốn mươi hai… rồi cờ ra con mấy… Xã núi non vậy là ngon cơm lắm rồi.
Đêm đêm cà phê Quang Lâm cũng mở hết công suất mấy cái loa thùng, nhạc nhẽo xập xình chiêu mộ mấy tay bợm nhậu ghé nghe và xem ca sĩ miệt vườn hát. Không tầm thường ba cái karaôkê cũ rích mà dàn nhạc hẳn hoi, cũng guitar trống tum trống bát và sâmban chỏa chỏa chỏa không thua chi các bạn nhạc lớn trên ta bà nầy Tiếp tục đọc

THIÊN SỨ

Nguyễn Trí

nguyentri
Từ chân đến đầu, chính xác một mét lẽ tám phân. Không tràn bề dọc nên Thượng Đế- không ai vô nữa –  cho Tỉnh cái chiều ngang cực phong phú. Để bù cho gương mặt loại dị hình – Thượng Đế- dứt khoát là ngài, cho Tỉnh một tâm hồn cực lãng mạn.
Hãy khoan nói đến yêu đương… Tướng tá vậy lại không một ai trên đời để gọi là thân thuộc. Tỉnh ở đâu mà ra vậy? Điều nầy Thánh mới biết. Mà quan tâm làm gì đến thiên hạ? Ở thị trấn nầy chừng năm cái trạm xăng, mỗi trạm trên dưới chục người bán vé số, cũng chừng đó đứa lớn đen thùi cõng đứa nhỏ cầm cái ca cũng đen thủi. Trong chợ thị trấn người chống nạng, kẻ lê lết thân tàn – giã tàn – qua những bẩn thỉu để xin lòng thương bá tánh….Chả ai quan tâm đến một dị tướng, lặng yên ngồi ở một gốc cây dầu trong khu công viên cây xanh của thị trấn.
Ngồi vậy rồi lấy cái gì mà đút vô miệng hả trời? Ăn hả? Ngủ hả? Đó không phải là chuyện đáng phải bàn. Công viên là nhà, tối ngủ ghế đá. Lỡ mưa? Tỉnh đã thủ sẵn mấy miếng xốp dưới ghế, trùm cái bạt nilon là kín bưng. Trưa vắng vẽ, kê đầu lên miếng xốp, thân mình trên bãi cỏ thiu thiu giấc, nhàn như một ông hoàng trong truyện thần tiên. Ăn? Tỉnh xơi cơm tiệm, có tiền ăn đâu chẳng được, cần gì nồi niêu soong chảo..
Bảnh há? Tiền đâu vậy? Tiền đâu với thằng lùn mã tử, suốt ngày ngồi ở gốc cây? Nhìn đi, nhìn kỉ vào, thấy chưa… Một anh tới, nói nói, cười cười, chỉ chỉ, trỏ trỏ. Tỉnh lùn đi một lát rồi về. Tiếp tục ngồi. Vậy thôi. Hết. Mẹ ơi làm cái quái gì vậy?
Biết gì không? Đó là mấy tay đi mua hoa. Hoa gì? Vậy mà cũng hỏi, hoa độc chứ hoa gì. Má ơi, sao không đến cà phê ôm, bia ôm mà… Thiệt là, không hiểu biết gì hết, đi cà phê ôm phải vô quán, bọn chủ nó xắt một li chưa ôm vài chục ngàn, còn dẫn gái đi ôm hoặc tới bến, lương công nhân chịu sao thấu, hiểu không Tiếp tục đọc

Cô độc.

Nguyễn Trí

040Klee-AdMarginen

Cuối cùng Út Bình cũng tìm được người lên bãi coi hàng hóa trong mười hai ngày nghỉ tết. Thật là mừng thiếu điều hết lớn luôn. Ở lại đỉnh Đồi Đất Đỏ, trong những ngày mà có đói thiên hạ trên đất nước nầy, quan cho chí dân, giàu chi đến nghèo đều quăng hết mọi sự qua một bên để vui vầy là trên cả tuyệt. Tết mà, cày bừa làm chi nữa?

Người chịu quay trở lại rừng là Trình. Một vợ ba con. Hai con lớn gửi phía ngoại trông nom giúp. Còn út vào rừng cùng cha mẹ. Út của cặp vợ chồng nầy bạn với rừng hồi mới ba tháng tuổi. Thảm lắm. Đi làm mẹ địu con sau lưng, về sau đem luôn con gái lớn vào trông em. Nghèo khổ quá người ta mới vậy chứ ai chả biết rừng sâu là quái ác. Sốt rét quật cả mẹ lẫn con ngã ngựa. Trình phải về kiếm nơi cư ngụ. Nơi ở  cũng cực kì tạm bợ. Đó là một chòi lá, đằng sau một lò heo. Chủ lò cho vợ chồng Trình ngụ tạm. Chừng nào em xây lại chuồng rồi tính, còn bây giờ anh cứ ở. Chủ lò nói vậy. Cuộc sống  vợ chồng con cái Trình không thể nào lay lắt hơn.

Tết của gia đình Trình buồn đến nát ruột nát gan. Làm sao mà không nát khi chả có chi kể cả gạo trong ba ngày tết. Chòm xóm láng giềng toàn lấy rừng làm mạch sống, ai cũng khó. Mấy tay buôn bán có tí máu ở chợ thì vái vợ chồng Trình cả tơi lẫn nón. Chủ hiệu tạp phẩm Lệ đã chận Trình ngoài lộ, đe:

– Ông coi thanh toán trước tết nghe, không có tui dỡ nhà ông à Tiếp tục đọc

Bó tay

Nguyễn Trí

Screen Shot 2014-01-04 at 3.34.25 PM

Thanh, chủ tiệm may Thời Tân nên gọi Thanh Thời Tân. Em trai tên Cảnh, thiên hạ cũng gọi Cảnh Thời Tân. Hai anh em bất hạnh như nhau. Anh bị vợ bỏ, em chả ma nào dám lấy. Dễ hiểu lắm. Hai tay nầy là đệ tử hàng thứ nhất của Lưu Linh hoàng đế.
Xứ sở chi mà chục thằng là chục bợm. Mới sáng đã thấy quý anh tình tính tang ở mấy quán cóc, thằng thất nghiệp chả nói làm chi, thằng có việc cũng súc miệng đôi li trước khi lên đường. Ưng lên là tới bến, nay không làm mai làm, công việc cả đời chứ đâu phải ngày buổi gì mà gấp gáp. Còn bạn hiền thì không bỏ được. Anh em mời không uống là không phải, uống xong không mời lại là không biết chơi. Chơi đến độ vợ bỏ, gái nhìn là lắc đầu quầy quậy:
– Thà em làm nô lệ cho bọn đào lang, hàn cuốc. Ngu sao lấy hủ hèm cho mang nợ Tiếp tục đọc