NHỮNG ĐÓA MẪU ĐƠN

 

Nắng xế mùa thu khiến bóng của hàng dâm bụt cao quá đầu người làm tối đi gương mặt nhăn nheo của ông Nghè Trì đang rảo bước vào cổng. Ông xô nhẹ cánh cửa cũ kĩ, xiêu vẹo đóng không kín của nhà ngõ. Tiếng kêu của cánh cửa làm con Mực đang thiêm thiếp ở hàng ba, vụt dậy, phóng chạy ra, cất tiếng sủa nhưng nhận ra người quen, nó gừ gừ mấy tiếng rồi quẫy đuôi dẫn khách vào nhà. Bà Huân cũng vừa gánh đôi thúng gạo bước ra khỏi cửa dưới, vội vã để gánh xuống vái trả cái vái chào của ông Nghè nói:
– Chào chú Nghè, ông nhà đang đợi chú, mời chú vào. Tôi phải đi giao gao cho họ bây giờ kẻo không kịp về tối chú ạ.
– Dạ, em xin phép chị.

Nghè Trì bước qua hàng ba, chợt dừng lại để lắng nghe tiếng ngâm thơ của ông Huân đang khe khẽ vang lên:
Đội gạo những buồn cơn nắng xế
Mài gươm thêm thẹn bóng trăng tà.

Chờ cho giọng buồn buồn ấy rơi hút vào cái tĩnh mịch của căn nhà lá mái đã mục nát, Nghè Trì mới xô nhẹ cửa bước vào. Ông Huân đang ngồi xếp gối, rung đùi nhè nhẹ trên bộ ván gõ đen láng bóng. Trước mặt ông là chiếc khay trà. Ông ngửa chén, vừa rót trà vừa bảo:
– Chú ngồi xuống uống trà. Bà ấy bán buôn khổ cực cũng không nuôi nổi nhà. Anh em mình đem thân phò nước cũng chẳng ra làm sao cả. Thẹn quá đi chú!

Ông Nghè tháo đôi giày hạ, ngồi đối diện anh, im lặng nâng chung trà thấm giọng. Ông nhìn kỹ ông anh mình. Chỉ lớn hơn ông một tuổi và với tướng mạo khôi ngô, trán cao miệng rộng, nên từ nhỏ đến lớn, ngay trong thời gian tám chín năm trốn tránh trong rừng sau khi khởi nghĩa thất bại, ông Huân lúc nào cũng trông trẻ hơn ông. Nhưng từ hồi chú em Nguyễn Thúc Mân mất rồi kế đến thân phụ của hai ông qua đời, ông Huân bỗng già mau lên một cách dễ sợ.

Cụ Tú Nguyễn Khuê có bốn người con theo thứ tự là Nguyễn Bá Huân, Nguyễn Trọng Trì, Nguyễn Thúc Mân và Nguyễn Quý Luân. Cả năm người đều tài cao học rộng, giới sĩ phu hâm mộ thường sánh họ với họ Tô thời Tống. Nghè Trì rất kính phục ông anh, cả thơ văn lẫn cách sống. Năm mười lăm tuổi Bá Huân làu thông Ngũ Kinh Tứ  Truyện, thành thạo các thể thi, phú, văn sách, kinh nghĩa… Vốn không màng danh lơị, nhưng vì nể gia đình, ông đã vác lều chõng đi thi ba kỳ và đều hỏng cả ba khoa, chán, định bỏ hẳn. Nhưng lại bị mọi người ép ông phải đi thi lần nữa. Nhưng ông không mang lều chiếu, chỉ xách theo một bầu rượu, đi thẳng vào Thập đạo, lãnh giấy bút, làm bài một hơi thì xong, rồi rót rượu vừa uống vừa đọc lại. Càng đọc càng cao hứng, vỗ đùi đôm đốp, bảo rằng “Văn hay như thế này mà để quan trường khuyên thì uổng quá” Nói xong liền hạ bút khuyên. Đọc một câu, thưởng một chén, khuyên một khuyên. Quyển bị khuyên đầy thì người cũng say mèm và… hỏng thi. Nghè Trì thường bảo với mọi người “Cái cuồng ngông của anh ta không dễ ai có thể cuồng được. Cái cuồng ấy sánh với Sở cuồng Tiếp Dư.” Tự thấy cách sống của mình thua hẳn Bá Huân về sự thẳng thắn, khẳng khái nên Trọng Trì luôn luôn kính cẩn trước lời anh “Không nói thì thôi, đã nói thì nói cho có biển có nguồn”. Vợ Trọng Trì không có con, gia đình khuyến dụ cưới vợ bé. Bà không chịu, Trì cũng muốn nghe theo, gia đình cố ép, bà đứng ra cưới cho ông một người con gái xinh đẹp và có học. Thế là Trọng Trì đâm ra mê mệt với bà hai. Bà cả nổi ghen bắt phải bỏ, Trọng Trì bấm bụng nghe theo. Nhưng việc này chưa làm Nghè Trì áy náy xấu hổ với Bá Huân bằng việc lặng thinh trước cái chết của Quản trấn Trần Tân.

Năm Ất Dậu, quân Pháp chiếm kinh thành Huế, vua Hàm Nghi bỏ chạy ra Quảng Trị, xuống hịch Cần Vương. Hường Lô Đào Doãn Địch phụng chiếu về Bình Định khởi nghĩa. Bá Huân, Trọng Trì và Quý Luân tham gia ngay. Chỉ ít lâu sau Đào Doãn Địch bị bệnh nặng, giao binh quyền lại cho Mai Xuân Thưởng rồi mất. Mai xuân Thưởng cử Nguyễn Trọng Trì chức Hiệp Trấn cùng trấn thủ thứ Hương Sơn với hai người là Tham Trấn Vũ Phong Mậu và Quản Trấn Trần Tân. Thứ Hương Sơn là một nút chặn đường tiến quân của Pháp ở hướng Bắc của căn cứ, tương đối yên ổn hơn mặt Nam. Việc canh phòng lại thuộc phần Quản Trấn Trần Tân, Trọng Trì và Phong Mậu rảnh rỗi nhiều nên cứ rủ nhau uống rượu đánh cờ. Năm Bính Tuất quân Pháp kéo quân tấn công căn cứ theo mạn Nam, giết chết tướng phòng thủ nơi đó. Quản Trấn Tân đang đi tuần hay tin vội vã về dinh. Đến nơi thấy Trọng Trì và Phong Mậu đang uống rượu đánh cờ. Giận quá ông lớn tiếng và xách cờ, rượu của hai ông ném quách. Tham Mậu hô quân vây bắt, Quản Tân đánh với bọn lính đông đảo nên không chống lại. Tham trấn Mậu buộc tội Quản Trấn Tân là phản loạn truyền đem chôn sống. Hiệp trấn Nguyễn trọng Trì im lặng để cho Tham Mậu tùy ý hành động không nói một lời. Đến Khi Mai Xuân Thưởng hay tin, cho người phi ngựa tới đào lên, Quản Trấn Tân đã ra người thiên cổ. Khi Bá Huân biết chuyện nầy giận lắm không thèm nhìn mặt Trọng Trì liền mấy tháng.

*

Hai anh em bước ra khỏi cổng với y phục tuy đã sờn cũ nhưng thật chỉnh tề. Người nào cũng giày hạ, quần trắng, áo the đen, đội khăn xếp, vác dù và quấn quanh cổ chiếc khăn lông dài. Bá Huân nhìn mặt trời rồi nói:
– Trời hôm nay tốt quá, ta cứ thong dong vẫn đến kịp giờ hẹn với Đào công chú ạ.
– Anh ạ, cho đến giờ phút nầy em vẫn còn hồ nghi trong dạ. Liệu Đào công có thực bụng hoan hỉ mà viết thiếp mời anh em mình đến xem hoa mẫu đơn nở hay là… Đào Công muốn chơi khăm một vố gì đây để trả thù những lời mắng của em lúc hay tin ông ta từ chối tham gia vào phong trào Văn Thân. Nếu không thì giữa anh em mình và ông ta chưa một lần gặp gỡ sao lại mời mọc như bậc thượng khách trong khi từ vai vế đến tuổi tác anh em mình chỉ là kẻ nhỏ mọn và hậu sanh?
– Chú nghĩ vậy coi bộ không phải. Ta với chú đã từng bình những bài thơ của Mai tăng và vô cùng khâm phục tài hoa của ông phổ lên từng câu từng chữ. Bài thơ nào cũng toát lên cái đẹp của một đóa hoa thanh khiết, cái dũng của một đấng anh hùng. Một người đã làm cặp đối chữ như thế nầy thì không thể có cái tiểu tâm được. Ông Huân dừng chân, quay người nhìn Nghè Trì rồi cất giọng ngâm nga:
Tùy xứ khôi hài, Mạ Thiên Tiên bản sắc
Phùng trường tác hý, Hoan Hỷ Phật tiền thân.

Ngâm xong ông tiếp tục bước, hắng giọng rồi nói tiếp:
– Hơn nữa, cái tuồng Hộ Sanh Đàn đã làm ta và chú khóc, cười, ái, nộ theo từng hồi. Nó là một bổn tuồng kiệt tác từ văn chương đến tư tưởng.
Nghè Trì sửa cái khăn lông cho khỏi chật cổ rồi tiếp lời:
– Anh nhắc đến Hộ Sanh Đàn làm em nhớ hôm nọ em giảng giải với mấy đứa học trò, em xin thuật lại cho anh nghe. Hộ Sanh Đàn không phải là “đàn đỡ đẻ”. Chính là cái đàn vô hình mà Hộ Sanh Sứ Giả bước lên để nhận lệnh đi giúp đỡ Lan Anh đang chuyển bụng. Vì sao phải nhọc sức thần linh như vậy? Chính vì đứa bé trong bụng kia là quí tử do cha trung dũng, mẹ tiết nghĩa sanh ra. Đào công xây dựng nhân vật Tiết Cương và Lan Anh có đủ đức trung nghĩa tiết dũng để gián tiếp bảo rằng: “Đứa bé sanh ra sẽ là một anh tài của đất nước, một hy vọng của tương lai”. Dụng ý của Đào công rất sâu: Không phải Tiết Cương cứu nguy được nhà Đường, mà chính Tiết Quì. Cha mẹ gieo nhân, đời con hái quả. Ông muốn nói với chúng ta: “Thế hệ này chưa lấy lại được nước non Hồng Lạc, hy vọng ở đám hậu sinh”. Do vậy Đào công nhấn mạnh ở việc sanh đẻ và lấy ba chữ Hộ Sanh Đàn đặt tên cho tuồng. Tuồng này nếu hát ở vùng Nghệ thì Tiết Nghĩa là hình ảnh của Cao Ngọc Lễ, tên phản sư phản quốc. Nếu đem hát ở vùng Quảng Nam, Bình Định thì Tiết Nghĩa sẽ là hiện thân của tên Nguyễn Thân khốn kiếp.
Nghè Trì bật cười khi chợt nhớ hôm đi coi tuồng Hộ Sanh Đàn, ông đã đánh cái trống chầu suýt bể khi và cười ha hả khi nghe câu hát:
“Bảo cho, nễ khả, thằng thân hạ mã, thúc thủ lai hàng”
và:
“Như ngươi chừ: Hết cậy thế xông đồ phá trận. Biểu cho: Phải cam lòng hạ mã thằng thân cho rồi”.
Ông lẩm bẩm:
“Hay quá, đã quá.Thằng thân hạ mã, chữ nho là trói mình xuống ngựa và nói nôm là thằng Thân xuống ngựa đầu hàng đi”. Bá Huân không hiểu cái cười của em nên đưa mắt hỏi. Nghè Trì chợt thấy mình còn vẻ trẻ con trước mặt anh nên vội nín cười và nói thác đi:
– Mình rảo bước một chút đi anh kẻo trễ.

Đến Hương Thảo Thất trời đã chạng vạng tối, hai anh em sửa soạn y phục cho tề chỉnh rồi mới gọi cổng. Cửa nhà ngõ xịch mở, người nô bộc khom mình bái chào. Chưa kịp đáp lễ, hai anh em đã thoáng thấy Đào Tấn xuất hiện. Dáng khoan thai, chững chạc, vừa vuốt chòm râu trắng xóa vừa cười khà khà nói:
– Nhị vị huynh đệ thật đúng hẹn, xin rước nhị vị vào tệ thất.
Đào Tấn lách người một bên, đưa tay ra dấu mời.
– Ấy chết, Đào công xin đừng làm thế, huynh đệ chúng tôi chỉ xin được nối gót ngài.

Bá Huân vội vã lên tiếng rồi bước ra sau Đào công chờ đợi. Ông không ngờ đích thân Đào công ra tận cổng đón hai anh em ông. Dù đã về hưu nhưng Đào Tấn đã là quan Thượng Thư và hai anh em ông, dưới mắt triều đình chỉ là những kẻ phản loạn.– Cùng là kẻ sĩ với nhau chấp gì chút lễ nghi chật chội. Xin mời huynh đệ đánh một vòng nhìn nước ao sen mùa thu, xem mấy gốc mai cằn, rồi ta sẽ vào nhà hàn huyên cho phỉ tình mong đợi.

Nói xong Đào Tấn ung dung từng bước hướng dẫn anh em họ Nguyễn. Hai bên tả hữu của cổng chính đều là ao sen. Tuy đã vào thu nhưng hoa sen vẫn chưa tàn hết, thấp thoáng trong đám lá sen già những bông sen vụt cao lên, trắng xóa trong cái tối nhờ nhờ, để sáng ngày mai khai hoa nở nhụy. Mùi hương sen thật nhẹ, thật thoang thoảng, nhưng mọi người đều ngửi được, nên lồng ngực cứ muốn căng ra hít cái mùi hương huyền dịu quý giá ấy.

Trong ao, người nô bộc đang nhẹ nhàng, cẩn trọng vạch từng lá sen để chèo một chiếc thúng, chốc chốc lại dừng bên những búp sen vừa chớm hé. Ông ta dùng một ngón tay khe khẽ thò vào chỗ hé của búp sen từ từ xoay vòng tròn cho miệng sen há to đủ cho ông bỏ nhúm trà mộc vào rồi cũng thật khẽ khàng lấy sợi dây bằng bẹ chuối khô thắt gút lại. Tinh mơ sáng hôm sau ông ta lại cũng thật nhẹ nhàng, cẩn trọng chèo thúng đến từng cái hoa, cũng rất khẽ khàng mở dây buộc, lấy từng nhúm trà ấy cho Đào công pha với nước sương đọng trên lá sen, tinh hoa của trời đất đêm qua. Tất cả việc buổi tối bỏ trà, buổi sáng lấy trà trong hoa sen, ông đều làm hết sức cẩn thận, vì Đào công luôn luôn nhắc nhở: “Hưởng được hương vị hoa sen là hưởng được ân sủng của trời đất, nên không thể làm hư cái sự nở của hoa là làm hư sự thăng hoa của tạo hóa. Ông phải luôn luôn dè chừng không làm hư thứ tự sắp xếp của cánh hoa, để ngày mai hoa sẽ còn góp mặt với đời.”

Đào Tấn nhìn Nghè Trì, giọng vui vui:
– Tiếc là trời hôm nay thiếu gió, nếu không mình sẽ cùng thấy mặt Nhan Uyên.
Trong lòng Nghè Trì nhoi lên một niềm vui. Thì ra Đào công chú ý tìm hiểu về ông khá nhiều. Lúc ra Huế chờ nhận chức, ông có dịp quen với Tôn Thất Đạm và Tôn Thất Thiệp. Một hôm Đạm đọc cho ông nghe vế đối của vua Tự Đức mà quần thần chưa ai đối được:
“Thủy trích bích tường sanh Khổng Tử.” (Nước nhỏ xuống chân tường sinh ra những giọt nước cử động. Khổng Tử vừa là tên ông Khổng Tử vừa có nghĩa là giọt nước không đứng yên một chỗ).

Đang tìm câu đối, bỗng nhìn thấy gió thổi lá sen để lộ mặt hồ nước trước nhà trọ, ông liền đối:
“Phong xuy hà diệp kiến Nhan Uyên” (Gió thổi lá sen nhìn thấy mặt hồ. Nhan Uyên vừa là tên ông Nhan Uyên, học trò của Khổng Tử vừa có nghĩa là mặt hồ.)

Cả ba bắt đầu dạo quanh vườn mai. Mai trồng thành từng ô vuông khắn khít với nhau bằng những cành khẳng khiu như củi mục nhưng tiềm chứa sức mạnh chống chọi với thời gian bằng vô số chiếc lá xanh lục khiến anh em họ Nguyễn như lạc vào chốn rêu xanh cổ tích. Trọng Trì kêu lên, giọng sôi nổi:
– Anh ạ, cái cành kia đẹp quá cái thế của nó tựa như một con rồng đang vùng vẫy, em nghĩ xuân về, những bông hoa mai nở viền quanh sẽ điểm cho nó cái thần khí để bay vút lên mây.
–  Ông Nghè giàu tưởng tượng hỉ. Thôi đã tối trời, chúng ta vào nhà dùng chén rượu tẩy trần.

Cửa chính mở rộng, chiếc đèn tọa đăng tỏa sáng khắp nhà, soi rõ bức hoành phi treo trên gian giữa ba chữ Hương Thảo Thất bay lượn nhẹ nhàng như hương thơm của cỏ dịu dàng len giữa không gian. Bên trái của bức hoành là hàng chữ đứng: Thành Thái Ất Vị Xuân, góc mặt là hai chữ Mai Tăng nhỏ bé, khiêm nhường.

Chủ khách vừa ngồi xuống ghế, lập tức người nô bộc bưng khay rượu ra, trên là một bình Mai Quế Lộ. Tự tay Đào Tấn rót rượu ra chén ân cần mời khách:
– Vân Sơn nổi tiếng một nhà năm người tài hoa sánh với gia đình họ Tô thời Tống. Hôm nay được gặp gỡ hàn huyên cùng nhị huynh đệ lão rất vui mừng. Chúng ta cạn vài chung rượu rồi dùng cơm đạm bạc, sau đó sẽ đến tiết mục chính của bữa tao ngộ hôm nay.
Bá Huân một tay nâng chén rượu, tay kia vin tay áo the đen, tỏ vẻ cung kính nói:
– Dạ, Đào công quá khen chứ bốn anh em chúng tôi mắt không nhìn tới nổi ngọn Linh Phong, tài chưa bén cổng làng Vinh Thạnh. Vừøa mới mãn tang gia phụ năm ngoái, mà lòng vẫn không hết thẹn với cha già là chưa làm tròn những điều gia huấn. Còn nỗi niềm đất nước cứ canh cánh bên lòng khiến huynh đệ chúng tôi sống như ở trên dầu sôi lửa bỏng. Riêng Huân này, sở học ít oi, thô thiển nên không tiếc việc hỏng thi. Lòng chỉ muốn hòa nhập vào mây trời lãng đãng mà nhàn du với cỏ nội hạc ngàn. Tiếc thay nước nhà gặp cơn bỉ, đành đem thân mà trải, những mong trả nghĩa lộc trời, nhưng rồi chẳng cưỡng nổi mệnh thiên, nên vô cùng tâm đắc với hai câu Nam ở cuối tuồng Diễn Võ Đình qua nhân vật Triệu Khánh Sanh mà Đào công đã phóng bút:
Tấm thân liều gửi cung dâu
Đố con tuấn mã biết đâu là nhà.
Huân này mạo muội nghĩ rằng Đào công cũng đã từng trở trăn thống thiết như Huân vậy. Bao lâu nay đã nghe nức tiếng Tiểu Linh Phong Mai Tăng, cũng như thưởng thức hàng hàng cẩm tú của Mộng Mai Tiên sinh, hôm nay lại được đối ẩm với ngài quả là muôn vàn hân hạnh.
Nghè Trì cũng đứng dậy nghiêng mình thi lễ tiếp lời anh:
– Thưa Đào Công, tiểu đệ từ ngày bỏ được rừng xanh, về nhà có thì giờ, sính đọc những áng văn chương trác tuyệt của ngài, nhất là hôm đi coi tuồng Hộ Sanh Đàn. Văn chương cũng như bố cục đều thật là cao siêu, từng câu từng chữ của vở tuồng thấm tận đáy lòng của tiểu sinh. Khiến lòng này không khỏi thẹn khi nhớ lại chuyện ngày xưa vì quá nông nổi, chưa biết phân chia hư thực. Lòng dặn lòng có dịp thì xin được tạ tội thất lễ với Đào công. Sau lần đọc xong bổn tuồng Thái Thạch Cơ, tiểu sinh vô cùng xúc động nên có làm hai bài tứ tuyệt, tiện đây xin dâng tặng Đào công nhàn lãm:

Quốc loạn anh hùng bất tác thi
Tùng quân ngự địch lập công thì
Thiên an khởi thị thư sinh nguyện
Hoàn ngã hà sơn khả định kỳ.

Thái Thạch Cơ biên nô lãng hào
Thôn Ngưu hùng khí vạn tầng cao
Viên môn dạ lập quan Kim trận
Vũ tuyết phân phân mã chiến bào.

Đào Tấn nghe hai bài tứ tuyệt xong, tấm tắc khen:
–   Văn quả là người. Tài hoa, khí tiết, có cả uất khí xông tận trời cao. Trả lại núi sông cho ta có thể hẹn kỳ là trung nghĩa. Và, đêm đứng nhìn trận giặc Kim, tuyết rơi bời bời trên áo giáp, thực quả là thanh lệ vô cùng. Chao ôi, thơ của ông Nghè thực là Thốn tâm thiên cổ.

Đến giờ thưởng hoa, chiếc bàn ăn được dọn đi, thế vào là một cái đôn thấp bằng sứ Bát Tràng và cái án thư để bày bộ trà. Hai người tráng đinh khiêng một chậu hoa to, khá nặng đặt trên cái cáng đan bằng tre, khệ nệ bước qua hè nhà rộng, rồi rất cẩn thận đặt lên   chiếc đôn bóng láng.

Chiếc chậu sứ da rạn chạy chữ triện quanh miệng trông rất mỹ thuật. Cây Mẫu Đơn khá lâu năm, cao gần thước tây, cành lá sum suê. Điều làm anh em họ Nguyễn vô cùng thích thú là hoa. Hoa thật nhiều, thật tràn trề, trên cùng khắp các nhánh. Đa số đều nở. Màu trắng thật tinh khiết, thật đôn hậu. Những cánh hoa dày, chắc chắn, giống như những cánh Trà Mi, xếp tròn thành nhiều tầng chung quanh chùm nhụy vàng phơn phớt sang cả. Mùi thơm của hoa Mẫu Đơn thật nhẹ nhàng quyến rũ, thoang thoảng của mùi hoa lài lẫn chút đậm đà của nàng hoa bưởi. Không gian im hơi, cả ba thinh lặng, tất cả như bị đắm chìm trong cái không khí nửa huyền hoặc nửa thăng hoa toát ra từ cây Mẫu Đơn tuyệt mỹ. Cả Bá Huân và Trọng Trì đồng thanh buột miệng: “Vương giả chi hoa” rồi sau một thoáng nhìn nhau, cả hai lại cùng rơi vào im lặng. Hương đã gây mùi nhớ, trà giục khan giọng tình. Giọng Bá Huân trầm trầm cất lên như vang từ chốn mê cung xa vắng:
– Nhớ xưa nàng Dương Quí Phi là một trong Tứ Đại Giai Nhân của Trung Hoa được Đường Minh Hoàng vô cùng yêu quý, tận tay hái một bông hoa Mẫu Đơn cài vào tóc nàng. Người đương thời cho rằng hoa Mẫu Đơn xứng đáng được kề cận với Quí Phi. Giờ tận mặt thấy hoa bèn trộm nghĩ rằng, nên nói ngược lại là Dương Quí Phi xứng đáng được mang hoa Mẫu Đơn trên tóc.
Để tạ chút lòng Đào công đoái tưởng xin được múa rìu trước cửa Lỗ Ban, xin cho một mảnh hoa tiên để được trổ chút tài hèn mọn.

Bá Huân tiếp giấy bút từ người nô bộc, cúi gập người xuống án thư, lấy ngọn bút lông chấm xuống nghiên mực do người lão bộc vừa mài. Tay ông thoăn thoắt, đá, phảy, đưa lên, ngoặc xuống, trong thoáng chốc đã thành một bài tứ tuyệt:

Hý khúc ngô châu trứ giả đa
Tranh hồng đấu tử tổng nhàn hoa
Mẫu đơn nhất đóa quần phương chủ
Khả tỷ Đào công đại bái gia.

Đào Tấn kê mảnh hoa tiên sát bên ánh tạ đăng, nheo mắt đọc. Vừa xong, ông vuốt râu, thảng thốt kêu mấy lượt “Hay a, Hay a”. Ông lấy giấy ra phóng bút họa ngay một bài:

Văn tinh tụ chiếu ngã châu đa
Từ uyển hân chiêm mỹ lệ hoa
Hồng hạnh bích đào giai tuyệt sắc
Quần phương các hữu tại chư gia.

Viết xong ông đưa cho Bá Huân và nói:
– Xin đa tạ nhã ý của ông, văn hay chữ tốt, nhưng lão thật tình không dám được ví như hoa Mẫu đơn là chúa các loài hoa, mà thiết nghĩ rằng hoa hạnh, hoa đào đều là tuyệt diệu và mọi loài đều có trong mỗi nhà soạn tuồng. Hơn nữa, cái tiết tháo của Mẫu đơn đã bao trùm thiên hạ, dám quay lưng ngoảnh mặt trước lời phán bảo của Võ Tắc Thiên. Điều đó lão luôn để trên đầu, sánh lão với hoa Mẫu đơn chỉ làm lão muôn phần hổ thẹn thôi ông Huân ạ.

Đã gần đến nửa khuya, anh em họ Nguyễn đứng dậy xin kiếu từ. Đào Tấn hết sức cầm ngủ lại, hai ông hết sức chối từ. Nguyễn huynh đệ dắt nhau về dưới sương khuya. Ra khỏi khu vườn thuộc Hương Thảo Thất chợt Bá Huân dừng lại bảo với em:
– Chú Trì ạ, tôi rất đồng ý với chú hồi chiều, khi chú nói cái dụng ý sâu xa của Đào Công qua bổn tuồng Hộ Sanh Đàn. Thế hệ mình chưa thể lấy lại non nước, chỉ hy vọng vào đám hậu sinh, chú ạ.

Đặng Phú Phong

 

 

Advertisement

người thi sĩ già ven sông

 

 

ý nghĩ phiêu du trên không gian ba chiều
chạy phăng vào ngôi nhà ven sông
nước rầm rì với những cọc cắm sâu
đợi con chim về đứng im lìm như nhà hiền triết
mùa đông xám xịt ngửi mái rạ sẫm mầu
từng chiếc lá khô quéo quắt
con chim vút bay
đậu vào ý nghĩ người thi sĩ già đang làm thơ trong ngôi nhà đang sập
người thi sĩ già vỡ óc
cây viết bỗng chảy mực như dòng cuồng lưu
những giọt mưa biến thành ngàn triệu viên đá cuội.
đắp mộ
không gian đìu hiu
ngọn nến trắng càng xót xa thân phận
cây viết mất tích
tình yêu không còn
người thi sĩ già quay đầu về non
con chim vẫn đứng im lìm như nhà hiền triết
chiếc thuyền nhỏ chao mình trên nước
cây đỗ quyên già xơ xác. một vài bông.

Đặng Phú Phong

HOẠ SĨ THANH TRÍ (Trích “Bên kia con chữ & nghệ thuật”- xuất bản tháng 12/15),

dangphuphong

Thanh Trí

Tiểu sử: Sinh 1939 tại Hue Vietnam
Tốt nghiệp Trường Mỹ Thuật Huế 1961
Tốt Nghiệp Khóa “Sư Phạm Hội Họa” tại Trường Quốc Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật Gia Định, Sài Gòn 1962.
1987 Định cư tại Hoa Kỳ (Sacramento, California)
1993 Tốt nghiệp Cosumnes River College California USA in Design Drafting 1993
Đã dạy vẽ 24 năm tại các trường Trung học ở Nha Trang, Nguyễn Du, Văn Hiến- Saigon
Giải thưởng:
The League Of Carmichael Artists Presents (Silence Color )
Sacramento Fine Art Center (Old Man)
California Art League (Reflection)
The League Of Carmichael Artists Presents (The Nature’s Color)

Chợ Tết
Chợ Tết Đầu Làng- Tranh sơn mài

Đã triển lãm: California State University of Sacramento
1991 Consumnes River College,Sacramento
-Sacramentp fine art center
– Silk painting exhibition, Eastwest gallery, Maryland
– De Anza College gallery, San Jose-State Capital, Sacramento
– Philippine-Noumea, Nouvell Caledonie
– Cal Expo, Sacramento
– San Jose Museum of Art, group show
-Work Gallery, San Jose-group show
– VAALA Gallery Garden Grove
– Vietnamese female Artists Pomona- group show
– La Galeria, San Jose-group show
– 2005 San Jose, California
– 2007 Triển Lãm 50 năm Cao đẳng Mỹ thuật Huế Việt Báo Gallery
– 2009 – Triển Lãm Tranh thanh Trí “ Đôi Bờ”
– Stream Of Thought .VIVO Center SanJose.
– DanChi Art Gallery Westminster, CA USA. Etc
Tác phẩm đã xuất bản : “Tập Tranh và Thơ Thanh Trí “ tại Hoa Kỳ, 2004.

THANH TRÍ và Triển Lãm Đôi Bờ

Hành trình của đá
Hành Trình của Đá , sơn dầu.
Mùa thu: vàng.. Vui thì ửng đỏ và lấp lóe đâu đó chút xanh biên biếc. Buồn thì vàng đen , vàng nâu, vàng đất, vàng …đá . Ít thấy họa sĩ nào diễn tả mùa thu mạnh và đầy góc cạnh như Họa sĩ Thanh Trí. Mạnh nhưng không thô, cái mạnh của lực tạo hóa. Góc cạnh vì cái nhìn , cảm nhận đa chiều đối với một không gian xơ cứng , trầm uất. Mùa thu có trọng lượng, sức nặng ở những chiếc lá rơi, ở những giọt sương làm trĩu những chiếc lá sen già nua. Ngắm những bức tranh mùa thu của Họa sĩ Thanh Trí, người xem thấy được những hang hóc hoang vu sổng người lên chịu đựng đám lá mục thời gian qua những nhát cọ khá hào phóng. Điều nầy càng dễ thấy hơn qua bức tranh Hành Trình Của Đá. Trong những hình khối đa dạng, chập chùng đè lẫn lên nhau tạo nên ấn tượng hổn mang của thời hoang sơ lập địa , mời gọi người xem hòa mình vào cảnh trí của bức tranh, để cùng bước theo hành trình của đá. Có hành trình của đá thì cũng sẽ có giấc mơ của đá. Đá cũng là tôi là anh là mọi người.

Hình của bài
Mời Trầu- Tranh lụa

Nhưng tranh sơn dầu của Thanh Trí không chỉ như vậy. Qua những bức tranh vẽ chân dung , người ta dễ thấy cách xử dụng màu sắc của bà khá đa dạng, nhưng vẫn không đi khác đi cái gam màu so với các tranh khác, dù đó là tranh trên lụa hay màu nước trên giấy. Bức tranh Gặp Gỡ, tranh màu nước, bà vẽ hai con gián chụm đầu nhau trò chuyện trong môt bối cảnh mờ nhạt nhưng vui mắt . Người xem sẽ tha hồ tưởng tượng hai con gián đang nói chuyện gì. Ngụ ý trong tranh Thanh Trí rất nhiều. Những chim bồ câu, những thiếu nữ, những thiếu phụ trong tranh của bà là hiện thân của sự thanh bình và thương yêu. Có lẽ xuyên suốt bao nhiêu tranh của bà là sự nhắc nhở, ca tụng tình yêu để chúng ta có được một thế giới an bình.

Tôi tin rằng trong hơn hai mươi năm dạy hội họa, tính cách sư phạm rất ảnh hưởng trong bố cục tranh của bà. Có sự kềm hãm và nhẹ nhàng trong những bức tranh mà thoạt tiên ta có thể nghĩ rằng bà đang phóng bút. Cho dù đâu đó nét tiểu thư của một thiếu nữ Huế thoáng ẩn hiện trong tranh của bà. Từng ngần ấy điều kiện khách quan cùng với một tâm hồn nhạy cảm, say mê nghệ thuật đã tạo cho tranh Thanh Trí một nét khá riêng.Thời Thanh Trí học trường Mỹ Thuật Huế, thời các cô gái Huế khi ở nhà thì kín cổng cao tường , ra đường luôn luôn cúi mặt, khép nép, tay lúc nào cũng sẵn sàng chực giữ lấy tà áo dài bị gió thổi tung bay thì chắc bà cũng đã từng phải đối phó gay go để theo đuổi con đường nghệ thuật đầy thơ mộng của mình. Sự thơ mộng đó trãi đều trên chiều dày tác phẩm của bà, nhất là trên tranh lụa. Không khí tranh lụa của Thanh Trí thật lãng đãng, huyền hoặc và có lẽ tất cả những đôi mắt thiếu nữ trong loại tranh này bà đều diễn tả nó thật diệu vợi xa xăm hướng về một chân trời riêng tư nào đó.

Khó mà xác định được khuynh hướng của Họa sĩ Thanh Trí. Về tranh sơn dầu có lúc thì bà ẩn mình trong Tân Cổ Điển (Neo-classic) lúc thì Trường Phái Biểu Hiện ( Expressionism) lúc thì Trừu Tượng Biểu Hiện (Abtract Expressionism) vân vân. Bà còn vẽ Sketch , tranh sơn mài và tranh thơ (xin tạm gọi như vậy để chỉ loạt tranh vẽ bên cạnh những bài thơ của bà) Ở thể loại nào bà cũng vẽ với tất cả tấm lòng , nét cọ nhanh mạnh nhưng vẫn thể hiện được nét dịu mềm của một tâm hồn đầy thơ mộng. Nhưng nếu phải chọn loại tranh nào là thành công nhất của bà có lẽ tôi xin chọn tranh lụa . Thật vậy Thanh Trí đã đưa được vào tranh lụa của bà cái nét đặc biệt nhất của loại tranh này là nhẹ nhàng nhưng sâu thẳm, huyền hoặc nhưng tươi mát. Thêm một chút tim tím đặc trưng của Huế bà đã đưa tranh lụa của bà đi sâu vào lòng người thưởng ngoạn.

ĐẶNG PHÚ PHONG

THU PHÂN

dangphuphong

Mưa thật nhỏ nhưng hồn ta lụt
Thu Phân lá úa khóc tơ trời
Năm tháng trói chân nằm góc phố
Giòng sông xưa mấy lúc đầy vơi.

Hoang vu mắt biếc đêm Ai Cập
Em nhỏ lòng ta hạt long lanh
Tinh khiết như sương trên đỉnh núi
Thành Troy có cháy vẫn còn em.

Phóng tay hào phóng thu còn mãi
Giòng sữa miên man chảy xuống đời
Em nẩy mầm non xanh vũ trụ
Em cười cho tất cả chơi vơi.

Tay vỗ giấc mơ. Tay múa kiếm
Lăng ba vi bộ giỡn đùa thu
Dốc ngược Thu Phân thành Hạ Chí
Cho đời tròn trịa khối tình thu.

Tóc xanh còn ngát hương hoa bưởi
Em dại khờ chi chút phấn son
Nưả ở nưả về tâm bất định
Sương thu chợt xuống lúc hoàng hôn.

Đặng Phú Phong

Võ Phiến, một vài chung quanh.

 dangphuphong

Ông Võ Phiến  gọi Nguyễn Mộng Giác là một người “thàng”(hậu) (1). Ông Nguyễn Mộng Giác cũng gọi Võ Phiến là “thàng” (2). Và, hai ông định nghĩa thàng như sau:

Nguyễn Mộng Giác: “Thàng” không phải là hiền. “Thàng” là một chữ định hình, chứ không định tính. Người thàng, là người ít nói, tránh né những tranh chấp rắc rối, sẵn sàng chịu phần thua thiệt để giữ hoà khí, cố giữ bề ngoài đơn giản lùi xùi để không bị ai xem là kẻ quan trọng. Người thàng có thể hiền lành vì không dám làm việc dữ. Nhưng người thàng cũng có thể có những phản ứng bất ngờ dữ dội khi đột nhiên không thể chịu đựng được mãi sự thua thiệt. Người ta bảo người thàng hay cộc.” (Đặc san Tây sơn –Bình Định,1999)

Và Võ Phiến: “Thàng là chữ riêng của người Bình Định, và cũng là chữ riêng để mô tả người Bình Định. Thàng cũng nói là thàng hậu; thàng hậu nghiã gần như hiền hậu, nhưng còn đi xa hơn hiền hậu nữa kia, vì nó có khả năng mô tả, hiền hậu thì không. Hiền hậu, thực thà là một đức tình, một nết hay; thàng hậu còn là một vẻ người hiển hiện ra bên ngoài, trông rõ mồm một. Người thàng, thàng từ tiếng cười giọng nói, nét mặt, thàng đi. Mà người thàng thì trời ơi, trong trí nhớ của tôi, tôi mường tượng mọi người Bình Định đều thàng hết: anh Ba, chị Bốn, ông Bảy, bà Năm, cô Tư, cậu Tám vv… Hết thảy, không ai là không thàng. Muôn người như cùng một vẻ, một giọng.”(Võ Phiến viết tựa cho Cuốn Ngựa Nản Chân Bon của Nguyễn Mộng Giác.).

Chữ Thàng, trước hết, là chữ của người Bình Định, nếu tính vào thời điểm 2015 này thì “thàng” đã thành chữ cổ. Thuở thiếu thời (thập niên 1950) tôi thỉnh thoảng nghe song thân tôi dùng chữ “thàng” để nói về một người nào đó trong thôn xóm.  Tôi hiểu  lơ mơ “thàng” có nghĩa là hiền, là… thàng. Sau đó do việc di chuyển chỗ ở, tuy rằng chỉ ra tỉnh lỵ, tôi không còn nghe ai dùng chữ thàng nữa. Rồi chữ thàng biến mất trong mớ chữ nghĩa lơ tơ mơ của tôi. Cho đến khi tôi đọc Võ Phiến, Nguyễn Mộng Giác, nhất là thời gian ở hải ngoai, chữ thàng được hai ông định nghĩa  thật rốt ráo, đến cho dù không phải là người Bình Định cũng có thể hiểu rõ ràng “ thàng” và “người thàng “ là như thế nào. Và, chữ thàng cũng được giới văn học thường xử dụng  để chỉ 2 ông Nguyễn và Võ.

Ông Nguyễn thì thật sự là dòng họ Nguyễn.  Còn họ Võ của ông Võ Phiến thì không phải vậy. Ông, tên  khai sinh là Đoàn Thế Nhơn, vì yêu cái tài sắc, cảm cái tấm lòng đôn hậu của vợ ông là bà Võ Thị Viễn Phố, từ bút hiệu Đắc Lang ( Những đêm đông viết năm 1943 đăng trên báo Trung Bắc Chủ Nhật.) ông đã nói lái Viễn Phố thành Võ Phiến làm bút danh cho đến cuối đời. Tôi ngờ rằng khi nói lái ông Võ Phiến đã bị lợn cợn khi Viễn Phố lái ra sẽ thành Vỗ Phiến nghe nó không ra làm sao cả. May quá! Có cứu tinh đây rồi. Bà Viễn Phố họ Võ. Vậy thì  cứ việc thẳng tay ném đi cái mũ. Thành ra Võ, lại là họ của nàng cũng là họ của chàng.  Khéo thay chữ nghĩa! Hai người mãi mãi bên nhau và chỉ một. Dẫu rằng ông ăn cơm hoài cũng ngán nên cũng đi ăn đôi lần phở, chuyện ấy cũng chẳng sao, chẳng chết thằng Tây nào, mà ngược lại mối tình với Viễn Phố càng thêm bền vững. Tôi thật sự xúc động khi nhìn tấm hình ông bà mỗi người một bên đẩy chiếc senior walker cùng đi bách bộ. Keo- sơn- gắn- bó là đây.

Giới văn nghệ sĩ gọi thêm ông một cái tên “Ông già tinh quái”. Nhưng tại sao là “ông già”?. Chỉ khi ông già rồi mới viết văn “tinh quái” hay sao? Tôi e rằng không phải vậy. Chất “tinh quái” của Võ Phiến đã có từ lâu. Từ lâu lắm lận. Từ Người tù (1955), Dung (1956), Lỡ làng (1956), Anh em (1957), Thác đổ sau nhà, Lẽ sống (1958)…. Từ : Anh Bốn Thôi, chị Lộc, Ba Thê Đồng Thời,  ông Tú Từ Lâm, Hữu….

Lại một phen chữ nghĩa! Cái này phải tôn Võ Phiến là bậc thầy. Ông cứ nhẩn nha viết. Bắt người ta phải hút theo chữ nghĩa “ chẻ sợi tóc làm tư, làm tám” của ông. Lâu lâu, cắc cớ đưa ra những ý tưởng làm độc giả giật mình, phải đọc lại lần nữa, rồi giật mình lần nữa (không khỏi cười mỉm thích thú ):“ Cái ông này thâm thật, tài  thật”. Tinh quái, trước hết là tinh tế. Ông nhìn sự việc thật tinh tường qua ngòi bút điêu luyện, làm chủ vấn đề sự kiện. Điều này người đọc dễ dàng nhận ra ở những bài tạp bút, tùy bút của ông. Còn quái thì sao? Ông Võ Phiến có “quái” không? Thiệt là khó! Tôi xin nhón nhóm chữ: “suy đoán vu vơ” của ông dùng để khiêm tốn bày tỏ ý kiến của mình, Suy đoán vu vơ “quái” là không phải bình thường, là lạ, nhưng không phải là quái dị. Còn gì nữa nhỉ. Ờ, phải có cái hậu là vui, qua quá trình soi thấu sự uyên thâm. Như vậy” ông già tinh quái “ ở đây chỉ cho sự uyên bác, thâm trầm, hóm hỉnh lấy được sự kính nể từ nhiều người khác. Nếu cần thêm một chút mắm muối, tôi có thể mượn đoạn văn của Võ Phiến để cho ý của mình đậm nhạt: “Nghề viết văn loay hoay một cách …cảm động. Riêng người Việt lại còn mối cảm kích đối với cái ngôn ngữ của mình sử dụng… Hơn sáu mươi năm trước thường đọc lang thang, môt hôm tôi gặp bài “Đợi Thơ” của Hồ Dzếnh. Lời lời hoa mỹ, câu nào câu nấy chật ních những địa danh xa xôi, mơ hồ, mộng ảo, tôi mê tơi, “ngâm” đi “ngâm lại”:

(…) Tô Châu lớp lớp Phù kiều
Trăng đêm Dương Tử mây chiều Giang Nam
Rạc rời vó ngưa quá quan
Cờ treo ý cũ mây dàn mộng xưa
Biển chiều vang tiếng nhân ngư
Non xanh thao thiết trời thu rượi sầu
Nhớ thương bạc nửa mái đầu
Lòng vương quán khách nghe màu tà huân (…)”

Lời không hiểu mấy, ý không rõ mấy, nhưng mặc kệ: tôi thích, mê tơi. Tôi có chú ý đến mấy tiếng “non xanh thao thiết”. “Thao thiết” ám ảnh tôi. Xanh thao thiết là xanh cách nào? Không biết đích xác, nhưng tôi cho đó là một chữ  tài tình, đúng với màu núi “nọ”(?)…”. (Viết lách, trong Cuối Cùng, Võ Phiến)

Cũng từ đoạn văn trích trên nó điển hình cho cách Võ Phiến đã đưa ngôn ngữ nói thành ngôn ngữ viết thật tài tình. Không biết cơ man những “câu nào câu nấy chật ních”, “tôi mê tơi” nằm trong các tác phẩm của ông.

Lại nữa, Võ Phiến, cũng làm thơ lai rai. Một phần nhỏ nhưng không kém phần quan trọng trong sự nghiệp văn chương của ông. Cũng cái cách nhẩn nha, dùng những câu thơ như câu nói một cách tài tình, rồi “ Rụp, Rụp” (tên một bài tùy bút của Võ Phiến)  giáng một câu xanh dờn, đem cái ý buồn có, vui có, thản nhiên có, ngộ nghĩnh có, triết học có…. Xin giới thiệu bài thơ, không biết có phải là cuối cùng của đời ông hay không, nhưng nó nằm ở trang cuối cùng trong tập tạp bút tên là Cuối Cùng do Thế Kỷ 21 xuất bản năm 2009, nói về cái cuối cùng của kiếp người: “Trông lên chỉ gặp bầu trời là quen.

Mộc Mạc

Xưa từng có xóm có làng
Bà con cô bác họ hàng gần xa
Con trâu, con chó, con gà
Đàn cò, lũ sẻ, đều là cố tri.
Múa may mãi chẳng ra gì
Mỗi lâu thêm một cách ly rã rời.
Thân tàn đất lạ chơi vơi
Trông lên chỉ gặp bầu trời là quen.
Tôi là người Bình Định nên ưa ông cũng chỉ là chuyện thường. Tôi có chắc một điều  là người miền Bắc, miền Nam cũng rất yêu, thích ông. Tôi cũng chắc rằng nếu có người dịch toàn bộ tác phẩm ông ra tiếng nước ngoài, họ cũng sẽ thích ông . Giống như người Việt thích Stefan Zweig qua những bản dịch của ông.

Tôi không có ý định bước vào văn nghiệp của Võ Phiến. Chỉ một vài, thật ít, chung quanh ông. Mà thôi!

ĐẶNG PHÚ PHONG

 

HÀO KHÍ CA

dangphuphong

Từ buổi nắng cao mây lũng thấp
Ai người dựng mộ lấp trăm năm
Trăng xưa rụng mãi không đầy biển
Nên sóng hoàng hôn lụy nhỏ thầm

Tóc rối áo nhàu người giữ mộ
Giơ cao chén đá cụng thời gian
Nước ơi vận nước sao hiu hắt
Cho đám dân đen hận ngút ngàn

Tráng sĩ khi xưa chân đạp đất
Thân tù đâu ngại áo sờn vai
Chỉ e đất lở bồi không kịp
Ngửa mặt kêu trời ai khóc ai.

Đêm tối bít bùng đời tứ cố
Cau mày thế sự tỏ lời riêng
Người ơi xin chút hương ngày tết
Phả nhẹ vào mưa sau mái hiên

Cái nắng đầu xuân nghe nhạt thếch
Đôi bàn tay vỗ lệch bàn tay
Thoáng trong mắt đỏ màu xanh ngọc
Vời vợi nhìn theo mây trắng bay

Xin bẻ giùm ta cây trí tuệ
Cúi thêm chút nữa lá tình thương
Tự do ơi đến cùng ta nhé
“Vọng mỹ nhân hề thiên nhất phương”.

Đặng Phú Phong

Trần Hoài Thư Và ‘Xa Xứ’

dangphuphong

 

10404203_780536348728180_8887881635005580515_n

“Xa Xứ”, thơ của Trần Hoài Thư do Thư Ấn Quán xuất bản là một tập thơ, trước hết: Đẹp. Tranh Bìa của Tống Phước Cường (cũng là một trong những họa sĩ như Thân Trọng Minh, Nguyễn Trọng Khôi, Đinh Cường…có tranh phụ bản cho tập thơ). Tập thơ in hoàn toàn bằng giấy láng, dày, tốt với 38 đoạn thơ cùng 38 phụ bản tranh màu. Tác giả đã rất công phu tìm , chọn 38 bức tranh rất ư liên quan đến 38 đoạn thơ trong tập. quả là một điều thú vị. Một tập thơ, hình thức hết sức công phu, trau chuốt, trình bày trang nhã. Tác giả in chỉ để tặng.
Trần Hoài Thư. Một khuôn mặt rất quen thuộc trong giới cầm bút của Nam Việt Nam từ thập niên 60, một thành viên trụ cột của nhóm Ý Thức. Anh là cựu sĩ quan và là cựu phóng viên chiến trường của QLVNCH. Tù cải tạo 4 năm. Vượt biển , định cư tại Hoa Kỳ 1980. Về hưu sớm, dành toàn thời gian cho việc sưu tập di sản văn học miền Nam , cơ sở Thư ấn quán và tạp chí văn học Thư Quán Bản Thảo. Anh đã xuất bản hơn hai chục tác phẩm thơ, văn. Có thể nói 38 đoạn thơ trong tập ( đoạn ngắn nhất là 2 câu, dài nhất là 8 câu) là 38 bài thơ cùng có tên là “Xa Xứ”. Nói một cách khác bài thơ “Xa Xứ” của Trần Hoài Thư dài 38 đoạn.
Gạt lệ, từ bỏ quê nhà, đối diện với may rủi. Rủi nhiều hơn may. Cho dù đến được với bến bờ tự do. Trần Hoài Thư cũng như những người yêu Việt Nam, vẫn bị cái rủi bao vây, khống chế. Đó là cái rủi của một con người bị mất quê hương
Từ bên này địa cầu, Trần Hoài Thư, luôn luôn mang nặng một nỗi buồn xa quê. Nỗi nhớ mang tên mưa, những cơn “mưa tối mặt”, liên quan đến sinh tử của người lính chiến:
“Tây Nguyên đèo ải ngăn sinh lộ
“Trăm đứa lên có mấy kẻ về
“Giày trận bám bùn mưa tối mặt”

( “Xa Xứ”, tr. 6”)
Nỗi nhớ mang tên cây như rễ cây đa cổ thụ “đâm lòng đất”:
Cây đa. Ngàn rễ đâm lòng đất
“Như tấm lòng người với Bồng Sơn
“Đa bám làng, tôi đi bám đất
“Đất và làng, thương quá quê hương….”

(Xa Xứ, tr.8).
Nỗi nhớ của anh còn mang tên nhiều thứ nữa. Những cái tên ấy đều mộc mạc chân quê. Như là : “cây chuối”, “con Bìm bịp”, “lúa Chiêm”…
Những lần hành quân, người lính chiến đang tuổi thanh niên, không thể không vấn vương trong lòng mái tóc của người con gái tuổi dậy thì trong vụ Chiêm vàng bát ngát.
Uống một cốc cà phê, nhớ bạn. Hình ảnh cái ly xây chừng của cà phê bít- tất bỗng sống dậy trong anh. Lặng lẽ nhưng sừng sững. Ảo ảnh nhưng chừng như tác giả có thể nắm bắt:
“Cốc xây chừng ta để lại Việt Nam
“Chắc sẽ nguội và đóng thành lệ đá”

(“Xa xứ”, tr. 20)
Cây chuối là hình ảnh của quê hương mình, tình cờ thấy nó ở vườn ai (!) bên đường, anh không khỏi bàng hoàng thảng thốt, dừng xe :
Bụi chuối nhà ai bên đường đã mọc
“Chuối mẹ chuối con, trời hỡi quê nhà!

(“Xa Xứ”, tr. 22)
Tình cờ hai kẻ xa xứ gặp nhau . Rủ nhau vào quán:
Hỏi em: em xa xứ
“Hỏi anh : anh xa nhà
“Mời em vào quán vắng
“Uống thêm màu mây xa.”

(“Xa Xứ”, tr. 36)
Đây là đoạn thơ hay nhất trong thi tập Xa Xứ.
“Em xa xứ/ Anh xa nhà/ Mời vào quán vắng”. Nếu để kể lể, chia sớt nỗi buồn lưu lạc thì chắc tác giả chẳng nói làm chi. Chỉ để “ Uống thêm màu mây xa”. Câu thơ như suối nguồn tuông chảy, làm ngập lụt cả không gian bằng nỗi nhớ vợi vời. Uống thêm màu mây xa là uống một thứ thuốc độc thơ mộng. Một lối tự tử tuyệt vời. Chữ “thêm” và chữ “xa” là 2 chữ đắc địa . Không gian của 4 câu thơ là không gian tuyệt đối tĩnh lặng cô đơn. Chao ôi, trống vắng của kiếp người như vậy có thể nói là cùng kiệt!
Cái tĩnh lặng cô đơn ở đây là chính do tự lòng mình mở ra dẫu cho đang đứng giữa phố xá đông người. Cảnh quang không tĩnh như trong bài Tĩnh dạ tư (1). Nó khiến ta nhớ đến bài Ức Đông Sơn:
“Bất hướng Đông Sơn cửu
“Tường vi kỷ độ hoa?
“Bạch vân hoàn tự tán
“Minh nguyệt lạc thuỳ gia?”.

Lý Bạch.

Dịch nghĩa(ĐPP): Nhớ Đông Sơn
Lâu không đến Đông Sơn
Hoa tường vi đã nở mấy lần?
Mây trắng hợp rồi tan
Trăng sáng lạc vào nhà ai?

Lý Bạch nhìn mây. Trần Hoài Thư uống mây. Cả hai bài thơ đều không đề cập đến nỗi nhớ, nỗi cô đơn nhưng đều gây cho người đọc bàng hoàng đến lặng người vì nỗi cô đơn cùng cực.
Trần Hoài Thư biết rõ mình “ đứng giữa nỗi buồn lịch sử” nên đành phải ngậm ngùi với thân phận mất mát dù thỉnh thoảng cũng muốn tìm “có exit nào để bớt cô liêu” (trg 58).. Nhưng, tất cả chỉ là chiêm bao:
“ … Ta về chứ đêm qua
“Ta vẫn về, rất thầm lặng thiết tha
.” (“Xa Xứ”, tr. 78)
Kẻ lưu vong mà cứ canh cánh bên lòng nỗi mất mát thì sẽ trở thành một người chung thân bất mãn. Hay ít ra là một kẻ mang bệnh trầm cảm. Mong nhà thơ chúng ta tìm được chỗ, nơi, chốn thoát thân.
____
ĐẶNG PHÚ PHONG

Chú thích:
(1)“Tĩnh dạ tư” của Lý Bạch.
Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương
Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương.

.

.