Cáp Diệp mất con bò Nu ngoài ba tạ, trăm phần trăm cư dân ấp Sông Trầu chắc nụi thủ phạm là cha con Tư Tấu. Không ai vô, họ tin thế. Nhưng Cáp Diệp không tin:
– Lúc bầy bò đi ăn về tôi và Tư Tấu đang nhậu ở quán Tài Rùi…
– Thôi ông im đi cho tui nhờ – Bà Diệp hét lên – ông lúc nào cũng chỉ ba giọt rượu…
Diệp già im thít. Lại đội áo mưa đi kiếm tiếp. Cả hai tiếng đồng hồ, bốn đứa con, bà vợ cùng một lốc anh em xóm giềng xúm vô lục tung mấy cái lô cao su tìm cho ra tăm tích. Nhưng mà thiệt hay, con bò như ông khổng lồ bốc hơi không tăm dạng. Trộm kiểu nầy thì quả là thần khốc quỷ khấp, giữa ban ngày ban mặt nữa mới chì. Và ai cũng nghĩ đến cha con Tư Tấu:
– Bà má nó – Tư Rừng lên tiếng – Tao quá rành thằng Tấu. Nó rủ thằng Diệp nhậu, trời mưa, đi chăn bò lạnh thấy bà nội có rượu uống, có bạn tâm sự tao còn uống nói chi ai. Nó nhậu nhưng hai thằng con trai ra tay. Bây hiểu hông?
Nhưng mà con hỏi chú dấu đi đâu trong cái khu dân cư nầy?
– Vậy mới là Tư Tấu. Mấy vụ trước đây không phải cha con hĩa(1) đem tao chặt làm ba khúc lấy cái đầu cho bây ngồi chơi. Dấu đâu hả? Tụi nó có âm mưu, chỉ một chiếc xe tấn rưởi đậu đâu đó là con bò ra tới miền campuchia luôn. Trong khu dân cư nầy xe ra vô hà rầm, ai hơi đâu mà để ý, hiểu hông mấy ông nội?
– Chú nói như là có tham gia.
– Tham cái bà cố mày.
Cuộc truy tìm đến tám giờ tối thì ai về nhà nấy. Cả gia đình họ Cáp cũng giơ tay xin hàng. Thật là muốn ói mật, con bò hai mươi triệu ngoài, cả một đời dành dụm, ăn nhín nhịn thèm, nay bị mất quả là tức, giận, hận dồn một nùi vô cả gia đình nầy. Bầy con thì chả nói chi chứ vợ chồng Cáp Diệp khóc ra cả biển nước chứ không ít.
Trời ơi, ai chứ Cáp Diệp và vợ đến con bò còn sướng hơn. Được mấy sào đất làm không nên ăn Diệp phải nhờ vô bò, bò cũng nuôi rẽ của người ta mà ra. Ngó vậy chứ con bò đến cái chất thải của nó cũng là tiền. Bao năm trôi qua, từ thuở hồng hoang của ngày còn trẻ đến nay ngoài sáu chục. Vợ chồng Diệp nào biết chi đến hai từ thong thả. Tất cả đều phải dụm dành vì tương lai bầy trẻ. Không có cái đận nhà nước thu hồi đất làm đường, thì Cáp Diệp dễ chi có cái nhà đàng hoàng mà ở như hôm nay. Tuy ở khu dân cư nhưng Diệp vẫn cứ bò mà nuôi. Đất được chia ba trăm mét. Diệp làm cái chuồng trăm rưởi vuông chứa sáu con bò, chỉ sáu mà thôi, hơn là gã cho mấy lò mổ, ai cần nghé Cáp ta chu cấp liền. Mấy thằng chơi kiểng khô kiểng ướt đặt hàng cho Diệp hàng tấn phân khô một lần. Thu nhập tuy bạc lẽ nhưng bầy con Cáp Diệp cũng ngon lành, đứa nào cũng xong cấp ba… Nếu không có cái kiểu sống đãi cứt gà lấy tấm dễ chi được vậy.
Vậy mà mất con bò thì ói mật là đúng quá.
Và khi cơn tức chận ngang bộ ngực già nua lép kẹp thì chả ai ngủ được cả. Cáp Diệp cứ ra vô lên xuống trong cái phòng khách mà chép miệng. Dám lắm – Diệp nghĩ – Tư Tấu gài mình uống rượu, hai thằng Hải và Hà con trai Tấu ra tay. Nhưng mà nó dẫn con bò đi đâu? Mấy lô cao su quanh khu dân cư đã được cày nát. Giữa ban ngày ban mặt, không người nầy thì người kia phải thấy chớ. Còn xe? Nếu có thì dấu bánh phải có, trời mưa dấu chân chuột còn thấy nói gì cái khác. Vậy con bò bốc hơi đi đường nào? Tức, cha chả là không chịu nổi.
Nghi cho cha con Tư Tấu, cũng không chắc. Vì sao? Vì lúc kiếm bò thì thiên hạ thấy anh em Hải Hà đang ngồi trong quán Cờ Tây nhâm nhi ba sợi. Tụi nó nhậu còn ai đi trộm? Bộ có phép phân thân à? Nhưng Tư Rừng nói:
– Cha con thằng Tấu ăn trộm có nghề, thấy vậy mà không phải vậy đâu. Tin tao đi, ba đời ở xứ nầy, tao rành dòng họ Tư Tấu thuở còn nhà lầu năm tầng chứ không phải ra cái thân xơ xãi như ngày hôm nay đâu… À mà khoan…
– Khoan sao chú?
– Tụi bây có kiếm chỗ cống hộp trên đường mới chưa?
Rồi. Có thấy chi chú ơi.
– Vậy là tao cũng xin thua, thật ra cả cái xã nầy, phía chính quyền cũng biết Tư Tấu là cha của Đạo Chích nhưng bó tay vì không quả tang. Cha con nó còn hơn cả Thời Thiên trong truyện Thủy Hử nữa
Gặp tui, tui lôi lên phang cho một trận là lòi ra hết.
– Mày nói chuyện như hài, có bắt được đâu mà phang với đấm. Bộ tưởng dễ đánh người lắm sao? Mà thôi, xem như Cáp Diệp mất hai chục triệu, và chính quyền xứ nầy bị trộm vuốt râu. Tao dzề à.
Còn sớm mà chú… kể chuyện Tư Tấu tụi con nghe chơi xí được không?
***
Tư Tấu hả?
Rằng ông nội Tấu tên Tiền cha của bầy con trai có tên Tính, Tinh, Tình, Tịnh. Tịnh là cha của Tấu. Còn có một một bà cô tên Tâm. Họ giàu nhứt xứ. Sự giàu có bắt nguồn từ cái nghèo rớt mồng tơi mà ra.
Ông Tiền cùng bầy con tha phương đến xứ nầy. Tạt vô một góc rừng cất cái chòi ở tạm, kiếm sống bằng nghề ve chai lông vịt. Vợ chết trên đường lưu lạc. Năm đứa con như năm cái tàu há mồm, Tiền ra hết sức mà mấy cái bụng vẫn cứ ỏng eo. Nhìn qua rất chi tội nghiệp, nhưng bà con ai cũng khó nên thây kệ cha con bây. Ai đó tới chòi rách tặng cho cái chép miệng cám cảnh là quý hóa lắm rồi. Con Tâm là chị lớn, uy lắm, nó trị bầy em như nữ tướng, chẳng thằng náo dám cà cháo với bà chị tuổi Dần.
Có một chuyện mà cả ba quân cười chết bỏ và có rất nhiều người chứng thực. Một hôm ông Tiền lôi cả bầy con đi lượm xương bò, lục nát bấy thùng rác mấy quán phở, hủ tíu… đến tận lò bò, lò heo tận thu xương. Gom thành đống, thôi thì nó thúi inh trời đất, dân tình chửi như nước lũ tràn bờ. Sau đó xe và lái tới cân. Lúc nầy dân tình mới biết xương cũng có tiền, xúm vô hỏi, Tiền cũng thật thà nói người ta thu đủ thứ xương để nấu cao. Lái xương thông báo cho bà con cứ gom đống họ sẽ mua. Vậy là cả xóm bỏ việc đi lượm. Chả hiểu họ truy ở đâu mà nhà nào cũng một đống không to thì nhỏ, lần nầy chả ai than thở chi vụ thúi tha. Chỉ có mấy đứa con gái tha hồ ụa, vì dòi ngo ngoe lổm ngổm trên đống xương nhìn mà kinh tâm, rởn gáy.
Sau đó dòng sông chảy qua ấp Sông Trầu phải chịu trách nhiệm nuốt hết xương bò. Bà nội cha nó – họ chửi – chửi cũng phải thôi, bọn lái một đi không trở lại, lúc đó mới nghe nói tụi nầy tính màn nấu xương bò ra cao hổ nên thất bại. Vụ nầy ai chăm chỉ chừng nào thua lớn chừng đó. Gia đình ông Tiền đậm nhất vì có kinh nghiệm đi lượm xương. Ông Tiền nghèo nên khôn lắm, vô luôn trong lò bò phụ việc lấy thù lao là xương bò. Kha kha kha… nghe buồn cười chết bỏ.
Cốt khỉ nên chả có chi đáng lo. Ông Tiền lại vươn vai kiếm sống. Nhưng ông chủ lò bò lại đến nhà tìm Tiền để nhờ giúp việc, lương lậu hẳn hoi. Thấy hoàn cảnh Tiền bi đát quá, liền lôi cả bầy về cho ngụ một gian trong lò. Bầy trẻ mừng lắm, đang cạnh mí rừng nghe cú kêu sợ chết bà nay vô tường gạch ấm áp gì đâu.
Ông chủ khỏi luận chi cái vụ giàu, chả hiểu ông ta nghĩ sao có một đứa con gái mà lại chơi một căn năm tấm. Đứa con gái tuy đẹp nhưng suốt đời đội tóc giả, không phải cô cầu kì mà vì cái đầu không một sợi tóc. Thiên hạ nói nhỏ nhau nghe rằng cái nghiệp nầy nó vậy đó… Đó là đó làm sao? À… kiểu như ăn mặn khát nước vậy mà… Lại thêm rằng ông chủ nói, ai chịu lấy con ổng làm vợ ổng cho nguyên cái lò bò. Năm đó Tịnh cha Tấu mới mười sáu, còn cô chủ đà mười tám. Chả hiểu ra làm sao mà cô cậu yêu nhau. Chắc là lửa gần rơm nên bén. Vậy là anh làm thuê tên Tiền thành sui gia với ông chủ lò.
Cả hai đẻ ra Tấu, duy nhất Tư Tấu vì hai ba không nuôi được. Đẻ tiếp thì cô vợ tóc giả mất vì hậu sản. Ông chủ lò buồn tình ôm cháu ngoại làm ba sợi sương sương, vấp chân té đập đầu vô tường, máu mồm chảy như suối, bệnh viện chào thua vì động mạch chủ bị vỡ. Đã cao huyết áp mà còn dộng rượu vô thì thánh còn chết nói chi người.
Tịnh nghiễm nhiên là chủ lò.
Dưới sự điều hành của ông Tiền và cô Tâm, lò bò dười thời ông chủ Tịnh cực kì rực rỡ.
***
Sự giàu có của gia đình ông Tiền còn dững dừng dưng hơn cả truyện Chum vàng bắt được. Đúng nghĩa của trên trời rơi xuống. Không đúng sao? Người ta mời ông tới nhà, kết tình sui gia rồi lăn ra chết giao cả cơ ngơi cho ông, thiệt là nhẹ hơn bấc, không làm sao mà luận cho ra. Dễ như làm một con bò vậy.
Thật vậy. Một con bò cả hai tạ ngoài, dềnh dàng vậy mà ông Tiền nhoáng không quá mười lăm phút là gọn. Con bò khi chết không biết đau đớn là gì, với một cái búa hai đầu tròn, tục gọi búa củ tỏi, cô Tâm xách vàm mũi lên, gõ nhẹ vào tam tinh, ngay lập tức con bò sụm gối. Kĩ thuật nầy chỉ một mình cô Tâm là siêu đẳng. Những con bò thiến bị lại dữ dằn khét tiếng, chả hiểu làm sao đứng trước mặt cô là rúm ró, tay búa vung lên, bò chưa kịp sụm gối thì lưỡi dao phay trong tay ông Tiền đã vào tim, huỵch ra đất là xong cái vụ tiết. Thiên hạ nói nhiều về cái uy của cô Tâm lắm, có lẽ vì vậy nên tuy giàu có, nhan sắc không đến nổi tầm thường mà cô lại chết trong cô đơn, đã uy lại tuổi dần nó thế.
Quăng lưỡi dao phay, ông Tiền cầm lưỡi dao rọc. Nó nhọn hoắt và bén như nước, loại dao nầy hơn cả dao xắt thuốc của xứ Cao Lãnh. Ba thằng con Tính, Tinh, Tình phụ nắm tấm da cho cha rọc. Không quá năm phút là xong, ra thịt thì khỏi chê, một cục xương quăng ra bảo đảm con chó ngửi rồi bỏ vì chả có còn chi mà liếm láp. Từng loại thịt được xếp vô cần xé. Tịnh, với tư cách ông chủ sẽ đánh xe ra chợ và thị trấn. Da bò được quăng vào một bể nước muối, cứ mươi, mười lăm tấm là những cơ sở thuộc da sẽ mang đi một lần. Mỗi sáng lò cha con ông Tiền hạ thủ hai chú bò, và trên dưới chục chú trư. Làm ăn vậy mà không giầu thì làm chi?
Cái ngon lành nhất của một lò mổ là mua của bọn trộm. Người ta thả bò đi ăn ngoài mông quạnh. Chỉ cần chủ ý một tí là có thể ung dung dắt một con lẫn vào rừng hay vào một nơi kín đáo nào đó rồi chờ đêm xuống. Những con bò nầy ông Tiền mua với giá rẻ hơn bèo. Một loại khác cũng bèo là những con đã sức tàn lực kiệt hay bệnh tật. Chủ dắt đến năn nỉ hết phép Tiền mới hạ cố mua cho. Một thứ khác là thịt đã ra thành phẩm của bọn trộm, chúng đưa tới cả cần xé nhờ lò bò giải quyết… Nói chung nghề nghiệp chi cũng có cái gian manh của nó. Và dưới trần gian nầy cái gì mà thiên hạ không ăn? Có câu vè rằng thợ may ăn vải thợ hồ ăn xi măng, đồ tể thì ăn thịt nhưng chủ lò sát sinh thì uống luôn cả máu của ta bà nghèo chăn nuôi.
Ông Tiền sinh ra lớn lên trong nghèo khó. Một thứ dân cấp phó. Phó dân Tiền và bầy con kiếm cái ăn đà chết lên chết xuống. Mắt luôn ngó xuống đất, lâu lâu ngước mặt nhìn đời thấy kẻ ăn trắng mặc đẹp đều dân có chữ múa cây bút mà ra tiền. Vẫn biết một chữ đáng giá ngàn vàng, dù không chức phận cũng nhàn tấm thân. Nhưng cha con ông Tiền đâu có cơ hội. Thôi thì kẻ có trí bán trí mà ăn, ta không có thì bán sức vậy. Đùng một cái tất cả hóa thành chủ, tiền bạc vô như nước. Chữ nghĩa không mảy may tham gia vô sự giàu có của gia đình nầy. Tuy không hò reo mừng rỡ, nhưng họ biết giải tỏa nổi niềm khi chén chú chén anh, cái nghề ngập ngụa trong máu đỏ, khiến họ uống thôi là uống. Đảm bảo Võ Tòng cả Lỗ Trí Thâm chả dám tạc thù, mấy thằng rượu cỡ Lệnh Hồ Xung hay Kiều Phong trong kiếm hiệp của Kim Dung là đồ bỏ.
Cả cô Tâm cũng làm một li trước khi vung cái búa củ tỏi vào tam tinh chú bò. Cô sợ ư? Vâng, sợ. Đôi mắt của loài vật nầy vốn to, tròn và u buồn rất chi tội nghiệp. Khi cô Tâm xách vàm mủi giơ lên cao, biết chết nên nước mắt nó ròng chảy, chúng luôn ụm bò bi thiết trước khi đầu củ tỏi vô tam tinh. Quen tay và lạnh lùng như đá cục cỡ ông Tiền mà còn tu ừng ực trước khi vung dao vào cổ họng con bò. Để tránh cơn hãi sợ với nghề. Họ dùng rượu làm bạn.
Trước khi ra tay. Rượu. Hoàn tất, lại rượu cho tới bến. Tỉnh giấc lại tiếp tục, đứa đi bắt heo, thằng đi xem con bò, con trâu ở a bê chi đó kêu bán. Tối lại cùng nhau trên bàn rượu. Cứ vậy hết ngày dài rồi lại đêm thâu. Ngày qua tháng qua năm qua. Thiên hạ hỏi:
Sao mấy thằng con ông không thằng nào lấy vợ vậy ông Tiền?
Kệ mẹ nó, chuyện gì đến nó đến ông ơi.
Còn lâu chuyện mới đến. Vì sao?
Khi rượu thấm vô tim gan phèo phổi và hòa cùng máu lưu thông trong cơ thể, thì đảm bảo cái vụ giường chiếu là đồ bỏ. Người ta dùng rượu để hoàn thiện cái vụ kia, uống hoàn thiện và uống bất thiện khác nhau như nước với lửa. Chuyện đàn bà khi thích thằng trai mới tìm đến, không một kẻ nghiện rượu nào trên trần thế nầy cần đối tác. Rượu hủy diệt bản năng, chắc chắn thế.
Với ông Tiền chả quan trọng chi vụ nối dõi tông đường. Nghèo trong cốt đó không là vấn đề, với lại út Tịnh cũng có thằng con trai ngon cơm rồi. Thêm cái ngon thứ hai là trong khi ai cũng như hủ chìm thì Tịnh tuyệt không, dù một giọt. Anh ta ung dung cầm lái chiếc Daihatsu. Cái thời mà ai có của, được chiếc Lambro 550 đạp hộc gạch mới bành bành bành mà tới là xem xem thiếu gia. Tịnh đề nhẹ là máy nổ, êm ru bà rù mà tới luôn bác tài. Có câu một trăm lời nói không bằng làn khói Daihatsu. Vợ chết Tịnh có liền một người đẹp nhảy vô thế chỗ. Em chả cần cưới xin chi ráo. Vớ được cái hủ vàng ngu sao làm giá, nó đổi ý là vong liền.
Tịnh dẫn cô vợ về nhà cũng chả ai kêu rêu. Kêu cái gì? Ai có việc có phần nấy. Cả Tư Tấu cũng chả quan trọng mẹ ghẻ con chồng. Cái phòng của ba nó ai muốn ngủ thì ngủ mắc chi đến nó. Bà hai cũng chả dám động chi Tấu. Cặp mắt nó lườm lườm nhìn thấy ớn. Thôi yên cho xong. Tịnh quý vợ mới lắm, em muốn chi anh chiều nầy. Tịnh ra chợ mua cho người đẹp một chỗ trong sạp thịt, cả cây vàng chứ không ít. Còn thịt thì ngày nào Tịnh cũng giao cho vợ cả tạ. Vợ cứ thế mà ung dung thu tiền. Chị Tịnh nổi tiếng khắp chợ về nết hào phóng, chị cho bên nầy, đãi bên kia. Uy tín lắm lắm nên khi vợ Tịnh ra tay cầm cái hụi là chị em hùa theo xin góp của. Đúng là tiền đẻ ra tiền, không tiền đẻ ra nợ. Có tiền nhưng cha con ông Tiền chả ham hố chi sang cả, chỉ riêng một Tư Tấu khỏi chê cái vụ xài. Thích một con chim đội mũ, còn gọi chào mào đỏ đít Tấu bỏ ra cả năm chỉ vàng để có cho bằng được. Chơi chán Tấu quăng lồng ra cho con mèo đùa chơi.
Tấu cũng được đi học đó chớ, nhưng con nhà giàu, giàu quá, thêm cái gia đình mà chữ nghĩa là một cái gì đó xa xôi, đâu ai quan tâm đến sự học. Tấu lại khoái ông nội lột da bò và ra thịt, sáng nào cũng thức sớm xem cô vung búa, nội vung dao. Ông Tiền chỉ một thằng cháu nên cưng lắm, cho mày chơi mút mùa lệ thủy. Tấu la cà với giới thương lái bò lậu, những kẻ mà đêm đêm đi rình rập nhà người cùng những kĩ thuật bắt trộm heo, bò. Bắt mà không kêu mới gọi là thầy. Tưởng khó khăn chi lắm, ai ngờ dễ ẹc. Bọn trộm canh ke xong nhảy vào chuồng, chú lợn chưa kịp kêu thì miệng bao đã kề mặt, hít một hơi thì bao nhiêu tro bếp đã vào đầy phổi… bò thì chỉ cần một đụn cỏ tươi là vong mạng. Quan trọng là làm sao cho gia chủ ngủ yên, ngủ thật yên.
Bọn trộm gia súc lớn nầy bè lũ, phe cánh không ít. Có nghề và gan dạ mưu trí không kém ai. Chả hiểu ra làm sao mà giầu có, cơ ngơi hùng hậu vậy Tư Tấu lại khoái nghiệp nầy, khoái nên chơi cho thỏa chứ chẳng cần chia chác chi. Một thằng hoạn là sư phụ của Tấu trên bước đường hội nhập vào giới đạo chích. Thằng nầy ngây thơ ông cụ lắm, hắn la cà làng trên xóm dưới, thôn nầy ấp kia thổi cái kèn toe toe. Nhà nào cần thiến heo bò là ra tay kiếm tí tiền còm. Trong khi thiến hắn quan sát kĩ càng nhà gia chủ rồi thông báo cho đồng đội ra tay. Bọn chuyên sẽ đột kích vào nhà và làm sao đó cho gia chủ mê man. Bỏ thuốc mê vào lu nước sinh hoạt của chủ nhà là chiêu đắc dụng nhất.
Tấu chăm chú nhìn sư phụ hoạn lợn. Nào, gia chủ đâu, xách hai cái cẳng sau giở lên cao cho tôi. Chú heo eng éc inh ỏi khi lưỡi dao cau thọc vào hạ bộ lấy hai hòn nan của nó ra, một sợi nhợ nằm trong mũi kim khâu chớp nhoáng khâu lại vết mổ, hay nhất là lọ nồi, nó được bôi vô vết thiến để sát trùng. Ra cái thứ đen thui nầy là trụ sinh cho lợn đấy. Mỗi chuồng heo khi hoạn ít cũng mươi con. Hai mươi hòn nan ấy ông thầy hoạn làm một đĩa để nhâm nhi cùng ba xị đế.
Thiến trâu thì không vậy, công cán bằng hai mươi lần thiến heo vì khó và mệt lắm. Công việc nầy một mình là không thể. Những con trâu tới thì động, chúng dữ dằn hung tợn không tưởng được. Nhưng con nào tốt đẹp sẽ được giữ để làm nhiệm vụ truyền giống, con nào xấu một nết thì phải chấp nhận cày kéo cho hết kiếp. Người ta hủy diệt cái hung tợn bằng cách lấy hai hòn nan của trâu làm thức nhấm nhậu chơi. Thứ nầy với loài người là đại bổ.
Người ta cột chặt bốn chân trâu vào bốn chiếc cọc được đóng thật chắc chắn. Một đòn dài hai mét, đặt lên cần cổ và sẽ do hai tay thanh niên lực lưỡng ghìm xuống thật chặt. Đến lúc ấy thầy hoạn mới ra tay. Lưỡi dao cau ngọt như nước rọc nhanh vào bìu, hai hòn nan được lấy ra. Vết mổ sẽ được khâu lại bằng dây cước và cũng được bôi lọ nồi. Khác với con heo khi thiến xong được quăng vào chuồng, bẩn thỉu chi cũng mặc. Con trâu thì không vậy, sau khi thiến nó sẽ được nhà chủ luân phiên dẫn đi, trâu nằm xuống bị nhiễm trùng hay bục chỉ là vong mạng. Họ sẽ dẫn đi chí ít ba ngày đêm ròng rã, có thể hơn, khi nào vết thương lành chú trâu mới được quyền nằm.
Nhưng để hoạn một con bò thì không vậy, nó khó hơn bội lần. Có câu yếu trâu hơn mạnh bò. Con trâu lấy hai hòn nan của nó, nhưng vẫn cứ là trâu, cày bừa hay kéo đều uy phong lẫm lẫm. Bò thì không vậy, một đực bò sau thiến sẽ hóa một mụ bò vô dụng. Bò cái thì còn đẻ và cho sữa, kẹt còn có thể móc ách vô đi kéo đi cày. Còn gã bị thiến thì chỉ biết ăn và cuối cùng bán cho lò mổ. Vậy nên khi thiến bò thầy hoạn phải làm sao cho gã bị thiến phải lại.
Đó là một tuyệt kỹ. Nếu lấy hẳn hai hòn nan ra khỏi bìu thì ai cũng làm được, miễn xem chuyện tanh máu là thường. Nhưng làm sao để lại? Và phải lại đủ để không thèm cái vụ truyền giống, gã bị thiến phải uy và mạnh mẻ như… trâu mà phục vụ cho lợi ích của con người. Muốn được vậy phải là sư hoạn thượng thừa. Thiến bò phải có đồ nghề loại đặc biệt. Rất ít người mục kích nói chi biết bộ đồ nghề nầy.
Một cái đe bằng gỗ, tầm cao từ sáu đến bẩy tấc, sao cho khi đặt giữa hai chân bò thì hai hòn nan phải nằm gọn trên đe. Một cái búa gỗ và mũi ve (đục) cũng bằng gỗ. Hoạn dùng vải bó chặt nan bò rồi dùng búa gõ nhẹ vào đầu mũi ve chung quanh cuống của hạ bộ. Con bò không thể động đậy vì bốn chân cũng bị cột chặt và cổ bị vít xuống như khi thiến trâu. Nó phì phì thở để chống lại đau đớn mà không thể kêu la. Lí do? Đơn giản muốn kêu thì phải ngước, nay cổ bị vít xuống thì làm sao kêu? Hoạn vừa dùng tay lắc, vừa ghè búa… Hai mươi phút đi qua, sự đau đớn đủ để con bò ba ngày sau không thể đưa cái lưỡi liếm mật đường trộn cám. Răng thiếu điều rụng vì đi qua khủng khiếp. Và một tháng sau chủ nhân mới có thể biết con bò có bị lại hay không mà thanh toán tiền công cho Hoạn. Nếu lại, hoạn sẽ hả hê, còn không chỉ một chầu nhậu là hết. Nghề nầy phải kẻ cùng đường mạt vận mới theo vì ai cũng cho nó thất đức vào bậc nhất. Ba Me – người Tư Tấu gọi thầy – là một loại sư hoạn có tên, lừng lẫy lắm nhưng mười con đực vào tay nhiều lắm là sáu em lại hồn. Cho hay rằng thiến để lại một con bò không hề dễ:
Tư Tấu hỏi thầy:
Sao lại dùng đe búa bằng gỗ vậy ông Ba?
Mày có biết người bị hoạt tinh không?
Không. Sao?
– Hoạt tinh là khi bị xúc động mạnh tinh trùng sẽ tuôn ra như khi làm tình. Bệnh nầy rất nguy hiểm vì làm tiêu hao nguyên khí của con người. Muốn trị nó phải đông y và một vị không thể thiếu là Hà Thủ Ô Huyết, khi khai thác người ta phải dùng dao, hay vật nhọn bằng gỗ để đào. Thiến bò muốn lại phải sử dụng mọi thứ bằng gỗ, và chỉ duy nhất loại gỗ Tung mới được… Mọi thứ khác là thất bại. Hiểu không?
Ai bày ra vụ này vậy ông?
Tao đách biết, thầy tao biểu sao tao hay vậy. Xưa giờ vậy.
Tư Tấu theo Ba Me gọi thầy. Gã hoạn heo được xưng thầy khoái lắm, có bao nhiêu ngón truyền hết cho trò. Trò con nhà giàu nên vung tiền cho thầy bớt cảnh lầm than. Ba Me ba đời vợ nhưng không con. Mụ nào bá vô Me vài năm là dông tuốt kiếm cái hậu duệ khi về già. Thiên hạ nói Ba Me làm nghiệp hủy diệt mầm sống thì không sự sống nào theo. Me cười:
Bà nội nó… tao không làm, ai làm?
Tư Tấu nghe có lý nên làm luôn. Khi Ba say không cầm nổi dao cau hoạn lợn đã có trò Tấu. Tấu làm nhanh gọn và đẹp hơn thầy nhiều. Riêng cái thiến bò thì về sau Tư Tấu danh qua mặt thầy. Mười đực vào tay Tấu là mười em hoàn hảo. Việc nầy nhờ rất nhiều vào cái chết của ông Tiền. Một cái chết cực ngoạn mục.
***
Chết sao mà ngoạn mục hả chú Tư?
– Khì khì…là vì sau khi ông Tiền chết nó kéo theo một lô một lốc những cái bi thiết khác trong gia đình ổng.
Con nghe kể ổng chết thảm lắm hả.
Cũng chả thảm đạm gì, nhưng mà kì lạ.
Ông Tiền ngụ trên tầng năm của căn nhà. Trong gian riêng nầy là nơi thờ phượng của bà vợ, vợ chồng ông sui và cô con dâu bạc mệnh. Ông Tiền thường ngủ trưa ở đây.
Căn lầu nầy có ba cái lỗ thông gió hình tam giác. Ngày xưa thợ làm vậy để thoáng khí. Hôm đó là tháng giêng, trời oi bức kinh khủng, ở xứ nầy thời tiết vậy cũng chẳng ai lấy làm lạ vì nó vốn vậy. Bổng nhiên gió ào ào kéo mây đến làm đen nghịt cả bầu trời và ầm ầm sấm động. Bầy con nít hò reo mừng mưa trái mùa, nhưng mấy ông già lắc đầu, rằng không mưa đâu, sấm trước thì không bao giờ mưa… Rồi trong tiếng rền rền một luồng chớp lóe lên sáng rực, giáng xuống ngay mấy cái ô tam giác. Luồng sét đánh nát một góc lầu. Ông Tiền lảnh trọn.
Mấy ông già nói thiệt hay, gió lại ào ào thổi tan mây và bầu trời xanh trở lại.
Tính, Tinh, Tình, Tịnh khiêng cha xuống lo hậu sự. Nhìn cái xác khô khốc và đen thui bởi sét thiên hạ táng đởm kinh tâm. Họ xì xào to nhỏ về cái quả của nghiệp đồ tể. Thiên hạ nghĩ cũng kì, thêm thắt toàn những tích cũ đầy mê tín dị đoan. Con trâu, con bò, nói chung tất cả các loại con, nuôi mà không ăn thịt thì để mà tế à? Không giết thì nó ăn luôn mình chứ đừng có đùa. Nói ác thì quý ông bà đừng có ăn, nhất là mấy bợm nhậu xơi cả bò tái, có cha đòi cho bằng được hà nàm(2) của bò, chứ heo thì nghĩa địa gì.
Thiên hạ nói vậy mà không chừng trúng đó nghe. Sau cái chết, tai họa bắt đầu ập đến ngôi nhà nầy. Bắt đầu là chị Tịnh bị vỡ hụi. Bọn em út hốt xong là xù. Xù chứ không dông. Chúng không đóng mà còn nhơn nhơn cái mặt kiểu tao không đóng làm chi tao. Để dằn mặt chị vung tiền ra thuê du đãng chém kẻ nào dám ngang ngạnh. Thằng du đãng ngu như bò làm ăn sao để bại lộ, trốn không thoát bị cảnh sát hốt cốt, nó khai do chị Tịnh thuê làm. Cảnh sát lôi chủ Tịnh lên, muốn yên thì chung. Bằng không con dại cái mang, chồng hoang vợ chịu, nay vợ làm chồng phải lo. Tịnh bỏ tiền ra đền bù cho người bị hại, chung chi thiệt đậm cho cả cuộc trưởng cuộc cảnh sát quốc gia, còn không họ đóng cửa lò bò, vì tình nghi trong lò có chứa việt cộng. Mẹ ơi, súng nói thì khỏi cãi. Chị Tịnh được thả về, canh me ôm mớ tiền rồi bay cái vù. Cái dòng rỗ rá cạp lại, không do tình nó vậy.
Tư Tấu phải thay ông nội việc thọc tiết, rọc da, ra thịt tất cả các loại con. Đúng là ông nội truyền cháu nối, Tư Tấu danh trấn ngay tắp lự cái sự vụ thiến bò. Khi lột cái bìu để lấy trứng làm mồi nhậu, Tư Tấu lĩnh hội được chiêu thức thiến bò làm sao để lại mười con như một. Chiêu nầy Tấu sẵn sàng nói bí quyết cho tất cả nhưng không ai làm được. Tấu cười:
– Chỉ có mổ bò thường xuyên mới biết. Trong mấy cái dây gân níu hạ bộ phải biết sợi nào là ống dẫn tinh. Ai làm tê liệt ống đó là tiêu. Tao mổ bò thường xuyên nên biết. Mấy cha nội kia chỉ ăn may, còn tao là chính xác.
Tiếp tục đến mấy ông bác bị rượu giết. Ông Tính bị chết vì xơ gan. Ông Tinh bị bể mạch máu vì cao máu và ông Tình cũng chết nốt. Trong một năm ba con người ra nghĩa địa, nó làm cư dân Sông Trầu hốt thật sự. Kẻ bảo gieo nhân gặt quả, người nói ông Tiền chết nhằm ngày trùng nên lôi con cháu theo cho vui. Nhưng Tư Tấu cười khè khè:
Nhân quả cái cóc khô. Trùng tang cũng cóc chết luôn. Mấy ổng uống quá nên phải vậy.
Trẻ và rất khỏe. Sau cái điểm búa của bà cô, Tư Tấu ra tay một mình chả cần ai giúp. Mọi việc trong lò vẫn chảy, tuy có hơi lừ đừ một chút. Vì sao lừ đừ ư? Sau những biến cố long trời chủ Tịnh phải bán Daihatsu, tậu lại chiếc 67 để làm phương tiện giao dịch. Thịt bỏ cho mối mang đương nhiên phải hóa lừ đừ.
Nhưng lò ngưng hoạt động sau cái chết của chủ Tịnh.
Hôm ấy có người kêu bán một con trâu. Mấy vụ nầy, tình thiệt mà nói là mánh hời. Khi ta đi tìm, giá nào cũng phải chung, còn đối tác kêu là chắc chắn gia đình không bị nầy cũng nọ, ta có quyền chẹt. Kẹt quá chủ phải bán. Tịnh dong 67 cùng đối tác đến nhà.
Đường đến phải qua cả mười cây số lộ nhựa. Thời chiến xe nhà binh chở lính tráng chạy ào ào. Ba ông cộng hòa thôi thì khỏi chê cái vụ phóng nhanh giành đường vượt ẩu. Tịnh tăng tốc 67 để vượt qua một GMC chở đầy lính mặc đồ hoa mũ nồi xanh. Thằng tài thủy quân lục chiến cũng tăng tốc đua chơi, tay bán trâu kể lại:
– Tao tưởng theo ông bà rồi. Má nó… thằng Tịnh ngu như bò… Chiếc 67 bị cuốn vô gầm rê em xê… may quá tao bị hất ra, còn nó và chiếc xe nát bấy dưới lòng xe.
Đang hành quân, mấy ông cảnh sát sợ lính chết bà, đâu ai dám rảnh mà vi bằng hay ăng kết. Tư Tấu phải bò xuống gầm xe lượm xác cha. Tịnh bị bấy bá không thể nào ráp lại thành nhân mạng, hai cái chân bị kẹp giữa hai bánh xe, phải tháo bánh mới lôi ra mà bỏ vô quan tài.
Tư Tấu treo bảng bán nhà, tính kiếm tí vốn kiếm nghề khác làm ăn. Nhưng loại nhà nầy ai dám ở mà mua? Tính phải tiếp tục nghề giết và thiến… Đang lây lất qua ngày thì cái biến mùa hè đỏ lửa đến. Bên đánh bên giải tõa, một chiếc máy bay mang bom đi thả, và một trái rơi xuống lò bò. Cô Tâm có lẽ không biết mình vì sao mà chết. Lúc ấy Tấu đang thiến bò không có mặt, bằng không cũng không còn xác để ra nghĩa địa mà đoàn tụ cùng ông bà cha má.
Cuộc đời Tư sinh ra và lớn lên trong nhung lụa, tiền bạc như rác rưởi. Ăn chơi chả thiếu chi, may thay, Tư chơi và thân với bạch ốc cùng đinh nên khi tay trắng cũng đủ bình tâm mà bước tới. Tấu che tạm và vá víu một túp lều đủ cho mình và một gú, mẹ của hai thằng Hải và Hà. A ha, thiên hạ cười rằng:
Vậy là Tấu cũng có con trai. Bảnh thiệt.
***
Đến đây thì Tư Rừng kêu lên:
Bà nội mẹ ơi, mấy giờ rồi bây? Tao dzìa à, kiểu nầy mệt với bà xã rồi đây.
Một thằng trẻ bấm cái di động:
– Ái da… một giờ rồi. Tại chuyện nhà Tư Tấu ly kì, hấp dẫn quá… Ủa mà ai đi ngoài lộ giờ nầy vậy kìa?
Cả bọn nhìn ra đường, một thằng khác kêu lên:
Mẹ ơi… Ông Diệp, chắc ổng đi kiếm bò.
– Ê, Cáp Diệp – Tư Rừng kêu lớn – Vô đây cha, giờ nầy mà kiếm gì nữa. Bỏ đi, gầy con khác, ông còn năm con nữa mà.
Cáp Diệp co ro trong chiếc áo mưa, trông tội nghiệp làm sao. Những kẻ bị mất của luôn luôn có gương mặt của người di dự đám ma. Tư Rừng rót rồi đưa cho ly rượu cho bạn già. Cáp Diệp ực một phát, mắt nhìn ra đường. Có một bóng đèn của xe mô tô rọi sáng con đường ở hướng chùa Y Ngọc. Tư Rừng bật kêu lên:
Ê, tụi bây có kiếm chỗ miếng đất trống sau lưng chùa Y Ngọc chưa?
Rồi, lúc chiều ghé đó rồi chú Tư.
Tao nghi quá.
Nghi sao?
Tụi nó dấu con bò đâu đó rồi nửa đêm đi thịt sau chùa…
Dám lắm à – Một thằng hưởng ứng – Nếu không giờ này ai chạy xe hướng đó.
Mình xuống đó coi thử đi.
– Mày có bị khùng không? Tụi trộm liều chết mẹ, mình xuống đó tụi nó dám thọc luôn để đánh tháo à, lỡ suông đòn sao mậy?
Mày gọi điện thoại cho Công an Trường nói có trộm ở chùa là nó đến liền.
Mười lăm phút sau tay công an tên Trường có mặt.Tay nầy dạng săn bắt trộm có tiếng khu vực Sông Trầu. Chưa kịp nhằn nhò khuya khoắt đêm hôm làm mất giấc thì Tư rừng vỗ mạnh lên vai:
Mày coi kìa Trường?
Trường nhìn theo hướng tay Tư Rừng. Một ngọn đèn xe đang từ lô cao su chạy về hướng chùa Y Ngọc:
Gì vậy chú?
– Tao nghi bọn trộm xẻ con Nu của Cáp Diệp sau lưng chùa, chỗ bờ sông. Tao chắc tụi nó đang chuyển thịt đi tiêu thụ.
Dám lắm nghe… Ông để tui.
Nói xong Trường móc di động. Alô… Tao đây…. Mày xách xe chạy gấp xuống chùa Y Ngọc cho tao, tạm giữ bất kì ai lãng vãng xung quanh chùa. Tao lên liền… Mày kêu thằng Tâm trực thế nghe… rồi rồi, cứ vậy mà làm… ô kê.
Dưới sự điều động của Trường. Một mũi gồm ba em, một tập kích ngõ trước, một ngõ sau, ập vào bãi đất trống. Đèn pin loang loáng bật. Y như rằng, hiện trường còn cái đầu bò và tấm da. Đúng là cái đầu của con Nu. Cáp Diệp thẩn thờ:
Vậy là coi như tiêu.
Ông già ngồi ôm cái đầu bò thấy mà tộị.
Công an viên tên Trường thiếu cái văng tục:
Bà má nó… tao mà bắt được chắc tao cho bọn nầy ăn cù loi.
Nói vậy cũng như không. Quả tang chắc không đến lượt Trường. Bọn nầy đúng vuốt râu hùm. Trộm mà có nghề thì trời còn chết nói chi ba con cọp không vây. Thôi, chấp nhận thua cho xong. Tư Rừng an ủi:
Thôi thì chấp nhận ăn đầu bò Cáp Diệp ơi.
Một thằng trẻ lên tiếng:
Ủa sao hồi nảy tui nghe chú Trường lịnh cho lính xuống đây mà sao không thấy?
Đúng lúc điện thoại trong túi Trường reo lên:
A lô… Thắng hả? Tao đây… mày đang ở đâu?
Gương mặt Trình có vẻ căng thẳng qua cuộc gọi:
Có gì mà mày nghiêm như Bao Công vậy?- Tư Rừng hỏi.
Thằng Thắng nói có tai nạn trong lô ba ba. Mấy ông đi với tui vô đó không?
Đi thì đi.
Cả bọn lại kéo nhau vào lô cao su ba mươi ba. Đường lô đen như mực, không có đèn pin, đảm bảo chẳng ma nào dám vô. Tay công an tên Thắng đang đứng giữa đường, đờ rim xình xình nổ. Thấy có người Thắng lên ga và ánh đèn rọi sáng rực một gốc cao su. Ở đó là một chiếc honda 78c ngã ngang, trên ba ga là một giỏ cần xé. Một thân người, đầu chúi vô gốc cao su, chân vẫn nằm trong xe. Cảnh tường rất kinh dị và có máu chảy. Trường run giọng:
Sao vậy?
Tui cũng không biết. Anh biểu xuống chùa, mới tới đây thì thấy vầy rồi.
Mày có đụng vô cái gì chưa?
Ông nội tui cũng không dám… mà hình như…
Sao?
Hình như thằng Hà chết rồi.
Hà nào?
Hà con Tư Tấu.
Mẹ ơi…
Trường rọi đèn pin vào giỏ cần xé. Một giỏ thịt. Thịt bò. Nghĩa là tay nầy chở thịt bị va vô gốc cao su mà chết. Mà sao vậy ta? Thật khó hiểu… Trường gọi cho hình sự huyện. Bốn giờ sáng mọi sự được giải quyết êm xuôi. Cái xác đưa về nhà vĩnh biệt của bệnh viện cho pháp y xác định nguyên nhân cái chết. Tư Tấu và thằng con lớn tên Hải được triệu về công an xã để trả lời vài câu hỏi liên quan.
Ở quán cà phê, bà Tư Rừng bận nghe thời sự quanh vụ mất bò và cái chết bất đắc kì tử, đâu có thời gian mà nhằn ông chồng ham vui đi cả đêm không về. Một nhiều chuyện luận rằng:
Chắc chắc là mấy con ma lạc loài xô thằng Hà đòi mạng .
Ma cái đầu mày. Ma ra sao mày chỉ một con tao xem thử cái coi.
– Mày đúng là không trời đất thành thần gì ráo… Dòng họ thằng Hà tay vấy toàn máu, nay anh em nó cũng máu luôn, quả báo mày ơi. Nhất là cái nghiệp ăn trộm, không chết vì cái nầy cũng chết vì cái kia… Không tự nhiên mà nó đâm vô gốc cao su.
– Mày nói nghe không lọt tai, bộ mày hay tao hay tất cả mọi người ngồi đây không chết chắc? Còn chuyện nghề nghiệp, xứ mình giết con trâu con bò cho là ác, mày coi trên truyền hình, thấy trong lò mổ ở mấy nước châu âu họ giết lần cả trăm con bò, đâu có ai tin vô ba cái nhãn tiền này nọ. Tin như mày lấy đâu ra thịt bò đóng hộp mà ăn?
Vậy sao ở nhà không chết lại đâm đầu vô lô mà chết.
Chuyện lạc tay lái là thường thôi mày ơi.
Tư Rừng xen ngang:
Thôi yên đi hai ông thần nước mặn. Đợi đi, thằng Trường tới là biết liền.
Và Trường tới. Anh bảo rằng tội nghiệp Tư Tấu quá, nghe tin con chết ông ta rủ như tàu lá chuối khô. Khai sạch bách đầu đuôi chuyện con bò. Xã cho ổng và thằng Hải về lo hậu sự cho thằng Hà rồi tính tiếp:
Không sợ ổng trốn sao anh Trường?
Trốn đâu mậy?- Tư Rừng nạt – Cha con hĩa dấu con bò ở đâu mà thần tình vậy Trường?
Trong cống hộp.
Ủa, chớ sấp nhỏ kiếm ở trỏng rồi mà.
Đứng ngoài nghìn vô làm sao thấy chú Tư…
Hải và Tư Tấu đưa anh em dân phòng vào nơi dấu con bò. Đường cống hộp từ trong khu công nghiệp đổ ra lộ có mỗi cạnh cả hai mét. Cống phụ nối vô cống chính mỗi cạnh của nó cũng mét năm. Nước thải tuy đã qua xử lí nhưng vẫn đen ngòm, ba cái nước nầy toàn chất độc hại thải ra, đi kiểm tra mà anh em phải mang giày ống mới dám vào. Tư Tấu dấu trong đó rồi mười hai giờ đêm dẫn ra khúc sông sau chùa hạ thủ. Với tay nghề lão luyện, con bò được vào cần xé tống lên chợ thị xã. Hải và Tư Tấu ra thịt, Hà chở đi. Lúc Hà bị nạn thì Tấu và Hải đang ngồi nhậu bò tái chanh ở nhà…
Thằng Hà chạy xe có nghề lắm mà tai nạn thì…
Thì sao nói luôn đi ông nội.
Thì trời trả chớ sao?
Trả cái đầu mày… lại mê tín dị đoan.
– Thôi yên đi – Trường nói – Là thằng Hà chạy xe khi có rượu. Mấy ông nghĩ coi, cha con Tư Tấu xưa nay uống như hủ chìm, làm cái gì cũng có ba xi đế kề bên. Cái xe thằng Hà chạy không còn một giọt xăng, nhưng không phải hết vì ngã xe bị chảy…
Vậy là tui hiểu rồi.
Hiểu sao?
– Xe hết xăng khi đang chạy, ông con một tay giữ ga , một tay kéo e chạy cho hết xăng trong bình xăng con chớ gì?
– Mày nghĩ giống tao. Đã chạy đêm, cần xé cả tạ thịt, miệng đầy mùi hèm không làm chủ được tay lái lao vô gốc cây thì chết là phải quá.
Còn cái cần xé thịt tính làm sao?
Mọi người nhìn nhau. Dường như ai cũng tự hỏi “ Còn cái cần xé thịt tính làm sao?”
NGUYỄN TRÍ