SINH NHẬT

haingu

Hãy tỉnh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn.
Matthêu, 26:41

“Happy Birthday!”
Thy tất tả xuống cầu thang, vừa sải bước đến phòng ăn, nàng đã nghe lời chúc sinh nhật của chồng. Bình và hai con đang ngồi ăn sáng ở bàn ăn. Hình như thoáng nghe tiếng chân, Bình đã vồn vã chúc mừng sinh nhật vợ. Thy liếc nhanh vào chiếc đồng hồ Ômega treo nơi cổ tay: đã 7 giờ. Thế này thì trễ mất, Thy lẩm bẩm. Vì mải chú ý đến giờ giấc, Thy đón nhận lời chúc sinh nhật của chồng một cách hờ hững. Nàng chỉ khẽ gật đầu chào Bình rồi nhìn vào đồng hồ, mặt lộ vẻ lo lắng. Còn Bình, thấy vợ thờ ơ và có vẻ vội vàng, chàng cũng chẳng nói thêm gì, quay trở lại với công việc cố hữu hằng ngày là lo cho hai đứa con gái.
Sự trễ tràng sáng nay chỉ vì Thy quên bật đồng hồ báo thức. Nàng thức khuya sắp xếp hành trang rồi mệt quá nằm vật ra giường ngủ lúc nào không hay. Thế mà Bình chẳng mau mắn đánh thức nàng dậy. Chồng với con, thật vô tích sự, Thy lẩm bẩm. Thy tính nhẩm đoạn đường lái xe mất 2 tiếng rưỡi; đúng 10 giờ sáng nàng hướng dẫn chương trình tu nghiệp kéo dài 2 ngày cho những nhân viên được tuyển chọn của công ty từ khắp nơi đổ về. Nàng phải đến địa điểm trước 9:30 sáng để sắp xếp công việc, có nghĩa là là ngay bây giờ nàng phải khởi hành ngay. Nàng hối hả uống vội ly cà phê Bình pha sẵn, và vội vàng ăn vài miếng bánh mì với trứng ốp-la. Ăn với uống làm gì nữa, phải bỏ hết ngay, nàng thầm nghĩ. Thy phải ra xe lập tức nếu không nàng sẽ trễ buổi huấn luyện nghiệp vụ mất.
Thy lên đường vào đúng ngày mùng Một Tết nhưng hai ngày huấn luyện quan trọng này ảnh hưởng đến bước đường hoạn lộ của nàng. Nó đánh dấu những nấc thang danh vọng đang chờ đợi gót chân ngà của nàng tung tăng đếm bước trong công ty Mallen Stimulus; một công ty chuyên đầu tư bạc tỷ vào thị trường chứng khoán. Đợt huấn luyện nội bộ này lại càng quan trọng vì chính nàng là giảng viên trong 2 ngày với đề tài, “Làm Thế Nào Để Đầu Tư Có Lợi Trong Giai Đoạn Kinh Tế Khó Khăn.” Bằng bất cứ giá nào Thy không thể nào trễ giờ khai mạc, khi các học viên – những tay quản giám (manager) công ty – đổ về thụ huấn trong hai ngày thứ Sáu & thứ Bảy.
Mải chú ý đến thời gian cấp bách Thy quên bẵng lời chúc của Bình cho đến khi con Măng và con Rốt nhao nhao chúc sinh nhật mẹ nàng mới bừng tỉnh. Thy cúi đầu hôn lên tóc con nói ngày mai mới sinh nhật của mẹ cơ mà. Chúng nhao nhao trả lời ngày mai mẹ về nhà không, con chúc mẹ trước. Lảng câu hỏi của con, Thy quay sang chồng, giọng vội vã:
– Anh lên lầu lấy cái vali xuống cho em ngay đi.
Đang ngồi ăn, Bình đứng dậy, thong thả bước về phía cầu thang.
– Nhanh chân lên anh. Trễ giờ mất rồi.
Thy bỏ dở bữa ăn sáng, xô ghế dứng dậy. Nàng lại xoa xoa đầu 2 con nói mẹ đi đây rồi bước vội về phía cửa. Bình đang đứng đợi nàng ở chân cầu thang, chiếc vali đặt dưới chân.
– Ngày mai em về nhà lúc mấy giờ?
– Em chưa biết. Vẫn còn tùy công việc.
– Nếu về kịp thì bố con tổ chức sinh nhật cho em. Với lại ngày mai là mùng Hai Tết.
Thy chỉ muốn ra xe gấp, trong khi Bình cứ hỏi gặng về giờ giấc, và tiệc sinh nhật, lại còn tết với nhất. Nàng không còn thì giờ để nghĩ đến bất cứ chuyện gì, ngay lúc này. Thy sẵng giọng:
– Thôi… thôi, bỏ sinh nhật đi. Em đã trễ giờ mà anh cứ hỏi hoài.
Bình nhỏ nhẹ:
– Thì thôi.
Thy cằn nhằn:
– Sáng ngủ quên mà anh cũng không đánh thức em dậy.
– Em không dặn làm sao anh biết.
– Cái gì anh cũng không biết, không biết. Riết rồi trong nhà chỉ mình em biết.
Bình im lặng không trả lời. Bao giờ cũng vậy, hễ Thy lên giọng thì chàng xuống giọng. Mà hình như chưa bao giờ chàng lên giọng với Thy cả. Sự nhẫn nhục cố hữu của chàng như một bản năng thiên phú. Bình chưa bao giờ bẳn gắt chứ đừng nói nổi giận. Chàng nhỏ nhẹ, nhàn nhã như một thư sinh thời cổ thảnh thơi với thơ túi rượu bầu.
Đẩy cửa bước ra nhà xe, Thy còn gắt:
– Chồng con thật chán. Còn anh, anh cù lần vừa vừa cho em nhờ.
Tiếng cửa nhà xe sập xuống mà Bình vẫn còn đứng tần ngần ở cửa. Chàng vẫn không hiểu Thy lại có thể bẳn tính sáng nay chỉ vì dăm ba phút trễ việc. Đối với chàng, cứ để mọi việc từ từ trôi, lo đến mấy cũng vậy. Trễ thì đã sao, ngay cả bây giờ trời sập chàng vẫn bình thản. Tâm tư chàng êm đềm như mặt nước hồ Thu, bình thản như dòng suối len qua kẽ đá trôi róc rách vào đầu Xuân. Khác hẳn với Thy, con người hoạt bát, khéo ăn nói, năng nổ. Nghĩ suy của Thy sôi động như nước lũ, tâm trí nàng chỉ ngưng hoạt động lúc nằm ngủ.
Vào phòng ăn, Bình thấy mặt hai đứa con gái buồn hiu. Cả hai đứa bỏ ăn, mặt phụng phịu:
– Mẹ đi, mẹ không hôn con. Giận mẹ…

Đoạn đường từ nhà đến nơi tu nghiệp dài khoảng 120 dặm nhưng vì khởi hành lúc giờ cao điểm nên Thy tính nhẩm phải mất hai tiếng rưỡi mới đến nơi. Chiếc xe BMW kiểu 750i bon bon trên xa lộ, bảo đảm đưa nàng đến nơi đến chốn đúng giờ. Thy chăm chú lái xe nhưng đầu óc nàng vẫn lẩn quẩn suy nghĩ về chồng. Đôi lúc nàng vẫn không hiểu nổi Bình, một người đàn ông hiền hòa đến độ không thể hiểu nổi. Bình nhìn đời bình thản như một kẻ bàng quan. Hình như trên đời này không có gì quan trọng đối với chàng. Bình hầu như đứng bên lề cuộc sống, chứ không như Thy, vùng vẫy theo dòng đời. Chuyện gì đến sẽ đến, chàng thường bảo Thy, lo lắng làm gì cho lao tâm khổ trí. Trong khi Thy sôi nổi với những ý nghĩ trong công việc, bận bịu với việc học hành của con cái, lo toan tương lai sẽ ra sao nếu lỡ hai vợ chồng bất đắc kỳ tử, Bình cười cười nhìn vợ:
– Em cứ lo xa. Trời sinh trời dưỡng.
Thy trợn mắt:
– Trời đâu rảnh nhảy vào chỗ này. Anh không lo thì ai lo đây?
Mãi rồi Thy cứ tất tả lo lắng chu toàn mọi chuyện từ trong ra ngoài, mặc kệ chồng với bản tính vô tư. Thy đã có lúc bảo chồng:
– Sao bố mẹ anh đặt tên Bình cho anh khéo thế. Bình thường, bình thản, bình tâm, bình dị… còn bình gì nữa không?
Bình nheo mắt:
– Bình chồng của Thy.
Thật hết chỗ nói. Thy nghiêm chỉnh bàn chuyện, thế mà Bình cứ mãi… bình thường. Hai vợ chồng khác biệt đến vậy, thế mà Thy đã yêu Bình, yêu say đắm không ngờ. Vừa lái xe vừa suy nghĩ lan man, Thy nhớ đến chuyện tình gần 10 năm về trước…
Thy đến dự tiệc kỷ niệm ngày cưới 10 năm của người chị ruột. Nói là tiệc nhưng chỉ là bữa ăn tối tại gia với đầy đủ bà con thân thuộc. Bình là một trong số khách được mời, bà con xa của ông anh rể. Dáng cao ráo, thân hình khá vạm vỡ, tóc lòa xòa trước trán, cặp kiếng cận, trông Bình không có gì nổi bật giữa đám đông gần 30 người. Nếu ai dễ tính thì cho chiều cao của chàng là điểm nổi bật nhất. Chiều cao 1m69 của Thy là điểm đáng tự hào, thế mà lúc được ông anh giới thiệu, nàng phải ngước mắt lên để nhìn vào đôi mắt đen láy pha lẫn chút mơ màng của một kẻ bất cần đời.
Phòng khách rộng rãi gần như một đại sảnh, chủ nhà kê ba chiếc bàn dài phủ vải trắng tinh. Ba chậu bông tươi cắm xen kẽ với những cành dừa uốn cong được cắt tỉa gọn gàng theo trường phái Nhật. Các món ăn bày la liệt trên bàn xen lẫn những chai rượu vang đắt tiền. Thực đơn gần chục món và mười mấy chai rượu đỏ chiêu đãi từng ấy thực khách chứng tỏ ông anh rể thật hào phóng trong ngày kỷ niệm 10 năm tình nghĩa vợ chồng. Ông xếp Bình ngồi đối diện với Thy, cách nhau một chai vang và đĩa tôm hùm đỏ quạch. Mọi người ăn uống, chuyện trò vui vẻ. Bình ăn nhỏ nhẹ, từ tốn nhắp một chút rượu, chậm rãi nghe chuyện, thỉnh thoảng chàng gật gù góp lời. Bình hòa mình vào đám đông, lẫn vào thực khách như một con cắc kè thay đổi màu da tiệp với môi trường. Dưới mắt Thy, Bình bình thường như hàng trăm đàn ông trước đây nàng đã gặp trên trường đời. Có một lúc, Thy dừng ánh mắt nơi Bình và chợt nhớ ông anh rể có giới thiệu với nàng ngay từ đầu buổi tiệc. Lúc đó, Bình nhìn thẳng vào khuôn mặt Thy và cặp mắt chết sững. Chàng nhìn Thy trân trân không chớp mắt. Thy không lạ gì phản ứng của đàn ông lạ khi đối diện với nàng. Bình không phải là người đàn ông đầu tiên bị khuôn mặt của nàng cuốn hút và chắc chắn cũng không phải là người đàn ông cuối cùng. Không phải họ ném ánh mắt sỗ sàng với cái nhìn đầy soi mói, nhưng là ánh mắt ngây dại dán chặt lấy khuôn mặt và quên bẵng lịch sự tối thiểu của người đàn ông khi đối diện với phụ nữ. Nhìn chằm chằm vào mặt một phụ nữ chưa từng quen biết là điều cấm kỵ trong phép lịch sự tối thiểu mà đàn ông phải tránh. Sỡ dĩ ánh mắt họ không cưỡng lại được chỉ vì…
Chỉ vì Thy quá đẹp.
Trong 4 chị em gái, Thy là con út và duyên dáng nhất. Ngoài vầng trán hơi nhô ra phía trước biểu hiện sự ương ngạnh và bướng bỉnh, còn tất cả những bộ phận khác trên khuôn mặt Thy là điều mơ ước của nhiều phụ nữ. Tuy trán hơi gồ nhưng bù lại hai chân mày xa nhau; đậm về phía mũi và nhạt dần về phía thái dương. Bộ lông mày phất lên khuôn mặt như hai nét cọ cuối cùng của nhà danh họa vung tay trên tấm vải lụa khi nguồn cảm hứng trào dâng cuồn cuộn. Đôi mắt Thy mới tuyệt vời. Tròn nhưng không tròn vo, to nhưng không lồi, ươn ướt nhưng không ướt rượt. Ông thầy tướng số có lần bảo mắt Thy là phượng nhãn, một quý tướng của phụ nữ. Mắt phượng hiếm thấy ở người đàn bà, vì ngoài những đặc điểm căn bản như đuôi mắt dài, tròng đen nhiều hơn tròng trắng, và trắng đen phải phân minh, không hề có màu xám đục, bộ lông mày phải chạy viền đều với cặp mắt, thì mới được xem là phượng nhãn. Thy có bộ lông mày “ăn” với đôi mắt như thế. Thật ra cặp mắt của Thy còn điểm thêm chút long nhãn vì đôi mắt có lúc toát ra uy lực để khuất phục đối phương trên thương trường. Tia mắt lóe lên ánh thép khi đàn ông dở thói sàm sỡ hoặc cợt nhã quá trớn. Nghị lực, cứng đầu, bướng bỉnh lộ ra trong ánh mắt long nhãn, nhưng lại trìu mến, thiết tha, say đắm trong đôi mắt phượng.
Làn môi dày cong cong như lúc nào Thy cũng nũng nịu muốn hôn. Đàn bà gợi cảm ở làn môi dày. Cặp môi mỏng lét tuy không xấu nhưng thế gian chưa bao giờ có người phụ nữ đẹp mỏng môi. Nếu có đẹp đi chăng nữa thì sắc đẹp cũng giảm hơn nửa, vì thiếu cân xứng. Có người trời ban cho làn môi dày nhưng vành môi lại mờ nhạt, chưa kể hai khóe môi lại úp xuống trông như chiếc thuyền bị lật. Điều này tối kỵ trong sách tướng. Khóe môi Thy hơi vểnh lên một chút, một chút thôi, đủ làm nụ cười treo lơ lửng như vầng trăng hạ tuần. Vành môi Thy rõ nét, phân biệt hẳn giữa nhân trung và miệng. Đường rãnh của nhân trung sâu trũng làm nổi bật cánh mũi nở nang đều đặn. Sống mũi thẳng tắp, chạy đến chuẩn đầu thì vun đầy, hợp với hai cánh mũi trông như chóp núi. Gò má đầy, khá cao, mịn màng với làn da trắng hồng. Mà hình như hồng nhiều hơn trắng, nghĩa là Thy không cần đánh phấn, chính những sơi gân máu li ti chạy chằng chịt dưới lớp biểu bì làm đôi má lúc nào cũng ửng hồng.
Các cụ bảo phụ nữ cũng có ngũ trường như nam giới. Riêng Thy chỉ có tam trường, thân hình, tay, và chân. Cặp giò của Thy nếu thi điền kinh không chừng đoạt giải nhảy xa hay nhảy cao vì nó dài ngoẵng. Cứ nghĩ nàng chỉ cần nhún người là nhảy qua sà ngang cao 2m dễ dàng. Với chiếc đầm ngắn nửa đùi, Thy hãnh diện khoe cặp giò thuôn thuôn mà vị tất các cô hoa hậu đánh bại được nàng. Thân hình Thy thuộc loại mình dây. Loại người rom rom như nàng không hề biết mập là gì. Hiếm có phụ nữ trường túc đi với mình dây, Thy lại được cả hai. Tấm thân mảnh mai của Thy lại căng phồng đúng chỗ, và thon thả đúng nơi. Kích thước của Thy đo đúng 95cm ở vòng 1 và vòng 3, riêng vòng eo cỡ 60cm cho dù nàng ăn uống tương đối thoải mái chẳng hề kiêng khem. Mỗi lần đi vào phòng tập thể dục với bộ đồ chẽn ôm sát thịt da, mỗi bước chân của Thy đều kéo theo biết bao nhiêu cặp mắt đỡ đẫn của bọn đàn ông. Bằng đuôi mắt, Thy thấy hết những cái nhìn sỗ sàng, những ánh mắt lén lút và nàng vờ đi như không biết. Có lúc, nàng cố bắt nọn bằng cách bất ngờ quay lại, lừ cặp mắt, thế là đám đàn ông vội vàng quay đi, ngó lơ, hoặc cúi gầm mặt che dấu vẻ ngượng ngùng.
Thy biết nàng đẹp, nên khá khó tính trong tình trường. Nàng như một cao thủ võ lâm, đang tìm kiếm một cao nhân để thi thố tài nghệ cho thỏa lòng. Thy mong đợi gặp được người đàn ông khuất phục được nàng; bằng tài năng, bằng nhân cách, hoặc bằng tiền bạc… thế mà nàng vẫn cứ đợi mãi. Tuổi 28 như nàng vẫn còn xoan nhưng cứ nghĩ đến số tuổi gần ba mươi mà chưa gặp được người nào vừa ý, đôi lúc Thy cũng không ngăn được tiếng thở dài. Thy chỉ thoáng thở dài rồi lại quên ngay vì công việc thường ngày đã cuốn hút tất cả thì giờ của nàng. Mãi đến hôm nay, gặp Bình, Thy vẫn dửng dưng. Nàng dửng dưng trước vẻ bình thường chẳng có một đặc điểm nào của người đàn ông có liên hệ xa gần với ông anh rể. Nhưng Thy lầm, những gì sắp xảy ra sau buổi tiệc đã hoàn toàn lột xác cuộc đời của nàng. Nó như cơn bão lửa thổi tan lớp băng giá phủ kín trái tim nàng từ bấy lâu nay.
Tiệc gần tàn, bà chị Thy mời tất cả mọi người sang phòng giải trí. Căn phòng rộng rãi chứa đựng toàn những dụng cụ âm thanh. Choán nửa bức tường là khung hình cỡ 120 phân tây, đặt chìm trên trần, được cuốn lên và thả xuống hoàn toàn tự động, dùng để xem phim từ chiếc máy phát gắn trên trần nhà. Hai cặp loa đặc chế cao nghễu nghện đặt hai bên, và những loa nhỏ gắn chìm trong tường cả gần chục cái. Băng nhạc, máy móc xếp đầy một tủ đứng. Góc phải kê một chiếc dương cầm Baldwin. Ngay bên cạnh, chiếc tủ đứng treo lơ lửng 2 chiếc đàn guitar lớn nhỏ trông như cặp vợ chồng sánh vai và nằm kiêu sa trên kệ là chiếc hộp vĩ cầm sáng rực màu đen bóng lưỡng nhờ ngọn đèn gắn chìm trên trần tủ. Đợi khách yên vị, ông anh rể lên tiếng:
– Nào, mời chú Bình cho mọi người thưởng thức tài nghệ đi chứ.
Bình xoay xoay ly rượu trong tay, vẻ ngần ngừ. Bà chị đưa đẩy vài câu rồi Bình cũng đứng dậy, tiến về phía chiếc dương cầm. Chàng khoan thai ngồi xuống thử vài nốt nhạc rồi bắt đầu dạo đàn. Bình mới dạo khúc nhạc ngắn overture, Thy bỗng giật mình. Chỉ chừng nửa phút sau nàng ngạc nhiên thật sự. Đây là bản giao hưởng của Maurice Ravel cung D mà nàng đã khổ công luyện tập từ thời thiếu nữ. Thy say mê piano từ thuở nhỏ. Nàng bỏ thì giờ tập luyện rõng rã suốt 12 năm, chỉ đến khi lên đại học Thy mới bỏ ngang vì bận rộn việc học. Ban đầu con bé Thy học chỉ để trám thì giờ, và chỉ cần vài tháng sau năng khiếu phát triển thấy rõ. Lên đến trung học, Thy bắt đầu thử các bản giao hưởng với sự khuyến khích của cô giáo. Thy chơi khá thuần thục các bản giao hưởng của Rachmaninoff, Beethoven, Tchaikovsky…v..v, tuy không hay nhưng nghe được. Trong các bản giao hưởng, nàng ngại nhất bản giao hưởng của Maurice Ravel cung D này, vì nó được sáng tác dành riêng cho những người thuận tay trái. Với bản tính ương ngạnh, Thy cố tập luyện cho bằng được, nhưng đến đoạn allegro Thy luôn bị khựng lại ở một nốt, nốt mi thăng. Có thể bàn tay của Thy hơi nhỏ nên ngón út vói không đến nốt mi thăng, cũng có thể khi chuyển tay từ trái sang phải, năm ngón tay của nàng khi đặt xuống bàn phím không tròn trịa nên vướng. Đúng ra, ngón út Thy vẫn vói đến, nhưng dòng nhạc lại lại lỡ đi khoảng nửa nhịp, vì thế ai trong nghề sẽ nhận ra ngay cái tỳ vết của người trình diễn dương cầm.
Bình say mê trình diễn. Chàng hầu như mê mẩn trong dòng nhạc cuồn cuộn như sóng thần, có lúc lại nhẹ nhàng như kể lể, có lúc bồng bềnh như mây trời. Lúc nhặt, lúc khoan, lúc dồn dập, lúc chậm rãi… dòng nhạc mê hoặc mọi người mặc dù Thy biết hầu hết khách chẳng hề biết chơi một nhạc cụ nào hoặc không có một chút kiến thức gì về nhạc giao hưởng. Thế mới thấy lối trình diễn của Bình điêu luyện đến chừng nào. Đến đoạn allegro hiểm hóc, Thy nín thở lắng tai nghe và nàng nhận ra nốt mi thăng vang lên nghe thánh thót, nhẹ như sương nhưng thính giác của Thy nghe rõ mồn một. Không một ai trong phòng, ngoại trừ Thy hiểu được sự khó khăn của nốt nhạc mà ngón tay út của Bình đã vói đến đúng lúc, đúng nhịp. Thy thở nhẹ ra một hơi dài.
Từ nốt mi thăng đến cuối bài, Thy ngồi thừ người không còn chú ý đến bản giao hưởng nữa. Thy biết chắc Bình thuận tay phải như nàng, căn cứ vào bàn tay chàng cầm ly rượu, thế mà chàng trình diễn thuần thục một trong những bản giao hưởng khó chơi nhất. Có thể là bàn tay Bình lớn hơn bàn tay của Thy nên chàng vượt qua được đoạn allegro hóc hiểm hoặc cũng có thể tài nghệ của Bình hơn hẳn nàng. Cho dù lý do nào đi nữa, Thy biết nàng bắt đầu có thiện cảm với Bình.
Ngày xưa Thy đã đánh hụt nửa nhịp ở nốt mi thăng, bây giờ con tim của nàng cũng đập hụt một nhịp khi nghe xong bản giao hưởng do Bình trình diễn. Ngay lúc đó, Thy quyết định sẽ tìm cách nói chuyện riêng với Bình. Nhưng chàng không thể rảnh rang một phút nào vì bà chị lại yêu cầu cả nhà hát cho nhau nghe, nhưng không mở dàn karaokê mà nhờ Bình đệm đàn. Một lần nữa, Bình lại nhận lời. Chàng dễ dãi, không hề biết từ chối hoặc vì máu yêu thích văn nghệ nên sẵn lòng. Bình đến tủ vói tay lấy chiếc guitar. Lại thử nốt, lại so giây. Rồi chẳng đợi ai, Bình cất tiếng hát. Cái dáng ngồi ôm đàn hát của Bình như mọi người nhưng sao Thy thấy thật lãng mạn. Chân co chân duỗi, chiếc đàn đặt lên đùi, chàng hát bài “Ru Tình”. Ngón tay búng đều trên phím, đôi mắt mơ màng, Bình say sưa hát. Thy ngồi hơi ngửa người ra sau, nghiêng đầu, hai tay vòng trước ngực. Đến câu, “Thôi em ngồi yên nhé, tôi tìm cuộc tình cho…”, chàng ngẩng mặt lên, đôi mắt Bình mở lớn rồi chợt bắt được đôi mắt phượng của Thy đang nhìn chàng đắm đuối. Bình lặng nhìn, giọng hát hơi khựng lại, tiếng đàn hình như lạc nhịp và chàng vội cúi xuống nhìn vào phím đàn. Thy nghe lòng thổn thức, “thôi anh, đừng tìm tình đâu xa, anh cứ ngồi yên đấy để em đưa tình đến với anh.” Ánh mắt trữ tình của Bình như muốn nhắn gửi lời nhạc đến với Thy. Nàng đọc thấy thất cả tâm ý của Bình trong đôi mắt và Thy chợt có cảm giác Bình đang hát cho riêng nàng. Với ánh mắt đắm đuối, Thy muốn gửi gắm ước mơ của con tim, và Thy biết chắc chắn Bình đã bắt nhận.
Nhân lúc giải lao, mọi người bận rộn chuyện trò và Bình cầm ly rượu đi về phía nhà bếp. Thy vội vàng đứng lên theo. Chàng đang rửa chiếc ly để úp vào giá. Thy tiến đến đứng sát một bên:
– Để em rửa cho.
Bình quay lại, nhận ra Thy và chàng nhoẻn miệng cười:
– Anh đang dở tay, cứ để anh.
Chàng đỡ ly rượu trong tay Thy. Bình cầm miếng giẻ rửa bát, nhúng một chút xà bông, rồi cho vào lòng ly, xoay tròn. Chàng mở vòi nước. Từng tia nước rơi xòe đều làm thành hình cái phễu. Thy đứng tựa lưng vào bồn rửa, nhìn nghiêng quan sát Bình. Bàn tay Bình khá lớn, năm ngón tay gầy gầy trông nhạt nhòa dưới vòi nước. Chàng rửa tỉ mỉ, từ miệng ly đến chân ly. Thy không biết vì bản tính Bình kỹ lưỡng hay là dấu hiệu chàng đang bối rối.
Đột nhiên, Thy nghiêng đầu nói nhỏ vào tai chàng:
– Em mê anh rồi đấy!
Vẫn chăm chú rửa ly, Bình bật cười nhẹ:
– Vậy sao?
– Chứ sao?
Rồi cả hai im lặng. Thy xoay người đứng cùng chiều với Bình, đỡ lấy chiếc ly từ tay chàng để úp lên giá:
– Anh tính sao?
Bình ngập ngừng:
– Tính sao là sao?
Vẫn chưa nhìn thẳng vào khuôn mặt Thy, Bình xoay người và tựa lưng vào thành bồn. Thy xoay người theo:
– Cho em số phone của anh.
Bình làm theo lời Thy. Chàng hành động như một cái máy, không chủ động được một chuyện gì. Nhan sắc của Thy vẫn là một hấp lực làm chàng bối rối thật sự. Thy đứng sát một bên, hương thơm da thịt phả vào mũi càng làm chàng ngây ngất. Bình lão luyện với âm nhạc bao nhiêu thì lại ngờ nghệch khi đối diện với Thy bấy nhiêu. Chàng ngơ ngáo như một cậu con trai mới lớn.
Những tuần hẹn hò tiếp theo, Thy quấn chặt lấy Bình. Chưa yêu thì Thy lạnh lùng, khi yêu rồi thì nàng sôi nổi, và cuồng nhiệt. Tình yêu của Thy hiện ra lồ lộ trong đôi mắt ướt át hơn, trên đôi môi cong cớn hơn, trên đôi gò má cao đỏ hồng hơn. Hình như Thy muốn khoe với mọi người tình yêu nồng nàn của nàng. Bởi vậy, Thy tìm cách đi cặp kè với Bình mỗi khi rảnh rỗi. Buổi trưa Thy hẹn chàng đến quán ăn, cuối tuần nàng bảo Bình đưa đi đây đi đó đến mệt thì thôi. Bình chiều Thy trong hết mọi việc vì lẽ chàng yêu Thy, và vì nàng yêu kiều quá. Thì có ai từ chối được tình yêu của Thy đâu! Ngón đàn và giọng hát của Bình đã khuất phục nàng nhưng đồng thời Thy hoàn toàn chinh phục được chàng. Tuy vậy, Bình điềm đạm đón nhận tình yêu của Thy. Chàng vẫn đứng vững chãi trước cơn lốc tình yêu cơ hồ thổi tung cả vũ trụ.
Một lần, Bình mời nàng tham dự một buổi trình diễn. Thy hỏi anh trình diễn nhạc hả. Bình bảo cứ đi rồi biết. Hôm đó, Bình đưa nàng đến một trung tâm sinh hoạt của người Việt trong vùng. Một tay cầm hộp đàn guitar, tay kia nắm lấy tay Thy, Bình dìu nàng vào bên trong. Đọc tấm biển treo trên sân khấu, Thy mới biết đây là buổi trình diễn nhạc tiền chiến. Cả hai được ban tổ chức dành chỗ ở hàng ghế đầu. Bình đưa cho nàng tờ chương trình. Hóa ra, Bình là diễn giả chính trình bày về lịch sử của dòng nhạc trước 1954.
Bình ngồi trên chiếc ghế cao, tay ôm chiếc đàn guitar đặt lên đùi của một chân gác hờ trên vòng sắt chạy viền quanh bốn chân ghế, chân kia chàng để thòng chấm đất. Hai chiếc máy vi âm trước mặt, một cho chàng, và một cho đàn. Phía sau lưng Bình là một khung vải khá lớn, trên đó có hàng chữ Nhạc Tiền Chiến đậm nét màu xanh, và bên dưới tên họ của chàng, nét nhạt hơn màu tím. Chiếc máy phát hình đặt trên chiếc bàn nhỏ ngay trước khung vải. Dàn bài và nguyên cả bản nhạc được chiếu lên cho khán giả dễ theo dõi.
Bình dẫn khán giả từ đầu thế kỷ 20 đến 1945, và từ 1945 đến 1954, năm chia đôi đất nước, để rồi miền Nam nở rộ với nhạc vàng, và miền Bắc cổ võ nhạc đỏ phục vụ nhu cầu chiến tranh. Theo chàng, dòng nhạc tiền chiến đáp ứng sự chuyển mình của thơ mới, thơ tự do, và khuynh hướng lãng mạn du nhập từ Âu châu vào đầu thế kỷ 20. Dòng thơ và nhạc là một cuộc cách mạng trong nền văn học từ bỏ khuôn mẫu của thơ Đường, hoặc giai điệu Ngũ cung ảnh hưởng của Tàu cả nghìn năm qua. Nền âm nhạc Việt cũng bắt đầu làm quen với vĩ cầm, măng cầm, Tây ban cầm, và dương cầm thoát khỏi những nhạc cụ xưa cũ như đàn nhị, đàn bầu, đàn cò, đàn gáo, hoặc đàn tranh. Bình giới thiệu những nhạc sĩ nổi danh với những sáng tác tiêu biểu như Dương Thiệu Tước (Tiếng xưa, Đêm Tàn Bến Ngự), Hoàng Quý (Cô láng giềng), Dzoãn Mẫn (Biệt Ly), Văn Cao (Suối Mơ, Thiên Thai), Phạm Duy (Bà mẹ quê, Tình hoài hương, Thuyền Viễn Xứ), (Lê Thương (Hòn vọng Phu I, II, III), Đặng Thế Phong (Giọt Mưa Thu, Con Thuyền Không Bến)…v..v. Riêng nhạc phổ thơ gồm có Nguyễn hữu Ba (Tống Biệt phổ thơ Tản Đà), Phạm Duy (Vần Thơ Sầu Rụng phổ thơ Lưu trọng Lư, Ngậm Ngùi phổ thơ Huy Cận, Tiễn Em phổ thơ Cung Trầm Tưởng, Đôi Mắt Người Sơn Tây phổ thơ Quang Dũng)…v..v.
Dáng ngồi của Bình đáng yêu quá, Thy nhủ thầm. Kiến thức âm nhạc Đông và Tây của chàng sâu rộng, bài nghiên cứu sống động. Bình trình bày mạch lạc với giọng nói trong và ấm, thu hút cử tọa. Chàng dạo nhạc và hát một vài câu tiêu biểu của từng bản nhạc của các nhạc sĩ tiền chiến. Giọng hát của Bình trầm bổng theo điệu nhạc, tỏa lan trong không khí, ve vuốt thính giác của khán giả. Thy đã mê mẩn một lần với giọng hát quyến rũ và tiếng đàn đầy ma lực đó, và nàng chẳng ngạc nhiên khi thấy gần trăm người yên lặng ngẩn ngơ thưởng thức. Căn phòng chỉ rộn ràng tiếng nói và giọng hát của Bình.
Lúc ra về, vừa ngồi vào xe, Thy nhoài người luồn tay vào mớ tóc bồng bềnh của Bình, kéo về phía nàng, vít đầu chàng xuống và hôn lên môi Bình. Nụ hôn bất ngờ và vũ bão làm Bình bàng hoàng, ngây ngất. Tâm trí Bình phiêu du ở một cõi xa xăm nào đó khi đôi môi Thy gắn chặt lấy môi chàng. Mãi đến lúc Thy cắn nhẹ lên môi Bình, chàng vẫn còn mơ màng trong vị ngọt của nụ hôn và mùi hương ngào ngạt của da thịt trinh nguyên.
– Em yêu anh rồi đấy!
Bình lắc lắc đầu cho tỉnh cơn mơ, hỏi ngược:
– Em nói gì?
– Em yêu anh rồi, anh biết không?
Bình nghiêng đầu, nhíu mày:
– Lạ nhỉ! Hai tháng trước em nói mê anh, bây giờ lại yêu là thế nào? Có gì khác biệt không?
Thy vuốt má chàng:
– Khác chứ, khác nhiều lắm. Mê chỉ là khoảnh khắc. Đúng ra em mê tài nhạc của anh. Còn yêu, em yêu cả tài lẫn con người anh. Mê cuồng nhiệt nhưng mau tàn. Yêu nồng nhiệt nhưng không cuồng, nghĩa là còn chỗ cho lý trí. Em suy nghĩ rồi, chúng ta phải tính chuyện lấy nhau.
Lần đầu tiên trong đời, Thy yêu. Tình cảm trước đây với những người đàn ông cũng rung động nhưng rồi tắt ngấm. Vài cuộc tình đã trôi qua và Thy vẫn dửng dưng. Với Bình, nàng tìm thấy những rung động cũ nhưng mãnh liệt hơn, tha thiết hơn. Thy thẳng thắn nói ra ý nghĩ của mình. Yêu nhau thì phải lấy nhau, Thy nghĩ thế. Thy mạnh dạn mở lời với lòng tự tin là Bình sẽ thuận lời nàng. Một lần nữa, Bình lại gật đầu. Bình đã trên 30. Cỡ tuổi này lập gia đình không sớm cũng không muộn. Bình không mót lấy vợ nhưng lấy được một người như Thy thiết nghĩ cơ duyên không thể đến lần thứ hai.
Nghe tin Thy sắp lấy chồng, con bạn gọi cho nàng:
– Giới thiệu ai mày cũng nói là jerk, hóa ra mày yêu anh chàng nerd.
– Hê… hê, chàng của tao mà mày gọi là nerd hả.
– Thì không nerd là gì. Cứ nhìn mặt là tao biết tỏng. Giới thiệu ông anh tao cho mày thì mày chê. Nói tao nghe, mày chê anh tao chỗ nào.
Thy gầm gừ:
– Thưa chị, mả nhà em không thích đàn ông lắm mồm.
– Trời ơi, ăn nói có duyên thế mà mày lại bảo lắm mồm. Tao hết hiểu nổi mày.
– Để tao nói cho mày nghe. Ông anh mày mồm miệng lắm, tấn công tới tấp tao ngay từ đầu làm tao tối tăm mặt mũi. Mày biết rồi, tao nói như sáo, lấy ông anh mày về rồi hai vợ chồng nói cho… hàng xóm nghe hay sao. Cái số tao nó vậy, cứ thấy đàn ông nói nhiều là tao ngại. Ông anh mày không những nói nhiều mà lại khéo nói nữa nên tao đâm sợ. Bình ít nói, lại hiền, hơi cả đẫn, nhưng tao biết chắc tao giữ được. Đàn ông khéo mồm thường bay bướm. Ngữ anh mày tao thấy khó giữ. Tính tao lo xa, hay nhìn trước trông sau, nên không dám phiêu lưu. Hụt làm chị dâu mày tao cũng tiếc thật đấy nhưng tại duyên số cả mày ơi.
Duyên số đưa đẩy Thy gặp Bình, nhưng nghề nghiệp của nàng chẳng phải cơ duyên gì cả. Ngay từ thời trung học, Thy quyết định sẽ theo học ngành quản lý về tiền bạc. Thy cho rằng, tất cả những vấn đề sinh tử trên thế giới đều bắt nguồn từ hai chữ Kinh Tế. Mà mạch máu của nền kinh tế là tiền tệ. Bởi vậy, muốn giữ vững nền kinh tế, mỗi quốc gia phải biết sử dụng đồng tiền một cách hiệu năng. Làm thế nào để huy động vốn, nghiên cứu thị trường để đầu tư khôn ngoan là sở trường của nàng. Thy mơ ước một ngày nào đó nằm trong tập đoàn đầu tư của hệ thống ngân hàng Mỹ.
Bước đầu để đạt ước mơ đó, Thy dồn nỗ lực vào việc học hỏi và nghiên cứu. Nàng tốt nghiệp ưu hạng ngành Quản trị Kinh doanh (MBA). Thy là một trong 3 người được các công ty đến phỏng vấn 2 tháng trước khi tốt nghiệp Cao học. Lương khởi sự của nàng bắt đầu bằng một dãy năm con số zêrô. Mới 24 tuổi, Thy được giao trách nhiệm theo dõi một số vốn đầu tư lên đến cả 100 triệu. Không hiểu thiên khiếu hay may mắn, hàng năm Thy đem về cho hãng hàng triệu đô la tiền lời. Như bàn tay của vua Midas trong thần thoại Hy lạp, bất cứ tiền quỹ nào Thy đụng đến, chỉ cần vài năm sau số vốn tăng lên gấp rưỡi dễ dàng. Sau khi lấy Bình, nàng về đầu quân cho công ty Mallen. Với chức vụ giám quản (manager) ở công ty này, Thy thật sự như rồng gặp mây. Nguồn tài trợ của công ty từ tiền bảo hiểm và quỹ hưu trí tư nhân lên đến hàng tỷ bạc, lợi nhuận mang về nhờ tài điều khiển khéo léo linh động của Thy lên đến cả trăm triệu. Chỉ vài năm sau, Thy được Hội đồng Quản trị đề bạt lên chức giám đốc (director) rồi giám đốc vùng (regional director), coi sóc cả một lãnh vực đầu tư. Với số lương tăng hàng năm với mức độ chóng mặt 10%, tiền bạc Thy mang về bảo đảm đời sống vật chất của cả gia đình dư dả. Mỗi năm, Thy còn nhận được số tiền thưởng bằng nửa phần nghìn tiền lợi nhuận do nàng tạo ra. Chỉ riêng tiền thưởng này thôi đã ăn đứt lương năm của Bình làm giáo sư dạy nhạc ở một trường trung học. Bởi thế, sau khi sinh con Rốt, Thy bàn với Bình ở nhà coi sóc hai đứa con. Không gì bằng bố, Thy bảo, còn hơn đi gửi nhà trẻ, vừa tốn tiền lại chẳng biết nó có thương con mình không. Thương con, chiều vợ, Bình chấp nhận ở nhà làm việc nội trợ thay Thy.
Lấy nhau được 9 năm, 2 mặt con. Bình chu toàn nhiệm vụ nội trợ, để mặc Thy tung hoành ngoài xã hội. Thy luôn cám ơn chồng đã thay nàng chăm sóc 2 đứa con. Được một tấm chồng như Bình, hiểu vợ, chiều vợ không phải dễ kiếm. Thy biết thế nhưng đôi lúc nàng thở dài vì bản tính hiền hòa, chân thật của chồng đến độ bực mình. Bình thẳng thắn, ruột ngựa, bảo sao nghe vậy, chứ không linh động, tháo vát như nàng. Như chuyện sáng nay, Bình cứ lải nhải hỏi hoài về ngày sinh nhật trong khi nàng đã trễ giờ. Nếu cứ để tối nay, sau một ngày tu nghiệp, về đến khách sạn rồi hai vợ chồng bàn chuyện trên điện thoại cũng đâu muộn. Mãi đến lúc đậu xe trước địa điểm tu nghiệp, nỗi bực dọc trong lòng Thy vẫn chưa nguôi.

Thy bước vào đại sảnh của khách sạn Ramada lúc 9:25 sáng. Nàng có hơn nửa tiếng để chuẩn bị. Nói là chuẩn bị nhưng thật sự nhân viên cấp dưới của nàng làm hết tất cả. Hai cô nhân viên sửa soạn giấy bút, sách vở, tài liệu đầy đủ đặt ngay ngắn trên từng bàn con cho mỗi học viên. Máy phóng hình đã bật lên, màn hình đã kéo xuống. Thy chỉ việc bật laptop lên và cắm dây nối với máy phóng hình. Sửa soạn xong nàng vẫn còn hơn 10 phút để lấy bình tĩnh trước khi bắt đầu khóa học. Đây là lần đầu tiên Thy hướng dẫn một khóa tu nghiệp như thế. Công trình nghiên cứu của nàng suốt 2 năm với đầy đủ dữ liệu, thống kê, kết quả và thêm những nhận xét riêng của nàng. Khi trình lên ông Chủ tịch công ty, ông ta gật gù sau 1 tuần nghiền ngẫm và ra lệnh các nhân viên lần lượt học hỏi kinh nghiệm từ công trình nghiên cứu của nàng. Sau 2 ngày, nếu suôn sẻ, chắc chắn khóa tu nghiệp sẽ để lại tiếng vang và từ đó con đường tiến thân của Thy sẽ thênh thang mở rộng. Trong trí Thy thoáng hiện chiếc cầu thang danh vọng cao vòi vọi đang chờ những bước chân của nàng.
Công ty Mallen thuê hội trường của khách sạn trọn cả 2 ngày. Hội trường này có thể chứa đến trăm người nhưng thật sự khóa tu nghiệp chỉ có 20 học viên do công ty tuyển chọn. Đây là những giám quản đến từ các tiểu bang có chi nhánh của công ty. Năm phút trước giờ học, các học viên đã tự ngồi vào bàn, viết tên lên một tấm biển hình tam giác ống, mặt viết tên họ quay về phía giảng viên. Nàng cũng nắn nót viết tên “Thea Nguyễn” và quay mặt biển về phía dưới lớp. Chỉ mới màn giới thiệu giáo đầu, Thy đã đọc được sự ngạc nhiên hiện lên khuôn mặt của các học viên. Họ không ngờ người đàn bà trong bộ đồ vest màu đỏ thẫm có khuôn mặt đẹp như một nhân vật trong truyện thần thoại lại là giảng viên của khóa tu nghiệp. Sau hơn 2 tiếng đồng hồ lái xe mệt mỏi, khuôn mặt Thy vẫn là một khối nam châm thu hút sự chú ý của 20 người đàn ông đang ngồi ngay ngắn nhìn sững nàng không chớp mắt.
Thy thao thao giảng bài. Nàng giải thích tường tận từng lãnh vực đầu tư. Theo nàng, sự nhạy bén trên thương trường dựa trên thiên phú và may mắn chỉ chiếm chừng 10%, còn lại là do sự tìm tòi học hỏi và tích lũy kinh nghiệm. Tất cả những biểu đồ phản ảnh từng giai đoạn biến động của quỹ đầu tư Thy giải thích cặn kẽ. Giọng nói truyền cảm, bài giảng biểu hiện kiến thức rộng, bộ đồ may cắt đúng thời trang ôm gọn lấy thân hình gợi cảm và với khuôn mặt hớp hồn Thy thật sự đã mê hoặc tất cả các học viên. Họ chăm chú lắng nghe và hý hoáy ghi chép. Chỉ riêng anh chàng ngồi ở góc trái tỏ vẻ lơ đãng, hồn phách như người mộng du. Bằng đuôi mắt, Thy liếc bảng tên và nhận ra anh chàng này là người Việt. Ryan Le.
Thy đoán Ryan chưa đến 30. Vai hắn rộng, thân hình lực lưỡng, khuôn mặt khá điển trai. Với từng ấy tuổi mà leo đến chức manager thì chứng tỏ tài năng của hắn không kém gì Thy. Một người tháo vát, biết xoay xở, Thy nghĩ thầm. Ryan ngồi mơ màng, có vẻ không chú ý gì đến nội dung của bài học. Có lúc hắn lại nhìn Thy đăm đăm, cặp mắt đờ đẫn như người say á phiện. Đôi lúc nàng cảm thấy nong nóng ở sau gáy, Thy bất chợt quay lại và thấy ánh mắt soi mói khá sỗ sàng như muốn bóc trần thân thể của nàng. Bắt được cái lừ mắt của Thy, hắn luống cuống nhìn xuống, mặt đỏ bừng.
Điều này tối kỵ trong môi trường làm việc. Ai cũng biết vấn đề “quấy nhiễu tình dục” được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, nhằm bảo vệ một môi trường làm việc lành mạnh cho phụ nữ. Một lời khen, “Trông cô đẹp quá!” có thể không sao, nhưng “Trông cô khêu gợi quá!” đã vượt quá giới hạn. Đám đàn ông bù khú qua những chuyện “đố tục giảng thanh” với nhau thì không sao, nhưng nếu có mặt một phụ nữ thì cần phải dè chừng, hay nhất là đổi đề tài. Lời nói đã phải cẩn thận thế, chứ đừng nói đến cái nhìn sỗ sàng của chàng trẻ tuổi vốn dòng… soi mói. Cấp trên lợi dụng quyền hành để quấy nhiễu nữ nhân viên cấp dưới lại càng cấm kỵ. Đằng này, Thy hiện tại xem như cấp trên của chàng, không lẽ cấp dưới lại dám “quấy nhiễu” cấp trên. Vậy mà cặp mắt tinh ranh của Ryan vẫn rình rập nàng, chờ đợi những lúc thuận tiện Thy quay lưng để xoắn chặt lấy tấm thân nẩy nở và đôi mông tròn trịa nhún nhẩy trên cặp giò thuôn thuôn, dài thườn thượt.
Tại sao hắn cứ dán cặp mắt vào thân thể Thy với cái nhìn ngây dại? Leo lên chức manager, Ryan phải biết những luật lệ nghiêm khắc nhằm bảo vệ phụ nữ. Thế sao hắn vẫn dùng cặp mắt để “quấy nhiễu” nàng? Chỉ còn lối giải thích là Ryan không thể… cưỡng lại được. Người nàng toát ra một ma lực cám dỗ ước muốn đen tối của Ryan, và hắn đã đỏ mặt khi Thy bất chợt quay lại lừ mắt nhìn. Tưởng kẻ ăn vụng bị bắt quả tang cũng chỉ ngượng ngập đến thế là cùng. Phải cho anh chàng này một bài học, nàng nghĩ thầm.
Một ngày trôi qua mau chóng. Thy lái xe về khách sạn Peppermint cách xa địa điểm tu nghiệp chừng vài dặm. Ở đó công ty dành riêng cho nàng một căn phòng thượng hạng, loại Penthouse Suite, phòng sang nhất của khách sạn Peppermint. Mở cánh cửa chính để lộ một hành lang dài chừng 5 mét với ánh đèn mờ ảo. Cuối hành lang là một cánh cửa nữa. Đàng sau cách cửa này là phòng ngủ và phòng giải trí. Chạy song song với hành lang là chiều dài của phòng tắm; ở góc phải là chỗ tắm lộ thiên, nghĩa là bốn bề trống hoác, và vòi sen tỏa nước được gắn chìm trên trần. Riêng một bồn tắm hình vuông đủ chỗ cho 4 người ngồi, nước bắn ra từ thành bồn có tác dụng xoa bóp cho dãn gân cốt. Chiếc bàn trang điểm dài cỡ 2 mét, bên trên đặt tấm gương khổng lổ cao đến trần. Góc trái là chiếc TV kiểu mới nhất, lớn cỡ 62 phân tây. Với diện tích chừng 120m vuông, quá rộng cho một người ở tạm từng ấy ngày. Nhưng ở cương vị giám đốc vùng của Thy, căn phòng đắt giá Penthouse không thấm gì so với công tác phí công ty dành cho nàng. Tối hôm đó, Thy gọi điện thoại về nhà nói chuyện với con và hứa sẽ về nhà sớm. Nàng vẫn còn giận Bình nên chỉ hỏi han lấy lệ. Thy đi tắm, thay quần áo lên giường rồi nàng chìm vào giấc ngủ mau chóng.
Chương trình tu nghiệp ngày thứ Bảy hôm sau tiến hành trôi chảy. Ryan chú ý hơn vào bài vở nhưng thỉnh thoảng Thy vẫn bắt được cái nhìn lén lút của hắn. Đột nhiên, lòng Thy chợt dấy lên niềm hãnh diện về sự quyến rũ của nàng. Hiếm có một người đàn bà hai con như Thy mà vẫn còn đủ ma lực để hớp hồn một chàng thanh niên trẻ như Ryan.

Khoảng 2 giờ chiều, Bình đi đón con như thường lệ. Con Măng học ở trường tiểu học, còn con Rốt gửi ở nhà trẻ. Đang lái xe, Bình suy nghĩ mãi về lời nói của Thy chê chàng cù lần ngày hôm qua. Đôi lúc, chàng cũng cảm thấy mình… cù lần thật. Cuộc sống an bình với hạnh phúc tràn ngập trong từng cử chỉ từ tốn, qua sự nhẫn nại đối với Thy, một người đàn bà xốc vác, sinh động. Bình nhận ra tuy hai vợ chồng như hai thái cực, nhưng rõ ràng cả hai bổ khuyết cho nhau, một điều kiện ắt có và đủ để bảo đảm hạnh phúc gia đình. Bình không thể hành động khác với bản tính điềm tĩnh của chàng. Bình nhìn đời như những nốt nhạc trong một bài hát chàng sáng tác, có nốt cao, nốt thấp. Nhưng rõ ràng những nốt nhạc khác nhau này lại tạo ra một âm điệu du dương. Thy ở những nốt cao, chàng ở những nốt thấp để tạo ra một bản giao hưởng tuyệt vời.
Hôm nay là sinh nhật của Thy. Chàng muốn nghĩ một cái gì khác lạ, bất ngờ cho vợ để nàng khỏi chê chàng cù lần, chậm chạp. Đột nhiên, một ý nghĩ lóe lên trong đầu. À, phải rồi. Chiếc xe lạng nhẹ sang một bên vì chàng đập cả hai tay vào vô-lăng khi ý nghĩ lạ lùng đó in đậm nét trong trí. Chắc chắn việc cha con sắp làm sẽ khiến Thy bất ngờ, chàng nhủ thầm.
Đón hai con xong, chàng cười cười nói:
– Hai con muốn mừng sinh nhật mẹ không?
Cả hai đứa nhao nhao:
– Mẹ về hả bố?
– Khi nào mẹ về?
Bình nựng con Rốt:
– Tối khuya may ra mẹ mới về, nhưng bố con mình đi đón mẹ rồi mừng sinh nhật mẹ luôn. Sao, con thấy được không?
– Đi đón mẹ hả bố. Hay quá, hay quá!
– Thế nào mẹ cũng surprised, bố hén.
Đúng 3 giờ chiều, Bình khởi hành. Đến khách sạn Peppermint lúc 5 giờ hơn. Chàng dẫn con vào quầy khách sạn. Sau khi trình giấy kết hôn, Bình ngỏ ý muốn làm tổ chức sinh nhật bất ngờ cho vợ ngay tại phòng nàng. Nghe qua kế hoạch của chàng, và nghe hai đứa con gái liến thoắng hỏi han, bà quản lý khách sạn đồng ý. Bình đặt một cái bánh nhỏ, thêm 38 cây nến ngắn, vài chục bong bóng đủ màu, và khoảng mươi tờ giấy để hai đứa con vẽ thiệp chúc mừng sinh nhật mẹ. Bánh có sẵn, chỉ cần viết tên Thea Nguyen và chừng nửa tiếng sẽ có bồi mang đến tận phòng. Những vật dụng còn lại, Bình cho vào túi xắc và dẫn hai con lên phòng. Lúc đó đã 5 giờ rưỡi chiều.

Buổi tu nghiệp chấm dứt đúng theo chương trình vào lúc 5 giờ rưỡi chiều. Sau lời cầu chúc tốt đẹp của Thy, toàn thể học viên chẳng ai bảo ai đồng loạt đứng dậy vỗ tay khen ngợi nàng, và chúc mừng một chương trình tu nghiệp thành công. Lần lượt từng người đến bắt tay Thy và hỏi han đôi lời theo đúng phép xã giao rồi chào từ giã. Chừng mươi lăm phút sau, căn phòng rộng rãi chỉ còn lại Ryan và Thy. Hắn cố ý nấn ná đến phút cuối để gặp nàng. Chững chạc đứng trước mặt nàng, hắn chìa tay:
– Tôi học hỏi được rất nhiều trong hai ngày qua.
Thy nhìn thẳng vào mắt hắn. Nàng có năng khiếu đọc được ý nghĩ của người ta qua cặp mắt. Câu nói của Ryan như một lời khen gián tiếp nhưng Thy đọc được sự thèm muốn qua ánh mắt ngây dại của hắn. Không hiểu sao lòng Thy bỗng rộn ràng khó tả. Có thể tại đôi bờ vai rộng của hắn, cũng có thể tại đôi bàn tay lớn quá khổ đang siết chặt lấy bàn tay nhỏ bé của nàng. Đứng gần chỉ cách nhau chưa đến một sải tay, Thy thấy rõ khuôn mặt khôi ngô và vầng trán rộng của Ryan, cả vùng ngực nở nang phập phồng và nàng thoáng nghe hơi thở gấp gáp của hắn. Điều này chứng tỏ Ryan không giữ được bình tĩnh. Bản năng chinh phục của Thy chợt chỗi dậy như linh tính của loài thú sống trong rừng sâu đánh hơi được nguy hiểm đang rình rập. Thy rút tay về, nắm lấy cà vạt, kéo nhẹ về phía nàng và nói nhỏ vào tai hắn:
– Lấy áo khoác rồi theo chị, em cưng.
Lời đề nghị của Thy làm hắn giật bắn người, lảo đảo như người say rượu. Hắn đến chào xã giao rồi chia tay như mọi người, chứ có ngờ đâu thần may mắn lại chiếu cố đến hắn. Lần tham dự trò chơi trên truyền hình, số hên nên hắn trúng đến mấy chục nghìn. Lần đó hắn nhảy cẫng lên như một đứa con nít. Nghe Thy nói xong, cả người hắn nhẹ tênh và nếu nhảy cẫng lên có lẽ thân hình hắn sẽ lơ lửng trong không khí và khó rơi trở lại mặt đất. Nhưng hắn vẫn đứng như trời trồng. Sự bất ngờ làm hắn cứng người, và đôi chân hắn chôn chặt dưới đất như bắt vít. Cái may mắn trúng thưởng lần đó chẳng thấm gì so với cái may mắn được đi gần Thy. Đành rằng hắn chết mê chết mệt nàng nhưng hắn không hề dám nghĩ đến diễm phúc được Thy rủ đi chung. Đi đâu không cần biết, miễn là đi với Thy, hoặc ngồi ăn với nàng là niềm hạnh phúc tuyệt vời mà cả đời hắn chẳng mong có được lần thứ hai. Ryan nín hơi, không dám thở mạnh, trong khi Thy lúi húi gom máy tính, giấy tờ, và tài liệu nhét vào cặp.
Ryan riu ríu đi theo Thy. Khách sạn kẻ đến người đi, không ai để ý đến hắn và nàng, thế mà người hắn cứ run lên khi bước song đôi với Thy. Cả hai sánh vai nhau đi bộ khoảng một đoạn đường và bước vào một quán ăn. Cả hai ngồi ở quầy rượu. Thy gọi một chai vang. Thêm đĩa thức ăn nhón bằng tay để đưa đẩy câu chuyện xoay quanh gia đình và việc làm. Thy không dấu chuyện nàng đã lập gia đình. Nàng còn khoe chiếc nhẫn cưới nhận kim cương lấp lánh treo nơi ngón áp út. Ryan còn độc thân và đúng như nàng đoán, hắn chưa đến 30. Cả hai ngồi uống tì tì hết nhẵn chai vang. Nàng gọi thêm một đĩa sò tươi, bóp chanh với muối tiêu. Ăn xong, Thy nhìn thẳng vào mắt hắn, giọng ráo hoảnh:
– Về phòng chị.
Hắn nuốt nước bọt đánh ực. Cứ tưởng nghe lầm, nhưng hắn biết hắn không nghe lầm. Đề nghị này quá bất ngờ, vượt ra khỏi dự liệu của Ryan. Nếu lời đề nghị đi chung của Thy xem như một cơn gió mát thì lời rủ rê hắn về phòng như một cơn bão thổi táp vào mặt khiến hắn choáng váng, tối tăm mặt mũi. Ryan đờ người, đực mặt như ông phỗng. Hắn chưa kịp mở miệng thì Thy dí ngón trỏ vào vùng ngực đầy múi thịt của hắn, nói rõ từng chữ:
– Một điều nữa. Nhớ cho kỹ, cậu em. Đây chỉ là sex, không hơn không kém. Sau đêm nay, cậu đi đường cậu, chị đi đường chị. Chúng ta không hề biết nhau, và tuyệt đối không nhắc nhở gì về chuyện này.
Ryan vẫn ngây người nhìn nàng. Thy rút ngón tay về, lừ mắt, trầm giọng:
– Hiểu chưa?
Hắn choàng tỉnh, giọng lí nhí:
– Vâng… hiểu.
Ngửa cổ uống cạn phần rượu còn lại, Thy dằn tờ giấy $100 dưới ly, nắm tay kéo hắn ra khỏi quán ăn.

Ở khách sạn, Bình đã chuẩn bị xong xuôi. Bong bong đủ màu thả bay đụng trần. Con Rốt vẽ hình bố và mẹ nắm tay 2 đứa nhỏ đứng giữa. Bức tranh của con Măng có thêm mái nhà và thêm hàng chữ “We’re a Family”. Nét vẽ ngây thơ nhưng khá sắc sảo. Cả hai tấm hình chúng nó cầm nơi tay và trốn với bố trong phòng tắm. Chiếc bàn nhỏ cao ngang tầm ngực có bánh xe đựng chiếc bánh khá lớn, bên trên cắm đúng 38 ngọn nến cao cỡ ngón tay. Bình tính toán khá kỹ, sau khi Thy nhận tấm thẻ điện tử mở cửa phòng nơi bàn nhân viên, cô thư ký trực sẽ gọi lên phòng báo cho chàng biết. Lúc đó, ba bố con Bình mới thắp nến. Thời gian từ dưới nhà lên tầng cao nhất của khách sạn, bước nhẩn nha đến phòng và mở hai cánh cửa Thy mất chừng 5 phút. Bước vào phòng chắc chắn Thy sẽ ngạc nhiên khi thấy biển chữ “Happy Birthday” dán trên tường và ba bố con sẽ mở cửa phòng tắm nhảy xổ ra ngoài. Bình sảng khoái khi tưởng tượng đến sự kinh ngạc hiện trên khuôn mặt Thy. Chắc chắn Thy sẽ không bao giờ chê chàng cù lần nữa, Bình nghĩ thầm. Còn con Măng và con Rốt thì thấp tha thấp thỏm từ nãy giờ, cứ níu tay chàng hỏi mẹ sắp về chưa bố. Coi bộ hai đứa thích trò chơi bất ngờ này. Hai tay nâng tấm hình ngang ngực, chúng bồn chồn chờ đợi…

Ryan lái xe theo Thy về khách sạn Peppermint lúc gần 7 giờ. Vào đến cửa, hắn rụt rè đi thụt phía sau. Thy đi thẳng đến bàn nhân viên và lấy thẻ khóa phòng, còn Ryan cắm cúi đi thẳng đến cửa thang máy đứng chờ. Cửa thang máy vừa đóng lại, Thy xoay người tấn công Ryan ngay. Một tay đẩy hắn sát tường, bàn tay kia vòng qua gáy, nàng kéo đầu Ryan xuống và ngoạm lấy miệng hắn. Thiết tưởng con chim cắt chụp mồi cũng nhanh và chính xác đến thế là cùng. Thy đứng một chân, còn chân kia co lại quặp lấy đùi Ryan. Trong tư thế đó, Thy gần như đeo cứng lấy hắn như đỉa bám. Chiếc váy ngắn gần chấm đầu gối lại không có váy lót nên khi Thy co chân lên đã thấy thấp thoáng chiếc quần lót thời thượng màu hồng nhạt. Chỉ mấy giây đầu Ryan nằm trong thế thụ động, nhưng ngay sau đó bản năng đàn ông vùng dậy, hắn chồm lên như con hổ vồ mồi. Hắn hôn Thy điên cuồng thật điệu nghệ theo đúng kiểu french kiss. Cái hôn đúng điệu của hắn làm người Thy rạo rực như thuở mới hôn đàn ông lần đầu. Hai tay ôm gọn lấy chiếc eo gợi cảm, hắn kéo sát Thy dính vào người. Cả thân hình nàng uốn cong cong theo hình bán nguyệt. Chiếc áo blouse cổ hình chữ V đã sổ tung mấy hột cúc, bộ ngực no tròn của Thy ép sát vào ngực hắn. Chiếc xú chiêng Thy đang mặc là một nghệ thuật độc đáo của hãng Victoria Secret; loại half-cup, nó chỉ ôm nửa ngực. Chỉ cần một vài cử động mạnh, nó gần như tuột hẳn, để lộ hai quả tuyết lê trắng hồng ẩn hiện qua làn vải áo. Người hắn run lên, hơi thở dồn dập trong cơn khoái cảm chưa từng có. Đứng thẳng người, Ryan định luồn bàn tay vào bên trong cổ áo hình chữ V. Thy chụp lấy bàn tay hắn, mắt lườm sắc như dao:
– Thong thả, cưng.
Ngay lúc đó, chuông thang máy kêu kính coong và rùng mình đứng lại ở tầng cao nhất. Cả hai vội rời nhau ra, vuốt vuốt lại quần áo. Cửa thang máy mở, hành lang vắng hoe. Từ cửa thang máy đến phòng phải đi qua hai hành lang dài. Bên trong phòng tắm, ba bố con Bình đã thắp lên 38 ngọn nến. Bình đưa ngón tay lên miệng, ra dấu im lặng. Hai đứa con cũng đưa ngón tay lên miệng giống bố, gật gật đầu. Không nén được hồi hộp, hai đứa huých huých cùi chỏ rồi cười rích rích. Bình phải suỵt suỵt chúng nó mới đứng yên.
Bốn bức tường cách âm nên Bình phải lắng tai lắm mới nghe được tiếng động từ hành lang. Chàng vừa nghe tiếng cửa mở, rồi tiếng cửa tự động đóng. Cách một bức tường, nhưng Bình nhắm mắt vẫn “nhìn thấy” được những thói quen của vợ. Ở nhà, đi làm về, vào đến phòng, Thy thả ngay chiếc cặp ở cửa, kiễng một chân để tháo chiếc giày rồi dùng mấy ngón chân tháo nốt chiếc giày kia, cởi phăng chiếc áo và nằm kềnh ra giường thở một hơi dài.
Dãy hành lang dài 5 mét dẫn đến cửa chính. Thy thả chiếc cặp ngay tại cửa. Nàng nắm lấy cà vạt của Ryan và kéo hắn lại, và hôn nhẹ lên môi. Thy tát nhẹ vào má hắn, kiểu nựng yêu. Bàn tay nhanh nhẹn mở hết hàng cúc, nàng cởi phăng chiếc áo ném xuống thảm. Ryan thành thạo luồn tay ra phía sau mở khóa kéo của chiếc váy và để thả rơi trên sàn. Ngọn đèn chìm trên trần tỏa ánh sáng mờ mờ nhưng đủ sáng để Ryan chiêm ngưỡng trọn bộ ngực săn chắc đang nhìn hắn khiêu khích. Máu trong người hắn chảy rần rần như nước lũ vỡ đê. Hắn có cảm giác những tĩnh mạch quá nhỏ không đủ cho máu lưu thông. Tim hắn đập rộn ràng như trống ngũ liên. Hai bàn tay to lớn ôm hết cặp mông tròn mẩy, hắn xoa bóp thô bạo rồi dùng sức kéo ngược lên. Theo đà, Thy rướn người và hai chân nàng quặp lấy eo hắn. Môi hắn dán chặt lấy môi Thy. Vóc dáng Ryan xứng đáng là lực sĩ. Tấm thân roi roi của Thy cỡ 120 cân thế mà hắn nâng nàng trông nhẹ như bấc. Ryan bước về phía cửa chính dẫn vào phòng ngủ, hay bàn tay vẫn đan chặt vào nhau ôm lấy mông nàng. Hai tay Thy giữ chặt lấy đầu hắn để hôn, nàng vẫn đeo dính trên người Ryan. Gần đến cửa, Thy thò tay ra sau nắm lấy quả đấm cửa, và định vặn một vòng…
Bên trong phòng tắm, tuy tiếng động lọt vào tai nghe nhỏ nhưng Bình vẫn đoán được tiếng cặp rơi, tiếng giày lăn lóc trên sàn, rồi một vài tiếng sột soạt mà chàng không thể đoán được là gì. Hình như Thy chặc chặc lưỡi thì phải, chàng nghĩ thầm. Bình nghe từng bước chân chậm chạp, khá nặng nề, tiến về phía cửa chính. Xoay sang hai đứa con gái, Bình nói khẽ:
– Chuẩn bị… một… hai…
Lúc Bình sửa soạn đếm số ba để bố con xô cửa phòng tắm nhảy xổ ra là lúc Thy đang định vặn quả đấm cửa… Ngay giây đồng hồ chết người đó, thời gian như khựng lại, không gian ngột ngạt vì sự sống sượng của phản bội làm mọi sinh vật hầu như nghẹt thở thì đột nhiên… một hồi còi báo động vang lên đâm thốc vào màng nhĩ của mọi người.
Mọi người trong phòng đứng chết sững. Mãi đến khi hệ thống chữa lửa trên trần tự động phun nước xối xả thì Bình mới kịp nhận ra khói của 38 ngọn nến vô tình đã kích hoạt hệ thống báo động hỏa hoạn. Cũng tại Bình bất cẩn để chiếc bánh ngay dưới dụng cụ báo khói, chiếc bàn lại cao ngang tầm ngực cọng thêm bề dày của chiếc bánh, nên chỉ cần khoảng 5 phút hệ thống báo động hoạt hóa ngay. Tiếng còi rú lên dồn dập làm át đi mọi tiếng động khác nên hai đứa con cũng chẳng nghe lời rủa “shit, shit..” của bố. Hơn nữa, sự nguy hiểm của hỏa hoạn khiến mọi người chỉ nghĩ đến việc chạy thoát thân, nên chẳng ai để ý ai. Phải mất 15 giây Bình mới thổi tắt hết 38 ngọn nến.
Thy và Ryan sững người khi hồi còi vang lên và nàng nhận ra ngay còi báo động hỏa hoạn. Thy hốt hoảng tuột người xuống, xô hắn ra, chạy ngược ra cửa, hấp tấp mặc váy, chụp chiếc áo, quơ lấy đôi giày, túm vội chiếc cặp rồi bươn bả mở cửa chạy ra ngoài. Ryan tất tả chạy theo. Ra đến ngoài, Thy thả rơi cặp, mặc vội cái áo rồi chạy đến cầu thang. Ryan vẫn chạy sát sau lưng nàng.
Thy cắm cúi chạy theo dòng người xuống ba bốn dãy cầu thang thì bố con Bình mới thoát ra đến hành lang. Bình bồng con Rốt lên, tay kia nắm chặt con Măng. Trong khi bố con chen lấn cố chạy xuống tầng trệt thì Thy và Ryan đã ra đến ngoài bãi đậu xe. Nàng vòng tay ra sau gài lại móc xú chiêng đã tuột ra trong cơn sốt xác thịt, cài lại hàng cúc áo, vuốt vuốt lại mái tóc. Người người đứng thành từng nhóm trước cửa khách sạn. Đảo mắt một vòng nhìn người và cảnh vật, rồi đột nhiên, Thy tỉnh cơn mê, tỉnh hẳn. Nàng chợt thấy sự bốc đồng trong cơn nhục dục đã vượt qua ranh giới của đạo lý căn bản trong tình nghĩa vợ chồng. Tuy sự vụng trộm chưa đi đến việc ăn nằm nhưng nếu không có hồi còi báo động thì chắc chắn bây giờ cả hai đang quằn quại trên chiếc giường rộng quá khổ có trải tấm khăn nhung mượt mà, Thy biết chắc như vậy. Nàng chợt nhớ đến 2 đứa con gái đĩnh ngộ, có khuôn mặt xinh như nụ hoa sớm mai. Thy bỗng nhớ đến Bình, người chồng trầm lặng, sống âm thầm chiều chuộng nàng. Trong đáy thâm tâm, Thy cảm thấy nhoi nhói đau và nàng chợt thấy mình đã buông thả quá trớn.
Thy quay sang Ryan, thở dài:
– Xin lỗi cậu, việc này thật không đúng. Tôi thấy mình sai và muốn chấm dứt ở đây, ngay bây giờ. Thôi, cậu đi đi.
Ryan đã tỉnh người, có lẽ do những tia nước lạnh từ hệ thống chữa lửa rưới hết lên thân hình hắn. Cơn sốt nhục dục đã nguội hẳn. Hắn thấy quyết định của Thy hợp lý. Không nói một lời, Ryan khẽ nhún vai, nhếch môi cười nhẹ và quay lưng cắm cúi bước đi.
Thy thẫn thờ nhìn Ryan mất hút ở cuối bãi đậu xe. Nàng thở dài lần nữa, chẳng biết vì cảm thấy tội nghiệp cho Ryan, hoặc vì hối hận đã vượt qua ranh giới của tình nghĩa vợ chồng. Mọi người tụ thành từng nhóm đứng rải rác khắp bãi đậu xe. Thy đưa mắt nhìn về phía cửa chính khách sạn. Hai cánh cửa đã mở rộng hoác, khách nhẩn nha bước ra ngoài. Họ bước bình thản, chẳng hấp tấp chạy trối chết như nàng. Nhân viên cứu hỏa đã vào bên trong để xem xét. Hình như mọi việc đã được giải quyết ổn thỏa, nên nét mặt mọi người chẳng thấy vẻ vội vàng, lo lắng thuờng có khi hỏa hoạn xảy ra.
Và kìa, Thy chợt thấy bóng dáng chồng và hai con. Nàng dụi mắt nhìn cho kỹ. Bình đang bồng con Rốt, tay dắt con Măng lững thững bước ra khỏi cửa khách sạn. Trời ơi, Thy than thầm, chồng con sao có mặt ở đây, lúc này? Bình có thấy nàng tất tả chạy xuống thang và Ryan lẽo đẽo chạy theo không? Những câu hỏi hiện ra dồn dập trong trí làm Thy đứng sững như trời trồng. Nàng cứng người, mắt trợn tròn nhìn về phía chồng con, không một phản ứng. Mãi đến khi con Rốt trườn người khỏi tay bố, ngón tay chỉ về phía mẹ, Thy mới thật sự lấy lại bình tĩnh:
– Mommy, mommy…
Và Bình thấy vợ. Hai đứa con chạy a lại phía Thy và ôm cứng lấy nàng. Thy ngồi sụp xuống mở rộng vòng tay ôm choàng lấy con, hôn lấy hôn để lên hai khuôn mặt ngây thơ, sáng rực rỡ. Bình vừa trờ tới, Thy đứng dậy, cố nở nụ cười thật tươi mà trong thâm tâm nàng hy vọng chồng không nhận ra đó là nụ cười gượng:
– Sao bố con lại có mặt ở đây?
Bình hoàn toàn không thấy sự thay đổi trên nét mặt vợ. Chàng vẫn nhận ra sự duyên dáng của Thy, cho dù quần áo khá xốc xếch và tóc tai rối bù. Bình nghĩ chạy sống chạy chết tránh hỏa hoạn thì quần áo như thế là tươm tất lắm rồi.
Cả hai đứa nhao nhao:
– Happy Birthday mẹ.
– Bố con bất ngờ đến đây để mừng sinh nhật em. Trên phòng bố con trang trí đẹp lắm…
Thy ngắt lời:
– Cái gì? Anh trang trí phòng em? Lúc nào?
Bình phá lên cười ngặt nghẽo:
– Thấy chưa! Hết chê anh cù lần chưa? Em đâu có ngờ bố con núp trong phòng tắm chờ. Hai đứa còn vẽ hai tấm tranh để mừng sinh nhật mẹ. Anh cũng đặt cả chiếc bánh nữa.
Nói đến tranh vẽ, Bình nhìn xuống hai đứa con và nhận ra trong lúc vội vàng chúng đã bỏ quên trong phòng. Vì nhìn con, Bình không để ý đến nét mặt của Thy tái hẳn đi. Thy nghe tim mình đập loạn nhịp như người bị tai biến. Nàng cảm thấy chóng mặt. Bàn tay Thy dựa vào thành xe bên cạnh để giữ thăng bằng. Nàng cố giữ bình tĩnh khi Bình vẫn thản nhiên tiếp tục:
– Anh đâu ngờ mấy ngọn nến thắp trên chiếc bánh lại gây ra báo động hỏa hoạn. Lúc đó anh định mở cửa chạy ra giữ em lại nhưng không kịp. Thổi tắt cho được từng ấy ngọn nến, rồi lại vướng hai đứa con, bố con chạy ra đến cầu thang thì em mất hút…
Tai Thy lùng bùng. Nàng phải cố gắng lắm mới đứng vững trên đôi chân. Thật không ngờ lúc nàng và Ryan hôn nhau cuồng loạn ở hành lang thì chồng và hai con đang chờ nàng trong phòng tắm. Chồng con vượt đường xa đến mừng sinh nhật Thy, thế mà nàng lại có hành động buông thả, đi ngược lại nề nếp truyền thống căn bản. Hóa ra bên kia bức tường là sự phản bội, còn bên này là tình mẫu tử và lòng thủy chung.
Giọng con Măng lo lắng:
– Mẹ, mẹ sao vậy? Mẹ đau hả?
Thy hít một hơi dài, dùng hết sức bình sinh để lấy lại vẻ tự nhiên:
– Mẹ không sao. Báo động hỏa hoạn làm mẹ hoảng quá.
Sự phản bội về thân xác, báo động hỏa hoạn, chạy thoát thân, chồng con đến mừng sinh nhật… chỉ trong vòng mươi lăm phút mà toàn những chuyện bất ngờ và kinh khủng xảy ra nhanh đến độ chóng mặt. Thy chợt thấy tinh thần bải hoải hơn bao giờ. Sự hiện diện của chồng con ở đây đã đẩy tâm trí bằng thép của nàng đến tận cùng của sự chịu đựng. Cứ nhìn vào khuôn mặt vô tư của hai đứa con gái, Thy lại càng cảm thấy đau nhói trong tim. Nàng cố cầm giữ nỗi cảm xúc ngay sau khi nghe 2 đứa con vượt đường xa đến gặp mẹ để chúc mừng sinh nhật. Bỗng nhiên, Thy chán tất cả, chán vinh quang đang chờ đón nàng qua sự thành công của khóa tu nghiệp, chán thành phố này, chán khách sạn, chán luôn cả những người chung quanh mà nàng chưa hề quen biết. Nỗi chán chường đè nặng trong tâm trí của một người tuyệt vọng khi gặp cảnh ngang trái. Thy muốn rời bỏ khung cảnh như một sự chạy trốn thực tại. Nó giúp nàng tạm quên đi sự buông thả mà nàng đã dại dột vượt qua ranh giới của đạo lý.
Thy nói với chồng:
– Em muốn về nhà, Bình ơi! Em muốn về ngay bây giờ.
– Được quá đi chứ. Nào, chúng ta lên đường.
Tiếng con Rốt:
– Mẹ về luôn nghen mẹ.
– Mẹ về ngay… về ngay con ạ!
Vừa nói, Thy ôm lấy con, hôn lung tung lên mặt. Trời đã sẩm tối nên không ai thấy nàng khéo léo đưa ống tay áo lau giọt nước đang đùn ra nơi khóe mắt. Thy đứng lên:
– Anh chở con về trước. Em giải quyết một vài việc rồi về ngay.
– Okay… chào mẹ đi con.
– Bye mẹ…
Thy đứng vẫy tay, chờ Bình lái xe ra khỏi bãi đậu xe rồi nàng mới bước vào khách sạn. Thy thanh toán tiền phòng nơi quầy và dặn dò quản lý gom góp tất cả quần áo và vật dụng còn sót lại trên phòng gửi về tận nhà cho nàng. Lúc ra xe, tình cờ nhìn lên bầu trời tối đen như mực, Thy bỗng thấy một ngôi sao lóe lên để lại một đường sáng dài rồi mất hút vào cõi không gian mù mịt. Màn đêm buồn tênh như mảng tối trong tâm hồn nàng. Ngồi vào xe, Thy chợt nhớ ra hôm nay là ngày mùng Hai Tết, một trong 3 ngày quan trọng nhất trong năm theo truyền thống Việt đối với gia đình. Thế mà nàng lại phản bội chồng con vào đúng thời khắc linh thiêng của đất trời. Thẫn thờ nổ máy xe, Thy gục đầu vào vô-lăng, thở dài ảo não.

Thy về nhà lúc gần 11 giờ khuya. Nàng rón rén mở cửa từ nhà xe dẫn vào nhà bếp. Nhà cửa yên ắng. Ngọn đèn nhỏ gắn trên tường chiếu ánh sáng mờ nhạt khắp phòng. Thy thả đôi giày ở chân cầu thang và bước nhẹ lên lầu. Nàng mở hé cửa nhìn vào phòng 2 đứa con gái. Hơi thở đều đặn vọng ra từ giường hai chị em đang ngủ. Đường xa đi đi về về hơn nửa ngày nên chúng quá mệt mỏi, vừa đến nhà là ngủ vùi. Khép nhẹ cửa phòng của con, Thy bước vào phòng ngủ. Bình đang nằm trên giường, không biết đã ngủ chưa. Thy lặng lẽ bước vào phòng tắm.
Đứng trước gương, Thy thẫn thờ nhìn khuôn mặt hốc hác sau một ngày phiêu lưu nhiều biến động. Những ý nghĩ lẩn quẩn trong trí lúc lái xe bây giờ trở lại. Suốt quãng đường, Thy cố tìm cho được lý do tại sao nàng lại hành động cuồng loạn thiếu suy nghĩ đến thế. Nàng luôn chừng mực trong lời ăn tiếng nói, chín chắn trong công việc. Chưa bao giờ Thy dám liều lĩnh phiêu lưu xem nhẹ nghĩa tào khang. Thế mà hành động cuồng dại của nàng ngày hôm nay suýt đánh đổ 9 năm hạnh phúc với chồng con. Thy có quan niệm khá cởi mở trong tình yêu. Những cuộc tình trước đây đôi lúc đẩy Thy đi khá xa, nhưng chưa bao giờ vượt vòng lễ giáo. Tuy Thy cởi mở nhưng không bao giờ buông thả, vì bất cứ chuyện gì, theo nàng, đều có giới hạn của nó. Tình nghĩa vợ chồng phải xây dựng trên lòng tin, ngay cả những lúc sống xa nhau.
Không phải lần đầu tiên Thy sống xa chồng. Vì công việc, mỗi năm Thy đi công tác ba bốn lần, và đôi khi đợt công tác kéo dài vài tuần. Những lần xa nhà, nằm ở khách sạn một mình, Thy vẫn giữ một lòng trung trinh. Làm những việc bất chính sau lưng người phối ngẫu là điều Thy cho rằng hèn nhát. Chẳng thà trước mặt nhau tuyên bố thẳng thừng tôi không còn yêu anh nữa, rồi đường ai nấy đi, và muốn làm gì thì làm. Như thế vẫn dễ hiểu hơn là lén lút phản bội. Quan niệm về cuộc sống rõ ràng đến vậy, thế mà Thy vẫn sa ngã, và thả rơi tình nghĩa vợ chồng vào vòng tay của một thanh niên dưới quyền. Suy cho cùng thật chẳng đáng gì.
Thy lắc đầu không dám nghĩ tiếp hậu quả sẽ ra sao nếu còi báo động hỏa hoạn không hú lên đúng lúc. Nếu chồng con thấy được tư thế đĩ thõa của nàng với người đàn ông lạ, hai đứa con gái sẽ nghĩ gì về mẹ nó. Còn Bình nữa. Thy không đoán được phản ứng của chồng ra sao, nhưng chắc chắn là Bình sẽ ném ánh mắt khinh bỉ vào thân thể gần như trần truồng của nàng. Thy rùng mình. Trên đời nàng sợ nhất là sự khinh bỉ của người thân. Thy tin chắc nàng chưa bao giờ làm điều gì để mất sự kính trọng nơi chồng con. Vậy mà chỉ cần một phút bốc đồng, Thy suýt đạp đổ từng ấy năm hạnh phúc. Càng nghĩ Thy càng thấy hổ thẹn. Nàng cảm thấy xấu hổ với hai đứa con gái. Con cái vượt đường xa đến mừng sinh nhật mẹ, thế mà nàng… Thy chợt thấy mình có lỗi với hai đứa con quá chừng chừng.
Vừa nghĩ đến đó, Thy bật khóc.
Bàn tay đưa lên bụm miệng ngăn tiếng nấc đừng thoát ra ngoài, Thy mở ngay vòi nước để tiếng nước chảy át đi tiếng khóc. Đêm khuya, một tiếng động nhỏ đủ nghe rõ mồn một. Thy không muốn chồng biết một chút gì về sự hư đốn của nàng. Thy nhớ lúc còn nhỏ đêm khuya con bé thường hoảng sợ vì đám mèo hoang rượng đực rượt đuổi trên mái tôn. Mãi lúc lớn lên nàng mới biết những con mèo cái tìm giống đực để thỏa mãn cơn động tình. Sự thật trần trụi là, Thy cũng chẳng khác gì những con mèo hoang đó, hành động vụng trộm của nàng như cơn động cỡn của loài thú không hơn không kém. Thy cúi mặt lắc lắc đầu. Lần đầu tiên trong đời, nàng cảm thấy thân xác mình quá rẻ mạt và bẩn thỉu, tấm thân mà Bình nâng niu hôn lên từng vùng da thịt mãi không chán trong đêm hợp cẩn. Nàng cần phải gột rửa ngay hơi hướm của tội lỗi trên môi, trên má, trên ngực…
Thy cởi bỏ quần áo và bước vào bồn tắm. Ngửa đầu để dòng nước ấm xối lên mặt hòa lẫn với nước mắt, nàng dùng cả bàn tay chà xát lên môi. Thy xoa xà bông khắp người và kỳ cọ thật lâu. Nàng chà xát mạnh đến nỗi đôi môi bây giờ gần như sưng tấy, và đỏ quạch. Bầu ngực nàng cũng nóng ran vì sự ma sát giữa da thịt và miếng vải lau người. Thy cố giữ tiếng khóc đừng thoát ra khỏi miệng. Đêm khuya, những giọt nước rơi lộp độp trên sàn phòng tắm xen lẫn với tiếng nấc nghe như một điệu nhạc đơn điệu, buồn tênh. Thy đứng tắm như thế lâu lắm…
Vừa bước ra khỏi bồn tắm, chiếc quần lót và xú chiêng màu hồng nằm tênh hênh trên sàn đập vào mắt Thy. Nàng cúi xuống cầm lên, rồi nghĩ sao, Thy nghiến răng ném bộ đồ lót đắt tiền vào thùng rác ở góc phòng. Khoác chiếc áo ngủ lên người, Thy buộc hờ hai tà áo bằng sợi giây trước bụng. Ra đến cửa, Thy đứng tần ngần rồi quay lại và nhét bộ đồ lót sâu xuống đáy thùng rác. Nàng muốn tẩm liệm và chôn vùi một lần lầm lỡ đáng khinh, đoạn tuyệt hẳn với một lần động cỡn yếu hèn.
Thy rón rén leo lên giường. Nàng nhẹ nhàng nằm xuống cạnh Bình. Thy biết chồng đang thức. Nàng khẽ gối đầu lên cánh tay của Bình. Chàng co cánh tay kéo sát Thy vào người. Nương theo thế kéo, Thy áp má nàng vào vùng ngực trần của chồng. Bàn tay Thy vuốt nhẹ má chồng, lần xuống cổ và dừng lại ở vùng ngực trái, chỗ trái tim. Thy để yên bàn tay, nghe tim Bình đập từng nhịp một. Nàng rướn người, thỏ thẻ vào tai chồng:
– Em xin lỗi anh.
Bình vẫn nằm ngửa, mắt nhìn lên trần nhà:
– Không… em nhận xét đúng, chính anh đôi lúc cũng thấy mình cù lần chậm chạp nữa là em.
Một giọt nước mắt rơi xuống vùng ngực trần nhưng Bình lại nghĩ Thy tắm xong chưa lau khô tóc. Hóa ra Bình lại tưởng nàng xin lỗi vì đã chê chàng cù lần. Thy nức nở trong lòng, “em có lỗi với anh nhiều lắm, anh ơi.” Nàng nghẹn ngào:
– Tha lỗi cho em nhé, Bình.
Sợi giây buộc hờ trước bụng đã tuột ra, vạt áo lệch qua một bên, bộ ngực Thy đang cọ xát bên hông làm người chàng nóng ran. Bình vẫn không nói gì, nhưng vòng tay của chàng siết chặt hơn, tim chàng đập dồn dập như lần gặp gỡ lần đầu, hơi thở nóng bỏng của chàng phả vào mặt Thy. Nàng bỗng thấy rạo rực thèm chồng hơn bao giờ. Đêm quyến rũ và nồng cháy với cơn thèm muốn của nàng đang bùng lên như ngọn lửa trước cơn gió mạnh. Lửa tình sẽ đốt cháy rụi một lần dại khờ của Thy và hâm nóng lại tình yêu của hai vợ chồng.
Trước khi vít đầu Bình, kéo sát vào vùng ngực no tròn, căng phồng thèm khát, Thy thoảng nghe tiếng chồng nhẹ như tơ:
“Happy Birthday!”

 

HẢI NGỮ

Advertisement

THÙ CHỒNG

haingu

Tặng Cậu Mợ Nghi, Tasmania, Úc
Để nhớ lại một thời niên thiếu ở QN
.

Năm đó tôi sửa soạn lên lớp đệ Tam. Trong suốt những năm ở bậc trung học, thường thường năm nào cha mẹ tôi cũng bắt đi học hè, nhưng vì lớp đệ Tam được xem là lớp dưỡng sức nên năm đó tôi tha hồ rong chơi trong suốt ba tháng hè mà không phải học hành gì cả. Được gọi là lớp dưỡng sức là vì vừa qua kỳ thi Trung-học (brevet), nghỉ xả hơi chờ sang năm lên lớp đệ Nhị và chuẩn bị thi Tú-tài.
Khoảng giữa thập niên 60, kỳ thi Trung-học được bãi bỏ nên từ đó về sau lớp đệ Tam lại càng nhàn hạ lắm. Đối với tôi, năm học này rất thoải mái vì tất cả chương trình học đều giống như năm đệ Ngũ, chỉ đào sâu và học thêm một vài khái niệm mới. Tôi còn nhớ thầy dạy Toán đứng gân cổ giảng cho chúng tôi hiểu thế nào là “hàng điểm điều hoà” trong giờ Hình-học. Tôi vốn lơ-tơ-mơ về Toán, thấy khó lại càng không muốn tìm hiểu làm gì. Hơn nữa, năm đó thân xác tôi bắt đầu trổ mã, gọi nôm na là dậy thì. Ở cái tuổi dậy thì, có nhiều thứ khác cần chú ý hơn là tập trung tư tưởng vào môn Toán. Tôi biết chăm chút mái tóc hơn là ngồi trau chuốt cho bài bình luận của giờ Việt văn. Và nhất là có những cuốn sách khác quyến rũ hơn những pho sách giáo khoa; đó là tiểu thuyết. Tiểu thuyết có đủ loại để đọc, loại tình cảm, dã sử, trinh thám…v… v, loại nào cũng hấp dẫn cả. Riêng tôi lại mê kiếm hiệp mặc dù đôi khi cũng thích những chuyện tình ướt át. Tôi bắt đầu làm quen với những nhân vật huyền hoặc trong pho tự điển của Kim Dung. Càng đọc càng say mê. Dĩ nhiên, tôi không thể ngang nhiên mở cuốn Anh Hùng Xạ Điêu hoặc cuốn Vườn Thuý để đọc bất cứ lúc nào, mà phải đọc lén. Làm bậc cha mẹ, ai cũng muốn cho con cái theo đuổi việc học để sau này, trước hết kiếm chút tương lai ấm lấy tấm thân, sau nữa cho các bậc sinh thành hãnh diện với láng giềng nên không thể chấp nhận con cái cầm một cuốn sách nào khác hơn là cuốn sách giáo khoa. Tôi làm sao hiểu hết sự cần thiết của việc học hành. Hơn nữa, những nhân vật trong truyện giúp cho những thằng con trai mới lớn như tôi mơ ước được nhiều thứ, cho dù đó chỉ là không tưởng.
Nhà tôi có căn gác lửng, là nơi cha mẹ tôi để riêng cho tôi đèn sách, kỳ vọng thằng con sẽ giật được mảnh bằng Tú-tài làm nở mày nở mặt với xóm giềng. Cái bàn học tôi được kê sát cửa sổ, nhìn sang những dãy nhà san sát, cũng xây theo một kiểu như nhau trong con hẻm nhỏ. Căn gác mở ra một hàng hiên, có dãy ban-công bằng gỗ. Cả hàng hiên được phủ mát bởi những tàng cây rậm rạp của cây sầu-đông mọc bên cạnh nhà. Thời gian lý tưởng nhất trong ngày là lúc không gian đứng im lìm mệt mỏi, thời khắc trôi chầm chậm uể oải của một buổi trưa hè oi bức, có cơn gió mát thổi hiu hiu qua căn gác, đâu đó có tiếng chim hót trộn lẫn với tiếng ve sầu kêu râm ran trên tàng cây, đó là lúc tôi ngồi tựa lưng vào vách gỗ, say mê hàng giờ với những nhân vật không tưởng được nhào nặn tài tình dưới ngòi bút ma thuật của Kim Dung và Quỳnh Dao.
Vào một buổi trưa, cũng như bao buổi trưa khác, tôi leo lên căn gác, lén cầm theo cuốn Anh Hùng Xạ Điêu, ngồi tựa lưng vào vách, nghiền ngẫm đoạn Quách Tĩnh gặp Hoàng Dung, say mê đến nỗi mà có tiếng gọi bên tai mà vẫn không hay. Tiếng gọi khá to nổi lên giữa buổi trưa hè yên ắng làm tôi giật mình gập vội cuốn sách nhìn lên.
– Em chăm học quá há. Hè rồi mà vẫn còn học hả em?
Tiếng nói phát xuất từ căn gác nhà bên cạnh. Tôi quay đầu và nhận ra một thiếu nữ đang chống tay vào ban-công, mái tóc thật dài, nhìn tôi cười cười. Tôi nghe loáng thoáng học… học gì đó và chợt nhớ ra trong tay đang cầm cuốn sách kiếm hiệp. Mặt đỏ bừng, tôi cười gượng:
– Không… không, em… em đang đọc truyện.
Người thiếu nữ vẫn hồn nhiên:
– Truyện gì vậy? Cho chị xem được không?
Tôi đứng lên, giấu cuốn sách sau lưng:
– Ồ! Truyện… truyện này chị không thích đâu.
Người thiếu nữ đi dọc theo ban-công tiến dần về phía tôi. Khuôn mặt chị hiện ra rõ ràng trong tầm mắt và tôi chợt nhận ra người thiếu nữ có một khuôn mặt thật khả ái, hiền thục. Tính ra đến lúc đó, tôi đã đọc không biết bao nhiêu pho sách, đã thấy những tác giả tả các nhân vật trong truyện như thế nào, trong đó có những nhân vật nữ. Nào là khuôn mặt trái xoan, mũi dọc dừa, mắt bồ câu, đôi mày ngài. Cứ nhắm mắt lại là hình dung được một mẫu người lý tưởng và tôi đã ươm biết bao là mơ ước. Tuổi mới lớn chỉ dám mơ mộng thôi chứ chưa hề nghĩ đến chuyện đối diện với một người con gái. Vậy mà giờ đây có một thiếu nữ đẹp như người trong tranh đang tiến lại gần tôi, hỏi han thì làm sao tôi không cuống lên được. Tôi gần như á khẩu, miệng lắp bắp nói không thành tiếng. May mà có cuốn sách tôi đang cầm sau lưng nên tay chân đỡ luống cuống. Cần nói thêm là bất cứ thằng con trai nào trong lứa tuổi dậy thì đều có giọng nói khàn đục, khuôn mặt đùn lên đám mụn như những cù lao nhỏ rải đều trên bờ vịnh. Khuôn mặt như thế vốn đã khó coi, còn tôi lúc đó chắc càng khó coi hơn nữa vì lúng túng, ngượng ngùng, tay chân thừa thãi. Cũng may, cử chỉ thân thiện và giọng nói dịu dàng của người thiếu nữ giúp tôi lấy lại bình tĩnh thật nhiều. Tiếng người thiếu nữ:
– Thì cứ đưa chị xem thử!
Tôi đành đưa cuốn sách ra:
– Truyện kiếm hiệp mà, chị đâu thích những loại này.
Nụ cười của người thiếu nữ thật tươi:
– Kiếm hiệp hả! Anh Kiệt thích lắm đó.
Tôi thắc mắc:
– Ủa! Chị nói anh Kiệt nào?
– À! Chị quên chưa giới thiệu với em. Chị là Hảo, còn anh Kiệt là chồng chị. Thế còn em?
– Em hả? Hưng. Anh chị mới dọn đến hả?
– Ừ! Anh chị mới thuê căn gác này được mấy ngày.
– Thảo nào, em lên đây đọc truyện hoài mà đâu thấy ai. Lúc nãy, chị hỏi làm em giật mình.
Chị Hảo nghiêng đầu, nheo nheo đôi mắt:
– Lén lên đây đọc truyện phải không?
Tôi làm lơ không trả lời câu hỏi của chị:
– Thế anh Kiệt đâu chị?
Chị Hảo nghiêng đầu hất mái tóc ra phía sau. Tôi chợt để ý đến suối tóc óng ả của chị chảy quá nửa lưng. Phải gọi là suối tóc vì một màu đen nhung thuần chất, mượt và mềm mại như giòng nước uốn mình qua khe. Mái tóc sóng sánh mỗi khi chị hất hất đầu sang bên. Buổi trưa hè, có cơn gió nhẹ thổi bay bay mái tóc huyền làm khung cảnh trở nên thơ mộng. Thuở đó, tôi chưa biết định nghĩa thế nào là đẹp. Tất cả những lối tả ví von của mấy ông nhà văn tôi cũng chưa hình dung được nhưng khi đối diện với khuôn mặt của chị Hảo chỉ cách hơn hai sải tay, tôi đã mường tượng được đây phải là một khuôn mẫu để diễn tả nhan sắc. Tôi không biết khuôn mặt trái xoan như thế nào, cũng không biết mũi dọc dừa ra làm sao, lại càng không biết thế nào là đôi mắt bồ câu – mặc dù mắt mấy con bồ câu nhà tôi nuôi nhìn lờ đờ chứ chẳng thấy gì hấp dẫn – vậy mà buổi trưa hôm đó tôi thấy khuôn mặt của chị Hảo có đủ tất cả những nét tuyệt vời mà trí óc tôi có thể tưởng tượng được. Cả người chị toát ra một sức thu hút kỳ lạ, từ giọng nói đến dáng người, làm tôi cứ ngỡ mình là một thư sinh trong truyện Liêu-trai huyền bí (đúng là lậm tiểu thuyết). Không biết có phải những đốm nắng nhảy múa lung linh trên khuôn mặt chị làm tăng thêm vẻ huyền hoặc hay không nhưng người tôi như ngây ra khi đứng trước dáng người thanh tú của chị. Một vẻ đẹp dịu dàng, tự nhiên không chút son phấn, hiền hoà dễ làm mềm lòng người đối diện.
Nhận xét của tôi là nhận xét của một thằng con trai mới lớn, bắt đầu biết mộng mơ một khuôn mặt, biết rung cảm trước một sắc đẹp và lòng thấy bồi hồi khi trò chuyện với một người khác phái. Đột nhiên tôi buột miệng:
– Chị đẹp quá!
– Chà! Biết nịnh đầm nữa há! Sao em nịnh chị giống anh Kiệt vậy?
Tôi đỏ mặt:
– Không! Em nói thật mà, chị đẹp thì em nói đẹp chớ biết nịnh ra làm sao đâu!
Chị nguýt tôi. Ôi chao ôi! Cái nguýt của chị làm tôi sướng lịm cả người.
– Đàn ông con trai đều giống nhau ở điểm này. Cứ nịnh mà không biết ngượng.
Tôi đánh trống lảng:
– Anh Kiệt đi làm hả chị?
Chị lườm tôi một cái thật dài:
– Hoá ra chị trả lời rồi mà em có nghe gì đâu! Đã bảo là anh Kiệt đóng quân ở Phù-cát, cuối tuần về thăm chị rồi lại đi ngay.
Tôi nghe nói có một căn cứ không quân ở Phù-cát, một tỉnh lỵ cách thành phố Qui-nhơn – nơi tôi đang lớn lên – khoảng 30 cây số về hướng tây bắc. Đây là căn cứ tương đối lớn, gồm đủ loại máy bay hổ trợ cho toàn Quân khu 2. Loại vận tải cơ C-130 nối liền đường bay huyết mạch chuyển lính và quân trang quân dụng từ Biên-hoà tiếp ứng cho cuộc chiến đang leo thang dữ dội tại miền Trung. Tôi hỏi chị:
– Thế anh Kiệt là phi công hả chị?
– Ừ! Anh ấy lái trực thăng.
Tôi làm ra vẻ hiểu biết:
– Sao chị không dọn ra ở Phù-cát với anh ấy luôn? Ở đây mỗi tuần gặp nhau chỉ có một lần, nhớ chết!
Chị Hảo cười vui vẻ:
– Em nói hay quá! Nhưng em biết gì mà nhung với nhớ. Coi bộ em lậm tiểu thuyết nhiều lắm nha!…
Thấy tôi mặt đỏ lên vì ngượng (không biết tôi đỏ mặt đến mấy lần rồi!), chị đưa tay ra đập đập trong không khí:
– Chị nói đùa cho vui! Từ nãy giờ chị cứ chọc em hoài, em có giận chị không?
Đứng nói chuyện với chị Hảo là một vinh dự đối với thằng con trai mười lăm tuổi như tôi. Giá chị cứ mắng nhiếc tôi mà vẫn được đứng nói chuyện với chị tôi vẫn còn cảm thấy thú vị nữa là vài ba lời chọc ghẹo vô thưởng vô phạt từ nãy giờ. Tôi nói thật với lòng mình:
– Chị có chưởi em vẫn còn được nữa là chọc. Chị đừng lo, em lì lắm.
Chị Hảo lại lườm tôi:
– Chà! Em khéo nói quá! Em lớn lên chắc cũng không vừa gì đâu! Mấy cô gái rồi chết hết với em. Càng nói chuyện chị càng thấy em giống tính anh Kiệt ghê?
Từ nãy giờ chị Hảo nhắc đến tên anh Kiệt đến mấy lần, lần nào cũng so sánh tôi với anh. Khi nhắc đến tên chồng, đôi mắt long lanh của chị ánh lên chút kiêu hãnh, khuôn mặt chị rạng rỡ, giọng nói của chị đầy vẻ trìu mến, thiết tha. Chẳng biết tính tôi có giống anh lắm không nhưng tôi chợt nhận ra chị đang nâng niu một tình yêu đậm đà với người chồng mà tôi chỉ mới nghe giới thiệu. Trong trí óc non nớt của tôi, tình yêu là một trạng thái tình cảm không tưởng, hầu như không có thật. Đọc nhiều đoạn tiểu thuyết diễn tả tình yêu như một loại trái cấm, ăn vào sẽ mắc nghẹn ở cuống họng, tôi cho đó là cường điệu. Còn mẹ tôi, ngay từ khi tôi còn nhỏ, đã ngăn cấm những chuyện liên quan đến phụ nữ chứ đừng nói đến chuyện yêu đương. Những gì có dính dáng đến đàn bà con gái mẹ tôi đều cho đó là điều cấm kỵ. Tôi còn nhớ những lần chạy chơi rượt đuổi mấy đứa bạn chui qua hàng dây phơi quần áo; trên đó có phơi mấy chiếc quần lãnh đen đàn bà và tôi bị gọi về ăn một trận đòn đích đáng kèm theo lời giải thích là muốn nên người thì đừng bao giờ chui qua quần đàn bà. Mẹ tôi còn dí ngón tay vào trán tôi phán rằng việc học của tôi sẽ chẳng đi đến đâu chỉ vì đầu óc đã bị ngu muội nhiều lắm rồi. Không biết đầu óc tôi lúc đó có bị lú lẫn hay chưa nhưng tôi vẫn còn đủ trí khôn suy xét và hiểu rằng mẹ tôi bày chuyện vô lý. Làm gì có chuyện chạy chui qua mấy cái quần đàn bà mà đầu óc lại ngu muội đi! Nghe như chuyện thần thoại. Mãi đến khi ngồi cắn bút vì mấy bài toán động tử ở lớp nhất tôi mới nhận thấy lời răn đe của mẹ tôi là đúng. Quả thật đầu óc tôi đặc sệt, chậm hiểu về toán học không thể tưởng được. Nhiều lúc không tìm được đáp số của bài toán, tôi tự vả vào má trách mình quá ham chơi chui qua mấy cái quần để giờ này ngồi nhăn mày bóp trán vì mấy bài toán. Theo lời mẹ tôi thì chui qua một lần đã thấy dốt rồi, còn tôi chui qua chui lại suốt mấy năm trường thì đến óc bác học cũng còn lú nữa là cái đầu thiếu chất xám của tôi. Lớn lên một chút, mẹ tôi lại càng cấm tiệt những gì dính dáng đến đàn bà con gái. Mẹ tôi răn đe rằng lớn lên là để học, dính vào chuyện yêu đương sớm chỉ có mụ người đi, người sẽ đờ đẫn ra như uống phải sữa người chết. Càng cấm tôi càng háo hức muốn nếm thử và dĩ nhiên chưa bao giờ có cơ hội. Đọc trong tiểu thuyết có những nhân vật chết lên chết xuống chỉ vì yêu, tôi chợt nghĩ sao dại dột thế, yêu nhau không được thì kiếm người khác, tội gì mà phải chuốc lấy cái khổ vào thân! Tôi cũng thèm muốn được yêu nhưng chắc chắn tôi sẽ không bao giờ phải lụy vì tình. Đành rằng tình yêu cần thiết thật nhưng đâu đến nỗi phải hy sinh cả cuộc đời chỉ vì hai chữ tình yêu. Cho đến khi gặp chị Hảo, nghe chị nhắc đến tên anh Kiệt với những lời lẽ trân quý, tôi chợt nhận ra rằng tiểu thuyết và cuộc đời có lẽ giống nhau ở điểm này; quả thật trên đời có những tình yêu bất diệt, cho dù phải đánh đổi ngay chính mạng sống mình để gìn giữ nó. Nói khác đi, cuộc đời sẽ không còn ý nghĩa nữa nếu để vuột mất một mối tình chân như thế.
Đó là lần đầu tiên tôi quen biết chị Hảo và dần dần biết thêm nhiều chi tiết về cuộc tình của chị. Những ngày kế tiếp, tôi không dám lên căn gác đọc truyện vì ngại chị Hảo bắt gặp. Tôi bỗng muốn chị nghĩ rằng tôi là thằng chăm học, lâu lâu đọc vớ vẩn vài ba cuốn tiểu thuyết, thế thôi. Muốn thế nhưng lại gây thế kẹt cho tôi là không còn chỗ nào lý tưởng để đọc lén cả. Chui qua nhà thằng bạn thì cũng không xong vì cha mẹ nó có cùng một mơ uớc về con cái như cha mẹ tôi. Hơn nữa, thằng bạn đọc truyện khổ sở hơn tôi nhiều. Nó lận cuốn sách trong người rồi chui vào cầu tiêu ngồi đọc. Đọc mê mẩn đến độ nó ngồi trong nhà cầu cả tiếng đồng hồ mà vẫn không hay, mãi đến khi bố nó muốn đi tiểu, gõ cửa mới lôi nó ra khỏi thế giới đầy những nhân vật mộng mị. Thế mà cha mẹ lại lo lắng sức khoẻ cho thằng con chỉ vì sợ nó mắc bệnh táo bón. Không còn kiếm được chỗ nào khác, tôi đành quay trở lại căn gác thả hồn theo những trang sách…
Nghỉ hè, ngày dài tháng rộng, tôi tha hồ đọc truyện và bước sang căn gác thăm chị Hảo. Thật sự, tôi không dám đường đột gõ cửa nhà chị nhưng vào một bữa trưa, khoảng hơn hai tuần sau ngày gặp gỡ, chị tất tả chạy lên gác tìm tôi, trong khi tôi đang chúi mũi vào cuốn tiểu thuyết của Quỳnh Dao. Chị vẫy tay:
– Này Hưng, chiều sang nhà chị ăn cơm nghe! Anh Kiệt về.
Tôi gấp sách, ngửng đầu lên:
– Vậy hả…,
Rồi tôi ngập ngừng:
– …Có sao không?
Chị Hảo lại đập tay vào không khí, giọng thân mật:
– Sao là sao? Anh em trong nhà cả chứ xa lạ gì. Để rồi xem, em sẽ mến anh Kiệt liền. Chiều qua chị nha.
Mặc dù gật đầu nhưng trong lòng tôi lại muốn từ chối. Từ chối là vì có cái gì vương vướng trong tâm tư. Anh Kiệt chăng?… hình như vậy. Trong suốt hai tuần, mỗi lần gặp tôi, chị đều say sưa kể chuyện về anh Kiệt; nào là chuyện quen nhau và yêu nhau, đã có những lúc giận nhau, rồi những tật xấu nho nhỏ của anh mà theo lời chị – bây giờ chị đã đâm nghiện, không có là thấy nhớ nhớ thế nào ấy. Khi sôi nổi kể chuyện, chị Hảo miên man và đắm chìm vào một thế giới riêng tư mà trong đó chỉ có chị và anh Kiệt, ngụp lặn trong tình yêu nồng nàn say đắm. Có lúc chị say sưa kể chuyện gần như độc thoại và không còn biết sự hiện diện của tôi nữa. Cứ nghe chị Hảo hễ một chút là nhắc đến tên anh Kiệt khiến tôi bỗng… ghen thầm với anh, một người đàn ông mà tôi chưa hề biết mặt. Không biết người đàn ông đó có gì khác biệt để chị Hảo yêu thương nồng thắm đến thế? Trong thâm tâm tôi không muốn gặp anh Kiệt, một người đàn ông hơn hẳn tôi về mọi mặt, nhất là đã chiếm trọn trái tim của chị Hảo, một người đàn bà mà đối với tôi gần như tuyệt hảo. Chỉ mới biết chị có hai tuần thế mà tôi đã đặt chị vào một vị trí trang trọng nhất trong tâm tư và có lúc tôi đã mơ nghĩ đến sau này phải có một người yêu rập theo khuôn mẫu của chị. Tình cảm của tôi dành cho chị Hảo đặc biệt đến thế nên tôi phải nhận lời và vì tôi không muốn thấy chị buồn. Đời của chị phải là một chuỗi ngày kết hợp những niềm vui. Tôi nghĩ chị sinh ra là để tận hưởng hạnh phúc chứ không phải để u sầu. Chỉ mới tưởng tượng đến khuôn mặt ủ dột của chị tôi đã cảm thấy xốn xang trong lòng chứ đừng nói đến thấy những giọt nước mắt rơi trên gò má đỏ hồng tự nhiên của chị. Tôi còn bị mê hoặc bởi giọng nói của chị trong veo như sương mai đọng trên lá non và nghe du dương như tiếng chim hót mỗi sáng trên đầu ngọn cây. Có lúc tôi đã ngồi lặng yên hàng giờ để tưởng tượng đến khuôn mặt của chị và tin chắc rằng những lời nói trầm bổng phát xuất từ đôi môi chúm chím đó có khả năng sai khiến tôi, thằng con trai mới lớn chớm biết mộng mơ. Ôi! Nếu không một ai có thể từ chối lời mời mang nhiều âm hưởng liêu trai của chị Hảo, thì tôi làm sao có thể từ chối được.
Chiều hôm đó, tôi lững thững bước sang căn gác chị Hảo. Vừa đẩy cửa bước vào, một mùi xào nấu thơm lừng xông thốc vào mũi làm tôi cồn cào cả bụng. Đồ đạc được bày biện sơ sài nhưng trông thật ngăn nắp, gọn gàng. Căn gác khá rộng, gần như được chia làm hai bên. Bên phải tôi là căn bếp, gồm một tủ đựng thức ăn, nồi niêu xoong chảo treo hết trên vách. Hai bếp dầu hôi đỏ rực lửa, đang ra sức thúc chín thức ăn. Ở góc bếp có chắn hai tấm tôn nhỏ bao quanh đề phòng lửa bén vào vách gỗ. Chị Hảo ngồi trên một cái đòn, quay lưng về phía tôi, bàn tay cầm đũa thoăn thoắt đảo qua đảo lại trong nồi. Mái tóc được búi lên cao, chị mải làm bếp nên không biết tôi đang đứng ở ngưỡng cửa căn gác. Ngay sát chỗ tôi đứng là một chiếc bàn nhỏ, bốn chiếc ghế xếp bằng sắt dùng để ăn cơm. Nhìn sang bên phải, tôi thấy một chiếc bàn gỗ lớn hơn, trông khá chắc chắn nhờ bốn cái chân to bản, chung quanh có sáu chiếc ghế đặt ngay ngắn. Xa hơn là tấm màn gió kéo ngang nửa chiều dài của căn gác rồi chạy thẳng sâu vào phía trong làm thành hình thước thợ. Mặc dù không thấy gì ở phía sau tấm màn nhưng tôi biết chắc là cái giường ngủ, tổ ấm của vợ chồng chị Hảo.
Tôi cứ đứng tần ngần ở đó mà không biết làm gì. Nhìn chị bận rộn với công việc bếp núc, tôi nửa muốn gọi chị Hảo, nửa muốn không. Đang ngơ ngơ ngáo ngáo, tôi giật mình khi nghe tiếng từ phía sau:
– Ủa! Sao đứng ngoài này vậy. À! Hưng phải không?
Quay lại, tôi bắt gặp một thanh niên to cao mặc áo thun trắng, quần đùi, mái tóc hớt cao dang nhìn tôi cười cười. Đoán ngay là anh Kiệt, tôi nép người sang bên:
– Dạ phải. Anh là anh Kiệt?
Anh gật đầu nói vào nhà chơi đi em, đến lâu chưa?… rồi đẩy đẩy tôi bước vào nhà. Nghe tiếng động, chị Hảo đang làm cơm quay lại:
– Hưng hả? Vào đây em.
Anh Kiệt đi ra phía sau bức màn:
– Ngồi đi em. Anh ra liền bay giờ.
Khuôn mặt chị Hảo đỏ hồng vì bếp lửa:
– Chờ chị nghe. Cơm sắp xong rồi. Còn món xào nữa là mình ăn cơm.
Tôi rón rén ngồi xuống ghế, hai tay xếp gọn trên đùi. Giọng anh Kiệt ồn ào:
– Uống gì không em? Nước chanh nhé?
Tôi rụt rè:
– Thôi… anh cho em nước lạnh cũng được.
Tiếng chị Hảo từ phía bếp vọng lại:
– Cứ tự nhiên nghe Hưng. Sắp xong rồi đây. Anh em ngồi nói chuyện một chút là có cơm liền.
Thấy ai cũng chú ý săn sóc, tôi càng lúng túng. Có lẽ tôi lúng túng với anh Kiệt thì đúng hơn. Đó là một thanh niên cao lớn, khoẻ mạnh, giọng nói sang sảng. Đôi lông mày rậm chạy gần suốt chiều dài của vầng trán cao và rộng. Mắt to đen, sống mũi thẳng, miệng khá rộng, trên môi lúc nào cũng gần như nở nụ cười. Nhìn chung, khuôn mặt anh dễ nhìn nếu không nói là đẹp trai. Điểm đặc biệt đập vào mắt tôi là cặp lông mày đen rậm chạy nhạt dần về phía sống mũi, gần đụng vào nhau, làm cho khuôn mặt anh trở nên nghiêm nghị hơn. Mới nhìn thoáng, trông như một vệt đen chia hẳn khuôn mặt ra hai phần không đồng đều. Đọc truyện Tam quốc, tôi mường tượng đến cặp lông mày của Quan Công, một dũng sĩ dưới trướng Lưu Bị. Dáng anh Kiệt có lẽ cũng oai hùng như viên tướng chặn đường rút của Tào Tháo ở Hoa Dung, suýt chặt đầu tên thừa tướng làm đảo lộn cái thế chân vạc thời Tam quốc. Cái vệt đen ngăn chia khuôn mặt trở thành nét đặc thù của anh Kiệt. Người ta khó quên được một khuôn mặt như thế. Mãi về sau, khi lớn lên, nhờ đọc ít chút sách tướng theo kinh nghiệm của người xưa, tôi mới chợt hiểu ra định mệnh đã gắn liền với cái vệt đen trên khuôn mặt điển trai của anh.
Anh Kiệt thân mật hỏi tôi nhiều chuyện; đại khái học hành ra sao rồi, lớp mấy, có bồ gì chưa…v..v. Đang bưng đĩa thịt đặt lên bàn, chị Hảo xua tay:
– Trời ơi, cái anh này, hỏi gì mà kỳ vậy. Hưng nó còn nhỏ biết gì mà bồ bịch.
Rồi quay sang tôi:
– Phải không em?
Lắc đầu cho câu hỏi của anh Kiệt và gật đầu cho câu hỏi của chị Hảo, tôi ngồi im lặng không biết nên trả lời ai trước. Anh Kiệt nhái câu nói của chị Hảo:
– Trời ơi, cái “chị” này, chuyện đàn ông con trai chúng tôi “chị” xía vào làm gì.
Chị Hảo làm mặt xấu dọa chồng:
– À! dám cãi lại hả, “chị” lại không cho ăn cơm bi giờ.
Nhìn hai vợ chồng cười đùa tự nhiên, tôi chỉ biết gượng cười. Họ pha trò với nhau xem như không có tôi đang ngồi trước mặt. Tôi bỗng thấy mình thừa thãi, tay chân lại lúng túng như lần chị Hảo bắt gặp ngồi đọc truyện. Có điều tôi không ngờ nếp sống gia đình của chị Hảo lại có những tiếng cười dòn tan đến thế.
Cuối cùng, bữa cơm chiều được bày biện ra bàn. Một đĩa thịt kho với trứng, món đậu chiên và tô canh chua bốc khói. Anh Kiệt ăn rất ngon miệng, còn chị Hảo luôn tay gắp thức ăn cho anh Kiệt và tôi. Chị cứ luôn miệng dục tôi ăn, đừng làm khách. Anh Kiệt ồm oàm:
– Ăn đi nghe Hưng, con trai phải ăn mạnh vào cho to con mà lái trực thăng như anh nè.
Chị Hảo bĩu môi:
– Thôi đi ông tướng. Cứ làm như lái trực thăng là số một không bằng.
Và vội miếng cơm, anh cười cười:
– Em học lớp đệ Tam rồi phải không? Sang năm là thi Tú-tài rồi còn gì. Thế sau khi đậu em tính gì chưa?
Tôi bỏ bát cơm xuống bàn:
– Chưa anh, mà em cũng không biết tính gì nữa. Học thì học vậy thôi chứ em chưa biết phải làm gì. Mà có chắc đậu không nữa. Nếu không thì lại phải đi lính như mọi người.
– Gắng lên, cố mà đậu. Giật cho được mảng bằng rồi xin đi bay như anh để cho biết cái thú đi mây về gió…
Anh Kiệt ngửa người ra sau, giọng sảng khoái:
– …mà không dễ đâu nghe. Để anh nói cho em hiểu. Trước hết, muốn bay phải có Tú tài, phải to con cao ráo và điều quan trọng nhất là… phải đẹp trai nữa.
Mấy chữ cuối, anh nheo mắt chọc chị Hảo làm chị lúng búng suýt bị sặc. Chị nuốt vội miếng cơm, đưa tay che lấy miệng:
– Chời ơi! Xuống đây mà xem chồng tôi khen mèo dài đuôi nè.
Mặt tôi đỏ bừng khi nghe nói đến đẹp trai. Lứa tuổi trổ mã của tôi hiện rõ trên khuôn mặt đầy mụn, chưa kể đến những vết nám đen mọc lỗ chỗ kết quả của nhiều lần đứng trước gương nặn mụn non. Khuôn mặt như thế chỉ chọc con nít khóc đêm chứ làm sao đẹp trai được. Bởi vậy tôi đâm ngượng với chị Hảo. Khi thấy tôi đỏ mặt chị thật tinh ý hiểu ngay và đỡ lời:
– Để rồi xem, Hưng học bay đi em nhưng đừng thèm lái trực thăng nữa. Cỡ em lái A37 mới xứng.
Tôi cũng chẳng nói gì để phụ họa. Chuyện tương lai đối với tôi lúc đó quá xa vời, biết ra sao mà bàn. Bởi vậy tôi chỉ cười im lặng và cơm. Anh Kiệt rất niềm nở, xem tôi như một người em thật nhưng tôi lại không cảm nhận được hoàn toàn sự hiếu khách của anh. Đây là lần đầu tiên tôi gặp anh chứ không như với chị Hảo, chị em đã nói chuyện cả mấy tuần qua nên đã thân quen. Hơn nữa, anh Kiệt hay pha trò chọc chị Hảo cười, gần như không cần biết sự hiện diện của tôi. Thấy anh âu yếm cười giỡn với chị Hảo, tôi bực tức… ghen thầm. Trong thâm tâm, tôi bỗng có đôi chút ác cảm với anh Kiệt.
Kể từ hôm đó, tôi thường qua thăm chị Hảo, nhất là những ngày thiếu vắng anh Kiệt. Chị em đã thân thiện hơn nhiều lắm. Mỗi lần được ngồi nói chuyện với chị là một hân hạnh mà tôi không bao giờ khước từ. Chị em khi gặp nhau nói đủ chuyện, từ chuyện trường, chuyện học, chuyện mấy thằng bạn dở dở ương ương. Thế mà chị ngồi nghe chuyện chăm chú. Bù lại, chị kể chuyện ngày xưa đi học, chuyện anh Kiệt đi bay về phép gặp chị, chuyện yêu nhau rồi lấy nhau. Theo lời chị, đang học dở dang ở Văn-khoa thì lấy chồng. Khi anh Kiệt đổi ra căn cứ Phù cát chị theo chân chồng cho phải đạo. Thuyền theo lái gái theo chồng, chị Hảo nói vậy. Cũng theo lời chị, nếu chị ở lại Sài-gòn với gia đình thì vợ chồng ít gặp nhau, trừ những ngày nghỉ phép thường niên. Còn nếu chị thuê nhà ở Qui-nhơn thì cứ vài tuần anh Kiệt lái xe về, vợ chồng lại có nhau. Cái gì cũng không bằng ở gần, chị bảo thế. Chị thú nhận những ngày vắng anh Kiệt như thế này, chị nhớ anh quay quắt và nhiều khi nỗi nhớ nhung hành hạ, chỉ biết ngồi thở vắn thở dài chứ không tha thiết một chuyện gì. Thời gian khắc nghiệt vắng chồng trôi qua lừ đừ, chậm rãi như muốn chọc tức kéo dài khoảng không gian cô đơn để chị ngồi ngẩn ngơ bên song cửa. Tôi không mường tượng được cái nhớ nhung da diết của chị và cho rằng đàn bà thường chuyện bé xé ra to. Tôi lại lẩn thẩn nghĩ hay là chị Hảo biết tôi “yêu” chị nên cố ý kể chuyện nhớ nhung anh Kiệt chọc tức tôi. Nếu thế thì chị đã thành công vì rõ ràng “tình địch” hơn hẳn tôi về mọi mặt, kể cả bằng cấp, sức vóc, đẹp trai và nhất là hình ảnh của “hắn” chiếm trọn trái tim của chị. Không biết còn một góc nhỏ đâu đó trong trái tim chị Hảo dành cho tôi hay không? Chị kể những đêm quỳ gối nguyện cầu Thượng Đế gìn giữ chồng và mong đất nước sớm chấm dứt chiến tranh để những chinh phụ như chị đếm thêm những năm hạnh phúc trên bàn tay. Em có thấy ước mơ tầm thường không, chị đặt tay lên vai tôi hỏi. Đến lúc đó tôi lại cảm thấy chị thật tội nghiệp và chỉ mong ngày mai anh Kiệt về ngay với chị để đôi mắt chị Hảo sáng ngời niềm vui, để nghe lại giọng nói hớn hở và tiếng cười dòn tan nở rộ trên căn gác nhỏ. Chị Hảo thở dài nói chị rất hiểu vai trò của người vợ trong thời chinh chiến, nhất là khi làm vợ lính. Chị tâm sự:
– Em biết không, lấy chồng lính là chấp nhận thương đau. Chị có người bạn, mới lấy nhau được vài tháng đã trở thành goá phụ. Con bạn chị mới 17 tuổi, vậy mà đã mang tiếng một đời chồng, em thấy có tội không. Nhìn nó mà chị khóc hết nước mắt. Mà tại duyên số cả em ơi, chị cố tránh mà vẫn vướng phải nợ lấy chồng lính. Khi yêu nhau thì phải chấp nhận tất cả. Chị bằng lòng đánh đổi cả cuộc đời để chỉ sống với người mình yêu vài tháng, may mắn hơn được vài năm. Chị lấy anh Kiệt thế đã được hơn hai năm rồi, cho nên những ngày tháng bây giờ vẫn còn có nhau là ơn Trời Phật ban. Chị không mong muốn gì hơn.
Để khuây khỏa những ngày thiếu vắng chồng, chị Hảo xin dạy lớp mẫu giáo ở một trường tư thục Công giáo. Chị yêu con nít và rất mong có một đứa con với anh Kiệt. Nhưng đi phép thất thường như thế này thì không biết khi nào chị mới được toại nguyện. Tôi chán con nít, nuôi nấng khổ cực chứ sung sướng gì. Cứ nhìn mẹ tôi nuôi mấy đứa em thì hiểu ngay đó là một nỗi khổ. Những gì mong ước của chị Hảo đều là ước mong của tôi vì thế tôi lại cầu nguyện chị sớm có con, để bồng bế cho bõ những lần chép miệng thở dài. Vài ba tuần, anh Kiệt lại về. Tôi lại sang thăm và trong tim lại nhói đau khi nhìn thấy cử chỉ săn sóc âu yếm của anh. Cứ thế, cuộc sống đầy ắp tình yêu nồng cháy của chị Hảo trôi đi lặng lẽ, ba tháng hè của tôi cũng chập chờn biến mau theo ngày tháng.
Mùa hè tuổi dậy thì năm đó mang nhiều kỷ niệm đáng yêu và sự quen biết chị Hảo là kỷ niệm đáng yêu nhất. Trở lại trường, tôi hãnh diện kể lại câu chuyện quen biết chị Hảo, thêm thắt vào đó một vài câu đối thoại tưởng tượng, làm đám bạn há hốc miệng nghe cứ như chuyện thần thoại. Câu chuyện quen chị Hảo đúng ra kể lại chưa đầy năm phút, thế mà tôi tán rộng ra đến gần nửa tiếng, vậy mà mấy thằng bạn cứ ngồi đờ ra nghe chuyện mê mẩn. Đến đoạn diễn tả nhan sắc của chị Hảo, tôi phun ra những từ ngữ đẹp nhất, duyên dáng nhất (học lỏm trong tiểu thuyết) và dĩ nhiên cả bọn nhao nhao đòi leo lên căn gác nhà tôi để xem tận mắt. Có thằng đi nước cờ cao, bĩu môi bảo rằng tôi nói dóc, làm gì có người đẹp như mày kể, có thấy tao mới tin. Tôi phất tay từ chối, nói không cần chúng mày kiểm chứng, tin hay không tin thì tuỳ. Thâm tâm tôi không muốn chị Hảo quen ai ngoài… tôi cả; anh Kiệt là chồng thì không kể, còn ngoài ra chị phải là thần tượng của riêng tôi, một mình tôi thôi. Thì thằng con trai mới lớn nào chẳng ích kỷ như tôi, nhìn đời qua tấm giấy kiếng màu hồng và trong đó tình yêu phải tuyệt đối như những lần hiện ra trong giấc mơ.
Một buổi tối rảnh rỗi, tôi bước chân sang căn gác thăm chị Hảo. Cả tuần bận học thi Tam Cá Nguyệt nên tôi phải bế môn tỏa cảng ôn bài (thì xem tiểu thuyết cũng có lúc, tôi cũng biết lo lắm chứ!), môn cuối cùng vừa thi xong lúc chiều, thế là nhẹ gánh tang bồng, tối nay tha hồ ngồi chuyện trò với chị Hảo. Trời tối mù, bước lên cầu thang dẫn lên căn gác tôi vấp đến mấy lần. Căn gác đêm nay yên ắng lạ thường, tôi gõ nhẹ lên cánh cửa, miệng gọi chị Hảo ơi. Không một tiếng trả lời. Vô lý chị ra Phù-cát thăm anh Kiệt, thường thường khi đi chị hay dặn tôi trông coi nhà dùm chị. Chưa bao giờ chị đi mà quên không nói với tôi một tiếng. Ngày hôm qua tôi còn thấy chị đi chợ về kia mà nhưng sao bây giờ vắng lặng như tờ. Căn gác tối mịt, loáng thoáng có ánh đèn mờ hắt ra từ kẽ hở bức vách. Tôi gọi tên chị Hảo lần nữa, lần này tôi nghe tiếng khóc thút thít vẳng lên đâu đó. Bỗng nhiên tóc tôi dựng đứng như lông nhím. Bóng tối phủ chụp lên tôi đe dọa, tiếng lá cây sầu đông xào xạc trong đêm nghe như ai đang kể lể thở than, và tiếng khóc nỉ non vang lên từ cõi u linh nghe thật não nùng ai oán. Tôi rùng mình. Tôi gọi chị Hảo to hơn và lần này tôi nhận ra tiếng khóc phát xuất từ bên trong. Tôi đẩy nhẹ cửa bước vào.
Căn phòng tối hẳn ở nửa căn bếp, bên phía bàn ăn khoảng ánh sáng lờ mờ phát ra từ ngọn đèn néon trắng đục và tôi thấy chị Hảo ngồi yên như một pho tượng. Mái tóc che nửa khuôn mặt, cằm tựa vào đôi tay chắp lại như nguyện xin. Khi bước đến gần, tôi nhận thấy trên đôi tay chị treo lủng lẳng sợi dây và cuối sợi là một tấm thẻ bài đong đưa theo tiếng nấc. Tiếng khóc nhỏ nhẹ nghe như một lời than van, đầy vẻ ẩn nhẫn, chịu đựng. Hình như chị đang cố nhận chìm nỗi đau khổ xuống tận đáy lòng. Một giọt nước mắt lăn trên gò má, rơi rụng trên tờ giấy đặt trên bàn có ghi hàng chữ. Tôi đoán được phần nào câu chuyện. Nỗi lo sợ của người chinh phụ về một ngày tiễn đưa chồng đến mộ huyệt đã bị định mệnh ác độc âm thầm chọn lựa. Định mệnh hôm nay đã chọn chị – trong số muôn ngàn người vợ chinh phu – để chít khăn tang và khoác vội tấm vải sô lên người. Chị ngồi đó với tiếng nấc, đôi mắt nhìn xuống nỗi đau khổ trải dài trên trang giấy mà tôi đoán có lẽ là lá thư anh Kiệt viết cho chị. Một kỷ vật chăng? hoặc lá thư viết xong chưa gửi đi thì tử thần đổ chụp lên số mạng? Tôi đang đứng trước mặt chị mà chị không hề biết sự hiện diện của tôi. Chị đắm chìm vào một quá khứ như cố níu giữ hình bóng người chồng mà giờ đây đã cách xa diệu vợi. Khi hiểu được sự tàn nhẫn của cuộc đời, tôi đứng ngây người nhìn chị mà không nói được lời nào an ủi. Tôi yên lặng để cố chiêm niệm nỗi đau khổ cùng cực của người vợ mất chồng, những người vợ đã nức nở bóc đi một phần lớn – nếu không nói là tất cả – tâm hồn để dâng hiến cho tổ quốc.
Tôi có cảm nhận được sự đau khổ mà chị Hảo đang gánh chịu không? Có lẽ được nhưng không thể ở mức độ mà chị đang cắn răng cố nuốt lấy cái thực tại đầy nghiệt ngã. Chỉ có những người vợ, nhận được tin dữ, cầm trong tay tấm thẻ bài oan khiên rồi mới thấm thía hết nỗi thương đau của một mất mát không thể nào bù đắp được. Mặc dù không cảm thông hết nỗi khổ của chị Hảo nhưng hình ảnh não nùng của chị ngồi khóc đêm hôm đó đã hằn sâu trong tâm khảm tôi những đường nét vĩnh cửu, bất diệt so với thời gian. Nó đục khắc trong tâm thức tôi những góc cạnh mà mãi sau này khi trôi nổi trên đường đời, trải qua biết bao đắng cay của cuộc sống, tôi vẫn hình dung được một chị Hảo, hai tay ôm lấy tấm thẻ bài, ngồi u sầu bên mối tình vừa chết tức tưởi. Với muôn ngàn hình ảnh thân yêu nằm sâu trong ký ức, tôi chỉ thấy nổi bật hình ảnh chị Hảo, nhất là những khi bị chà đạp dưới bùn đen. Trong mỗi tận cùng của gian truân tôi lại chợt nhớ đến lúc chị ngồi khóc dưới ánh đèn mờ. Và chính hình ảnh đó đã thôi thúc tôi vươn lên để sống, vượt qua được ý nghĩ tuyệt vọng khi tôi bị hành hạ dã man ở đáy địa ngục trần gian, biết cảm nhận một nỗi đau của người dễ dàng hơn, và biết thương xót khi nhìn những người kém may mắn hơn mình. Cũng vì dễ cảm thông với những bất hạnh xảy ra chung quanh, tôi hành xử tự trọng hơn, đối xử với người đại lượng hơn, khoan dung với đời và nhất là dễ dàng chia sẻ những gì đang có với những người xấu số. Tôi thầm cám ơn chị đã ban tặng cho tôi một hình ảnh bi tráng và tôi hằng trân quý gìn giữ qua bao thăng trầm. Sau này khi lớn lên, tôi thấy một tấm hình nổi tiếng của nhiếp ảnh gia Nguyễn ngọc Hạnh, chụp một thiếu nữ có mái tóc che kín nửa khuôn mặt, giọt nước mắt lăn trên gò má, đôi tay khoác tấm thẻ bài. Tất cả giống như hình ảnh chị Hảo đêm hôm đó nhưng đối với tôi tấm ảnh đó vẫn vô hồn, nó không thật vì có thể được dàn dựng và vì tôi không là chứng nhân nỗi thương đau cùng cực mà người thiếu phụ muốn diễn tả. Đành rằng ông Hạnh cũng rung cảm bắt nhận được nỗi khổ đau của người vợ trẻ nhưng đối với tôi hình ảnh sầu muộn của chị Hảo thật quá, rõ quá và chỉ cách tôi có một sải tay.
Tôi vòng qua bàn, tiến đến đứng sát bên chị. Đôi mắt chị vẫn nhìn xuống. Nước mắt đã thấm ướt phần dưới của lá thư. Đúng là lá thư anh Kiệt viết cho chị với dòng chữ nguệch ngọac: Chắc anh không qua được, Hảo ơi! Yêu em mãi. Quá cảm xúc, tôi đặt tay lên vai chị, giọng run run:
– Chị Hảo…
Bàn tay đang ôm tấm thẻ bài thả xuống, chị ngả đầu vào người tôi, giọng nức nở:
– Anh Kiệt mất rồi, Hưng ơi…
Tôi có cảm giác chị cố chống đỡ với số mạng, giữ cho người được thăng bằng. Đến khi biết tôi đứng bên cạnh, chị không còn hơi sức nữa, tựa hết thân hình vào người tôi, đôi bàn tay thả rơi tấm thẻ bài. Tiếng kim khí rơi từ một độ cao vừa phải va chạm mặt bàn nghe khô cứng, sắc nhọn và lạnh lùng như Tử thần vung lưỡi hái hớt đi một mạng người. Một mạng người rơi rụng như hàng ngàn cái chết xảy ra trên mảnh đất khốn khổ này nhưng có những cái chết không bao giờ nguôi ngoai, không thể nào phôi phai trong tâm trí của người thân. Mãi mãi vẫn là một cái gì bất diệt, thiên thu.
Tôi bật khóc. Bàn tay tôi quàng ôm lấy vai đỡ cho chị ngồi thẳng dậy. Người chị mềm nhũn như bún. Tôi quỳ xuống, ôm lấy chị. Một tay tôi nắm lấy thành ghế để giữ thăng bằng, tay kia đỡ lấy bàn tay chị Hảo. Chị lả người, cả thân hình đổ ụp vào vai tôi. Nước mắt chị rơi thấm ướt khoảnh áo trước ngực. Chị khóc nhớ thương anh Kiệt, còn tôi khóc vì thấy chị đau khổ qua cái chết của người chồng. Hai chị em khóc thật tự nhiên. Tôi ôm lấy chị là theo bản năng của một đứa con trai khi thấy một phụ nữ yếu đuối cần nâng đỡ, đến khi ngừng khóc, tôi chợt bàng hoàng khi thấy chị Hảo yếu đuối đang nằm trong vòng tay của tôi. Mặc dù tôi với chị Hảo là tình chị em nhưng khi ôm chị lòng tôi bỗng bồi hồi khôn xiết. Tôi ước mơ giá tôi lớn hơn chị vài tuổi để tôi quàng tay qua eo chị, vỗ về ủi an và vuốt ve suối tóc của chị. Tôi quỳ như thế không biết bao lâu, người như lịm đi trong cảm giác đê mê lần đầu có người con gái khóc trên vai. Lòng tôi ao ước cứ được ôm chị như thế này mãi để an ủi chị, cho dù làm thân trâu ngựa cho chị cũng bằng lòng. Cho đến khi cảm giác tê nhức ở hai đầu gối đánh át cảm giác đê mê khó tả thì tôi mới cắn răng đỡ chị ngồi thẳng dậy. Chị Hảo gắng gượng ngồi lên rồi nửa thân hình lại đổ ập xuống mặt bàn, đầu nghiêng hẳn qua bên. Tôi thấy rõ mắt chị mở trừng trừng, vô hồn. Thân xác chị ở đây nhưng tâm trí chị đang phiêu du ở một nơi chốn nào đó không ai biết; có lẽ đang bay theo mây về nơi anh Kiệt yên nghỉ. Tôi nâng chị dậy, dìu chị đến bên giường, đỡ chị nằm xuống, và lấy tấm khăn mỏng đắp lên người. Chị hoàn toàn thụ động, bước đi như người mộng du, không thốt một lời. Căn gác lại chìm vào một sự yên lặng rợn người, thỉnh thoảng có tiếng con thạch sùng tặc lưỡi đâu đó trên trần nhà. Bóng tối buồn bã đổ tràn trên căn gác. Tôi ngồi xuống chiếc ghế cạnh bàn, hai tay ôm lấy đầu không biết phải làm gì. Trong bóng đêm mông lung, lần đầu tiên tôi chợt thấy thấm thía hai chữ cô đơn.
Tôi giật thót người khi nghe tiếng chị Hảo mơ màng:
– Anh ơi… anh ơi…
Vặn ngọn đèn cho sáng hơn, tôi chạy vội lại phía giường, miệng kêu rối rít:
– Em đây… em đây, chị Hảo.
Chị nằm nghiêng, xoay mặt về phía tôi, nước mắt đoanh tròng. Ôi! Đôi mắt, làm sao tôi có thể diễn tả được đôi mắt của chị. Hình như trong ánh mắt, chị nhận ra tôi. Giọng chị rã rời:
– Hưng hả em…
Tôi lại quỳ xuống bên chị:
– Chị cứ nghỉ cho khoẻ, em ngồi đây với chị.
Chị vói tay đặt lên vai tôi:
– Cám ơn em…
Chưa bao giờ tôi nhìn sát khuôn mặt của chị đến thế. Giọng tôi run run:
– Chuyện làm sao chị kể cho em nghe đi.
Chị ngẩn ngơ một lúc rồi thở dài:
– Hồi chiều có người sĩ quan cùng đơn vị với anh Kiệt đến báo tin cho chị. Anh nói là anh Kiệt tải thương binh, cố đáp xuống vùng địch bao vây để chở cho được mấy người lính bị thương về hậu cứ. Nếu không chở mấy anh đó về được thì chắc chắn họ phải chết vì cần phải tiếp máu. Anh bị trúng đạn bên hông nhưng giấu không cho ai biết. Chở về đến nơi thì… thì… anh ngất xỉu…
Chị bật khóc thành tiếng:
– …chở vào bệnh viện thì không kịp nữa vì đạn trúng chỗ hiểm. Bác sĩ cố đủ mọi cách nhưng anh Kiệt chỉ tỉnh dậy viết vội cho chị… cho chị mấy chữ rồi… rồi ra đi…
Tôi nắm lấy tay chị, nước mắt rưng rưng:
– Chị Hảo ơi, em không biết nói sao nữa… mỗi người có một số mạng… em chỉ xin chị cố giữ sức khoẻ để còn lo ma chay cho anh Kiệt.
Giọng chị nghẹn ngào:
– Cám ơn em. Chị đã chuẩn bị để đón nhận tin dữ từ lâu nhưng đến khi xảy ra vẫn không sao lường trước được lòng mình. Buồn quá Hưng ơi. Cám ơn em ở đây với chị. Có em một bên chị cũng an ủi được một phần. Ngày mai, chị đi Phù-cát nhận xác anh Kiệt rồi có lẽ theo máy bay về Sài-gòn luôn.
Tôi sửng sốt:
– Thế còn nhà cửa đây ai giữ?
– Nhà chị sụp rồi, còn gì mà giữ hả em…
Rồi chị lẩm bẩm cái gì đó tôi nghe không rõ. Và chị lại chìm vào thế giới riêng của chị. Người chị lúc tỉnh lúc mơ. Tôi nghe tiếng chị ú ớ gì đó rồi tất cả lại chìm vào yên lặng. Đêm hôm đó tôi ngồi canh thức cho chị ngủ và mệt mỏi quá tôi thiếp đi trên ghế lúc nào không biết. Trong cơn mơ màng tôi loáng thoáng nghe đâu đó giọng hát của một ca sĩ: ngày mai đi nhận xác chồng, quay đi để thấy mình không là mình…
Đó là lần cuối cùng tôi gặp chị Hảo.

* * *

Không ngờ mười sáu năm sau tôi gặp lại chị vào một hoàn cảnh khá lạ lùng.
Trong suốt mười sáu năm, biết bao chuyện vật đổi sao dời. Kể từ đêm chị Hảo nhận được hung tin, ngày hôm sau chị ra Phù-cát nhận xác anh Kiệt rồi theo máy bay về Sàigòn luôn. Tôi ngóng chờ mãi vẫn không thấy chị quay trở lại. Độ chừng hơn tuần sau, có người đàn bà đến thuê xe chở hết đồ đạc đem bán, trả lại căn gác cho chủ. Tôi không được chứng kiến, chỉ nghe nói lại vì chuyện xảy ra vào một buổi sáng trong khi tôi đang ở lớp học. Xế trưa về đến nhà thì mọi chuyện đã xong xuôi, người đàn bà cũng đi mất nên tôi không thể hỏi thăm về chị Hảo. Lòng tôi trống vắng như căn gác đìu hiu. Nửa năm học đệ Tam trôi qua buồn chán, đã biếng tôi càng không mấy thiết tha đến sách vở. Người tôi lờ đờ cứ như người thất tình. Mà tôi thất tình thật, tôi nhớ chị Hảo quay quắt. Buổi chiều, tôi bước lên căn gác, thẫn thờ nhìn sang nhà chị Hảo và thấy lòng quạnh hiu hơn bao giờ. Hàng cây sầu đông vẫn reo vui trong gió, trời mây vẫn xanh ngắt một màu vậy mà lòng tôi thổn thức khôn nguôi. Dãy ban-công nơi chị tựa người hỏi chuyện tôi lần đầu, nhắm mắt lại tôi vẫn hình dung được một chị Hảo đang tươi cười nhìn tôi. Ngồi bệt xuống sàn, tôi lẩm bẩm gọi tên chị Hảo…
Hết năm đệ Tam, tôi trở nên trầm lặng hơn, có lẽ vì nỗi nhớ miên man một chị Hảo ngày nào đẩy tôi vào tình trạng câm nín. Đối với tôi, mất chị Hảo thì chẳng còn gì quan trọng trên cõi đời này nữa. Sang năm đệ Nhị (lúc này được gọi là lớp 11), tôi tìm quên sự nhớ nhung bằng cách vùi đầu vào việc học; hơn nữa đó là năm thi. Thỉnh thoảng ngồi học bài trên căn gác, tôi chợt nhớ đến chị nhưng rồi sách vở lại kéo tôi ra khỏi mộng mơ. Cuối năm đó tôi may mắn thi đậu. Được đà tôi thi đậu luôn Tú tài toàn phần vào năm sau. Đứng ngấp nghé ở ngưỡng cửa đại học, tôi suy nghĩ, hỏi ý kiến của ba tôi và cuối cùng quyết định nộp đơn theo học ở trường Võ bị Đà-lạt, chọn quân đội làm nghiệp dĩ. Tôi quên mất lời khuyên đi Không quân của anh Kiệt để lái trực thăng. Trường Võ-bị đào tạo cho tôi cả 2 mặt quân sự và văn hóa. Khoá 29 chúng tôi học được 3 năm thì xảy ra chuyện Ban-mê-thuột. Ban đầu chúng tôi không chú tâm lắm, vì tin chắc bọn cọng quân sẽ chuốc lấy thảm bại. Mãi đến khi nghe lệnh di tản chiến thuật của ông Thiệu bỏ cao nguyên, chúng tôi bàng hoàng không tin ở tai mình. Đà-lạt là một trong ba cao nguyên, trong đó cao nguyên Đắc-lắc chiếm vị trí chiến lược quan trọng. Đứng ở Ban-mê-thuột, có thể nhìn sang được đất Miên, dễ dàng đổ quân xuống Nha-trang, chận đường tiến quân từ miền Trung. Có thằng bạn học chung khoá mở miệng chưởi rủa nói bỏ Ban-mê-thuột là quyết định sai lầm không thể chấp nhận được. Nó nói thêm tao không phải là nhà chiến lược quân sự tài ba gì mà còn thấy được điều đó, thì ông Thiệu phải thấy rõ hơn tao nữa. Bỏ Ban-mê-thuột thì cũng giống như đưa dao cho nó cứa cổ. Nó đưa hai tay lên trời lắc đầu than chết hết rồi chúng mày ơi. Quả đúng như nó dự đoán, tin tức mất Huế, Đà-nẵng và các tỉnh miền Trung đổ về dồn dập. Đà-lạt cũng bị áp lực nặng nề. Hai tuần trước ngày mất nước, vị Chỉ huy Trưởng ra lệnh giải tán đồng lọat các khóa sinh. Bọn tôi tuy chưa ra trường nhưng cũng được gắn lon Thiếu-úy rồi mạnh ai nấy tìm đường về quê. Tưởng cũng nói thêm là vào mùa hè đỏ lửa 1972, gia đình tôi bỏ Qui-nhơn khăn gói vào Trung-chánh, cách Sàigòn mấy cây số về hướng Tây. Nhà tôi nằm xéo cổng Trung tâm Huấn luyện Quang Trung. Ba tôi vẫn đi làm công chức, mẹ tôi mở quán bán hàng xén cho mấy anh tân binh.
Rồi chuyện gì xảy ra sau đó mọi người dân miền Nam đều biết. Việt cọng tiến chiếm Sàigòn. Tôi đi trình diện ở trường Vạn-hạnh với 10 ngày lương thực. Mặc dù chưa học xong chương trình để xứng đáng với lon Thiếu-úy nhưng vị Chỉ huy Trưởng đã gắn lên vai áo nên tôi xem đó là một trách nhiệm. Đó cũng là lý tưởng mà tôi đã chọn lựa và luôn trung thành nên tôi hãnh diện khai báo tốt nghiệp từ trường Võ-bị. Một vài thằng bạn chê tôi quân tử Tàu, khai thật làm gì để mang họa vào thân; vả lại mới học có 3 năm, làm gì đã được cấp úy. Quan niệm của tôi lại khác, tôi không bao giờ xấu hổ vì lý tưởng của người trai trong thời chiến, hơn nữa tôi mang lon khi bước ra khỏi cổng trường và tôi có nhiệm vụ giữ phong cách cho xứng đáng với cái lon trên ve áo. Vì thế tôi nói thật, không thêm không bớt một chữ.
Kết quả là bọn cọng sản đày đọa tôi 6 năm tù qua các trại Long Giao, Hà Nam Ninh, Cao bằng, Bắc lạng. Chúng liệt những tân binh như chúng tôi vào thành phần ác ôn ngang với cấp Tá vì theo lời chúng nó dân Võ-bị ra trường còn giết quân cách mạng nhiều hơn ai hết. Sự hành hạ dã man ở các trại tù thì ai cũng biết rồi, tôi chỉ là một trong hàng ngàn nhân chứng may mắn sống sót trở về. Đôi khi bị hành hạ quá mức, tôi chỉ muốn giết mấy thằng cảnh vệ, quản giáo trốn trại rồi ra sao thì ra. Chính hình ảnh chị Hảo đã giúp tôi nuôi hy vọng để sống, làm một cái gì có ý nghĩa hơn. Tôi không hối tiếc khi nói thật để bị thời gian tù đày gấp đôi so với những người cùng cấp. Tôi tin rằng hành xử của tôi rất xứng đáng là người sỹ quan Võ-bị và đồng thời cũng nói cho bọn chúng biết thái độ quật cường của tôi.
Trở về gia đình cuối năm 81, gia đình tôi sa sút thấy rõ. Nhìn mấy đứa em nheo nhóc tôi không cầm được nước mắt. Ba tôi đã già yếu, mẹ tôi buôn bán bữa được bữa mất, mấy đứa em dĩ nhiên phải bỏ học để phụ với gia đình kiếm sống. Gom góp hết số vốn trong gia đình, tôi vào tổ hợp đạp xích lô. May nhờ còn chút sức khoẻ, tôi đạp xe ngày 12 tiếng. Bữa cơm trong gia đình có thêm chút chất đạm, nhìn mấy đứa em rón rén nhai mãi miếng thịt không dám nuốt mà lòng tôi quặn đau. Lớn lên tôi may mắn được nếm những của ngon vật lạ, đến thời các em tôi thì đất nước lâm vào cảnh đọa đày nên nhìn cái gì chúng cũng thèm. Tôi còn xót xa đến vậy thì cha mẹ tôi lại càng khổ đau gấp bội. Nhìn ra bên ngoài xã hội, tôi càng rơi nước mắt. Các em tôi tội nghiệp thật nhưng so với những đứa trẻ lê la trên hè phố thì vẫn còn sung sướng hơn nhiều. Ăn mày, thương binh nhan nhản khắp đầu đường xó chợ. Cả một xã hội rách nát đến độ bần cùng nhất. Hôm nào kiếm được cuốc xe hậu hĩ, thế nào tôi cũng kiếm mấy anh thương binh hoặc trẻ em ăn xin tật nguyền chia sẻ chút ít. Cũng chính hình ảnh u sầu của chị Hảo giúp tôi dễ mềm lòng trước cảnh thương tâm, giữ lại chút lương tâm trong sáng giữa một xã hội đảo điên. Đôi lúc tôi bâng khuâng tự hỏi không biết chị Hảo bây giờ ra sao, còn sống trong thành phố này hay đã ra đi như những người có tiền của. Cứ thế, cuộc sống trầm luân trôi dần theo năm tháng.
Và bất ngờ tôi gặp lại chị Hảo. Lúc đó miền Nam đổi chủ đã được mười năm. Năm 1985.
Tôi đang đạp xe về nhà, đến gần ngã tư Bảy Hiền thì nghe tiếng gọi. Chả là hôm nay tôi muốn về sớm để đưa con em đi mua sắm chuẩn bị ngày đám cưới của nó. Nửa muốn đạp cuốc xe kiếm thêm chút tiền quà cưới cho con em, nửa muốn về ngay vì lời hứa với nó. Ánh nắng chói chan buổi xế trưa chém xéo rát một bên mặt. Tôi quyết định quay xe lại. Đứng bên lề đường, một người đàn bà mang kiếng đen vẫy tay gọi. Chiếc áo sơ-mi trắng ngắn tay để lộ làn da trắng nuột. Tóc chải gọn búi tó. Mặc dù cặp kiếng che gần hết khuôn mặt nhưng dáng người nàng thanh tú, sống mũi thẳng cân đối, đôi môi trái tim chúm chím. Phải nhìn nhận nàng đẹp, đó là nhận xét đầu tiên khi tôi đạp xe đến gần. Lâu lắm tôi mới thấy một người đẹp như thế. Nàng cất tiếng hỏi:
– Về Trương minh Giảng anh lấy bao nhiêu?
Đây là một điều lạ. Mất nước đã hơn 10 năm, tất cả con đường đã đổi tên và dân Sàigòn hầu như không còn ai xài tên cũ. Nàng gọi tên đường “Nguyễn văn Trỗi” là Trương minh Giảng. Tôi chợt có cảm tình với nàng, một lối phản kháng tiêu cực bằng cách ung dung xài những gì xưa cũ của một miền Nam trước 75. Nhưng một điều khác làm tôi giật mình nữa là âm hưởng của giọng nói. Có một cái gì thân quen bàng bạc trong ký ức mà tôi cơ hồ chưa nhận ra. Tôi ngẩn người ra một lúc vì hai cái bất ngờ làm tôi choáng váng. Hít một hơi dài, tôi bình tĩnh:
– Dạ thưa chị cho 1200.
– 1000 được không?
Tôi định nói xin chị cứ cho 1200 vì trời nắng đạp lên dốc rất mệt thì bỗng nhiên tôi ngờ ngợ một điều gì. Từ vóc dáng, một nửa khuôn mặt và giọng nói, nhất là giọng nói tôi không thể lầm được. Tôi bước xuống xe, tiến thêm một bước để nhìn cho rõ. Cùng một lúc, hình như người thiếu phụ cũng nhận ra một cái gì quen thuộc, nàng gỡ cặp kiếng mát xuống, miệng lắp bắp:
– Có phải… có phải là…
– Chị… chị Hảo phải không?
Trời ơi! Thật không ngờ chị em lại gặp nhau trong hoàn cảnh khá trái ngang. Tôi reo lên:
– Em Hưng nè.
Chị Hảo bước tới. Bây giờ chị đã hoàn toàn nhận ra tôi:
– Hưng, đúng Hưng rồi… Trời Phật ơi, em bây giờ đen quá, chị nhận không ra.
Chị ôm lấy tôi, thân tình như một người chị lâu ngày gặp lại đứa em ruột. Tôi đã khác xưa nhiều lắm, khuôn mặt có thể chẳng thay đổi bao nhiêu nhưng tôi đã cao lớn hơn trước. Ba năm trong quân trường tôi luyện tôi dày dạn sương gió, chưa kể sáu năm ngục tù cũng giúp tôi thêm chín chắn. Chị Hảo nhận ra tôi có lẽ nhờ giọng nói. Chính giọng nói đã mở toang cánh cửa quá khứ và ký ức hiện về nguyện vẹn một buổi trưa hè khi chị nhìn thấy tôi ngồi đọc truyện trên căn gác nhỏ. Riêng chị Hảo vẫn không khác xưa mấy, dáng người đẫy đà hơn nhưng khuôn mặt thì vẫn vậy; khác chăng là mái tóc chị búi gọn về phía sau chứ không xõa dài như mười sáu năm trước. Tôi gần như rú lên khi nhận ra chị Hảo. Làm sao diễn tả được niềm vui khi gặp lại chị. Thật không ngờ chị vẫn sống bình yên giữa thành phố hỗn loạn này. Quá khứ tôi quá nhiều buồn thảm, chỉ còn mỗi ký ức về chị Hảo nâng niu mỗi ngày làm quà cho cuộc sống cơ cực. Niềm vui ánh lên trong đôi mắt chị Hảo mà đến hôm nay tôi vẫn còn thấy đẹp, tuy có vương vấn chút u buồn. Chị không giữ được những giọt nước mắt. Tôi thấy mắt chị long lanh dưới ánh mặt trời gay gắt. Tôi cũng không kềm được nỗi xúc động. Ở trong thành phố đầy những khuôn mặt lạ lẫm đến từ phương Bắc, may mắn gặp lại cố nhân sau hơn mười sáu năm xa cách, những giọt nước mắt hội ngộ xứng đáng được chảy dài trên má. Tôi đã lớn, một thanh niên hơn 30 tuổi đời, tâm hồn đang chai cứng dần với thời gian khổ cực đọa đày, thế mà cảnh vật vẫn nhạt nhoè qua ánh mắt nhìn nghiêng.
Chúng tôi đứng ôm nhau ngay trên đường phố ở ngã tư Bảy Hiền. Những người qua đường lấy làm lạ khi thấy một người đàn bà xinh đẹp, ăn mặc khá sang trọng lại ôm một anh phu xích lô quần áo bẩn thỉu, rách thủng nhiều chỗ. Có thể họ cho rằng chúng tôi là một cặp tình nhân tình cờ lạc mất nhau khi thành phố đổi tên, và bất ngờ gặp lại nhau giữa những gian truân. Chị Hảo gần như kiễng chân lên ôm lấy tôi vì sự khác biệt chiều cao của thân hình. Tôi chợt nhớ đến lần cuối cùng khi chị tựa người vào vai tôi khóc hết nước mắt. Cũng với tâm trạng đêm hôm đó, tôi ước mong mình lớn tuổi thêm tí nữa, để vỗ về chị Hảo như một người yêu. Con gái dưới 20 thường trưởng thành sớm nên trông chững chạc hơn đám con trai cùng lứa nhưng đến một tuổi nào đó, người đàn bà dừng lại và đàn ông lớn trổi vượt lên. Tôi không biết tuổi đó phải là bao nhiêu nhưng tôi tin chắc rằng với số tuổi trên 30 như tôi, người đàn ông không còn nhỏ dại nữa. Chắc chắn tôi không còn ngơ ngáo như thằng con trai thuở gặp chị lần đầu. Lúc vừa nhận ra nhau, mừng quá nên tôi buột miệng xưng em nhưng trong thâm tâm tôi vẫn muốn chị nên xem tôi như một người bạn. Chị Hảo lại khác, tôi đối với chị vẫn là thằng Hưng nhỏ bé ngày nào, mặc dù bây giờ tôi đứng cao hơn chị nhiều lắm. Lối xưng hô chị chị em em tự nhiên của chị làm tôi ngại ngùng khi muốn thay đổi cách gọi giữa hai người. Chị buông tôi ra:
– Em vào Sàigòn lúc nào? bây giờ ở đâu?
Tôi hơi ngượng khi dùng chữ em để xưng hô:
– Gia đình… em dọn vào Sàigòn ở Trung Chánh lâu rồi chị. Còn chị ở đâu?
– Trương minh Giảng. Thì chị đón xe về nhà đó.
Tôi chợt nhớ ra chị gọi tôi để đi xe:
– Em… em thật không ngờ gặp lại chị. Chị lên đây em chở về.
Trên đường đi, tôi và chị ôn lại mẩu dĩ vãng mười sáu năm. Tôi nói về tôi nhiều hơn và biết thêm về những người thân thuộc của gia đình chị đã vượt biên. Chị sống bơ vơ giữa thành phố này em ạ, giọng chị Hảo buồn buồn. Gia đình anh Kiệt cũng ra đi hết rồi, hình như đã định cư tại Đức. Chị chấp nhận ở lại để nhang khói cho anh Kiệt. Ai cũng bỏ thành phố này hết, chị không đành để anh Kiệt nằm lại bơ vơ không ai chăm sóc. Tôi nghe lòng ngậm ngùi khi chị nhắc tên anh Kiệt. Mỗi khi nhớ chuyện cũ, tôi thường nhớ chị Hảo chứ hình ảnh anh Kiệt chỉ còn bàng bạc trong trí nhớ. Tình yêu của chị đối với người đã khuất vẫn đầy ắp như thuở sống bên nhau. Mười sáu năm, thời gian đủ dài để chôn vùi tuổi xuân của người thiếu phụ, vậy mà chị vẫn một lòng son sắt với chồng. Ôi, còn mối tình nào đẹp hơn mối tình người vợ thủ tiết thờ chồng, không phải vì tương lai con cái mà vì muốn trọn lòng với người quá vãng. Chị sống âm thầm trong thế giới riêng của chị, trái tim cứ mãi ôm ấp hình bóng cũ, trung kiên. Tôi chỉ đứng ngoài chiêm niệm mối tình chân gần như huyễn hoặc, thương tiếc cho người vắn số, ngậm ngùi cho tuổi thanh xuân của chị Hảo trôi qua nuối tiếc, và ước mơ sau này may mắn yêu và được yêu nồng nàn như chị.
Qua nhà thờ Ba Chuông, vượt giáo xứ Vườn Xoài, chị bảo tôi đạp chầm chậm. Trong suốt lộ trình, tôi tuyệt nhiên không hỏi đến gia cảnh hiện tại của chị. Thâm tâm tôi mặc nhiên nhìn nhận tình yêu chị Hảo chỉ dành riêng cho một người, ngay cả tôi cũng không chiếm được một góc nhỏ đâu đó trong tim chị. Gần đến chợ Trương minh Giảng, chị bảo tôi dừng lại và chỉ một căn nhà hai tầng, bảo đó là nhà chị đang ở. Căn nhà đó thật lớn cho một người độc thân. Tôi chợt nhận ra đây là căn nhà của một nha sĩ bỏ đi trước 75. Thằng bạn học cùng khoá Võ Bị ở trong ngõ hẻm bên hông nhà. Trước 75 hai đứa đi phép nó dẫn tôi về nhà chơi nên tôi biết rất rõ khu này. Những căn nhà có chủ bỏ đi vượt biên đều bị nhà nước trưng dụng. Chính quyền cọng sản tịch thu nhà và phát lại cho cán bộ miền Bắc điều vào. Thân thế như chị mà được ở một căn nhà khang trang như thế kể cũng khó hiểu. Chị bảo tôi vào nhà chơi. Tôi chợt nghĩ đến cái hẹn với con em nên từ chối:
– Em phải về để đưa con em đi mua sắm đồ cưới. Để hôm khác em đến.
Chị Hảo níu tay tôi:
– Vậy cũng được. Thôi, em cho chị địa chỉ nhà em đi, hôm nào chị đến thăm em.
Tôi đang hý hoáy viết đia chỉ trên mảnh giấy thì một cô gái bên kia đường chạy vụt sang xoắn lấy chị Hảo:
– Cô ơi, lúc nãy ông có nhờ em nhắn với cô cứ ở nhà đợi, ông lái xe lên Ngân hàng rồi về liền.
Tôi ngẩng mặt lên. Một cô gái trẻ, khoảng 20, cười nói với chị Hảo thật tự nhiên. Tôi sa sầm nét mặt khi nghe lời nhắn của cô gái. Hoá ra chị Hảo không ở một mình. Tôi bỗng thấy đau nhói ở trong tim. Tình cảm tôi đối với chị Hảo thật ích kỷ. Đã bao nhiêu năm trôi qua mà tình cảm độc tôn trong tôi vẫn không thay đổi. Với anh Kiệt thì khác, tôi không có một uy quyền nào bắt chị phải gạt bỏ hình bóng của người chồng cũ ra khỏi tâm tư. Hơn nữa anh Kiệt đã mất, tôi không thể ghen với người quá cố nhưng tôi lại tự cho mình có quyền ghen với bất cứ người đàn ông nào khác, khi họ bước vào chiếm hữu trái tim chị. Tôi nghĩ chị Hảo chỉ nên yêu anh Kiệt và… tôi thôi, không thể một người nào khác. Không biết chị có nhận thấy nét mặt tôi thay đổi hay không nhưng tôi tin chắc khuôn mặt tôi lúc đó cau có khó chịu lắm. Tôi hằn học dúi vào tay chị mảnh giấy rồi quày quả đạp xe đi, không thèm nghe tiếng chị Hảo gọi gấp từ phía sau.
Trên đường về, tôi nghiến răng giận dữ. Người tôi như mê đi trong cơn ghen tức. Tôi không biết tôi đang vô lý trong ý nghĩ. Tôi không có lý do nào để giận chị Hảo. Cho dù yêu anh Kiệt tha thiết nhưng không thể bắt chị sống mãi trong cô đơn. Người đàn bà giữ tang chồng được ba năm là trọn nghĩa, hơn nữa chị còn quá trẻ. Ngày khoác áo tang, tôi đoán chị cỡ 20. Hơn mười sáu năm trôi qua, tuổi xuân không thể bắt chị ngồi đó thương tiếc mãi một mối tình, tuy tuyệt vời, đã ngàn trùng xa cách. Vả lại, vẻ đẹp của chị vẫn còn sắc sảo mặn mà. Với một nhan sắc như thế, thật khó để không bước đi bước nữa vì xung quanh biết bao người săn đón. Tôi bỗng giận sắc đẹp của chị Hảo, giận khuôn mặt nở hoa lồ lộ dưới con mắt của những thằng đàn ông không ra gì, (tôi chưa biết chị lấy ai nhưng tôi đã liệt hắn vào hạng không ra gì!). Tôi lại giận định mệnh xui tôi về sớm trên khúc đường oan trái để gặp lại chị Hảo. Giá tôi đừng gặp lại chị thì hình ảnh của chị Hảo vẫn tuyệt vời trong tôi. Cứ sống mãi với kỷ niệm và đừng đối diện với sự thật thì tôi đâu chuốc lấy cái khổ bây giờ. Buổi chiều hôm đó đạp xe về mà lòng tôi rã rời hơn bao giờ.
Mấy ngày sau, tôi quyết định phải khám phá cho ra cái “thằng” sống chung với chị Hảo. Tôi đạp xe về lối cũ, mon men đến hỏi chuyện cô gái ngồi bán thuốc lá xế căn nhà chị Hảo ở. Đúng là cô gái nói chuyện với chị hôm nọ. Bỏ ra mấy trăm mua vài điếu thuốc lá lẻ, tôi bắt chuyện:
– Bán đây khá không cô?
Cái nguyên lý tự ngàn xưa là bất cứ anh phu xích lô nào gạ chuyện với cô bán thuốc lá lẻ đều xem ra tâm đầu ý hợp lắm. Thì “nồi nào úp vung nấy” nên mới dễ dàng đưa đẩy câu chuyện. Cô gái bán thuốc ngồi tịnh khẩu hàng giờ, nhạt miệng lại có anh xích lô đến ve vãn nên cô mau mắn bắt chuyện liền. Trông cô khá xinh, mặc chiếc áo bà ba màu hồng nhạt hở một hột nút phía trên, xẻ hông cao đến nửa lưng. Mỗi khi cô vươn tay sửa sửa mấy gói thuốc nằm trên mặt kiếng, vạt áo vật vờ kéo xếch lên để lộ khoảng da thịt trắng ngần. Chiếc áo hình như hơi chật bó lấy bộ ngực vun đầy, tròn trĩnh. Tôi có cảm giác cô không dám thở mạnh, chỉ sợ hàng cúc áo bật tung sau mỗi hơi thở thoang thoảng mùi kẹo chanh. Cô vuốt lại mái tóc làm duyên, miệng chúm chím:
– Cũng được thôi anh Tư… uả, anh hổng ở dzùng này hả?
Rồi không đợi tôi trả lời, cô vỗ hai tay vào nhau:
– Hèn chi, em thấy anh lạ lắm nghen.
Tôi rít một hơi thuốc:
– Không, không lạ đâu cô. Đúng ra cô gặp tôi một lần rồi.
– Dzậy hả anh. Ủa, gặp hồi nào sao em hổng nhớ cà.
Chắc cô nghĩ tôi đang mở miệng tán tỉnh bằng một câu cũ rích. Thì anh xích lô nào ghé ngang sạp thuốc của cô mà không mở đầu bằng câu đã gặp nhau đâu đó rồi. Nghe mãi đến nhàm nhưng cô vẫn thích vì cô nghĩ mình có “dziêng” nên người ta mới đứng lại lân la gạ chuyện chớ. Nhìn mặt cô rạng rỡ, tôi thú thật:
– Mấy hôm trước, tôi chở bà ở căn nhà đàng kia về, cô chạy sang nhắn lại lời của chồng bà, cô còn nhớ chứ?
Cô nhíu mày cố nhớ lại chuyện ngày hôm đó. Khi nhớ ra, cô hơi thất vọng vì anh xích lô này hỏi chuyện thật chứ không phải bày chuyện để tán tỉnh cô. Giọng cô buồn buồn:
– Em nhớ rồi, hổm anh chở cô Ba về có viết tấm giấy đưa cho cổ.
– Cô Ba?
– Ừa! Em không biết tên thật cổ.
– Thế cô Ba ở đây lâu chưa?
– Không lâu đâu, độ nửa năm trở lại. Căn nhà đó họ đổi chủ hoài à, chỗ để cho mấy ông lớn nghỉ ngơi.
– Còn chồng của cô Ba thì sao?
Cô gái khựng người:
– Ủa, sao anh hỏi dữ dzậy? Bộ tính chiện gì hả?
Tôi làm vẻ mặt tự nhiên:
– Thú thật với cô, cô Ba là người quen lâu ngày mới gặp nhau. Hôm đó tôi tình cờ gặp lại cổ ở ngã tư Bảy Hiền rồi chở về đây. Tôi không ngờ cô ta đã có chồng.
Cô gái nghĩ ngay đến câu chuyện tình ngang trái và coi bộ thông cảm với người bị phụ tình. Cô hăm hở:
– À! Ông chủ hả, chả làm lớn lắm nghen, nghe đâu ở Ngân hàng nhà nước gì đó! Em hổng thích chả, thứ Bắc kỳ khó ưa. Mặt kên kên coi dễ ghét. Chả lấy cô Ba làm bé, anh biết hôn? Nghe đâu vợ chả còn ngoài Bắc. Còn cô Ba tội nghiệp lắm. Cổ hiền lành, nói năng dễ thương. Ở khu chợ này ai mà không mến cô Ba, ghét thằng chả. Em thật hổng hiểu cái nỗi gì mà cô Ba lại đi làm bé chả. Chắc tại do hoàn cảnh hén anh…
Tôi trợn mắt há hốc miệng nhìn cô gái. Cái tin nghe như sét đánh bên tai. Ôi! Không ngờ chị Hảo lại gá nghĩa với một tên Việt cọng. Mà đã là Việt cọng thì tôi đều khinh tởm như nhau. Người tôi rã rời như vừa đạp xong một ngày xe mệt nhọc. Nhìn nét kinh ngạc trên mặt tôi, cô gái đoán chừng tôi mất người yêu vì thời thế đổi đen. Tôi nghe lòng mình chùng hẳn xuống, nặng trĩu một nỗi buồn. Đúng ra tôi thất vọng. Không, không tôi tuyệt vọng thì đúng hơn. Loáng thoáng tôi nghe tiếng cô gái:
– Anh biết hôn, mỗi tuần cổ đều đi thăm ai đó ngoài nghĩa địa. Cổ nói với em bày bán nhang cho tiện. Tuần nào cổ cũng ghé ngang sạp em mua bó nhang rồi lên xe đi thẳng ra nghĩa địa. Mỗi bận về em thấy mắt cổ đỏ hoe.
Tai tôi lùng bùng không còn nghe gì nữa. Cái tin chị Hảo cam thân làm vợ một tên Việt cọng đủ nói lên tất cả rồi, còn tất cả những gì khác đều thừa. Cũng như lần trước, tôi quày quả đạp xe đi không một lời cám ơn cô gái. Tôi cúi đầu đi như kẻ chạy trốn thực tại, bên tai còn nghe văng vẳng tiếng hỏi… anh Tư… sao dzậy anh Tư? Cả hai lần đến khu chợ này tôi đều mua thêm lấy những thương đau.
Cả bầu trời đổ ụp trên người tôi, đè nặng lên thân xác. Người tôi bải hoải tưởng chừng từng đốt xương long hẳn ra từ chỗ nối. Chưa bao giờ đôi chân tôi tê dại đến thế, gần như không thể đạp thêm một chút nào nữa. Tạt xe bên lề đường, tôi chui vào xe ngồi thở dốc như người lên cơn suyễn. Hơi thở hắt ra từng cơn như muốn trút bỏ nỗi tuyệt vọng đang bám rễ trong tâm tư. Không tuyệt vọng sao được khi nguồn hy vọng cuối cùng của tôi bị thực tại cướp đoạt trắng trợn. Cho dù mồ hôi đổ ra khổ cực đến mấy, cho dù kẻ thù có hành hạ tôi dã man đến thế nào đi chăng nữa, hình ảnh một chị Hảo trung trinh với mối tình chân vẫn giúp tôi vượt qua những đoạn đường cam go đó. Trong quá khứ, hình ảnh chị Hảo ngồi u buồn với tấm thẻ bài đã đẩy tôi vượt thoát được những cơn cùng cực khi lý trí bị nỗi phẫn uất phủ mờ. Tôi dễ mềm lòng trước những cảnh bất hạnh vì trong tôi vẫn sáng ngời một chị Hảo hiền thục với trái tim đầy ắp yêu thương. Tôi vẫn hiên ngang sống đến ngày hôm nay vì vẫn cậy nhờ vào niềm hy vọng một ngày nào đó sẽ thấy bình minh trên mảnh đất này. Như người ngư phủ mãi ngồi bó gối chờ hừng đông để kéo mẻ cá cuối nhưng khi mặt trời vừa ló dạng thì bị đám mây đen che khuất và cảnh vật lại chìm trong bóng tối.
Chị Hảo bước đi bước nữa cũng là chuyện thường tình, tôi tuy có đau khổ thật nhưng vẫn còn khả dĩ chấp nhận. Cùng lắm tôi chỉ tự trách mình sao quá lãng mạn để chuốc lấy mối tương tư. Nhưng thiếu gì người để chị lấy một tên cán bộ. Trong nỗi đau của tôi lại có thêm cơn giận. Chị lại chấp nhận làm bé thì quả thật tôi không thể hiểu được. Bây giờ thì nỗi đau, cơn giận trộn lẫn với sự cuồng nộ. Cả hơn mười năm, tôi đã nghe và thấy những người vợ thiếu thuỷ chung, trâng tráo bán thân làm vợ những kẻ có quyền thế, những kẻ đại diện cho một chế độ ngông cuồng đang hành hạ dã man chồng mình chết dần mòn trong các trại tù. Cũng không thiếu những kẻ sĩ, đại diện cho tầng lớp trí thức ở miền Nam trước đây, cũng trơ trẽn bán thân để mua lấy một chút an nhàn nhất thời. Thế những người này không có chút sĩ diện nào sao? Tôi không trả lời được câu hỏi đó nhưng lại nghĩ đến mỗi người một hoàn cảnh. Có thể họ có một lý do riêng tư nào đó nên mới để cho thằng mán thằng mường nó leo cây quế. Tôi không dám xét đoán nhưng để cho chính lương tâm họ phán quyết, hoặc ngay chính người chồng một thời đầu gối tay ấp trở về từ trại tù cắn răng quyết định. Nhìn những cảnh vô luân xảy ra giữa một xã hội xảo ngôn, tôi vẫn an tâm sống vì trong tôi còn ôm ấp hình bóng một chị Hảo thuỷ chung. Mọi người có thể ươn hèn nhưng chị Hảo của tôi thì không. Tôi sống yên ổn với hoài niệm đó mãi đến hôm nay tôi mới biết tôi lầm.
Trong khi tôi trân quý hình ảnh của chị, thì chị lại phản bội những luân lý căn bản trong tình yêu vợ chồng. Chị cam tâm làm bé mà không hề nghĩ đến người vợ cả, không hề nghĩ đến một hạnh phúc đã bị tước đoạt chỉ vì sự hèn yếu của mình. Chưa kể chị dâng hiến trái tim cho kẻ thù, bọn người đã giết chết anh Kiệt, chồng chị. Thù nước tôi không dám nói nhưng còn thù chồng chắc chị phải nhớ chứ? Thế mà chị đành đoạn tuyệt một quá khứ thân thương, trong đó có tôi là một nhân chứng. Chị rũ bỏ dễ dàng như thay một cái áo, hằng ngày.
Thế là hết, hình ảnh chị Hảo sụp đổ trong tôi thì con người tôi cũng sụp đổ theo. Tôi còn nhớ mãi câu nói thẫn thờ của chị: nhà chị sụp rồi còn gì mà giữ hả em khi anh Kiệt nằm xuống. Tôi cũng chẳng còn gì để giữ. Ôi! Mười sáu năm tuy cơ cực nhưng đẹp biết bao; đẹp với mối tình cảm lãng đãng xa xôi nhưng nhiều lúc tôi cảm thấy ấm áp thật gần, vì nó ở ngay trong tim. Bây giờ, sức sống của tôi đã bị bóp nghẽn, trái tim đập dật dờ theo thời gian. Tôi uể oải sống, gắng gượng lê bước được ngày nào hay ngày đó. Tôi không còn nhớ tôi đã làm khổ mẹ tôi đến mức nào nhưng bà đã khóc gần như hết nước mắt vì những cơn say khốn khổ. Tôi không thiết tha đến việc đạp xe, có khách thì chở không thì kiếm hàng quán ngồi làm bạn với mấy xị đế. Lòng hăm hở đạp xe kiếm tiền nuôi sống gia đình nguội hẳn. Điều này tối quan trọng vì cả nhà trông nhờ vào những cuốc xe hàng ngày của tôi để đổi lấy miếng cơm. Bữa cơm sa sút thấy rõ. Mẹ tôi chỉ khóc tỉ tê mỗi đêm khi mở cửa dẫn thằng con say khướt vào giường ngủ. Bà không hiểu thằng con cả đột nhiên dở tính sinh tật rượu chè be bét, hư người. Ba tôi già cằn cỗi, thở dài lặng lẽ không một lời trách cứ thằng con, có lẽ không dám thì đúng hơn vì ông không còn làm ra tiền để nuôi sống gia đình nữa. Ngồi bây giờ viết lại dòng chữ này, tôi cảm thấy có lỗi với cha mẹ tôi, với các em tôi. Tương lai tôi có thể hủy hoại, sao cũng được nhưng đừng để ảnh hưởng đến người khác, nhất là những người ruột thịt thân yêu của mình. Nguyên lý xem ra đơn giản như thế nhưng lúc đó tôi không cần hiểu. Tôi đang lao mình xuống đáy vực, muốn ra sao thì ra.
Một đêm say khướt bước về nhà, tôi khật khưởng leo lên giường nằm vật xuống. Đầu óc tôi nặng chình chịch nhưng nghe loáng thoáng mẹ tôi nói có người nào tìm tôi lúc chiều. Không còn hơi sức nữa, tôi thiếp đi trong cơn say. Sáng hôm sau, khi tôi tỉnh dậy thì mặt trời đã ở ngang tầm mắt. Đang rửa mặt tôi nghe tiếng mẹ tôi đàng sau lưng:
– Hưng này, hôm qua có bà nào đến đây tìm anh. Mẹ nói anh không có nhà, bà trao cho mẹ cái hộp giấy này, nói nhờ mẹ trao tận tay cho anh. Tối hôm qua, anh say quá nên mẹ không đưa. Anh mở thử xem, không biết có gì ở trong mà nặng lắm.
Tôi nhíu mày thắc mắc. Bà nào? Bà nào đi tìm tôi. Chưa vướng nợ tình với ai nên tôi đoán có lẽ chị Hảo. Ở thành phố này tôi chỉ biết mỗi chị Hảo. Không hiểu chị đến đây kiếm tôi làm gì nữa? Giữa tôi và chị chẳng còn gì để nói, ngoài một hoài niệm buồn. Tôi sẽ cố quên những gì đã lỡ ước mơ, tôi sẽ cố bước đi để sống, tôi sẽ không để những người thân tuyệt vọng vì tôi như chị Hảo đã nhẫn tâm làm qua nếp sống vô luân. Thấy tôi đứng tần ngần một lúc, mẹ tôi chìa cho tôi xem cái hộp có bọc nhiều lớp giấy báo bên ngoài. Tôi bình thản đỡ lấy cái hộp vuông vắn có buộc chéo giây hình chữ thập. Khá nặng. Bóc lớp báo ra, tôi mở nắp hộp. Đập ngay vào mắt tôi là tấm thẻ bài với sợi giây treo cuộn xung quanh nằm gọn ngay bên cạnh tờ giấy xếp làm tư; bên dưới thấp thoáng những thỏi vàng lá được xếp ngay ngắn. Sở dĩ nhìn thoáng là biết ngay vì nhãn hiệu trái núi ở phía ngoài. Tôi đếm được 10 lượng. Từ ngày mất nước, chưa bao giờ gia đình tôi thấy một gia tài lớn đến thế. Chạy cơm từng bữa, may ra dư dả chút đỉnh phòng hờ khi hữu sự, làm sao để dành mua được từng ấy vàng. Mẹ tôi nhìn hộp vàng người run lẩy bẩy. Tôi chộp lấy tấm thẻ bài, đọc hàng tên khắc sâu vào bản sắt. PHẠM HÙNG KIỆT. Trời ơi! Làm sao tôi quên được tấm thẻ bài chị Hảo khoác lên tay ngồi xoã tóc nức nở trong đêm! Không ngờ chị vẫn giữ tấm thẻ bài của anh Kiệt từ bấy lâu nay. Mà sao chị lại gửi cho tôi? Tôi đưa cả hộp vàng cho mẹ tôi rồi mở vội tấm giấy. Nhìn hàng chữ đầu tiên tôi ngờ ngợ nét bút của chị Hảo; đúng là lá thư chị viết cho tôi:

Sàigòn ngày…tháng…năm 1985
Hưng yêu thương của chị,
Chị thật không ngờ gặp lại em tuần trước. Đã hơn mười sáu năm rồi. Chị đã lạc mất anh Kiệt, còn em chị nghĩ cũng lạc mất ở góc biển chân trời nào đó. Mỗi người ở một phương, thời thế lại đổi thay, làm sao có dịp. Thế mà định mệnh run rủi chị em gặp lại nhau. Chị nghĩ phép lạ em ạ! Thật may mắn cho chị khi nhìn lại em, nhớ lại quãng thời gian ở Qui-nhơn, lúc còn anh Kiệt, có em chuyện trò. Thời gian tuy ngắn ngủi nhưng thật đẹp! Anh chị tuy ít gặp nhau (một tháng đôi lần) nhưng tình yêu nồng thắm hơn bao giờ. Trong nỗi mỏi mòn trông chờ từng ngày có đượm những háo hức gặp nhau cuối tuần. Và khi anh Kiệt về, em hiểu được chị vui đến thế nào. Thấy anh bình yên đã là một niềm vui, có với nhau một ngày là thêm niềm hạnh phúc. Bên cạnh đó, em đóng vai một nhân chứng cho tình yêu của anh chị. Có em đứng giữa, những ngày chị thiếu vắng anh Kiệt thấy đỡ buồn tẻ hơn. Vậy mà chỉ trong một ngày năm đó, chị mất anh Kiệt rồi mất luôn cả em. Gặp lại em, chị hồi tưởng lại những ngày hạnh phúc qua mau mà thấy lòng thổn thức. Ký ức hiện về rõ mồn một và chính em là chiếc chìa khóa mở rộng cửa ngõ quá khứ để chị cảm thấy nuối tiếc khôn nguôi. Và chị có thêm can đảm, Hưng ạ! Để chị kể cho em nghe sự yếu đuối của chị thế nào.
Hôm em chở về, chị em đã nói nhiều chuyện nhưng chị vẫn dấu em một điều. Bây giờ chị nghĩ em đã biết điều chị muốn dấu. Ngày gia đình chị vượt biên, chị chấp nhận ở lại giữ căn nhà để nhang khói cho anh Kiệt. Ông bà cụ anh Kiệt cũng giữ một chỗ cho chị trên chiếc thuyền con của gia đình. Chị từ chối. Chị không nỡ bỏ anh Kiệt, Hưng ạ! Thế mà lại may, chừng vài tháng sau đó, họ bắt phải cải mộ anh Kiệt đi chỗ khác. Nhờ chị ở lại nên mọi chuyện êm xuôi chứ không thì họ cày xới tung các ngôi mộ vô thừa nhận; vì gia đình đã đi vượt biên không còn một thân nhân ở lại để lo việc dời mộ. Nhưng chị lại gặp cái xui. Chính quyền quyết định trưng dụng tất cả những ngôi nhà có người chạy ra nước ngoài. Đúng ra họ lấn chiếm một cách trắng trợn có hệ thống. Ban đầu, họ ngang nhiên dọn vào, nhường lại cho chủ một căn phòng nhỏ. Em nghĩ xem, chị là đàn bà con gái, lại sống chung đụng với gần chục tên công an nửa người nửa ngợm thì chịu sao được. Vấn đề bếp núc đã bất tiện, vấn đề vệ sinh lại càng khó chịu hơn. Có lần, chị vừa tắm xong, lặng lẽ mang quần áo đi về phòng, liếc mắt thấy hàng chục con mắt nhìn chị chằm chằm. Nhìn những tia mắt dã thú của bọn công an người chị nổi cả gai ốc. Ngày hôm sau chị dọn ra, tuyệt nhiên không nói một lời. Thế là họ đương nhiên làm chủ căn nhà.
Cuộc sống của chị cơ cực mấy năm đầu, nhưng rồi cũng qua dần. Mỗi tuần chị đều ra mộ thắp nhang cho anh Kiệt, có khi chị ngồi tỉ tê với anh suốt buổi chiều. Tiền cha mẹ để lại một ít làm vốn, cọng với tiền ở ngoại quốc gửi về, chị chắt chiu cũng đủ sống. Khoảng hơn năm sau, chị xin được chân kế toán (sau khi anh Kiệt mất, chị chuyển trường học phân khoa Kinh tế) tại một chi nhánh ngân hàng nhà nước. Cuối cùng mọi việc tạm ổn, chị nhắm mắt sống yên thân giữa thành phố có quá nhiều hỗn loạn. Chị cảm thấy bằng lòng với quyết định ở lại để lo cho anh Kiệt.
Vậy mà vận số vẫn không tha cho chị. Tên thủ trưởng ngân hàng không biết sao mà hắn biết được chị là vợ của anh Kiệt, một phi công ngụy. Hắn hăm dọa sẽ đuổi chị ra khỏi cơ quan và truy tố ra toà án nhân dân vì tội lừa dối khai man với cách mạng. Hưng ơi, chị chỉ là một người đàn bà yếu đuối, sống bơ vơ giữa thành phố không có lấy một người thân. Giá như chị gặp em sớm hơn, có lẽ chị cũng không đến nỗi cô đơn khi quyết định. Nhưng sự thật phũ phàng là chị cam chịu làm những gì hắn muốn – kể cả việc cắn răng cho hắn làm chủ thân xác chị – để đổi lấy sự yên thân tạm bợ. Chị kể lể cho anh Kiệt nghe nỗi khổ, sự cô đơn cùng tận không có ai giúp đỡ khi gặp cơn nguy khốn. Chị nguyện xin Trời Phật thương phù hộ cho chị thoát khỏi cơn cùng quẫn thì chị gặp lại em. Trời ơi! Em biết không, chị nghĩ phải có phép lạ mới run rủi cho chị gặp lại em giữa mấy triệu người sống hỗn độn trong thành phố này. Và thật kỳ lạ Hưng ạ, gặp lại em chị bỗng thấy ngay một giải pháp giải quyết thật gọn mọi vấn đề. Giải pháp thật đơn giản nhưng có lẽ chị không đủ sáng suốt nghĩ đến hoặc không có đủ can đảm dám nghĩ. Chỉ biết rằng, sau khi gặp em, nó hiện ra rõ ràng trong tâm trí chị và phải mất cả tuần chị mới đủ can đảm quyết định.
Cám ơn em đã xuất hiện một lần cuối trong cuộc đời chị. Lần gặp gỡ đầu tiên, không hiểu sao chị mến em như một người thân trong gia đình và mãi mãi em vẫn chiếm một chỗ trong tim chị. Gửi lại em tấm thẻ bài, tấm thẻ mà chị giữ suốt mười sáu năm nay. Cứ mỗi tuần ra thăm anh Kiệt chị lại mang theo, ngồi bên mộ, tay mân mê tấm thẻ bài mà lòng ngậm ngùi nghĩ đến những ngày xưa thân ái, khi còn anh Kiệt và có em bên cạnh. Nhờ em trao nó lại cho gia đình anh Kiệt, hiện tại đang ở địa chỉ số…, đường…, thành phố…, Germany. Cả mấy năm nay không thư từ liên lạc nên không biết ông bà cụ còn ở địa chỉ này không. Em giúp chị tìm rồi trao tận tay ông bà cụ nhé. Em cũng liệu thư từ giải thích dùm với cha mẹ chị, hiện đang ở số…, đường…, thành phố…, USA. Chị thấy thật có lỗi với những người ruột thịt nhưng không biết làm sao hơn. Giúp chị gửi lời tạ lỗi đến cha mẹ chị. Chị không thua số mệnh nhưng bằng lòng chọn lựa mệnh số để trọn tình với anh Kiệt.
Còn mười lạng vàng là tất cả vốn liếng chị dành dụm bấy lâu nay. Gửi biếu em. Của phù du không cần nữa Hưng ạ! Em có thể dùng để mua lấy chút tương lai.
Thôi, chị ngừng đây. Chị muốn gặp em tận mặt để tâm sự nhưng nghĩ sao chị thấy viết ra như thế này dễ hơn. Cho cả em lẫn chị.
Thương em nhiều,
Hảo

Tôi thẫn thờ đọc những dòng chữ cuối. Rõ ràng đây là một lời trối trăn trong bức thư tuyệt mạng. Nói vội với mẹ tôi con phải đi đây có chuyện, tôi chạy sang nhà người bà con mượn chiếc Honda phóng một mạch lên chợ Trương minh Giảng. Gần đến trước nhà chị Hảo, tôi thấy người ta đứng lớp trong lớp ngoài phía bên này đường đang chỉ chỏ bàn tán. Trống ngực tôi đập thình thịch. Ngay cửa ra vào, chiếc xe cứu thương đậu quay đầu xe ra ngoài, hai cánh cửa sau mở rộng toang hoác. Vài ba tên công an vào ra ở cửa chính, vẻ mặt nghiêm trọng. Vòng ngoài còn bốn tên công an đang giữ trật tự, một đứa xua tay mời bà con giải tán đi làm việc. Hình như chẳng ai để ý đến hắn vì người ta vẫn túa đến mỗi lúc một đông; riêng những người đã đứng từ trước cứ bình thản bàn tán chuyện trò, xem như không có hắn. Nhìn cảnh tượng diễn ra trước mắt, không ít thì nhiều tôi cũng đoán được chuyện chẳng lành. Để biết rõ hơn, tôi muốn chen chân vào trong để hỏi han nhưng không dám bỏ chiếc xe Honda bên lề đường. Đang ngóng cổ ngơ ngác, tôi bỗng nghe tiếng gọi từ phía sau:
– Anh Tư, anh Tư.
Tôi quay lại và nhận ra ngay cô gái bán thuốc lẻ. Vì quá đông người chen lấn nên cô đã bê thùng thuốc lá ra một quãng xa. Cô vừa gọi vừa vẫy vẫy tay gọi tôi. Đẩy chiếc xe Honda lại gần, tôi móc túi đưa mấy trăm cho cô mua thuốc lá, giọng run run:
– Chuyện gì vậy cô?
Cô trao cho tôi hai điếu thuốc, nhìn quanh quất rồi hạ thấp giọng như sợ ai nghe lén:
– Quá sức anh Tư ơi. Anh hổng ngờ được cô Ba dám làm như dzậy. Anh biết hôn…
Nghe giọng cô ta chậm rãi kể chuyện, tôi đâm sốt ruột:
– Sao?
– Cô Ba tự tử, anh thấy ghê hôn? Em hổng ngờ cổ gan cùng mình dzậy đó.
Tôi đứng sững người, mắt nhìn cô ta không chớp:
– Sao cô biết?
– Dzậy mới hay chớ. Mà sao lần trước em gọi mà anh đi luôn hổng nói gì hết dzậy?
Trời ơi, con nhỏ kể chuyện này bắt sang chuyện kia chắc tôi đứng tim chết quá. Tôi nhỏ nhẹ:
– Tại hôm đó vội, với lại nghe tin cô Ba có chồng làm tôi cũng buồn buồn.
Cô gái nheo mắt hỏi:
– Thế anh là gì với cô Ba dzậy?
– Bí mật, cô kể tiếp chuyện đi rồi lát nữa tôi kể chuyện tôi với cô Ba cho nghe.
Cô chỉ ngón tay vào người tôi:
– Nhớ nghen, hổng bỏ chạy như lần trước nghe. Rồi, anh biết tại sao em biết hôn, thì thắng Cúi công an cho em biết chớ ai. Cái thằng đứng trước cửa nhà kìa. Thường thường em dọn hàng sớm lắm nên sáng nào cũng thấy thằng chả lái xe đi làm, rồi một lúc sau thấy cô Ba đi ra. Mà sáng nay, em hổng thấy thằng chả cũng hổng thấy cô Ba luôn. Khoảng 9 giờ, có đám công an phường gần chục đứa mặt lầm lì bước đến nhà thằng chả. Em thấy có đứa gõ cửa rồi đứa khác dùng xà-beng nạy tung cánh cửa. Cả bọn ập vào nhà. Khoảng nửa tiếng sau em nghe thấy tiếng còi hụ từ đàng xa. Thằng Cúi công an ra mở cửa dẫn mấy người cứu thương vào, họ còn mang theo mấy cái băng ca nữa. Em đứng ngồi hổng yên lo lắng cho cô Ba, hổng biết chuyện gì xảy ra cho cổ? Thấy thằng Cúi là em vẫy tay gọi nó liền. Anh biết hôn, bụng thằng này thẳng ro hà, dzới lại nó theo em tán hoài nên nghe em gọi nó mừng húm chạy sang liền. Em hỏi chuyện thì nó cho biết trong đó có người đàn bà tự tử. Em hỏi sao biết thì nó nói là có để lại lá thư. Em biết ngay là cô Ba. Trời ơi, cổ tự tử làm gì chớ, tức thằng chả nữa thì bỏ chớ tự tử làm gì cho uổng tấm thân. Mà cái tin này mới làm anh giật mình chết giấc. Thằng chả cũng đi luôn rồi. Cô Ba đầu độc thằng chả bằng thuốc rầy. Cái thuốc diệt rầy đó độc lắm, ngửi đã thấy xây xẩm mặt mày rồi chớ đừng nói uống. Lỡ uống vào thì thuốc tiên cũng hổng cứu được…
Tôi ngắt lời:
– Thế cô Ba tự tử thế nào?
– Cũng thuốc rầy luôn. Nghe đâu trộn vào thức ăn nên thằng chả chết từ đêm hôm qua lận. Em thấy tội nghiệp cô Ba quá anh Tư. Người hiền lành dễ thương như cổ mà bạc mệnh quá anh há.
Bây giờ mới thật sự là hết. Tôi thoáng thấy người ta đẩy hai chiếc băng ca phủ khăn trắng toát lên xe. Ôi! Chị Hảo đã ra người thiên cổ. Chị chấp nhận bỏ trần gian này để sum họp với anh Kiệt. Chị hạnh phúc khi gặp lại chồng, còn tôi đứng ở bên này bờ sinh tử thương một kiếp hồng nhan, nuối tiếc vô vàn một người chị mà tình thương và tình yêu trộn lẫn.
Tôi muốn chạy đến vuốt mắt chị nhưng không dám. Tội giết cán bộ không phải chuyện nhỏ trong chế độ đảng trị sắt máu. Nếu tôi nhận là người thân của chị thì chắc chắn tôi và cả gia đình sẽ bị liên luỵ ngay. Tôi đành cắn răng đứng nhìn người ta mang xác chị đi mà chỉ lẩm bẩm mấy chữ vĩnh biệt chị… Tôi mong những lời cuối sẽ theo gió bay lên chốn thinh không gửi đến cho chị, để chị yên vui buớc sang một kiếp luân hồi.
Trời ơi! Buồn làm sao nói hết được. Tôi quay người đẩy xe đi tránh không cho cô gái thấy giọt nước mắt đang lăn trên má. Cũng như lần trước, chạy xe đi quên không chào cô gái, tôi vẫn còn nghe tiếng cô léo nhéo phía sau …anh Tư… anh Tư… còn chuyện anh với cô Ba thì sao?…
Cảnh vật mờ nhoà qua ánh mắt tôi. Thò tay vào túi áo móc điếu thuốc, tay tôi đụng tấm thẻ bài. Cầm trên tay, tôi mân mê nó như một kỷ vật. Nó như cái mắt xích nối liền anh chị Hảo và tôi lại với nhau. Quá khứ chạy vụt về như một cơn lốc, mơ quay trở lại căn gác nhỏ có người thiếu nữ tựa cằm hỏi han, khuôn mặt lung linh những đốm nắng, giọng nói trong veo như tiếng chim hót trên đầu ngọn cây, thấy lại những ngày thân quen nâng niu tình chị em thắm thiết, nôn nao lây nỗi trông chờ chồng về thăm mỗi cuối tuần, chia sẻ nỗi đớn đau khi anh Kiệt hy sinh, và sự chọn lựa cuối cùng của chị Hảo. Ôi, chuyện mười sáu năm kết thúc chỉ trong một ngày. Thật đơn giản. Ông tạo mang vận số từng người ra xếp đặt đùa giỡn, tạo thành kiếp phù sinh. Phóng xe đi mà nước mắt cứ trào ra lăn trên má, tôi nghe lòng thổn thức gọi thầm: chị tha lỗi cho em, chị Hảo ơi, chị Hảo ơi…

Lời cuối:
Tôi có bàn với mẹ tôi đứng ra nhận xác chị Hảo về chôn cất. Mẹ tôi khuyên không nên dây dưa với chính quyền, hơn nữa lại dính tội sát nhân, không ít thì nhiều mình sẽ bị vạ lây. Không khéo cả nhà đi tù vì tội đồng lõa ám sát cán bộ. Suy đi nghĩ lại, mẹ tôi nói nên bán đi một cây vàng, cúng kiến cho hương hồn cô ấy sớm siêu thoát và làm phúc bố thí cho người nghèo. Tôi đồng ý và nghĩ chị Hảo chắc cũng thông cảm chẳng trách tôi. Một năm sau, tôi vượt biên để lại cho gia đình 5 cây vàng có vốn liếng làm ăn. Tôi thật không đành bỏ cha mẹ già và mấy đứa em; mẹ tôi thực tế hơn, khuyên con ở lại đây cũng chẳng giúp ích được nhiều, nay có chút tiền của nên đi để tìm tương lai cho chính con và sau này các em cũng được nhờ; gia đình ở lại cũng còn 5 cây vàng phòng khi túng quẫn, cũng không đến nỗi nào. Thế là tôi ra đi. Ở trại tỵ nạn bên Phi mất gần 4 năm, mãi đến đầu năm 1990 mới nhập cảnh Mỹ. Khi ở Phi, tôi viết hai lá thư hỏi thăm và kể rõ sự tình, gửi cho ông bà cụ anh Kiệt ở Đức và cha mẹ chị Hảo ở Mỹ. Thư gửi đi Đức bị trả lại vì không còn người ở địa chỉ đó nữa. Thế là tôi mất liên lạc. Tấm thẻ bài tôi vẫn luôn luôn giữ bên mình, lời yêu cầu của chị Hảo cứ canh cánh bên lòng. Vậy mà hơn mười năm trôi qua nơi xứ người…
Sở dĩ tôi viết lại câu chuyện thương tâm này vì mới hai tuần trước Tết Tân Tỵ tôi bắt liên lạc được với gia đình anh Kiệt. Bước sang thế kỷ 21, kỹ thuật mạng lưới toàn cầu phát triển tột bực và nhờ một vài người quen biết ở Đức dò la nhắn tin tức, tôi tìm được chỗ ở của hai cụ. Tôi được biết thêm cụ ông đã mất, cụ bà mắt đã mù. Tôi sẽ gửi câu chuyện trên đây như một lời giải thích cho bà cụ anh Kiệt về cuộc đời chị Hảo, kèm theo tấm thẻ bài của người con cả. Tôi cũng an tâm đã làm xong nhiệm vụ với người đã khuất. Cả đời người, tôi may mắn là nhân chứng cho một chuyện tình thương đau nhưng đẹp tuyệt vời. Mỗi năm, tôi đều thắp một nén nhang thương tiếc chị. Cầu mong hương hồn chị siêu thoát ở chốn vĩnh hằng.

HẢI NGỮ

MUỘN MÀNG

haingu

Tất cả những nhân vật trong truyện đều hư cấu,
mọi sự trùng hợp chỉ là ngẫu nhiên và nằm ngoài ý muốn của tác giả.

Tôi bất ngờ nhận được cú điện thoại từ Úc báo tin năm nay ông chủ tàu, ông Chung, sẽ tổ chức ngày hội ngộ cho tất cả những người vượt biển trên tàu ĐN1601. Hỏi tại sao đến giờ này mới tổ chức hội ngộ, ông trả lời rằng tính từ ngày rời cái đất khốn khổ đó đến nay là đúng 30 năm. Ý kiến độc đáo đấy chứ, tôi nghĩ thầm. Tôi hỏi tiếp, nhưng kể từ ngày rời đảo đi định cư đến nay, từng ấy người lưu lạc gặp bốn phương trời, biết làm sao mà quy tụ hết cho được. Tiếng ông cười dòn tan trên phôn:
– Đúng, làm sao báo cho hết từng ấy người. Tôi chỉ báo tin cho một số người còn giữ liên lạc với nhau, như anh chẳng hạn. Còn những người kia có muốn báo cũng không được vì có biết số điện thoại đâu mà gọi. Nhưng với hệ thống truyền thông hiện đại bây giờ thì tin tức lan đi rất xa, thế nào cũng có người đi cùng tàu nhận biết tin. Được cỡ 100 người hiện diện là quá tốt. Ở Úc tính sơ sơ cũng đến năm chục, ở Mỹ thêm vài chục nữa, hy vọng Âu châu cũng có người đến. Thế là vui rồi, mong gì hơn.
Ông còn thòng thêm:
– Tôi tính tổ chức ngay tại sân sau nhà tôi. Có thánh lễ tạ ơn, sau đó mình lai rai hàn huyên ôn lại quá khứ, dĩ vãng gì gì đó cũng được…
Dĩ vãng của những ngày lênh đênh trên mặt biển thoáng hiện rồi tan biến, để lại một vũng tối đen ngòm trong tâm trí tôi. Đột nhiên một khuôn mặt sáng rực nhoáng lên như ánh chớp. Tôi kêu thầm… Cát Hương… Cát Hương. Tôi chợt nhớ đến tên cô gái. Người con gái kỳ lạ trên biển Đông. Đã có lần tôi nhìn sâu vào đôi mắt ướt đẫm nỗi buồn của Hương mong chờ một quyết định khác. Ôi! Thấp thoáng thế mà đã 30 năm. Biết bao chuyện vật đổi sao dời từ đó đến nay. Không biết bây giờ nàng ra sao? Chồng con thế nào? Có ai biết thêm tin tức gì về nàng? Không hiết nàng có về tham dự hội ngộ? Tôi ngẩn người với hàng trăm câu hỏi dồn dập đổ về trong tâm tưởng. Miệng lẩm bẩm những câu hỏi như người mộng du, tôi rụt rè mở lại cánh cửa quá khứ đã khép chặt từ 30 năm.
Đột nhiên, tôi háo hức mong gặp lại nàng, mong cho mau đến ngày 9 tháng Mười. Cát Hương… Cát Hương…

* * *

Con tàu dài 13 thước, rộng 3 thước vượt bãi Hải Sơn ra cửa biển Vũng Tàu vào ngày 31 tháng 7 năm 1980. Ông chủ tàu ban đầu ước tính chỉ chở độ 80 người, thế mà khi ra đến cửa biển, thấy đàn bà con nít nằm la liệt khắp sàn tàu, chưa kể đàn ông thanh niên nhét cứng như nêm dưới hầm, ông lẩm nhẩm tính rồi phỏng chừng phải cỡ 120 người. Chạy được hơn nửa ngày đường, đến giữa trưa, ông cho phép mọi người lên hết boong tàu và đếm hết đầu người. Lúc đó, ông mới bật ngửa hóa ra con tàu đã oằn mình chở đến 163 người.
Vượt biển trên chiếc tàu mong manh như lá giữa dòng ai cũng đã trải qua nên tôi không muốn kể lại làm gì. Tôi chỉ xin nói về những con sóng trong cơn bão nổi lên vào ngày thứ hai của chuyến vượt biển. Cơn bão kinh hoàng nhưng đã củng cố lòng tin của tất cả mọi người, bất kể họ tin vào tôn giáo nào. Thú thật, đứng ở gần mũi tàu, ngọn đèn bão treo trên đầu con thỏ chiếu ánh sáng nhờn nhợt vào mặt biển đen kịt nhưng đủ sáng để tôi thấy những con sóng cao nghễu nghện cỡ mấy tầng lầu gầm thét đổ ập xuống con tàu mong manh. Thế mà nó vẫn gối sóng tung lên cao rồi đập cả thân hình mỏng dòn xuống mặt biển. Tiếng va chạm của đáy tàu đập xuống mặt biển vì sức nặng của 163 người phụ thêm tiếng gió thổi vun vút trong cơn bão và tiếng sấm chớp vang rền trên bầu trời đen đúa tạo nên một âm thanh khủng khiếp. Thoạt đầu khi mây kéo về đen kín cả một góc trời, gió gom lại từng cơn thổi mạnh dần, tiếng cầu kinh của các bà trên boong tàu đột nhiên vang lên khá nhịp nhàng như linh tính của phụ nữ báo biết trước một nguy hiểm gần kề. Hình như không ai bảo ai, khi nhìn thấy con tàu tròng trành theo cơn gió, họ hiểu ngay sự bất lực của con người trước cơn giận dữ của thiên nhiên và lời khẩn cầu với Đấng Tối Cao tự nhiên bật ra trên môi miệng. Tôi hiểu ngay đây là lời nguyện cầu của những người công giáo vì địa điểm nhổ neo ở Hải Sơn là tên của một họ đạo. Lời kinh bị cơn gió cuốn mất hút vào khoảng không đen ngòm, nghe chữ được chữ mất, ú ớ như người bị cấm khẩu. Tuy là người ngoại đạo nhưng tôi vẫn tin có Trời Phật. Miệng tôi cũng lẩm nhẩm những lời nguyện với Phật tổ, hiệp một lòng với những người có niềm tin sắt son. Chỉ độ chừng mươi phút sau đó, tiếng cầu kinh im bặt, vì những con sóng nhồi họ mửa đến mật xanh mật vàng. Tôi cũng chẳng còn lòng dạ nào mà nguyện xin, chỉ biết đứng nhìn sững thiên nhiên gầm thét đe dọa. Chưa bao giờ tôi cảm nhận được thân phận nhỏ bé của con người đến thế. Nó mong manh quá, yếu đuối quá. Một mạng người thật chẳng là gì khi ông Trời nổi cơn thịnh nộ. Những con sóng cao chập chùng, triền miên rú lên những âm thanh quái gở mà tôi chưa từng nghe một lần trong đời. Mũi tàu vẫn đập chan chát xuống mặt biển, con tàu vẫn gối sóng cố trườn tới với sinh lực của một người đang hấp hối. Biển như một con quái vật đang mở miệng rộng hoác sẵn sàng nuốt chửng lấy con tàu, cướp gọn sinh mạng của 163 thuyền nhân.
Tôi nghĩ con tàu chỉ chịu đựng thêm một vài lần thử sức với mặt biển rồi thế nào cũng nát ra từng mảnh, nhận chìm từng ấy con người vào lòng biển sâu. Vậy mà chẳng hiểu sao nó vẫn bền chí chống chỏi với cơn bão suốt cả đêm. Sau này, lên đến đất Mã-lai, anh tài công thở dài nói tối hôm đó anh cầm lái như người mộng du, theo quán tính, theo sự điều khiển của một bàn tay nào đó mà lòng tin của anh khẳng định là của Mẹ Maria. Tôi tin anh nói thật. Chẳng biết là Mẹ Maria của anh hay là Phật Bà Quan Âm của tôi nhưng tôi tin chắc rằng chỉ có phép lạ mới có thể đưa chúng tôi thoát khỏi cơn cuồng phong và đặt chân an toàn lên đất Mã-lai, đủ 163 người gồm cả đàn bà con nít không thiếu một người.
Nếu chỉ phải chống đỡ cơn cuồng phong trong suốt chuyến vượt biển thôi thì con tàu ĐNxxxx phải được kể là một trong những con tàu may mắn nhất sau 6 ngày 5 đêm lênh đênh trên biển. Thế nhưng nó cũng chịu chung số phận như những con tàu khác khi băng qua vịnh Thái lan. Đó là nạn hải tặc. Chúng chận cướp tàu chúng tôi không biết bao nhiêu lần, mà lần nào chúng cũng moi được đâu đó một ít vàng mà các bà vắt óc nghĩ cách dấu kín. Nhìn những tên hải tặc vóc dáng to lớn kềnh càng như pho tượng đồng, nước da đen đủi, mảnh xà-rông phong phanh quấn ngang hông, tay lăm lăm cầm con dao chặt cá, thanh niên khỏe mạnh như tôi cũng rùng mình chẳng dám nhìn thẳng vào mặt chúng. Có một lần, bọn hải tặc bắt hết đàn bà con nít lên tàu lớn của chúng, và giữ hết đàn ông trên chiếc tàu mong manh kéo theo sau. Cứ tưởng chúng sẽ đâm ngang thuyền giết chết hết đàn ông và tha hồ làm nhục tất cả đàn bà con gái. Thế mà không hiểu sao, sau vài tiếng đồng hồ giam giữ chúng lại thả hết đàn bà con nít, lại còn cho tàu chúng tôi vài can nước để tiếp tục cuộc hải trình.
Sau một đêm vất vưởng trên biển cả, tàu chúng tôi cập bờ Terengganu, một tỉnh thuộc Mã-lai. Trải qua thủ tục hành chánh của Cao ủy, tất cả 164 người được đưa về đảo Biđông và phân loại theo từng hộ, từng diện để chờ các nước đến mở hồ sơ phỏng vấn. Trong thời gian chờ đợi tại đảo, mỗi người đều nhận một việc làm nhỏ trong ngày, góp sức với Ban Quản trị điều hành công việc cho hơn 10 ngàn đồng bào trên đảo. Với số kiến thức thâu thập trong vài năm tại đại học Y khoa Sài gòn, tôi được nhận vào làm việc tại bệnh viện Sick Bay. Nữ y tá trưởng, người Úc, giao cho tôi nhiệm vụ y công kiêm luôn thông dịch. Thông thường mỗi buổi sáng, tôi ngồi tiếp từng bệnh nhân, giúp họ kê khai chi tiết cá nhân, đo mạch, lấy nhiệt độ và ghi vào hồ sơ bệnh lý. Sau khi bác sĩ hoặc y tá khám bệnh xong, tôi lại dặn dò họ từng loại thuốc để uống cho đúng. Chỉ cần hơn tháng tôi đã làm khá chạy việc.
Vào một buổi sáng, tôi tiếp một bệnh nhân là một cô gái dáng người nhỏ nhắn, tóc xõa dài ngang vai. Ngồi xuống ghế với dáng điệu mệt mỏi, cô trả lời khi tôi hỏi tên họ:
– Lê thị Cát Hương.
– Ngày tháng năm sinh của cô?
– 25 tháng 10, 1962.
– Số tàu?
– ĐN1601.
Tôi nhận ra ngay số tàu nhập trại tỵ nạn của tôi. Như reo lên, tôi cười cười:
– Ồ! Cùng tàu với tôi. Vậy mà tôi không biết cô.
– Đông quá làm sao ai biết ai. Nhưng em biết anh vì anh lo thủ tục nhập trại cho cả tàu vào những ngày đầu tiên.
– Nào, cô cho tôi biết bệnh ra sao?
– Không hiểu sao em cảm thấy mệt mệt trong người, với lại buổi sáng em cứ buồn nôn.
– Tình trạng này xảy ra bao lâu?
– Khoảng hai tuần nay.
Triệu chứng này thì ai cũng biết căn nguyên. Ngưng viết, tôi đưa mắt nhìn cô gái. Nàng cũng đưa mắt ngơ ngác nhìn tôi chờ đợi câu hỏi tiếp để trả lời. Tôi đọc được ở đôi mắt trong veo thoáng ẩn một chút buồn. Khuôn mặt cô bé tròn trĩnh, mái tóc chải giữa vén sang hai bên để lộ vầng trán cao, hơi nhô về phía trước. Tuy có cái trán bướng nhưng với cánh mũi khá gọn, cặp môi vừa, khuôn mặt của nàng thoát lên một vẻ đẹp ngây thơ, hiền dịu. Tôi dè dặt:
– Thế cô ở chung hộ với ai?
Cô bé lắc đầu nhè nhẹ:
– Không, em có ở chung với ai đâu. Em đi có một mình.
Tôi hỏi gặng:
– Ý tôi không hỏi cô vượt biển với ai. Tôi muốn hỏi là cô đang chung sống với ai? Hoặc giả cô có… liên hệ tình cảm với ai không?
Hơi nghiêng đầu qua một bên, cô tỏ vẻ ngạc nhiên:
– Không… em sống một mình, ở khu B. Mà anh hỏi liên hệ tình cảm là sao, em không hiểu?
Tôi nhìn thẳng vào mặt cô gái:
– Xin lỗi cô, vì đây là thủ tục của bệnh viện nên tôi phải hỏi những chi tiết khá riêng tư để ghi vào hồ sơ bệnh lý, mong cô thông cảm.
– Em hiểu. Mà có sao em khai vậy chứ chẳng thêm bớt gì.
Tôi nhỏ giọng:
– Tôi biết nhưng ý tôi muốn hỏi là cô có bạn trai không?
Khuôn mặt cô càng trở nên ngơ ngác:
– Em chưa hề có bạn trai bao giờ, kể cả lúc còn ở Việt nam. Mà sao anh cứ hỏi gặng em về chuyện tình cảm vậy?
– Tại vì… tại vì nó dính đến cái chuyện buồn nôn vào mỗi buổi sáng của cô.
Đôi mắt cô mở lớn:
– Vậy sao?
Nhìn vẻ kinh ngạc của cô, tôi tin cô bé nói thật. Tất cả sự thành thật hiện rõ trên khuôn mặt thơ ngây. Có lẽ tuổi của cô còn nhỏ để biết những chuyện người lớn. Giọng ân cần, tôi nhìn thẳng vào đôi mắt của cô bé:
– Tôi tin cô nói thật. Thế này nhé, tôi ghi vào phần gia cảnh là cô còn độc thân. Lát nữa vào khám bệnh bác sĩ sẽ cho cô biết rõ hơn.
Bận rộn thêm một số bệnh nhân nữa rồi đến phiên tôi thay ca. Người thông dịch trong phòng khám bệnh không đến trực nên tôi lại phải thế chỗ. Khi đi ngang qua dãy ghế ngồi đợi, tôi thấy cô bé vẫn kiên nhẫn ngồi chờ, dáng người nhỏ nhắn trong bộ áo cánh, hiền lành như một con mèo. Nhìn thấy tôi, cô khẽ nhếch môi, gật đầu chào.
Thêm một vài bệnh nhân rồi đến phiên cô gái. Vị bác sĩ người Úc liếc sơ tờ khai và hỏi cô bằng tiếng Việt:
– Cô đau yếu thế nào?
Cô bình thản trả lời đúng như lời khai lúc sáng. Kéo chiếc màn gió cho kín đáo, vị bác sĩ bảo cô nằm xuống trên chiếc bàn dài. Dùng ống nghe ông rà khắp người cô bé để nghe nhịp tim, nhịp thở. Sau cùng, ông hỏi bằng tiếng Anh:
– Lần cuối cô thấy kinh nguyệt cách đây bao lâu?
Tôi đứng phía ngoài màn dịch theo lời khai của cô:
– Khoảng gần hai tháng.
Gạt chiếc màn gió sang bên, ông buông thõng:
– Có thể cô có thai hơn tháng rồi. Muốn biết chắc chắn, cô trở lại đây vào ngày mai để siêu âm.
Tôi vừa dịch xong, cô bé trợn tròn mắt:
– Anh nói sao? em có thai?
Nhìn cô gái đứng sững giữa phòng hỏi dồn dập, tôi chẳng biết nói sao với cô, chỉ nhè nhẹ gật đầu. Sự phỏng đoán của tôi lúc sáng phần nào đã thành sự thật. Nhìn tôi đăm đăm, nét mặt sửng sốt của cô chợt dịu dần rồi trong đôi mắt bỗng vỡ òa một nỗi buồn nào đó mà tôi cảm nhận nó đậm nét hơn, đau đớn hơn lúc tôi nhìn thấy cô buổi sáng. Nhìn đôi mắt sũng buồn long lanh giọt lệ tràn ra hai bên khóe mắt, tôi biết chắc đây chẳng phải tin vui. Tôi an ủi cô:
– Bác sĩ cũng không chắc nữa. Ngày mai cô đến đây để siêu âm, như thế sẽ biết rõ hơn.
Cô gật đầu chào tôi, cám ơn vị bác sĩ và ủ rũ bước ra ngoài. Tôi ái ngại nhìn theo cô bé, trong lòng vẫn thắc mắc sao một cô gái đã 18 tuổi mà vẫn không biết gì đến chuyện thai nghén. Bận rộn với những bệnh nhân khác, suốt ngày tôi quên bẵng cô. Mãi đến chiều tối, trở về lán, sau bữa cơm chiều cơm nằm đong đưa trên võng, tôi chợt nhớ đến khuôn mặt ngây thơ của cô gái.
Tôi suy đoán có thể nào cô ta mang bầu trước khi xuống tàu vượt biển không? Có thể lắm vì bác sĩ phỏng đoán cô có thai độ hơn tháng. Tàu của tôi nhập trại cũng khoảng từng ấy thời gian. Nhưng làm sao một cô gái chưa hề có bạn trai, lên đến đảo ở riêng một mình mà lại mang bầu? Lạ quá! Người tôi chợt nổi gai ốc khi nghĩ đến chuyến vượt biển bị hải tặc cướp đến mấy lần. Tôi không hề thấy chuyện hãm hiếp, chỉ thấy cướp bóc. Và tôi bỗng nhớ đến lần cướp cuối cùng khi bọn hải tặc bắt hết đàn bà con gái lên tàu lớn của chúng và giam giữ họ khá lâu. Có thể chúng đã làm bậy một số cô gái trong thời gian này. Chắc chắn chúng chỉ chọn một số cô gái trẻ, độc thân. Vì xấu hổ nên khi lên tàu chẳng ai nói với ai điều gì, kể cả người thân vì tôi chẳng nghe những lời xầm xì bàn tán gì cả. Cho dù cha mẹ hay thân nhân có đoán được thì cũng vì tôn trọng sự đau khổ của những nạn nhân nên lờ đi, xem như không biết và cắn răng nuốt lấy nỗi đau. Khi nghe tôi báo cô có thai, tôi cũng thấy được một thoáng đau đớn và buồn rầu trong ánh mắt của cô bé. Nếu đây là một sự thật, tôi bỗng thấy mình cần phải gần gũi để giúp cô trong thời gian tới. Không hiểu sao tôi lại tự hứa với tôi những ràng buộc như thế. Có thể vì khuôn mặt ngây thơ của cô, hoặc vì đôi mắt ướt sũng một nỗi buồn nào đó mà tôi háo hức muốn tìm cho ra lẽ, cũng có thể vì thân cô côi cút một mình và bản chất đàn ông trong người tôi nổi dậy thấy cô cần được che chở, bao bọc. Cũng có thể vì từng ấy lý do nhưng rõ ràng ngay từ giây phút ấy, định mệnh đã nối kết hai chúng tôi lại và kéo dài mãi đến 30 năm về sau.
Kết quả của lần siêu âm vào ngày hôm sau xác nhận cô bé có thai. Nghe lời tuyên bố chắc nịch của bà y tá, đôi mắt cô rưng rưng rồi úp mặt vào hai bàn tay bật khóc. Nhìn cô gái nức nở, bà y tá trưởng cũng đứng sững như trời trồng. Lẽ ra đây phải là tin vui như những phụ nữ khác khi một mầm sống đang nhú lên trong lòng chứ. Tôi tiến lại gần, đặt tay lên vai cô:
– Cô Hương, cô Hương…
Nhưng nàng ngẩng mặt lên, khẽ cựa người tránh bàn tay tôi và đi gần như chạy ra khỏi phòng, để lại âm vang của nỗi đau đớn mà bà y tá trưởng vẫn chưa hiểu thấu. Cô vừa đi khuất, bà quay sang tôi:
– Anh có biết cô này không?
– Thưa không, cô ta đến bệnh viện lần đầu, nhưng tôi biết cô ta đang ở khu D.
– Làm sao mà cô ta có thể đau khổ đến vậy?
Tôi ngần ngừ, xoay xoay hai bàn tay:
– Có lẽ bà mới đến làm việc ở đây nên chưa hiểu những thảm cảnh xảy ra trên biển. Như bà biết, nạn thuyền nhân bắt đầu sớm lắm, khoảng 77 – 78 đã có người mầy mò kiếm đường vượt biển rồi. Mãi đến đầu năm nay, số thuyền nhân bỏ nước ra đi đột nhiên nhảy vọt vì sự áp bức trong nước ngày càng gia tăng trầm trọng. Ban đầu nạn hải tặc không có gì đáng kể và họ cũng chỉ cướp vàng thôi. Mãi đến mấy tháng gần đây, bọn ngư phủ Thái đã bắt đầu hãm hiếp phụ nữ, gây ra chuyện thương tâm như trường hợp cô Hương vừa rồi. Nhưng tôi cũng chỉ phỏng đoán thôi, biết đâu bên trong còn nhiều uẩn khúc khác.
Bà thở dài, rồi nét mặt chợt nghiêm nghị hẳn:
– Anh nên tìm cô ta và nói rằng bệnh viện có đủ phương tiện để giúp cô ta trục thoát cái thai nếu không muốn giữ. Đừng để cô ta quá tuyệt vọng.
Buổi chiều hôm đó, tôi tản bộ về phía khu D. Hỏi thăm một vài người quen tôi tìm được lán của Hương. Lán ở trên đảo thì lán nào cũng như lán nào, chỉ khác nhau ở kích thước. Những người đi trước lên rừng chặt cây làm nhà, nghe đâu thuở trước phải mua đến mấy cây vàng. Tấm bạt xanh ni-lông của Cao-ủy phát khá dày, đủ làm mái và vách để che mưa che nắng, kể cả bức màn cửa. Đứng phía ngoài lán, tôi gọi nhỏ, cô Hương… cô Hương… Căn lán vẫn im lìm, mãi đến lúc sau mới có tiếng vọng ra nghe như mèo kêu:
– Ai đó?
– Tôi là Hòa, làm ở bệnh viện thông dịch cho cô lúc sáng.
Có tiếng trở mình trên chiếc chõng đan bằng tre, rồi giọng Hương hơi vội vã:
– Anh Hòa hả? anh chờ em một chút nhé.
Một lát sau, có tiếng Hương mời tôi vào nhà. Vén miếng vải xanh che cửa bước vào, tôi đã thấy Hương ngồi sát vách trên chiếc chõng tre, dựa lưng vào cột. Bên này là cái bếp với cái kiềng ba chân, nồi niêu treo thẳng tắp trên mấy chiếc đinh đóng sâu vào cột nhà, khuất bên trong là chiếc màn cửa. Nhà của con gái có khác, ngăn nắp, trật tự chứ không bữa bãi như lán của tôi. Hương mời:
– Anh ngồi tạm trên chiếc chõng này đi.
Chẳng lán nào có bàn để ngồi, tất cả sinh hoạt đều ở trên chõng, ăn và ngủ kể cả tiếp khách. Tôi ngồi thả hai chân gần chạm đất, ngập ngừng không biết phải mở lời thế nào thì cô gái đã lên tiếng:
– Xin lỗi anh… về chuyện sáng nay. Em xúc động quá nên có thái độ không nhã nhặn với anh và bà người Úc.
Tôi xua tay:
– Không… không, có gì đâu. Bà Ann không những chẳng trách cô mà còn nhờ tôi đến gặp cô để nói chuyện nữa.
Hương co hai chân lên, người chồm về phía trước, hai tay ôm lấy đầu gối. Cái dáng cô tựa cằm vào đầu gối, hai mắt mở to nhìn tôi như háo hức muốn biết bà y tá muốn nhắn với cô chuyện gì. Tôi nhìn thẳng vào mắt cô, hạ giọng vừa đủ hai người nghe:
– Thật ra tôi không có quyền đi sâu vào đời tư của Hương nhưng vì bà Ann nhờ tôi nhắn lại với cô một chuyện nên tôi phải hỏi thêm một chút nữa. Không biết có tiện cho Hương lắm không?
– Em biết anh muốn hỏi em điều gì rồi nhưng nói ở đây không tiện. Nếu được, chúng ta đi tản bộ ra bờ biển nói chuyện hay hơn. Anh thấy sao?
Tôi hiểu ngay những gì Hương sắp thổ lộ là chuyện quan trọng nên nàng mới đề nghị đến một chỗ khác kín đáo hơn. Nhà lán ở trên đảo nằm liền san sát, chỉ cách nhau một tấm vải mong manh. Chuyện bên này lán nói hơn lớn giọng là bên kia nghe rõ mồn một. Vì vậy, mọi người trong nhà nói chuyện rù rì với nhau nghe như muỗi kêu, trừ khi gây gỗ chẳng cần giữ gìn ý tứ gì nữa.
Tôi sánh vai đi với Hương về phía khu C, nơi có những quán càphê mở cửa mỗi ngày sát bãi biển, thường ồn ào tấp nập về đêm. Chủ quán có thân nhân ở Mỹ gửi cho một chiếc máy hát to lớn cồng kềnh và thêm chục cuốn cát-sét nhạc ngoại quốc. Càphê tuy cấm nhưng nếu chịu khó giao dịch với cảnh sát Mã lai thì cái gì cũng có. Từng ấy thứ cọng với chút vốn ban đầu là đủ để mở một quán càphê kiếm tiền khá dễ. Dân tỵ nạn nằm dài trên đảo chờ ngày đi định cư nên ngày tháng thong dong không biết phải làm gì cho hết giờ. Nếu có chút tiền rủng rỉnh trong túi thì quán càphê là nơi tiêu khiển thú vị nhất. Vừa kiếm lại chút không khí thuở xưa nay đã mất, vừa bảnh chọe khoe mình có tiền, vừa hãnh diện với người tình vừa mới làm quen trên đảo nên quán càphê lúc nào cũng đông nghẹt khách. Cả hai chúng tôi đi lặng lẽ bên nhau, không nói một lời nào. Băng qua dãy lán nằm im lìm trong nắng chiều, tiếng nhạc rập rình đột nhiên nổi lên rộn rã. Hương khẽ kéo tay tôi về phía tàn cây dừa, cách xa những quán càphê ồn ào tiếng nhạc. Ngồi bệt xuống bãi cát trắng, Hương vẫy tay:
– Mình ngồi đây được rồi anh.
Tôi ngồi xuống bên Hương, khoảng cách xa vừa đủ giữ lễ nhưng cũng gần vừa đủ thân mật. Ngồi bó gối nhìn mông lung ra biển lấp lánh ráng chiều, Hương lặng yên với những ý nghĩ. Tôi cũng chẳng biết nên mở lời thế nào cho tiện. Hương lấy ngón tay vẽ lên mặt cát những vòng tròn vô nghĩa như nỗi lòng ngổn ngang mà nàng đang giấu kín. Mặt biển ngoài khơi phẳng lì như một phiến đá, sóng biển vỗ nhẹ vào bờ nghe mơn man như một tâm sự buồn. Ngồi một lúc khá lâu, tôi quay lại nhìn Hương:
– Bà Ann nói với anh bệnh viện có đủ phương tiện để phá cái thai nếu Hương không muốn giữ.
Hương ngồi thẳng lên, nàng vẫn lặng lẽ câm nín. Không biết nàng có nghe tôi nói gì không nữa, tôi nhủ thầm. Tôi hỏi gặng:
– Hương nghe anh nói gì không?
Ngả người ra sau tựa lưng vào gốc dừa, Hương nhìn thẳng vào mắt tôi:
– Còn anh, anh nghĩ sao?
Tôi ngập ngừng:
– Xin lỗi Hương nhưng anh rất đồng ý với bà Ann. Anh đoán cái thai của Hương là một tai nạn. Mà nếu là tai nạn thì giữ lại làm gì.
Vầng trán của Hương cau lại, trông càng bướng bỉnh thêm. Nàng mín chặt môi:
– Anh đoán đúng cái bào thai em đang cưu mang là một tai nạn. Anh với em cùng đi trên một tàu nên em chẳng giấu anh làm gì. Anh còn nhớ lần cướp tàu cuối cùng không. Bọn hải tặc dồn hết đàn bà con nít lên tàu lớn rồi lục xét hết đàn ông các anh. Đang khi lục xét ở cuối tàu thì có mấy đứa làm hỗn bọn em. Chuyện này hầu như không ai biết, vì hầu hết đàn bà say sóng mệt lả người, đàn ông thì chúng dồn hết về cuối tàu. Em xem đó là một tai nạn nên cắn răng nuốt lấy tủi nhục. Mãi đến lúc bà Ann xác nhận có thai em vẫn không giữ được xúc động. Sự tủi nhục lại dấy lên mãnh liệt nên cả tối hôm qua em chẳng chợp mắt được. Tuy đoán trước chuyện không may nhưng khi nghe tin em vẫn bàng hoàng sửng sốt. Từ sáng đến nay, mặc dù bàng hoàng nhưng em vẫn đủ lý trí để suy nghĩ giải quyết chuyện của em. Cám ơn anh đã cho em lời khuyên.
Câu cuối, Hương nói với giọng dấm dẳn, khách sáo nghe thật xa lạ. Cái kiểu không vừa lòng nên nói hờn, tôi nghĩ thầm. Tôi không hiểu Hương trách vì tôi đi sâu vào đời tư của nàng hoặc Hương muốn giữ lại cái thai mà tôi đưa ra lời khuyên trái ngược. Lời khuyên chân tình của tôi gặp phản ứng lạnh nhạt bất ngờ của Hương làm tôi hụt hẫng. Tôi thật sự lo lắng cho nàng. Đúng như tôi tiên đoán, bào thai trong bụng Hương là một tai nạn khủng khiếp mà có lẽ nó sẽ ám ảnh và đè nặng lên tâm trí suốt cả đời nàng. Tâm sinh lý của nàng sẽ bị ảnh hưởng nặng nề vì cái bào thai hệ lụy này. Bởi vậy tôi khuyên nàng thật tình, phải vất bỏ nó đi. Hòn máu bất đắc dĩ của một tên hải tặc trong cơn động cỡn của một con thú đực đang lớn dần trong bụng Hương. Nghĩ cho cùng, hận lắm chứ. Đó là hòn máu hận thù. Cần dứt bỏ nó như cắt đi một mầm mống ung thư không thương xót. Chỉ vì lo lắng cho Hương nên tôi mới có một đề nghị chân tình như thế. Vì không đo lường trước được phản ứng của Hương nên khi nàng tỏ ra lạnh nhạt tôi chợt thấy mình thừa thãi, vô duyên hơn bao giờ. Tôi tự trách mình không đâu lại dính vào chuyện riêng của một cô gái để giờ đây ngồi đực như tượng đá. Hương vẫn ngồi im lìm, lặng lẽ. Mấy lần tôi dợm đứng dậy bỏ về để mặc Hương ngồi lại một mình nhưng lại không muốn mang tiếng khiếm nhã. Đã đưa Hương ra đến bãi biển thì tôi phải có trách nhiệm đưa nàng về, cho dù nàng giận tôi thế nào đi chăng nữa.
Bóng tối từ ngoài khơi đang gầm gừ tiến dần vào bãi. Cơn gió thổi đến từ hướng Đông mang theo vị mằn mặn của biển và một chút se lạnh của hơi nước. Khẽ rùng mình, Hương đứng dậy:
– Về thôi anh.
Giọng nàng có vẻ hòa hoãn chứ không còn hờn giận như lúc nãy. Tôi khẽ thở phào nhẹ nhõm đứng lên dẫn Hương đi ngược lại phía khu D. Gần đến bệnh viện Sick Bay, tôi chào từ giã và hứa sẽ đến thăm nàng. Hương gật đầu nói cám ơn anh. Nhìn dáng đi ẩn nhẫn chịu đựng của một cô gái chưa đến mười tám lầm lũi bước trong cảnh chạng vạng của buổi chiều tà, lòng tôi chợt dấy lên một nỗi thương cảm u hoài. Sự hãm hiếp của tên hải tặc vóc dáng to lớn như con bò mộng mãi mãi là một cơn ác mộng trong đời Hương. Chỉ riêng điều đó tôi cảm thấy quá sức chịu đựng của Hương rồi. Thế mà ông Trời lại nhẫn tâm bắt nàng mang thêm hòn máu của tên hải tặc khốn khiếp. Tôi chưa hiểu được ý Trời tại sao lại “ghen tức” hành hạ những cô gái như Hương. “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen” chăng? Không, Hương chẳng sắc nước hương trời gì, cũng chẳng thiên kim ngọc diệp nào cho cam. Khuôn mặt Hương chỉ đượm một nét đẹp hiền từ, nhuốm chút ngây thơ của một cô gái chưa vướng bụi trần. Thôi thì cho rằng ông Trời bắt lầm người như Hương phải chịu “phong trần” cũng còn hiểu được đi nhưng chuyện nàng không tán thành đề nghị phá thai tôi vẫn không thể nào hiểu được.
Những tuần kế tiếp Hương thường xuyên đến bệnh viện để lấy thuốc và thăm thai. Tuyệt nhiên nàng không hề đề cập đến chuyện phá bỏ cái bào thai đang lớn dần. Bụng Hương đã nhu nhú nhô cao. Bà Ann nói với nàng những rủi ro có thể xảy ra nếu muốn trục thai sau quá ba tháng. Tuyệt nhiên bà vẫn tôn trọng quyết định của Hương. Tôi nói xúi vào:
– Bà phải nói thêm vào. Tôi chắc không thể nào khuyên cô ấy được nhưng với tư cách là y tá trưởng, bà nên nói rõ những bất lợi về tinh thần của nàng nếu giữ thai.
Bà Ann ôn tồn:
– Anh biết gì về bất lợi và thuận lợi. Sự yên ổn về tinh thần tùy thuộc vào quyết định theo ý của người mẹ. Chính sự bó buộc phải làm một việc gì không theo ý mình mới gây ra sự bất ổn tinh thần. Tôi chỉ trình bày hết tất cả mọi góc cạnh của sự việc, rồi để cô ta quyết định và chúng ta phải tôn trọng quyết định đó. Là phụ nữ với nhau, tôi càng thông cảm quyết định của nàng. Đừng áp đặt hoặc bó buộc điều gì nếu người ta không muốn.
Vài tuần sau, tôi mới nghe chính Hương nói lên nỗi lòng:
– Em quên nói với anh, gia đình em ở giáo xứ Bắc hà. Ở mãi tận Sàigòn mà mầy mò mãi xuống tận Hải Sơn để vượt biển. Ba mẹ em tìm mối đẩy đi từng đứa một, em là đứa đầu tiên. Chuyện đau khổ trên đường vượt biển em xem như đi vấp cục đá trên đường. Tuy đau đớn nhưng rồi vết thương sẽ lành, em vững tin như thế. Thật không ngờ nó lại dây dưa đến cái bào thai. Em khóc hôm bà Ann đưa tin vì từ buổi chiều tai ương trên tàu bọn hải tặc em chỉ muốn quên nó đi, đâu có ngờ cả tháng sau lại nghe tin dữ nên bao nhiêu tủi nhục lại đổ về dồn dập. Em có đủ nghị lực để xếp chuyện không may vào quá khứ. Thế mà ý Chúa lại muốn em chấp nhận một hòn máu bất đắc dĩ. Em suy nghĩ cả ngày hôm đó. Luật bảo vệ mạng sống thật nghiêm khắc, rõ ràng trong đạo công giáo. Nhưng đó chỉ là luật đạo, phần lý trí, còn luật của trái tim sao chẳng ai nói đến. Cái bào thai vẫn là kết tinh một phần thân thể của em. Làm gì thì làm, nó vẫn là con em, anh ạ. Luật đạo em chưa nói đến, nhưng còn tình mẫu tử, luật của con tim không cho phép em làm cái điều bất nhân đó, nhất là khi đứa bé chẳng có một sức kháng cự nào.
Hương nói khoan thai, chậm rãi. Những nghĩ suy của nàng chất chứa từ lâu nay được giải bày một cách mạch lạc. Tình mẫu tử thiêng liêng là sợi giây ràng buộc khiến Hương quyết định giữ lấy hòn máu oan nghiệt. Tôi không dám bàn thêm một lời nào vì hành động liên quan đến bản năng, truyền thống tình cảm. Nhìn con gà mẹ liều mình bảo vệ đàn con khỏi móng vuốt của con diều hâu thì hiểu rõ bản năng của một người mẹ. Bao nhiêu thú dữ ở rừng già cũng giữ một truyền thống hy sinh cho đàn con nếu mạng sống của chúng bị đe dọa. Khi hiểu rõ được tấm lòng của Hương, mặc dù không đồng ý hẳn với quyết định như thế nhưng tôi thầm cảm phục sự can đảm của nàng. Những lời dị nghị, xầm xì bàn tán, dấu tích của một lần bị cưỡng hiếp, vết thương lòng sẽ khó lành, vết sẹo tâm lý sẽ lâu phai mờ… chỉ vì Hương quyết định giữ lấy cái bào thai. Tất cả những hệ lụy đó đều có thể tránh khỏi nhưng nàng vẫn ngang nhiên thách thức số phận, nghe theo tiếng nói tha thiết của tình mẫu tử.
Không biết sau đó bao lâu, tôi yêu Hương. Tôi chẳng biết tôi thật sự yêu nàng bắt đầu từ lúc nào. Lúc gặp gỡ tình cờ tại bệnh viện, tôi chợt muốn chăm sóc cho nàng vì biết thân con gái côi cút sống một mình trên đảo, lại mang thai vướng nhiều tủi nhục. Chỉ trong vài tuần, cái thai hành hạ đến nỗi Hương gần như kiệt sức hoàn toàn. Lúc đó, Hương rất cần một người bên cạnh để chăm sóc đỡ đần, nhất là lúc đưa nàng đến bệnh viện thăm thai. Không hiểu tại sao tôi lại tự nguyện nhận những trách nhiệm không đâu như thế. Quấn quýt bên Hương độ vài tháng thì tôi chợt nhận ra tình yêu đã bàng bạc ngấm vào tim. Tình yêu đến thật nhẹ nhàng với tiếng hót của con sáo ẩn mình trong tàn dừa cất tiếng vào những buổi sớm mai đi bộ với Hương trên bãi biển. Khi làn gió mơn man lọn tóc mai vào những buổi chiều ngồi bên Hương vọc đùa những hạt cát trắng tinh như tấm lòng trinh khiết của nàng là lúc tôi cảm nhận được đời tôi đã gắn bó với định mệnh oan nghiệt của Hương. Tình yêu sáng rực trong tim tôi như ánh nắng lấp lánh lung linh trên mặt biển.
Một lần, Hương ngả đầu vào vai tôi, thỏ thẻ:
– Em yêu anh có muộn màng lắm không?
Tôi hôn nhẹ lên mái tóc mượt mà của Hương:
– Muộn màng?
Hương nhìn tôi âu yếm:
– Thì thân em đã lỡ như thế này…
Tôi cướp lời nàng:
– Sao em nói lỡ. Chuyến tàu định mệnh đã run rủi em gặp phải chuyện không may. Chuyện ngoài ý muốn chứ có ai muốn thế đâu. Em quyết định chấp nhận chuyện không may bằng cả tấm lòng. Anh yêu Hương vì tấm lòng như thế.
Hương không nói gì. Nàng lặng lẽ nhìn tôi. Ánh mắt sâu thẳm xoáy vào hồn tôi như một thổ lộ nồng nàn hơn bao giờ. Đôi mắt sũng nước, Hương chớp chớp mắt. Giọt nước mắt rịn ra bên khóe, Hương ngả đầu vào vai tôi. Đâu đó trên vai áo tôi thấm đậm nước mắt của Hương. Tôi nghe như nước mắt của Hương rót vào tim tôi từng giọt tình yêu say đắm. Cả hai ngồi như thế lâu lắm để tình yêu thấm vào tim hòa chung một nhịp.
Bụng Hương ngày càng lớn. Tình yêu trong tôi cũng lớn dần theo thời gian. Nàng đi đứng khó khăn hơn. Mỗi lần muốn đứng lên Hương nhăn mặt lấy tay đè phía sau lưng, tay kia lấy thế vịn đâu đó rồi dùng hết sức đu người đứng dậy. Tôi bàn với Hương cả hai nên nhập chung một hộ. Hương không có thân nhân nào sống ở nước ngoài, còn tôi chuẩn bị định cư ở Mỹ. Hồ sơ bảo lãnh đã hoàn tất, phỏng vấn đợt đầu cũng đã xong. Nhập Hương vào chung hồ sơ thời gian đi định cư sẽ kéo dài thêm vài tháng vì phải bổ túc giấy tờ nhưng đối với tôi có Hương trong đời là một món quà quý giá nhất, cho dù phải ở lại trên đảo cả năm. Hương chấp nhận tình yêu của tôi, chấp nhận đi bên tôi trong suốt quãng đời còn lại. Nàng nói nếu không bị tai nạn mang thai không chắc gì anh và em yêu nhau. Hương đặt niềm tin vào sự xếp đặt của Thiên Chúa, đấng tối cao ở trên trời mà khi nghe nàng nói tôi chẳng hề có một khái niệm nào. Tôi không tin lắm vào số mệnh nhưng nghĩ cho cùng cơ duyên để yêu nhau đúng là có một bàn tay vô hình nào đó đưa đẩy. Tôi hạnh phúc vì từ đây tôi có Hương trong đời để bắt đầu một cuộc đời mới bên nhau và với nhau. Tình yêu đầu cả hai không một chút kinh nghiệm nhưng tôi vững tin vào khả năng của mình. Tôi sẽ đi học lại, đùm bọc Hương và chúng tôi sẽ có một gia đình hạnh phúc.
Một đêm, nằm trằn trọc sắp xếp tương lai, tôi chợt nhận ra trong toàn bộ kế hoạch tôi chưa từng nghĩ đến đứa bé, con của Hương. Đúng, bây giờ tôi đang bao bọc mẹ con nàng nhưng khi định cư ở Mỹ, dự tính tôi sẽ đi học lại kiếm mảnh bằng, có việc làm, giúp Hương học lại, và hạnh phúc sẽ ở giữa chúng tôi. Nhưng tôi giật mình khi nhận ra tôi chưa hề nghĩ đến đứa con sắp ra đời của Hương trong mái ấm gia đình mà chúng tôi sẽ cùng nhau xây dựng. Sinh nở xong, đứa con sẽ là một thành viên trong gia đình của tôi. Tôi không thể nào chối từ sự hiện diện của nó. Thế mà tại sao tôi không hề nghĩ đến một sự kiện quan trọng như thế. Tôi mang máng nhận ra rằng tôi chưa hề chuẩn bị tinh thần để đón nhận đứa con của Hương. Tôi bàn với nàng:
– Anh nghĩ đến đứa con sắp ra đời, Hương ạ! Anh hứa sẽ chăm sóc và lo lắng cho em cả đời anh. Nhưng anh lo sợ sự hiện diện của nó sẽ ảnh hưởng đến đời sống gia đình của chúng ta.
Hương ngơ ngác:
– Anh nói thế nghĩa là sao? Nó là con của em…
Tôi ngắt lời:
– Anh hiểu, nhưng ý anh nói nó với anh không có một liên hệ tình cảm nào cả. Anh không biết phải đón nhận nó như thế nào cho đúng.
– Thì anh cứ xem con em cũng là con của anh.
Tôi nhăn mặt:
– Anh cũng nghĩ như thế. Nhưng tình cảm của anh có đủ không, anh có sẵn sàng chập nhận nó không. Sau này khi chúng ta có con với nhau rồi làm sao. Thú thật với Hương, những câu hỏi này cứ lẩn quẩn trong đầu anh cả tuần nay.
Hương nghiêm sắc mặt:
– Thế anh tính thế nào?
Tôi phân trần:
– Anh với em đã ghép chung hộ rồi. Hồ sơ xem như xong và chỉ chừng vài tháng nữa mình sẽ đi định cư ở Mỹ. Anh tính, sau khi sinh nở xong, chúng ta nên giao nó cho một viện mồ côi nào đó hoặc đem cho những cơ sở chuyên tìm kiếm cha mẹ nuôi. Anh nghe nói người Mỹ họ từ tâm lắm, con nít bị bỏ rơi là họ đem về nuôi liền.
Hương quay đi, thở dài:
– Anh không thấy mâu thuẫn trong câu nói của anh. Anh nói người Mỹ họ có lòng từ tâm, thế lòng từ tâm của em đâu? Không lẽ lòng từ tâm của một người mẹ lại không bằng lòng từ tâm của một người Mỹ xa lạ khi họ bằng lòng thương yêu một đứa bé do chính em mang nặng đẻ đau? Nếu đem cho đứa con, con người em không bằng loài thú.
Một lần nữa, tình mẫu tử của Hương lại vượt lên tên tất cả. Nàng dứt khoát không chịu hy sinh đứa con để đổi lấy tình yêu, để có một mái ấm gia đình. Đối với Hương, đứa con hệ lụy chính là hạnh phúc duy nhất mà nàng khăng khăng giữ chặt. Hạnh phúc tương lai với tôi phải bao gồm đứa con đang lớn lên trong bụng Hương. Nếu không có đứa bé, tất cả hạnh phúc khác đều là hư vô, hão huyền.
Hương nói thêm:
– Em hiểu anh. Anh có cả một tương lai trước mặt. Em không nói dỗi nhưng thật sự cuộc đời lỡ làng của em không thể so sánh với tương lai của anh được. Anh chưa sẵn sàng để thương yêu một đứa bé xa lạ, không một chút máu mủ; điều này em cũng rất thông cảm với anh. Cám ơn anh đã cho em một chút hy vọng về tình yêu. Có thể sau này em sẽ nuối tiếc làm vuột mất hạnh phúc vì không chấp nhận đề nghị của anh nhưng em biết chắc em đang có hạnh phúc vì đứa con đang cưu mang. Em không muốn thả mồi bắt bóng.
Ý Hương đã quyết, cho dù tôi đề nghị và giải thích thế nào đi nữa. Tình yêu đến rồi đi trong thoáng chốc chỉ vì một bất đồng không thể có giải pháp dung hòa. Hương dứt khoát không chịu bỏ con, tôi hoàn toàn không chấp nhận một đứa bé rơi rớt từ biển Đông. Tôi yêu Hương, chấp nhận sự rủi ro ngoài ý muốn nhưng đứa bé mãi mãi là nhân chứng của một cơn thú tính Thái và tôi không thể xem nó là một thành viên bình thường trong gia đình. Tôi khăng khăng giữ ý nghĩ cực đoan đó để vô tình đánh mất một tình yêu đến bất ngờ như duyên kỳ ngộ. Mãi về sau, khi lập gia đình, tôi mới thấm được tình thương của cha mẹ với con cái và nhận ra đứa con của Hương quả tình vô tội. Hành động của tên hải tặc Thái đã bắt đứa bé hiện diện vào cõi đời này với nhiều nước mắt của người mẹ. Nó đáng được thương yêu hơn ai hết. Không thể vì một hành động điên rồ của người cha bất đắc dĩ mà nó cũng bị ghét lây. Tôi khuyên Hương đem cho đứa con là vô cùng sai trái. Có khác nào khuyên nàng cắt bỏ trái tim mình. Tôi cũng nhận ra tình yêu với Hương mang nhiều vị kỷ. Tôi yêu Hương nhưng tôi nghĩ đến tôi nhiều hơn, và do đó quyết định khi xa nàng cũng vì chất vị kỷ hèn yếu đó. Chỉ tiếc là những ngày cuối cùng trên đảo tôi không kịp nhận ra sự ích kỷ đó để đến nỗi phải xa Hương và dây dưa mãi đến hơn 30 năm sau trong ngày hội ngộ.
Hương cắn răng tách riêng hộ để giữ đứa con. Phái đoàn Thụy sĩ ưu tiên cho những phụ nữ như Hương, diện không có thân nhân lại đang mang thai rất cần sự chăm sóc. Vì thế, sau khi đứng riêng hộ chừng hơn tháng, Hương lên đường định cư tại Thụy sĩ, bỏ lại nỗi tiếc nuối nghẹn ngào cho tôi khi đứng trêncầu Jetty tiễn nàng lên tàu vào đất liền. Hương lặng lẽ ôm lấy tôi chia tay. Tôi vẫn níu kéo một chút hy vọng:
– Hứa với anh đi Hương. Chúng ta sẽ bắt đầu lại từ đầu…
Nàng lắc đầu không nói một lời nào, đôi mắt ướt đẫm nước mắt. Tôi dặn vói theo nhớ gọi phôn cho anh nếu em đổi ý, anh sẽ bảo lãnh em sang Mỹ ngay. Điều ước mong của tôi không bao giờ đến vì tôi chẳng bao giờ nhận được một cú phôn nào từ Thụy sĩ. Điều này cũng có nghĩa là Hương đang sống nuôi con đâu đó ở vùng Bắc Âu. Ý nghĩ về Hương chập chờn trong giấc ngủ chừng khoảng một năm rồi trôi dần vào quên lãng vì tôi phải vùi đầu vào việc học. Đến khi có việc làm và lập gia đình thì tôi hoàn toàn chìm ngập vào công việc và trách nhiệm nên chẳng có dịp nhớ lại mối tình đầu thơ mộng đầy trắc trở thương đau. Cho đến bây giờ, ngày hội ngộ, ngày những thuyền nhân của tàu ĐN1601 gặp gỡ sau từng ấy năm. Lòng tôi bồn chồn với kỷ niệm lại đổ về dồn dập cả tháng trước ngày lên đường đi Úc. Tôi thổn thức nhớ lại bãi cát trắng ở khu C in dấu chân tôi và Hương khi lững thững bước bên nhau ngắm trăng lên. Gối tay cho Hương nằm giữa trời mây cùng nhau đếm những vì sao lung linh mà lòng thấy ấm hẳn một nỗi hạnh phúc vô bờ. Ôi, biết bao kỷ niệm tuyệt vời bên nhau. Tình yêu vàng óng những kỷ niệm như thế lại bị đánh mất dễ dàng đến thế sao, tôi ngẩn ngơ tự hỏi lòng mình. Hương, cô gái với vầng trán bướng bỉnh, cưu mang nhục nhã trên biển Đông với nhiều nước mắt. Gặp được tình yêu nàng cũng khóc trong hạnh phúc ngắn ngủi. Chưa được bao lâu thì Hương lại ngậm ngùi chia tay tình yêu để giữ đứa con. Vừa mới tròn 18 tuổi, cuộc đời Hương chỉ thấy những giọt lệ lăn dài trên đôi má. Có bao giờ nàng nếm được vị hạnh phúc lâu dài…
Đột nhiên tôi thầm khấn xin Trời Phật cho tôi gặp lại Hương, một lần nữa.

* * *

Con đường dẫn đến nhà ông chủ tàu khá xa, ngoằn nghoèo. Hơn nửa đoạn đường toàn là rừng cây hai bên. Rừng không rậm nhưng cây cối mọc đủ đan kín tầm nhìn. Thấp thoáng những căn nhà nằm sâu đàng sau những hàng cây cao vút. Xe chạy bon bon trên con đường trải nhựa bằng phẳng. Bầu trời Brisbane xanh biếc vào ngày thứ Bảy đầu tháng Mười, hứa hẹn một ngày nắng ráo hợp với nhiều sinh hoạt ngoài trời. Tôi đến hơi trễ. Người nhà dẫn tôi ra phía sân sau, nơi mọi người đang nghiêm trang tham dự thánh lễ tạ ơn. Sở dĩ tôi biết nghi thức này vì những ngày Chủ nhật trên đảo, Hương dẫn tôi lên đồi Tôn giáo để tham dự thánh lễ với nàng. Người công giáo thường bắt đầu những buổi họp mặt bằng thánh lễ để tạ ơn Thiên Chúa. Tôi đứng hẳn riêng ra một góc, lẩn thẩn nhìn ngang dọc. Số người tham dự khá đông, ghế ngồi không đủ chỗ. Một vài gia đình đứng chung với nhau. Ngày đi chỉ có một mình, bây giờ thì bầu đoàn thê tử ba bốn người. Tôi chưa nhận ra được một ai, phần vì chỉ nhìn nghiêng hoặc phía sau lưng. Thời gian chắc chắn đã làm thay đổi nhiều. Có người lúc lên đảo tuổi trung niên, bây giờ có lẽ tóc đã bạc phơ. Ba mươi năm, gần nửa đời người chứ ngắn ngủi gì.
Ở góc phải, tôi nhận ra một dáng đứng quen thuộc, mái tóc xõa ngang vai. Người đàn bà mặc chiếc áo đầm chấm gối, màu xanh nhạt. Tôi hồi hộp nhìn cái dáng nhỏ nhắn, gợi nhớ một vòng tay ôm thuở nào. Nhìn nàng đăm đăm, tôi ngần ngừ chẳng biết có nên tiến lại hỏi thăm không. May quá, nàng quay lại như linh tính báo cho biết có người đang nhìn trộm. Tôi nhận ra ngay khuôn mặt của Hương. Thời gian có tẩy xóa một vài nét thanh tú trên khuôn mặt nhưng đôi mắt ngây thơ đó, sống mũi đó như chìa khóa mở toang cánh cửa dĩ vãng của hơn 30 năm về trước. Hương thoáng nhíu mày nhìn tôi rồi chợt đưa bàn tay lên che miệng để kịp nuốt tiếng gọi thảng thốt của một quá khứ đã chôn kín từ lâu. Tôi tiến lại phía sau nàng, hỏi thầm Hương khỏe không? Nàng cúi mặt, gật gật đầu. Tôi cố cầm lòng không dám hỏi thêm một lời nào sợ làm mất bầu khí trang nghiêm của thánh lễ. Tôi đứng lặng lẽ bên Hương trong suốt buổi lễ nhưng lòng ngổn ngang với trăm câu hỏi. Nàng cũng đứng âm thầm xem như không có tôi bên cạnh. Tôi chỉ mong thánh lễ kết thúc để hỏi han Hương cho hết lời.
Sau thánh lễ là lời chúc mừng và cảm tạ của ông chủ tàu. Tôi kéo Hương ra một góc vắng bỏ lại tiếng ồn ào giới thiệu quan khách ở khắp nơi về tham dự ngày hội ngộ đặc biệt. Tôi chỉ mong ôm lấy Hương nhưng lại sợ mang tiếng suồng sã. Ngồi xuống chiếc ghế, tôi vồn vã:
– Thật không ngờ em về được. Anh có linh tính là sẽ gặp lại Hương.
Nàng mỉm cười:
– Em phải về chứ. Về để gặp lại những người xưa.
Hương nhấn mạnh chữ những, ngụ ý về gặp lại nhiều hơn là một người chứ không riêng gì tôi. Có lẽ để tránh hiểu lầm. Con gái Bắc kỳ có khác, cứ rào trước đón sau mãi. Riêng tôi, tôi về chỉ mong lại gặp mỗi Hương. Tôi tảng lờ như không hiểu:
– Dĩ nhiên, cả một quá khứ có biết bao nhiêu vui buồn với biết bao người.
Hỏi thăm Hương đến hôm nào, ở Brisbane ngụ tại nhà người quen hay khách sạn, tôi nói về chuyến đi của tôi. Một mình quay lại tìm dĩ vãng. Hương thắc mắc:
– Vậy là anh đi có một mình. Sao không dẫn chị ấy theo.
Không biết Hương hỏi thật tình hay dọ dẫm tìm hiểu đời sống của tôi. Tôi thú thật:
– Vợ anh mất khá lâu rồi Hương ạ!
Hương giật mình, mở tròn mắt. Ôi! Đôi mắt vẫn sáng long lanh như thuở nào, chỉ tội những giọt nước mắt rơi với nhiều phiền lụy:
– Ồ! Em xin lỗi. Thật không ngờ…
Trong đôi mắt Hương ánh lên một chút sáng rồi tắt ngúm như muốn chia sẻ nỗi đau góa vợ của tôi.
– Loan, vợ anh mất cách đây mấy năm vì ung thư ngực. Chữa xạ trị được một năm rồi cơ thể nàng đuối dần. Hai đứa con gái mất mẹ từ đó, nhưng bù lại chúng chăm ngoan nên anh cũng cảm thấy an ủi được phần nào.
Tôi nhìn Hương, dọ dẫm:
– Thế còn em, em đi có một mình?
Nàng nhếch môi cười, vẻ bí mật:
– Không, em đi hai mình, nhưng không phải chồng em. Nói thêm cho anh biết, em vẫn ở vậy từ đó đến nay.
Đến lượt tôi mở tròn mắt thốt lên hai tiếng vậy sao? Giọng nói của tôi mang chút ngạc nhiên nhưng cũng không kìm giữ được chút reo vui khi biết Hương vẫn còn độc thân. Nỗi vui hy vọng thoáng qua rồi tôi thật ngạc nhiên khi biết Hương vẫn ở vậy nuôi con trong suốt từng ấy năm. Giọng ngậm ngùi, tôi nâng bàn tay thuôn thuôn điểm chút sơn màu đỏ thẫm:
– Anh phục em. Một mình nơi xứ lạ mà bương chải nuôi con một mình. Phần anh, anh không dám nói quên hẳn em nhưng cuộc sống khắc nghiệt khiến con người trở nên chai đá lì lợm đi. Kỷ niệm cứ lãng đãng trong trí nhớ thuở mới định cư rồi sau này bị cuốn hút vào nhịp sống bận rộn đến nỗi anh mất hết dấu vết của thời gian ở trại tạm trú. Trách nhiệm gia đình mới cũng làm trí nhớ anh mai một mãi cho đến khi biết tin ngày hội ngộ. Anh cần có người đồng hành với anh trên đời. Và anh thật không ngờ em dám bước đi một mình.
Hương im lặng nghe tôi nói. Nàng khẽ thở dài quay mặt đi, tránh không cho tôi thấy đôi mắt ươn ướt:
– Em không thể yêu ai được nữa ngoài… anh. Em không nói với anh 30 năm trước nhưng bây giờ em nói thẳng với anh một lần. Vết thương tủi hổ trên biển Đông vẫn còn đậm nét trong những ngày trên đảo. Hễ thấy bóng đàn ông là em đã sợ run người. Cho đến khi yêu anh, em cảm thấy lòng thật ấm áp, hết còn cảm giác sợ hãi nữa. Cám ơn anh đã cấy tạo cho em niềm tin. Em yêu đời, yêu đứa con trong bụng. Vết thương lòng bớt xót xa sửa soạn kéo da non thì anh lại xa em. Lòng em nguội lạnh hẳn từ đó. Sang xứ Bắc Âu, em cố thử một vài lần, làm quen bạn trai Việt, kể cả người bản xứ tập cho con tim yêu thêm một lần nữa. Thế mà cái cảm giác run sợ lại đến mãnh liệt hơn bao giờ. Rồi cũng như anh, bận rộn với cuộc sống, em ở vậy và thật hạnh phúc khi thấy đứa con khôn lớn, chẳng tha thiết gì đến chuyện lập gia đình nữa.
Hương kể lại đời nàng mà sao tôi nghe như một lời kết tội. Không dám nhìn nàng, tôi cúi mặt cố giấu nét mặt ngượng ngùng. Tôi đã đem hạnh phúc tình yêu đến cho người con gái xấu số. Rồi tôi vất bỏ hạnh phúc để cô gái khóc tức tưởi một mình trong suốt ba mươi năm. Tôi cào sâu vào vết thương lòng của Hương. Nàng đã đau khổ hai lần trong từng ấy tháng ngắn ngủi: tên hải tặc Thái và tôi. Có lẽ tôi nặng tội hơn vì vết thương sắp lành thì tôi lại làm nó vỡ toang đớn đau như xát muối. Lần đau khổ khi mất tình yêu vì những tính toán vị kỷ của tôi chắc chắn đã giết chết những tình cảm còn may mắn sót lại trong tim của Hương. Tôi thì thầm:
– Anh xin lỗi Hương…
Nàng cướp lời:
– Không… không… anh không có lỗi gì. Có chăng là em bạc phận. Hôm nay là ngày vui, biết bao người cần gặp gỡ để ôn lại kỷ niệm. Em nói hết nỗi lòng một lần với anh cho dù khá muộn sau ba mươi năm nhưng không biết đến khi nào chúng ta mới gặp lại nhau. Em thổ lộ tâm sự chứ không trách anh; trái lại em cám ơn anh đã cho em một dịp yêu và được yêu, cho dù thời gian chỉ vài ba tháng.
Tấm lòng của Hương vẫn bao dung, độ lượng cho dù bị đời vùi dập đến tàn nhẫn. Lần tôi đặt điều kiện với nàng nghiệm ra tôi chưa thật sự yêu nàng. Vì nếu đó là tình yêu thật sự, như tôi đối với Loan – người vợ xấu số, thì rõ ràng tôi sẵn sàng chấp nhận hết tất cả để được yêu. Hương cho đó là tình yêu nhưng bây giờ ngồi nghĩ lại tôi mới thấy tình yêu đó mang nhiều vị kỷ, tính toán cho tương lai. Nghe Hương nói hai chữ cám ơn mà lòng tôi thêm xấu hổ.
– Lần anh đặt điều kiện hy sinh đứa con với em, bây giờ anh hiểu anh nghĩ về anh nhiều hơn là nghĩ về em. Yêu nhau là hy sinh cho nhau, nếu cần phải chịu phần thua thiệt như anh đã từng đối với vợ anh. Không hiểu sao anh vẫn chủ quan lúc đó cho rằng anh suy nghĩ đúng. Có lẽ anh ươm mơ cả một tương lai trước mặt với lòng tự tin sẽ tạo dựng nên sự nghiệp ở xứ người. Vì thế, anh mới xem thường tình yêu đối với Hương.
Nàng lắc đầu:
– Thôi, bỏ chuyện buồn xưa cũ đi. Gặp lại được anh là em vui rồi.
Rồi nàng nắm lấy tay tôi đứng dậy:
– Anh vào đây để em giới thiệu cho em một người đặc biệt.
Trở lại sân sau, mọi người đã đứng lố nhố cười đùa vui vẻ. Tiếng ông chủ tàu vẫn oang oang trên máy phóng thanh, giới thiệu từng nhân vật đến từ nhiều nơi. Thức ăn thức uống bày la liệt trên bàn. Lò nướng bốc khói nghi ngút mang theo hương thơm của món thịt ướp xứ kangaroo. Con nít chơi đùa khắp khoảng sân rộng bao la. Hương níu tay tôi dẫn đến trước mặt một thanh niên khá cao lớn:
– Em giới thiệu với anh. Đây là Nhân, còn đây là bác Tuấn. Anh đoán xem nó là ai?
Tôi ngờ ngợ. Chàng thanh niên cao hơn tôi gần một cái đầu. Khuôn mặt hao hao giống Hương. Nước da ngăm ngăm, tóc xoắn, anh thanh niên cúi đầu chào tôi lễ phép bằng tiếng Việt đúng giọng:
– Chào bác.
Hương nheo nheo mắt:
– Anh đoán xem?
Tôi lắp bắp không nói thành lời:
– Con em? Đứa bé em… mang… thai ở đảo?
Hương gật đầu hãnh diện:
– Chứ còn ai nữa.
Rồi nàng quay sang cậu con trai:
– Đây là bác Tuấn mà mẹ thường kể chuyện cho con nghe. Lúc mẹ mang bầu bác săn sóc cho mẹ nhiều lắm.
Cái cảm giác ngượng ngùng – một lần nữa – chợt đến như cơn bão. Đứa bé vô tội tôi xúi nàng giết chết khi mới tạo hình trong bụng mẹ. Tôi lại còn muốn nàng giết chết luôn tình mẫu tử để đổi lấy tình yêu của tôi. Cả hai đề nghị Hương đã khôn ngoan từ chối để giờ đây tôi bối rối đứng đối diện với nhân chứng của một tấm lòng bao dung, xấu hổ với nạn nhân của những tính toán ích kỷ. Tôi xoắn hai tay vào nhau:
– Thật không ngờ con cao lớn quá. Bác rất vui được biết con.
Nhân cúi đầu:
– Cám ơn bác. Mẹ con cũng nhắc đến bác luôn. Con tin chắc mẹ con cũng rất vui khi gặp lại bác.
– Hôm nay là ngày vui, con thấy không? Gặp lại được bao nhiêu người cũ. Khi đi có một mình, bây giờ ai cũng có gia đình, kéo theo vợ chồng con cái. Chỉ riêng mẹ con vẫn một mình như những ngày ở đảo.
Hương nheo mắt:
– Sao lại một mình, em đã có đứa con trai này đây. Ít nhất có thêm được một người.
Tôi chép miệng:
– Thì đành vậy, nhưng…
Tôi bỏ lửng câu nói, không tiện bày tỏ ý nghĩ trước mặt cậu con trai. Nhân ý tứ xin phép rút lui để chúng tôi được tự nhiên. Tôi dặn vói:
– Lát nữa bác muốn nói chuyện riêng với con nhé.
Nhân gật đầu rồi quay đi. Tôi và Hương đến chào ông bà chủ tàu. Ông bà thật hiếu khách, đến từng nhóm để chuyện trò, hỏi thăm. Có biết bao chuyện để nói sau từng ấy năm, tưởng chừng nói không bao giờ hết chuyện. Tay bắt mặt mừng, chúng tôi ôm chầm lấy nhau. Kỷ niệm chuyến hải hành 6 ngày lênh đênh trên biển khơi lại đổ ập về. Nói chuyện rôm rả được một lúc, Hương gặp mấy người quen lôi kéo nên xin kiếu. Tôi đi vòng vòng quanh sân tìm kiếm người quen. Những khuôn mặt xưa cũ giờ đây đã cằn cỗi theo thời gian. Có người tôi không còn nhận ra, phải nhắc lại nhiều chi tiết để trí nhớ có cơ may hồi tưởng. Từng người với mái tóc bạc phơ, nếp nhăn khắc sâu thêm trên trán, da dẻ nhăn nhúm màu xám xịt. Nhìn từng ấy đổi thay để thấy thời gian thật khắc nghiệt. Ba mươi năm đủ dài để lão hóa lớp thanh niên trên chuyến tàu ĐNxxxx. Sức sống bây giờ truyền lại cho lớp trẻ, lớp người sinh ra nơi xứ lạ. Chắc chắn cha mẹ đã nói cho họ biết ý nghĩa của cuộc hội ngộ. Nhờ chuyến tàu đó mà 164 người mới tiếp tục hưởng được bầu khí tự do rồi lập nghiệp, lập gia đình. Và từ đó họ được sinh ra làm người và hưởng tất cả mọi quyền lợi ở một đất nước dân chủ. Họ theo cha mẹ đến đây để làm nhân chứng cho một thế hệ hiên ngang vươn lên nơi quê người, làm hãnh diện giống nòi. Những thành công về mọi mặt họ gặt hái được minh chứng đất nước dân chủ hơn hẳn chế độ cộng sản độc tài. Những thành quả đó chắc chắn sẽ bị hạn chế rất nhiều nếu cha mẹ họ không trốn thoát trên chuyến tàu ĐN1601 và kẹt lại nơi quê nhà.
Nhân, đứa con của Hương lại khác. Chàng là kết quả của một sự tủi nhục mà có lẽ không muốn ai nhắc đến. Sự ra đời của chàng trong một hoàn cảnh thật éo le, đòi hỏi sự hy sinh lớn lao của người mẹ. Hương đã hy sinh và muốn chứng tỏ quyền làm người của những đứa bé ngay khi chỉ là một hòn máu đỏ hỏn. Nàng hãnh diện với quyết định đầy tình người 30 năm về trước khi dứt khoát giữ lại cái bào thai. Hương dẫn đứa con quay lại gặp những người cũ nhân ngày hội ngộ không hề đắn đo suy nghĩ về những lời dị nghị. Có thể nàng muốn nhắn nhủ với mọi người, hoặc riêng với tôi không chừng, rằng mạng sống thật quý giá, cho dù ở bất cứ tình huống nào. Tôi nao nao tự hỏi nếu Hương xuôi theo lời khuyên của tôi trục bỏ cái thai khi ở đảo thì dòng đời sẽ trôi về đâu, chuyện tình sẽ ra sao mỗi khi nhớ lại mình đã một lần phạm tội giết con. Tôi hăm hở đi kiếm Nhân. Tôi nợ chàng thanh niên một lời xin lỗi chân tình.
Kéo Nhân ra một góc sân, tôi nói với chàng, giọng run run:
– Bác nói ngay là bác với mẹ con đã có một thời yêu nhau khi còn ở trên đảo. Có lẽ mẹ con không nói rõ những ngày tháng gian truân mẹ con phải gánh chịu khi mang thai con. Con là nguyên nhân mà bác và mẹ con xa nhau. Mẹ con muốn giữ con còn bác thì không. Bác nợ với mẹ con một nhưng lại nợ với con hai lời xin lỗi vì bác đã cố tình giết chết con hai lần.
Đôi mắt Nhân mở lớn kinh ngạc. Vầng trán bướng bỉnh cau lại tỏ vẻ không hiểu.
– Mẹ con có nói đến những ngày ở đảo. Mẹ cũng thường nhắc đến tên bác nhưng con không ngờ câu chuyện lại bi thảm đến thế.
– Con đã lớn nên bác nghĩ cũng chẳng cần dấu con làm gì. Điều bác muốn nói là tình thương của mẹ con thật tuyệt vời.
Rồi tôi ân cần kể hết cho Nhân lần gặp gỡ duyên nợ cho đến lúc tiễn nhau ở cầu Jetty. Lần đầu bác đề nghị mẹ con phá cái thai, xem như bác khai tử con một lần. Vài tháng sau, bác lại đề nghị đem con vào viện mồ côi. Đó là lần thứ hai. Lần đầu mẹ con xem thường những lời dị nghị để giữ cháu. Lần thứ hai mẹ con hy sinh tình yêu để chọn cháu. Tôi siết chặt tay Nhân:
– Đây là dịp may cuối cùng để bác nói lời xin lỗi với con. Mong con tha lỗi cho bác.
Nhân đứng dậy ôm lấy tôi. Nét mặt nghiêm nghị, chàng nhìn thẳng vào mắt tôi:
– Con không dám nói là bác có lỗi với con. Ở hoàn cảnh đó, có lẽ ai cũng suy nghĩ và hành động như bác. Riêng con, con cám ơn bác đã nói rõ một lần. Khi lớn lên, con có nhận ra sự khác biệt giữa màu da và hình hài giữa hai mẹ con nhưng không nghĩ ngợi gì. Lên đến đại học, qua sách báo ở thư viện con biết phong trào thuyền nhân và những nguy hiểm trên đường vượt biển. Qua đó, con có ngờ ngợ về thân phận của mình. Con gặng hỏi mấy lần nhưng mẹ con lảng tránh không trả lời. Mãi về sau, mẹ con mới thú thật hoàn cảnh ra đời của con. Con nhớ lần đó, con quỳ xuống cám ơn mẹ đã cho con một cơ hội được sống. Mẹ ôm lấy con khóc hết nước mắt. Con chỉ biết thế và yêu thương mẹ con hơn. Nhưng không ngờ bác cũng đóng một vai trò quan trọng trong cuộc đời của mẹ con. Mẹ con lâu lâu có nhắc đến bác và chép miệng thở dài. Hôm nay bác lại cho con biết mẹ con đã hy sinh tình yêu của bác để giữ con. Con cũng hiểu thêm ý nghĩa của những tiếng thở dài của mẹ con. Như thế, con càng nợ mẹ con nhiều lắm.
Chuyến đi hội ngộ tìm lại được những người xưa. Cả hai ngày, tôi quấn quýt bên Hương, chăm sóc cho nàng tận tình như 30 năm về trước khi Hương bụng mang dạ chửa. Nàng vẫn giữ thân tình trong cách cư xử, hầu như quên hết những lỗi lầm của tôi. Tôi muốn nói thật nhiều với Hương nhưng không đủ can đảm. Có một chút mặc cảm tội lỗi, thêm một chút lo sợ không biết tình cảm của nàng có còn như xưa. Nếu Hương từ chối tình yêu của tôi, như tôi đã từ chối tình yêu tha thiết của nàng trước đây, tôi không dám trách nàng vì chính tôi là người gây ra cớ sự. Chính tôi đã cam tâm giết chết mối tình, Hương âm thầm sống vậy nuôi con, chịu đựng mọi thiệt thòi. Bây giờ tôi không có một lý do gì để bước chân vào cuộc đời của nàng. Trừ phi… trừ phi…

Buổi sáng tiễn mẹ con Hương ở phi trường Brisbane, trời trở lạnh hơn bao giờ. Cơn lạnh còn sót lại từ mùa Đông đủ làm tê tái lòng người, như tôi. Bắc Âu bây giờ cũng đã chớm lạnh vào thu. Không biết Hương bay về vùng trời đó có mang theo một chút ấm áp hội ngộ của trời Úc, để tình yêu có cơ may hồi sinh? Nhân ngồi riêng ra một góc để tôi và Hương được tự nhiên. Lần hội ngộ này là chắc chắn là lần cuối vì những mái tóc đã hoa râm. Tuổi già đã thấp thoáng trước mặt. Ba mươi năm xưa cuộc tình của tôi và Hương đã bắt đầu và kết thúc cùng một nơi chốn để giờ này có cơ may chắp nối ở bầu trời Úc. Tình yêu đã đi lạc một thời gian dài, gần nửa đời người, bây giờ gặp lại tôi không thể để lạc mất Hương một lần nữa. Ngày trước khi ngỏ lời yêu Hương, tôi chững chạc và tự tin vì dù sao nàng cũng cần một người bên cạnh để chăm sóc đỡ đần. Lần này, trong hai ngày qua tôi lại rụt rè và ngập ngừng như cậu con trai mới lớn, không biết phải ngỏ lời với Hương thế nào.
Chia tay nào mà không có ngậm ngùi. Lần tiễn Hương bụng mang dạ chửa nặng nề bước lên cầu Jetty rời đảo tôi thấy lòng chùng xuống, hy vọng nàng đổi ý vào phút chót. Nhìn đôi mắt sũng nước của Hương lúc đó lòng tôi bồi hồi nhưng không hiểu sao tôi vẫn khăng khăng giữ ý định nàng phải hy sinh đứa con để đổi lấy tình yêu. Bây giờ tiễn Hương đi, tôi cũng hy vọng nàng sẽ đổi ý yêu tôi một lần nữa. Ngồi đợi chuyến bay tôi ủ bàn tay Hương bằng thổn thức của tấm lòng. Tôi vuốt mái tóc nàng bằng sôi nổi của trái tim như một người mới biết yêu lần đầu. Ước mong tình yêu thấm qua bàn tay để cùng hòa chung một nhịp như những lần ngồi ngắm trăng lên ở bờ biển khu C. Tôi có quyền hy vọng, không có gì ngăn trở tình yêu của tôi và Hương nữa.
Nhân tiến lại gần nhắc mẹ đã đến giờ trình vé vào cửa. Hương lặng lẽ đứng dậy, đôi mắt ươn ướt nhìn tôi. Lòng thổn thức hơn bao giờ, tôi siết chặt lấy Hương, thủ thỉ bên tai nàng:
– Anh yêu em bây giờ có muộn màng lắm không?
Thật không ngờ tôi lập lại đúng câu nói của nàng ba mươi năm trước. Dĩ vãng dẫn dắt tôi nhớ lại câu nói và tôi thốt ra lời tỏ tình như một phản xạ. Hương buông tôi ra, nước mắt rơi lã chã trên đôi má đỏ hồng. Nàng lắc nhẹ đầu:
– Nhớ gọi cho em…
Rồi quày quả bước vội về phía cổng soát vé. Hai vai Hương run lên theo tiếng nấc. Nhân kiên nhẫn đứng đợi mẹ ở bên trong. Chàng đỡ lấy mẹ. Cơ hồ người Hương lả đi không còn bước vững nữa. Vẫy tay chào Nhân, tôi đứng nhìn mãi đến khi mẹ con Hương chìm khuất vào biển người ở phía bên kia hàng rào an ninh. Trước khi khuất bóng ở dãy hành lang dẫn đến cổng đợi, tôi cố nhoài người ra ở khung cửa kính đưa tay vẫy cố để cho nàng thấy. Thấp thoáng tôi nhận ra Hương bước chậm lại, nàng nháo nhác kiễng chân nhìn về phía tôi vẫy vẫy tay.
Tôi quay lưng huýt sáo bước về phía bãi đậu xe. Lòng tôi rộn rã một niềm hy vọng. Yêu Hương trước đây, tôi không có cái háo hức sôi nổi như bây giờ. Tôi muốn chăm sóc cho Hương rồi yêu nàng như bản năng của một người đàn ông. Mọi chuyện đến tự nhiên, như một gạch nối để khi tôi đặt điều kiện với Hương, tôi đánh mất tình yêu với tiếc nuối nhưng vẫn có thể tiếp tục sống, vẫn gầy dựng một gia đình khác có hạnh phúc ở xứ người. Bây giờ tôi yêu Hương lại khác hoàn toàn. Cũng một tình yêu nhưng vị ngọt đắng lại khác nhau. Ngọt hy vọng, đắng đợi chờ. Tình yêu nghe da diết hơn, nồng nàn hơn, và say đắm đến ngất ngây như hớp một cốc rượu mạnh. Tôi chợt nghiệm ra rằng nếu lỡ tôi mất Hương lần này, không biết tôi có thể tiếp tục sống được nữa hay không.
Lúc lái xe ra khỏi phi trường, tôi bỗng nhận ra một chi tiết thú vị. Không biết vô tình hay cố ý, Hương đặt tên cho cậu con trai – Nhân – trùng với tên lót của tôi.

HẢI NGỮ
Gửi tặng 163 thuyền nhân trên tàu ĐN1601CA
nhân dịp hội ngộ sau 30 năm tại Brisbane, Úc-đại-lợi

NỔI TRÔI

haingu
Có một loài hoa vừa trôi vừa nở
Em lấy chồng rồi anh ở vậy thôi
Nữa mai thương đứng nhớ ngồi
Biết loài hoa ấy vừa trôi vừa buồn

Đang lúi húi lục trong cái cặp đựng máy tính để tìm chiếc máy nghe nhạc cá nhân thì nghe tiếng một cô gái rụt rè hỏi tôi:
– Chú… chú là người Việt nam hả chú?
Tôi ngưng tay, nhìn sâu vào hàng ghế và nhận ra cô gái đang nhìn tôi chăm chú. Đôi mắt đen lay láy nhìn tôi không chớp chờ câu trả lời. Tôi hơi khựng người vì không ngờ trên chuyến bay từ phi trường Narita (Nhật) về San Francisco lại có người Việt và là một cô gái trẻ măng. Tôi gật đầu để cô yên tâm:
– Vâng.
Nét mặt cô gái rạng rỡ hẳn ra khi thấy tôi gật đầu. Bàn tay đặt lên ngực, cô thở ra một hơi dài như vừa trút một gánh nặng. Tôi đang hối hả đổi chuyến bay. Sau ba tuần công tác ở ngoại quốc, tuyến đường trở về Mỹ khá vất vả vì phải đổi chuyến bay ở nhiều chặng. Ở phi trường Changi (Singapore) thì không nói, ít nhất tôi có 2 tiếng đồng hồ để đổi chuyến bay. Cứ thong thả hút hết một điếu thuốc, nhẩn nha dạo xem mấy cửa tiệm, từ từ thưởng thức món cơm chiên kiểu Thái rồi tà tà đến cổng trình vé vẫn còn dư thì giờ. Vậy mà thời gian đổi chuyến bay ở phi trường Narita lại vỏn vẹn chỉ có 30 phút. Từng ấy thời gian đủ để tôi bước suốt gần hết chiều dài của phi trường, vào cổng với bao nhiêu thủ tục an ninh gắt gao và bước lên phi cơ. Vì vậy khi vội vã bước đến hàng ghế 40C, chỗ ngồi của tôi, tôi cũng chẳng để ý đến cô gái đang ngồi co ro trong chiếc ghế sát vách phi cơ. Mãi đến khi nghe câu hỏi bằng tiếng Việt, tôi mới ngỡ ngàng nhìn cô. Có lẽ cô quan sát tôi ngay từ khi tôi bước đến chỗ ngồi, đặt chiếc cặp trên ghế, cố lục tìm chiếc máy nghe nhạc và nhìn khuôn mặt Á đông của tôi rồi đánh bạo hỏi cầu may. Đẩy sâu chiếc cặp vào ngăn tủ gắn ngay trên đầu, tôi thong thả ngồi xuống nhìn cô:
– Sao cô biết tôi là người Việt?
Giọng cô reo vui:
– Cháu đoán là phải đúng.
Tôi gài dây an toàn:
– Cô liều thật, lỡ tôi không phải là người Việt thì sao?
– Thì cháu nói sorry. Tiếng Anh tuy không biết nhiều nhưng sorry thì cháu biết.
Tôi chìa tay:
– Tôi, An, còn cô?
Cô gái ngẩn người nhìn bàn tay tôi đang đưa ra trước mặt. Có lẽ cô không quen với lối giới thiệu tự nhiên như thế. Tránh cho cô khỏi bối rối, tôi định rụt tay về thì cô xòe bàn tay nhỏ nhắn nắm vội lấy bàn tay của tôi.
– Tên cháu xấu lắm.
– Xấu thì cũng là cái tên. Cô phải cho tôi biết tên chứ. Thế tôi phải gọi cô thế nào đây?
Đang lúc cô gái lưỡng lự, nửa muốn tiết lộ tên, nửa muốn giấu cái tên mà cô bảo là xấu thì một chàng thanh niên dừng lại nơi hàng ghế của chúng tôi, chờ đợi. Dãy ghế có ba chỗ, chỗ của tôi sát lối đi, chỗ của cô sát vách, và chỗ của chàng trai chắc chắn ở giữa. Tôi mở dây an toàn, đứng dậy để nhường chỗ cho chàng thanh niên bước vào trong. Tiếng cô gái vội vã, giọng nói mang âm hưởng vùng quê chân chất miền Nam:
– Chú nói ổng đổi chỗ cho cháu ngồi ở giữa đi chú.
Lời đề nghị của cô gái thật chí lý. Không lẽ chúng tôi lại nói chuyện với nhau qua tai một người ngoại quốc. Biết vậy nhưng tôi bắt chẹt:
– Cô không cho tôi biết tên thì tôi không nói.
Cô gái vội gật đầu vì anh chàng Mỹ dợm chân bước vào dãy ghế:
– Được rồi… chú khôn lắm.
Nói xong, đôi mắt cô sụp xuống, nét mặt dàu dàu. Tôi giải thích với anh thanh niên và anh đồng ý ngay. Ngồi sát vách hoặc ngồi sát lối đi vẫn tốt hơn là ngồi lọt thỏm ở giữa hai người lạ hoắc. Sau khi yên vị, tôi nhắc lại lời hứa:
– Nào, thế cô tên gì?
Cô gái lườm lườm nhìn tôi:
– Thật! cháu tên Thật.
Cái tên không xấu nhưng lại khá bất ngờ đối với tôi khi nghe tên cô gái. Tôi tin chắc gia đình cô phải ở vùng quê, nơi cha mẹ thường đặt tên cho con một cách đơn giản, chứ không dám gửi gấm kỳ vọng gì khi đặt tên cho con cái.
Tôi nhìn cô cười cười:
– Tên vậy mà cô nói xấu.
– Chú chọc quê cháu hả?
Lòng tôi chợt thấy vui vui. Tôi đoán cô gái cỡ mới ngoài hai mươi. Mái tóc đen nhánh ôm lấy khuôn mặt bầu bĩnh, cặp má phinh phính nên trông cô càng trẻ ra. Riêng đôi mắt cô tròn vo, đen láy mà mỗi khi hỏi chuyện tôi đọc thấy được sự ngơ ngác chân thật của một người con gái sinh trưởng trên vùng đất bạt ngàn cánh đồng lúa xanh tươi, nghe được tiếng gió thì thầm reo vui trên rặng tre bao bọc xóm làng, và cảm nhận được trong ánh mắt cô chất ngất một tình người thật đơn sơ, bình dị. Những đôi mắt bàng bạc chất quê hương như thế hiếm thấy ở thành thị, nơi mà cuộc sống khốc liệt đã làm cho đôi mắt người trở thành những con mắt của dã thú ở rừng sâu. Cặp mắt rình rập, đe dọa, cướp giật, vị kỷ, dửng dưng trước thảm cảnh. Tôi quay sang cô:
– Thời buổi bây giờ người ta lừa dối nhau để sống còn, cái tên của cô lại nhắc nhở cho mọi người một đức tính đã bị quên lãng từ lâu. Cô phải hãnh diện về cái tên của cô chứ.
Thật cúi đầu, giọng lí nhí:
– Cám ơn chú.
– Nào, bây giờ cho tôi biết, cô bay đến thành phố nào?
– Kansas City chú ơi. Mà không biết từ San Francisco đến đó bao xa nữa? Đi một mình cháu sợ lắm, họ hỏi tiếng Anh cháu hổng biết trả lời, mắc cở muốn chớt.
Tôi chợt hiểu lý do khi cô gái hỏi tôi có phải là người Việt hay không. Cô cần người giúp đỡ đối thoại trên chuyến bay. Tôi tin chắc tôi đoán đúng khi cô nài nỉ:
– Chú giúp cháu nghen.
– Giúp cái gì?
– Thì khi mấy cổ hỏi ăn gì, uống gì đó. Chú giả bộ hoài.
Tôi cười xòa:
– Chuyện nhỏ, cô cứ yên tâm. Muốn gì, cô cứ nói tôi.
– Cám ơn chú.
Máy bay bò từ từ ra phi đạo. Tiếng động cơ chạy rầm rì đẩy con chim sắt di chuyển. Vạt nắng bên hông hắt qua ô cửa hình bầu dục thu nhỏ dần rồi biến mất hẳn. Tôi bảo Thật gài dây an toàn.
– Gia đình cô ở hết bên Kansas?
– Gia đình cháu còn ở VN. Ở bển chỉ có hai vợ chồng cháu thôi.
– Thế hai vợ chồng ở bên Kansas lâu chưa?
– Ảnh thì lâu rồi, còn cháu chưa ở được một ngày.
Tôi nhíu mày rồi chợt hiểu:
– À, ra là chồng cô bảo lãnh sang Mỹ.
– Dạ.
– Anh chàng về VN cưới rồi bây giờ bảo lãnh cô?
– Dạ đúng. Mấy tháng trước, anh về quê làm đám cưới với cháu rồi trở lại Mỹ làm thủ tục bảo lãnh.
– Vậy là vui rồi, hơn nửa ngày nữa là cô đoàn tụ với chồng.
– Vui thì cũng vui mà lo muốn chớt, chú ơi.
– Lo cái gì mà lo. Mới cưới mà xa nhau lâu quá cũng không nên. Vợ chồng phải sống gần nhau chứ…
Tôi giả giọng Nam:
– Cưới xong mà mỗi người mỗi nơi nhớ muốn chớt.
Cô đập nhẹ vào vai tôi:
– Chú ghẹo cháu woài… mà cháu cũng nhớ ảnh chớ. Mà hổng biết ảnh có chớ cháu không nữa.
– Trời đất, cô nói chuyện đùa. Chồng mà không nhớ vợ thì nhớ ai, không lẽ nhớ bồ nhí?
Cô bĩu môi, ngoe nguẩy:
– Ai mà biết. Đàn ông bây giờ khó nói lắm.
– Thì cũng ba bốn loại đàn ông…
Mới nói đến đây Thật níu chặt lấy cánh tay tôi vì máy bay chạy lấy đà rồi bốc lên cao. Lưng mọi người ngả ra sau, bụng thót lại. Những người không quen đi máy bay thường sợ lúc cất cánh vì tình trạng mất thăng bằng bất ngờ. Cả đời có lẽ đây là lần đầu Thật đáp máy bay. Cô níu chặt cánh tay tôi đau điếng.
– Ở Mỹ đàn ông có một lá gan à, chứ không dám có năm bảy lá gan như người ta thường nói đâu. Chẳng phải tốt lành gì nhưng vì luật pháp bảo vệ tối đa quyền lợi của phụ nữ.
Thật thở dài:
– Thì cháu cũng mong như vậy.
Tôi cười cười nhìn cô:
– Tôi hơi tò mò, làm sao anh chàng lại quen cô?
– Có bà cô giới thiệu. Gia đình bả sống cùng thành phố với ảnh.
Tôi gật đầu:
– Có người giới thiệu thì bảo đảm hơn. Bà cô chắc chắn phải nhìn trước xem sau rồi mới dám giới thiệu anh chàng này cho cô chứ. Cô ở cùng thành phố với bà cô lại càng yên tâm hơn.
– Bà cô họ chú ơi. Họ hàng xa lắc xa lơ hà. Nhưng cũng cám ơn bả, nhờ bả mà cháu mới có dịp may lấy chồng ngoại quốc.
– Cô lấy người Việt chứ lấy ngoại quốc nào. Còn họ hàng để tôi nói cho cô nghe. Như ở Cali thì không nói, ở cái xứ Kansas của cô, lạnh cóng người, người Việt không nhiều như ở Cali đâu. Họ hàng xa xôi qua cái xứ tuyết đổ mút mùa lệ thủy đó cũng thấy gần nhau. Để rồi xem, cô lại thấy gần gũi với gia đình bà cô đó hơn ai hết.
– Mới qua chắc cháu nhớ nhà. Có bà cô một bên cũng đỡ…
Vừa lúc đó, cô tiếp viên trao cho gói đậu phụng. Tôi lấy nước cam cho tôi, và nước lạnh cho Thật. Chu đáo hơn, tôi xin thêm một chiếc gối để cô kê đầu và dựa lưng khi ngủ. Thân gái ở vùng quê, lần đầu xa nhà đến hơn nửa vòng trái đất, lại đi có một mình, bơ vơ trên chuyến bay. Tôi chợt thấy ái ngại:
– Tôi lấy làm lạ sao chồng cô không về VN đón cô mà lại để cô đi một mình.
Giọng cô trầm buồn:
– Ảnh nói với cháu ảnh làm nghề kỹ sư. Công việc nhiều nên không xin nghỉ phép được. Với lại cháu cố đi một mình để đỡ tiền vé.
Tôi lại không nghĩ vậy. Đường bay từ VN sang Mỹ phải đổi máy bay ở nhiều phi trường. Mỗi lần đến phi trường lạ hành khách phải tìm tin tức chuyến bay, đến cổng trình vé. Phi trường quốc tế rộng bao la, không khéo là cứ loay hoay lạc lối, rất dễ hụt chuyến bay. Nhớ lại lần đầu đáp đường bay quốc tế, tôi lạ lẫm mọi việc. May nhờ có vốn tiếng Anh nên việc hỏi han cũng không khó khăn lắm. Chuyến bay của Thật cất cánh từ phi trường Tân sơn nhất đến Nhật để đón khách như tôi từ Singapore đổ về. Vì thế cô không phải đổi chuyến bay. Nhưng sau chuyến bay này, Thật phải đổi máy bay nội địa ở phi trường San Francisco. Liệu cô có thể tìm được chuyến bay với số vốn liếng tiếng Anh ít oi như thế? Rồi lạc giữa rừng người với tiếng nói lạ tai, cô có tìm được đường về? Không hiểu anh chồng nghĩ thế nào mà dám để vợ một mình vượt một đoạn đường quá dài.
Tôi buông thõng:
– Đúng ra chồng cô phải đi với cô.
Thật im lặng không nói gì. Cô ngồi trầm ngâm, lặng lẽ. Tôi cũng yên lặng. Chúng tôi mải theo đuổi một ý nghĩ riêng tư như thế khá lâu và tôi chợt nghe tiếng cô gái buồn buồn, gần như nói với chính cô:
– Không phải ai cũng may mắn được đi ra nước ngoài. Cháu biết ơn vì ảnh thương cháu. Ở Mỹ thiếu gì người mà ảnh lặn lội về mãi tận vùng quê Rạch Giá cưới cháu.
Tôi vẫn yên lặng ngầm đồng ý. Tôi chợt nghĩ đến câu ca dao, “thân em như tấm lụa đào, phất phơ giữa chợ biết vào tay ai” mà lòng ngậm ngùi cho thân phận những cô gái ở thôn quê. Như anh chồng của Thật, có thể công việc đa đoan nên anh không thể về VN đón cô, nhưng biết đâu đấy. Lương kỹ sư ở Mỹ mà dè sẻn một chiếc vé khứ hồi đi đón người vợ quê mùa mộc mạc thì quả thật tôi không hiểu nổi. Tôi không dám xét đoán người nhưng rõ ràng những cô gái chân chất như Thật không có sự lựa chọn. Họ chỉ có một con đường duy nhất để thoát cảnh nghèo túng, nhất là dịp may được xuất ngoại. Suy nghĩ của họ thật đơn giản, lấy chồng là một cơ hội đổi đời hơn là vì trái tim nặng tình. Khi có người mai mối, họ xem đó là may mắn, phước đức ông bà để lại nên mới lấy được chồng ngoại. Thoát khỏi xóm làng là có hy vọng.
Còn gia đình những cô gái này gần như vội vã gả chồng cho con không đắn đo suy tính nhiều. Họ đem đứa con gái để thử thời vận. Nếu may mắn được thằng rể biết yêu thương con gái mình thì gia đình nở mày nở mặt với xóm giềng để đâu cho hết. Còn nếu ngược lại thì đành cắn răng ngậm miệng, cố nuốt trôi đớn đau xuống tận đáy lòng. Trớ trêu ở chỗ người ta thường dùng vật chất để đánh cuộc với rủi may, đằng này họ dùng nguyên một đời của đứa con gái để thách đố với số phận, trong đó rủi nhiều hơn may. Tôi bỗng cầu mong cho Thật đã gặp đúng người chồng yêu thương cô hết lòng
– Duyên nợ hết cô ơi. Đã yêu nhau rồi thì ràng buộc cả đời.
Thật chống cùi chỏ vào tay ghế, nghiêng người sang phía tôi. Tiếng cô thì thầm hòa với tiếng rì rầm của chiếc phản lực ở độ cao 37 nghìn bộ nhưng tôi vẫn nghe giọng cô rõ mồn một.
– Chú nói cũng đúng. Mà cháu có biết yêu là gì. Thấy ảnh rồi cháu đem lòng thương. Mặc dù cháu vui vì biết mình sẽ xuất ngoại nhưng lòng cháu thương ảnh thật.
Tôi cũng mong anh chồng thật lòng thương cô. Đừng đem những cô gái chân chất như Thật bỏ giữa chợ đời. Tội lắm. Những cô gái ở miền quê, họ đã thương ai thì thương hết lòng. Lớn lên quanh quẩn bên xóm làng, tầm mắt của họ chưa một lần vượt qua lũy tre xanh nên tâm hồn ngây thơ của họ lắm lúc lại là nguyên do chuốc lấy khổ đau vì cuộc đời muôn mặt.
– Mấy đứa bạn cháu cũng mong lấy được chồng nhưng trai làng thì bỏ xứ đi biền biệt không về. Không lẽ ở vậy hoài. Thoát được đứa nào mừng đứa đó, chú ơi.
Tôi thở dài:
– Tôi biết. Nhưng lấy nhau là vấn đề quan trọng. Không lẽ cứ nhắm mắt lấy liều?
– Bọn cháu cũng muốn lấy người mình thương chớ. Nhưng vì hoàn cảnh, chú à. Tuổi thì lớn, ở với cha mẹ hoài coi sao đặng. Với lại nghèo quá nên có mối là lấy liền, nhiều khi đâu có kịp suy tính hơn thiệt gì nữa đâu.
– Tôi nghe nói nhiều cô lấy chồng Đại hàn, Đài loan. Thế ở làng cô có ai lấy người ngoại quốc không?
Thật thở dài:
– Bọn nó lấy hà rầm chú ơi. Mấy bà mối từ Sàigòn xuống có mỗi một ngày là kéo theo cả chục đứa, cỡ cháu hoặc trẻ hơn.
Cuộc đời của những cô gái muốn thoát khỏi chốn lầm than không suôn sẻ như ý muốn. Đến ngay đám mối lái đã kiếm cách lừa lọc những gia đình cả tin, chứ đừng nói bước một đoạn đường dài sang xứ người, phúc ít họa nhiều. Có cô sang làm vợ cho cả nhà, nghĩa là từ ông nội, đến cha, lẫn con trai. Vùi hoa dập kiễu chán chê rồi bán cô gái vào nhà thổ. Có người phải làm việc phục dịch thua cả con ở, vì con ở vẫn được pháp luật bảo vệ và chủ nhà phải có trách nhiệm nuôi. Đằng này, chúng bỏ ra một số tiền mua những cô gái Việt về, nói là làm vợ cho hợp thức hóa giấy tờ, nhưng thật sự là mua một cái máy làm việc không lương, quần quật từ sáng đến tối khuya, kể cả làm công cụ tình dục phục vụ cho bầy đàn ông. Chúng chồm lên thân thể yếu đuối của cô gái như những con vật trong mùa động tình. Mới đây, một cô dâu Việt ở Đại hàn bị chồng giết chết. Cha mẹ sang ôm hũ tro của con về, lòng đau hơn cắt ruột. Tiền đền bù tính ra chẳng bao nhiêu so với cái giá mất con. Còn biết bao nhiêu thảm cảnh khác, đếm không hết. Tính ra chẳng mấy cô có được tấm chồng như ý muốn.
Tôi cay mày:
– Rồi làng xóm có biết số phận những cô dâu này ra sao không?
– Lúc đầu thì không biết, sau này tin tức gửi về ngày càng nhiều. Toàn tin dữ không hà. Nhưng cháu nói chú rồi. Ai cũng tin là phước đức ông bà sẽ che chở cho con mình. Xui xẻo cho con ông Tư, cháu bà Năm nhưng biết đâu con gái mình lại hưởng phước. Vả lại, nghèo quá nên ai cũng thử thời vận một lần.
Chưa bao giờ trong lịch sử của Việt nam, giá trị của người phụ nữ lại xuống thấp đến thế. Họ là hậu duệ của Hai bà Trưng một thời oanh liệt, là con cháu của bà Triệu khí phách hiên ngang, một thời đứng ngạo nghễ với các đấng mày râu. Thế mà giờ đây phải đi làm dâu ở xứ người, nơi mà xã hội chẳng hề màng đến nhân phẩm của những cô gái Việt, xem họ rẻ như một món đồ chơi. Hồn thiêng sông núi ở đâu mà không thể nâng đỡ thân phận của những cô gái quê này. Nỗi đau đớn này đúng ra không riêng gì cho gia đình nhưng phải là nỗi đoạn trường của cả dân tộc. Hơn lúc nào hết, tôi thầm mong cho Thật được yêu thương hạnh phúc, một niềm hạnh phúc bình dị như những phụ nữ khác trên cõi đời này.
– Thôi, cô may mắn hơn những cô gái khác. Lấy chồng Việt, ở Mỹ thì chắc chắn phải khác xa khi lấy chồng Hàn hoặc Đài.
– Cháu chỉ mong Trời Phật thương độ trì cho cháu, cho mấy đứa bạn đang còn ngong ngóng chờ một dịp may lấy được chồng như cháu. Bây giờ bọn cháu không dám lấy chồng Hàn nữa rồi. Thà ở giá thôi, chú ơi.
Trong trí tôi chợt thấy thấp thoáng đám lục bình, một loài thực vật sống trôi nổi trên sông lạch miền Nam. Lục bình xanh mơn mởn như sức sống của những cô gái chân quê. Đám lục bình nhờ nước mới sống nhưng nếu sông lạch không còn thấy đám lục bình trôi lững lờ miền Nam sẽ thiếu hẳn nét thi vị của một mảnh đất trù phú. Lục bình trở thành một cái gì thật gần gũi, thân quen với đời sống bình dị của dân Nam bộ. Trên con sông lớn, đám lục bình lặng lẽ trôi theo dòng nước như tình nghĩa vợ chồng gắn bó. Chàng ơi cho thiếp theo cùng, Đói no thiếp chịu lạnh lùng thiếp cam. Thân con gái cũng nổi trôi trên dòng đời như đám lục bình nhẫn nhục sống và vươn lên theo con nước lúc ròng lúc lớn. Đôi khi lục bình vướng dưới chân cầu, cam chịu số phận hẩm hiu, cố vũng vẫy theo con nước lớn nhưng vẫn xanh biêng biếc. Lắm khi lục bình lạc vào vũng nước đọng, hy sinh làm nơi nương tựa cho đám thủy sinh vật nhưng vẫn hiện hữu. Thật đang trôi theo con nước lớn, bỡ ngỡ bước vào một vùng trời mới rộng thênh thang. Nhưng còn đám lục bình khác, đang vật vờ sống theo con nước ròng và mỏi mòn chờ đợi một dịp nước lớn. Thế mà nước trên nguồn vẫn chưa đổ về cho thỏa thuê phận con gái.
Cô tiếp viên trao cho chúng tôi khay cơm chiều. Thật ăn nhỏ nhẹ, trầm ngâm như nỗi ưu tư nào đó còn vương trong trí. Tôi cũng im lặng ăn cho xong. Bụng tôi như đầy hơi không thấy đói khi tâm trí tôi ngập tràn những hình ảnh của những cô dâu Việt ở xứ người. Cơm nước xong, tôi dặn dò Thật những việc cần làm khi xuống phi trường San Francisco. Cần phải biết chuyến bay, rồi dò tìm trên màn hình để tìm cổng đến. Viết cho cô vài chữ trên mảnh giấy để nếu cùng đường, cô cứ đưa tấm giấy ra hỏi người bản xứ, họ sẽ giúp tận tình. Trò chuyện thêm một lúc nữa rồi cô dựa vào vai tôi ngủ vùi như một đứa trẻ thật vô tư. Nhìn nét mặt cô bình an trong lúc ngủ, tôi cầu mong đời sống vợ chồng của cô cũng an bình như những nhánh sông lững lờ trôi ra biển…
Tôi đưa cô đến tận cổng trình giấy tờ nhập cảnh. Dãy hàng bên tôi dài dằng dặc, còn bên phía cô ngắn ngủn dành cho những người không mang quốc tịch Mỹ. Chẳng bao lâu đến lượt cô trình giấy, thủ tục nhập cảnh cũng khá lâu vì cô lần đầu đặt chân đến đất nước Hoa kỳ. Xong việc, tôi thoáng thấy cô nhìn về phía hàng của tôi mắt dáo dác tìm kiếm. Tôi đứng lẫn lộn giữa rừng người nên cô không thể nào thấy tôi nữa. Thật quay đi, xắc trên vai, lầm lũi bước về phía cổng dẫn đến khu vực chờ chuyến bay nội địa. Bóng cô nhỏ dần rồi mất hút sau cánh cửa sắt.
Cho mãi đến lúc đó, hình ảnh của đám lục bình trôi nổi trên sông vẫn còn lẩn quẩn trong tâm trí tôi dai dẳng và nhức nhối như một cơn đau không thể nào dứt ra được.

KỲ NGỘ

Hải Ngữ

haingu

1.
Con đường trải dài từ sở làm của Khang dẫn đến phố Tàu mấy hôm nay bỗng nhộn nhịp hẳn ra. Người người lũ lượt kéo nhau đi sắm hàng Tết chỉ vì còn mấy ngày nữa là hết năm. Con đường vốn đã đông người qua lại nay lại rộn ràng thêm. Không hiểu hôm nay Khang lại tản bộ vào khu phố Tàu để ăn trưa. Đành rằng chỗ làm việc của chàng không xa khu phố bao nhiêu nhưng có mấy khi Khang lại chịu khó cuốc bộ mười mấy phút để mua thức ăn. Chàng là người dễ tính, sẵn đâu ăn đó. Không mang theo mì gói thì chàng cũng tạt ngang tiệm Mc. Donald mua bánh mì nhá đỡ. Thế mà hôm nay chàng lại lẩn thẩn theo đoàn người lạc bước vào khu phố buôn bán sầm uất vào những ngày cuối năm. Có lẽ vì những ngày gần Tết làm chàng chạnh lòng nhớ đến những năm quây quần bên cha mẹ chuẩn bị đón Xuân ở bên Dallas. Khung cảnh chợ búa Á đông nhộn nhịp ở phố chợ giúp chàng khuây khỏa được nỗi buồn xa nhà. Khang nhớ đến những năm chàng còn đi học. Tuy học xa nhưng năm nào Khang cũng cố lái xe về chúc Tết bố mẹ. Từ khi làm xa mãi tận San Francisco, chàng không còn dịp để về, để hưởng cái không khí Xuân ấm cúng trong gia đình như thuở nào. Khang lại thở dài nghĩ đến số tuổi ba mươi ngoài vẫn còn sống độc thân chưa thấy một bóng hồng nào nằm trong tầm mắt. Vào những ngày cuối năm cô đơn xa nhà như hôm nay, Khang bỗng thấy thèm một mái ấm gia đình hơn bao giờ Tiếp tục đọc

Trúng Số

Hải Ngữ

Lotto_Sphinx_small_905

Đồng tiền không mua được hạnh phúc.

Phương Ngôn

Hắn cẩn thận rút trong bóp ra một tờ giấy mười đồng và móc trong túi quần ra một nhúm giấy bạc một đồng trao cho người chủ tiệm rượu. Số tiền hai chục đồng dùng để trả hai tấm vé số lotto; mỗi tấm vé ghi mười dãy số, mỗi dãy gồm sáu con số từ 1 đến 51, được máy chọn một cách ngẫu nhiên. Người mua có thể tự chọn một dãy số ưa thích nào đó; có thể là tập hợp những ngày tháng năm sinh của những người thân trong gia đình. Hắn sống thui thủi có một mình, không vợ không con, lại chẳng có ai thân thích; ngày sinh tháng đẻ của hắn tính ra chỉ mới được ba con số vì thế hắn để máy chọn cho tiện việc.

Bao giờ cũng thế, hễ lô độc đắc lên đến mười triệu là hắn đều bỏ ra mười đồng để mua mười dãy số. Trúng thì phải trúng cho bõ. Ba bốn triệu, hắn cho là ít mặc dầu một đồng đối với hắn kể ra cũng… nhiều lắm. Hắn chi li, chắt bóp từng đồng vì tiền bạc ở bên này làm ra không dễ. Xem nào, hắn phải dậy từ sáu giờ sáng, làm vệ sinh buổi sáng, chạy một mạch đến hãng, hùng hục làm việc, mãi đến xế chiều mới về nhà. Ăn trưa vội vàng chỉ có nửa tiếng, hắn dành hết thì giờ cho công việc. Người Mỹ ở đây thật sòng phẳng, cứ làm nhiều thì trả tiền nhiều. Hắn tính nhẩm trong đầu, ngày làm tám tiếng, nếu chủ gọi làm thêm giờ phụ trội, tính ra mỗi ngày suýt soát 12 tiếng. Với tiền giờ của một công nhân trên mười lăm năm kinh nghiệm, mỗi tháng hắn mang về mấy ngàn bạc. Hắn lại chẳng ăn tiêu gì mấy, vì thế đồng vào thì như nước, còn đồng ra thì rỉ rỉ như vòi nước lâu ngày bị rò. Tiền trong trương mục của hắn khởi sự từ vài nghìn, mới tháng trước mở ra hắn đã thấy một dãy số sáu con. Hắn cứ nhìn ngắm mãi những con số không, ôi! trông chúng thật gợi cảm làm sao! Nhiều khi hắn cũng cảm thấy cuộc đời làm công khổ cực quá, có tiền nhưng tất bật, bương chải. Bởi thế hắn lúc nào cũng ngong ngóng trúng số để có tiền – thật nhiều tiền – mà không phải làm gì cả mặc dù nếu rảnh rỗi ở nhà hắn cũng chẳng biết phải làm gì cho hết ngày. Vì thế ngày hôm nay, lô độc đắc lên đến trên mười triệu, hắn vội vàng mua ngay mười dãy số với hy vọng thần may mắn sẽ nhìn đến lòng thành của hắn Tiếp tục đọc

CON RUỒI

HẢI NGỮ

vitelline

Vitelline

phóng tác theo bài giảng của một Linh Mục

Toại uể oải trở mình cho đỡ mỏi. Đã mấy ngày qua, cơn sốt hâm hấp hành hạ chàng nằm bải hoải trên giường. Vợ chàng nói đang có cơn dịch cúm nên anh cố tịnh dưỡng vài ngày rồi tự nhiên sẽ khỏi. Gân cốt trong người Toại mỏi nhừ cứ như lần chàng bị bọn Việt cọng hành hạ trong tù. Người chàng rũ ra như tàu lá chuối sau cơn bão. Vi trùng cúm len lỏi vào đến tận cùng từng tế bào trong thân thể chàng, gặm nát từng thớ thịt, xoi mòn từng mạch máu, cắn đứt mọi sợi thần kinh dẫn mệnh lệnh từ não bộ đến tứ chi. Vì thế chàng gần như tê liệt chả muốn làm gì cả. Nguyện, vợ chàng, vẫn đi làm mãi đến bốn giờ chiều mới về. Nhà ở gần trường nên hai đứa con, một gái một trai, đi bộ về nhà mà chẳng cần ai đưa đón. Về đến nhà, chúng tạt vào hỏi thăm chàng:

– Bố đỡ chưa bố?

– Bố cần gì không bố?

Chàng uể oải:

– Cám ơn con! Bố chưa cần gì cả. Các con ra chơi đi, để bố nghỉ.

Có mệt nhọc đến đâu cứ nhìn hai đứa con lớn khôn là chàng cảm thấy khỏe khoắn ngay. Chúng mới 14 và 12 tuổi. Cái tuổi chỉ biết ăn và học. Ăn chưa no, lo chưa tới. Vợ chồng Toại làm quần quật suốt ngày cũng chỉ vì tương lai của con Bắc thằng Nam. Nhiều khi Toại nghĩ nếu chúng không hiện diện trên cõi đời này thì mọi nỗ lực của vợ chồng chàng chẳng mang một ý nghĩa gì cả. Nguyện hoàn toàn đồng ý với chồng. Nàng thở dài:

– Mình lo cho nó thế, chả biết lớn lên nó có biết ơn mình không Tiếp tục đọc

CÕI TẠM

Hải Ngữ

red & white

Đỗ Trung Quân, Red & White

Chàng giật mình thức giấc vì cơn đau nhói ở lồng ngực. Vợ chàng nằm một bên đã chìm vào giấc ngủ từ lâu. Hơi thở điều hòa, khuôn mặt bình an của nàng in hằn trên gối qua ánh đèn mờ mờ của bóng đèn đêm ở góc tường. Chàng nhẹ ngồi dậy, lần mò trong bóng đêm ra nhà bếp lấy thuốc. Chàng không muốn đánh thức vợ dậy giữa đêm khuya vì một chuyện con con không đáng gì. Mấy tháng trước đây, chàng chợt cảm thấy nhói ở lồng ngực rồi cơn đau vụt biến nhanh chóng như mấy lá bài trên tay nhà ảo thuật lành nghề biểu diễn trên sân khấu. Bác sĩ bảo tim của ông thỉnh thoảng đập hụt đi một nhịp, ngày uống một viên là đâu lại vào đấy. Chàng chợt bật cười. Có lần tim chàng cũng đập hụt đi một nhịp như thế. Lần đó chàng lảo đảo phải vịn vào thành ghế khi nhìn thấy khuôn mặt nàng ngồi đối diện trong buổi tiệc cưới. Sau khi nên duyên vợ chồng, chàng cám ơn nhà trai không hết lời đã khéo léo xếp đặt chỗ ngồi tiền định. Mãi cho đến gần sáu mươi, lúc con cái đã lớn khôn ra riêng, tim chàng lại đập hụt đi một nhịp vì bệnh tật. Uống xong viên thuốc, cơn đau dịu xuống và chàng chìm vào giấc ngủ dễ dàng…

Chàng mở mắt. Trời đã sáng rõ mặt. Vợ chàng có lẽ đã dậy từ lâu. Hít một hơi đầy buồng phổi, chàng cảm thấy trong người khỏe khoắn hơn bao giờ. Chàng nhớ mang máng có cơn đau ở lồng ngực nhưng hình như xảy ra lâu lắm rồi. Bây giờ trong người như được bơm một sinh lực mới và chàng bật người dậy nhanh nhẹn bước ra khỏi phòng ngủ xuống nhà dưới.

Vừa đến cuối chân thang, chàng nhận ra một ông già râu tóc bạc phơ đang đứng lớ ngớ ở phòng khách. Vừa thấy chàng, ông vồn vã Tiếp tục đọc

BONJOUR VIETNAM

Hải Ngữ

http://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=E-vaysmfRnY#!

Tôi chưa bao giờ viết về một nhân vật nào có thực. Trong dăm ba truyện ngắn, tôi vẽ lên những nhân vật tưởng tượng theo ý của tôi, mang nhiều nét hư cấu hơn là thật. Đây là lần đầu tiên tôi viết về một nhân vật đang sống giữa chúng ta, những người Việt tỵ nạn. Một cô gái, nói đúng hơn, một cô bé vừa 19 tuổi.

Tôi phải viết đôi dòng về cô bé, về bản nhạc cô gửi gắm tâm sự. Có lẽ đây là nỗi băn khoăn chung của các cháu sinh ra và lớn lên ở xứ người, muốn tìm về cội nguồn. Nhưng lý do chính để tôi viết về cô vì đây cũng chính là niềm khắc khoải của riêng tôi.

Vào những ngày cuối năm, gần Tết Âm lịch, một người bạn gửi cho tôi một trang nhà có hình một cô bé và kèm theo một bài hát do chính cô hát. Cái tựa đề bài hát làm tôi chú ý, “Bonjour Vietnam”. Cái số vốn Pháp ngữ của tôi đã rỉ sét từ lâu, nhưng đọc một vài hàng chữ, tôi cũng hiểu lờ mờ ý nghĩa của bài hát. Tò mò, tôi bấm nút “play” để nghe cô trình bày.

Trước hết, tôi xin ghi lại lời Việt của D.H., một người trên diễn đàn, đã bỏ công dịch rất thoát nhưng vẫn giữ được nguyên vẹn ý nghĩa tuyệt vời của bài hát. Tôi cũng xin ghi lại nguyên bản của Marc Lavoine và cả bản tiếng Anh để các bạn trẻ dễ tham khảo Tiếp tục đọc

CHẾT HỤT

Hải Ngữ

90d778d71eee33c12553a08bf988bb33-d5ntgpq

Tường giật mình tỉnh giấc. Trống ngực chàng đập thình thịch. Tường thấy rõ ràng tên công an ria nguyên tràng đạn vào lưng chàng. Máu tuôn ra từ miệng lỗ vết thương ướt đẫm lưng và ngay lúc đó chàng tỉnh dậy. Tường thở phào. Cái cảm giác váng vất của giấc ngủ nửa chừng và cơn ác mộng làm chàng khó thở. Tường hít mạnh dưỡng khí vào buồng phổi. Lưng chàng ướt đẫm mồ hôi. Cái cảm giác nhớp nháp vì lớp vải áo dính sát vào da làm chàng nhớ đến tràng đạn cày nát tấm lưng trong cơn mê. Tường cựa mình hơi chồm người về phía trước để hằn lại trên lưng ghế một khoảng mồ hôi ươn ướt; thấm đậm lớp vải bọc màu đỏ bây giờ đã đổi sang màu nâu sậm. Đến lúc này chàng mới nhớ là mình đang ngồi trên chiếc máy bay của hãng hàng không Đài-loan trong chuyến bay về thăm quê hương.

Chàng mở cái túi xắc để dưới chân, lôi ra chiếc khăn tay lau vội mồ hôi chảy dài xuống hai bên thái dương. Khuôn mặt chàng cũng đã ướt nhễ nhãi. Tường dợm người định đứng dậy vào phòng vệ sinh thì đèn “fasten your seat belt” nhấp nháy. Tiếng cô tiếp viên báo chỉ còn mười lăm phút nữa là máy bay đáp xuống phi trường Tân-sơn-Nhất, yêu cầu hành khách ngồi tại chỗ. Chàng kéo kéo lớp áo ra khỏi lưng để tránh cái cảm giác ươn ướt khó chịu. Từ lúc máy bay cất cánh khỏi Đài-loan, Tường ngầy ngật buồn ngủ rồi chàng thiếp đi lúc nào không hay. Trong cơn nửa tỉnh nửa mê, chàng thấy rõ ràng mình dẫn một tốp mười người vượt qua quốc lộ để tiến vào bãi ruộng xâm xấp nước toàn những gốc cây chà là cứng như sắt. Lúc đó Tường chỉ mới mười lăm tuổi. Nó chuyên dẫn khách vượt biên đến chỗ hẹn. Đây là điểm hẹn của “taxi”. Từ trạm này, khách được đưa lên “cá lớn” vào lúc gần sáng. Nếu thuận buồm xuôi gió, tàu sẽ ra khỏi cửa biển vào lúc tảng sáng, rồi đi luôn. Nhưng biết bao nhiêu là trục trặc. Nào là công an tổ chức những cuộc vượt biên giả để hốt vàng. Nào là công an của xã khác cố ý ăn hôi, đụng dộ với công an của xã đã được đút lót. Chuyện bắn nhau xảy ra là thường. Công an cũng có thể ngang nhiên bắn vào khách vượt biên để cướp bóc. Rồi chủ tàu cũng có thể lừa khách từ thành thị ra. Quăng ra bốn lạng vàng là giá ra đi cho một người, chuyện xui nào cũng có thể xảy ra cho khách vượt biên cả. Nói đến xui là nói đến mất hết tiền và tù tội nhưng mẹ con Tường thì không sao vì chủ tàu đã sắp xếp mọi chuyện. Nhà nó chuyên chứa khách ở Sàigòn xuống từ buổi chiều. Tường phải ra ngoài quốc lộ để đón họ vào nhà. Dĩ nhiên mọi chuyện đã được sắp xếp và đút lót nhưng cũng không thể lộ liễu quá. Trẻ con trong xóm thấy khách xuống là biết ngay tối nay thế nào cũng có tàu vượt biên. Chúng kháo ầm lên khi khách cúi đầu che mặt bước vội vào con đường mòn để tránh sự chú ý của mọi người. Tường phải dỗ dành, đôi khi nạt nộ để chúng đừng lên tiếng làm phiền đến khách. Dẫn khách vào đến nhà, Tường tản họ ra mỗi người một xó và rỉ tai dặn dò khi có biến. Họ ngồi im thin thít trong những góc bếp tối tù mù. Tiếng thì thầm cầu kinh, thỉnh thoảng xen lẫn với tiếng thở dài, vang lên trong đêm nghe buồn não nuột. Đêm khuya, tiếng chân người lao xao hay tiếng chó sủa trăng ngoài ngõ cũng làm họ giật mình. Không lo sợ sao được khi giao phó sinh mạng vào tay những người không quen biết trong một chuyến đi có quá nhiều rủi ro. Khoảng quá nửa đêm, Tường có nhiệm vụ dẫn tốp người ra điểm hẹn. Khoảng đường chưa tới một cây số nhưng phải băng qua quốc lộ, ném mình vào bãi chà là, quanh co một lúc mới đến chỗ. Tường sinh ra và lớn lên ở đây nên dọc theo con sông có ngõ ngách nào mà nó không biết. Chính vì thế, chủ tàu luôn luôn giao cho nó dẫn những khách ruột thịt, thân cận. Dẫn khách đến nơi thì coi như xong nhiệm vụ và mỗi đầu người chủ nhà trả cho mẹ nó năm nghìn. Đổ đồng ra mỗi chuyến gia đình nó kiếm trên dưới năm chục nghìn. Nhờ thế mà cả nhà mới có miếng ăn cái mặc sống tạm bợ trong những năm đầu tiên mất nước. Tường dẫn khách trót lọt được khoảng hơn năm thì bỗng nhiên vào một buổi sáng đẹp trời, nó leo lên “cá lớn” và vượt biên với khách luôn, không một lời từ biệt gia đình. Năm đó là năm 1980 Tiếp tục đọc