
1.Trước 1975, khi còn đi học, tôi đã biết khá nhiều về cộng sản qua ký ức của gia đình hồi kháng chiến 1 (1945-54) vì quê tôi là một vùng đất nghèo nàn của liên khu V, đó là một ký ức đen tối, đầy âu lo sợ hãi, sợ đói nghèo, sợ truy bức, sợ dòm ngó, sợ ngay chính những người bà con thân thuộc của mình trong “phóng tay phát động quần chúng triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức”(1952 – 53); biết qua nhiều lần coi phim “Chúng tôi muốn sống” ở sân đình làng, qua đọc báo Thế giới tự do. Lớn lên được đọc “Trăm hoa đua nở trên đất Bắc”, “Từ thực dân đến cộng sản” của Hoàng Văn Chí, đó là thứ hiểu biết đọng lại trong đầu mình một câu hỏi không có lời giải “Sao con người đối xử với nhau tệ hơn chó mèo trâu ngựa đến thế?” gần gủi nhất là “Làm thế nào để có thể tin được người công sản” của một tác giả người Đức để cả thùng giấy ở hành lang văn khoa, SV muốn lấy bao nhiêu cũng được, hồi đó đã biết tự hỏi: “Tuyên truyền thế này thì thua xa bọn Hà Nội, chủ trương của cấp nào mà tệ hại đến thế? tôi cũng biết đến những tàn nhẫn của Việt Cộng ở Miền Nam VN ở vùng quê nơi tôi sống, vụ chôn sống hàng ngàn người hồi Mậu thân ở Huế và việc xả súng ngăn chận làn sóng người trốn cộng sản Mùa hè đỏ lửa 1972 ở Quảng Trị…đó là một thứ hiểu biết kèm theo không ít kinh ngạc và khinh bỉ, cộng sản bá đạo và phi nhân đến thế sao?
Tóm lại, không hề ảo tưởng gì về chủ nghĩa cộng sản, chế độ cộng sản!
2. Năm 1975, cộng sản chiếm toàn miền Nam khi tôi đang dạy học, biết sẽ khó sống với họ nhưng tự an ủi rằng có gì đã có thiên hạ cùng mình, họ có thể có quá nhiều biện pháp phi nhân trong những năm chiến tranh như pháo kích vào vùng dân cư, đặt chất nổ nơi đông người, đặt mìn trên quốc lộ… theo cách suy luận “lấy cứu cánh biện minh cho phương tiện” nhưng khi đã chiến thắng thì sẽ khác, vẫn còn le lói một hy vọng mong manh ở tinh thần hòa hợp hòa giải dân tộc để cùng xây dựng đất nước, bù đắp lại những thiệt thòi và mất mát trong chiến tranh nhưng càng ngày càng vô vọng, chỉ sau chưa đầy hai năm là nhận ra rằng niềm hy vọng mong manh nói trên là ấu trĩ, là dại khờ, là không hiểu gì về bản chất xảo quyệt và thâm độc của công sản mà điển hình là việc gọi viên chức sĩ quan chế độ cũ đi tập trung, chuẩn bị thức ăn và quần áo trong 10 ngày đã lên thành một, năm, mười, hai mươi năm trong các trại tù khổ sai được gọi bằng mỹ từ là “học tập cải tạo”; là phát động chiến địch “bài trừ văn hóa phản động, đồi trụy, nô dịch, lai căng, mất gốc, tàn dư của Mỹ Ngụy”, đốt phá, tiêu hủy hàng ngàn tấn sách, tài liệu quý không khác gì chính sách “phàn thư khanh nho” của Tần Thủy Hoàng bên Tàu sau khi thống nhất đất nước (năm 221 TCN), thứ văn hóa mà những trí thức, văn nghệ sĩ, giáo sư đại học, sĩ quan cao cấp trong quân đội “bên thắng cuộc” trong các hồi ký sau này thú nhận là nhờ đó mà họ được mở mắt, biết rõ hơn mình đã bị lừa trong suốt 21 năm qua cùng với việc chứng kiến tận mắt cảnh vật, người dân miền Nam và cuộc sống phóng khoáng tự do của họ, là tập thể hóa nông nghiệp và cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh để xóa sổ hoạt động kỹ nghệ và buôn bán vận tải ở miền Nam mà thực chất là ăn cướp trắng trợn ruộng đất của nông dân và nhà máy, xí nghiệp, tiệm buôn, phương tiện vận tải tư nhân dưới hình thức lập hợp tác xã và công tư hợp doanh.
3. Những “con người mới xã hội chủ nghĩa” mà tôi tiếp xúc trong xã hội ngày ấy trước hết là người đứng đầu và một số đồng nghiệp trong trường “từ A vào”, một số là cán bộ hồi kết và từ chiến khu về làm nòng cốt. Họ là thành phần hợm hĩnh, dốt nát nhưng lúc nào cũng thể hiện vai trò lãnh đạo, mở miệng ra là bác, là đảng, là chủ nghĩa xã hội, là các đồng chí phải thế này thế khác nhưng chừng như họ hô khẩu hiệu là chính! Tôi làm việc ở trường đến giữa năm 1978 thì nhận ra rằng những điều mình chứng kiến còn tệ hơn mình nghĩ trước kia, chuyện là ngày ấy trường tôi đóng sát huyện đội, bộ đội chiếm nhiều căn nhà cư xá của dân di tản không về làm doanh trại, một số nhà bị bom khi Việt cộng chiếm thị xã hư hại, một số nhà ở gần đó trưng dụng làm nhà ở cho các đồng chí A vào. Vậy mà con thủ trưởng đi hôi của, tháo dỡ cây gỗ ở các nhà hư bị lính huyện đội bắt, cha phải đi lãnh về sau khi đã mồm loa mép giải “báo cáo các đồng chí cháu còn nhỏ dại!”, lại có thêm chuyện cán bộ A và cán bộ tập kết về đấu đá nhau, kết quả là cán bộ tập kết bay … ra tỉnh làm lớn!
Tôi không kể những chuyện lợi dụng và bao che đám cách mạng ba mươi để trù giập những người có quá khứ dính dáng với chế độ cũ hay có biểu hiện bất phục sợ độc giả sẽ nghĩ đó là thù hằn cá nhân nhưng cơ quan tôi ngày ấy không ít người là nạn nhân dầu bề ngoài chúng vẫn thơn thớt khen ngợi, không khác nào khi miền Nam chưa mất, ở vùng xôi đậu đêm đêm du kích về gõ cửa những nhà có người là viên chức xã ấp VNCH bắt đi, bảo là “lên chiến khu học tập đường lối của chính quyền giải phóng” nhưng biệt tích mãi đến sau 1975 vẫn không về!
4. Không rõ tôi quá bao dung hay ấu trĩ hoặc khờ khạo để lúc đầu thật sự nghĩ rằng thủ trưởng tôi chỉ là trường hợp riêng lẽ để sau đó không lâu thì biết là mình lầm, những loại người này, những vi phạm kiểu này có khắp nơi. Phải chăng mặc cảm thua thiệt người miền Nam và lòng tham lam có cơ hội phát tác suốt những năm dài đói nghèo trên đất Bắc khiến họ phải hành xử như thế?
Từ năm 1978 tôi đã gặp một số người, tôi gọi họ là những người cộng sản chân chính, giao tiếp, quen biết rồi trở nên thân tình, tôi rất thương và quý họ, những con người – trước hết – có một cái tâm rất tốt, “trong veo”, không hề có chút tự hào mình làm lớn để hành xử theo suy nghĩ đó. Họ là một anh đồng hương, tỉnh ủy viên, trưởng ty Lâm nghiệp một tỉnh lớn, là một đại tá về hưu (dầu đại tá công an và quân đội của cộng sản VN khác nào lá mùa thu), là ba vị hiệu trưởng của 2 trường tôi dạy, đó là một đại úy giải ngũ nhà hàng xóm. Sự quen biết kể trên là chút niềm vui cho mình khi nghĩ rằng vẫn còn đâu đó những con người có thể vì thế chẳng đặng đừng, có thể vì bị dụ dỗ, có thể vì bị bắt buộc để khoác lên mình chiếc áo cộng sản nhưng cái tính bản nhiên, thiện lương, đạo đức của họ vẫn đang còn. Hiệu trưởng cũ của tôi là một thầy giáo lâu năm, chúng tôi vẫn đùa là Bonshevik thứ thiệt, người ta thì gọi là “cộng sản nòi” chỉ vì một lẽ là khi xã hội bắt đầu biết lấy thuốc lá ngoại có đầu lọc và bia thay miếng trầu là đầu câu chuyện thì ông, đi giao dịch để học sinh đi đào thuê khoai mì cho nông trường lại đem theo thuốc rê và cơm muối đậu gói trong lá chuối! Khi vợ ông (cũng là giáo viên) đem gạo mua theo tem phiếu lương thực cho gia đình đi xát lại cho trắng (vì thời ấy ai cũng phải mua gạo mốc), khi ăn cơm ông thấy lạ, hỏi, chị trả lời thật thì ông bảo rằng: “Gạo của đảng và nhà nước bán thế nào ta ăn thế ấy, đi xát lại là vi phạm đường lối chính sách!”. (Xin lỗi thầy, khi viết lại những giòng này, em không có ý chê trách hay phê phán gì về thầy mà chỉ muốn qua đó, nói lên một sự thật về cách nhào nặn con người kinh hoàng của cộng sản nhất là khi, chắc chắn những tháng năm cuối đời thầy thất vọng không ít về thứ chủ nghĩa và về cái chế độ thầy tôn thờ!).
5. Cũng ở tại ngôi trường có vị hiệu trưởng đáng kính và đáng thương này tôi đã gặp năm nam giáo viên về nhận công tác một lần, sau này được biết họ là con cha cháu chú ở Hà Nội gửi vào học trường ĐHSP Quy Nhơn khi trường mới thành lập thiếu sinh viên. Khi họ mới về trường, tôi lại nghĩ đây chắc là thành phần tốt, sẽ là những giáo viên đóng góp nhiều cho trường nhưng sau đó không lâu tôi lại thấy có đến 3 trong 5 nam giáo viên không như mình hy vọng. Họ sống tập thể trong trường nhưng để phòng ốc giường chiếu dơ dáy, ra ngoài ăn uống thì nợ nần, có lúc chẻ bàn ghế để đun nấu, khi có người lên tiếng, một trong bọn họ nhìn với ánh mắt thách thức và hỏi lại: Ông có ở đây cả đời không mà giữ gìn? 2 trong 3 người nói trên lại còn có quan hệ bất chính với học trò!.
Tôi gọi họ là những thầy giáo bê tha, ngày ấy không thấy “chính quyền và đoàn thể” đụng chạm gì đến họ có lẽ vì con ông lớn được gửi gắm, vì không có đơn thư tố cáo hoặc vì họ không chống phá và nhất là không vi phạm quy chế chuyên môn của nghề dạy học nhưng những người đứng đắn và hiểu biết thất vọng về lớp người này! Họ làm thầy giáo thì đối tượng được họ giảng dạy sẽ thành thứ gì – ở đây không bàn về trình độ mà chỉ nói đến lương tâm, hạnh kiểm và thiên chức một ông thầy?
Liệu cha mẹ có biết con họ thế này hay bố mãi lo chạy chức chạy quyền, lo bồ nhí, lo đục khoét và ăn cắp của công, mẹ mãi lo đi chùa- miễu- am- điện cầu cúng để gia đình được giữ mãi của cải không tạo ra bằng việc làm lương thiện và mồ hôi nước mắt, mãi lo nhảy đầm, đánh bài và “ăn nem” khi ông đi “ăn chả”?
6. Ngày “Đèn Cù” tập I của Trần Đĩnh phát hành ở Mỹ, một làn sóng người tìm đọc rầm rộ cả trong và ngoài nước với nhiều ý kiến khen chê trên các trang internet. Tôi đọc chừng 1/3 thì đã thấy chán ngán, thấy buồn và tự hỏi vì sao con người nói chung, các đồng chí với nhau nói riêng mà đối xử với nhau bằng những âm mưu, thủ đoạn tồi tệ rồi nghĩ rằng trong cuộc đời, có lẽ chỉ có tình thương là vượt lên trên mọi thứ, đó là tình thương yêu giữa người và người, giữa người với thiên nhiên, thú vật mới tồn tại lâu dài.
Tất nhiên, Đèn Cù cung cấp cho ta nhiều thông tin, tư liệu lâu nay chưa biết nhưng chỉ làm ta khinh bỉ những con người, tuy trước đây chúng ta không kính trọng nhưng cũng không nghĩ rằng họ xấu nết đến thế nhất là khi ông nói về những năm đầu thập niên 1960 ở cung đình cộng sản Hà Nội, chủ trương chống xét lại, chuyện theo Nga theo Tàu làm lộ rõ những thứ thú vật đội lốt người mà tên tuổi được biết đến rất nhiều trước đây, đó là Lê Duẫn, là Lê Đức Thọ, là Trường Chinh, là Tố Hữu, là Phan Quang và nhiều người nữa không cần nêu đủ ở đây. Dầu có nhiều nhược điểm nhưng Trần Đĩnh cũng góp phần cung cấp thêm sự kiện làm chứng âm mưu bán nước cho Tàu của tập đoàn Duẫn- Thọ và bè lũ cũng như nói cho thế hệ sau biết tội ác tày trời hủy diệt đồng bào khi chúng theo Tàu, xóa bỏ hiệp định Genève, phát động chiến tranh xâm lăng miền Nam, gây bao tang tóc cho dân tộc này trong hơn hai thập kỷ và tiếp đó là những đòn trả thù của các thế hệ kế thừa chúng sau 1975 qua các nhà tù trãi dài từ Nam ra Bắc.
7. Có một sự trùng hợp thú vị là tôi cũng bắt đầu nghe qua Youtube thiên hồi ký “Thép đen” của Đặng Chí Bình một cựu điệp viên VNCH hoạt động ở miền Bắc bị bắt giam ở nhà tù Hỏa Lò Hà Nội (do Trần Nam thực hiện với lời tựa của nhà xuất bản Đồng Tiến), người viết lời tựa cho rằng: “Điều đáng nói và sự kỳ diệu nhất của tập hồi ký là sự trỗi dậy của tình người trong thế giới của loài thú”. Khi tác giả đến Australia, Saigon Times đã gặp ông và được ông đồng ý cho xuất bản. Saigon Times đã viết lời giới thiệu trong đó có đoạn như sau:
“Giống như tất cả những ai có lòng yêu nước, đã sống trong lao tù của cộng sản, đều âm thầm tự trao cho mình sứ mạng, tiếp tục chiến đấu chống lại cái tàn nhẫn bất nhân của chủ nghĩa cộng sản đến hơi thở cuối cùng, điệp viên Đặng Chí Bình, sau khi ra hải ngoại, miệt mài suốt 20 năm để hoàn thành thiên hồi ký Thép Đen dầy ngót 2000 trang, gói ghém tất cả những bi kịch phi nhân đầy rùng rợn trong chế độ lao tù cộng sản mà tác giả đã trải qua; đồng thời thắp sáng chân lý: Ngay cả trong những nơi tận cùng của tăm tối, phi nhân, đói khát, đầy thù hận nhất do chế độ cộng sản tạo dựng, tình yêu thương người, lòng hướng thiện, khát khao cái đẹp, tôn thờ chân lý vẫn luôn luôn hiện hữu và được ấp ủ, trong lòng người dân Việt”.
Để đất nước, con dân Việt Nam sống trong hòa bình, yêu thương và đùm bọc nhau, điều cần thiết nhất là những người cộng sản cầm quyền sớm tỉnh ngộ, hồi tâm, giải thể đảng cộng sản, điều hành đất nước theo con đường dân chủ đa nguyên, khi đó, khối đoàn kết dân tộc sẽ được vun bồi, âm mưu Hán hóa của Tàu cộng chắc chắn cũng sẽ không thể nào thực hiện được. Một suy nghĩ không mới mẻ gì nhưng là điều biết bao người mong đợi đã lâu!
Nguyễn Nhật Huy