Làm ngơ

nguyenbatrac

Biết chứ hồn anh dài vạn dặm
Lòng anh nặng trĩu một trùng dương
Dăm khi anh lẻn về quê cũ
Ði một mình ở một bờ sông

Ði một mình theo một dòng sông
Anh lén đi trên những cánh đồng
Trong một mùa đông trơ gốc rạ
Em ngồi may áo ở bên song

Anh khuấy thời gian, khuấy cà phê đặc
Nhìn cái phin nhỏ giọt tương lai
Anh nhâm nhi từng hớp ngậm ngùi
Ðôi khi đắng như cà phê đắng

Anh là thi sĩ ở bên đây
Anh uống từng cơn nỗi ngậm ngùi
Anh nghe nghẹt thở như hải tặc
Bao nhiêu nước đã chôn vùi thân em

Anh đối diện dửng dưng nỗi khổ
Lấy đau thương dệt mấy vần thơ
Giả như đọc thơ anh nghe trúc trắc
Xin ngậm cười, em hãy làm ngơ…

NGUYỄN BÁ TRẠC

Advertisement

LÀM NGƠ

nguyenbatrac

Biết chứ hồn anh dài vạn dặm
Lòng anh nặng trĩu một trùng dương
Dăm khi anh lẻn về quê cũ
Ði một mình ở một bờ sông

Ði một mình theo một dòng sông
Anh lén đi trên những cánh đồng
Trong một mùa đông trơ gốc rạ
Em ngồi may áo ở bên song

Anh khuấy thời gian, khuấy cà phê đặc
Nhìn cái phin nhỏ giọt tương lai
Anh nhâm nhi từng hớp ngậm ngùi
Ðôi khi đắng như cà phê đắng

Anh là thi sĩ ở bên đây
Anh uống từng cơn nỗi ngậm ngùi
Anh nghe nghẹt thở như hải tặc
Bao nhiêu nước đã chôn vùi thân em

Anh đối diện dửng dưng nỗi khổ
Lấy đau thương dệt mấy vần thơ
Giả như đọc thơ anh nghe trúc trắc
Xin ngậm cười, em hãy làm ngơ …

NGUYỄN BÁ TRẠC

CHỊ LẠI LÊN ĐƯỜNG

nguyenbatrac

Chị lại lên đường hứng tuyết sương
chắt chiu giữ lại những mùi hương
Một mai em có về bên ấy
Đem rải bơ vơ khắp phố phường

Dẫu chẳng vui mà cũng chẳng buồn
Hoa đồng cỏ nội vẫn luôn luôn
bên nhau gửi gấm lòng thương mến
đến bốn phương trời lạnh tuyết sương

Chị luôn luôn đứng giữa núi đồi
Biết mình là mộng thế gian ơi
Sáng nay chị thấy nhành hoa đẹp
Chị mỉm cười
Mà lại hắt hơi

TÁI BÚT
Thích nhất là khi mắt đã mờ
lại nhìn ra được mấy vần thơ
xanh tươi giữa đất trời hoa lá
trong lúc tâm hồn biết ngẩn ngơ

Trong lúc mây Tần với suối Mơ
dập dìu lập lại những vần thơ
bang khuâng thương nhớ pha hờ hững
Hễ nhớ thương
thì lại hững hờ…

NGUYỄN BÁ TRẠC

NGHE TIN Ô. VÕ PHIẾN QUA ĐỜI…

nguyenbatrac

NGHE TIN Ô. VÕ PHIẾN QUA ĐỜI, ĐỌC LẠI MỘT ĐOẢN VĂN TÔI VIẾT NĂM 1986
San Jose, 12 tháng 6 năm 1986.
Chị Quỳnh thân mến.
Em họ tôi ở Hà Nội cũng tên là Quỳnh vừa viết cho tôi một lá thư. Hắn cho biết đã nhận được số tiền sách của tôi bên ấy do chị chuyển sang và đã chia cho những người trong gia đình. Số tiền đến vừa kịp buổi giỗ ông nội tôi tại căn nhà đường Hàng Bông Thợ Nhuộm.
Gia đình tôi rời Hà Nội vào Ðà Nẵng năm 1954. Lúc ấy chú em họ tôi mới lên 9, lên 10. Ba mươi năm qua trong bức ảnh đen trắng gửi kèm, hắn đã thành một ông quá tuổi trung niên (chững chạc ngồi với vợ), sau lưng vẫn còn cái tủ chè ông nội tôi để lại, thêm hai đứa con trai con gái đầu đội mũ bê rê, cổ quàng khăn (chắc là khăn đỏ). Ông cụ tôi cầm cái bì thư và tấm ảnh mân mê mãi (coi bộ cảm động). Tôi cũng thấy vui sướng lắm.
Phần tôi, lại thất nghiệp gần hai tháng rồi.
Tiền trợ cấp vừa đủ trả tiền thuê cái chỗ ở. Ăn uống, điện nước, xăng nhớt, mọi thứ khác có lẽ là do lòng hảo tâm của các bạn hữu, tài vay mượn của tôi, sự nhẹ dạ và rộng rãi của người khác. Tuy nhiên tôi vẫn chưa tích cực trong công cuộc tìm kiếm việc làm. Ngoài ra vừa đi Texas về. Vé máy bay, các thứ cũng do lòng hảo tâm của một chú em bên ngoại.
Hôm ở Houston, Texas, tôi có mượn xe chú em lái qua tiểu bang Louisiana thăm New Orleans, nơi xuất phát nhạc Jazz. Ở đây, thăm một xóm cũ kỹ dành cho dân du lịch: khu French Quarter, nó làm tôi nghĩ đến nước Pháp và Paris nơi chị ở. Tôi lang thang khu này cả đêm: tai nghe nhạc Jazz, mắt nhìn người chen chúc qua lại đường Bourbon, những quán rượu, tiệm ăn kiểu Cajun, tiệm cởi truồng, tiệm bán đồ kỷ niệm treo đầy mặt nạ Mardi Gras, con phố với nhà cửa thò ra thụt vào như Sài Gòn. Gần sáng tôi chui vào một phòng ngủ rẻ tiền nằm với dán mối bò lổm nhổm trên giường. Thưa chị, tôi có vẻ một nghệ sĩ vào thời lãng mạn ở bên Tây!
Louisiana là một tiểu bang nhiều đầm lầy, sông rạch chằng chịt, nơi con sông Mississippi đổ ra biển. Tôm cua cá rất nhiều. Phong cảnh làm tôi nghĩ đến Long Xuyên hay vùng Ðồng Tháp ở Việt Nam. Tôi còn lái xe ra khỏi New Orleans chừng 30 dặm để thăm một khu gọi là làng Versailles. Ðây là nơi sinh sống của chừng 8000 người Việt Nam công giáo, phần lớn là dân Bắc kỳ. Họ quây quần chung quanh cái nhà thờ làm bằng tôn. Một nhà thờ bằng gạch, lớn hơn, đẹp hơn, đang xây. Họ sống như những người Amish ở Philadelphia: khắng khít với văn hóa cổ truyền, phớt tỉnh xã hội tối tân bay vượt chung quanh. Ở đây từ 5 đến 8 giờ sáng người ta họp chợ lộ thiên, trao đổi với nhau ít bầu bí rau muống trồng ngay mé sông (với đám bèo và những cái cầu ao), mua bán tôm cá tươi rói do người ta chài lưới lấy. Mọi sinh hoạt bất chấp cuộc đời siêu tốc ở Mỹ (siêu thị, siêu âm, siêu thanh, máy điện toán, nhà chọc trời bằng kính và thép). Nơi đây các bà nhai trầu bỏm bẻm, đi guốc gỗ cọc cạch. Các cụ chít khăn mỏ quạ đứng chống nạnh chửi mát nhau, thưa chị, nghe sướng cả tai. Tôi bắt gặp hình ảnh ngộ nghĩnh: một bà sơ đội nón lá từ nhà thờ lững thững ra bờ sông, tay cầm tòn ten cái đuôi một con chuột chết. Ở Mỹ ít thấy ai có vẻ lững thững nhàn hạ như thế.
Khi tôi đến, chợ đã tan nhưng vẫn còn lác đác vài cô gái chanh chua mặc quần đen áo cánh ngồi bóc tôm. Dăm bà cụ răng đen co chân lên mấy cái sạp gỗ thu dọn những bó rau đay, rau muống. Tôi khoái quá xông vào chụp hình lia lịa, suýt nữa bị đập máy ảnh vì đồng bào nghi tôi là…ký giả. Tuy nhiên nhờ…duyên dáng (cười nói nồng nhiệt) và… đáng yêu (tuột xăng đan đi đất giữa chợ), đồng bào xúm lại chuyện trò hỏi han về xứ Ca li, cuối cùng còn đãi tôi một chầu tôm luộc. Cứ thế, ngồi xổm giữa chợ bóc tôm chấm muối tiêu trước khi lên đường về lại Texas.
Hiện giờ tôi đang ngồi viết thư cho chị trong tiệm Ð.P., một quán ăn Việt Nam kiểu Bắc kỳ ở San Jose. Chủ tiệm, xuất thân dược sĩ du học bên Tây, nhưng nghiệm ra dù ở Tây hay Mỹ, thuốc men chẳng quan trọng bằng cái dạ dày. Cơm nước no bụng, ấy là mạnh khoẻ. Học xong ở Paris, thay vì mở tiệm thuốc, anh ta mở ngay một tiệm ăn ở khu La tinh, không chừng trước kia chị biết. Bây giờ gia đình Việt Nam sang đoàn tụ bên Mỹ, chuyển tiệm ăn sang Mỹ tiếp tục sản xuất bánh cuốn chả quế, phở tái béo, ruốc chà bông, ô mai Quốc Hương. Ngày ngày anh dược sĩ đi ra đi vào bưng phở, tán gẫu với khách hàng về các vấn đề, trừ vấn đề y dược. Còn bà vợ loay hoay trong bếp với dao thớt, rau mùi, rau răm, rau quế, đến Tết còn gói cả bánh chưng bánh dầy, làm mứt sen trần trong suốt.
Vào giờ trưa như thế này, quán Ð. P. là nơi tụ họp của các nhà văn, nhà thơ, nhà báo Việt Nam lưu vong (nhà đèn, nhà điện, nhà ga, nhà rửa chén bát, nhà thất nghiệp như tôi). Gọi tụ họp với nhau, nghĩa là cùng ngồi dưới một mái…tiệm phở. Nhưng họ vẫn chia nhiều bàn rõ rệt: ai thuộc phe nào đi thẳng đến bàn phe ấy. Không nhìn ai. Cùng ngồi trong quán nhưng giả vờ không biết nhau, không hiểu nhau. Không phe nào ngoài phe ta hiện diện trên cõi đời. Ðây không phải là vấn đề chia rẽ. Ðây chỉ là vấn đề phong phú chính kiến, quan niệm thẩm mỹ, phong phú về giá trị văn chương nghệ thuật.
Thưa chị, San Jose quả là một tỉnh lẻ so với vùng Los Angeles hay vùng Orange County, nhưng tại đây với số dân tròm trèm từ 30 đến 50 ngàn người Việt biết chữ và không biết chữ (biết nhiều hay biết ít), chúng tôi cũng có trên 20 tờ báo thuộc đủ các khuynh hướng: tranh đấu hay mơ mộng. Tranh đấu thế nào? Mơ mộng ra sao? Hội nhập hay không hội nhập? Sự phong phú chính kiến, nghệ thuật, tất nhiên cũng phát sinh ra cãi vã trên mặt báo một cách tục tĩu hay không tục tĩu, đôi khi xỏ xiên bóng gió như chị vợ ghen, đôi khi đánh bốc bằng tay thay vì bằng bút, nhưng rút cục tỉnh nhỏ, đi đâu chẳng gặp lại? Vả chăng lập trường chống Cộng và lập trường dân tộc của phe nào chẳng vững chắc? Người ta khôn khéo đi đến giải pháp: cùng đến ăn phở tiệm Ð.P., nhưng cứ thế…cứ thế…cứ xem nhau như không có mặt trên cõi đời. Và cứ thế…cứ thế…nơi đây các nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nhà đèn, nhà ga, các nhà cách mạng cùng ăn phở tái béo (như nhau), cùng uống cà phê phin sữa đá (như nhau), anh nào có việc làm, có tiền mặt thì hùng dũng rút ví trả tiền mặt. Anh nào thất nghiệp, gãi đầu gãi tai hoặc nhấm nhẳng yêu cầu ghi sổ trả sau.
Ðể hưởng cái thú an nhàn cua một người Ðông Phương thất nghiệp, tôi đang nghiên cứu kỹ thuật trồng cây Bonsai Nhật Bổn. Tôi có làm một số hòn non bộ với các hang hốc nho nhỏ, gắn những ông câu cá, ông tiều phu đốn củi ngồi nghỉ mệt dưới gốc cây thông. Thực tế, tháo vát và có óc thương mại, sáng nay tôi đã mang ra tiệm này hai chậu non bộ nhờ ông chủ chưng trên quầy hàng: chậu nhỏ đề giá sáu chục, chậu lớn tám chục. Giá vốn mỗi chậu chừng ba chục đô la. Nếu có vị thực khách nào sau khi no nê và vui tính bỏ tiền ra để làm chủ các sông núi cây cỏ Ðông Phương, tôi sẽ có tiền đi chợ, đổ xăng, ăn phở tái béo… Còn nếu công việc kinh doanh đều đặn tiến triển hơn, tôi sẽ sản xuất thêm. Không phải vất vả rửa chén, bán nhà, bán bảo hiểm, dắt mối đưa người đi đánh bạc ở Réno. Tôi sẽ đi giầy vải hoặc dép nhẹ lững thững dạo chơi các vùng đồi núi kiếm đá, kiếm hoa, kiếm cây cỏ (Tai nghe chim hót trên cành cây, mắt nhìn bướm bay ngoài đồng nội). Ðêm về, khoan thai ngồi xuống pha một bình trà Vũ Di, châm một điếu thuốc ba số năm. Dùng cái óc thẩm mỹ Ðông Phương đầy dĩ vãng, tôi chế ra những sông núi cây cảnh của một quê hương xa lắc xa lơ thu hẹp lại trong cái chậu nhỏ bán giá rẻ cho người yêu nước nhớ nhà (cây đa đầu làng, mái tranh ngoài ruộng).
Những cái chậu ấy lặng lẽ bình thản.
Nó sẽ làm cho thần kinh của các anh Việt Nam nhức đầu được dịu lại. Nó có tác dụng tốt gấp mấy viên thuốc an thần của những Bác sĩ tâm lý Hoa Kỳ. Nó sẽ làm người ta quên bớt lo âu tiền nong, thất nghiệp, kỳ thị, áp lực và tốc độ. Người ta chỉ cần ra tiệm Ð.P. (góc đường Almaden và đường Santa Clara) bê về một hòn non bộ của tôi (nhà thất nghiệp đầy sáng tạo) để ở một chỗ mát mẻ im lặng, ngồi xuống chống tay lên cằm ngắm nghía: kìa là núi, cũng núi. Kìa là sông, cũng sông. Những người hay suy nghĩ, thích luận lý, còn có thể ngắm hòn non bộ của tôi mà hỏi: tại sao trên lưng chừng núi kia lại có một cụ già chịu khó leo cao đến thế? Tại sao ông cụ ngồi lắc lẻo ở một chỗ cô quạnh trên cái mỏm vời vợi kia lặng lẽ đọc sách? Ðọc cái gì trong cơn biến động này hở trời? Sách ấy là sách gì? Nó là quyển kinh chăng? Nó là một quyển thơ chăng? Nó là sấm Trạng Trình? Nó là một cuốn tùy bút? Tùy tiện mà phóng bút? Nó có làm cho tâm hồn người ta êm ả một chút chăng?
Cách đây chừng một tuần, trong lúc tôi vừa lái cái xe thùng Volkswagen khặc khừ của tôi lui khỏi bãi đậu, chợt có hai thằng Mỹ phóng xe vọt qua. Chúng la vào mặt tôi: “Asshole”; Thưa chị, dịch ra tiếng Việt, có nghĩa là “cái lỗ đít”. Không biết bên Tây chị có gặp cái cảnh ấy không? Bên này khá nhiều. Một lần đứng ở góc đường dưới Orange County (chẳng trêu chọc ai. Chỉ đứng bên lề ngẩn ngơ nhìn xe chạy, mây bay), một thằng Mỹ bỗng chạy ngang nhổ bãi nước bọt đánh phẹt một cái. Không phải một mình tôi gặp cái chuyện ấy! Còn khi lái xe lỡ có chậm chạp lừ đừ hoặc lớ ngớ nhìn địa chỉ tìm ai, cái chuyện chửi tục, chửi thề xảy ra không có gì đáng lạ. Thường tôi bỏ qua (tức là mũ ni che tai: lờ đi). Có khi như A Q., tôi bảo: Mày chửi bố mày. Nhưng hôm ấy, trời nóng trên 100 độ, túng tiền, đang bị sở thất nghiệp gọi đi khai hàng trăm thứ giấy, tôi nổi cơn giận ngùn ngụt lên đỉnh đầu. Cơn giận phừng như thùng xăng bắt lửa. Cơn giận bốc lên vào mùa hè có thể đốt cháy hàng dẫy nhà, có thể thiêu sạch cả một cái thành La Mã như chơi.
Chị Quỳnh. Chị cũng rõ khi hai thằng Tây hay hai thằng Mỹ chửi nhau, đó là việc hai thằng Tây hay hai thằng Mỹ chửi nhau. Nhưng khi một thằng Tây hay một thằng Mỹ chửi một ông Việt Nam, hay một ông Ðông Phương, là nó chửi…cả nước Việt Nam, cả giống da vàng mắt xếch mũ tẹt, (dẫu cho ông Việt Nam hay ông Ðông Phương ấy có hơi lóng ngóng trong lúc lái xe, có làm cản trở lưu thông, và không quen dừng lại những bảng stop). Vậy còn gì? Chính nó là một thằng Mỹ kỳ thị chủng tộc. Như thế, xin lỗi chị, tôi phải tát vào mồm cho nó thè lưỡi trợn mắt ra. Tôi phải đạp xuống đất lấy gót giầy dí bẹt cái đầu nó như một cái bánh tráng.
Cái thời các vị bảo trợ và các công dân Mỹ (cũ) nồng nàn tiếp đón người tỵ nạn Ðông Dương đã qua rồi. Cái thời đó xảy ra cách đây từ hơn một thập niên: bấy giờ các nhà thờ mở rộng cánh cửa, các ông Mục sư nói giọng mũi hân hoan giới thiệu người ta trước bàn thờ Ðức Chúa giời, diễn giảng dài giòng về tình huynh đệ, thời các tín hữu nhà thờ đua nhau mang đến cho người tỵ nạn ti vi, tủ lạnh, dao nĩa, đĩa chén, quần áo cũ… Thời ấy người ta cao cả, bác ái như chúa Giêsu đứng trên dỉnh đồi dang rộng cánh tay tiếp đón bọn tỵ nạn nhỏ bé, nhơm nhếch, tội nghiệp vì nạn Cộng Sản vô thần, duy vật, bọn độc tài tàn bạo, bỏ tù hàng trăm ngàn người mà cứ nói phét là cho người ra đi học tập. Ðám người tỵ nạn ấy rón rén bước đến đất mới, rụt rè nối đuôi nhau bước vào căn nhà lạ, nhũn nhặn như những củ khoai lang luộc hơi già lửa. Họ chào hỏi khúm núm từ ông chủ nhà cho đến bác làm vườn, cái gì cũng cười. Thời ấy đã qua. Nó xẩy ra từ hơn mười năm trước.
Bây giờ là lúc nào? Là lúc chị thư ký Mỹ trắng bắt đầu thấy mình thua thiệt. Chị liếc xéo anh cán sự điện tử Việt Nam: lương mày to hơn, nhà mày lớn hơn, xe mày tốt hơn. Thế mà mày lại vàng. Bây giờ là lúc nào? Là lúc các lãnh tụ cộng đồng Mỹ đen, Mỹ trắng ngà ngà, Mễ Tây Cơ tức là Xích Cà Nồ bực mình vì chuyện giành giật ngân khoản của các lãnh tụ cộng đồng Việt Nam. Ơ kìa, chúng mày giả vờ biểu dương lực lượng! Ðến đây chưa nóng đít mà sao cứ đòi tiền cho nhiều? Nay biểu tình la lối, mai lại mặc quân phục đi ắc ê. Rối cả mắt. Chưa kể những việc mua súng bắn nhau ỏm tỏi, e có ngày lạc cả sang mình hay mấy đứa con nhà mình!
Thưa chị, phần những ông bà tỵ nạn còm cõi, sau 11 năm, khám phá ra: rút cuộc cõi đời ở đây chẳng phải là thiên đàng. Chả có ý nghĩa gì sất ngoài việc toát mồ hôi làm bồi bếp, nô lệ cho các ông chủ lớn, chủ nhỏ, bảo hiểm và nhà băng. Mua được cái xe, cái nhà trả góp 30 năm thì lúc nào cũng tối tăm mày mặt vì lo mất việc, đuổi sở?
Ðôi khi người ta cũng mát mặt chớ? Phải.
Thứ sáu công việc đã xong. Thứ Bẩy, Chủ Nhật, tà tà dăm ông bà bạn ngồi xuống với nhau, người ta khề khà chai bia, điã thịt nướng. Hay là bánh tôm? Hay chả giò? Bò nhúng dấm? Chả cá? Thực đơn có thể thay đổi nhưng đề tài luẩn quẩn loanh quanh. Những đề tài cổ truyền từ hơn mười năm nay. Trước hết, nó bắt đầu bằng hiện tại lương bổng, kiếm việc, mất việc, mua bán bảo hiểm… vấn đề chửi nhau giữa báo X và báo Y, ký giả A tố ký giả B là Cộng Sản, thực ra ký giả B là người Quốc Gia đang móc nối với Trung Cộng (hỡi ơi, bọn Trung Cộng cũng là Cộng Sản). Sau đó đề tài chuyển sang một hợp âm êm dịu. Nó thuộc về quê hương dĩ vãng. Các đề tài này xoay quanh một số tiết mục tùy theo trình độ thẩm mỹ, khuynh hướng thú vui, nguồn gốc địa lý của những người tham dự. Họ xuất xứ ở miền nào? Ví dụ như ông Võ Phiến thì hay nói chuyện về xứ Bình Ðịnh. Như những đề tài trong cuốn Tùy Bút của ông vừa xuất bản ở Mỹ, nó xoay quanh những sự nhớ nhung lẩm cẩm. Cái áo dài. Cái ăn cái uống. Chuyện mắm muối. Chuyện mấy anh Huế chị Huế. Mỗi người một câu, mỗi người thêm thắt một tí tùy theo kiến thức và khả năng ký ức. Tất cả những cái nhỏ bé. Ðường lối cứu quốc kiến quốc phải như thế nào? Ðặt một giải pháp tương lai cho Việt Nam. Hay cho thế giới. Tương lai thế giới, Cộng Sản hay Tư Bản. Thử nhận định một biện pháp hòa hợp dân tộc. Thử khai phá một lý luận và chiến lược chống Cộng hữu hiệu. Vân vân.
Những hợp âm êm dịu sau một chặp thường làm cho lòng người ta chùng xuống. Người ta ngửi thấy cái mùi ngậm ngùi trong ly bia, trên những đĩa chả giò, thịt nướng, mắm nêm. Người ta nhớ đến mùa hè ở Huế với hoa sen nở đầy hồ Tịnh Tâm, con đường Âm Hồn rợp bóng cau bóng nhãn. Người ta lờ mờ như một người loạn sắc nhìn vạn dặm xa xôi những cánh buồm Phan Thiết mỗi chiều từ biển khơi nồng ấm trở về với khoang cá lóng lánh như thỏi bạc. Bấy giờ trong tiếng xe rì rào trên xa lộ, người ta tưởng như tiếng con tắc rán chạy mơ hồ trên sông rạch, hai bên là những cây mắm, cây bần, cây đước.
Người ta khựng lại khi nhớ đến bà mẹ già và cô em gái gầy yếu còn ở lại Việt Nam mà chương trình đoàn tụ gia đình cũng đã khựng lại. Người ta đổi đề tài. Ðề tài cuối cùng trước khi chấm dứt, ai ra xe ô tô trở về nhà người nấy. Ðề tài cải tạo. Cải tạo ở đâu? Bao lâu? Ðôi khi những kỷ niệm đớn đau lại trở thành những nhớ nhung vui sướng. Ðề tài vượt biên. Ði thế nào? Ði ra sao? Mất mấy cây? Thường thưa chị, các buổi nói chuyện đến đây bế tắc vì từ đó nó sẽ quay ngược về hiện tại. Lại đến đảo. Ðến Mỹ. Học nghề. Kiếm việc. Mất việc. Bảo hiểm. Nhà băng. Lại những thằng Mỹ chạy xe qua nhổ nước bọt đánh phẹt một cái, giơ ngón tay lên làm một cử chỉ tục tĩu hoặc la lên “cái lỗ đít”. Hàng chục thứ rối đầu: kháng chiến hay không kháng chiến? Kháng chiến thật? Kháng chiến giả? Tương lai về đâu? Có ngày về hay không có ngày về? Về hay không về?
Tại sao rối loạn? Vì những câu hỏi ấy đặt ra nghe chừng đơn giản mà câu trả lời thì vẫn phong phú. Người nào cũng nhao nhao lên về tia ánh sáng cuối đường hầm. Lúc đầu người ta bảo cái hầm nó thẳng, nhưng ánh sáng thì anh không thấy, tôi không thấy, ông ấy thấy vì ông ấy có điều kiện, ông ấy có dịp đứng giữa miệng hầm. Bây giờ cái hầm nó khúc khuỷu. Ðúng vậy. Ðứng ở đầu này không thể thấy ánh sáng ở đầu kia. Nhưng hãy theo tôi, đến đoạn cuối là đường thẳng, anh sẽ thấy cả một bầu trời quê hương xanh mát, ánh nắng chan chứa trên khắp ruộng lúa bờ đê. Chỉ tiếc là có quá nhiều những cái hầm khúc khuỷu như vậy.
Thưa chị. Khi người ta phong phú ý kiến, người ta có thể khẩu chiến (anh nào có báo ra đều, viết nhiều, anh ấy thắng), đánh bốc (anh nào bắp thịt to, anh ấy có vẻ có lý), đấu súng (bắn trước thì sống). Phải chăng đấý cũng là quy luật của cả Cộng Sản lẫn Tư Bản?
Chừng ấy thứ trộn lộn thành một thứ bột nhão. Nó làm cho những cặp vợ chồng gương mẫu trước cãi cọ, sau thụi thẳng cánh vào quai hàm nhau. Làm cho những bạn bè trên dưới ba chục năm hằm hè nghi nhau là Cộng Sản. Làm cho những anh chị làm báo gọi nhau là ma cô và nhà thổ. Làm cho những đầu óc sáng suốt trở thành nhà thơ lẩn thẩn, bay bổng và dở hơi. Cũng như thế, những hôm mùa thu mùa đông đã qua, mùa hè nóng trên 100 độ fahrenheit, đỉnh đầu người ta bốc khói, người ta có thể nhẩy dựng ra khỏi xe, móc súng bắn thẳng vào giữa họng những thằng Mỹ dám gọi người ta là…cái lỗ đít. Vâng, có thể lắm. Nếu người ta có súng. Và bất cứ một toà án nào biết tôn trọng công lý cũng phải tha bổng hay tối thiểu, cho giảm khinh những trường hợp như thế, khi mà người ta có nhà mà phải đi ở thuê, có đất mà đi ở đợ và cái lão chủ nhà đất mới này té ra cũng là quân cướp. Khi vợ con người ta chết hết trên biển cả bão bùng. Khi bạn bè thân thích vẫn bị Cộng Sản cưỡng bách giáo dục, đã trên 10 năm học hoài học mãi ỏ những vùng sơn lam chướng khí, ma thiêng nước độc, khỉ ho cò gáy, cơm không có ăn, thuốc không có uống. Khi vợ và con gái người ta bị bọn cướp thay phiên hãm hiếp. Khi anh em người ta cứ mòn mỏi ở các đảo tỵ nạn từ mấy năm vẫn chẳng được đưa đi định cư. Khi người ta kiếm không ra việc ở cái thiên đàng chủ nghĩa tự do mà tiền thất nghiệp lại sắp chấm dứt. Những khi như thế, thằng nào gọi ông là cái lỗ đít, ông bắn.
Thưa chị. Trưa hôm ấy trời nóng trên 100 độ, tôi lồng lộn như con thú Phi Châu. Tôi rú ga vọt lên, chạy theo hai thằng Mỹ. Ngoắc tay kêu chúng nó ngừng lại.
Tôi bật tung cánh cửa nhào ra khỏi xe. Khuỳnh tay vụt lên như cái thiết vận xa. Nhưng hỡi ơi, tôi không có súng.
Còn hai thằng Mỹ, chúng nó cũng hùng hục mở cửa bước ra xe. Cả hai đứa: bề cao hơn tôi gấp rưỡi. Bề ngang hơn tôi gấp đôi. Hỡi ơi, mặt mũi chúng nó lại non choẹt chỉ đáng tuổi thằng con trai thứ ba của tôi.
Còn chửi mắng? Khả năng chửi bằng tiếng Anh của tôi làm cho tôi ứ máu lên cổ. Vâng, tôi có thể đi xin việc bằng tiếng Anh. Tôi có thể thuyết trình đôi chút về Văn hóa Việt Nam một cách duyên dáng cho những người Mỹ đồng nghiệp trong sở. Tôi còn có thể tán tỉnh đôi chút với quý cô quý bà. Nhưng chửi nhau bằng tiếng Anh? Quả thật, cái khả năng ấy của tôi chỉ bé bằng cái lỗ đít.
Ông Võ Phiến là một người Bình Ðịnh.
Người Bình Ðịnh có cái gì hay cái gì đẹp? Tôi sẽ gửi cho chị cuốn Tùy Bút, chị sẽ thấy ông Võ Phiến khéo léo kể ra trong hai bài Anh Bình Ðịnh và Người Bình Ðịnh.
Anh Bình Ðịnh được những chị Phú Yên mê vô tả, ông Võ Phiến chứng minh như thế. Anh về Bình Ðịnh chi lâu? Chiều chiều em đứng hàng dâu ngó chừng. Tuy nhiên những chị xứ khác có mê mẩn như thế hay không? Hay chỉ có những chị Phú Yên mới dại dột mà thôi? Ông Võ không nói tới.
Thế còn người Bình Ðịnh? Toàn những người giỏi.
Người hùng Bình Ðịnh: Nguyễn Huệ, Bùi Thị Xuân, Võ Văn Dũng… ngang tàng lẫm liệt. Xóm thơ Bình Ðịnh, được kể ra: Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên với những cái làm kinh động sững sờ, những Quách Tấn, Yến Lan mờ mờ những con đường chảy, êm như những giòng sông. Ngó trước rồi lại ngó sau, ông không quên thế hệ trẻ hơn ông. Ông kể tên một người bạn trẻ xứ ông, Nguyện Mộng Giác, chín chắn, kín đáo, âm thầm, lim lỉm vào những suy nghĩ lo lắng.
Những cái ông Võ kể ra về xứ Bình Ðịnh và người Bình Ðịnh làm cho tôi buồn lắm. Tôi, gốc gác lộn xộn: chánh quán làng Mọc Hà Ðông, sinh ở Huế, lớn ở Hà Nội, Ðà Nẵng, Sài Gòn. Không chừng chết luôn ở Mỹ. Thế tôi biết khoe xứ nào?
Tôi nói tiếng Bắc chị Quỳnh ạ. Chị cũng là người Bắc phải không? Tiếng Bắc, chị biết đấy. Nó không nặng như Quảng Nam, ngang như Bình Ðịnh. Ði vào thì mình nói là đi vào chứ mình không nói là đi dzô. Vả chăng các ca sĩ người Trung người Nam…họ cứ uốn éo đổi sang giọng Bắc cả. Ờ, lạ lắm cơ?
Ở Việt Nam, tôi được đọc nhiều bài của ông Võ Phiến nhưng không có dịp gặp. Sang Mỹ, năm 1977 thì phải, Lâm Triết có mời ông Võ ghé ngủ lại phòng tôi nhân dịp từ Los Angeles lên thăm San Jose. Nhưng quả thật không biết nhiều về ông Võ.
Có thể, ông cũng chín chắn, kín đáo, âm thầm, lim lỉm như ông bạn trẻ đồng hương Nguyễn Mộng Giác. Người Bình Ðịnh, họ như thế. Ðọc Thác Ðổ Sau Nhà, tôi khoái cái quan điểm, nhưng chưa dám nói thực hiểu ông Võ nhiều. Gặp tại nhà in N.V. của ông Trần Ðình Long, cũng chưa rõ lúc nào ông ấy đùa, lúc nào ông ấy thực. Mà lúc nào trông ông ấy cũng thành thật. Hoặc giả ông ấy có ngụ ý một điều gì tinh quái sắc bén. Ngày giỗ Nguyễn Hiến Lê ở toà báo Người Việt dưới Orange county cách đây vài tháng, lại thấy chẳng phải ông ấy lim lỉm. Ông ấy nghiêm trang một cách bỡn cợt. Ông ấy liên tục nói năng trôi chảy, hấp dẫn, cái giọng Bình Ðịnh cũng không thực là ngang ngang khó nghe. E chừng ngược lại. Tôi có nhận một cái thư của ông Võ thăm hỏi, cho biết trước cũng từng trọ ở ngõ Tân Hưng, Hà Nội. Nhà tôi ở đấy, lúc ấy tôi hãy còn bé. Ðến nay, đọc Tùy Bút gồm những bài xuất bản, đăng tải từ trước 1975, nhiều bài chưa có dịp đọc, cùng với năm bài mới viết ở Mỹ như một bộ tứ bình: Xuân, Hạ, Thu, Ðông của cuộc đời lưu vong…phải nói cụ Võ Phiến, 63 tuổi, cụ hơn tôi đến 20 tuổi, và tôi thở phào ra. Chị Quỳnh ạ, cụ ấy cũng chửi tục. Cụ ấy viết đến những hai bài về sự chửi và chửi tục, bên cạnh những bài trang trọng như đạo và đời, nhàn và nhã, ông và cháu, mưa và thơ…
Cái sự chửi tục gồm những câu rất tục mà ông Võ Phiến sưu tầm, bàn bạc, nại ra, bình luận, kể lể, dẫu có vì văn chương hay văn hóa, có câu để cả chữ, có câu chỉ viết tắt, thưa chị, tại đây tôi vẫn không dám đề ra cho chị xem mặc dầu chính tôi không phải là người nhã nhặn.
Khi mới gặp nhau, người ta thường thủ lễ, vâng dạ, thăm dò. Người ta chưa tin nhau. Khi đôi bên đã say sưa nồng nàn, co cẳng ngồi trên ghế vừa gãi nách vừa nói chuyện về các đề tài (kể cả văn hóa và chính trị) mà bọt mép sùi ra, tay chân vung lên, lâu lâu ngôn ngữ được đệm vài tiếng chửi, người ta dễ chịu lắm. Người ta bắt đầu rút đi những hàng rào phòng thủ, những mũ sắt áo giáp bao chung quanh, người ta tin nhau được.
Tôi cảm thấy gần gũi với cụ Võ Phiến từ sau những bài bàn về chửi và chửi tục chăng? Hai bài ấy viết ra năm 1959 và 1968, đổ đồng vào lúc cụ bằng tuổi tôi bây giờ: ngoại tứ tuần. Hay chỉ vì những sự ấm ức khi nghe người ta chửi nhau bằng tiếng Anh? Hay chỉ vì nó làm cho tôi nhớ lại đôi ba vấn đề của ngôn ngữ học và riêng về cái mục chửi của chúng ta đây nó dồi dào, phong phú, lảnh lót hơn quá nhiều so với “cái lỗ đít” của mấy thằng Mỹ hỉ mũi chưa sạch?
Hay nó làm cho tôi nhớ lại một ông bạn cũ từ thời niên thiếu lúc học chung với nhau ở Văn khoa đường Nguyễn Trung Trực Sài Gòn? Cái cậu lúc ấy khoái chửi câu “Tiên sư bố nhà mày. Tao căng mồm mày ra làm cái nhà chồ, tao ị vào ngay giữa cái mồm mày.” Dĩ nhiên, câu này cũng không lọt khỏi sách của ông Võ Phiến. Ðó là một sáng tác của nhân vật xứ Bắc, chắc chắn không phải của người Bình Ðịnh, mà cũng không phải của người Mỹ có thể giỏi về khoa học, kỹ thuật nhưng nghèo về văn hóa, triết lý và… đạo đức.
Ðêm qua, tại nhà anh H. hàng xóm tôi, lại nhậu.
Có hai anh H., cả hai cùng có mặt. Anh H. hàng xóm tôi: cựu chiến sĩ sư đoàn 18 Bộ binh, đã rã ngũ nhưng trong nhà không bao giờ có dưới bẩy khẩu súng cả ngắn cả dài. Anh H. hoạ sĩ kỹ nghệ tức cựu Ðại uý Dược sĩ H., đai đen Aikido, dịch là Hiệp khí đạo, người đã nhờ Hiệp khí đạo và các phép đề khí mà trải qua sáu năm cải tạo một cách êm ả, dẻo dai và tương đối mạnh khoẻ. Anh Nha sĩ T. tức cựu Thiếu tá Nha sĩ T. với Anh dũng bội tinh, tức cựu thi sĩ Bàng Hoạch (báo Gió Mới, Việt Nam 1957, 1958). Tất nhiên, có mặt bia Coors và thịt nướng. Vẫn các thủ tục và đề mục thường lệ: bắt đầu bằng hiện tại (lương bổng, thất nghiệp, kiếm việc, Job shop, mua bán bảo hiểm, đá banh bầu dục, báo X chửi báo Y) chuyển dần sang hợp âm êm dịu (bàn về con cua ở Cát Lở, con tôm hùm ở Cà Ná, thịt con cheo ở Long Thành, con đuông tẩm bột chiên bơ ở Chợ Cũ). Lần này trước khi trầm ngâm đổi qua đề tài dĩ vãng cải tạo vượt biên chấm dứt ra về, chúng tôi thêm vào đề tài văn học: Ông Võ Phiến, cuốn Tùy Bút và nhà xuất bản Văn Nghệ. Cuốn Tùy Bút thế nào: Nó dầy ba trăm mấy chục trang, phong phú ghê. Ðủ các đề tài từ văn minh, văn hóa, thơ phú, đạo đời sang đến mắm muối. Ðọc một lúc thì mệt nhưng lâu lâu nhàn nhã, thú nhá. Này là chuyện mấy chú én ríu rít bay lượn ở Hà tiên. Này là chuyện Năm non bẩy núi. Này là chuyện Hội An có phải là Phải Phố hay không?
Ðường trong làng hoa dại với mùi rơm
Người cùng ta đi dạo giữa đường thơm
Lòng giắt sẵn ít hương hoa tưởng tượng
Ðất thêu nắng, bóng tre rồi bóng phượng.
“Ðoạn đường Ðà Nẵng về Hội an…chỉ gợi nhớ đến cu gáy với bướm vàng trong ca dao… đến con đường thơm… Bóng phượng, phải, còn có bóng phượng nữa. Ðà Nẵng có rất nhiều cây phượng…”
Những cây phượng mùa hè trổ hoa đỏ ngợp con đường Hoàng Diệu Ðà Nẵng. Nó làm cho tôi và anh T. cựu học sinh Phan Chu Trinh Ðà Nẵng, những cựu thi sĩ văn sĩ báo Gió Mới, Việt Nam 1957-1958, những Tuấn, Hải, Chiêu, Nam, Khiết, Dũng, Tình, Ý, Sung, Ui, những kịch sĩ, ca sĩ, thể thao gia ở một ngôi trường đầy hoa phượng… và lớn lên tiếp tục những cuộc chơi lớn…kẻ chết Ðồng Xoài, kẻ đi Biệt kích và biệt tích, kẻ chết trên máy bay, kẻ theo Cộng Sản, kẻ bị Cộng Sản nhốt tù. Tôi và anh T. chắc lại cũng ngửi thấy cái mùi ngậm ngùi bay trong lon bia, trên những gắp thịt và trong chén nước mắm. Vậy chúng tôi đi vào đề tài khác. Chuyện chửi. Chửi tục. Cũng những chuyện trong Tùy Bút của ông Võ Phiến.
Khi đi vào phần ấy, tôi đã kể lại chuyện hai thằng Mỹ ranh con và cái lỗ đít.
Anh T. Nha sĩ lắng tai nghe.
Trước hết, Nha sĩ, họ là ai? Họ là những người vốn ít nói theo thói quen đeo mặt nạ bịt mồm trong lúc cà răng. Thực vậy, người ta không thể bịt mồm mà nói chuyện. Vả chăng bệnh nhân nhổ răng, chữa răng mồm miệng đầy bông băng kìm búa cũng không thể hàn huyên với Nha sĩ như lúc người ta ngồi thảnh thơi cắt tóc. Tiếp đến, Nha sĩ, họ là những người cẩn thận. Họ không thể nhổ lầm một cái răng sâu sứt với cái răng tốt lành. Họ phải chụp hình quang tuyến. Phải đeo kính ngắm nghía, nghiên cứu kỹ trước khi quyết định cà, hay đục, nhổ, hay rút gân máu, bịt răng vàng hay răng bạc. Vả chăng, bạn tôi, một trong những Nha sĩ lành nghề và có lương tâm chức nghiệp hơn hết thẩy tại San Jose. Anh ta luôn trầm ngâm, xem xét, lắng nghe và phán đoán kỹ lưỡng trước khi phát biểu.
“Ông ạ,” Anh T. từ tốn nói. “Lần sau, gặp những thằng Mỹ chửi tục, đánh nhau là thua hoặc bị ra tòa. Ðừng chửi tiếng Mỹ mà thiếu chữ. Ông cứ chửi bằng tiếng Việt, y những câu của ông Võ Phiến viết Tùy Bút. Ông sẽ hả hê sau khi chửi, cơn giận nó tiêu tan. Còn thằng Mỹ, nó chẳng hiểu gì nhưng nó vẫn biết là ông chửi. Như thế nó càng điên lên. Cái ấy kêu là nội thương.”
Chị Quỳnh thân mến. Nha sĩ là những người ít nói và cẩn thận. Bao giờ họ cũng biết săn sóc hàm răng và nụ cười của người ta một cách chu đáo. Cái răng cái tóc là góc con người. Một anh bạn Nha sĩ thân ái luôn luôn có thể cho người ta một lời khuyên sáng suốt, lóng lánh và quý báu hơn cả răng vàng răng bạc.
Và, chị Quỳnh thân mến. Ông Võ Phiến là một nhà văn đàn anh so với lứa tuổi tôi. Ông là nhịp cầu thời gian với những câu chửi lạ lùng như đồ chết tiệt, con khỉ trù, chó nó ăn mất cu. Những câu ấy trang bị cho tôi một thứ võ khí tựa như gậy tầm vông để chống lại cái lỗ đít.
Còn cuốn Tùy Bút mới xuất bản của ông, trong giai đoạn hoang mang lưu lạc này, nó có một giá trị đặc biệt, không phải chỉ vì giá trị văn học.
Nó là nhịp cầu tiếp nối miền đất xa xôi ở quê nhà mà không gian thơm mùi hò mái đẩy, mùi hương hoa tưởng tượng, mùi măng cụt sầu riêng, mùi bánh tráng Bình Ðịnh chấm nước cá, mùi mì Quảng và cao lầu Hội An tiếp sang miền rối rắm này với mùi “khù” (Chữ của cô bạn tôi dịch chữ “smog”, một hỗn hợp giữa “khói và mù”), mùi hoá chất lau chùi trong xưởng điện, mùi nhạc Rock, và may thay vẫn còn mùi bánh cuốn, phở tái béo Bắc kỳ tôi đang ngồi ăn đây trong tiệm Ð.P. ở góc đường Santa Clara và đường Almaden, San Jose.
Ông Võ Phiến là một nhà văn tỉ mỉ, rất tỉ mỉ. Còn kiến bò qua cũng không thoát mắt quan sát của ông. Ở một miền đất dẫu chiến tranh tàn phá trên mấy chục năm, một miền đất dẫu sao người ta chửi dẹ dàng còn như ca hát, nơi người ta dẫu sao vẫn còn có thể bình thản đứng trên cánh đồng, vào buổi xế trưa đầu mùa xuân nhìn đồng không mông quạnh. Ở chân trời, vài đám khói ùn lên chậm chạp tỏa cao và rộng… Chao ơi, những đám khói đốt cỏ ở chân trời trong nắng trưa, sao mà xúc động, cảm hoài. Những đám khói kể lể nỗi niềm bao la cuối một chân trời mênh mông. Ðứng him mắt mà trông: khói lặng lờ, không vội vã, khói bát ngát, nhẫn nại, xa vời, hàng giờ, hàng giờ, khói toả, vừa hiền từ vừa mơ mộng…
Những đám khói êm ả… Chao ơi, trong địa hat suy tưởng của nước Mỹ ào ạt vội vàng, vài ngàn cuốn sách đủ loại xuất bản từng triệu cuốn mỗi tháng dưới đủ các bộ dạng kiểu cọ khác nhau, với những nhà văn sản xuất bằng máy điện toán, điện thoại, điện tín…thì chao ơi…cái tôi yêu mến ở ông Võ Phiến cũng như cái tôi yêu mến những cụ già lững thững ở làng Versailles, nơi đây người ta ngảnh mặt khỏi siêu thị, nơi người ta họp với nhau một cái chợ lộ thiên sát mé sông với cầu ao và những đóa hoa bèo màu tím. Ở miền đất này còn tìm đâu những tâm hồn êm ả, những giây phút không vội vã đứng nhìn khói bay lên hàng giờ hàng giờ? Khói lặng lẽ, nhẫn nại, xa vời, vừa mơ mộng vừa hiền từ?
Thế nhưng chị Quỳnh thân mến, rút cục như lời khuyên của anh bạn Nha sĩ T. một người ít nói và cẩn thận: ta cứ phải chửi bằng tiếng Việt… và khi tôi thán phục cái cao kiến như thế, té ra tôi cũng đang bước chân trở về trên nhịp cầu của ông Võ Phiến và những bà cụ chít khăn mỏ quạ Bắc kỳ, nơi tôi lớn lên ở ngõ Tân Hưng, đường Ga Hàng Cỏ, đường Hàng Bông Thợ Nhuộm trước Vườn hoa cửa Nam. Tôi có về lại được cái thời gian đã mất hay không? Thời gian sẽ đi, đi mãi hay sẽ quay trở về trong cái vòng vô tận? Tôi có về lại được miền đất bên kia không? Tôi chưa rõ. Có lẽ, chị Quỳnh, giờ đây tôi đang lóng ngóng trên đất Mỹ giữa Huế, Hà Nội, Sài Gòn, giữa hiện tại, dĩ vãng, tương lai, tôi ngồi bệt xuống giữa nhịp cầu của ông Võ Phiến và các bà cụ lững thững khoan thai. Tôi nhìn bên này, bên kia, vừa chửi thề bằng tiếng Anh nhưng biết phải chửi thề bằng tiếng Việt, tôi ăn phở tái béo và tôi thu hết núi sông lại mà bỏ vào trong những hòn non bộ: Này là núi, cũng núi. Này là sông, cũng sông…

NGUYỄN BÁ TRẠC
(Trích trong Chuyện Của Một Ngưởi Di Cư Nhức Đầu Vừa Phải, xuất bản tại California 1987)

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, HẬU TỪ

nuocmattruocconmua
nguyenbatrac

HẬU TỪ
Vài lời ghi chú cuối cùng của người dịch vào tháng 4-1995

(1)

Về bối cảnh quyển sách

Tác giả quyển sách này bắt đầu các cuộc phỏng vấn từ mùa Xuân 1985. Nguyên tác Anh ngữ xuất bản năm 1990. Bản dịch Việt ngữ xúc tiến từ tháng 2/1993, nhằm xuất bản vào tháng Tư 1995: Đúng 20 năm sau biến cố miền Nam sụp đổ. Trong thời gian qua, thế giới đã đứng trước một bối cảnh hoàn toàn khác biệt.

Các nước Cộng sản Đông Âu sụp đổ. Liên bang Sô Viết tan rã. Một số nước hậu Cộng sản lâm vòng rối loạn, phân ly. Tại Trung quốc, đảng Cộng sản vẫn độc quyền lãnh đạo, nhưng cơ cấu kinh tế biến đổi, lại đang tiếp tục hưởng quy chế nâng đỡ mậu dịch của Hoa Kỳ.

Riêng trường hợp Việt Nam, nhà cầm quyền Cộng sản đưa ra các biện pháp đổi mới, manh nha từ 1986, rõ nét hơn vào năm 1987, đến nay vẫn đang tiếp tục dồn cố gắng trong việc phục hồi kinh tế. Mặt khác, Hoa Kỳ tháo bỏ cấm vận từ tháng 2/1994 sau mười chín năm phong tỏa. Trong tháng Giêng 1995, hai văn phòng liên lạc ngoại giao vừa được thiết lập tại Hà Nội và Hoa Thịnh Đốn. Các nước Tây phương, Úc Đại Lợi, kể cả Hoa Kỳ, nhưng nhiều nhất là Đài Loan, Tân Gia Ba, Nam Hàn, Nhật đang tiếp tục đầu tư vào Việt nam. Đó là một số sự kiện tính đến khi bản dịch Việt ngữ này chuẩn bị ra đời.

Sau một cuộc chiến dài, hai miền đất nước đã bị tiêu hủy về nhiều mặt. Việc thi hành chế độ kinh tế theo mô thức Cộng sản sau gần bốn thập niên tại miền Bắc, hai thập niên tại miền Nam, cộng mười chín năm phong tỏa kinh tế, làm cho Việt Nam lâm phải tình trạng đói nghèo.

Mức nghèo đói ấy dường như có phần giảm thiểu trong các điều kiện sinh hoạt mới.

Tuy vậy, nhiều vấn đề khác đang được đặt ra: Sự xác định chỗ đứng của Việt Nam trên thế giới, trong khung cảnh chính trị địa lý vùng, giữa các khối, các nước lân bang. Dự phóng về đối giá phải trả cho đầu tư ngoại quốc. Thể chế và cơ cấu chính quyền Việt Nam thay đổi gì trước các đòi hỏi Dân chủ Tự do hiện nay và tương lai. Có thể nào có một phương thức dung hóa giữa nền kinh tế thị trường và tổ chức guồng máy chính quyền theo tư tưởng Mác xít-Lê Nin Nít? Nhu cầu cấp thời phục hồi kinh tế mâu thuẫn với nhu cầu công bằng xã hội? Chế độ bao cấp, hệ thống phân phối kiểu Cộng sản đang được bãi bỏ, nhưng một hệ thống an sinh xã hội kiểu Tây phương chưa thành hình. Sự phát triển kinh tế thị trường đang tạo ra những cách biệt lớn lao giữa các tầng lớp dân chúng, tại các khu vực khác nhau. Và trên hết, là sự tha hóa con người.

Một cuộc chiến đã chấm dứt, nhưng các cuộc thảo luận mới đang mở ra.

(2)

Về quyển sách này

Sử liệu khẩu vấn “Nước Mắt Trước Cơn Mưa” gồm 71 câu chuyện do 65 người kể. Có sáu người trình bày hai đoạn chuyện, trong đó gồm năm người cuối của chương hai mươi, chương kết thúc. Những người phát biểu trong sách đã được tác giả phỏng vấn rồi ghi ra. Trong phần cảm tạ đáng lưu ý, tác giả liệt kê một danh sách những người đã được phỏng vấn, cho biết trên 300 người.

Xem danh sách ấy, người ta thấy một số khá đông các yếu nhân đã được phỏng vấn, nhưng ý kiến phát biểu hoặc bài viết của các nhân vật này không xuất hiện trong cuốn sách. Có thể tạm kể: Các tướng lãnh Mỹ như William Westmoreland, Richard Baughn, Charles Timmes… Các tướng lãnh Nam Việt Nam như Cao Văn Viên, Nguyễn Văn Toàn, Nguyễn Cao Kỳ, Ngô Quang Trưởng… Chưa kể nhiều yếu nhân Mỹ Việt trong những lãnh vực khác, như học giả về Đông Nam Á Douglas Pike, dân biểu Tom Hayden, các ông nguyên Tổng trưởng Nguyễn Xuân Oánh, đại sứ Bùi Diễm, đại sứ Trần Kim Phượng v…v… Họ đều được phỏng vấn, chuyện kể của họ được góp nhặt nhưng không sử dụng trong cuốn sách với lý do tác giả cho biết vì “giới hạn của kích thước cuốn sách”.

Độc giả có thể hỏi: Nhưng trong giới hạn ấy, tại sao tác giả lại loại bỏ những người này, mà không phải là những người khác trong tổng số hơn 300 người đã được phỏng vấn? Vì nhu cầu bố cục? Vì tính lý thú của các câu chuyện? Vì quan điểm người được phỏng vấn? Vì quan điểm tác giả?

Phương pháp khẩu vấn có thể khách quan, nhưng việc lựa chọn là chủ quan hay khách quan? Nếu có vấn đề quan điểm tác giả – quan điểm nào? Tả? Hữu? Quan điểm người Hoa Kỳ? Quan điểm Sử học? Quan điểm của nhà văn nhìn đời sống theo chiều rộng, nhìn lịch sử theo chiều dài? Quan điểm như lời trích dẫn Abraham Lincoln, Graham Greene, những câu thơ Walt Whitman ghi ở đầu chương thứ nhất?

Mỗi độc giả Việt Nam nếu cần kết luận, đều đã tự có một kết luận sau khi theo dõi cả ba phần, từ Lời Mở Đầu đến Lời Cảm Tạ.

Tôi tin độc giả Việt Nam là những độc giả tinh tế.

Tôi tin độc giả Việt Nam thường phân tích từng lời từng chữ khi đọc sách, đặt câu hỏi, thói quen của những người đã trải qua một cuộc chiến tàn khốc với một khối lượng đồ sộ của đủ thứ sách báo với luận điểm tùy từng phía, chưa kể các loại văn chương tuyên truyền.

Sự nhạy cảm ấy càng bén nhọn hơn đối với bất cứ cuốn sách nào của người ngoại quốc viết về những vấn đề liên hệ đến Việt Nam.

(3)

Ý nghĩ của cá nhân người dịch

Trong lúc người Việt không đủ phương tiện thực hiện một quyển sách với phương pháp tương tự, cá nhân chúng tôi thiển nghĩ: Quyển sách này dù có được sắp xếp, lựa chọn, trình bày cách nào – cũng vẫn đưa ra một kích thước tương đối phong phú, với nhiều cảm nhận và cách diễn tả khác nhau, từ nhiều góc độ khác nhau.

Dù người ta có thể cho là bất cân xứng hoặc hãy còn thiếu sót, nhưng cá nhân người dịch và mọi độc giả khác đều không bị đặt trong vị thế thụ động. Người đọc có thể lượng giá cuốn sách, lượng giá từng lời phát biểu của mỗi người được phỏng vấn trong góc độ chủ quan của họ. Và ngoài ra, câu hỏi cuối cùng là nếu toàn bộ quyển sách có tạo ấn tượng gì về một quan điểm nào thì điều ấy vẫn đáp ứng vào nhu cầu thảo luận, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay: Chúng ta tin ở tinh thần thảo luận. Một cuộc thảo luận tốt là một cuộc thảo luận ôn hòa, với nhiều quan điểm trái ngược để chuẩn bị cho việc tìm kiếm ý chí chung, góp phần vào lời giải cho bài toán Việt Nam. Cũng góp phần vào lời giải bài toán con người trong thế giới mới mẻ ngày nay.

Riêng cá nhân chúng tôi khi làm công việc phiên dịch cũng đã có dịp suy nghĩ ít nhiều về những gì chứa đựng trong cuốn sách. Tôi không chăm chú tìm kiếm bí mật lịch sử. Tôi nhìn vào những nỗi đau thương.

Quyển sách bắt đầu mở ra ngay từ chương thứ nhất với một nỗi đau thương lớn, nỗi đau thương của những người lính thất trận trong cơn hoảng hốt, cay đắng, đã mất lý trí khi bỏ lại gia đình, bắn loạn cả vào chính đồng bào, chiến hữu mình.

Khi chăm chú nhìn, có lẽ tôi cũng chăm chú tìm hiểu lời giải.

Có lẽ, tôi đã tình cờ nghe được một lời bình phẩm hữu ích khi làm công tác xã hội vào năm 1987 tại trại tỵ nạn Pulau Bidong: Nơi ấy, bấy giờ hơn mười ngàn con người sống lây lất chen chúc trong những điều kiện căng thẳng, thiếu thốn. Trên hòn đảo, họ đã đâm chém, trộm cắp, hãm hiếp nhau. Những người đến trước cướp cả những thuyền của những người đến sau. Khi tôi tỏ ra áy náy với một công tác viên xã hội khác đã chứng kiến những việc ấy, bạn tôi, một bác sĩ Phần Lan giản dị nói: “Nếu nhốt mười ngàn người Phần Lan hay mười ngàn người Mỹ vào chính hòn đảo này trong những điều kiện tương tự, họ sẽ tệ hại hơn. Họ sẽ giết nhau và đốt hết ngôi trại này trong vòng ba ngày”

Lời bình phẩm ấy có thể là một lời an ủi. Nhưng mặt khác, nó vẫn nêu ra vấn đề điều kiện. Phải chăng trong những điều kiện khắc nghiệt của hoàn cảnh, nếu hoán đổi vị trí, nhiều người đều có thể phản ứng giống nhau hoặc tương tự với hình thức này hay hình thức khác?

Sự tương tàn của những người lính miền Nam khi bắn cả vào đồng bào, vào chiến hữu mình trong cơn hoảng hốt… Phải chăng cũng chẳng khác gì cuộc tương tàn của quân đội hai miền cùng một dân tộc khi đối mặt trên chiến trường? Phải chăng đều do hoàn cảnh, do điều kiện khắc nghiệt của đất nước Việt Nam?

Đêm qua khi viết đến đây, tôi đã thức một đêm trắng để kể các bi kịch thảm khốc trong cuộc chiến của chính gia đình tôi: Một nửạ ngoài Bắc. Một nửa trong Nam. Chú tôi chết trong trại cải tạo Cộng sản. Em họ tôi chết dưới bom Mỹ trong Nam. Chuyện người em họ ở Hà Nội chết vì nhiễm độc chì khi làm công nhân xuất khẩu bên Nga. Chuyện đứa em họ và con trai chết trong cuộc vượt biên, sau khi cha vừa chết trong trại cải tạo ngoài Bắc. Chuyện cô chú tôi tự tử vì bị truy bức sau vài năm Việt Minh tiếp thu Hà Nội. Và người con gái mồ côi của cặp vợ chồng bất hạnh này đã quyết tâm lìa bỏ thế giới Cộng sản bằng cách vượt qua bức tường Đông Bá Linh sang Tây Đức, để rồi sắp bị Thế giới Tự do trả về… Ở Hồng Kông, người ta đang trói tay những người tỵ nạn để đưa lên máy bay như những con vật… Kể sao hết?

(…….)

-Hôm nay tôi xé bỏ 20 trang giấy đã viết. Có lẽ tôi không nhất thiết phải bám chặt những cảm xúc ấy để bắt đầu một quyển sách mới sau khi vừa bỏ ra chín tháng để chuyển dịch và ấn hành quyển sách này.

Mỗi gia đình người Việt ở bất cứ đâu đều đã chạm mặt với quá nhiều đau thương trong cuộc chiến vừa qua.

Và như thế đối với tôi, giá trị quyển sách này không nhất thiết chỉ là những gì đã nói đến. Đã nói thế nào. Mà còn là những gì gợi ra. Những câu chuyện không kể hết.

Tôi tin vào sự hữu dụng của quyển sách. Tôi tin khả năng đóng góp của nó.
Về phần cá nhân tôi, vào ngày 30 tháng Tư 1975 tôi đang ở Hoa Kỳ: Quyển sách giúp cho tôi hiểu được những gì gia đình tôi, bạn hữu tôi và đồng bào tôi đã trải qua. Quyển sách giúp tôi hiểu thêm các tâm trạng khác nhau của những người Mỹ liên hệ vào cuộc chiến, sự lúng túng của kẻ thắng, nỗi đau đớn của người bại. Đôi lúc tôi không ngăn được xúc động khi dịch thuật lời kể của nhiều người Việt trong quyển sách này.

Sau hết, một vài người phát biểu trong sách là những người tôi quen biết. So sánh việc biết họ ngoài đời, cùng với những lời kể được thuật lại trong cuốn sách này: Tôi hiểu tác giả đã biểu lộ một tinh thần khá khách quan trong việc viết một cách tương đối trung thực các câu chuyên của họ.

(4)

Cảm ơn

-Tôi xin cảm ơn nhà văn Giao Chỉ, tác giả “Chân Trời Dâu Biển”, “Cõi Tự Do”, tức ông Vũ Văn Lộc, nguyên Đại tá Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, hiện là Giám Đốc Hội Quán Việt Nam, người chủ trương cơ sở Tin Biển tại San Jose. Ông rất thích quyển sách này, đã nhiệt tình trong việc xuất bản và giới thiệu với cảm xúc, suy nghĩ riêng tư của ông. Cảm ơn ông đã tín nhiệm khả năng Anh ngữ và Việt ngữ của tôi. Trong gần hai mươi năm qua ở San Jose, chúng ta không nhất thiết phải đồng ý với nhau về tất cả mọi vấn đề, nhưng rút cục chúng ta vẫn làm việc rất gần nhau.

-Tôi xin cảm ơn chị Đặng thị Hòa đã kiên nhẫn giúp chúng tôi đánh máy, sửa chữa bản dịch trong gần ba tháng cực nhọc. Xin thành thật cảm ơn chị.

-Cảm ơn Phạm Việt Cường đã đọc qua bản thảo, đã dịch hộ mấy câu trích dẫn của Graham Greene, Abraham Lincoln, những câu thơ Walt Whitman mà Larry chọn ghi đầu cuốn sách.

-Cảm ơn bạn mới của tôi, anh Văn Thanh (Lý Kiệt Luân), một nhà văn đến từ miền Bắc, đã nhiệt tình góp ý, sửa chữa bản thảo, đặc biệt những ý kiến của anh trong việc chuyển dịch cho chuẩn xác hơn những ngôn từ của phần phát biểu thuộc chương 18 “Những Người chiến thắng”.

-Cảm ơn người bạn từ thuở nhỏ của tôi, nhà văn Phan Nhật Nam, đã đọc kỹ từng trang sách, đã sửa chữa bản thảo, đặc biệt phần từ ngữ quân đội. Là một sĩ quan miền Nam, trải qua một trận chiến dài, đã trực tiếp đối mặt các thảm kịch của đất nước và của chính gia đình anh, rồi ngay sau khi đất nước Việt Nam vừa ngưng tiếng súng, lại phải chịu thêm gần mười bốn năm trong cảnh tù đày tại các trại cải tạo do chính quyền Cộng sản Việt Nam thiết lập: Trại Long Giao (miền Nam); Trại 12,10, 8 (Đoàn 776 Hoàng Liên Sơn); Trại Lam Sơn (trại 5); Thanh Cẩm (Thanh Hóa); Ba Sao (Hà Nam Ninh) và cuối cùng, Z30D (Hàm Tân, Bình Tuy). Anh đã chịu hai đợt kiên giam, lần thứ nhất (từ tháng 2, 1979 đến tháng 8, 1980); lần thứ hai (từ tháng 9, 1981 đến tháng 5, 1988) với 24 hầm cấm cố, tử hình, ở các trại nói trên. Việc giúp tôi đọc lại bản thảo tác phẩm dịch thuật này chắc chắn gợi nhiều đau thương mà anh đã trải qua. Mong anh sẽ có một cuộc sống tốt đẹp tại đây, nơi chúng ta có dịp nhìn thế giới một cách toàn bộ hơn để cùng chia sẻ ước mơ: Quê hương chúng ta sẽ không còn ai gánh chịu những đau thương như Nam đã trải qua.

-Cuối cùng, xin cảm ơn gia đình tôi, đặc biệt vợ tôi Elina Marjatta Nguyễn đã hy sinh, trong lúc tôi dành thì giờ vào việc viết sách. Là người dạy học các trẻ em Việt tỵ nạn tại Phần Lan, người dạy nhạc cho một số trẻ em Việt tại San Jose, California… Gần gũi cuộc sống của nhiều gia đình Việt Nam trên các đất nước khác nhau, vợ tôi hiểu tâm tình của người Việt đối với quê hương đất nước Việt Nam – cũng như người Phần Lan đã yêu đất nước mình, một đất nước nhỏ bé cùng một diện tích với Việt Nam, đã chiến đấu một cách dũng cảm và khôn ngoan để sinh tồn trong suốt lịch sử đầy khó khăn của Phần Lan, giữa Đông và Tây, giữa một bên Thụy Điển, một bên Nga, và sau này, một bên Cộng sản, một bên Tư bản. “Elina, Minâ rakastan sinua. Kiitos”.

(5)

Về một lời đề tặng

Quyển sách này khởi dịch vào tháng 2,1993. Trước khi bắt tay vào việc dịch thuật, tôi đã có lần viết một lời nói đầu. Nay in thành sách, tôi vẫn xin giữ nguyên những lời đã viết ấy để ghi vào phần cuối cùng này.

“Năm nay, 1993, một trăm bốn mươi sáu năm kể từ khi các chiến thuyền Pháp bắn vào Đà Nẵng, một trăm lẻ chín năm sau khi hoà ước Patenotre thiết lập chế độ bảo hộ ở Việt Nam. Một trăm năm đúng kể từ Phan Đình Phùng khởi sự kháng Pháp ở Hà Tĩnh. Lịch sử cận đại của Việt Nam trong một thế kỷ rưỡi nay là một chuỗi những biến cố đau thương đã dẫn dắt từ cố gắng giành độc lập tự chủ đưa đến cuộc tranh chấp Quốc Cộng, đưa đến việc: “Chỉ còn thuần túy là người Việt Nam giết người Việt Nam – với một bên là Mỹ, bên kia là các nước thuộc khối Cộng sản cung cấp các phương tiện cần thiết để đánh nhau và chết” (Larry Engelmann, Lời mở đầu Nước Mắt Trước Cơn Mưa).

Việc phiên dịch cuốn sách này là một đóng góp nhỏ bé của chúng tôi trong việc cùng nhau nhìn lại những đau thương đã qua với hy vọng rằng ý chí vận chuyển đất nước Việt Nam trong thời gian tới đây phải được hướng dẫn bởi trí tuệ và lương tâm con người.”

Tôi xin kính tặng bản dịch Việt ngữ này cho tất cả người Việt, người Mỹ, tất cả những người của mọi phía đã bỏ mình trong cuộc chiến Việt Nam.

Nguyễn Bá Trạc
(San Jose, 21 tháng Tư, 1995)

Đêm mưa ở Bangkok

nguyenbatrac

Trong môt đêm mùa hè
giữa thành phố Bangkok
nhìn ra trời tối đen
lờ mờ ngọn đèn ống
Bên kia là Việt Nam

Bây giờ nghĩ gì
Tại sao viết ra
Có điều chân thật
Hay vẫn chỉ là vẻ đẹp điêu ngoa?

Có gì khác giữa văn chương nghệ thuật
một bức thư?
Câu chuyện phiếm?
tiếng cười khàn?

Có lúc viết hiển nhiên là khóc
đẩy linh hồn lui xuống vực sâu

Viết như chụp ảnh
tấm ảnh không mầu
cả quê hương trong bóng tối âu sầu

Viết, thắt dây lý luận
Đem niềm tin về chuộc tàn phai?
Rút hạnh phúc ra từ quá khứ
Bình yên ngồi kết lại tương lai?

Đêm nay nghĩ gì
Tại sao viết ra
Sẽ có điều chân thật
Hay vẫn chỉ là vẻ đẹp điêu ngoa?

Tự hỏi người ta làm gì những bức thư
cất mãi trong ngăn tủ mọt rỗng
Người ta làm gì những bài thơ
Sau hết, những bài thơ có thể làm được gì
Trên con đường dài huýt sáo ra đi?

NGUYỄN BÁ TRẠC
( Bangkok 3/7/1988)

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, “Chúng ta đã lầm lẫn, lầm lẫn khủng khiếp”

nuocmattruocconmua

 

Ghi-chú của người dịch: Khi bản Việt ngữ cuốn “Nước Mắt Trước Cơn Mưa” vừa được duyệt sửa xong để sẵn sàng ấn hành vào cuối tháng Tư 1995 thì một cuốn sách quan trọng đáng lưu ý cũng được nhà xuất bản “Times Books” thuộc công ty “Random House” sửa soạn công bố tại Hoa Kỳ: Cuốn “In Restropect: The Tragedy and Lessons of Vietnam” (Hồi Tưởng: Bi kịch và những Bài học Việt Nam) của Robert S. McNamara.

Trong “Nước Mắt Trước Cơn Mưa”, tên McNamara chỉ được nhắc đến một lần từ Đại sứ Hoa Kỳ Graham Martin (Xem chương 4: Tòa Đại sứ Hoa Kỳ), nhưng đây chính là một trong những nhân vật then chốt nhất của giai đoạn Hoa Kỳ tham chiến tại Việt Nam.

Robert S. McNamara là Bộ trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ từ 1961 đến 1968 dưới thời hai Tổng thống John F. Kennedy và Lyndon B. Johnson. Từng là chủ tịch công ty Ford Motor Co. và chủ tịch Ngân hàng Thế giới. Là người “ưu tú sáng chói nhất”, nhận xét của ký giả David Halberstam. “Tên sát nhân”, “Kẻ Tội Phạm Chiến Tranh”, cách gọi của những Bồ Câu, tả phái, phản chiến. “Người bắt quân đội chiến đấu với một cánh tay trói chặt sau lưng”, lời buộc tội của nhiều quân nhân Hoa Kỳ và những Diều hâu, hữu phái.

Cuộc chiến Việt Nam đã có lúc được giới truyền thông Hoa Kỳ mệnh danh là: “Cuộc chiến McNamara.”

Ở tuổi 78, sau hai mươi bẩy năm nín lặng, bây giờ McNamara lên tiếng. Hai mươi năm sau khi miền Nam Việt Nam sụp đổ, bây giờ Robert S. McNamara đã nói gì ?

Để cung cấp tài liệu đọc thêm cho độc giả “Nước Mắt Trước Cơn Mưa”, chúng tôi chuyển dịch nguyên văn bài viết này của McNamara đăng tải trong tạp chí “Newsweek” số ngày 17 tháng Tư,1995 – nhan đề: “Chúng ta đã lầm lẫn, làm lẫn khủng khiếp”, tiểu tựa: “Trong một quyển sách mới, bộc trực, chua xót, người kiến trúc sư của cuộc chiến ghi lại các lỗi lầm căn bản đã dẫn dắt John F. Kennedy và Lyndon B. Johnson bước vào cuộc chiến Việt Nam’’.

Từng được công luận coi như một người chai đá, một bộ máy tính lạnh lùng McNamara đã xúc động bật khóc trong lúc phát biểu với Diane Sawyer của đài ABC trong chương trình truyền hình phát vào thượng tuần tháng Ba, 1995.

Những lời phát biểu của Robert s. McNamara đang gây chú ý, tạo nhiều tranh luận sôi nổi tại Hoa Kỳ với những quan điểm khác nhau, đặc biệt, trong các cộng đồng Việt Nam (Nguyễn Bá Trạc, San Jose, lễ Phục Sinh 1995).

ROBERT S. McNAMARA
(Nguyên Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ)
“Chúng ta đã lầm lẫn, lầm lẫn khủng khiếp”

Đây là một quyển sách mà tôi đã dự định sẽ không bao giờ viết ra.

Trong hơn một phần tư thế kỷ, mặc dù bị thúc bách phải đưa thêm quan điểm của tôi về vấn đề Việt Nam vào các tài liệu cho công chúng, nhưng tôi đã ngại ngần, vì sợ rằng việc ấy có thể bị xem như phục vụ cá nhân tôi, như phân bua bào chữa, oán hờn nhỏ mọn, là những điều mà tôi đã mong tránh khỏi bằng mọi giá. Nhưng nay, có những việc làm tôi thay đổi thái độ, chấp nhận lên tiếng.

Tôi đáp ứng không phải vì tôi mong được trình bầy câu chuyện của cá nhân tôi, nhưng vì ước nguyện đưa ra trước công chúng Hoa Kỳ những lý do giải thích tại sao chính phủ họ, các nhà lãnh đạo của họ đã hành xử như thế, và chúng ta có thể học hỏi được gì trong những kinh nghiệm ấy.

Tại sao sau bao năm im tiếng, bây giờ tôi lại bị thuyết phục rằng tôi nên nói ra? Có nhiều lý do:

Lý do chính là tôi đau lòng khi phải nghe những lời hoài nghi chỉ trích, ngay cả khinh miệt của nhiều người khi nhìn các định chế chính trị và các nhà lãnh đạo của chúng ta.

Có nhiều yếu tố đã đưa đến tình trạng này: vụ Việt Nam, vụ Watergate, những vụ tai tiếng, vụ tham nhũng. Nhưng sau khi cân nhắc kỹ, tôi không tin rằng các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ đã bất tài hay vô tình đối với phúc lợi của những người đã bầu cử họ. Chắc chắn, họ không hoàn hảo, con người mấy ai hoàn hảo? Họ đã phạm nhiều lầm lỗi, nhưng đa số ấy là những lỗi lầm lương thiện.

Chúng tôi, những người trong chính phủ Kennedy và Johnson, những người dự phần quyết định về Việt Nam đã hành xử dựa trên những gì chúng tôi tin rằng đấy là các nguyên tắc và truyền thống của quốc gia này. Chúng tôi đã làm quyết định với sự soi chiếu hướng dẫn của những giá trị ấy. Vâng, chúng tôi đã lầm lẫn, lầm lẫn khủng khiếp. Chúng tôi mắc nợ với các thế hệ tương lai lời giải thích.

Nhưng tôi thành thực tin rằng chúng tôi đã làm những lỗi lầm không thuộc các vấn đề giá trị và chủ định, mà chỉ là vấn đề phán đoán và khả năng. Tôi phát biểu điều này một cách thận trọng, vì tôi biết các lời phát biểu của tôi nếu có mang vẻ hợp lý hóa, biện minh đúng về những gì tôi và những người khác đã làm, thì những lời này sẽ làm mất tín nhiệm, chỉ tăng thêm tinh thần hoài nghi chỉ trích của mọi người.

Tôi muốn được người Mỹ hiểu tại sao chúng tôi đã phạm những lỗi lầm ấy, và có thể học hỏi được gì từ những lỗi lầm này. Tôi hy vọng nói rằng: “Đây là những gì rút ra từ bài học Việt Nam với tính cách xây dựng, và có thể ứng dụng được cho thế giới ngày nay và tương lai.” Đấy là con đường duy nhất mà đất nước chúng ta có thế rũ bỏ được dĩ vãng ra sau. Kịch tác gia cổ Hy Lạp Aeschylus từng viết: “Phần thưởng của niềm đau chính là kinh nghiệm.” Hãy để cho câu nói ấy được xem là một di sản vẫn tồn tại trong vụ Việt Nam.

TERRA INCOGNITA: VÙNG ĐẤT XA LẠ

Người của Kennedy lặn lội vào một vùng không ai biết rõ.

Suốt những năm vào thời Kennedy, chúng ta đã hành động dựa trên hai tiền đề mà cuối cùng đều chứng tỏ là mâu thuẫn. Tiền đề thứ nhất: Sự sụp đổ miền Nam Việt Nam vào tay Cộng Sản sẽ đe dọa an ninh của Hoa Kỳ và thế giới Tây phương. Tiền đề thứ hai: Chỉ người miền Nam Việt Nam mới có thể chống giữ được quốc gia họ và Hoa Kỳ chỉ nên giới hạn trong vai trò huấn luyện và cung cấp tiếp vận thôi. Do quan điểm sau, chúng ta đã thực sự bắt đầu kế hoạch rút dần quân lực Hoa Kỳ từ năm 1963, một bước đi đã bị mãnh liệt phản đối từ những người tin tưởng rằng việc này có thể dắt đến việc mất miền Nam Việt Nam, và chừng như, toàn thể Á châu.

Tôi chưa hề bao giờ đến thăm Đông Dương, cũng không hề hiểu biết gì lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa hay các giá trị của vùng Đông Dương. Phải nói việc ấy cũng cùng như thế trên nhiều mức độ khác nhau với Tổng thống Kennedy, Bộ trưởng Ngoại giao Dean Rusk, Cố vấn An ninh Quốc gia Mc George Bundy, Cố vấn Quân sự Maxwell Taylor và nhiều người khác nữa. Khi phải đối mặt với vấn đề Việt Nam, chúng tôi thấy chúng tôi đã đặt định chính sách cho một khu vực – Terra Incognita, một vùng đất xa lạ, không ai hay biết.

Tệ hơn nữa, chính phủ chúng tôi đã thiếu chuyên viên để cho ý kiến, hầu bù đắp sự không thông hiểu của chúng tôi về Đông Nam Á. Sự mỉa mai về lỗ hổng này xảy ra là bởi vì các chuyên viên thượng thặng về Đông Á và Trung Quốc tại bộ Ngoại giao – như John Paton Davies Jr., John Stewart Service, John Carter Vincent – đều đã bị giải nhiệm trong thời rối loạn quá khích Mc Carthy vào những năm 1950. Thiếu các chuyên viên như thế để cung cấp những hiểu biết thấu đáo, sâu sắc, tinh vi, nên chúng tôi – chắc chắn là tôi – đã hiểu sai các mục tiêu của Trung Quốc, đã lầm lẫn khi cho rằng những ngôn từ khoa trương hiếu chiến của Trung Quốc có bao hàm chiều hướng tiến đến việc chiếm lĩnh quyền bá chủ trong vùng. Chúng tôi cũng hoàn toàn đánh giá thấp khía cạnh quốc gia dân tộc của phong trào Hồ Chí Minh. Chúng tôi chỉ xem ông ta trước hết như một người Cộng Sản, rồi thứ đến mới là một người Việt Quốc Gia.

Những phán đoán thiếu căn cứ như thế đã được chính phủ Kennedy chấp nhận mà không bàn thảo tranh luận gì, cũng như những người tiền nhiệm thuộc đảng Dân chủ và đảng Cộng hoà trước đấy. Bấy giờ và cả sau này, chúng tôi đã sai lầm trong việc thiếu phân tích kỹ lưỡng các giả định của chúng tôi. Cơ sở các quyết định của chúng tôi sai sót nghiêm trọng.

Vào mùa thu năm 1961, lực lượng du kích từ Bắc Việt xâm nhập vào Nam đã lên cao, Việt Cộng tăng cường các cuộc tấn công mãnh liệt vào chính phủ của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Tổng thống Kennedy quyết định gửi Max Taylor (Cố vấn Quân sự) và Walt Rostow thuộc Hội đồng An ninh Quốc gia sang Nam Việt Nam. Trong báo cáo của họ, Max và Walt thúc giục chúng tôi phải làm rầm rộ việc hỗ trợ miền Nam Việt Nam bằng cách gửi thêm cố vấn, dụng cụ, và ngay cả một số nhỏ các đơn vị chiến đấu. Họ ghi rằng những bước ấy trên căn bản có nghĩa là “chuyển tiếp từ hình thức cố vấn sang hình thức chung phần” trong cuộc chiến.

Ngày mùng 8 tháng Mười Một năm 1961, tôi gửi lên Tổng thống Kennedy một phiếu trình ngắn, ủng hộ khuyến cáo ấy. Song le, ngay sau khi gửi phiếu trình này, tôi đã bắt đầu lo ngại rằng chúng tôi quá hấp tấp. Trong vài ngày kế, tôi tìm hiểu sâu hơn vấn đề Việt Nam. Càng nghiên cứu kỹ, càng thấy rõ sự phức tạp của tình thế, càng thấy sự bất trắc của khả năng chúng ta trong việc đối phó vấn đề ấy bằng các biện pháp quân sự. Tôi nhận ra được việc ủng hộ phiếu trình của Taylor và Rostow là một chuyện không hay. Dean Rusk và các cố vấn của ông cũng đi đến một kết luận như thế. Ngày 11 tháng Mười Một, ông và tôi cùng gửi lên Tổng thống một phiếu trình chung để khuyến cáo đừng gửi quân tham chiến.

Trong buổi họp tại tòa Bạch Cung xế ngày hôm ấy, Tổng thống Kennedy xem xét cả hai phiếu trình. Ông xác nhận minh bạch rằng ông mong không phải làm một cam kết vô điều kiện trong chuyện ngăn ngừa việc mất miền Nam Việt Nam. Ông dứt khoát từ chối tán thành việc bắt đầu gửi quân lực Hoa Kỳ sang tham chiến.

Tình trạng lưỡng lự khó xử mà Dean Rusk và tôi vạch ra sẽ ám ảnh chúng tôi trong rất nhiều năm. Xem lại biên bản các buổi họp này, rõ rệt là phân tích của chúng tôi mơ hồ, không thỏa đáng. Chúng tôi đã thiếu sót trong việc đặt ra năm câu hỏi căn bản nhất: Đúng hay không, việc sụp đổ miền Nam Việt Nam sẽ lôi kéo sự sụp đổ của toàn thể vùng Đông Nam Á? Liệu việc ấy có tạo nên một đe dọa nghiêm trọng nào cho an ninh Tây phương hay không? Loại chiến tranh nào – quy ước hay du kích – sẽ có thể mở ra? Với quân đội Hoa Kỳ chiến đấu bên cạnh người miền Nam Việt Nam, liệu chúng ta có thể thắng hay không? Trước khi gửi quân tham chiến, liệu chúng ta có nên làm ngơ tất cả những câu hỏi này hay không?

Thực có vẻ khó hiểu, không thể tin được rằng chúng tôi đã không tự buộc mình trực diện những đề tài trọng tâm ấy. Nhưng ngày nay, cũng thật khó gợi lại được sự ngây thơ và tin tưởng trong cách chúng tôi tiếp cận vấn đề Việt Nam vào những ngày đầu của chính phủ Kennedy. Chúng tôi biết rất ít về khu vực này. Chúng tôi thiếu kinh nghiệm trong việc đối phó khủng hoảng. Một số vấn đề quốc tế đang thôi thúc ầm ĩ đã cuốn hút sự chú ý của chúng tôi vào năm đầu tiên, tạm kể: Cuba, Bá Linh và Congo. Chưa kể cuộc cách mạng nhân quyền tại quốc nội. Sau hết, có lẽ quan trọng nhất, là bấy giờ chúng tôi chưa sẵn sàng hoặc chưa có những câu giải đáp tốt. Tôi e là, trong những trường hợp ấy, các chính phủ – và trong thực tế, đa số người ta – đều có khuynh hướng vùi đầu vào cát. Việc này có thể giúp giải thích cho thái độ của chúng tôi, nhưng chắc chắn, là không thể bào chữa cho thái độ chúng tôi.

Mặc dù cách tiếp cận vấn đề Việt Nam của chúng tôi có rời rạc vào những năm đầu tiên ấy, nhiều người trong chúng tôi – gồm cả Tổng thống và tôi – đã đi đến tin tưởng rằng: Với vấn đề như thế này, chỉ người miền Nam Việt Nam mới có thể giải quyết được. Tổng thống Kennedy đã tuyên bố điều ấy trong lúc riêng tư, ngay cả trước công chúng vào cuối mùa hè và mùa thu 1963, khi âm mưu đảo chánh Ngô đình Diệm, lãnh tụ miền Nam, đang bắt đầu. Chúng ta có thể giúp huấn luyện, hoặc giúp tiếp vận, nhưng chúng ta không thể chiến đấu cuộc chiến của họ. Đấy là quan điểm của chúng tôi lúc bấy giờ. Nếu chúng tôi cứ giữ vững quan điểm ấy, toàn thể lịch sử giai đoạn này đã khác hẳn.

Càng lúc tôi càng làm cho vấn đề Việt Nam trở thành một trách nhiệm của riêng cá nhân tôi. Điều ấy duy chỉ đúng ở một điểm: Rằng đấy là nơi dẫu chỉ là những người cố vấn, người Mỹ đã lọt vào một cuộc chiến đang nổ súng. Tôi cảm thấy một trách nhiệm nặng về việc ấy. Đấy là những gì sau này sẽ đưa đến chuyện người ta gọi Việt Nam là cuộc chiến của McNamara.

Trước khi cho phép đảo chính Diệm, người đã làm cho các nỗ lực chiến tranh tại nước ông càng lúc càng được nhận thấy là không thỏa đáng, chúng tôi thiếu sót trong việc đối đầu với những vấn đề căn bản tại Việt Nam – những vấn đề đã đưa đến việc hạ bệ ông ta – và rồi chính chúng tôi lại vẫn tiếp tục làm ngơ những vấn đề ấy, sau khi đã hất ông Diệm đi. Nhìn trở lại, tôi tin rằng Kennedy và mỗi cố vấn của ông đều có lỗi:

* Đáng lẽ tôi nên thúc đẩy việc nghiên cứu, bàn thảo, tranh luận kỹ về những câu hỏi căn bản như: Với Diệm, liệu chúng ta có thể thắng hay không? Nếu không, cố thể thay bằng ai khác để với nhân vật này, chúng ta có thể hoạt động tốt hơn không? Nếu không, liệu chúng ta có nên lưu tâm đến việc tiến tới Trung lập chế? Hoặc, giải pháp thay thế, là rút khỏi trận địa Việt nam, nơi mà những bất ổn chính trị làm cho Hoa Kỳ không thể nào ở lại được?

* Cố vấn Quân sự Maxwell Taylor đã không thúc đẩy việc giải quyết những bản báo cáo tiếp tục sai biệt nhau chung quanh các tiến triển quân sự hoặc không có tiến triển gì.

* Bộ trưởng Ngoại giao Dean Rusk – một trong những người quên mình nhất, một cá nhân tận tụy phục vụ Hoa Kỳ – đã hoàn toàn thiếu sót trong việc quản trị bộ Ngoại giao và giám sát Đại sứ Henry Cabot Lodge, Jr. – và cũng đã không tận tình tham dự các buổi họp với Tổng thống.

* Và, Tổng thống Kennedy, người mà tôi quy trách ít nhất, người đã phải lo toan nhiều vấn đề khác nữa – đã thiếu sót trong việc kết hợp một chính phủ Hoa Kỳ chia rẽ. Khi phải chạm trán những lựa chọn khó khăn, ông tỏ ra bất động, không quyết đoán trong một thời gian quá lâu.

SAU NGÔ ĐÌNH DIỆM VÀ KENNEDY

Johnson bắt đầu nghiêng về định mệnh trực tiếp tham chiến

Sau vụ ám sát Kennedy, Lyndon Johnson thừa kế một Việt Nam chưa từng phức tạp, khó khăn và nguy hiểm hơn. Người lãnh tụ duy trì được việc thống hợp các lực lượng ly tâm tại miền Nam Việt Nam trong gần mười năm, đã bị loại bỏ trong một cuộc đảo chánh mà Kennedy hỗ trợ, còn Johnson với tư cách Phó Tổng thống đã phản đối. Miền Nam Việt Nam thiếu một truyền thống đoàn kết quốc gia. Sự kiện này vây quanh bởi những hận thù tôn giáo, chủ nghĩa bè phái, cảnh sát tham nhũng, và một yếu tố khác không kém phần quan trọng, đó là phiến loạn du kích gia tăng với sự yểm trợ của láng giềng phương Bắc. Hơn nữa, Johnson thừa hưởng một nhóm phụ trách an ninh quốc gia, nhóm này đã sâu xa chia rẽ trong vấn đề Việt Nam.

Song le, trái với các huyền thoại phổ thông, khi trở thành Tổng thống, Lyndon Johnson không hề lơ là vấn đề Việt Nam. Mặc dù chỉ thăm viếng Việt Nam có một lần vào tháng Năm 1961, ông đã tham dự các cuộc họp về Việt Nam vào thời Kennedy, ông ý thức được vấn đề một cách sắc bén. Với tư cách Tổng thống, một trong những hành động đầu tiên của ông là ấn định buổi họp với các cố vấn về Việt Nam của ông. Có người bảo ràng ông chỉ triệu tập buổi họp này vì lý do chính trị quốc nội. Với cuộc bầu cử sẽ diễn ra trong thời gian một năm, người ta cho là ông lo sợ, nếu ông không tỏ ra kiên quyết và để tâm vào vấn đề này, có thể ông sẽ phải chạm mặt với những cuộc chống đối ồn ào của những nhóm cứng rắn Cộng hòa Hữu phái.

Tôi không đồng ý. Dĩ nhiên ông có e sợ các hậu quả chính trị quốc nội nếu ông tỏ ra nhu nhược. Ông cũng e sợ ảnh hưởng cho các đồng minh của chúng ta nếu Hoa Kỳ tỏ ra bất lực và miễn cưỡng trong việc thực hiện các trách vụ an ninh. Nhưng trên hết, là ông đã được thuyết phục rằng Liên bang Sô viết và Trung Quốc có khuynh hướng tiến đến việc giành quyền bá chủ. Ông xem hành động đánh chiếm miền Nam Việt Nam như một bước tiến đến chuyện thực hiện mục tiêu này – một hành động bẻ gẫy chính sách ngăn chận của chúng ta – ông quyết tâm phòng ngừa việc ấy. Johnson cảm thấy chắc chắn hơn Tổng thống Kennedy về giả thuyết nếu mất miền Nam Việt Nam thì Hoa Kỳ có thể sẽ phải trả giá đắt hơn là trực tiếp gửi quân tham chiến. Chính quan điểm ấy đã định hướng ông, đã tạo hình cho các quyết định về chính sách của ông trong thời gian năm năm kế tiếp. Ông đã sai sót trong việc nhận thức bản chất chính trị cơ sở của cuộc chiến này.

Đầu tháng chạp, Tổng thống yêu cầu tôi đến gặp. Ông được thuyết phục rằng chính phủ Hoa Kỳ không hành động đầy đủ những gì nên làm. Ông yêu cầu tôi đi Sài Gòn. “Tình hình ở đấy đang rất lôi thôi”. Khi quay về, tôi báo cáo với ông, và tiên đoán rằng: “Trừ phi có thể xoay chuyển ngay được tình thế trong vòng hai, ba tháng tới, còn không, chiều hướng hiện tại giỏi lắm là đưa đến Trung lập, hoặc tệ hơn, chắc sẽ trở thành một nước do Cộng Sản kiểm soát”. Ngay sau đấy không lâu, Tổng thống nhận được một phiếu trình của Thượng nghị sĩ Mike Mansfield, thủ lãnh nhóm đa số (Đảng Dân chủ, đơn vị Montana). Thượng nghị sĩ Mike Mansfield khuyến cáo Hoa Kỳ nên thử giải pháp Đông Nam Á trung lập – một vùng Đông Nam Á không phụ thuộc viện trợ quân sự Hoa Kỳ, cũng không là đối tượng bị Trung Quốc chế ngự – việc ấy có thể thực hiện qua một vài hình thức ngưng bắn và dàn xếp hòa giải. Tổng thống bèn tham khảo vói Bộ trưởng Ngoại giao Dean Rusk, Cố vấn ninh Quốc gia Mac Bundy và tôi, để xem chúng tôi phản ứng như thế nào. Tất cả ba chúng tôi đều cảm thấy con đường của Thượng nghị sĩ Mansfield có thể dẫn đến việc mất miền Nam Việt Nam vào tay Cộng Sản, với những hậu quả cực kỳ nghiêm trọng cho Hoa Kỳ và Tây phương. Chuyện này biểu lộ rằng chúng tôi thực đã thiển cận trong cách phân tích và bàn thảo về biện pháp trung lập hoặc rút quân – là các biện pháp thay thế cho chính sách đương hữu của chúng tôi tại Việt Nam. Sự nông cạn hẹp hòi ấy cũng biểu lộ trong việc chúng tôi trình bầy với Tổng thống Johnson về hậu quả việc mất Đông Á đối với an ninh của Hoa Kỳ và Tây phương – một cách mạnh mẽ hơn, với nhiều chi tiết hơn là trong những dịp trình bầy trước.

Việc này làm cho thái độ Tổng thống trở nên cứng rắn. Cùng với việc nhận ra chiến lược huấn luyện đang rõ rệt trở nên thất bại trong những tháng sắp đến, chúng tôi nghiêng dần về giải pháp trực tiếp tham chiến, chúng tôi đi đến giải pháp ấy một cách tinh tế, hầu như không nhìn ra được. Chúng tôi đã hành động như thế chỉ vì sự sợ hãi của chúng tôi gia tăng, chúng tôi sợ các hậu quả có thể xảy ra nếu chúng tôi không hành động gì. Sau này, khi mọi việc đã xảy ra rồi, chúng tôi mới nhận thức được rằng đấy chỉ là sự sợ hãi thổi phồng quá đáng.

Một phần, sự hỏng hụt của chúng tôi là do kết quả của việc phải đối phó nhiều chuyện khác nữa, không phải chỉ có chuyện Việt Nam. Tinh trạng bất ổn tại Mỹ châu La Tinh, tại Phi châu, Trung Đông, và mối đe dọa của Sô Viết đối với Âu châu đã thu hút hết thì giờ và sự chú ý của chúng tôi. Chúng tôi không có một nhóm chuyên viên cao cấp phụ trách về vấn đề Việt Nam, nên cuộc khủng hoảng này trở thành chỉ là một trong nhiều đề mục khác đã được bỏ lên trên đĩa của mỗi người. Khi gộp lại sự thiếu uyển chuyển trong các mục tiêu của chúng tôi, cùng với sự kiện chúng tôi đã không thực sự nghiên cứu những gì thiết yếu nhất, quan trọng nhất đối với chúng tôi, chúng tôi trở thành rối rắm, ôm đồm quá tải, và rồi chúng tôi cầm một tấm bản đồ, trong ấy chỉ có một con đường độc đạo. Chúng tôi không bao giờ chịu ngừng lại, tìm tòi kỹ lưỡng đầy đủ hơn để xem có những con đường nào khác cho mục đích của chúng ta không.

Vào những tháng cuối năm 1963, tình thế Nam Việt Nam càng trở nên tệ hại một cách chắc chắn. Sau khi loại bỏ Diệm, phe đảo chánh nắm quyền chẳng làm được gì để ngăn chận tình trạng suy thoái. Ngày 29 tháng Giêng 1964, một nhóm sĩ quan trẻ do tướng Nguyễn Khánh cầm đầu đã hạ bệ chính phủ chia rẽ và vô hiệu ấy. Hoa Thịnh Đốn không khuyến khích, cũng không giúp đỡ cuộc đảo chánh này; trong thực tế, tình trạng hỗn loạn thường xuyên càng làm tăng mối lo của Tổng thống Johnson, tăng quan tâm về sự bất ổn chính trị có thể phá vỡ nỗ lực cuộc chiến. Do đấy, ông cảm thấy chúng ta phải làm cho Khánh trở thành “Chú nhỏ của chúng ta.”

Trước khi Cố vấn Quân sự Maxwell Taylor và tôi sang Sài Gòn một lần nữa, Tổng thống yêu cầu chúng tôi đến tòa Bạch Cung. Ông nói: “Bob, tôi muốn thấy có chừng một nghìn tấm ảnh chụp ông cùng tướng Khánh vẫy tay tươi cười và biểu lộ cho mọi người ở đấy biết rằng quốc gia này triệt để đứng sau lưng Khánh”.

Tổng thống đạt ý muốn. Suốt mấy ngày giữa tháng Ba, với sự ngượng nghịu lúng túng vô cùng của tôi, người Mỹ đã cầm những tờ báo, mở truyền hình ra xem hình ảnh tôi lang thang khắp miền Nam Việt Nam từ đồng bằng sông Cửu Long ra Huế, đứng vai sát vai cạnh viên tướng Khánh lùn, béo núng nính, trước mặt những đám đông người Việt, với cố gắng quảng cáo cho ông với dân chúng của ông. Và bởi vì đến bấy giờ chúng tôi vẫn không nhận thức được cuộc chiến đấu của người Bắc Việt và Việt Cộng trong bản chất là người Quốc gia, chúng tôi không nhận thức được việc trình bầy liên hệ giữa Khánh và Hoa Kỳ trước công chúng lại chỉ làm tăng thêm trong tâm trí người Việt rằng chính phủ của họ chỉ đạt được sự hỗ trợ của Hoa Kỳ, chứ không phải là sự hỗ trợ của chính dân tộc họ.

LỪA DỐI QUỐC HỘI?

Trả lời những cáo buộc về Nghị quyết Vịnh Bắc Việt

Gần gũi nhất đến việc tuyên chiến tại Việt Nam là vụ Nghị quyết Vịnh Bắc Việt trong tháng Tám 1964. Các biến cố xung quanh nghị quyết này đã gây nhiều tranh cãi trầm trọng vẫn còn tiếp tục đến nay. Sau đây là những câu hỏi then chốt cùng với các câu trả lời của tôi:

* Những cuộc tấn công khu trục hạm Hoa Kỳ của tầu tuần Bắc Việt được báo cáo xảy ra vào hai thời điểm riêng rẽ – Mùng 2 tháng Tám và mùng 4 tháng Tám, 1964. Những cuộc tấn công ấy có thực hay không? Trả lời: Bằng chứng về cuộc tấn công thứ nhất không thể tranh cãi được. Về cuộc tấn công thứ hai: Có lẽ, nhưng không chắc.

* Lúc ấy, và cả nhiều năm sau này, có người tin rằng chính phủ Johnson đã có chủ tâm khiêu khích các cuộc tấn công ấy nhằm biện minh cho việc leo thang chiến tranh, và che giấu để đạt được thẩm quyền Quốc hội cho phép leo thang. Câu trả lời: Hoàn toàn không.

* Nghị quyết ấy có thể đệ trình cho Quốc hội không, nếu vụ Vịnh Bắc Việt không xảy ra, và nếu không có vụ ấy, nghị quyết ấy có thể được thông qua hay không? Trả lời: Gần như chắc chắn, một nghị quyết sẽ được đệ trình Quốc hội trong vòng vài tuần lễ, và rất có thể nghị quyết sẽ được thông qua. Tuy nhiên trong trường hợp ấy, nghị quyết này sẽ được tranh luận bàn thảo kỹ lưỡng, và có thể Quốc hội sẽ đặt ra những thẩm quyền Tổng thống.

* Chính phủ Johnson có thể bào chữa việc đưa ra những hành động quân sự tại Việt Nam – bao gồm cả việc bành trướng quân lực trên những mức độ khổng lồ – sau vụ nghị quyết vịnh Bắc Việt – hay không? Trả lời: Tuyệt đối không. Mặc dù Nghị quyết ấy đủ cho phép một thẩm quyền rộng rãi để hỗ trợ cuộc leo thang, nhưng Quốc hội không bao giờ có ý định cho phép dùng nghị quyết ấy làm một căn bản cho các hành động như thế, và nước Mỹ cũng không thấy như thế.

KHỦNG HOẢNG VỀ TÍN NHIỆM

Đến khoảng tháng Bẩy 1965: Thêm quân, thêm bom, bớt thẳng thắn thực thà.

Ngày nay nhiều người tin rằng Tổng thống Johnson đã úp mở trong việc đưa ra các quyết định về Việt Nam bởi ông muốn tập trung vào việc thắng cử Tổng thống năm 1964. Nhiều người khẳng định là ông đã che đậy ý muốn bành trướng cuộc chiến vì các lý do chính trị – là ông muốn vẽ ra hình ảnh ứng cử viên Cộng hòa, Nghị sĩ Barry M.Goldwater, như một tay hiếu chiến, phần ông lại là một chính khách biết điều, yêu chuộng hòa bình. Nếu Lyndon Johnson quả có một kế hoạch leo thang chiến tranh trong trí, ông không hề cho tôi biết. Và tôi đã tin rằng ông không có một dự định như thế. Ông không bao giờ chỉ thị gì cho tôi hoặc cho Tham Mưu Trưởng về việc ông muốn chúng tôi phải nén vụ Việt Nam lại vì cuộc bầu cử. Thực ra bấy giờ vẫn chưa có sự đồng thuận giữa các cố vấn của ông về chuyện nên hành động gì.

Đối diện với những khuyến cáo đầy mâu thuẫn sâu xa về cuộc chiến nói chung, việc dội bom miền Bắc nói riêng, ngày mùng 2 tháng Mười Một, Tổng thống cho tổ chức một Nhóm Hoạt Động đặt dưới quyền Phụ tá Bộ trưởng Ngoại giao William Bundy nhằm một lần nữa, tái xét các biện pháp thay thế. Hôm sau, Lyndon B.Johnson thắng cử với số phiếu lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Nhóm Hoạt Động, điều hành một cuộc tái xét toàn diện các giả định, các tiền đề và những biện pháp lựa chọn, rồi cho biết:

Chúng ta không thể bảo đảm duy trì một miền Nam Việt Nam không Cộng Sản mà giảm thiểu được việc liên lụy của chúng ta vào bất cứ hành động quân sự nào cần thiết để đánh bại Bắc Việt, và có thể cả Trung Cộng – về quân sự. Một cam kết như thế sẽ dính líu đến những nguy cơ cao độ trong mối mâu thuẫn lớn lao tại Á châu, và sự cam kết ấy không thể chỉ hạn chế trong các hoạt động hải quân, không quân, sự cam kết ấy sẽ gần như không thể tránh khỏi các hành động với kích thước của trận địa chiến ở Cao Ly, và có thể, ngay cả việc phải sử dụng đến vũ khí hạt nhân tại một số địa điểm.

Tổng thống và tôi sửng sốt trước phong cách ung dung của các viên chỉ huy và những người cộng tác của họ trong việc chấp nhận cả nguy cơ có thể sử dụng vũ khí hạt nhân. Trên tất cả mọi điều, chúng tôi muốn tránh nguy cơ này. Tôi tin rằng dù chỉ là một nguy cơ rất thấp của thảm họa này, chúng ta cũng phải tránh. Bài học ấy đã không được rút ra vào năm 1964. Tôi e cho đến ngày nay, quốc gia chúng ta và cả thế giới vẫn chưa rút ra đầy đủ bài học ấy.

Sau nhiều tháng không chắc chắn, không quyết đoán, chúng tôi chạm mặt ngã ba đường.

Tiếp theo phiếu trình của chúng tôi, sáu tháng đầu năm 1965 đánh dấu một thời kỳ quyết định của ba mươi năm Mỹ can thiệp vào Đông dương. Vào khoảng giữa 28 tháng Giêng đến 28 tháng Bẩy 1965, Tổng thống Johnson đã làm những lựa chọn định mệnh khóa chặt Hoa Kỳ vào con đường can thiệp bằng quân sự ồ ạt ở Việt Nam, một cuộc can thiệp sau này đã tiêu hủy chức vụ Tổng thống của ông và phân cực nước Mỹ trong những đối chọi chưa từng xảy ra kể từ Nội chiến.

Trong thời kỳ định mệnh này, Johnson bắt đầu cho phép dội bom Bắc Việt, đưa sang các lực lượng bộ binh, tăng tổng số binh sĩ Hoa Kỳ từ 23,000 lên 175,000 – có thể đưa thêm 100,000 quân nữa vào năm 1966 và có lẽ còn hơn thế sau này. Tất cả những việc ấy xảy ra mà không mở rộng cho công chúng hay biết, không bàn thảo một cách thích đáng, đấy sẽ là những mầm mống hiển nhiên đưa đến cơn khủng hoảng về tín nhiệm sau này.

Mặc dù giấu giếm việc thay đổi chính sách trước công chúng, Tổng thống đã tìm kiếm sự cố vấn của những người bên ngoài chính phủ, đặc biệt là cựu Tổng thống Eisenhower. Ông tóm tắt cho Ike (Eisenhower) biết, rồi mời Ike họp với ông cùng các cố vấn cao cấp của ông tại tòa Bạch Cung. Ngày 17 tháng Ba, chúng tôi ngồi vây quanh chiếc bàn của phòng họp hội đồng chính phủ trong hai tiếng rưỡi đồng hồ để nghe quan điểm của vị tướng lãnh.

Ike mở đầu bằng cách nói rằng trách nhiệm thứ nhất của Lyndon B. Johnson chính là phải kiềm chế Cộng Sản tại Đông Nam Á. Tiếp theo, ông phát biểu là việc dội bom có thể giúp đạt mục tiêu này. Dội bom không chấm dứt được hành động xâm nhập, nhưng sẽ giúp ích bằng cách làm suy nhược ý chí chiến đấu của Hà Nội. Ông tin sẽ có lúc Tổng thống có thể chuyển từ các cuộc oanh tạc trả đũa sang “chiến dịch áp lực.” Khi có người hiện diện trong buổi họp (Tôi không nhớ là ai) nói rằng việc ấy có thể đòi hỏi một lực lượng rất lớn – tám sư đoàn Hoa Kỳ – để ngăn ngừa Cộng Sản chiếm miền Nam, Eisenhower phát biểu rằng ông hy vọng không cần đến thế, nhưng “nếu cần thì làm”. Nếu người Tàu và Sô Viết đe dọa can thiệp, “Chúng ta nên chuyển lời cho họ phải coi chừng những hậu quả tàn bạo thảm khốc (nghĩa là tấn công nguyên tử) xảy ra cho họ.”

Hai ngày sau, Tổng thống Johnson quyết định bắt đầu cho oanh tạc thường xuyên lên Bắc Việt, nhưng một lần nữa, ông từ chối lời khuyên của Mac, Cố vấn An ninh Quốc gia, về việc tuyên bố quyết định này cho công chúng.

Tại sao Tổng thống Johnson đã từ chối, không tin cậy công chúng Mỹ? Có người cho rằng đấy là do tính nết giấu giếm bẩm sinh của ông, nhưng câu trả lời thực ra phức tạp hơn nhiều. Một yếu tố đó là nỗi ám ảnh của ông trong việc cần bảo đảm Quốc hội chấp thuận và tài trợ chương trình Đại Xã Hội của ông; ông không muốn bất cứ chuyện gì có thể làm sai lệch các kế hoạch cải tổ quốc nội mà ông ấp ủ. Yếu tố khác là mối sợ hãi cũng lớn ngang thế về áp lực của nhóm cứng rắn (từ những người bảo thủ trong cả hai đảng) đối với hành động quân sự lớn lao hơn, liều lĩnh hơn, có thể châm ngòi cho các phản ứng của Trung Quốc, và/ hoặc của Liên Sô, đặc biệt chiến tranh nguyên tử. Tổng thống đã đương đầu tình trạng tiến thối lưỡng nan này bằng cách che giấu đi – một hành động thiếu khôn ngoan đã tự hại ông sau này.

Ngày 21 tháng Tư, trong buổi họp tại phòng họp hội đồng chính phủ, tôi thúc đẩy Tổng thống nhanh chóng chấp thuận khai triển, nghĩa là, đánh dấu việc tăng cường sức mạnh Mỹ tại Việt Nam từ 33,000 quân lên 82,000 quân, nhằm chống đỡ cho Nam Việt Nam một cuộc tấn công của Cộng Sản đã được dự liệu, đồng thời ngăn ngừa “một cuộc thất trận ngoạn mục của chính phủ Nam Việt Nam hoặc của các lực lượng Hoa Kỳ.”

George Ball, cũng tham dự buổi họp ngày 21 tháng Tư, đã phản ứng khuyến cáo ấy bằng lời yêu cầu chúng tôi “không nên nhẩy một bước liều lĩnh như thế mà không thăm dò các khả năng dàn xếp.” Tồng thống trả lời, “Được rồi, George, tôi cho ông thời hạn đến mai để thử cho tôi một kế hoạch dàn xếp. Nếu ông có thể làm trò ảo thuật, moi ra được con thỏ trong cái mũ, tôi sẽ theo ông.” Ngay đêm hôm ấy, George Ball đệ trình Tổng thống một kế hoạch hòa giải. Nhưng tờ trình của George thất bại trong việc mô tả làm thế nào để đạt được những mục tiêu mà chúng ta tìm kiếm.

Những gì George đã có khuyến cáo – nhưng chúng tôi có lẽ đã không thực hiện đúng đắn – đấy là việc yêu cầu các trung gian hòa giải (Thụy Điển, Sô Viết, mười bẩy quốc gia phi liên kết) xác nhận minh bạch với Hà Nội rằng chúng tôi sẽ chấp nhận vị thế mà ông đã phác thảo ra. Trong vòng chỉ vài tuần lễ, chúng tôi có tiếp xúc với một đại diện Bắc Việt tại Ba Lê. Trong ba năm tiếp theo, chúng tôi có thử tiếp xúc nhiều lần khác. Nhưng chúng tôi đã sai sót trong việc không sử dụng tất cả mọi đường dây khả thi, sai sót trong việc không xác nhận minh bạch vị thế của chúng ta. Và trong thời gian tệ hại vào lúc Hoa Kỳ đánh bom, vẫn thường có ẩn chứa những dấu hiệu là Hoa Kỳ mong mỏi hòa bình.

Nhận thức sự vô hiệu của việc thả bom đã tăng cường áp lực mở rộng trận địa chiến. Việc này bùng nổ ngày 7 tháng Sáu. Hôm ấy, Tư lệnh quân lực Hoa Kỳ, tướng William Westmoreland gửi điện văn cho biết: ông cần 41,000 quân chiến đấu ngay bây giờ, 52,000 sau đó nữa. Việc này sẽ làm tăng quân lực Mỹ từ 82,000 lên 175,000. Trong tấm điện văn, câu cuối cùng ông viết là: “Phải tiếp tục nghiên cứu, phải dự liệu khai triển những lực lượng lớn hơn, nếu cần, và khi cần.” Lời yêu cầu của ông có nghĩa rằng đây sẽ là một cuộc bành trướng bi thảm và vô giới hạn của quân lực Mỹ. Trong suốt bẩy năm tại bộ Quốc phòng, với hàng ngàn điện văn nhận được, đây chính là tấm điện văn đã làm tôi phiền muộn nhất.

Tổng thống Johnson đọc một số bản thăm dò ý kiến mà kết quả cho thấy công chúng đã được chuẩn bị chấp nhận những hành động đi xa hơn. Sáu mươi lăm phần trăm chấp nhận cách ông đối phó cuộc chiến. 47 phần trăm có thiện cảm với việc gửi thêm quân. Nhưng Tổng thống biết rất rõ là công chúng có thể thay đổi mau chóng đến đâu. Ngày 21 tháng Sáu, ông bảo tôi:

Tôi nghĩ sẽ có lúc rất khó cho chúng ta đeo đuổi một cách vô hiệu quả một cuộc chiến quá xa quê nhà, với những sư đoàn, đặc biệt những sư đoàn có khả năng mà chúng ta gửi đến đó. Chuyện này làm tôi lo nghĩ cả tháng nay. Tôi rất buồn bực vì không thấy bộ Quốc phòng hay bộ Ngoại giao đưa ra được một chương trình nào khả dĩ hy vọng làm được gì, ngoài việc cầu khẩn khấn vái, thở dốc mà chờ đến mùa mưa để mong chúng bỏ cuộc. Nhưng tôi không tin chúng sẽ bỏ cuộc.

Tổng thống chấp thuận một chương trình tăng quân tham chiến vào ngày 27 tháng Bẩy, ông loan báo quyết định cho công chúng Mỹ trong bài diễn văn đọc vào buổi trưa 28 tháng Bẩy. Nhưng ông không chấp thuận một đường lối hợp lệ để tìm tài trợ cho chương trình. Tôi phỏng định chương trình ấy sẽ đòi hỏi vào khoảng mười tỉ Mỹ kim tăng thêm vào phần chi của tài khóa 1966. Tôi đệ trình chiết tính dự chi của tôi và đề nghị tăng thuế trong bản thảo một phiếu trình rất hạn chế, ít người được biết. Ngay Bộ trưởng Ngân khố và Chủ tịch Hội đồng cố vấn kinh tế cũng không được biết gì.

Sau khi đọc xong bản thảo phiếu trình và phần ước chi do tôi đưa, Tổng thống nói: “Ông tính ông sẽ vận động được bao nhiêu phiếu?” (Tôi hiểu ý Tổng thống muốn nói gì: Ông không tin Quốc hội sẽ chịu thông qua một dự luật tăng thuế).

“Tôi không tính chuyện vận động phiếu” Tôi trả lời. “Tôi biết việc này rất khó, nhưng đấy là trách nhiệm của những người phụ trách liên lạc với lập pháp, đấy là công việc của họ, họ đâu cả rồi?”

“Ông cứ tự nhấc đít mà đi sang Quốc hội, đừng vác mặt về nếu ông không kiếm ra đủ số phiếu.”

Tôi thực hiện việc ấy. Nhưng tất nhiên không đạt đủ số phiếu cho dự luật tăng thuế được thông qua. Tôi cho Tổng thống biết việc này và nói rằng, “Tôi vẫn cố tranh đấu cho những gì ngay thẳng đúng đắn rồi dẫu có thất bại cũng vẫn còn hơn không.”

Ông nhìn tôi, nổi cáu. “Mẹ kiếp, đấy, tôi đã bảo mà, ông là thứ dở người như thế – ông không phải là tay làm chính trị. Đã bao nhiêu lần tôi từng nhắc ông về chuyện Tổng thống Roosevelt cố đưa người vào Tối cao Pháp viện rồi thất bại một lần thì sau đấy chẳng còn làm ăn gì với bọn Quốc hội được nữa.” Tôi biết ông có quá lời, nhưng tôi hiểu trọng điểm của ông: Ông đang cần bảo vệ các chương trình Đại Xã Hội do ông đề ra. Tuy nhiên, nếu bấy giờ ông chưa bị cơn khủng hoảng về tín nhiệm đang lan tràn rộng rãi – nó xói mòn cái khả năng xây đắp Đại Xã Hội của ông – thì có thể tôi đã đồng ý với ông.

Ngay từ khi chúng ta bắt đầu liên hệ vào cuộc chiến Việt Nam, các lực lượng Việt Nam đã thường gửi cho chúng ta những bản tường-trình tình-báo nghèo nàn, không chính xác. Đôi khi những sự bất chính xác này có chủ ý đánh lạc lối; đôi khi là sản phẩm của quá nhiều lạc quan. Và đôi khi chỉ đơn thuần phản ảnh nỗi khó khăn trong việc họ không đánh giá được sự tiến triển một cách chính xác.

Nhưng tôi nhất định rằng chúng ta phải cố gắng đo lường các tiến triển. Ngay những năm học ở Harvard, tôi đã phải áp dụng một điều lệ, đấy là chỉ nhận thức mục tiêu và thiết lập kế hoạch thực hiện thôi, không đủ; Còn phải nghe ngóng giám sát kế hoạch để xác định xem có đạt được mục tiêu hay không. Nếu khám phá là không thể đạt được, thì phải sửa kế hoạch hoặc thay đổi mục tiêu. Tôi được thuyết phục rằng trong khi chúng ta không thể theo sát tiền tuyến, chúng ta có thể tìm những cách khác nhau để xác định thành công hay thất bại. Do đó chúng tôi đã đo đếm các mục tiêu triệt hạ tại miền Bắc, đo đếm số xe di chuyển trên đường mòn Hồ Chí Minh, số vũ khí chiến lợi phẩm thu được, số xác chết địch quân v.v…

Việc đếm xác chết là một phương thức đo lường thiệt hại nhân mạng của địch quân; Chúng tôi thực hiện việc ấy, vì một trong những mục tiêu của (tướng) Wesmoreland là phải đạt đến cái-gọi-là-giao-điểm, ấy là điểm mà các thiệt hại của Việt Cộng và của người Bắc Việt lớn hơn sức họ có thể chịu đựng được. Việc đếm xác chết bị người ta phê bình rằng đây là một ví dụ về nỗi ám ảnh của tôi đối với những con số. “Thằng cha McNamara này,” họ nói “là một thằng cha cố gắng định- lượng-hóa tất cả mọi thứ.” Hiển nhiên, có những thứ người ta không thể định lượng được: Như Danh Dự, như vẻ Đẹp chẳng hạn. Nhưng có những thứ nguời ta có thể đếm, người ta phải đếm. Sự thiệt mạng là một thứ (người ta có thể đếm, phải đếm) khi người ta đang chiến đấu trong một cuộc chiến tiêu hao. Chúng tôi đã cố sử dụng việc đếm xác chết như một phương thức đo lường để giúp chúng tôi tính toán xem chúng tôi nên làm gì ở Việt Nam ngõ hầu thắng cuộc chiến trong khi giữ được cho binh đội chúng ta ít chịu nguy cơ nhất.

PHIỀN LỤY KHOÉT SÂU

Cuộc chiến lan rộng, McNamara và Lyndon B. Johndon càng thêm ghẻ lạnh.

Những áp lực từ phía tả – từ những người thôi thúc chúng tôi phải giảm bớt hành động hoặc rút quân – sẽ lên cao độ vào đầu năm 1968 với sức chống đối thực sự mạnh mẽ, góp phần vào việc Tổng thống Johnson quyết định thôi tìm đường tái cử. Nhưng đấy không phải là những quan tâm lớn của chúng tôi trong những năm 1966 và gần suốt năm 1967. Tổng thống, (Bộ trưởng Ngoại giao) Dean Rusk và tôi bấy giờ lo lắng hơn nhiều với những áp lực từ phía hữu. Nhóm Diều Hâu buộc tội chúng tôi bắt quân đội chiến đấu với một tay trói chặt sau lưng, họ đòi hỏi chúng tôi phải tháo xích mở xổng toàn bộ khả năng và sức mạnh quân đội Hoa Kỳ.

Ngày 19 tháng Năm, 1967, tôi đề nghị một sách lược chính trị quân sự nhằm nâng cao khả năng thương thảo: Giới hạn việc đánh bom vào hệ thống giao thông của những “phễu” xâm nhập nằm dưới vĩ tuyến hai mươi; giới hạn việc thêm quân ở con số 30,000, sau đó sẽ xác định một mức chắc chắn không lên quá; chấp nhận một vị thế thương lượng uyển chuyển hơn, đồng thời năng động tìm kiếm một cuộc dàn xếp chính trị. Sau khi đã trải qua nhiều suy nghĩ, phấn đấu, tìm kiếm, tôi phải kết thúc – và tôi thẳng thừng nói với Tổng thống Johnson – rằng “cuộc chiến tại Việt Nam đang giành lấy một động lượng của chính nó, cuộc chiến như thế phải chấm dứt”, rằng phương thức tiếp cận của tướng Westmoreland “có thể dắt đến một hiểm họa nghiêm trọng cho quốc gia”.

Phiếu trình của tôi gửi Tổng thống vào tháng Năm mở tung một cơn bão tranh luận. Nó tăng sức dữ dội cho cuộc tranh cãi trong chính phủ vốn đã cam go. Nó đưa đến những buổi điều trần căng thẳng chua cay, nó đặt tôi vào việc đối chọi gay gắt với Tham Mưu trưởng Liên Quân, bật lên những dư luận cho rằng họ sẽ đồng loạt từ nhiệm. Nó đẩy mau cái tiến trình sau này sẽ tách Tổng thống Johnson và tôi rời xa đôi ngả. Và nó cũng đưa tôi đi nhanh khỏi Ngũ Giác Đài.

Khi đọc trước bản thảo bài viết này của tôi, một trong những vị cố vấn thân tín nhất của Tổng thống Johnson đã bình phẩm, viết cho tôi rằng tôi đã thiếu sót trong việc nhấn mạnh một cách thích đáng cái nhược điểm trong cách làm quyết định của Lyndon B. Johnson: “Khi làm việc để đi đến một quyết định, ông ta không thích có nhiều người – ông ta chỉ muốn làm việc với từng người một. Trong bất cứ phạm vi nào, không bao giờ ông ta cho người ta biết lá bài tẩy. Chẳng hạn việc ông không thích tìm hiểu thêm những ‘điều kiện hoà bình’ khả chấp, khiến cho các giai đoạn ngừng bỏ bom tất nhiên là thất bại.”

Như mọi chúng ta, Lyndon B. Johnson đôi lúc cũng tạo nên những rắc rối. Việc giao phó cho một cố vấn cao cấp soạn thảo tờ trình nhằm xét lại tiền đề cơ bản chủ yếu của quan hệ chúng ta trong cuộc chiến, nhưng lại không cho phép người ấy bàn thảo với các đồng nghiệp, thì chắc chắn không thể nào điều hành một chính phủ được. Tuy nhiên tôi nghĩ nếu chỉ quy thất bại của một Tổng thống vào những yếu tố như thế, thì cũng đơn giản. Những người thuộc quyền vẫn phải tìm cho ra các phương thức bổ khuyết cho những cá tính của người lãnh đạo họ. Đấy vẫn là trách nhiệm chúng tôi trong việc phải nhận định ra những nghịch lý của chính sách, buộc phải đưa ra ánh sáng bàn thảo. Phải chi chúng tôi đã làm như vậy, chúng tôi đã thay đổi được chính sách rồi.

Một bản mật văn của Richard Helms bên Trung ương Tình báo cho thấy vào mùa thu năm 1967, đa số phân tích viên cao cấp của Trung ương Tình báo đều tin rằng chúng ta có thể rút quân từ lúc bấy giờ mà không bị một thiệt hại thường trực nào cho an ninh Hoa Kỳ hay Tây phương. Cùng thời gian ấy, tôi cũng phát biểu sự đánh giá trước một ủy ban Thượng viện – sự đánh giá này được hỗ trợ bằng những bản phân tích của Trung ương Tình báo và Tình báo Quốc phòng – rằng chúng ta không thể thắng được cuộc chiến này bằng cách đánh bom miền Bắc. Và, trong phiếu trình đề ngày 19 tháng Năm, tôi cũng đã báo cáo là chúng ta sẽ tiếp tục chịu đựng những tổn thất nặng nề tại miền Nam Việt Nam mà không có đảm bảo nào về việc thắng trận cả.

Người ta có thể giải thích thế nào về sự sai sót của chính phủ trong việc không thúc đẩy mạnh mẽ hơn những cuộc hòa đàm và dự liệu rút quân? Câu trả lời là Tham mưu trưởng cùng nhiều người khác trong chính phủ đã có cái nhìn hoàn toàn khác hẳn về diễn biến thật của cuộc chiến, rồi những thành viên có ảnh hưởng bên Quốc hội cùng công chúng đã chia sẻ quan điểm ấy, và rồi chính Tổng thống cũng bị lung lay nặng nề vì quan điểm họ.

Một phiếu trình bi quan khác mà tôi viết vào tháng Chín đã tăng thêm mối căng thẳng giữa hai người từng yêu mến quý trọng lẫn nhau – Lyndon Johnson và tôi – rồi đi đến gẫy đổ. Bốn tuần sau, Tổng thống Johnson loan báo việc đề cử tôi làm Chủ tịch Ngân hàng Thế giới.

Cho đến hôm nay tôi vẫn không biết là tôi đã tự ý từ nhiệm, hay đã bị sa thải. Có thể cả hai.

Đã từ lâu tôi vẫn thích quan tâm đến các quốc gia đang phát triển. Vào mùa xuân năm 1967, tôi từng có dịp thảo luận với George Woods trong một buổi ăn trưa, lúc ấy ông cho tôi biết thời hạn năm năm chức vụ Chủ tịch Ngân hàng Thế giới của ông sắp mãn, ông mong ước tôi sẽ là người kế nhiệm.

Bấy giờ tôi có cho Tổng thống biết chuyện này, nhưng mãi đến tháng Chín hoặc tháng Mười, trong một cơn buồn bực, Tổng thống mới hỏi tôi có tính gì khác chưa. Tôi bảo ông rằng tôi vẫn thích Ngân Hàng Thế giới, nhưng nếu chừng nào Tổng thống còn muốn tôi ở bộ Quốc phòng, tôi vẫn ở lại.

Một năm sau, George Woods cho tôi biết Bộ trưởng Ngân khố Joe Fowler có nói với Lyndon B. Johnson rằng theo thủ tục, phải đề cử ba tên người, Tổng thống bèn đáp, “Được, thế thì ba cái tên ấy là: McNamara, McNamara, McNamara.”

Vậy thì, tại sao tôi đã ra đi? Không phải vì tôi ốm đau bệnh hoạn như những chuyện báo chí nói đến, và rồi Tổng thống có bảo một tùy viên rằng ông lo cho tôi có thể tự tử như trường hợp James V. Forrestal, Bộ trưởng Quốc phòng đầu tiên của Tổng thống Truman. Rất nhiều người đã tin rằng tôi bị suy sụp tâm thần lẫn thể xác. Tôi không bị như thế. Tôi có bị căng thẳng. Tôi có bất hòa với Tổng thống; Tôi đã không tìm thấy những câu trả lời cho các câu hỏi của tôi; tôi đã bị căng thẳng kinh khủng. Nhưng tôi không đi chữa bệnh, không uống thuốc, ngoại trừ thỉnh thoảng uống vài viên thuốc ngủ, và chưa hề bao giờ tôi có ý định tự tử.

Sự thực, đó là tôi cần phải đi đến một kết thúc, tôi đã phải nói thẳng thừng với Tổng thống rằng chúng ta không thể nào đạt được các mục tiêu của chúng ta tại Việt Nam qua những phương tiện quân sự hợp lý, do đó chúng ta phải kiếm một mục tiêu ít chính trị hơn qua các cuộc hòa đàm thương thảo. Tổng thống Johnson chưa sẵn sàng để chấp nhận điều ấy. Giữa hai chúng tôi, rõ rệt là tôi không thay đổi sự phán đoán của tôi, ông không thay đổi sự phán đoán của ông. Một trong hai đã phải nhượng bộ./.

SƯƠNG IN MẶT, TUYẾT PHA THÂN…

nguyenbatrac

“Sương in mặt, tuyết pha thân, sen vàng lãng đãng như gần như xa”…”Áo chàng đỏ tựa ráng pha, ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in”… Đấy là chuyện ngày xưa. Thủa ấy các văn thi sĩ VN có mấy ai được đi đâu? Không thấy tuyết bao giờ, người ta đành cóp văn thơ Tầu, ca cẩm… não nùng.
Rồi gần đây (trước 75) có những ông đi Tây du học. Lúc về, làm cho mình – bấy giờ – thèm thuồng, kính sợ: “Paris, có gì lạ không em? Mai anh về giữa bến sông Seine!.Anh về giữa một giòng sông trắng…Là áo sương mù hay áo em?”… Một ông khác cũng đi Tây về, bảo: “Tuyết rơi mỏng manh buồn…Ga Lyon đèn vàng, cẩm tay em muốn khóc, nói chi cũng muộn màng…!”
Ôi thôi thôi! Ngày nay bốn phương chúng tôi đã đi khắp. Tầu: biết, Tây: biết. Tây, Tầu, Nga, Mỹ … đều tường tận. Chẳng phải chỉ lý thuyết, mà hang cùng ngõ hẻm, đều đến tận nơi. Vì phải biết thực tế: cần lắm. Cũng như ngày nay phải cọ xát với Cộng Sản rồi mới biết là phải vứt. Bất kể sinh mạng, xuống ghe mà đi .
Paris có gì lạ không em? Kiến trúc, điêu khắc…cũng đẹp đấy, có điều phải cẩn thận: Đi chơi nên bước chầm chậm. Nhìn cho kỹ , vì hở ra là đạp cứt chó. Paris cứt chó đầy đường. Cái đó là lạ?!
Thế tuyết? Sương in mặt, tuyết pha thân! Đẹp . Nhưng khi nó cứ ùn ùn rơi xuống, không cào lấy đâu lối mà đi? Cào rồi, rơi nữa. Cào không kịp, chồng chất, cao ngất, nặng trĩu.
Mới rơi, quả có lúc nhẹ hều… mỏng manh buồn…Nhưng rồi nó nhẽo nhẹt! Nặng chịch! Lúc đang xốp, chợt nhiệt độ tăng, nó chẩy ra, rồi đông lại, thành băng trơn trượt. Đi không cẩn thận té gẫy xương …Nên lại còn phải rải đá răm cho bớt trơn.
Mà cứ tưởng tượng: Bạn là một lão trượng VN bẩy mươi ba tuổi trời! Già cốc đế mà bạn vẫn ung dung sống ở xứ Phần Lan này…Mỗi ngày bạn vẫn vươn vai đứng dậy hươi xẻng cuốc xúc tuyết, rải đá ….Bội phục! Bội phục!
Nên có thằng cháu ở Mỹ viết email sang thăm: Ông ơi, thế ở Helsinki nghe nói có nhiều người Việt đi biểu tình chống bọn đại sứ, lãnh sự Việt Cộng thâu tiền bố láo… Ông có biết không? Hay ông chỉ biết những chuyện trời đất lù mù?
Trả lời: Biết.
Nhưng bây giờ sau khi xúc tuyết, chụp ảnh chơi, ông chỉ thích nói chuyên trời đất thôi.
Việc trời đất lù mù vẫn quan trọng hơn chứ?
Nó là văn,thơ, nhạc, hoạ. Nó là vẻ xấu, vẻ đẹp của cả cuộc đời. Nó càng quan trọng hơn lúc đời sắp khép. Còn việc biểu tình xã ấp, đáng chi?
Khi cả nước vẫn đang phải cúi đầu sống với chế độ quái gở, với một đảng độc nhất không ai bầu mà chỉ đảng ấy mới được cầm quyền! Thế Việt Nam mới lạ chớ. Paris lạ cái chi?
Còn ở Phần Lan này lỡ ai cần về VN thăm bố mẹ già, phải đem cái thông hành đi đóng cái dấu, thì thây kệ đi. Mấy đồng chí xã ấp tính thêm chút đỉnh tiền boa. Đáng kể gì mà lão phải lặn lội đi khiếu nại trên tuyết băng lạnh lẽo?!

Nguyễn Bá Trạc

MÙA XUÂN, THƯ BẮC GỞI NAM

San Jose …
Anh Q. thân mến,

Ðầu năm khai bút, bút khai hoa
Hoa thắm xinh tươi khắp mọi nhà
Nhà nào nhà nấy đông tiền bạc
Bạc chỉ thấy vào chẳng thấy ra

Có lẽ tôi nên tạm mượn mấy vần của anh Nha sĩ Thi sĩ T. viết từ năm ngoái để chào mừng năm mới thắng lợi. Về đường văn chương: Giữ vững lập trường sáng tác chữ Việt. Về đường nuôi thân, được thoải mái.

Lúc giầu có phải nên tiết kiệm
Cố mà mua lấy một cái nhà
Ấy là gấm lại thêu hoa…

Hoa và mùa xuân! Họ là bè bạn. Nói cho táo tợn, họ là những người tình. Xuân về hoa nở. Xuân đi đâu, hoa đi đó. Họ yêu nhau vĩnh viễn chứ không lăng nhăng.

Xuân đi, xuân về. Ði đâu cũng về. Về rồi lại đi. (Ði rồi lại về). Cái chân lý trôn ốc làm cho các bậc thức giả thông khoáng phát giát: Ái tình đích thực là một mùa xuân. Một mùa xuân bao la mở ngỏ cánh cửa cho tất cả các loài hoa cùng nở lên một lúc. Ðến như hoa cải, hoa cà, xuân cả cười cho nở ra hết thảy. Mùa xuân bát ngát lòng anh rộng. Ðựng hết trăm hoa cũng chẳng phiền? Còn nếu hoa hoét chí choé tranh cạnh nhau, đó nào có phải là lỗi của mùa xuân?

Anh Q. thân mến,

Chim hót hoa cười lại thấy xuân
Rét mướt mùa qua đã rụng dần
Ðất trời lại nở hoa tươi thắm
Nào, xuân!

Anh nghĩ xem. Bài thơ yết hậu tưởng như đơn giản nhưng nó chứa đựng những gì?
Nó thuộc về dịch lý tức là các con số sáu, bảy, tám, chín. Số chín của nó là mấy số một, ba, năm trong số sinh tích lại. Cho nên nó phải từ Bắc sang Ðông, từ Ðông sang Tây để làm cho ra phía ngoài của số bốn. Còn số sáu của nó? Tức là số hai, số bốn trong số sinh tích lại mà thành, cho nên nó phải từ Nam sang Tây, từ Tây sang Bắc để làm cho ra phía ngoài của số một
Ðó là sự biến đổi âm dương già trẻ, cái gì đầy lại vơi, cái gì vơi lại đầy. Kẻ đọc thơ quên chữ đạt nhạc, quên vần đạt ý, hiểu cho được cái lẽ: Mùa xuân này thì phải tiến lên! Mùa xuân về mà bực thánh nhân không biết tiến lên và tiến đi đâu thì thương thay, ấy là khốn. Ấy là kẻ cứng bị kẻ mềm che khuất, bị hãm ở dưới bị che ở trên. Ấy là bĩ. Trời đất cách tuyệt, thiên địa bất giao, muôn vật không thông, trong âm ngoài dương, trong mềm ngoài cứng. Ấy là đạo kẻ tiểu nhân lớn lên, đạo người quân tử tiêu đi.

Khốn khổ học tập như Tư Mã Thiên sao mà bị thiến? Thiến rồi lại còn vất vả chẻ tre mài mực lui cui viết bộ Sử ký những 130 thiên, đếm ra có đến 526,500 chữ?

Tài hoa như Bạch Cư Dị sao bị ghét? Bị biếm? Bị ngồi chơi sơi nước? (Nguyệt bổng bách thiên quan nhị phẩm. Triều đình cố ngã tác nhàn nhân?)

“Hùng tráng, tha thiết như Hàn Dũ sao bị giáng?”

“Mẫn tiệp, kỳ tài như Vương Bột sao suýt bị xử tử?”

Chí như Khổng Tử cũng chỉ đi lẩn quẩn loanh quanh, mà bây giờ ổng vẫn lẩn quẩn loanh quanh.

Thế? Bị thiến, bị ghét, bị biếm, bị giáng, đi lẩn quẩn loanh quanh…cũng như bị xẻo mũi, chặt chân… Xẻo mũi gọi là Tỵ, bị thương ở trên. Chặt chân gọi là Ngoạt, bị thương ở dưới. Trên dưới đều phải che lấp đau hại, đó là Khốn, là tượng xẻo mũi chặt chân. Có phải nó là lẽ của những con số sáu, bảy, tám, chín vậy chăng? Cho nên:

Rét mướt mùa qua đã rụng dần.
Ðất trời lại nở hoa tươi thắm.
Nào, xuân!

Xuân, hạ, thu, đông. Xuân, hạ, thu, đông. Một cái vòng quay của thời gian. Một bài luân vũ. Có khi buồn bã (Luân vũ trong bóng mờ). Có khi rộn ràng: Ánh dương lên xôn xao! Hai ven bờ sông sâu! (Nhạc J. Strauss, lời Phạm Duy!). Giới nhẩy đầm ôm lấy bốn mùa lướt trong sàn, thời gian xoè ra những chiếc váy diêm dúa phất phơ trong mặt trới chói lọi mùa hè, mơ mộng mùa thu, ảm đạm mùa đông, ấm áp mùa xuân.

Tôi, kẻ vụng về bẽn lẽn, không biết nhẩy đầm thế nào. Nhưng tạm khoe tôi biết nhẩy đầm là gì.
Nhẩy đầm là gì? Phải chăng là nhẩy cỡn lên với điệu nhạc?
Không. Nhảy đầm là âm nhạc. Nó dìu người ta đi trong bốn mùa. Nó dìu người ta vào vui buồn. Dòng đời có lúc chẩy qua những khúc cam go, có lúc từ từ êm ả. Có lúc nó bắt người ta dựng ngược lên như sờ phải điện. Có lúc người ta cong lựng xuống đưa hai tay lên trời bắt chuồn chuồn. Có khi vờn vẽ như côn trùng bay vòng trên không trung. Có khi chập chờn như những mối tình tha thiết mà tuyệt đối người ta nhường nhịn, không ai dẫm lên chân ai.

Anh Q. thân mến. Anh hay lén lút đi nhảy đầm. Tôi biết.
Mỗi lần anh đứng trên sàn nhẩy, mọi người chung quanh biến mất, mọi con mắt ngưỡng mộ đổ dồn vào anh. Anh ưỡn ngực, thóp bụng. Anh thõng cánh tay xuống như một nhành dương liễu, thoắt cái vung lên, xoay người lại như một chiến sĩ há miệng ghé răng cắn chốt lựu đạn, sẵn sàng tung vào mặt quân thù. Chợt, khụy chân xuống. Ấy là tư thế của người lãng mạn ôm đàn Tây Ban Nha, anh ngước lên chớp mắt nhìn trăng sáng trên lầu cao. Tung mình về đàng trước! Ðá chân về đàng sau! Anh điều khiển trọn vẹn mỗi động tác của tay chân, xương vai, thớ thịt. Anh là khuôn mẫu của cái đẹp, một bức tượng điêu khắc chuyển động. Anh lướt đến đâu, người ta đi đến đấy.
Nhưng anh có thật là một tay nhảy đầm giỏi chưa?
Chưa.
Dẫu cho anh đã đặt chân lên hầu hết các sàn nhẩy Âu, Á, đã giật nhiều giải Boston, Cha cha cha và Tango.

Vì: Vì sao một gã đàn ông phải cực nhọc như thế? Phải bán bảo hiểm. Phải cưa cây. Phải cắt cỏ. Phải đi cầy. Phải gân cổ lên điều khiển cuộc đời. Phải cắn răng lại. Vì chúng ta vừa là nhà văn, nhà thơ, vừa là chiến sĩ, anh giả nhời tôi như thế. Nhưng anh Q. ạ. Cuộc đời khúc khuỷu muôn nghìn nẻo. Chiến sĩ người ơi cũng thế a?

Bên cái nhu cầu thẩm mỹ của một cuộc nhảy đầm, chúng ta có nhất thiết phải biểu dương cái đẹp trong mỗi bước đi trước mặt mọi người chăng? Có khi cái bàn toạ của chúng ta cũng ngứa ngáy chớ. Chúng ta cũng cần làm như mọi người, nghĩa là như những anh mới học nhảy đầm, hoặc như những anh chưa bao giờ biết nhảy đầm, chỉ ngồi đực mặt ở góc bàn tối, ngượng nghịu nhấm nháp mãi ly Coca Cola đã cạn. Vài cục nước đá đã tan. Ấy là tôi nói về tôi.

Một người nhẩy đầm giỏi có thể giả vờ cho người ta dìu đi. Anh ta là âm nhạc. Các chuyển động xẩy ra hồn hậu như chúng ta cho phép bốn mùa dìu lấy chúng ta. Nào sương thu gió nhẹ. Băng tuyết lạnh lùng. Vả chẳng có cách chi mà anh điều khiển được mãi tất cả các cuộc chơi. Chân anh đêm rồi bị một tay mơ đi giầy cao gót đạp phải. Nó thủng một lỗ sâu hoắm. Tai anh lùng bùng vì tuổi tác. Những âm thanh choe choé của dàn nhạc điện tử không làm anh còn phân biệt được đâu là nhịp mạnh, đâu là nhịp yếu để điều khiển đôi giầy. Ðể cho đúng nhịp như lính quân trường đi ắc ê. Tất cả những cái ấy, nào có phải lỗi của anh?

Ôi những điệu luân vũ trong cuộc đời không giúp cho ta ngộ ra cái lý sự ấy hay sao? Tất cả những kinh kệ đại thừa, tiểu thừa, Koran, Tân ước, Cựu ước, Tin lành, Chính thống, Thệ phản. Dịch học với những con số sáu, bẩy, tám, chín. Những vết nứt trên mấy cái mu rùa. Ông Sartre, ông Heidegger, ông Camus? Ông Miller?

Tất cả cái khả năng luận lý, sức chứa đựng và chịu đựng, những hệ thống cũng như phi hệ thống của các tư tưởng có sẵn chỉ giúp ta lắp bắp nghiến răng với cuộc đời như là một tay mơ (là tôi) đang tập nhẩy đầm một mình với chữ nghĩa và tư tưởng trước một chuyến đi xa. Ta có thể bước vụng về hay nhuần nhuyễn trong âm thanh văn chương biền ngẫu, nhưng việc ấy có quan trọng khỉ gì? Và đẹp hay xấu cũng chỉ kín dăm trang báo, làm vui lòng dăm ba anh dở hơi. Ý tôi muốn nói mấy anh làm báo chữ Việt ở Mỹ.

Ðến đây tôi thò chân xuống đất lạnh. Ðêm đã khuya. Tôi nhón gót đi vào phòng ngủ lấy ra một cuốn lịch ta. Hôm nay là 19 tháng 11 Tây, nghĩa là mới 18 tháng 10 năm Bính Dần. Ngày Ðinh Mão. Tiết Lập Ðông. Xin nói rõ: Hành Hoả. Nên hòa giải tranh chấp, khai mở, sửa chữa nhà cửa, cầu hôn. Kỵ đào giếng, săn bắt, sát sinh. Tờ lịch ghi thêm: Bạn bè là nghĩa tương tri, có sau có trước vẹn nghì mới nên.

Hai tháng nữa mới đến tết.
Ðối với tôi, đây là cái tết thứ mười ba ở Mỹ. Hai tháng nữa khi những gì tôi viết ra đây biến thành chữ in, xuất hiện trên một tờ báo xuân thì biết đâu anh sẽ đọc với tấm lòng nghiêm chỉnh của một năm mới.

Nhưng điều ấy có quan trọng gì? Vì tôi đã ở một nơi xa. Vì tôi sẽ đứng trên một hòn đảo đầy những bóng dừa và những con thuyền vỡ vụn, với những tâm tình khác, với những con người khác.

Ở hòn đảo ấy mặc dầu người ta đau buồn đến đâu, bốn mùa vẫn là mùa hè. Tôi không biết có những thứ hoa gì nở. Chuyện ấy không quan trọng, cũng như tôi không biết nhảy đầm thế nào. Nhưng tôi biết nhảy đầm là gì và như thế, tôi cũng có thể nói mình sẽ rộng lòng yêu hết các loài hoa, bất kể ôn đới hay nhiệt đới.

Và như thế, bây giờ, dẫu cho mới là tháng Mười ta, tôi vẫn có thể nhắm mắt lại, tưởng ra mùi khói hương trầm.
Tưởng ra một đêm ba mươi trong lúc đạp xe trên con đường Hoàng Diệu ở Ðà nẵng hối hả trở về nhà thì tiếng pháo nổ ran, giờ Giao thừa đã tới.
Và như thế, giữa một đêm đông lạnh, còn hơn một tháng nữa mới đến Giáng sinh, tôi vẫn vui lòng ngồi xuống vui chơi với ý nghĩ và chữ nghĩa để thanh thoả đòi hỏi của những anh dở hơi, để giúp vui các bạn về một dự phóng mùa xuân, không chừng còn giúp vui cho vài ba độc giả rỗi rãi, tò mò trong những tháng năm mới mẻ.

Không. Tôi không phải là văn sĩ.
Càng không phải là thi sĩ.
Tôi, kẻ bẽn lẽn ngồi ở góc bàn tối, lúng túng nhấm nháp cốc nước đã cạn, cục đá đã tan.
Nhưng tôi nhìn lên sàn nhẩy, tôi biết mùa xuân sắp trở về, mặt trời sẽ trong trẻo.
Và mong khi tôi đi rồi, vắng mặt một anh bẽn lẽn nhưng hay nói, thì các anh vẫn nhẩy những bài luân vũ mới, nhanh chậm không cần. Không nên biểu diễn. Chỉ cần vui vẻ với những đóa hoa sẽ nở ra chân thật.

Hoa Quince là thứ hoa đầu tiên báo hiệu mùa xuân trên xứ sở này.
Rồi hoa đào, hoa mơ, hoa mận, hoa thược dược, hoa thuỷ tiên.
Ðừng đạp chân lên nhau.
Ðừng nhậu nhiều rồi ôm nhau khóc lóc.

Anh Q. ạ.
Ðôi khi trong cuộc đời, người ta khám phá ra mỗi người chứa đựng cùng một lúc nhiều đối cực. Người ta có thể là một con rùa đi chậm chạp, chắc chắn, kiên nhẫn chống đỡ những trách nhiệm kềnh càng. Ðồng thời cũng là một con thỏ, thoắt một cái quanh quẩn nhai lá trong vườn, thoắt một cái lang thang trên vạn dặm xa xôi.
Người ta có thể vừa là một con kiến tha mồi chăm chỉ, vừa là một con ve ca hát rộn ràng. Mỗi người thoả hiệp với các đối cực của mình bằng cách này hay cách khác.
Mỗi chúng ta có thể sống yên ổn trong sự sắp xếp các mâu thuẫn như phân công cho tay phải và tay trái. Hoặc quay quắt với các xung động từ mâu thuẫn tạo ra. Có người tìm cách tiêu diệt. Có người tìm cách hư vô hoá nó. Có người sống với, thở với. Mâu thuẫn giữa trang nghiêm và cười cợt. Mâu thuẫn giữa hạnh phúc và bất hạnh. Mâu thuẫn giữa thiện ác, trắng đen, lý luận và cảm xúc.

Thích nhất có lẽ là khi chúng ta không tìm cách làm cho chúng biến mất, không có một cố gắng gì, không ý thức về, chúng có thể có, có thể không và tôi vẫn sống. Sống thôi.

Mùa xuân, thực là lúc thuận tiện.
Nhìn ra vùng mây trắng lãng đãng, hoa đào nở rộ trên trời xanh, những con kiến di chuyển một hàng dọc. Người ta không phân tích. Không sử dụng luận lý. Người ta hạnh phúc.
Và như thế người ta biết đâu lại hồi phục đầy năng lực để giải quyết các bất hạnh của mình, và may ra còn đóng góp cho người khác?

Thực ra đây mới là điều tôi phải trang nghiêm cầu chúc cho anh, cho chính tôi và tất cả mọi người.
Trong những gì tôi viết đây vào những lúc khác nhau, với những đoạn khác nhau, mong anh vẫn biết đâu là thật đâu là giả. Ðâu là lúc vui chơi. Ðâu là lúc múa may như tay Sơn đông mãi võ, huyênh hoang với cái giả ngộ của văn chương.

Nhưng anh cũng biết lúc nào là lúc tôi thực thà chìm đắm trong nội tâm với trái tim yên ổn đón chờ.
Giữa chúng ta, quả có hơi khật khùng.
Cũng như tất cả mọi người, ai chẳng có lúc khật khùng?

NGUYỄN BÁ TRẠC

(Viết cho bạn ở miền Nam Cali, trước khi rời San Jose đi Pulau Bidong)

CON NGỰA TRẮNG

Nguyễn Bá Trạc

white-horse

Một trăm đô chẵn mang đi
Ông mua những gì ông tính chẳng ra?
Thoạt đầu hai xấp vải xoa
Mỗi nhà một xấp, sáu yards bốn quần
Hai mươi đồng một tá Bông Lan
Bảy đồng một bộ giây đàn ni lông
Mười lăm đồng cái áo vải bông
Hai pounds bột ngọt, chẵn một trăm đồng, ông ơi.

Đối với nước Mỹ kỷ luật và ngăn nắp, ông Nguyễn không phải là một công dân tốt. Thuế má không sòng phẳng. Đến kỳ hạn không khai. Lương khoán chưa trừ thuế, lãnh được đồng nào tiêu hết đồng ấy. Gửi đồ về Việt nam thì hồ hởi, mà đến hạn đóng thuế là hết tiền, ù lì cả ba năm nay.
Đối với ngân hàng, ông Nguyễn không phải là một thân chủ được ưa chuộng. Theo thói quen chi tiêu ở Mỹ, ông cũng có một trương mục, một tập chi phiếu, nhưng không chịu giữ kế toán, dù việc ấy chỉ đòi hỏi có hai phép tính cộng trừ đơn giản. Ông đều đặn bị phạt vì cứ lầm lẫn ký những tấm chi phiếu nhiều hơn số tiền ông có. Tên ông bị ghi trong các cuốn sách, nằm trong cái máy điện toán nêu rõ những người có tín chỉ xấu. Những người bị ghi tên trong ấy là những người thiếu tín nhiệm. Không nên cho vay tiền. Không được mua chịu. Ngân hàng lễ phép gửi thư đến xin lỗi, không nhận ông làm thân chủ Tiếp tục đọc