BÀI HỌC CHO CÁC EM KHI DI TẢN

50 năm một bài thơ của Đặng Phú Phong. Anh sáng tác bài này vào tháng 3 năm 1975 khi còn ở Bình Định và đang trên đường di tản. Bài thơ được đăng trên tạp chí văn chương THỜI TẬP do nhà thơ Viên Linh chủ trương, số phát hành ngày 15-4-1975 tại Sài Gòn. Số báo này được xem như là số báo văn học cuối cùng của miền Nam.

Các em hãy đi chầm chậm cùng thầy
mình tình cờ gặp gỡ nhau đây
trong cơn khói lửa
tuy rằng phía sau đạn bom đang nổ
nhưng chắc gì phía trước là yên

Ô kìa! Sao có em còn mang theo sách vở
hãy quăng đi, mang theo gạo mà ăn
nếu có sức đèo thêm mền chiếu
sách vở kia đâu nuôi được kẻ đói lòng

Các em hãy đi chầm chậm cùng thầy
hãy nghe thầy nói
dù đây không phải là lớp học
dù hôm nay không có giờ học cuối tuần
và còn rất nhiều em vắng mặt

Thầy sẽ kể cho các em nghe
chuyện thầy tản cư trốn Pháp
nằm dưới gốc xoài kiến cán phồng cả thịt da
ăn cơm ghé lang mì quá nửa
đi mỏi chân đứng lại khóc òa
mẹ phải bỏ bớt hành trang
gánh thầy trong chiếc thúng
chuyện đã xa xưa
tưởng không còn nhớ nũa
nào hay giờ hiện rõ ra đây
thầy sẽ nói cho các em nghe
trong chuyến tản cư này
không giống như lần thầy trốn Pháp

Thầy sẽ giảng cho các em nghe
thế nào là yêu thương
thế nào là đùm bọc
và thế nào là vui buồn thù ghét
cho các em hiểu rõ
mà các em bấy lâu nay dùng nó không đúng chỗ, sai lầm

Các em hãy đi chầm chậm
để còn sức vì đường dài vô định
để nằm xuống ngồi dậy thật nhanh
khi đạn réo qua đầu
vì đêm bây giờ quá sâu
vì ngày bây giờ dài như một năm ánh sáng
và những cụ già run rẩy
và những em bé bò lê la
họ rất cần chúng ta tiếp sức.

Bây giờ đây chúng ta dùng trước hết
chữ yêu thương cho đúng nghĩa xem nào
chữ đùm bọc ngời sáng như vì sao
em hãy nhìn nó như nhìn sao bắc đẩu

Các em vui rồi đó
khi nghe tiếng thở phào của người mẹ
mà các em đã đỡ giúp hành trang
để đôi tay mỏi được rảnh rang bồng đứa bé
Và đây các em có buồn chưa:
khi tay các em xách
vai các em mang
và sức các em thi chỉ bao nhiêu đó
nhưng đàng sau còn vô số kẻ tật nguyền
bị rớt lại vi chẳng còn hơi sức

Và sau hết các em hãy thù ghét
hãy ném đá vào đầu chiến tranh
hãy nhổ nước bọt vào nó
rồi chặt cổ nó
và hãy hát vang ca tụng hòa bình
cho đoàn người chúng ta
yên lòng đi tìm chút bằng an cho cuộc sống.

ĐẶNG PHÚ PHONG

(Bình Khê, những ngày di tản 11-3-1975)

vỡ từ.

đôi mắt tròn ấy

dù liếc không có đuôi

nhưng xin em hãy một lần liếc dọc

lỡ mai đây mình có gặp nhau

đuôi con mắt sẽ là niềm an ủi

tôi. một đời. mê. ngủ

tình yêu luôn bất cập. xa vời

tay định mệnh với hoài chẳng kịp

chợt già đi. hạnh phúc ở nơi nào?

thôi thì nhận

thoáng bất chợt. lung linh. hư ảo

làm trăm năm thánh địa tình yêu.

hoa mãn khai về đâu cánh mỏng!

em. tôi. cười. yên ắng chiêm bao

cuộc đời sẽ già đi

thế giới vỡ toang

những cổ tự ngoằn ngoèo. lung linh bí mật

tiếp tục đè. nặng. lên những trí óc thông minh

mở một lối thoát

xây một nhịp cầu

cũng không làm ra sự no đủ, ấm áp.

chỉ trái táo, hạt lúa vàng

và một tình yêu

sẽ làm nên tất cả.

đôi mắt tròn ấy

rồi sẽ nhắm lại

bình yên một thuở trong miên viễn

ánh sáng sẽ mang em đi xa

và tôi như vạt nắng vàng yếu ớt

nhập cùng em dù chẳng biết về đâu

về đâu chẳng biết.

vô môn

vô ngôn

chỉ có lúc lên đồng

chỉ có lúc khùng điên

thần kinh ra ngoài trí óc

tiếng nói hữu ngôn

con chữ hữu tự

con mắt tròn. vòng tròn vỡ vụn

lang thang mấy độ ngân hà

tôi vuốt mặt

thế giới thay đổi. chớp lòa

gã homeless lôi thôi. lếch thếch

bỗng sáng chói như thiên thần

tên triệu phú trở thành con chuột chết.

đôi mắt tròn ấy

điểm đồng tâm không trong trí óc

ở nơi con tim đỏ hồng

máu con tim làm nên tất cả

cơn hồng thủy có vẻ đẹp của mênh mông. tĩnh lặng

lửa hỏa diệm sơn rực buổi huy hoàng

con người của Salvador Dali chỉ đẹp khi chảy.

loang. lổ. trên mặt đất. trên ngọn cây

còn bao nhiêu vẻ đẹp lạ. kỳ

đến từ nơi. chốn. tim .óc. và, cả từ những điều trái ngược

máu. mồ hôi. nước mắt

bụi đường . bồ hóng

đẹp như hang đá Bethlehem

vỡ từ

vỡ hoang

tôi vỡ hoang tôi

đêm. nước mắt chảy. dài

bình minh lạc. trong vùng hoang tối

từng bước chân bộ lạc bước. về

khập khễnh mùi loài sói đói

đôi mắt tròn ấy hướng về tôi

sự sống. chết bỗng trở thành xa. lạ

con chim cánh cụt không có sức để bay

nhưng vẫn thấy bầu trời thật thấp

tôi lăn theo dốc đời khốn khổ

mồ hôi lưng con bò khét nắng

bụi phấn trắng thành chất heroin

và cuốc thật sâu với sức của thằng người ốm đói

tôi mọi cho lũ người đi tìm vinh quang trên xác chết của con người.

tôi thương tôi vì tôi biết

tôi thương họ vì họ không biết

cái đẹp của con tim

ôi. cái đẹp của con tim

tôi gửi cho em những nỗi. niềm

tôi gửi cho em

sức vỡ của nước

sức tàn phá của lửa

một ngày ta sẽ đứng bên nhau

sẽ làm lại từ đầu

vỡ hoang một thế giới im. lặng

một cõi đời mênh mông

đôi mắt tròn ấy

long lanh và thật tinh anh

của chị quạ. vút nhanh. một chú gà con chưa biết sợ

và em cũng đã từng. vút nhanh. trái tim tôi. khờ dại

em la đà như con ma cà rồng lơ lửng trái tim tôi

về một nơi không trăng sao

tia chớp đỏ rực bầu trời nhiệt đới

bà cụ già run rầy

thằng bé đen nhẻm. hôi hám

ôm choàng với nhau vì sợ hãi tiếng sét xé trời

em nhìn thấy thật tinh tường

nhưng ai mà biết được

em suy nghĩ gì

bởi đôi mắt ấy chưa một lần liếc dọc.

Đặng Phú Phong

NHỮNG ĐÓA MẪU ĐƠN

 

Nắng xế mùa thu khiến bóng của hàng dâm bụt cao quá đầu người làm tối đi gương mặt nhăn nheo của ông Nghè Trì đang rảo bước vào cổng. Ông xô nhẹ cánh cửa cũ kĩ, xiêu vẹo đóng không kín của nhà ngõ. Tiếng kêu của cánh cửa làm con Mực đang thiêm thiếp ở hàng ba, vụt dậy, phóng chạy ra, cất tiếng sủa nhưng nhận ra người quen, nó gừ gừ mấy tiếng rồi quẫy đuôi dẫn khách vào nhà. Bà Huân cũng vừa gánh đôi thúng gạo bước ra khỏi cửa dưới, vội vã để gánh xuống vái trả cái vái chào của ông Nghè nói:
– Chào chú Nghè, ông nhà đang đợi chú, mời chú vào. Tôi phải đi giao gao cho họ bây giờ kẻo không kịp về tối chú ạ.
– Dạ, em xin phép chị.

Nghè Trì bước qua hàng ba, chợt dừng lại để lắng nghe tiếng ngâm thơ của ông Huân đang khe khẽ vang lên:
Đội gạo những buồn cơn nắng xế
Mài gươm thêm thẹn bóng trăng tà.

Chờ cho giọng buồn buồn ấy rơi hút vào cái tĩnh mịch của căn nhà lá mái đã mục nát, Nghè Trì mới xô nhẹ cửa bước vào. Ông Huân đang ngồi xếp gối, rung đùi nhè nhẹ trên bộ ván gõ đen láng bóng. Trước mặt ông là chiếc khay trà. Ông ngửa chén, vừa rót trà vừa bảo:
– Chú ngồi xuống uống trà. Bà ấy bán buôn khổ cực cũng không nuôi nổi nhà. Anh em mình đem thân phò nước cũng chẳng ra làm sao cả. Thẹn quá đi chú!

Ông Nghè tháo đôi giày hạ, ngồi đối diện anh, im lặng nâng chung trà thấm giọng. Ông nhìn kỹ ông anh mình. Chỉ lớn hơn ông một tuổi và với tướng mạo khôi ngô, trán cao miệng rộng, nên từ nhỏ đến lớn, ngay trong thời gian tám chín năm trốn tránh trong rừng sau khi khởi nghĩa thất bại, ông Huân lúc nào cũng trông trẻ hơn ông. Nhưng từ hồi chú em Nguyễn Thúc Mân mất rồi kế đến thân phụ của hai ông qua đời, ông Huân bỗng già mau lên một cách dễ sợ.

Cụ Tú Nguyễn Khuê có bốn người con theo thứ tự là Nguyễn Bá Huân, Nguyễn Trọng Trì, Nguyễn Thúc Mân và Nguyễn Quý Luân. Cả năm người đều tài cao học rộng, giới sĩ phu hâm mộ thường sánh họ với họ Tô thời Tống. Nghè Trì rất kính phục ông anh, cả thơ văn lẫn cách sống. Năm mười lăm tuổi Bá Huân làu thông Ngũ Kinh Tứ  Truyện, thành thạo các thể thi, phú, văn sách, kinh nghĩa… Vốn không màng danh lơị, nhưng vì nể gia đình, ông đã vác lều chõng đi thi ba kỳ và đều hỏng cả ba khoa, chán, định bỏ hẳn. Nhưng lại bị mọi người ép ông phải đi thi lần nữa. Nhưng ông không mang lều chiếu, chỉ xách theo một bầu rượu, đi thẳng vào Thập đạo, lãnh giấy bút, làm bài một hơi thì xong, rồi rót rượu vừa uống vừa đọc lại. Càng đọc càng cao hứng, vỗ đùi đôm đốp, bảo rằng “Văn hay như thế này mà để quan trường khuyên thì uổng quá” Nói xong liền hạ bút khuyên. Đọc một câu, thưởng một chén, khuyên một khuyên. Quyển bị khuyên đầy thì người cũng say mèm và… hỏng thi. Nghè Trì thường bảo với mọi người “Cái cuồng ngông của anh ta không dễ ai có thể cuồng được. Cái cuồng ấy sánh với Sở cuồng Tiếp Dư.” Tự thấy cách sống của mình thua hẳn Bá Huân về sự thẳng thắn, khẳng khái nên Trọng Trì luôn luôn kính cẩn trước lời anh “Không nói thì thôi, đã nói thì nói cho có biển có nguồn”. Vợ Trọng Trì không có con, gia đình khuyến dụ cưới vợ bé. Bà không chịu, Trì cũng muốn nghe theo, gia đình cố ép, bà đứng ra cưới cho ông một người con gái xinh đẹp và có học. Thế là Trọng Trì đâm ra mê mệt với bà hai. Bà cả nổi ghen bắt phải bỏ, Trọng Trì bấm bụng nghe theo. Nhưng việc này chưa làm Nghè Trì áy náy xấu hổ với Bá Huân bằng việc lặng thinh trước cái chết của Quản trấn Trần Tân.

Năm Ất Dậu, quân Pháp chiếm kinh thành Huế, vua Hàm Nghi bỏ chạy ra Quảng Trị, xuống hịch Cần Vương. Hường Lô Đào Doãn Địch phụng chiếu về Bình Định khởi nghĩa. Bá Huân, Trọng Trì và Quý Luân tham gia ngay. Chỉ ít lâu sau Đào Doãn Địch bị bệnh nặng, giao binh quyền lại cho Mai Xuân Thưởng rồi mất. Mai xuân Thưởng cử Nguyễn Trọng Trì chức Hiệp Trấn cùng trấn thủ thứ Hương Sơn với hai người là Tham Trấn Vũ Phong Mậu và Quản Trấn Trần Tân. Thứ Hương Sơn là một nút chặn đường tiến quân của Pháp ở hướng Bắc của căn cứ, tương đối yên ổn hơn mặt Nam. Việc canh phòng lại thuộc phần Quản Trấn Trần Tân, Trọng Trì và Phong Mậu rảnh rỗi nhiều nên cứ rủ nhau uống rượu đánh cờ. Năm Bính Tuất quân Pháp kéo quân tấn công căn cứ theo mạn Nam, giết chết tướng phòng thủ nơi đó. Quản Trấn Tân đang đi tuần hay tin vội vã về dinh. Đến nơi thấy Trọng Trì và Phong Mậu đang uống rượu đánh cờ. Giận quá ông lớn tiếng và xách cờ, rượu của hai ông ném quách. Tham Mậu hô quân vây bắt, Quản Tân đánh với bọn lính đông đảo nên không chống lại. Tham trấn Mậu buộc tội Quản Trấn Tân là phản loạn truyền đem chôn sống. Hiệp trấn Nguyễn trọng Trì im lặng để cho Tham Mậu tùy ý hành động không nói một lời. Đến Khi Mai Xuân Thưởng hay tin, cho người phi ngựa tới đào lên, Quản Trấn Tân đã ra người thiên cổ. Khi Bá Huân biết chuyện nầy giận lắm không thèm nhìn mặt Trọng Trì liền mấy tháng.

*

Hai anh em bước ra khỏi cổng với y phục tuy đã sờn cũ nhưng thật chỉnh tề. Người nào cũng giày hạ, quần trắng, áo the đen, đội khăn xếp, vác dù và quấn quanh cổ chiếc khăn lông dài. Bá Huân nhìn mặt trời rồi nói:
– Trời hôm nay tốt quá, ta cứ thong dong vẫn đến kịp giờ hẹn với Đào công chú ạ.
– Anh ạ, cho đến giờ phút nầy em vẫn còn hồ nghi trong dạ. Liệu Đào công có thực bụng hoan hỉ mà viết thiếp mời anh em mình đến xem hoa mẫu đơn nở hay là… Đào Công muốn chơi khăm một vố gì đây để trả thù những lời mắng của em lúc hay tin ông ta từ chối tham gia vào phong trào Văn Thân. Nếu không thì giữa anh em mình và ông ta chưa một lần gặp gỡ sao lại mời mọc như bậc thượng khách trong khi từ vai vế đến tuổi tác anh em mình chỉ là kẻ nhỏ mọn và hậu sanh?
– Chú nghĩ vậy coi bộ không phải. Ta với chú đã từng bình những bài thơ của Mai tăng và vô cùng khâm phục tài hoa của ông phổ lên từng câu từng chữ. Bài thơ nào cũng toát lên cái đẹp của một đóa hoa thanh khiết, cái dũng của một đấng anh hùng. Một người đã làm cặp đối chữ như thế nầy thì không thể có cái tiểu tâm được. Ông Huân dừng chân, quay người nhìn Nghè Trì rồi cất giọng ngâm nga:
Tùy xứ khôi hài, Mạ Thiên Tiên bản sắc
Phùng trường tác hý, Hoan Hỷ Phật tiền thân.

Ngâm xong ông tiếp tục bước, hắng giọng rồi nói tiếp:
– Hơn nữa, cái tuồng Hộ Sanh Đàn đã làm ta và chú khóc, cười, ái, nộ theo từng hồi. Nó là một bổn tuồng kiệt tác từ văn chương đến tư tưởng.
Nghè Trì sửa cái khăn lông cho khỏi chật cổ rồi tiếp lời:
– Anh nhắc đến Hộ Sanh Đàn làm em nhớ hôm nọ em giảng giải với mấy đứa học trò, em xin thuật lại cho anh nghe. Hộ Sanh Đàn không phải là “đàn đỡ đẻ”. Chính là cái đàn vô hình mà Hộ Sanh Sứ Giả bước lên để nhận lệnh đi giúp đỡ Lan Anh đang chuyển bụng. Vì sao phải nhọc sức thần linh như vậy? Chính vì đứa bé trong bụng kia là quí tử do cha trung dũng, mẹ tiết nghĩa sanh ra. Đào công xây dựng nhân vật Tiết Cương và Lan Anh có đủ đức trung nghĩa tiết dũng để gián tiếp bảo rằng: “Đứa bé sanh ra sẽ là một anh tài của đất nước, một hy vọng của tương lai”. Dụng ý của Đào công rất sâu: Không phải Tiết Cương cứu nguy được nhà Đường, mà chính Tiết Quì. Cha mẹ gieo nhân, đời con hái quả. Ông muốn nói với chúng ta: “Thế hệ này chưa lấy lại được nước non Hồng Lạc, hy vọng ở đám hậu sinh”. Do vậy Đào công nhấn mạnh ở việc sanh đẻ và lấy ba chữ Hộ Sanh Đàn đặt tên cho tuồng. Tuồng này nếu hát ở vùng Nghệ thì Tiết Nghĩa là hình ảnh của Cao Ngọc Lễ, tên phản sư phản quốc. Nếu đem hát ở vùng Quảng Nam, Bình Định thì Tiết Nghĩa sẽ là hiện thân của tên Nguyễn Thân khốn kiếp.
Nghè Trì bật cười khi chợt nhớ hôm đi coi tuồng Hộ Sanh Đàn, ông đã đánh cái trống chầu suýt bể khi và cười ha hả khi nghe câu hát:
“Bảo cho, nễ khả, thằng thân hạ mã, thúc thủ lai hàng”
và:
“Như ngươi chừ: Hết cậy thế xông đồ phá trận. Biểu cho: Phải cam lòng hạ mã thằng thân cho rồi”.
Ông lẩm bẩm:
“Hay quá, đã quá.Thằng thân hạ mã, chữ nho là trói mình xuống ngựa và nói nôm là thằng Thân xuống ngựa đầu hàng đi”. Bá Huân không hiểu cái cười của em nên đưa mắt hỏi. Nghè Trì chợt thấy mình còn vẻ trẻ con trước mặt anh nên vội nín cười và nói thác đi:
– Mình rảo bước một chút đi anh kẻo trễ.

Đến Hương Thảo Thất trời đã chạng vạng tối, hai anh em sửa soạn y phục cho tề chỉnh rồi mới gọi cổng. Cửa nhà ngõ xịch mở, người nô bộc khom mình bái chào. Chưa kịp đáp lễ, hai anh em đã thoáng thấy Đào Tấn xuất hiện. Dáng khoan thai, chững chạc, vừa vuốt chòm râu trắng xóa vừa cười khà khà nói:
– Nhị vị huynh đệ thật đúng hẹn, xin rước nhị vị vào tệ thất.
Đào Tấn lách người một bên, đưa tay ra dấu mời.
– Ấy chết, Đào công xin đừng làm thế, huynh đệ chúng tôi chỉ xin được nối gót ngài.

Bá Huân vội vã lên tiếng rồi bước ra sau Đào công chờ đợi. Ông không ngờ đích thân Đào công ra tận cổng đón hai anh em ông. Dù đã về hưu nhưng Đào Tấn đã là quan Thượng Thư và hai anh em ông, dưới mắt triều đình chỉ là những kẻ phản loạn.– Cùng là kẻ sĩ với nhau chấp gì chút lễ nghi chật chội. Xin mời huynh đệ đánh một vòng nhìn nước ao sen mùa thu, xem mấy gốc mai cằn, rồi ta sẽ vào nhà hàn huyên cho phỉ tình mong đợi.

Nói xong Đào Tấn ung dung từng bước hướng dẫn anh em họ Nguyễn. Hai bên tả hữu của cổng chính đều là ao sen. Tuy đã vào thu nhưng hoa sen vẫn chưa tàn hết, thấp thoáng trong đám lá sen già những bông sen vụt cao lên, trắng xóa trong cái tối nhờ nhờ, để sáng ngày mai khai hoa nở nhụy. Mùi hương sen thật nhẹ, thật thoang thoảng, nhưng mọi người đều ngửi được, nên lồng ngực cứ muốn căng ra hít cái mùi hương huyền dịu quý giá ấy.

Trong ao, người nô bộc đang nhẹ nhàng, cẩn trọng vạch từng lá sen để chèo một chiếc thúng, chốc chốc lại dừng bên những búp sen vừa chớm hé. Ông ta dùng một ngón tay khe khẽ thò vào chỗ hé của búp sen từ từ xoay vòng tròn cho miệng sen há to đủ cho ông bỏ nhúm trà mộc vào rồi cũng thật khẽ khàng lấy sợi dây bằng bẹ chuối khô thắt gút lại. Tinh mơ sáng hôm sau ông ta lại cũng thật nhẹ nhàng, cẩn trọng chèo thúng đến từng cái hoa, cũng rất khẽ khàng mở dây buộc, lấy từng nhúm trà ấy cho Đào công pha với nước sương đọng trên lá sen, tinh hoa của trời đất đêm qua. Tất cả việc buổi tối bỏ trà, buổi sáng lấy trà trong hoa sen, ông đều làm hết sức cẩn thận, vì Đào công luôn luôn nhắc nhở: “Hưởng được hương vị hoa sen là hưởng được ân sủng của trời đất, nên không thể làm hư cái sự nở của hoa là làm hư sự thăng hoa của tạo hóa. Ông phải luôn luôn dè chừng không làm hư thứ tự sắp xếp của cánh hoa, để ngày mai hoa sẽ còn góp mặt với đời.”

Đào Tấn nhìn Nghè Trì, giọng vui vui:
– Tiếc là trời hôm nay thiếu gió, nếu không mình sẽ cùng thấy mặt Nhan Uyên.
Trong lòng Nghè Trì nhoi lên một niềm vui. Thì ra Đào công chú ý tìm hiểu về ông khá nhiều. Lúc ra Huế chờ nhận chức, ông có dịp quen với Tôn Thất Đạm và Tôn Thất Thiệp. Một hôm Đạm đọc cho ông nghe vế đối của vua Tự Đức mà quần thần chưa ai đối được:
“Thủy trích bích tường sanh Khổng Tử.” (Nước nhỏ xuống chân tường sinh ra những giọt nước cử động. Khổng Tử vừa là tên ông Khổng Tử vừa có nghĩa là giọt nước không đứng yên một chỗ).

Đang tìm câu đối, bỗng nhìn thấy gió thổi lá sen để lộ mặt hồ nước trước nhà trọ, ông liền đối:
“Phong xuy hà diệp kiến Nhan Uyên” (Gió thổi lá sen nhìn thấy mặt hồ. Nhan Uyên vừa là tên ông Nhan Uyên, học trò của Khổng Tử vừa có nghĩa là mặt hồ.)

Cả ba bắt đầu dạo quanh vườn mai. Mai trồng thành từng ô vuông khắn khít với nhau bằng những cành khẳng khiu như củi mục nhưng tiềm chứa sức mạnh chống chọi với thời gian bằng vô số chiếc lá xanh lục khiến anh em họ Nguyễn như lạc vào chốn rêu xanh cổ tích. Trọng Trì kêu lên, giọng sôi nổi:
– Anh ạ, cái cành kia đẹp quá cái thế của nó tựa như một con rồng đang vùng vẫy, em nghĩ xuân về, những bông hoa mai nở viền quanh sẽ điểm cho nó cái thần khí để bay vút lên mây.
–  Ông Nghè giàu tưởng tượng hỉ. Thôi đã tối trời, chúng ta vào nhà dùng chén rượu tẩy trần.

Cửa chính mở rộng, chiếc đèn tọa đăng tỏa sáng khắp nhà, soi rõ bức hoành phi treo trên gian giữa ba chữ Hương Thảo Thất bay lượn nhẹ nhàng như hương thơm của cỏ dịu dàng len giữa không gian. Bên trái của bức hoành là hàng chữ đứng: Thành Thái Ất Vị Xuân, góc mặt là hai chữ Mai Tăng nhỏ bé, khiêm nhường.

Chủ khách vừa ngồi xuống ghế, lập tức người nô bộc bưng khay rượu ra, trên là một bình Mai Quế Lộ. Tự tay Đào Tấn rót rượu ra chén ân cần mời khách:
– Vân Sơn nổi tiếng một nhà năm người tài hoa sánh với gia đình họ Tô thời Tống. Hôm nay được gặp gỡ hàn huyên cùng nhị huynh đệ lão rất vui mừng. Chúng ta cạn vài chung rượu rồi dùng cơm đạm bạc, sau đó sẽ đến tiết mục chính của bữa tao ngộ hôm nay.
Bá Huân một tay nâng chén rượu, tay kia vin tay áo the đen, tỏ vẻ cung kính nói:
– Dạ, Đào công quá khen chứ bốn anh em chúng tôi mắt không nhìn tới nổi ngọn Linh Phong, tài chưa bén cổng làng Vinh Thạnh. Vừøa mới mãn tang gia phụ năm ngoái, mà lòng vẫn không hết thẹn với cha già là chưa làm tròn những điều gia huấn. Còn nỗi niềm đất nước cứ canh cánh bên lòng khiến huynh đệ chúng tôi sống như ở trên dầu sôi lửa bỏng. Riêng Huân này, sở học ít oi, thô thiển nên không tiếc việc hỏng thi. Lòng chỉ muốn hòa nhập vào mây trời lãng đãng mà nhàn du với cỏ nội hạc ngàn. Tiếc thay nước nhà gặp cơn bỉ, đành đem thân mà trải, những mong trả nghĩa lộc trời, nhưng rồi chẳng cưỡng nổi mệnh thiên, nên vô cùng tâm đắc với hai câu Nam ở cuối tuồng Diễn Võ Đình qua nhân vật Triệu Khánh Sanh mà Đào công đã phóng bút:
Tấm thân liều gửi cung dâu
Đố con tuấn mã biết đâu là nhà.
Huân này mạo muội nghĩ rằng Đào công cũng đã từng trở trăn thống thiết như Huân vậy. Bao lâu nay đã nghe nức tiếng Tiểu Linh Phong Mai Tăng, cũng như thưởng thức hàng hàng cẩm tú của Mộng Mai Tiên sinh, hôm nay lại được đối ẩm với ngài quả là muôn vàn hân hạnh.
Nghè Trì cũng đứng dậy nghiêng mình thi lễ tiếp lời anh:
– Thưa Đào Công, tiểu đệ từ ngày bỏ được rừng xanh, về nhà có thì giờ, sính đọc những áng văn chương trác tuyệt của ngài, nhất là hôm đi coi tuồng Hộ Sanh Đàn. Văn chương cũng như bố cục đều thật là cao siêu, từng câu từng chữ của vở tuồng thấm tận đáy lòng của tiểu sinh. Khiến lòng này không khỏi thẹn khi nhớ lại chuyện ngày xưa vì quá nông nổi, chưa biết phân chia hư thực. Lòng dặn lòng có dịp thì xin được tạ tội thất lễ với Đào công. Sau lần đọc xong bổn tuồng Thái Thạch Cơ, tiểu sinh vô cùng xúc động nên có làm hai bài tứ tuyệt, tiện đây xin dâng tặng Đào công nhàn lãm:

Quốc loạn anh hùng bất tác thi
Tùng quân ngự địch lập công thì
Thiên an khởi thị thư sinh nguyện
Hoàn ngã hà sơn khả định kỳ.

Thái Thạch Cơ biên nô lãng hào
Thôn Ngưu hùng khí vạn tầng cao
Viên môn dạ lập quan Kim trận
Vũ tuyết phân phân mã chiến bào.

Đào Tấn nghe hai bài tứ tuyệt xong, tấm tắc khen:
–   Văn quả là người. Tài hoa, khí tiết, có cả uất khí xông tận trời cao. Trả lại núi sông cho ta có thể hẹn kỳ là trung nghĩa. Và, đêm đứng nhìn trận giặc Kim, tuyết rơi bời bời trên áo giáp, thực quả là thanh lệ vô cùng. Chao ôi, thơ của ông Nghè thực là Thốn tâm thiên cổ.

Đến giờ thưởng hoa, chiếc bàn ăn được dọn đi, thế vào là một cái đôn thấp bằng sứ Bát Tràng và cái án thư để bày bộ trà. Hai người tráng đinh khiêng một chậu hoa to, khá nặng đặt trên cái cáng đan bằng tre, khệ nệ bước qua hè nhà rộng, rồi rất cẩn thận đặt lên   chiếc đôn bóng láng.

Chiếc chậu sứ da rạn chạy chữ triện quanh miệng trông rất mỹ thuật. Cây Mẫu Đơn khá lâu năm, cao gần thước tây, cành lá sum suê. Điều làm anh em họ Nguyễn vô cùng thích thú là hoa. Hoa thật nhiều, thật tràn trề, trên cùng khắp các nhánh. Đa số đều nở. Màu trắng thật tinh khiết, thật đôn hậu. Những cánh hoa dày, chắc chắn, giống như những cánh Trà Mi, xếp tròn thành nhiều tầng chung quanh chùm nhụy vàng phơn phớt sang cả. Mùi thơm của hoa Mẫu Đơn thật nhẹ nhàng quyến rũ, thoang thoảng của mùi hoa lài lẫn chút đậm đà của nàng hoa bưởi. Không gian im hơi, cả ba thinh lặng, tất cả như bị đắm chìm trong cái không khí nửa huyền hoặc nửa thăng hoa toát ra từ cây Mẫu Đơn tuyệt mỹ. Cả Bá Huân và Trọng Trì đồng thanh buột miệng: “Vương giả chi hoa” rồi sau một thoáng nhìn nhau, cả hai lại cùng rơi vào im lặng. Hương đã gây mùi nhớ, trà giục khan giọng tình. Giọng Bá Huân trầm trầm cất lên như vang từ chốn mê cung xa vắng:
– Nhớ xưa nàng Dương Quí Phi là một trong Tứ Đại Giai Nhân của Trung Hoa được Đường Minh Hoàng vô cùng yêu quý, tận tay hái một bông hoa Mẫu Đơn cài vào tóc nàng. Người đương thời cho rằng hoa Mẫu Đơn xứng đáng được kề cận với Quí Phi. Giờ tận mặt thấy hoa bèn trộm nghĩ rằng, nên nói ngược lại là Dương Quí Phi xứng đáng được mang hoa Mẫu Đơn trên tóc.
Để tạ chút lòng Đào công đoái tưởng xin được múa rìu trước cửa Lỗ Ban, xin cho một mảnh hoa tiên để được trổ chút tài hèn mọn.

Bá Huân tiếp giấy bút từ người nô bộc, cúi gập người xuống án thư, lấy ngọn bút lông chấm xuống nghiên mực do người lão bộc vừa mài. Tay ông thoăn thoắt, đá, phảy, đưa lên, ngoặc xuống, trong thoáng chốc đã thành một bài tứ tuyệt:

Hý khúc ngô châu trứ giả đa
Tranh hồng đấu tử tổng nhàn hoa
Mẫu đơn nhất đóa quần phương chủ
Khả tỷ Đào công đại bái gia.

Đào Tấn kê mảnh hoa tiên sát bên ánh tạ đăng, nheo mắt đọc. Vừa xong, ông vuốt râu, thảng thốt kêu mấy lượt “Hay a, Hay a”. Ông lấy giấy ra phóng bút họa ngay một bài:

Văn tinh tụ chiếu ngã châu đa
Từ uyển hân chiêm mỹ lệ hoa
Hồng hạnh bích đào giai tuyệt sắc
Quần phương các hữu tại chư gia.

Viết xong ông đưa cho Bá Huân và nói:
– Xin đa tạ nhã ý của ông, văn hay chữ tốt, nhưng lão thật tình không dám được ví như hoa Mẫu đơn là chúa các loài hoa, mà thiết nghĩ rằng hoa hạnh, hoa đào đều là tuyệt diệu và mọi loài đều có trong mỗi nhà soạn tuồng. Hơn nữa, cái tiết tháo của Mẫu đơn đã bao trùm thiên hạ, dám quay lưng ngoảnh mặt trước lời phán bảo của Võ Tắc Thiên. Điều đó lão luôn để trên đầu, sánh lão với hoa Mẫu đơn chỉ làm lão muôn phần hổ thẹn thôi ông Huân ạ.

Đã gần đến nửa khuya, anh em họ Nguyễn đứng dậy xin kiếu từ. Đào Tấn hết sức cầm ngủ lại, hai ông hết sức chối từ. Nguyễn huynh đệ dắt nhau về dưới sương khuya. Ra khỏi khu vườn thuộc Hương Thảo Thất chợt Bá Huân dừng lại bảo với em:
– Chú Trì ạ, tôi rất đồng ý với chú hồi chiều, khi chú nói cái dụng ý sâu xa của Đào Công qua bổn tuồng Hộ Sanh Đàn. Thế hệ mình chưa thể lấy lại non nước, chỉ hy vọng vào đám hậu sinh, chú ạ.

Đặng Phú Phong

 

 

người thi sĩ già ven sông

 

 

ý nghĩ phiêu du trên không gian ba chiều
chạy phăng vào ngôi nhà ven sông
nước rầm rì với những cọc cắm sâu
đợi con chim về đứng im lìm như nhà hiền triết
mùa đông xám xịt ngửi mái rạ sẫm mầu
từng chiếc lá khô quéo quắt
con chim vút bay
đậu vào ý nghĩ người thi sĩ già đang làm thơ trong ngôi nhà đang sập
người thi sĩ già vỡ óc
cây viết bỗng chảy mực như dòng cuồng lưu
những giọt mưa biến thành ngàn triệu viên đá cuội.
đắp mộ
không gian đìu hiu
ngọn nến trắng càng xót xa thân phận
cây viết mất tích
tình yêu không còn
người thi sĩ già quay đầu về non
con chim vẫn đứng im lìm như nhà hiền triết
chiếc thuyền nhỏ chao mình trên nước
cây đỗ quyên già xơ xác. một vài bông.

Đặng Phú Phong

HOẠ SĨ THANH TRÍ (Trích “Bên kia con chữ & nghệ thuật”- xuất bản tháng 12/15),

dangphuphong

Thanh Trí

Tiểu sử: Sinh 1939 tại Hue Vietnam
Tốt nghiệp Trường Mỹ Thuật Huế 1961
Tốt Nghiệp Khóa “Sư Phạm Hội Họa” tại Trường Quốc Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật Gia Định, Sài Gòn 1962.
1987 Định cư tại Hoa Kỳ (Sacramento, California)
1993 Tốt nghiệp Cosumnes River College California USA in Design Drafting 1993
Đã dạy vẽ 24 năm tại các trường Trung học ở Nha Trang, Nguyễn Du, Văn Hiến- Saigon
Giải thưởng:
The League Of Carmichael Artists Presents (Silence Color )
Sacramento Fine Art Center (Old Man)
California Art League (Reflection)
The League Of Carmichael Artists Presents (The Nature’s Color)

Chợ Tết
Chợ Tết Đầu Làng- Tranh sơn mài

Đã triển lãm: California State University of Sacramento
1991 Consumnes River College,Sacramento
-Sacramentp fine art center
– Silk painting exhibition, Eastwest gallery, Maryland
– De Anza College gallery, San Jose-State Capital, Sacramento
– Philippine-Noumea, Nouvell Caledonie
– Cal Expo, Sacramento
– San Jose Museum of Art, group show
-Work Gallery, San Jose-group show
– VAALA Gallery Garden Grove
– Vietnamese female Artists Pomona- group show
– La Galeria, San Jose-group show
– 2005 San Jose, California
– 2007 Triển Lãm 50 năm Cao đẳng Mỹ thuật Huế Việt Báo Gallery
– 2009 – Triển Lãm Tranh thanh Trí “ Đôi Bờ”
– Stream Of Thought .VIVO Center SanJose.
– DanChi Art Gallery Westminster, CA USA. Etc
Tác phẩm đã xuất bản : “Tập Tranh và Thơ Thanh Trí “ tại Hoa Kỳ, 2004.

THANH TRÍ và Triển Lãm Đôi Bờ

Hành trình của đá
Hành Trình của Đá , sơn dầu.
Mùa thu: vàng.. Vui thì ửng đỏ và lấp lóe đâu đó chút xanh biên biếc. Buồn thì vàng đen , vàng nâu, vàng đất, vàng …đá . Ít thấy họa sĩ nào diễn tả mùa thu mạnh và đầy góc cạnh như Họa sĩ Thanh Trí. Mạnh nhưng không thô, cái mạnh của lực tạo hóa. Góc cạnh vì cái nhìn , cảm nhận đa chiều đối với một không gian xơ cứng , trầm uất. Mùa thu có trọng lượng, sức nặng ở những chiếc lá rơi, ở những giọt sương làm trĩu những chiếc lá sen già nua. Ngắm những bức tranh mùa thu của Họa sĩ Thanh Trí, người xem thấy được những hang hóc hoang vu sổng người lên chịu đựng đám lá mục thời gian qua những nhát cọ khá hào phóng. Điều nầy càng dễ thấy hơn qua bức tranh Hành Trình Của Đá. Trong những hình khối đa dạng, chập chùng đè lẫn lên nhau tạo nên ấn tượng hổn mang của thời hoang sơ lập địa , mời gọi người xem hòa mình vào cảnh trí của bức tranh, để cùng bước theo hành trình của đá. Có hành trình của đá thì cũng sẽ có giấc mơ của đá. Đá cũng là tôi là anh là mọi người.

Hình của bài
Mời Trầu- Tranh lụa

Nhưng tranh sơn dầu của Thanh Trí không chỉ như vậy. Qua những bức tranh vẽ chân dung , người ta dễ thấy cách xử dụng màu sắc của bà khá đa dạng, nhưng vẫn không đi khác đi cái gam màu so với các tranh khác, dù đó là tranh trên lụa hay màu nước trên giấy. Bức tranh Gặp Gỡ, tranh màu nước, bà vẽ hai con gián chụm đầu nhau trò chuyện trong môt bối cảnh mờ nhạt nhưng vui mắt . Người xem sẽ tha hồ tưởng tượng hai con gián đang nói chuyện gì. Ngụ ý trong tranh Thanh Trí rất nhiều. Những chim bồ câu, những thiếu nữ, những thiếu phụ trong tranh của bà là hiện thân của sự thanh bình và thương yêu. Có lẽ xuyên suốt bao nhiêu tranh của bà là sự nhắc nhở, ca tụng tình yêu để chúng ta có được một thế giới an bình.

Tôi tin rằng trong hơn hai mươi năm dạy hội họa, tính cách sư phạm rất ảnh hưởng trong bố cục tranh của bà. Có sự kềm hãm và nhẹ nhàng trong những bức tranh mà thoạt tiên ta có thể nghĩ rằng bà đang phóng bút. Cho dù đâu đó nét tiểu thư của một thiếu nữ Huế thoáng ẩn hiện trong tranh của bà. Từng ngần ấy điều kiện khách quan cùng với một tâm hồn nhạy cảm, say mê nghệ thuật đã tạo cho tranh Thanh Trí một nét khá riêng.Thời Thanh Trí học trường Mỹ Thuật Huế, thời các cô gái Huế khi ở nhà thì kín cổng cao tường , ra đường luôn luôn cúi mặt, khép nép, tay lúc nào cũng sẵn sàng chực giữ lấy tà áo dài bị gió thổi tung bay thì chắc bà cũng đã từng phải đối phó gay go để theo đuổi con đường nghệ thuật đầy thơ mộng của mình. Sự thơ mộng đó trãi đều trên chiều dày tác phẩm của bà, nhất là trên tranh lụa. Không khí tranh lụa của Thanh Trí thật lãng đãng, huyền hoặc và có lẽ tất cả những đôi mắt thiếu nữ trong loại tranh này bà đều diễn tả nó thật diệu vợi xa xăm hướng về một chân trời riêng tư nào đó.

Khó mà xác định được khuynh hướng của Họa sĩ Thanh Trí. Về tranh sơn dầu có lúc thì bà ẩn mình trong Tân Cổ Điển (Neo-classic) lúc thì Trường Phái Biểu Hiện ( Expressionism) lúc thì Trừu Tượng Biểu Hiện (Abtract Expressionism) vân vân. Bà còn vẽ Sketch , tranh sơn mài và tranh thơ (xin tạm gọi như vậy để chỉ loạt tranh vẽ bên cạnh những bài thơ của bà) Ở thể loại nào bà cũng vẽ với tất cả tấm lòng , nét cọ nhanh mạnh nhưng vẫn thể hiện được nét dịu mềm của một tâm hồn đầy thơ mộng. Nhưng nếu phải chọn loại tranh nào là thành công nhất của bà có lẽ tôi xin chọn tranh lụa . Thật vậy Thanh Trí đã đưa được vào tranh lụa của bà cái nét đặc biệt nhất của loại tranh này là nhẹ nhàng nhưng sâu thẳm, huyền hoặc nhưng tươi mát. Thêm một chút tim tím đặc trưng của Huế bà đã đưa tranh lụa của bà đi sâu vào lòng người thưởng ngoạn.

ĐẶNG PHÚ PHONG

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

dangphuphong

BÊN KIA CON CHỮ và NGHỆ THUẬT của nhà văn Đặng Phú Phong do nhà xuất bản Chương Văn phát hành tháng 12/2015.
Nội dung sách: viết và phỏng vấn 23 tác giả trên các lãnh vực thơ văn, âm nhạc và hội họa gồm có
:

Phần 1
Du Tử Lê : Không có họ, tôi không có thơ tình
Đặng Thơ Thơ, Không có biên độ giữ thực và hư.
Đào Hiếu: Tản mạn, một vài…
Phỏng vấn nhạc Sĩ Lê Văn Khoa
Phỏng vấn Nga Mi & Lãng Minh
Nguyễn Viện: Sự phản kháng cho phép tôi là tôi
Nhã Thuyên: Mỗi tác phẩm là một sự vong thân
Nguyễn Tôn Nhan: Chính vì mê thi ca, tôi học chữ Hán
Trò chuyện với nữ đạo diễn Song Chi
Thảo Trường: Truyện ngắn không bao giờ là truyện dài thu gọn

Phần 2

Ann Phong, biển, mãi gọi tên
Cao Bá Minh: Màu xanh trôi trong ký ức
Du Tử Lê, màu xanh vàng phai
Dương Văn Hùng: Nhà điêu khắc vô ưu
Đào Hải Triều: Thế giới có thật trong mơ
Đinh Cường, màu xanh miên viễn
Khánh Trường và phục sinh
Nguyên Khai, chất Huế trong tranh
Nguyễn Đình Thuần: Thế giới của những hang động thạch nhũ
Mạn Đàm Với Họa Sĩ Nguyễn Văn Trung Về Tranh Sơn Mài
Rừng: Gã du tử trên đại lộ màu sắc
Thanh Trí và Triển Lãm Đôi Bờ
Trịnh Cung: Treo mình trên giá vẽ
Trương Thị Thịnh: Đem thế giới quá khứ lồng vào tranh.

“Một tập biên khảo công phu, gồm các bài nhận định văn học, hội hoạ và các bài phỏng vấn sinh động, thú vị bất ngờ các nhà văn, nhà thơ, nhà báo, đạo diễn và rất nhiều hoạ sĩ danh tiếng. Đây là tập biên khảo quý, vì có rất nhiều tư liệu của nhiều tác giả được truyền tải bằng nhiều hình thức phong phú và mới mẻ. Sách không thể thiếu đối với những người cầm bút, những nhà nghiên cứu và những ai muốn lưu trữ tư liệu văn chương, hội hoạ và nhiều lãnh vực khác.” (ĐH)
Sách dày 312 trang hơn 70 trang màu in những bức tranh đẹp của các họa sĩ VN. Bìa là bức tranh nổi tiếng : Treo Mình Trên Giá Vẽ” của họa sĩ Trịnh Cung. Đào Hiếu trình bày, lay out. Ấn phí 30 Mỹ kim. Muốn nhận sách có chữ ký của tác giả xin liên lạc: dpp653@yahoo.com.

TƯƠNG TRI.COM trân trọng giới thiệu cùng các bạn.

Trịnh Cung: Treo mình trên giá vẽ

dangphuphong

10182435_hinh 6

(Sơn dầu trên canvas-80 x 99cm. 1989).

Năm 1962 Trịnh Cung dù chỉ là một cậu thanh niên tỉnh lẻ 23 tuổi, vừa tốt nghiệp trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế đã xuất hiện như là một họa sĩ tài danh do được giải bằng Danh Dự trong cuộc Triển lãm Mỹ Thuật Quốc Tế lầ thứ nhất (1 st National Fine Art Exhibition), nhất là nhờ bài viết của Họa sĩ Thái Tuấn khen tặng anh trên tờ Bách Khoa. Lúc này anh chưa lấy họa danh là Trịnh Cung, vẫn cái tên khai sinh là Nguyễn Văn Liễu được giới hội họa đàn anh như Duy Thanh, Ngọc Dũng khen tặng nhiệt tình.
Chỉ trước thời gian này chừng 5, 6 năm, Nguyễn Văn Liễu, chất ngất một niềm đam mê thơ văn đầy lãng mạn, luôn mong ước trở thành một thi sĩ nổi tiếng. Họ Nguyễn đi học vẽ chỉ vì không có trường dạy làm thơ viết văn, với hành trang: “ Thơ là họa vô hình, họa là thơ hữu hình”. Cứ vậy, song song với việc làm quen với màu sắc, nét cọ, chàng vẫn sáng tác những bài thơ với cách dùng từ mới. ý, tứ lạ, lung linh tỏa sáng cho đến bây giờ. Cũng nên nhắc đến bài thơ “Cuối cùng cho một tình yêu” Trịnh Công Sơn phổ nhạc là một bài hát hay được rất nhiều người ưa thích. Nhưng họ Nguyễn đã từ giã thi ca. Vì, hội họa đã chọn Trịnh Cung!
Từ đó, xuyên suốt một con đường dài 53 năm, trong cuộc chơi màu sắc Trịnh Cung nổi bật lên như một ngôi sao sáng; trong lý luận về hội họa Trịnh Cung xuất hiện như một kiện tướng. Qua những bài báo, trả lời phỏng vấn, viết sách với những khám phá, nghiên cứu bằng những lý luận vững chắc, cũng như được thỉnh giảng mỹ thuật, đọc tham luận tại một số đại học ở Mỹ,viện bảo tàng mỹ thuật ở Singapore, Trịnh Cung đã gây được ảnh hưởng đến đương thời và cả tương lai cho mỹ thuật tạo hình VN. Để nói về những việc ngoài khung vải của Trịnh Cung, tôi đồ rằng phải viết cả cuốn sách, ngoài phạm vi cũng như ý định của bài viết này. Ở đây, người viết chỉ cố gắng đưa ra những cảm nhận về một số tranh tiêu biểu, một cái nhìn rất sơ lược, khái quát trong hành trình hội họa dày cộm của người họa sĩ tài ba này.
Tính cách tìm kiếm cái mới lạ trong văn học nghệ thuật của Trịnh Cung đã phát sinh từ thời anh còn học trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế. Chỉ vì anh dám vẽ theo lối Hiện Đại (Modern Art), một trường phái không có dạy trong trường nên anh đã bị vị Giám đốc là họa sĩ Tôn Thất Đào đuổi học. Thời bấy giờ nghệ thuật phương Tây du nhập vào miền Nam chỉ qua ngả sách báo, các họa sĩ chỉ được tiếp cận như vậy nhưng vì quá say mê nghệ thuật, anh đọc sách, tự tìm hiểu nên lãnh hội được nhiều. Tên tuổi của những họa sĩ tài ba trên thế giới như Henri Matisse, Picasso,Wassily Kandanski, Amedeo Modigliany đã ảnh hưởng rất mạnh mẽ lên nhiều họa sĩ miền Nam, trong đó có Trịnh Cung. Nhưng Trịnh Cung đã nghiêng về trường phái Biểu Hiện (Expressionism).
Chủ nghĩa biểu hiện xuất hiện khoảng cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 ở châu Âu do những thái độ hoài nghi, bất đồng, lo ngại đối với xã hội, có đặc điểm nhấn mạnh, thậm xưng cảm tính – xúc cảm trong sự thể hiện trên khung vải của người họa sĩ. Chủ nghĩa này còn được thể hiện trong văn chương và các loại nghệ thuật khác. Có sự trùng lập nào chăng nếu đem so sánh việc ra đời của Chủ Nghĩa Biểu Hiện ở châu Âu trong khoảng tiền Thế chiến thứ nhất và sự tham gia Chủ nghĩa Biểu Hiện của những họa sĩ Việt Nam trước năm chiến tranh Nam Bắc bùng phát phát dữ dội 1965? Tính chất của Trịnh Cung rất hợp với những quan điểm của Trường phái Biểu Hiện nên anh đã ở với nghệ thuật Biểu Hiện khá lâu dài, từ 1962 cho đến thập niên 90 sau đó anh bước sang Biểu Hiện Trừu Tượng (Abstract Expressionism). Khoảng 10 năm trở lại đây anh đã đi hẳn vào Trừu Tượng nhưng thỉnh thoảng anh cũng vẽ những bức tranh hình tượng (figuration) như bức tranh “Đôi chúng” là một thí dụ.
Tôi muốn dùng sợi chỉ xuyên suốt qua những tác phẩm “đình đám” khá tiêu biểu của Trịnh Cung trong một hành trình dài hơn 50 năm có đầy hoài nghi, bi quan, thương tích, âu lo, gây hấn, trầm tích muộn phiền trong đời sống của anh “ nổi trôi theo vận nước”, bị trấn lột bỡi xã hội bất công. Những cảm nhận, thọ. chịu đó hầu như thể hiện toàn bộ trong tranh của anh. Nói cách khác tranh Trịnh Cung đã bày tỏ, hiển lộ căn cước của tác giả – một con người chung thân bất mãn. Với cá tính mạnh mẽ, nhuần nhuyễn lý thuyết hội họa, luận giải, phê phán về nhiều vấn đề hội họa, cả luôn bộ môn văn học đều rất logic, vững chắc, rất bảo lưu ý kiến, và, anh cũng lại một người rất nhạy cảm cho nên Trịnh Cung không tránh khỏi người yêu kẻ ghét.
Trở lại từ năm 1962 với “Mùa thu tuổi nhỏ”, bức tranh đoạt bằng Danh dự Triển lãm Quốc tế Sài gòn lần thứ nhất, đã đưa tên tuổi của anh chói sáng. Mặc dù bức tranh nói về niềm vui của tuổi thơ, đi rước lồng đèn Trung thu, nhưng hầu như toàn bộ bề mặt tranh phủ lên một màu đen tối. Cái đen tối không phải của đêm đen mà là sự tăm tối trong bối cảnh xã hôi của những em nhỏ nghèo hèn này. Phần trắng sáng ở giữa cũng không phải là cái ánh sáng hiền lành, tươi mát của ánh trăng mà chính là sự đối chọi, phản diện của những cuộc đời khốn khó. Bức tranh nói lên niềm ao ước hơn là sự vui chơi của trẻ thơ. Niềm ao ước đó thật quyết liệt qua những cây gậy mà chúng mang theo. Đây là hình ảnh tuổi thơ cơ cực củaTrịnh Cung ở một vùng quê nghèo khó; nó đã được nung nấu trong tâm thức cho đến khi có cơ hội bộc phát bằng một bức tranh Biểu Hiện thật tài tình. Bức tranh báo hiệu cho một Trịnh Cung dấn thân mang tính phẩn nộ trong tâm thức sâu sắc của một họa sĩ tài ba.

Khoảng năm 1958, Trịnh Cung bắt đầu chơi thân với Đinh Cường và Trịnh Công Sơn. Đây là một bộ ba tuyệt đẹp trong văn nghệ. Một Đinh Cường hiền hòa, lãng mạn. Một Trịnh Công Sơn thống thiết trong nỗi đau thân phận con người, tình yêu. Một Trịnh Cung thẳng thắn bộc trực, đầy lửa. Cả ba đều tài hoa và bổ sung cho nhau. Họ đã tự tạo nên những trên tuổi lớn trên vòm trời văn học nghệ thuật của Miền Nam.
Bức tranh thứ hai tôi muốn giới thiệu đến là “Đứa trẻ du ca” vẽ 1969. Từ năm 1966, phong trào Du ca nổi lên rầm rộ, khắp nơi trong miền Nam , thanh thiếu niên thi nhau hát những bài thanh niên ca, thiếu nhi ca, , sử ca, dân ca, đồng (dao) ca… tôi cho rằng bức tranh này đã được vẽ khi vang vọng bên tai anh những bài hát đồng dao ấy. Hình ảnh của một thằng bé mặc chiếc áo đầm lam lổ, bẩn thỉu (tác giả giải thích chiếc áo từ viện trợ nhân đạo nên được gì mặc nấy, không kể gái trai) trên cổ mang lá bùa hộ mệnh (cũng theo tác giả) đang gảy đàn Mandolin đàng sau là một xóm nghèo rách nát. Nói về cây đàn,Trịnh Cung, với giọng xa xôi trầm lắng, anh kể về cái quá khứ tăm tối, với chiếc đàn cũ kỹ, sứt mẻ anh từng hát nghêu giữa cánh đồng mông quạnh mà mơ ước những điều tốt đẹp đến cho quê hương như cậu bé trong tranh đang hát một khúc hát mong mỏi hòa bình trong trận chiến bạo liệt đang xảy ra trên đất nước. Con chim, biểu tượng hòa bình, đậu trên đầu đứa bé, tuy thật gần mà cũng rất xa vì nó ở ngoài tầm mắt. Toàn thể bức tranh đều được xử dụng màu xám ảm đạm, một chút xanh của bầu trời không thể cứu vãng được cả không gian buồn lạnh lẽo. Đây là một bức tranh gợi cảm, âm vang của bài hát không nằm trong phạm vi bức tranh, nó vang vọng ra ngoài đi vào lòng khách xem tranh.

Năm 1974, Trịnh Cung cảm thấy hoàn toàn thất vọng trước tình hình đất nước; miền Nam sắp sửa sụp đổ. Anh thể hiện suy tư này qua bức tranh “ Cuộc đầu hàng của gia đình tôi”. Toàn bộ bức tranh phủ bằng màu vàng thổ-màu của bi quan. Thế giới đã không còn gì ngoài một màu đất chết. Bốn người trong gia đình anh (vợ, chồng và hai đứa con nhỏ) đã trở thành 4 thân cây chết, trơ mấy nhánh khẳng khiu, gầy guộc. Màu sắc và bố cục của bức tranh làm người xem có cảm tưởng đang đứng trong sa mạc với mấy nhánh xương rồng cháy đen vì nắng hạn, cuộc sống tươi đẹp với hoa cỏ xanh tươi đã mất hút tự phương nào. Tâm thái của tác giả cũng là tâm thái của những người hiểu biết tình hình chính trị, quân sự của miền Nam bấy giờ.

Trịnh Cung trở về sau gần ba năm lao tù, anh không còn tâm trí sáng tác được. Vẽ chỉ để kiếm tiền cho cơm áo. Chỉ đôi bức anh sáng tác sau những năm tháng dài bi quan và cô độc. Điển hình là bức tranh “ Hòa tấu trong sa mạc” mà nhà phê bình hội họa Corinne de Ménonville cho rằng “cái tựa nói lên tất cả” (the title says it all ).
Khoảng 1996 cho đến khi chính thức định cư tại Mỹ 2014, Trịnh Cung có dịp ra hải ngoại nhiều lần , khi thì được mời thỉnh giảng ở các đại học tại Mỹ , Singapore…. Đây là thời gian anh có được nhiều thì giờ tiếp xúc trực tiếp với nền hội họa Âu Mỹ, đi tìm tòi, học hỏi ở các viện bảo tàng danh tiếng nhất thế giới. Nhiều bài viết nhận định sâu sắc về hội họa của anh ra đời. Anh đã có một cuộc triển lãm gây nhiều tranh cãi tại thành phố Garden Grove, Mỹ lấy tên “Âm vang của đất” (Echo of the Land) và một tuyển tập nghệ thuật cùng tên. Trong thời kỳ này Trịnh Cung đã tưởng mình không khỏi thoát cái chết vì căn bệnh cancer tụy tạng. Nhưng anh đã tái sinh trong một tình huống lạ kỳ mà y khoa không thể giải thích.
Năm 1989 bức tranh “Treo mình trên giá vẽ” (tên tiếng Anh: Self-crucsifixtion) ra đời. Đây là kết quả nhiều năm trời suy tư của Trịnh Cung về hội họa. Bức tranh nâng hội họa thành tôn giáo, nhưng tín đồ đã sùng bái đạo không có tham vọng cứu rỗi nhân sinh mà chỉ để tử vì đạo một cách thật cô đơn. Đây là bi kịch của đời họa sĩ. Chúng ta liên tưởng đến cuộc đời khổ. khó, rồi chết trong đau thương tăm tối của các danh họa như Vincent van Gogh (1853-1890), Amedeo Modigliani (1884-1920)… Màu xám ngăn ngắt là màu chủ đạo cho bức tranh, những dòng máu đỏ bầm chảy lan ra trở thành những áng mây huyết dụ. Lạnh lùng. Quỷ ám. Tôi cho rằng góc này của bức tranh là một biểu tượng tuyệt vời của nghệt thuật. Đàng sau cái giá vẽ đang treo mình người họa sĩ là đồi núi chập chùng. Trên đỉnh đồi, người chơi dương cầm (được tác giả cho biết là cô con gái đầu lòng) như dùng âm thanh của chiếc đàn như tiếng chuông gọi hồn, chia xẻ nỗi lòng của người tử đạo.

Qua những bức tranh Trịnh Cung vẽ theo trường phái Biểu hiện, trừ một số ít anh rập khuôn theo đường lối là chú trọng đến những mảng và khối màu dày không bằng phẳng, nhiều màu sắc, tô đậm các đường viền đậm nét, dùng hình thức phóng đại, sử dụng những nét mờ tạo cảm giác chuyển động v.v. còn lại là những bức tranh anh vẽ theo phong cách dùng màu mỏng hơn, không dùng nhiều màu. Đây là phong cách riêng của anh trong tranh Biểu Hiện.
Từ khi được tái sinh, gặp mối tình tuyệt vời của một nhà thơ nhỏ hơn anh hơn 40 tuổi, rồi lấy nhau, Trịnh Cung lần hồi nhẹ đi những bi quan cũng như những cá tính mạnh mẽ. Anh tin vào một điều mà theo cách anh gọi là “số mệnh có điều kiện”. Và, anh chú tâm vào lối vẽ Trừu Tượng. Anh muốn đưa đến người xem những cảm xúc về mỹ thuật nhiều hơn là cảm xúc về nội dung. Màu sắc lãng mạn, trử tình mang hơi hướm phương Đông, tranh Trừu Tượng của Trịnh Cung rất được nhiều người ngưỡng mộ.
Anh thường nói: “Tôi chọn cách xuất hiện bằng số ít hơn là số nhiều mà chẳng là con số thật sự.”. Chẳng phải vậy mà nhà thơ Du Tử Lê đã gọi. chỉ. đích danh Trịnh Cung, Con sói đơn độc(?).

Đặng Phú Phong
(Trích” Bên kia chữ nghĩa & nghệ thuật”
Chương Văn sẽ xuất bản cuối tháng 12/2015)

THU PHÂN

dangphuphong

Mưa thật nhỏ nhưng hồn ta lụt
Thu Phân lá úa khóc tơ trời
Năm tháng trói chân nằm góc phố
Giòng sông xưa mấy lúc đầy vơi.

Hoang vu mắt biếc đêm Ai Cập
Em nhỏ lòng ta hạt long lanh
Tinh khiết như sương trên đỉnh núi
Thành Troy có cháy vẫn còn em.

Phóng tay hào phóng thu còn mãi
Giòng sữa miên man chảy xuống đời
Em nẩy mầm non xanh vũ trụ
Em cười cho tất cả chơi vơi.

Tay vỗ giấc mơ. Tay múa kiếm
Lăng ba vi bộ giỡn đùa thu
Dốc ngược Thu Phân thành Hạ Chí
Cho đời tròn trịa khối tình thu.

Tóc xanh còn ngát hương hoa bưởi
Em dại khờ chi chút phấn son
Nưả ở nưả về tâm bất định
Sương thu chợt xuống lúc hoàng hôn.

Đặng Phú Phong

Võ Phiến, một vài chung quanh.

 dangphuphong

Ông Võ Phiến  gọi Nguyễn Mộng Giác là một người “thàng”(hậu) (1). Ông Nguyễn Mộng Giác cũng gọi Võ Phiến là “thàng” (2). Và, hai ông định nghĩa thàng như sau:

Nguyễn Mộng Giác: “Thàng” không phải là hiền. “Thàng” là một chữ định hình, chứ không định tính. Người thàng, là người ít nói, tránh né những tranh chấp rắc rối, sẵn sàng chịu phần thua thiệt để giữ hoà khí, cố giữ bề ngoài đơn giản lùi xùi để không bị ai xem là kẻ quan trọng. Người thàng có thể hiền lành vì không dám làm việc dữ. Nhưng người thàng cũng có thể có những phản ứng bất ngờ dữ dội khi đột nhiên không thể chịu đựng được mãi sự thua thiệt. Người ta bảo người thàng hay cộc.” (Đặc san Tây sơn –Bình Định,1999)

Và Võ Phiến: “Thàng là chữ riêng của người Bình Định, và cũng là chữ riêng để mô tả người Bình Định. Thàng cũng nói là thàng hậu; thàng hậu nghiã gần như hiền hậu, nhưng còn đi xa hơn hiền hậu nữa kia, vì nó có khả năng mô tả, hiền hậu thì không. Hiền hậu, thực thà là một đức tình, một nết hay; thàng hậu còn là một vẻ người hiển hiện ra bên ngoài, trông rõ mồm một. Người thàng, thàng từ tiếng cười giọng nói, nét mặt, thàng đi. Mà người thàng thì trời ơi, trong trí nhớ của tôi, tôi mường tượng mọi người Bình Định đều thàng hết: anh Ba, chị Bốn, ông Bảy, bà Năm, cô Tư, cậu Tám vv… Hết thảy, không ai là không thàng. Muôn người như cùng một vẻ, một giọng.”(Võ Phiến viết tựa cho Cuốn Ngựa Nản Chân Bon của Nguyễn Mộng Giác.).

Chữ Thàng, trước hết, là chữ của người Bình Định, nếu tính vào thời điểm 2015 này thì “thàng” đã thành chữ cổ. Thuở thiếu thời (thập niên 1950) tôi thỉnh thoảng nghe song thân tôi dùng chữ “thàng” để nói về một người nào đó trong thôn xóm.  Tôi hiểu  lơ mơ “thàng” có nghĩa là hiền, là… thàng. Sau đó do việc di chuyển chỗ ở, tuy rằng chỉ ra tỉnh lỵ, tôi không còn nghe ai dùng chữ thàng nữa. Rồi chữ thàng biến mất trong mớ chữ nghĩa lơ tơ mơ của tôi. Cho đến khi tôi đọc Võ Phiến, Nguyễn Mộng Giác, nhất là thời gian ở hải ngoai, chữ thàng được hai ông định nghĩa  thật rốt ráo, đến cho dù không phải là người Bình Định cũng có thể hiểu rõ ràng “ thàng” và “người thàng “ là như thế nào. Và, chữ thàng cũng được giới văn học thường xử dụng  để chỉ 2 ông Nguyễn và Võ.

Ông Nguyễn thì thật sự là dòng họ Nguyễn.  Còn họ Võ của ông Võ Phiến thì không phải vậy. Ông, tên  khai sinh là Đoàn Thế Nhơn, vì yêu cái tài sắc, cảm cái tấm lòng đôn hậu của vợ ông là bà Võ Thị Viễn Phố, từ bút hiệu Đắc Lang ( Những đêm đông viết năm 1943 đăng trên báo Trung Bắc Chủ Nhật.) ông đã nói lái Viễn Phố thành Võ Phiến làm bút danh cho đến cuối đời. Tôi ngờ rằng khi nói lái ông Võ Phiến đã bị lợn cợn khi Viễn Phố lái ra sẽ thành Vỗ Phiến nghe nó không ra làm sao cả. May quá! Có cứu tinh đây rồi. Bà Viễn Phố họ Võ. Vậy thì  cứ việc thẳng tay ném đi cái mũ. Thành ra Võ, lại là họ của nàng cũng là họ của chàng.  Khéo thay chữ nghĩa! Hai người mãi mãi bên nhau và chỉ một. Dẫu rằng ông ăn cơm hoài cũng ngán nên cũng đi ăn đôi lần phở, chuyện ấy cũng chẳng sao, chẳng chết thằng Tây nào, mà ngược lại mối tình với Viễn Phố càng thêm bền vững. Tôi thật sự xúc động khi nhìn tấm hình ông bà mỗi người một bên đẩy chiếc senior walker cùng đi bách bộ. Keo- sơn- gắn- bó là đây.

Giới văn nghệ sĩ gọi thêm ông một cái tên “Ông già tinh quái”. Nhưng tại sao là “ông già”?. Chỉ khi ông già rồi mới viết văn “tinh quái” hay sao? Tôi e rằng không phải vậy. Chất “tinh quái” của Võ Phiến đã có từ lâu. Từ lâu lắm lận. Từ Người tù (1955), Dung (1956), Lỡ làng (1956), Anh em (1957), Thác đổ sau nhà, Lẽ sống (1958)…. Từ : Anh Bốn Thôi, chị Lộc, Ba Thê Đồng Thời,  ông Tú Từ Lâm, Hữu….

Lại một phen chữ nghĩa! Cái này phải tôn Võ Phiến là bậc thầy. Ông cứ nhẩn nha viết. Bắt người ta phải hút theo chữ nghĩa “ chẻ sợi tóc làm tư, làm tám” của ông. Lâu lâu, cắc cớ đưa ra những ý tưởng làm độc giả giật mình, phải đọc lại lần nữa, rồi giật mình lần nữa (không khỏi cười mỉm thích thú ):“ Cái ông này thâm thật, tài  thật”. Tinh quái, trước hết là tinh tế. Ông nhìn sự việc thật tinh tường qua ngòi bút điêu luyện, làm chủ vấn đề sự kiện. Điều này người đọc dễ dàng nhận ra ở những bài tạp bút, tùy bút của ông. Còn quái thì sao? Ông Võ Phiến có “quái” không? Thiệt là khó! Tôi xin nhón nhóm chữ: “suy đoán vu vơ” của ông dùng để khiêm tốn bày tỏ ý kiến của mình, Suy đoán vu vơ “quái” là không phải bình thường, là lạ, nhưng không phải là quái dị. Còn gì nữa nhỉ. Ờ, phải có cái hậu là vui, qua quá trình soi thấu sự uyên thâm. Như vậy” ông già tinh quái “ ở đây chỉ cho sự uyên bác, thâm trầm, hóm hỉnh lấy được sự kính nể từ nhiều người khác. Nếu cần thêm một chút mắm muối, tôi có thể mượn đoạn văn của Võ Phiến để cho ý của mình đậm nhạt: “Nghề viết văn loay hoay một cách …cảm động. Riêng người Việt lại còn mối cảm kích đối với cái ngôn ngữ của mình sử dụng… Hơn sáu mươi năm trước thường đọc lang thang, môt hôm tôi gặp bài “Đợi Thơ” của Hồ Dzếnh. Lời lời hoa mỹ, câu nào câu nấy chật ních những địa danh xa xôi, mơ hồ, mộng ảo, tôi mê tơi, “ngâm” đi “ngâm lại”:

(…) Tô Châu lớp lớp Phù kiều
Trăng đêm Dương Tử mây chiều Giang Nam
Rạc rời vó ngưa quá quan
Cờ treo ý cũ mây dàn mộng xưa
Biển chiều vang tiếng nhân ngư
Non xanh thao thiết trời thu rượi sầu
Nhớ thương bạc nửa mái đầu
Lòng vương quán khách nghe màu tà huân (…)”

Lời không hiểu mấy, ý không rõ mấy, nhưng mặc kệ: tôi thích, mê tơi. Tôi có chú ý đến mấy tiếng “non xanh thao thiết”. “Thao thiết” ám ảnh tôi. Xanh thao thiết là xanh cách nào? Không biết đích xác, nhưng tôi cho đó là một chữ  tài tình, đúng với màu núi “nọ”(?)…”. (Viết lách, trong Cuối Cùng, Võ Phiến)

Cũng từ đoạn văn trích trên nó điển hình cho cách Võ Phiến đã đưa ngôn ngữ nói thành ngôn ngữ viết thật tài tình. Không biết cơ man những “câu nào câu nấy chật ních”, “tôi mê tơi” nằm trong các tác phẩm của ông.

Lại nữa, Võ Phiến, cũng làm thơ lai rai. Một phần nhỏ nhưng không kém phần quan trọng trong sự nghiệp văn chương của ông. Cũng cái cách nhẩn nha, dùng những câu thơ như câu nói một cách tài tình, rồi “ Rụp, Rụp” (tên một bài tùy bút của Võ Phiến)  giáng một câu xanh dờn, đem cái ý buồn có, vui có, thản nhiên có, ngộ nghĩnh có, triết học có…. Xin giới thiệu bài thơ, không biết có phải là cuối cùng của đời ông hay không, nhưng nó nằm ở trang cuối cùng trong tập tạp bút tên là Cuối Cùng do Thế Kỷ 21 xuất bản năm 2009, nói về cái cuối cùng của kiếp người: “Trông lên chỉ gặp bầu trời là quen.

Mộc Mạc

Xưa từng có xóm có làng
Bà con cô bác họ hàng gần xa
Con trâu, con chó, con gà
Đàn cò, lũ sẻ, đều là cố tri.
Múa may mãi chẳng ra gì
Mỗi lâu thêm một cách ly rã rời.
Thân tàn đất lạ chơi vơi
Trông lên chỉ gặp bầu trời là quen.
Tôi là người Bình Định nên ưa ông cũng chỉ là chuyện thường. Tôi có chắc một điều  là người miền Bắc, miền Nam cũng rất yêu, thích ông. Tôi cũng chắc rằng nếu có người dịch toàn bộ tác phẩm ông ra tiếng nước ngoài, họ cũng sẽ thích ông . Giống như người Việt thích Stefan Zweig qua những bản dịch của ông.

Tôi không có ý định bước vào văn nghiệp của Võ Phiến. Chỉ một vài, thật ít, chung quanh ông. Mà thôi!

ĐẶNG PHÚ PHONG

 

HÀO KHÍ CA

dangphuphong

Từ buổi nắng cao mây lũng thấp
Ai người dựng mộ lấp trăm năm
Trăng xưa rụng mãi không đầy biển
Nên sóng hoàng hôn lụy nhỏ thầm

Tóc rối áo nhàu người giữ mộ
Giơ cao chén đá cụng thời gian
Nước ơi vận nước sao hiu hắt
Cho đám dân đen hận ngút ngàn

Tráng sĩ khi xưa chân đạp đất
Thân tù đâu ngại áo sờn vai
Chỉ e đất lở bồi không kịp
Ngửa mặt kêu trời ai khóc ai.

Đêm tối bít bùng đời tứ cố
Cau mày thế sự tỏ lời riêng
Người ơi xin chút hương ngày tết
Phả nhẹ vào mưa sau mái hiên

Cái nắng đầu xuân nghe nhạt thếch
Đôi bàn tay vỗ lệch bàn tay
Thoáng trong mắt đỏ màu xanh ngọc
Vời vợi nhìn theo mây trắng bay

Xin bẻ giùm ta cây trí tuệ
Cúi thêm chút nữa lá tình thương
Tự do ơi đến cùng ta nhé
“Vọng mỹ nhân hề thiên nhất phương”.

Đặng Phú Phong