Có còn nhận ra tôi không Hỡi thành phố cũ Những mái ngói xanh rêu Bức tường vôi loang lổ Bài thơ xưa ghi dấu một phần đời.
Có còn nhận ra tôi không Hỡi mơ ước tuổi hai mươi Bờ bến cũ, ngậm ngùi thân sỏi đá Tôi về đây, sông xưa, dòng nước lạ Ngó mây trời mà khóc tuổi hoa niên.
Có còn nhận ra tôi không Hỡi cây đa cũ trong sân Nơi tôi đứng những chiều thu lá đổ Đừng hát nữa đa ơi, bài ca buồn vạn cổ Tấm thân gầy đau nhức nhối trong đêm.
Có còn nhận ra tôi không Hỡi những giọt cà-phê đen Ly rượu đắng cho môi đời bớt nhạt Khói thuốc bay như mây trời phiêu bạt Trên con đường nay đã đổi thay tên.
Có còn nhận ra tôi không Hỡi bè bạn anh em Ai còn sống và ai đã chết Ai ở lại lao đao, ai phương trời biền biệt Giờ chia tay sao chẳng hẹn quay về.
Có còn nhận ra tôi không Hỡi ghế đá công viên Những mái lá che tôi thời mưa nắng Từ nơi đó trong đêm dài yên lặng Tôi ngồi nghe sông núi gọi tên mình.
Có còn nhận ra tôi không Có còn nhận ra tôi không Nếu mai mốt tôi về Có còn nhận ra tôi không Hay tại chính tôi quên.
Dừng xe trước quán cà phê nằm bên triền núi, tôi kéo Lân vào ngồi bên chiếc bàn nhỏ, nằm riêng rẽ dưới bóng mấy cành thông. Ngày thường, quán vắng khách. Đã hơn bốn giờ chiều mà mặt trời đang ở trên đỉnh đầu. Mùa hè Bắc Âu ngày dài ra, có những ngày cuối tháng sáu, gần như không thấy bóng đêm. Trời nắng, nhưng không nóng lắm. Thỉnh thoảng có vài cơn gió làm lung lay những cành thông, như muốn khuấy động cái không gian tĩnh mịch và tạo thêm chút mát mẻ, thư thái cho khách nhàn du.
Đến đây đã nhiều lần, dần dà bọn tôi trở thành khách quen của ông chủ quán, người Na-Uy, vốn trước kia ở cùng xóm với tôi, nên đã dành cho chúng tôi sự tiếp đãi đặc biệt, thoải mái. Hơn nữa đã từng nghiên cứu về Đạo Phật, nên thấy Lân trong bộ áo thầy tu, ông chủ cũng tỏ ra ít nhiều tôn kính, có khi trao đổi đôi điều về Phật và Thiền học, mặc dù ông chưa hề biết quá khứ, nhất là cả một thời tuổi trẻ đầy sôi nổi, hào hùng và biến động của Lân.
Gần mười năm nay, sau khi về hưu, hằng năm, vào khoảng giữa tháng Mười, vợ chồng tôi thường sang Cali ở sáu tháng để trốn mùa Đông Bắc Âu, mà với tuổi già càng lúc cái lạnh như càng ngấm vào da thịt và cả trong lòng mình. Đến hè, mỗi lần trở lại Na-Uy, tôi thường ghé lại thăm Lân. Từ lúc nhận ra tuổi già qua nhanh quá, cái quỹ thời gian không còn nhiều, và một số bè bạn đã lần lượt ra đi, chúng tôi dành nhiều thì giờ cho nhau hơn. Lân về hưu trước tôi một năm, và anh đã chọn một hướng đi đặc biệt cho tuổi già: tu tại gia. Anh xuống tóc, ăn chay trường và mỗi ngày sống với kinh kệ như một vị thầy tu, mặc dù không đến chùa. Anh cho rằng cái khung cảnh và sinh hoạt ở một số chùa chiền bây giờ không thích hợp với anh. Hầu hết bạn bè và những người quen biết đều tôn trọng cái quyết định đó, cũng như rất mến mộ phong cách, đạo đức của anh. Thực ra, trước khi chọn con đường tu hành, anh cũng đã có đầy đủ tố chất của một vị chân tu rồi. Hiền lành, đạo hạnh, luôn chia sẻ tấm lòng với tha nhân, nhất là những người không may, gặp điều khốn khó, và với ai anh cũng luôn nở một nụ cười hiền hòa nhân ái. Lân dùng nguyên ngôi nhà ở sửa sang lại làm tịnh thất, nằm trong khu ngoại ô, bên bìa rừng yên tĩnh. Anh sống ẩn dật, chỉ tiếp vài ba người bạn chí thân.Tôi thường đến đây với Lân, có khi ở lại cả tuần, theo anh ngồi tĩnh tâm hay tập thiền, nhưng thỉnh thoảng Lân cũng chìu tôi, theo tôi ra ngồi ở cái quán cà phê bên vách núi yên tĩnh này. Tôi nghĩ đây là nơi lý tưởng để Lân còn nhìn thấy một chút “thế gian” và chúng tôi có thể ngồi hằng giờ tâm sự chuyện đời xưa, nhắc nhớ khoảng thời gian khá dài mà chúng tôi có cùng chung quá khứ.
***
Tháng sáu năm 1976, sau khi bị chuyển tù ra Bắc, đến Trại Hang Dơi thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn, tôi gặp lại người bạn cũ, có thời ở cùng đơn vị. Anh ở khác lán với tôi, nhưng cùng tổ và nằm bên cạnh Lân. Qua anh bạn này, tôi quen biết Lân từ đó, để rồi sau này trở thành thân thiết. Điều đặc biệt là dù qua bao lần “biên chế”, bị chuyển đi nhiều trại, Lân và tôi đều được may mắn, đi chung với nhau cho đến ngày Lân ra tù, tháng 9 năm 1981.
Trước ngày miền Nam thất thủ, Lân là thiếu tá, làm việc ở Bộ Chỉ Huy Hành Quân Không Quân (thuộc Bộ Tư lệnh Không Quân). Một công việc bất đắc dĩ, ngoài sở thích của Lân. Anh vốn là phi công trực thăng được chuyển về đây sau khi ra khỏi Tổng Y Viện Cộng Hòa và được Hội Đồng Giám Định Y Khoa xếp vào loại 2, không thể phi hành hay chiến đấu được. Anh bị trọng thương trong một chuyến bay cấp cứu (rescue) một phi hành đoàn bạn bị bắn rơi trong trận chiến An Lộc.
Lớn hơn tôi một tuổi. Lân tình nguyện vào Không Quân và được sang Mỹ học ngành hoa tiêu trực thăng. Về nước được bổ sung cho Phi Đoàn Long Mã 219 ở Đà Nẵng, từ thời còn xử dụng trực thăng loại H-34, về sau này được thay thế bằng UH-1. Đây là một phi đoàn đặc biệt. Trên các máy bay sơn toàn màu đen, không vẽ quốc kỳ và bất cứ danh hiệu hay mã số nào, ngoài hình những lá bài “ách xì” cơ, rô, chuồn, bích. Phi Đoàn có nhiệm vụ thả và bốc các toán lôi hổ, biệt kích, hoạt động trong vùng đất địch. Lân nổi tiếng là một phi công tài giỏi, thông minh và can đảm.
Sau đó, được thuyên chuyển về một phi đoàn thuộc Vùng 3. Năm 1970, Lân cùng phi đoàn đã đóng góp nhiều chiến công trong các cuộc hành quân sang lãnh thổ Cam- Bốt. Năm 1972, tham dự trận chiến An Lộc, đổ quân, tản thương cho Liên Đoàn 81 BCND và một số đơn vị thiện chiến khác, Lân mấy lần bị thương nhẹ, được đặc cách thăng cấp thiếu tá. Khi đã có lệnh và đang chờ thuyên chuyển đến một phi đoàn khác để giữ chức vụ Phi Đoàn Phó, thì anh tình nguyện tham gia phi vụ cấp cứu (rescue) một phi hành đoàn bạn bị bắn rơi. Nhờ tài năng, lòng dũng cảm và nhất là tình đồng đội “không bỏ anh em không bỏ bạn bè”, anh đã bất chấp mọi hiểm nguy, cứu được 3 trong 4 người của một phi hành đoàn, khi phi cơ phải đáp khẩn cấp vì bị trúng đạn phát hỏa, người xạ thủ đã bị tử thương. Được bốn gunships yểm trợ, Lân đã lừa địch và bất ngờ đáp xuống trong màn lưới đạn, bốc ba người bạn đang bị Cộng quân truy bắt. Nhưng khi vừa bốc phi cơ lên, Lân bị trúng hai viên đạn, làm gãy xương cánh tay và ống chân trái. Sau này, trong một dịp tình cờ, tôi gặp anh co-pilot trong phi vụ này, kể lại chuyến bay rescue vô cùng hiểm nguy với tất cả lòng thán phục Lân. Anh bảo, nếu không có Lân hôm ấy, chắc chắn việc cấp cứu đã không thành và ba người bạn cùng phi đoàn đã bị địch quân giết hay bắt sống.
Khi ở trại Nghĩa Lộ, tôi được sắp xếp cùng tổ với Lân. Chúng tôi thuộc đội phát rừng (vào mùa Đông) và tăng gia (vào mùa Hè, vì mùa Đông, ở vùng này rất lạnh, không trồng rau được). Tù ăn uống thiếu thốn và lao động cực khổ, nhưng Lân rất khỏe mạnh. Có lẽ nhờ vào khả năng mưu sinh. Phải nói đây là một sở trường đặc biệt của Lân mà bạn tù ai cũng nể phục. Anh có thể bắt tôm, cá bằng tay không, khi đứng giữa một dòng suối hay con sông. Nhìn dấu chân các loài vật anh biết ngay đó là con vật gì. Chỉ cần một nhánh cây anh có thể “sáng chế” thành một cái bẫy để bắt các loại chim, chồn, và cả thỏ rừng. Nhờ vậy mà anh nuôi sống cả một tổ tù, đặc biệt cứu vài người bị đau bệnh, kiệt sức. Anh còn biết cả thuốc Nam, các loại lá, vỏ cây trị bệnh. Một lần đi rừng chặt nứa, tôi bị một con ong đất chích vào tay, sưng vù lên và tím cả một vùng da. Lân cho biết nọc loài ong này rất độc, có thể làm chết người. Anh dùng dây rừng cột chặt cánh tay tôi lại, đi tìm một loại lá và vỏ cây gì đó đắp lên. Chỉ sau một giờ đồng hồ vết sưng biến mất. Một buổi trưa nhân ngày lễ, được nghỉ lao động, anh đã câu được gần ba mươi con ếch ngay trong trại, dưới các rãnh mương thoát nước. Chính tay trưởng trại đã đi theo xem và phục tài của Lân. Tất cả ếch câu được đều giao cho nhà bếp “hậu cần” để có thêm chất thịt cho anh em. Lân cho biết là chỉ cần nghe tiếng ếch kêu đêm hôm trước là anh biết có khoảng bao nhiêu con và đang trốn ở đâu. Cần câu chỉ là một thanh tre và một sợi chỉ từ cái bao cát được Lân xe lại, và mồi câu chỉ bằng một miếng bông gòn nhỏ. Tối hôm ấy, tôi khuyên Lân nên chấm dứt chuyện câu ếch và cần phải giấu kín cái tài mưu sinh, vì có thể bị bọn cai tù nghi ngờ, “ra tay” trước đề phòng khả năng anh trốn trại. Tôi cũng ngạc nhiên, khi Lân là một phi công “hào hoa”, nhưng khả năng mưu sinh thoát hiểm rất tuyệt vời. Lân cho biết, khi còn nhỏ, nhờ cả thời tuổi thơ sống bên quê ngoại, một vùng quê ở Tây Ninh, anh đã theo đám bạn bè và cả những người nông dân lớn tuổi, học được rất nhiều điều như thế.
Điều làm tôi nể phục hơn, ngoài mưu trí, lanh lẹ, Lân còn là một con người gan dạ, liều lĩnh và chí tình với bạn bè. Một lần trải qua một trận kiết lỵ kéo dài, thuốc men không có, tôi chỉ còn khoảng ba mươi ký, kiệt sức đứng không vững. Lơi dụng lúc đi lấy “phân xanh” ( loại lá cây để ủ thành phân bón), không có vệ binh canh giữ, Lân đã lén vào trại heo của Hợp Tác Xã (cách trại khoảng vài trăm mét, mà trước đó đám tù bọn tôi có đến vài lần làm chuồng cho họ) bắt một chú heo con (heo sữa) mang về giấu ngoài khu vực tăng gia (nằm sát bên hông trại), để hôm sau vùi vào hầm lửa ( do tù đào và dùng các gốc cây đốt lửa sưởi ấm) cho tôi ăn dần. Nhờ đó mà tôi sớm lấy lại được sức. Một lần khác, khi được giao cho công việc lên phơi lúa trên sân trại, nằm ngay trước ban chỉ huy trại, Lân thấy có một buồng chuối thật dài sắp chín được đám bộ đội chăm sóc cẩn thận, bao lại bằng mấy tấm bao cát và chống lên bằng hai thanh gỗ. Vài hôm sau, trong một buổi sáng sớm mùa Đông, khi sương mù còn dày đặc (đứng cách vài thước không nhìn thấy nhau), Lân đã lẻn lên sân trại cắt trộm cả buồng chuối mang ra chôn giấu ngoài khu lao động. Hai hôm sau chuối chín, chờ lúc không có mặt tay quản giáo, Lân đào buồng chuối lên để cả tổ cùng ăn. Vì sợ mùi chuối chín dễ bị phát hiện, nên Lân đề nghị phải ăn cho hết. Một thời gian quá lâu thiếu chất đường, nên cả tổ tám người thanh toán buồng chuối khoảng một trăm quả trong vòng 20 phút đồng hồ mà vẫn chưa thấy ngọt. Nhưng vì ăn nhiều quá, nên khi vừa đứng dậy, cả bọn bị ói thốc tháo ra toàn là chuối.
Biết tài bắt cá của anh, nên mỗi lần trại tù hay hợp tác xã bên cạnh tổ chức “tảo” các hồ cá để thả cá con, Lân đều được chọn đi bắt cá. Hầu hết các hồ chỉ nuôi loại cá trắm cỏ, nhưng có nhiều loại cá khác, như cá lóc, cá trê sống trong đó, sẽ ăn hết đám cá trắm cỏ con. Nên trước khi thả cá, phải “tảo”hồ, băng cách bơm cạn và bắt tất cả các loại cá khác nằm dưới bùn. Lân sở trường về việc này. Nhưng thay vì phải giao tất cả cả bắt được cho trại, anh tìm vài cái hang dưới bờ hồ, tạo thành những cái hộc để nhốt một số cá lóc vào đó. Những cái hồ cá này, cũng là nơi cho tù rửa ráy hay tắm sau giờ lao động. Và cứ mỗi lần tắm, Lân lại bắt một con cá nhốt sẵn trong hộc, mang về cho cả tổ cùng ăn. Vì là đội tăng gia, được giữ mấy cái bình tưới bằng nhôm, nên dễ dàng giấu cá trong đó mà không bị “phát hiện”.
Có một kỷ niệm tôi không thể nào quên. Một khoảng thời gian ở Trại Hang Dơi, bọn CS luôn tìm mọi cách vắt kiệt sức của chúng tôi. Tất cả tù đều phải lên rừng chặt nứa (loại tre nhỏ) mang về bán cho nhà máy giấy Việt Trì, theo hợp đồng của trại. Chỉ tiêu mỗi ngày là ba mươi cây. Nếu không đủ, sẽ không được nhận khẩu phần ăn. Chỉ sau một tháng là nứa ở các vùng núi chung quanh trại tù hết sạch. Chúng tôi phải chia nhau một toán ba người đi rất xa lên các dãy núi cao tìm nứa. Lân và tôi luôn đi chung một toán. Trời mùa Đông, lạnh buốt xương, và suốt cả ngày mưa phùn rả rích. Các lối mòn, ngõ ngách lên núi biến thành bùn nhão, trơn như mỡ. Bọn tôi phải đóng những cái cọc ngắn dọc trên các con đường, mỗi lần vác nứa xuống, dùng đầu ngón chân tì vào các cọc để không bị trượt ngã xuống vực. Nguy hiểm hơn là khi bị té ngã, bó nứa chùi xuống đâm vào người đi trước, có thể mất mạng. Một buổi trưa, len lỏi trong rừng già, rất khó khăn để chui qua những cây mây già, nằm chằng chịt như những con trăn dài chặn các lối đi, những cây cổ thụ cao to che hết ánh sáng mặt trời. Khi bọn tôi đang lo âu có thể bị lạc đường, chia nhau đi chặt vào các thân cây làm dấu, thì bất ngờ một một cây cổ thụ bỗng rung rinh, lá cây xào xạc, bóng một con vật to lớn nhảy xuống. Cả ba thằng khựng lại, rồi như theo bản năng, nhanh chóng tìm lại ngồi sát vào nhau, mặt thằng nào cũng tái xanh. Bỗng Lân quát lớn: “Đừng sợ, đứng dậy, đưa dao lên!” Tôi làm theo Lân như cái máy. Khi hoàn hồn, nhận ra ngay trước mặt mình không xa, một con dã nhân (vượn người?), cao to bằng ba con người, lông lá đầy mình, mặt mày dữ tợn, đang rú gào đe dọa chúng tôi. Lân rất bình tĩnh, bảo bọn tôi cùng hét thật lớn và bước tới với con dao đưa lên chém vào không khí. Không ngờ con dã nhân lùi lại, rú thêm mấy tiếng rồi nhảy phóc lên cây, phóng đi nơi khác. Hôm ấy bọn tôi về tay không và biết là sẽ bị phạt mất phần ăn, nên Lân đã đi tìm mấy mụt măng rừng và luộc lên cho bọn tôi ăn đỡ đói. Tôi và anh bạn tù kia phục Lân vô cùng. Nếu hôm ấy mà không có Lân, chẳng hiểu bọn tôi sẽ phản ứng ra sao. Cũng đã từng bao lần vào sinh ra tử, nhưng đứng trước một tình huống quá bất ngờ này, thực tình chúng tôi mất hết bình tĩnh, chẳng biết cách nào đối phó. Đây cũng là lần đầu tiên tôi nhìn thấy một con vật lạ lùng, ghê sợ, mà trước đây chỉ biết mơ hồ qua sách vở và lời kể của ông bà.
Năm 1979, trước khi chuyển trại để rời khỏi Hoàng Liên Sơn, vì Trung Cộng đang tấn công vào các tỉnh biên giới phía Bắc, đội tù chúng tôi được chọn ra hai tổ đi lao động “thông tầm”, gặt lúa cho một HTX nông nghiệp, ở cách xa trại khoảng mười cây số. Lân được chọn làm toán trưởng. Chúng tôi khoảng 20 người, đi bộ, có hai tên vệ binh đi theo. Đến nơi vào buổi chiều, trời sắp tối, bọn tôi được trú ngụ trong một cái đình làng bỏ hoang, một phần mái và một bức tường đã rệu rã. HTX dùng cái sân đình để chứa và phơi lúa. Không biết có phải để “khuyến khích tinh thần” hay tạo thêm sức, HTX “bồi dưỡng” cho bọn tôi một bữa xôi nếp với thịt trâu khá no nê. Có cả một xị rượu mía. Đây có lẽ là bữa ăn thịnh soạn nhất trong đời tù bọn tôi.
Sáng hôm sau, tay Chủ nhiệm HTX hướng dẫn chúng tôi ra khu ruộng, nằm cách ngôi đình làng khoảng 100 mét. Khi đến nơi bọn tôi mới ngỡ ngàng. Đây là những đám ruộng sình, lúa rất tốt, nhánh nào cũng trĩu đầy hạt, nhưng nếu bước chân xuống ruộng, người ta sẽ bị lún sâu xuống ngay, khó mà ngoi lên được, vì càng cử động, tìm cách thoát lên, lại càng bị lún xuống thêm, có thể ngập đầu. Bọn tôi lắc đầu ngán ngẩm, khi vừa hiểu ra cái giá của bữa cơm nếp có thịt trâu, rượu mía tối hôm qua. Trong khi cả bọn nhìn nhau bất lực, Lân đưa ra sáng kiến. Dùng các tấm cửa cũ của ngôi đình bỏ hoang, cột dây kéo hai đầu, chỉ cần một người (chọn những người nhẹ ký nhất) ngồi trên tấm cửa, gặt lúa, những người còn lại, đứng trên bờ hai đầu, thay phiên kéo và giữ thăng bằng tấm cửa và an toàn cho người gặt lúa. Một tấm cửa khác kéo theo bên cạnh, để chứa những bó lúa gặt được. Khi nào đầy lúa, người gặt ra dấu, để được kéo vào bờ. Sáng kiến của Lân được mọi người hoan nghênh, kể cả tay Chủ nhiệm. Khoảng mười tấm cửa cũ đủ loại lớn nhỏ được mang ra sử dụng, một số cuộn dây được cung cấp, kể cả một số tre được mang tới để vài anh chẻ ra đan thành những cuộn dây dài. Không ngờ sáng kiến của Lân lại tuyệt vời. Chỉ hai hôm, tất cả lúa trên hơn mười thửa ruộng sình được gặt xong. HTX “thu hoạch” được số lượng lúa khá lớn. Tay Chủ nhiệm xin cho bọn tôi được ở lại thêm một ngày để nghỉ ngơi và “liên hoan”. Ăn cơm trắng với cá “trám cỏ”. Thấy có một cái trống rách, bỏ nằm lăn lóc trong góc đình, Lân bèn nghĩ ra một điều “kỳ lạ” khác. Anh tháo da từ cái trống ra, mượn một cái chảo đun sôi gần cả một đêm, sáng hôm sau, các miếng da nở ra, mềm, dẻo và trắng mướt. Lân thái nhỏ ra, xin thêm đậu phụng (lạc), giã nát cùng với ít rau, rắc lên. Miếng da rách trong chiếc trống lăn lóc ngày hôm qua, bây giờ đã trở thành một món ăn khoái khẩu. Những bạn tù hôm ấy chắc chắn không ai có thể quên Lân và những ngày tù thật đặc biệt này.
Sau khi được chuyển về Trại Nghệ Tĩnh, Lân rủ tôi và một người bạn thân nữa tổ chức một cuộc trốn trại. Tôi rất tin tưởng vào khả năng vượt thoát của Lân. Thời gian này bắt đầu được thăm nuôi, Lân đã nhờ người nhà mang theo nhiều thức ăn khô, một số tiền mặt và một cái địa bàn nhỏ dấu kín trong hũ mắm ruốc. Nhờ hối lộ hậu hỉ cho tên công an phụ trách, nên mọi thứ đều trót lọt. Nhưng chưa tới ngày thực hiện thì bất ngờ Lân có lệnh thả. Anh rất ngạc nhiên về việc này. Kế hoạch trốn trại phải hủy bỏ, vì tôi và người bạn còn lại không tin vào khả năng của mình, nếu không có Lân.
Năm 1983, sau gần một năm được chuyển về Trại Z-30 C Hàm Tân, tôi được thả. Ra trại, thay vì về quê ngoài Nha Trang, tôi vào Sài gòn tìm Lân. Vì trước lúc chia tay, Lân cho biết là sau khi về nhà, anh sẽ mua ghe tổ chức vượt biên. Anh còn dặn dò, bất cứ lúc nào ra khỏi tù, tôi nhớ tìm gặp anh ngay. Tôi luôn tin tưởng vào khả năng, đạo đức và chân tình của Lân.
Thời gian trong tù, qua tâm sự của Lân, tôi biết rất rõ về nhà cửa, địa chỉ và tất cả những người trong gia đình anh. Ông cụ đã mất trước 75, Lân chỉ còn bà cụ đang sống với hai cô em gái trong ngôi nhà khá lớn ở bên Quốc lộ, gần Ngã Tư Hàng Xanh. Ông anh duy nhất là một Biên Tập Viên Cảnh Sát, làm việc tại Sài gòn, đã kịp rời khỏi Nhà Bè vào sáng sớm ngày 30.4.75.
Lân được cả nhà, đặc biệt là bà mẹ hết lòng yêu thương. Chính vì điều này mà Lân đã không đành bỏ mẹ để ra đi khi CS chiếm Sài gòn, mặc dù khi ấy Lân có nhiều phương tiện trong tay, đã giúp khá nhiều bạn bè ra khỏi nước. Sau này Lân còn cho tôi biết, chính mẹ và các em gái của Lân đã bán nhiều tài sản và dùng vàng bạc giấu được sau các đợt “đánh tư sản”, tìm đường dây đến một tay thứ trưởng Bộ Nội Vụ CS mua cho Lân cái giấy ra trại, để vượt biên sớm. Lân là một trong số rất ít tù được thả sớm từ miền Bắc trong thời gian ấy.
Khi tìm đến nhà, tôi gặp mẹ và cô em lớn của Lân. Bà mẹ cũng là một người tu hành. Bên kia phòng khách, tôi nhìn thấy một tượng Phật Quan Âm lớn hơn một người thật, cao gần đến trần nhà. Tôi bảo tôi là bạn tù rất thân của Lân vừa mới được thả ra, tìm đến thăm Lân, nhưng cả mẹ con đều bảo Lân đang sống ở vùng kinh tế mới dưới Phước Tuy. Nhìn vẻ mặt của hai người tôi biết là họ đang nghi ngờ tôi, có thể là một gã công an nào đó muốn thăm dò tin tức Lân. Khi tôi hỏi xin địa chỉ nơi ở của Lân trong vùng kinh tế mới để đi thăm, viện cớ là tôi ở ngoài Trung, sau này khó có thể gặp Lân, hai người bảo là không biết, hơn nữa người lạ cũng không được phép đến đó. Đoán là có điều gì xảy ra cho Lân, nên cả mẹ và em Lân cố tình giấu giếm, tôi lấy tờ Giấy Ra Trại đưa cho cô em xem và kể thêm một số chi tiết về Lân cũng như những người trong gia đình. Khi ấy hai người mới tin và cho tôi biết là Lân tổ chức vượt biên, kéo theo một số bạn bè, nhưng chẳng may ghe bị mắc cạn ở cửa sông Mỹ Tho, Lân bị bắt và đang bị nhốt trong một trại tù rất khắc nghiệt. Tôi cám ơn và xin tạm biệt, nhờ chuyển lời thăm Lân khi có thăm nuôi. Tôi cũng để lại địa chỉ và nhờ nói lại với Lân, khi ra tù nhớ liên lạc với tôi. Mẹ của Lân bảo cô em vào lấy một số tiền biếu tôi. Tôi từ chối nhưng hai mẹ con nhất mực bắt tôi phải nhận. Cô em đã nhét tiền vào túi áo của tôi.
Sau hơn tám năm, trở về nhà, chưa kịp làm quen với mấy đứa con, nhất là con gái út còn nằm trong bụng mẹ ngày tôi vào tù, và cũng chưa kịp hỏi được tin tức về nơi chôn cất cha tôi, ông đã chết trong môt trại tù khác trong Nam từ tháng 6/1976, thì bốn hôm sau, tôi được “mời” ra công an thị trấn, nhận cái giấy trả lại trại tù, với lý do “nhân dân địa phương không chấp nhận cho tôi được tạm trú”. Khăn gói vào lại trại tù Z-30C, được cho ở tạm nhà thăm nuôi ba hôm, sau đó nhận một tấm Giấy Ra Trại khác, với nơi chỉ định tạm trú mới là sinh quán của tôi. Ở đó tôi chẳng còn ai, ngoài bà cô già, góa bụa sống trong ngôi nhà từ đường của ông bà nội tôi để lại. Tôi lại bị chính quyền CS ở đây hành hạ, làm nhục đủ điều. Không còn con đường nào khác, ngoài vượt biên. Nhờ một ông anh con ông cậu ruột, nguyên là một HSQ Hải quân, đang có sẵn ghe đánh cá, tôi liều lĩnh âm thầm khuyến khích và tổ chức vượt biên, chỉ dành cho gia đình và những người thân thiết nhất. Tôi nhờ đứa cháu vào nhà Lân. Rất may là Lân vừa mới ra khỏi tù hơn một tuần lễ, cũng nhờ bà mẹ lo lót. Lân mua giấy tờ giả, đóng vai một “cán bộ thương nghiệp” ra Nha Trang công tác. Tôi gởi Lân ở chung nhà với một người bạn thân khác của tôi, là căn phòng nhỏ ngay phía sau một trường tiểu học mà anh là hiệu trưởng, không ai để ý. Đúng giờ hẹn, tôi cho người đón Lân bằng xe Honda và đưa Lân trốn trong một ghềnh đá sát bên bờ biển ở một nơi an toàn. Tôi hẹn cho ghe ghé đến, đậu xa bờ khoảng 200 mét, báo mật hiệu bằng đèn và cho thằng cháu chèo thúng chai vào đón. Nhưng Lân bảo không cần, vì thúng chai chèo chậm lắm, anh sẽ bơi ra tàu cho nhanh. Khi kéo Lân lên tàu, hai đứa ôm chầm lấy nhau, như thầm hứa hẹn một “trang sử” mới.
Mặc dù có người anh định cư ở Mỹ từ 1975, nhưng Lân quyết định cùng đi Na-Uy với chúng tôi. Mấy lần tôi hỏi, có phải trong lòng Lân còn “hận” Mỹ, đã phản bội, bỏ rơi người bạn đồng minh, để đất nước và cả dân tộc mình điêu đứng lầm than? Lân cười, bảo chỉ muốn sống gần tôi, người bạn đã cùng sống chết với anh trong suốt đoạn đời tù đày khốn khổ.
Lân cùng học rồi cùng vào làm một sở với tôi cho đến ngày về hưu. Chúng tôi cùng hăng say hoạt động trong một tổ chức kháng chiến ngay từ ngày đến Trại Tị Nạn Bataan, Phi Luật Tân. Vào thời điểm ấy, tổ chức này rất nổi tiếng và được nhiều người khắp nơi tham gia, ủng hộ. Khi một cán bộ cao cấp của tổ chức từ Hoa Kỳ đến Na-Uy sinh hoạt, cả Lân và tôi xin tình nguyện được về “chiến khu quốc nội”(?), nhưng ông ta bảo không còn cần thiết nữa. Chỉ một tháng sau đó, tổ chức này rạn nứt, tan vỡ, phơi bày bao điều không thật, đau lòng. Chúng tôi thất vọng và phẫn nộ khi có cảm giác mình bị lừa dối. Những năm sau, Lân sang Mỹ nhiều lần, thăm ông anh, họp bạn bè và tìm hiểu các tổ chức, hội đoàn hoạt động ở đây. Anh háo hức, thiết tha mong được đóng góp phần mình. Lân thường bảo, cuộc sống lưu vong này sẽ trở nên vô nghĩa, nếu chúng ta không làm được điều gì. Chẳng lẽ rồi bọn mình cũng chỉ là những “con chim ẩn mình chờ chết!”hay sao?
Cuối cùng, dường như Lân đã không tìm được một “ánh sáng nào ở cuối đường hầm”. Anh bảo những hình thức, phô trương, những bộ quân phục và lon lá bị lạm dụng, những ông bà háo danh, tranh giành cộng đồng này, hội đoàn nọ, tệ nhất là mấy cái chính phủ với đám tướng tá tự phong, tự diễn, lố bịch như đám phường tuồng, làm anh muốn buồn nôn.
Có những ông chưa có một ngày trong lính, nhưng lúc nào cũng tỏ ra là một nhà quân sự tài ba, huênh hoang chê bai ông tướng này ông tá khác, phê phán đủ các trận chiến ngày xưa. Cũng có những ông gốc lính, chẳng biết ngày xưa khí phách, tài năng đến đâu, giờ nằm nhà chửi bới, chụp mũ không sót một người nào.
Bạn bè thì một số thoải mái với cuộc sống mới và đã biến thành những con người mới, quên mình đã từng là lính và bị tù đày. Một số thì tìm đến với nhau trong những hội hè, mong có nhiều cuộc họp mặt tiệc tùng, để có dịp mặc bộ quân phục, tìm lại chút “dư âm ngày cũ”. Chưa kể một số đua nhau về Việt nam, để đi trở lại trên những “đường xưa lối cũ.” Lân bảo, vẫn biết mỗi người có quyền chọn cho mình một cách sống riêng để bù đắp những mất mát hay xoa dịu phần nào vết thương quá khứ, tất cả đều tội nghiệp, nhưng sao anh vẫn thấy có điều gì đó làm xót xa, đau đớn trong lòng.
Đôi khi Lân than thở với tôi:
-Đã hơn gần 30 năm sống trong cái cộng đồng ly hương này, sao nhiều lúc mình vẫn có cái cảm giác bồng bềnh như ngày nào còn ngồi với bạn trên chiếc thuyền vượt biển ra khơi!
Tôi lên mặt lý sự cốt an ủi Lân:
-Bạn đừng lý tưởng quá, thời gian nó sẽ xói mòn và làm đổi thay tất cả. Trong cái xô bồ, mình phải gạn lọc để chấp nhận và trân trọng những gì tương đối, bởi rất nhiều anh em, cũng như chúng ta, đành phải “lực bất tòng tâm” trước những ước vọng đó sao!
Tôi thầm tiếc và tội nghiệp cho Lân, một con người yêu nước, tài ba, can đảm và đức độ như vậy mà chẳng còn một nơi nào để “dụng võ”.
Nhiều lúc thấy Lân trầm ngâm, ngồi im lặng như một thiền sư, tôi tự hỏi, từ ngày chọn con đường tu hành, ngày đêm với kinh kệ, không biết trong lòng Lân có còn nỗi khắc khoải nào không? Tôi ngại không dám hỏi Lân. Mới đây, trong lúc ngồi bên nhau Lân nói với tôi:
-Bây giờ tôi chỉ còn mong ước hai điều, trước khi chết được thấy đất nước mình đổi thay, không còn Cộng sản, và khi nhắm mắt được có bạn ở bên cạnh để vuốt mắt và niệm cho tôi một bài kinh A Di Đà!
Con chim gỗ trên chiếc đồng hồ treo trong quán cà phê vừa hót lên bảy tiếng. Như vậy là bọn tôi ngồi đây đã ba giờ đồng hồ. Trời không tối nên cứ tưởng còn sớm lắm. Ánh mặt trời vẫn chói chang qua những tàng cây. Tôi đứng dậy dành đi trả tiền. Lân bước ra trước, đứng chờ ở vệ đường, nhắm mắt ngước mặt lên trời. Không biết anh đang cầu nguyện điều gì hay muốn xóa đi, quên hết những gì mà chúng tôi vừa tâm sự, để trở về với cái tâm yên tĩnh của một thầy tu. Anh đứng yên lặng nhưng cái bóng của anh lung linh, sống động trải dài theo bờ con dốc đá. Nhìn cái bóng, tôi mơ hồ như bất ngờ được gặp lại người phi công trẻ, hào hoa, oai hùng, mà mình đã từng quen biết từ một thời nào xa xưa như trong tiền kiếp.
Bỗng dưng, tôi nhớ tới những đồng đội bạn bè đã hy sinh, nhớ tới những chàng phi công hào hùng đã từng sống chết với đơn vị tôi trong Mùa Hè 1972 và suốt một thời binh lửa. Khi bước đến bên Lân, tôi vẫn thấy anh đứng lặng yên, bất động, hướng mắt nhìn về một nơi xa xăm nào đó. Trên không gian bao la chỉ có vài áng mây đang chầm chậm bay về phía cuối chân trời.
Nhà thơ Huyền Kiêu tên thật là Bùi Lão Kiều. Huyền Kiêu có nghĩa là Kiêu, thêm dấu Huyền, thành Kiều.
Ông sinh năm 1915, và mất năm 1995, thọ tám mươi tuổi.
Ngoài làm thơ, ông còn là dịch giả. Huyền Kiêu làm thơ không nhiều. Ông nổi tiếng với hai bài Tương Biệt Dạ và Tình Sầu.
******
II. NHỮNG TRANH CÃI VỀ BÀI THƠ TƯƠNG BIỆT DẠ
Bài Tương Biệt Dạ dưới đây cũng tốn kém nhiều tranh cãi của người đời sau, xuất phát từ hoàn cảnh sáng tác của bài thơ.
Đại loại thế này, đây là bài thơ của Huyền Kiêu làm, nhân buổi tiệc chia tay của hai người bạn thân thiết là Khái Hưng và Nhất Linh. Sau đêm đó, Nhất Linh sẽ lên đường sang Tàu, chuẩn bị cho những hoạt động bí mật của ông sau này.
Tiệc được tổ chức tại nhà Thạch Lam, Thạch Lam là em ruột của Nhất Linh. Hôm ấy, có: Thạch Lam, Nhất Linh, Khái Hưng, Đinh Hùng, Huyền Kiêu, Thế Lữ và Nguyễn Tường Bách.
Tranh cãi, bắt đầu diễn ra ở chi tiết: Thạch Lam, chủ nhà, chính là tác giả của câu mở đầu Tương Biệt Dạ, hay, ông còn là người viết nhiều câu khác nữa, ở trong bài.
Nhưng kiểu gì kiểu, đã ký tên Huyền Kiêu thì là của ông Huyền Kiêu. Vả lại, đều là những nhà văn, những thi sĩ có tên tuổi vào thời ấy, thì sá gì, một vài câu thơ, do mình nhân lúc hứng khởi, do mình nhân lúc xúc động, mà đóng góp vô.
Theo tôi, những chuyện ấy, chẳng gì to tát. Trà dư tiểu hậu thì cũng được, còn quyết liệt làm cho ra ngô ra khoai, thì để được gì, và để làm gì. Các ông ấy, bây giờ, biết đâu, nơi tiên giới, đang ngồi khề khà với nhau bên chén rượu, ván cờ, có còn lưu tâm đến chuyện trần thế nữa đâu, mà ta ở dưới này, xôn xao, cho thêm mệt.
******
III. BÀI THƠ TƯƠNG BIỆT DẠ
01. ĐINH HÙNG – NGƯỜI LÀM SỐNG LẠI TƯƠNG BIỆT DẠ
Bài thơ Tương Biệt Dạ được viết vào mùa thu năm 1940 của thế kỷ trước, nhưng mãi đến năm 1965, khi cả Khái Hưng và Nhất Linh đều đã mất, thì câu chuyện kể về đêm trăng xưa này, mới được Đinh Hùng – người duy nhứt đêm ấy, di cư vào Nam – sực nhớ ra, và thuật lại.
Tương Biệt Dạ
Hiu hắt trăng khuya lạnh bốn bề
Ý sầu lên vút tới sao Khuê
Quý thay giây phút gần tương biệt
Vương vấn người đi với kẻ về
Ngồi suốt đêm trường không nói năng
Ngậm ngùi chén rượu ánh vừng trăng
Người xưa lưu luyến ra sao nhỉ
Có giống như mình lưu luyến chăng
Đã tắt lò hương lạnh phím đàn
Thư phòng sắp sẵn để cô đơn
Trời cao mây nhạt ngàn sao rụng
Một giải sương theo vạn dặm buồn
Sớm biệt ly nhau không nhớ nhau
Nửa đêm chợt tỉnh bỗng dưng sầu
Trăng mùa xuân đó ai tâm sự?
Anh đã xa rồi, anh biết đâu.
(Hà Nội – mùa xuân 1939)
******
02. TƯƠNG BIỆT DẠ – BÀI THƠ VIẾT VỀ BUỔI CHIA TAY CỦA ĐÔI BẠN KHÁI HƯNG VÀ NHẤT LINH
Tiệc rượu đêm này, được tổ chức cho Khái Hưng chia tay Nhất Linh. Hai người vốn có một tình bạn thân thiết hơn cả anh em ruột thịt, vì thế, nên buồn. Mà người buồn thì cảnh có vui đâu bao giờ: Hiu hắt trăng khuya lạnh bốn bề / Ý sầu lên vút tới sao Khuê / Quý thay giây phút gần tương biệt / Vương vấn người đi với kẻ về.
Sầu mà mô tả, vút tới sao trên trời, nghĩa là sầu đã lắm lắm rồi đó. Cộng thêm với từ “tương biệt”, khiến cảnh và người cứ man mác, bâng khuâng những niềm không rõ. Nào có đâu ai đặt đá tảng vào lòng, mà vẫn cứ nghe nỗi buồn nằng nặng.
Chỉ có bảy người trong tiệc rượu thôi, mà bà Thạch Lam, qua sáng ngày hôm sau, đếm được cả thảy mười một vỏ chai rượu. Để uống đến độ như vậy, hẳn là họ đã phải trải qua một cơn buồn lắm lắm: Ngồi suốt đêm trường không nói năng / Ngậm ngùi chén rượu ánh vừng trăng / Người xưa lưu luyến ra sao nhỉ / Có giống như mình lưu luyến chăng.
Buồn thì thường đi liền với cô đơn, với lạnh lẽo, với quạnh hiu, trống vắng: Đã tắt lò hương lạnh phím đàn / Thư phòng sắp sẵn để cô đơn / Trời cao mây nhạt ngàn sao rụng / Một giải sương theo vạn dặm buồn.
Cái câu “anh đã xa rồi, anh biết đâu”, theo tôi, cũng là một câu hay. Anh đây là chỉ Nhất Linh. Anh đã lên đường rồi, anh có biết cho chăng, chúng tôi, những người ở lại, nhớ anh, và lo lắng cho anh, biết là chừng nào.
Nguyễn Tường Tam, tức Nhất Linh, không chỉ mang con trai mình cho bạn làm con nuôi, đổi tên từ Nguyễn Tường Triệu thành Trần Khánh Triệu, con của Trần Khánh Giư, tức Khái Hưng, vì Khái Hưng hiếm muộn, không có con, mà hai ông Nhất Linh và Khái Hưng còn viết chung nhiều tác phẩm xuất sắc, để lại cho đời sau như: Anh Phải Sống, Gánh Hàng Hoa và Đời Mưa Gió.
Thật ít có một tình bạn văn nào đẹp, đồng điệu, thân thiết, tri kỷ đến như vậy, xưa nay.
******
IV. BÀI THƠ TÌNH SẦU
01. TÌNH SẦU – ĐƯỢC NHIỀU THẾ HỆ YÊU THÍCH
Bài Tình Sầu của Huyền Kiêu được rất nhiều người thuộc thế hệ sau ông, yêu thích và trích dẫn.
Trích dẫn, hoặc chép ra toàn bài khơi khơi vậy thôi, chớ thực tình, tôi cũng chưa thấy ai phân tích hoặc bày tỏ lý do vì sao mình thích. Chỉ là thấy dễ thương, chỉ là thấy rất thơ, nên thích.
Mà nói cho cùng, một bài thơ, sau khi hoàn thành, tác giả nào cũng chỉ mơ được như thế thôi, nghĩa là, được như bài Tình Sầu của Huyền Kiêu, được đông đảo bạn thơ ưa chuộng, được truyền tụng đến nhiều thế hệ sau.
Hiểu được thì tốt. Không hiểu, cũng chẳng sao. Thơ là thế mà. Bản chất thơ là thế mà.
Thơ, bất khả giải.
**
TÌNH SẦU
Xuân hồng có chàng tới hỏi:
– Em thơ, chị đẹp em đâu?
– Chị tôi hoa ngát cài đầu
Đi hái phù dung trong nội
Hè đỏ có chàng tới hỏi:
– Em thơ, chị đẹp em đâu?
– Chị tôi khăn thắm quàng đầu
Đi giặt tơ vàng trong suối
Thu biếc có chàng tới hỏi:
– Em thơ, chị đẹp em đâu?
– Chị tôi khăn trắng ngang đầu
Đi hát tình sầu trong núi
Đông xám có chàng tới hỏi
– Em thơ, chị đẹp em đâu?
– Chị tôi hoa phủ đầy đầu
Đã nghỉ trong hầm mộ lạnh.
(Hà Nội mùa thu 1938)
******
02. BÀI THƠ CHỨA ĐỦ BỐN MÙA, XUÂN, HẠ, THU, ĐÔNG
Theo thiển ý tôi, ở những năm bốn mươi của thế kỷ hai mươi, tức là, đã cách cho đến nay bốn thế hệ, mà, làm được một bài thơ như vậy, viết được một bài thơ như vậy, tôi cho là quá tài.
Huyền Kiêu quá tài.
Bài thơ lạ. Lạ không chỉ ở tứ thơ, ý thơ, mà còn lạ ở cách trình bày, tức là cách sắp xếp, tức là bố cục thơ.
Bốn khổ thơ là thứ tự của bốn mùa xuân, hè, thu, đông. Xuân thì hồng. Hè thì đỏ. Thu thì biếc. Đông thì xám. Và, duy nhất, đến rồi đi, đi rồi quay trở về, bốn mùa ấy, chỉ mỗi một chàng trai.
Cùng hai nhân vật còn lại, là hai chị em. Người chị luôn không có mặt khi chàng trai đến. Và kẻ xưng tôi, là em của cô gái, cũng là người trả lời các câu hỏi của chàng trai.
******
03. ĐI HÁI PHÙ DUNG TRONG NỘI
Mùa xuân, mùa đẹp nhất của đời người, chị của em bé chắc lúc ấy cũng chỉ ở khoảng tuổi mười bốn, mười lăm. Tuổi của hoa mộng. Tuổi của ước mơ. Con gái quê, nào sẵn đâu son phấn, muốn làm đẹp, chỉ biết hái đóa hoa cài lên tóc. Và đứa em ngây thơ, trả lời, chị còn đang đi hái phù dung, nội đâu đó quanh nhà.
Tuổi còn xuân, mùa xuân, sao không đi hái hoa xuân như hoa mơ, hoa mận, như trong bài hát Gái Xuân do Từ Vũ phổ thơ của Nguyễn Bính, mà lại đi hái phù dung nhỉ?
Phù dung, sớm nở tối tàn, hay ý Huyền Kiêu muốn ví, làm thân con gái, giống đóa hoa, vừa nở đẹp sớm mơi, chớm khuya đã lụi tàn: Xuân hồng có chàng tới hỏi: / – Em thơ, chị đẹp em đâu? / – Chị tôi hoa ngát cài đầu / Đi hái phù dung trong nội.
Chàng trai hỏi, rồi đi. Vẻ như cái hỏi ấy chỉ là một sự thăm chừng. Tại sao thăm chừng mà không đi tìm gặp? Cũng không rõ. Có thể, vì nàng khi ấy còn bé quá chăng, hay, vì chàng trai khi ấy còn đang nhiều vướng bận, chưa thể nghĩ đến tình riêng?
******
04. ĐI GIẶT TƠ VÀNG TRONG SUỐI
Mùa hè tới. Oi bức. Hanh nồng. Bầu trời đỏ một màu chói chang, khó chịu. Chị, lúc này, đã không còn tuổi bé thơ. Chị đã lớn, đã biết trồng dâu, nuôi tằm, lấy tơ, dệt lụa. Và lúc chàng trai ghé đến, chị đang ngoài suối giũ tơ: Hè đỏ có chàng tới hỏi: / – Em thơ, chị đẹp em đâu? / – Chị tôi khăn thắm quàng đầu / Đi giặt tơ vàng trong suối.
Khăn quàng đầu là để giữ cho mái tóc đừng xổ tung khi làm việc. Khăn quàng đầu là còn để che mát lúc trời nắng nôi. Chị trưởng thành rồi. Chị đã có thể nuôi em và tự chăm sóc mình. Vậy mà hỏi xong, anh ấy lại đi. Sao không đi kiếm chị mình nhỉ. Hẳn đứa em thắc mắc lắm. Nhưng biết hỏi gì bây giờ. Chắc có những lý do riêng không tiện nói. Thì đành vậy, chớ biết làm sao hơn.
******
05. ĐI HÁT TÌNH SẦU TRONG NÚI
Mùa thu, mùa hoàng hôn, mùa úa tàn, xế chiều, nắng tắt. Chị không còn trẻ nữa. Sau bao chờ đợi, chị đã thôi hy vọng. Và, chị buồn. Câu trả lời của đứa em cũng buồn, và, dường như, có chút trách thầm, nhè nhẹ: Thu biếc có chàng tới hỏi: / – Em thơ, chị đẹp em đâu? / – Chị tôi khăn trắng ngang đầu / Đi hát tình sầu trong núi.
Sao lại là khăn trắng ngang đầu? Cô ấy để tang cho cha mẹ vừa mới mất hay để tang cho chính cuộc tình mình? Một mình thơ thẩn vào núi sâu, hát những câu hát sầu cho núi nghe, cho chính mình nghe. Đứa em, vẳng nghe tiếng hát sầu của chị, chắc nó cũng buồn lắm. Nhưng hỏi chàng trai, thì nó vẫn không. Nó lờ mờ hiểu ra, rằng những quan tâm của người đàn ông ấy chỉ là những ái ngại, kiểu như, thấy mình có lỗi, khi mà, họ đã đâu đó, yên bề gia thất rồi.
******
06. ĐÃ NGHỈ TRONG HẦM MỘ LẠNH
Mùa đông, mùa lạnh giá. Có đôi, có cặp thì còn ủ ấm nhau trong những ngày rét mướt. Còn chị, chị một mình, mòn mỏi. Và chị thôi, chị không muốn kéo dài thêm những ngày đơn côi, lầm lũi nữa. Chị trao hết lại cho em, giao hết lại cho em, cậy nhờ em hương khói giùm cha mẹ: / Đông xám có chàng tới hỏi / – Em thơ, chị đẹp em đâu? / – Chị tôi hoa phủ đầy đầu / Đã nghỉ trong hầm mộ lạnh.
Mình là người dưng thôi, nghe câu trả lời của đứa em mà còn muốn rớt nước mắt, huống hồ, người đàn ông, tóc chắc cũng đã bạc trắng kia. Kiếp người, sao mà buồn đến thế. Hẳn là sau lần này, người đàn ông cũng không còn tìm đến nữa đâu. Ông ấy dù đau đớn nhưng đã yên lòng rồi. Từ đây, người con gái mà ông đem lòng yêu từ thuở còn thơ ấy, sẽ không còn bơ vơ, không còn phải một mình một bóng nữa.
Và, biết đâu, trên đường quay về, ông ấy sẽ ghé ngang qua hầm mộ, đốt nén hương trầm thơm và lầm rầm khấn vái, đợi anh, em nhé, chúng mình kiếp sau.
******
V. TÌNH SẦU LÀ MỘT BÀI THƠ ĐẸP, NHƯNG RẤT BUỒN
Tình Sầu là một bài thơ rất buồn. Đẹp, nhưng buồn.
Tất cả các nhân vật trong bài thơ đều buồn. Thảy, đều lặng lẽ, và mỗi người, tự buộc vào mình những nhận mang, những cố nén.
Không chỉ nhân vật, mà tình tiết thơ, mà từ ngữ thơ, cũng sẫm một màu buồn như thế. Buồn lắm. Buồn thắt thẻo cả ruột gan, dẫu hình ảnh mà tác giả tạo dựng lên rất thơ, rất mơ: phù dung, tơ vàng.
Bàng bạc suốt bài thơ là sự sống tưởng tươi vui mà lại rất mỏng manh, tưởng căng tràn sức sống mà lại héo hắt, úa tàn: trong nội, trong suối, trong núi, trong hầm mộ lạnh.
Đời, có bao giờ được như ước mơ đâu.
Thế nên, đời mới sầu. Thế nên, tình cũng sầu. Và bài thơ mang tên Tình Sầu, là vậy đó.
******
VI. HUYỀN KIÊU, CHA ĐẺ CỦA TỪ “CHỊ ĐẸP”
Tình Sầu được nhạc sĩ Việt Dzũng phổ thành ca khúc mang tên Thu Vàng Có Chàng Tới Hỏi và nhạc sĩ Phạm Duy thì phổ thành ca khúc Ngày Xưa Một Chuyện Tình Sầu.
Trên facebook cũng như trong các giao dịch thư tín, trò chuyện đời thường, người ta hay dùng ái ngữ, chị đẹp ơi, em đẹp à. Tôi cho rằng, cha đẻ của ái ngữ này, chính là nhà thơ Huyền Kiêu với bài thơ Tình Sầu, độc nhất vô nhị, của ông.