PHỐ CỔ – MÙA XUÂN

 

nguyenvanthien

(Gởi Hội An)

Ngỡ xuân quên lối xưa về phố cổ
Rêu loang tường ray rứt đợi mùa xanh
Lời yêu muộn đôi sẻ già thổ lộ
Tiếng chuông rơi gương giếng ngọc tan tành

Căng sợi buồn hong cho khô nỗi nhớ
Ta về tìm chút nắng ngọt xuân xưa
Chiều cuối năm gió tung hoàng hôn vỡ
Đếm tuổi nhau chong nến đợi giao thừa

Hẹn trăm năm ngu ngơ hồn chó đá
Hiên Chùa Cầu tai vểnh lắng lời kinh
Xuân từ bi đất trời cho phép lạ
Ngàn hoa may áo mới tặng dâng tình

Hồn thơ dại tạch đùng theo pháo tép
Chợt tim đau tiếng mọt nghiến hiên nhà
Xe thổ mộ chở xuân về phố hẹp
Vó ngựa già lốc cốc động thềm hoa

NGUYỄN VÂN THIÊN

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, “Chúng tôi như rắn mất đầu.”

nuocmattruocconmua

larryengelmann
NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, nguyên tác Anh Ngữ “Tears Before The Rain” là một tập sử liệu về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam, do Larry Engelmann, Giáo Sư Đại Học San Jose State thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn nhiều thành phần: người Mỹ, người Việt, kẻ thắng người bại …Những cuộc phỏng vấn này khởi sự từ 1985, sách xuất bản năm 1990. Bản dịch Việt Ngữ do nhà văn Nguyễn Bá Trạc thực hiện năm 1993, xuất bản năm 1995 tại California.
PHẠM VĂN XINH
(Sĩ quan An ninh, Sư đoàn 2 Bộ binh)
“Chúng tôi như rắn mất đầu.”

Tôi ở Đà Nẵng khi nơi này rơi vào tay Cộng sản. Bấy giờ tôi là Sĩ quan An ninh thuộc Sư đoàn 2 Bộ binh. Tôi đã phục vụ trong quân ngũ kể từ năm 1968. Chúng tôi đóng ở Tam Kỳ, nhận được lệnh ra Đà Nẵng. Nhưng vừa đến Đà Nẵng, ra khỏi tàu thì chúng tôi được biết ngay là các sĩ quan chỉ huy của chúng tôi đã lấy tàu khác vào Nam cả rồi. Chúng tôi bị bỏ rơi. Chúng tôi không biết phải làm gì. Không biết đi đâu. Chúng tôi hệt như rắn mất đầu.

Một số quân nhân lên những chuyến tàu của người tỵ nạn chạy vào Nam. Tôi không làm như vậy. Tôi rất sợ hãi bởi vì tôi biết rõ vụ tàn sát Mậu Thân ở Huế, lúc ấy Cộng sản đã giết hàng ngàn người Việt. Chúng tôi nghĩ chúng sẽ tái diễn việc này, chúng sẽ giết các quân nhân trước tiên. Vì vậy chúng tôi vứt quân phục, thay đổi quần áo thường dân.

Đến Đà Nẵng, lúc đầu Cộng sản không có hành vi gì ghê gớm. Không bắt bớ, cũng không đưa ai vào tù. Nhưng chỉ vài ngày sau, chúng tôi khám phá ra Cộng sản có một danh sách những người cộng tác với Mỹ. Cộng sản gọi những người này là bọn phản bội, chúng nói những người này là thành phần tối nguy hiểm. Tôi không rõ có bao nhiêu tên người trên danh sách, nhưng tôi thấy nhiều người bị bắt. Những người có tên trong danh sách đặc biệt bị bắn tại chỗ, ngay trên đường.

Cộng sản nói những người này không đáng sống. Việc ấy không giống chuyện hành quyết, mà giống những vụ sát nhân trên đường phố. Chúng không cần đưa họ đi đâu, như ở Huế. Hễ tìm thấy những người ấy ở đâu, chúng giết ngay ở đó.

Tôi đã nhìn tận mắt vài người bị bắn như thế. Bọn Cộng sản không hề có lòng thương xót. Hoàn toàn không. Tôi rất sợ, bởi vì tôi là một quân nhân, tôi nghĩ tên tôi đã nằm trong danh sách của chúng rồi.

Tôi yên tâm hơn khi bỏ quân phục mặc quần áo thường dân. Nhưng Đà Nẵng là quê quán của tôi, nhiều người trong xóm biết tôi ở trong quân đội. Tôi không thể giấu giếm được. Tôi lại biết có kẻ có thể đem nạp tôi mà lấy lòng Cộng sản, vì thế tôi rời sang một khu phố khác trong thành phố, tìm nơi không ai quen biết. Nhưng có kẻ đã cho tên tôi, nên Cộng sản đến kiếm. Chúng có một danh sách trong đó có tên tôi. Tôi cảm thấy rất nhục nhã khi bị bắt. Tôi nghĩ đáng lẽ tôi cứ mặc quân phục. Tôi nghĩ đáng lẽ tôi phải chống trả. Nhưng không còn chỉ huy, cũng không có lệnh lạc gì nữa, vì vậy làm sao tôi chiến đấu được.

Cộng sản gửi tôi đến vùng Kinh tế mới. Tôi ở đấy sáu năm. Tôi rất căm ghét. Tôi biết khi có cơ hội là tôi rời Việt Nam ngay. Nhưng tôi không có tiền. Muốn lên tàu phải có tiền.

Năm 1983 trở lại Đà Nẵng tôi gặp được một người có tàu. Tôi bảo người này rằng tôi nhận làm tài công nếu anh ta đưa tôi ra khỏi Việt Nam. Tôi bảo tôi sẽ tìm thêm những người khác trả tiền cho anh. Người này đồng ý giúp. Tôi kiếm được hai mươi hai người muốn rời Việt Nam, những người này chịu trả tiền cho chủ tàu. Chúng tôi đi vào một đêm tháng Chạp, năm 1983, giương buồm tới đảo Hải Nam. Người Trung Quốc tại đây đã giúp đỡ chúng tôi. Họ cho chúng tôi đồ ăn và nước ngọt. Rồi chúng tôi đến được Hồng Kông. Chúng tôi đã lênh đênh trên mặt biển hai mươi bốn ngày.

Ngày nay tôi là một người tự do.

SINH NHẬT

haingu

Hãy tỉnh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn.
Matthêu, 26:41

“Happy Birthday!”
Thy tất tả xuống cầu thang, vừa sải bước đến phòng ăn, nàng đã nghe lời chúc sinh nhật của chồng. Bình và hai con đang ngồi ăn sáng ở bàn ăn. Hình như thoáng nghe tiếng chân, Bình đã vồn vã chúc mừng sinh nhật vợ. Thy liếc nhanh vào chiếc đồng hồ Ômega treo nơi cổ tay: đã 7 giờ. Thế này thì trễ mất, Thy lẩm bẩm. Vì mải chú ý đến giờ giấc, Thy đón nhận lời chúc sinh nhật của chồng một cách hờ hững. Nàng chỉ khẽ gật đầu chào Bình rồi nhìn vào đồng hồ, mặt lộ vẻ lo lắng. Còn Bình, thấy vợ thờ ơ và có vẻ vội vàng, chàng cũng chẳng nói thêm gì, quay trở lại với công việc cố hữu hằng ngày là lo cho hai đứa con gái.
Sự trễ tràng sáng nay chỉ vì Thy quên bật đồng hồ báo thức. Nàng thức khuya sắp xếp hành trang rồi mệt quá nằm vật ra giường ngủ lúc nào không hay. Thế mà Bình chẳng mau mắn đánh thức nàng dậy. Chồng với con, thật vô tích sự, Thy lẩm bẩm. Thy tính nhẩm đoạn đường lái xe mất 2 tiếng rưỡi; đúng 10 giờ sáng nàng hướng dẫn chương trình tu nghiệp kéo dài 2 ngày cho những nhân viên được tuyển chọn của công ty từ khắp nơi đổ về. Nàng phải đến địa điểm trước 9:30 sáng để sắp xếp công việc, có nghĩa là là ngay bây giờ nàng phải khởi hành ngay. Nàng hối hả uống vội ly cà phê Bình pha sẵn, và vội vàng ăn vài miếng bánh mì với trứng ốp-la. Ăn với uống làm gì nữa, phải bỏ hết ngay, nàng thầm nghĩ. Thy phải ra xe lập tức nếu không nàng sẽ trễ buổi huấn luyện nghiệp vụ mất.
Thy lên đường vào đúng ngày mùng Một Tết nhưng hai ngày huấn luyện quan trọng này ảnh hưởng đến bước đường hoạn lộ của nàng. Nó đánh dấu những nấc thang danh vọng đang chờ đợi gót chân ngà của nàng tung tăng đếm bước trong công ty Mallen Stimulus; một công ty chuyên đầu tư bạc tỷ vào thị trường chứng khoán. Đợt huấn luyện nội bộ này lại càng quan trọng vì chính nàng là giảng viên trong 2 ngày với đề tài, “Làm Thế Nào Để Đầu Tư Có Lợi Trong Giai Đoạn Kinh Tế Khó Khăn.” Bằng bất cứ giá nào Thy không thể nào trễ giờ khai mạc, khi các học viên – những tay quản giám (manager) công ty – đổ về thụ huấn trong hai ngày thứ Sáu & thứ Bảy.
Mải chú ý đến thời gian cấp bách Thy quên bẵng lời chúc của Bình cho đến khi con Măng và con Rốt nhao nhao chúc sinh nhật mẹ nàng mới bừng tỉnh. Thy cúi đầu hôn lên tóc con nói ngày mai mới sinh nhật của mẹ cơ mà. Chúng nhao nhao trả lời ngày mai mẹ về nhà không, con chúc mẹ trước. Lảng câu hỏi của con, Thy quay sang chồng, giọng vội vã:
– Anh lên lầu lấy cái vali xuống cho em ngay đi.
Đang ngồi ăn, Bình đứng dậy, thong thả bước về phía cầu thang.
– Nhanh chân lên anh. Trễ giờ mất rồi.
Thy bỏ dở bữa ăn sáng, xô ghế dứng dậy. Nàng lại xoa xoa đầu 2 con nói mẹ đi đây rồi bước vội về phía cửa. Bình đang đứng đợi nàng ở chân cầu thang, chiếc vali đặt dưới chân.
– Ngày mai em về nhà lúc mấy giờ?
– Em chưa biết. Vẫn còn tùy công việc.
– Nếu về kịp thì bố con tổ chức sinh nhật cho em. Với lại ngày mai là mùng Hai Tết.
Thy chỉ muốn ra xe gấp, trong khi Bình cứ hỏi gặng về giờ giấc, và tiệc sinh nhật, lại còn tết với nhất. Nàng không còn thì giờ để nghĩ đến bất cứ chuyện gì, ngay lúc này. Thy sẵng giọng:
– Thôi… thôi, bỏ sinh nhật đi. Em đã trễ giờ mà anh cứ hỏi hoài.
Bình nhỏ nhẹ:
– Thì thôi.
Thy cằn nhằn:
– Sáng ngủ quên mà anh cũng không đánh thức em dậy.
– Em không dặn làm sao anh biết.
– Cái gì anh cũng không biết, không biết. Riết rồi trong nhà chỉ mình em biết.
Bình im lặng không trả lời. Bao giờ cũng vậy, hễ Thy lên giọng thì chàng xuống giọng. Mà hình như chưa bao giờ chàng lên giọng với Thy cả. Sự nhẫn nhục cố hữu của chàng như một bản năng thiên phú. Bình chưa bao giờ bẳn gắt chứ đừng nói nổi giận. Chàng nhỏ nhẹ, nhàn nhã như một thư sinh thời cổ thảnh thơi với thơ túi rượu bầu.
Đẩy cửa bước ra nhà xe, Thy còn gắt:
– Chồng con thật chán. Còn anh, anh cù lần vừa vừa cho em nhờ.
Tiếng cửa nhà xe sập xuống mà Bình vẫn còn đứng tần ngần ở cửa. Chàng vẫn không hiểu Thy lại có thể bẳn tính sáng nay chỉ vì dăm ba phút trễ việc. Đối với chàng, cứ để mọi việc từ từ trôi, lo đến mấy cũng vậy. Trễ thì đã sao, ngay cả bây giờ trời sập chàng vẫn bình thản. Tâm tư chàng êm đềm như mặt nước hồ Thu, bình thản như dòng suối len qua kẽ đá trôi róc rách vào đầu Xuân. Khác hẳn với Thy, con người hoạt bát, khéo ăn nói, năng nổ. Nghĩ suy của Thy sôi động như nước lũ, tâm trí nàng chỉ ngưng hoạt động lúc nằm ngủ.
Vào phòng ăn, Bình thấy mặt hai đứa con gái buồn hiu. Cả hai đứa bỏ ăn, mặt phụng phịu:
– Mẹ đi, mẹ không hôn con. Giận mẹ…

Đoạn đường từ nhà đến nơi tu nghiệp dài khoảng 120 dặm nhưng vì khởi hành lúc giờ cao điểm nên Thy tính nhẩm phải mất hai tiếng rưỡi mới đến nơi. Chiếc xe BMW kiểu 750i bon bon trên xa lộ, bảo đảm đưa nàng đến nơi đến chốn đúng giờ. Thy chăm chú lái xe nhưng đầu óc nàng vẫn lẩn quẩn suy nghĩ về chồng. Đôi lúc nàng vẫn không hiểu nổi Bình, một người đàn ông hiền hòa đến độ không thể hiểu nổi. Bình nhìn đời bình thản như một kẻ bàng quan. Hình như trên đời này không có gì quan trọng đối với chàng. Bình hầu như đứng bên lề cuộc sống, chứ không như Thy, vùng vẫy theo dòng đời. Chuyện gì đến sẽ đến, chàng thường bảo Thy, lo lắng làm gì cho lao tâm khổ trí. Trong khi Thy sôi nổi với những ý nghĩ trong công việc, bận bịu với việc học hành của con cái, lo toan tương lai sẽ ra sao nếu lỡ hai vợ chồng bất đắc kỳ tử, Bình cười cười nhìn vợ:
– Em cứ lo xa. Trời sinh trời dưỡng.
Thy trợn mắt:
– Trời đâu rảnh nhảy vào chỗ này. Anh không lo thì ai lo đây?
Mãi rồi Thy cứ tất tả lo lắng chu toàn mọi chuyện từ trong ra ngoài, mặc kệ chồng với bản tính vô tư. Thy đã có lúc bảo chồng:
– Sao bố mẹ anh đặt tên Bình cho anh khéo thế. Bình thường, bình thản, bình tâm, bình dị… còn bình gì nữa không?
Bình nheo mắt:
– Bình chồng của Thy.
Thật hết chỗ nói. Thy nghiêm chỉnh bàn chuyện, thế mà Bình cứ mãi… bình thường. Hai vợ chồng khác biệt đến vậy, thế mà Thy đã yêu Bình, yêu say đắm không ngờ. Vừa lái xe vừa suy nghĩ lan man, Thy nhớ đến chuyện tình gần 10 năm về trước…
Thy đến dự tiệc kỷ niệm ngày cưới 10 năm của người chị ruột. Nói là tiệc nhưng chỉ là bữa ăn tối tại gia với đầy đủ bà con thân thuộc. Bình là một trong số khách được mời, bà con xa của ông anh rể. Dáng cao ráo, thân hình khá vạm vỡ, tóc lòa xòa trước trán, cặp kiếng cận, trông Bình không có gì nổi bật giữa đám đông gần 30 người. Nếu ai dễ tính thì cho chiều cao của chàng là điểm nổi bật nhất. Chiều cao 1m69 của Thy là điểm đáng tự hào, thế mà lúc được ông anh giới thiệu, nàng phải ngước mắt lên để nhìn vào đôi mắt đen láy pha lẫn chút mơ màng của một kẻ bất cần đời.
Phòng khách rộng rãi gần như một đại sảnh, chủ nhà kê ba chiếc bàn dài phủ vải trắng tinh. Ba chậu bông tươi cắm xen kẽ với những cành dừa uốn cong được cắt tỉa gọn gàng theo trường phái Nhật. Các món ăn bày la liệt trên bàn xen lẫn những chai rượu vang đắt tiền. Thực đơn gần chục món và mười mấy chai rượu đỏ chiêu đãi từng ấy thực khách chứng tỏ ông anh rể thật hào phóng trong ngày kỷ niệm 10 năm tình nghĩa vợ chồng. Ông xếp Bình ngồi đối diện với Thy, cách nhau một chai vang và đĩa tôm hùm đỏ quạch. Mọi người ăn uống, chuyện trò vui vẻ. Bình ăn nhỏ nhẹ, từ tốn nhắp một chút rượu, chậm rãi nghe chuyện, thỉnh thoảng chàng gật gù góp lời. Bình hòa mình vào đám đông, lẫn vào thực khách như một con cắc kè thay đổi màu da tiệp với môi trường. Dưới mắt Thy, Bình bình thường như hàng trăm đàn ông trước đây nàng đã gặp trên trường đời. Có một lúc, Thy dừng ánh mắt nơi Bình và chợt nhớ ông anh rể có giới thiệu với nàng ngay từ đầu buổi tiệc. Lúc đó, Bình nhìn thẳng vào khuôn mặt Thy và cặp mắt chết sững. Chàng nhìn Thy trân trân không chớp mắt. Thy không lạ gì phản ứng của đàn ông lạ khi đối diện với nàng. Bình không phải là người đàn ông đầu tiên bị khuôn mặt của nàng cuốn hút và chắc chắn cũng không phải là người đàn ông cuối cùng. Không phải họ ném ánh mắt sỗ sàng với cái nhìn đầy soi mói, nhưng là ánh mắt ngây dại dán chặt lấy khuôn mặt và quên bẵng lịch sự tối thiểu của người đàn ông khi đối diện với phụ nữ. Nhìn chằm chằm vào mặt một phụ nữ chưa từng quen biết là điều cấm kỵ trong phép lịch sự tối thiểu mà đàn ông phải tránh. Sỡ dĩ ánh mắt họ không cưỡng lại được chỉ vì…
Chỉ vì Thy quá đẹp.
Trong 4 chị em gái, Thy là con út và duyên dáng nhất. Ngoài vầng trán hơi nhô ra phía trước biểu hiện sự ương ngạnh và bướng bỉnh, còn tất cả những bộ phận khác trên khuôn mặt Thy là điều mơ ước của nhiều phụ nữ. Tuy trán hơi gồ nhưng bù lại hai chân mày xa nhau; đậm về phía mũi và nhạt dần về phía thái dương. Bộ lông mày phất lên khuôn mặt như hai nét cọ cuối cùng của nhà danh họa vung tay trên tấm vải lụa khi nguồn cảm hứng trào dâng cuồn cuộn. Đôi mắt Thy mới tuyệt vời. Tròn nhưng không tròn vo, to nhưng không lồi, ươn ướt nhưng không ướt rượt. Ông thầy tướng số có lần bảo mắt Thy là phượng nhãn, một quý tướng của phụ nữ. Mắt phượng hiếm thấy ở người đàn bà, vì ngoài những đặc điểm căn bản như đuôi mắt dài, tròng đen nhiều hơn tròng trắng, và trắng đen phải phân minh, không hề có màu xám đục, bộ lông mày phải chạy viền đều với cặp mắt, thì mới được xem là phượng nhãn. Thy có bộ lông mày “ăn” với đôi mắt như thế. Thật ra cặp mắt của Thy còn điểm thêm chút long nhãn vì đôi mắt có lúc toát ra uy lực để khuất phục đối phương trên thương trường. Tia mắt lóe lên ánh thép khi đàn ông dở thói sàm sỡ hoặc cợt nhã quá trớn. Nghị lực, cứng đầu, bướng bỉnh lộ ra trong ánh mắt long nhãn, nhưng lại trìu mến, thiết tha, say đắm trong đôi mắt phượng.
Làn môi dày cong cong như lúc nào Thy cũng nũng nịu muốn hôn. Đàn bà gợi cảm ở làn môi dày. Cặp môi mỏng lét tuy không xấu nhưng thế gian chưa bao giờ có người phụ nữ đẹp mỏng môi. Nếu có đẹp đi chăng nữa thì sắc đẹp cũng giảm hơn nửa, vì thiếu cân xứng. Có người trời ban cho làn môi dày nhưng vành môi lại mờ nhạt, chưa kể hai khóe môi lại úp xuống trông như chiếc thuyền bị lật. Điều này tối kỵ trong sách tướng. Khóe môi Thy hơi vểnh lên một chút, một chút thôi, đủ làm nụ cười treo lơ lửng như vầng trăng hạ tuần. Vành môi Thy rõ nét, phân biệt hẳn giữa nhân trung và miệng. Đường rãnh của nhân trung sâu trũng làm nổi bật cánh mũi nở nang đều đặn. Sống mũi thẳng tắp, chạy đến chuẩn đầu thì vun đầy, hợp với hai cánh mũi trông như chóp núi. Gò má đầy, khá cao, mịn màng với làn da trắng hồng. Mà hình như hồng nhiều hơn trắng, nghĩa là Thy không cần đánh phấn, chính những sơi gân máu li ti chạy chằng chịt dưới lớp biểu bì làm đôi má lúc nào cũng ửng hồng.
Các cụ bảo phụ nữ cũng có ngũ trường như nam giới. Riêng Thy chỉ có tam trường, thân hình, tay, và chân. Cặp giò của Thy nếu thi điền kinh không chừng đoạt giải nhảy xa hay nhảy cao vì nó dài ngoẵng. Cứ nghĩ nàng chỉ cần nhún người là nhảy qua sà ngang cao 2m dễ dàng. Với chiếc đầm ngắn nửa đùi, Thy hãnh diện khoe cặp giò thuôn thuôn mà vị tất các cô hoa hậu đánh bại được nàng. Thân hình Thy thuộc loại mình dây. Loại người rom rom như nàng không hề biết mập là gì. Hiếm có phụ nữ trường túc đi với mình dây, Thy lại được cả hai. Tấm thân mảnh mai của Thy lại căng phồng đúng chỗ, và thon thả đúng nơi. Kích thước của Thy đo đúng 95cm ở vòng 1 và vòng 3, riêng vòng eo cỡ 60cm cho dù nàng ăn uống tương đối thoải mái chẳng hề kiêng khem. Mỗi lần đi vào phòng tập thể dục với bộ đồ chẽn ôm sát thịt da, mỗi bước chân của Thy đều kéo theo biết bao nhiêu cặp mắt đỡ đẫn của bọn đàn ông. Bằng đuôi mắt, Thy thấy hết những cái nhìn sỗ sàng, những ánh mắt lén lút và nàng vờ đi như không biết. Có lúc, nàng cố bắt nọn bằng cách bất ngờ quay lại, lừ cặp mắt, thế là đám đàn ông vội vàng quay đi, ngó lơ, hoặc cúi gầm mặt che dấu vẻ ngượng ngùng.
Thy biết nàng đẹp, nên khá khó tính trong tình trường. Nàng như một cao thủ võ lâm, đang tìm kiếm một cao nhân để thi thố tài nghệ cho thỏa lòng. Thy mong đợi gặp được người đàn ông khuất phục được nàng; bằng tài năng, bằng nhân cách, hoặc bằng tiền bạc… thế mà nàng vẫn cứ đợi mãi. Tuổi 28 như nàng vẫn còn xoan nhưng cứ nghĩ đến số tuổi gần ba mươi mà chưa gặp được người nào vừa ý, đôi lúc Thy cũng không ngăn được tiếng thở dài. Thy chỉ thoáng thở dài rồi lại quên ngay vì công việc thường ngày đã cuốn hút tất cả thì giờ của nàng. Mãi đến hôm nay, gặp Bình, Thy vẫn dửng dưng. Nàng dửng dưng trước vẻ bình thường chẳng có một đặc điểm nào của người đàn ông có liên hệ xa gần với ông anh rể. Nhưng Thy lầm, những gì sắp xảy ra sau buổi tiệc đã hoàn toàn lột xác cuộc đời của nàng. Nó như cơn bão lửa thổi tan lớp băng giá phủ kín trái tim nàng từ bấy lâu nay.
Tiệc gần tàn, bà chị Thy mời tất cả mọi người sang phòng giải trí. Căn phòng rộng rãi chứa đựng toàn những dụng cụ âm thanh. Choán nửa bức tường là khung hình cỡ 120 phân tây, đặt chìm trên trần, được cuốn lên và thả xuống hoàn toàn tự động, dùng để xem phim từ chiếc máy phát gắn trên trần nhà. Hai cặp loa đặc chế cao nghễu nghện đặt hai bên, và những loa nhỏ gắn chìm trong tường cả gần chục cái. Băng nhạc, máy móc xếp đầy một tủ đứng. Góc phải kê một chiếc dương cầm Baldwin. Ngay bên cạnh, chiếc tủ đứng treo lơ lửng 2 chiếc đàn guitar lớn nhỏ trông như cặp vợ chồng sánh vai và nằm kiêu sa trên kệ là chiếc hộp vĩ cầm sáng rực màu đen bóng lưỡng nhờ ngọn đèn gắn chìm trên trần tủ. Đợi khách yên vị, ông anh rể lên tiếng:
– Nào, mời chú Bình cho mọi người thưởng thức tài nghệ đi chứ.
Bình xoay xoay ly rượu trong tay, vẻ ngần ngừ. Bà chị đưa đẩy vài câu rồi Bình cũng đứng dậy, tiến về phía chiếc dương cầm. Chàng khoan thai ngồi xuống thử vài nốt nhạc rồi bắt đầu dạo đàn. Bình mới dạo khúc nhạc ngắn overture, Thy bỗng giật mình. Chỉ chừng nửa phút sau nàng ngạc nhiên thật sự. Đây là bản giao hưởng của Maurice Ravel cung D mà nàng đã khổ công luyện tập từ thời thiếu nữ. Thy say mê piano từ thuở nhỏ. Nàng bỏ thì giờ tập luyện rõng rã suốt 12 năm, chỉ đến khi lên đại học Thy mới bỏ ngang vì bận rộn việc học. Ban đầu con bé Thy học chỉ để trám thì giờ, và chỉ cần vài tháng sau năng khiếu phát triển thấy rõ. Lên đến trung học, Thy bắt đầu thử các bản giao hưởng với sự khuyến khích của cô giáo. Thy chơi khá thuần thục các bản giao hưởng của Rachmaninoff, Beethoven, Tchaikovsky…v..v, tuy không hay nhưng nghe được. Trong các bản giao hưởng, nàng ngại nhất bản giao hưởng của Maurice Ravel cung D này, vì nó được sáng tác dành riêng cho những người thuận tay trái. Với bản tính ương ngạnh, Thy cố tập luyện cho bằng được, nhưng đến đoạn allegro Thy luôn bị khựng lại ở một nốt, nốt mi thăng. Có thể bàn tay của Thy hơi nhỏ nên ngón út vói không đến nốt mi thăng, cũng có thể khi chuyển tay từ trái sang phải, năm ngón tay của nàng khi đặt xuống bàn phím không tròn trịa nên vướng. Đúng ra, ngón út Thy vẫn vói đến, nhưng dòng nhạc lại lại lỡ đi khoảng nửa nhịp, vì thế ai trong nghề sẽ nhận ra ngay cái tỳ vết của người trình diễn dương cầm.
Bình say mê trình diễn. Chàng hầu như mê mẩn trong dòng nhạc cuồn cuộn như sóng thần, có lúc lại nhẹ nhàng như kể lể, có lúc bồng bềnh như mây trời. Lúc nhặt, lúc khoan, lúc dồn dập, lúc chậm rãi… dòng nhạc mê hoặc mọi người mặc dù Thy biết hầu hết khách chẳng hề biết chơi một nhạc cụ nào hoặc không có một chút kiến thức gì về nhạc giao hưởng. Thế mới thấy lối trình diễn của Bình điêu luyện đến chừng nào. Đến đoạn allegro hiểm hóc, Thy nín thở lắng tai nghe và nàng nhận ra nốt mi thăng vang lên nghe thánh thót, nhẹ như sương nhưng thính giác của Thy nghe rõ mồn một. Không một ai trong phòng, ngoại trừ Thy hiểu được sự khó khăn của nốt nhạc mà ngón tay út của Bình đã vói đến đúng lúc, đúng nhịp. Thy thở nhẹ ra một hơi dài.
Từ nốt mi thăng đến cuối bài, Thy ngồi thừ người không còn chú ý đến bản giao hưởng nữa. Thy biết chắc Bình thuận tay phải như nàng, căn cứ vào bàn tay chàng cầm ly rượu, thế mà chàng trình diễn thuần thục một trong những bản giao hưởng khó chơi nhất. Có thể là bàn tay Bình lớn hơn bàn tay của Thy nên chàng vượt qua được đoạn allegro hóc hiểm hoặc cũng có thể tài nghệ của Bình hơn hẳn nàng. Cho dù lý do nào đi nữa, Thy biết nàng bắt đầu có thiện cảm với Bình.
Ngày xưa Thy đã đánh hụt nửa nhịp ở nốt mi thăng, bây giờ con tim của nàng cũng đập hụt một nhịp khi nghe xong bản giao hưởng do Bình trình diễn. Ngay lúc đó, Thy quyết định sẽ tìm cách nói chuyện riêng với Bình. Nhưng chàng không thể rảnh rang một phút nào vì bà chị lại yêu cầu cả nhà hát cho nhau nghe, nhưng không mở dàn karaokê mà nhờ Bình đệm đàn. Một lần nữa, Bình lại nhận lời. Chàng dễ dãi, không hề biết từ chối hoặc vì máu yêu thích văn nghệ nên sẵn lòng. Bình đến tủ vói tay lấy chiếc guitar. Lại thử nốt, lại so giây. Rồi chẳng đợi ai, Bình cất tiếng hát. Cái dáng ngồi ôm đàn hát của Bình như mọi người nhưng sao Thy thấy thật lãng mạn. Chân co chân duỗi, chiếc đàn đặt lên đùi, chàng hát bài “Ru Tình”. Ngón tay búng đều trên phím, đôi mắt mơ màng, Bình say sưa hát. Thy ngồi hơi ngửa người ra sau, nghiêng đầu, hai tay vòng trước ngực. Đến câu, “Thôi em ngồi yên nhé, tôi tìm cuộc tình cho…”, chàng ngẩng mặt lên, đôi mắt Bình mở lớn rồi chợt bắt được đôi mắt phượng của Thy đang nhìn chàng đắm đuối. Bình lặng nhìn, giọng hát hơi khựng lại, tiếng đàn hình như lạc nhịp và chàng vội cúi xuống nhìn vào phím đàn. Thy nghe lòng thổn thức, “thôi anh, đừng tìm tình đâu xa, anh cứ ngồi yên đấy để em đưa tình đến với anh.” Ánh mắt trữ tình của Bình như muốn nhắn gửi lời nhạc đến với Thy. Nàng đọc thấy thất cả tâm ý của Bình trong đôi mắt và Thy chợt có cảm giác Bình đang hát cho riêng nàng. Với ánh mắt đắm đuối, Thy muốn gửi gắm ước mơ của con tim, và Thy biết chắc chắn Bình đã bắt nhận.
Nhân lúc giải lao, mọi người bận rộn chuyện trò và Bình cầm ly rượu đi về phía nhà bếp. Thy vội vàng đứng lên theo. Chàng đang rửa chiếc ly để úp vào giá. Thy tiến đến đứng sát một bên:
– Để em rửa cho.
Bình quay lại, nhận ra Thy và chàng nhoẻn miệng cười:
– Anh đang dở tay, cứ để anh.
Chàng đỡ ly rượu trong tay Thy. Bình cầm miếng giẻ rửa bát, nhúng một chút xà bông, rồi cho vào lòng ly, xoay tròn. Chàng mở vòi nước. Từng tia nước rơi xòe đều làm thành hình cái phễu. Thy đứng tựa lưng vào bồn rửa, nhìn nghiêng quan sát Bình. Bàn tay Bình khá lớn, năm ngón tay gầy gầy trông nhạt nhòa dưới vòi nước. Chàng rửa tỉ mỉ, từ miệng ly đến chân ly. Thy không biết vì bản tính Bình kỹ lưỡng hay là dấu hiệu chàng đang bối rối.
Đột nhiên, Thy nghiêng đầu nói nhỏ vào tai chàng:
– Em mê anh rồi đấy!
Vẫn chăm chú rửa ly, Bình bật cười nhẹ:
– Vậy sao?
– Chứ sao?
Rồi cả hai im lặng. Thy xoay người đứng cùng chiều với Bình, đỡ lấy chiếc ly từ tay chàng để úp lên giá:
– Anh tính sao?
Bình ngập ngừng:
– Tính sao là sao?
Vẫn chưa nhìn thẳng vào khuôn mặt Thy, Bình xoay người và tựa lưng vào thành bồn. Thy xoay người theo:
– Cho em số phone của anh.
Bình làm theo lời Thy. Chàng hành động như một cái máy, không chủ động được một chuyện gì. Nhan sắc của Thy vẫn là một hấp lực làm chàng bối rối thật sự. Thy đứng sát một bên, hương thơm da thịt phả vào mũi càng làm chàng ngây ngất. Bình lão luyện với âm nhạc bao nhiêu thì lại ngờ nghệch khi đối diện với Thy bấy nhiêu. Chàng ngơ ngáo như một cậu con trai mới lớn.
Những tuần hẹn hò tiếp theo, Thy quấn chặt lấy Bình. Chưa yêu thì Thy lạnh lùng, khi yêu rồi thì nàng sôi nổi, và cuồng nhiệt. Tình yêu của Thy hiện ra lồ lộ trong đôi mắt ướt át hơn, trên đôi môi cong cớn hơn, trên đôi gò má cao đỏ hồng hơn. Hình như Thy muốn khoe với mọi người tình yêu nồng nàn của nàng. Bởi vậy, Thy tìm cách đi cặp kè với Bình mỗi khi rảnh rỗi. Buổi trưa Thy hẹn chàng đến quán ăn, cuối tuần nàng bảo Bình đưa đi đây đi đó đến mệt thì thôi. Bình chiều Thy trong hết mọi việc vì lẽ chàng yêu Thy, và vì nàng yêu kiều quá. Thì có ai từ chối được tình yêu của Thy đâu! Ngón đàn và giọng hát của Bình đã khuất phục nàng nhưng đồng thời Thy hoàn toàn chinh phục được chàng. Tuy vậy, Bình điềm đạm đón nhận tình yêu của Thy. Chàng vẫn đứng vững chãi trước cơn lốc tình yêu cơ hồ thổi tung cả vũ trụ.
Một lần, Bình mời nàng tham dự một buổi trình diễn. Thy hỏi anh trình diễn nhạc hả. Bình bảo cứ đi rồi biết. Hôm đó, Bình đưa nàng đến một trung tâm sinh hoạt của người Việt trong vùng. Một tay cầm hộp đàn guitar, tay kia nắm lấy tay Thy, Bình dìu nàng vào bên trong. Đọc tấm biển treo trên sân khấu, Thy mới biết đây là buổi trình diễn nhạc tiền chiến. Cả hai được ban tổ chức dành chỗ ở hàng ghế đầu. Bình đưa cho nàng tờ chương trình. Hóa ra, Bình là diễn giả chính trình bày về lịch sử của dòng nhạc trước 1954.
Bình ngồi trên chiếc ghế cao, tay ôm chiếc đàn guitar đặt lên đùi của một chân gác hờ trên vòng sắt chạy viền quanh bốn chân ghế, chân kia chàng để thòng chấm đất. Hai chiếc máy vi âm trước mặt, một cho chàng, và một cho đàn. Phía sau lưng Bình là một khung vải khá lớn, trên đó có hàng chữ Nhạc Tiền Chiến đậm nét màu xanh, và bên dưới tên họ của chàng, nét nhạt hơn màu tím. Chiếc máy phát hình đặt trên chiếc bàn nhỏ ngay trước khung vải. Dàn bài và nguyên cả bản nhạc được chiếu lên cho khán giả dễ theo dõi.
Bình dẫn khán giả từ đầu thế kỷ 20 đến 1945, và từ 1945 đến 1954, năm chia đôi đất nước, để rồi miền Nam nở rộ với nhạc vàng, và miền Bắc cổ võ nhạc đỏ phục vụ nhu cầu chiến tranh. Theo chàng, dòng nhạc tiền chiến đáp ứng sự chuyển mình của thơ mới, thơ tự do, và khuynh hướng lãng mạn du nhập từ Âu châu vào đầu thế kỷ 20. Dòng thơ và nhạc là một cuộc cách mạng trong nền văn học từ bỏ khuôn mẫu của thơ Đường, hoặc giai điệu Ngũ cung ảnh hưởng của Tàu cả nghìn năm qua. Nền âm nhạc Việt cũng bắt đầu làm quen với vĩ cầm, măng cầm, Tây ban cầm, và dương cầm thoát khỏi những nhạc cụ xưa cũ như đàn nhị, đàn bầu, đàn cò, đàn gáo, hoặc đàn tranh. Bình giới thiệu những nhạc sĩ nổi danh với những sáng tác tiêu biểu như Dương Thiệu Tước (Tiếng xưa, Đêm Tàn Bến Ngự), Hoàng Quý (Cô láng giềng), Dzoãn Mẫn (Biệt Ly), Văn Cao (Suối Mơ, Thiên Thai), Phạm Duy (Bà mẹ quê, Tình hoài hương, Thuyền Viễn Xứ), (Lê Thương (Hòn vọng Phu I, II, III), Đặng Thế Phong (Giọt Mưa Thu, Con Thuyền Không Bến)…v..v. Riêng nhạc phổ thơ gồm có Nguyễn hữu Ba (Tống Biệt phổ thơ Tản Đà), Phạm Duy (Vần Thơ Sầu Rụng phổ thơ Lưu trọng Lư, Ngậm Ngùi phổ thơ Huy Cận, Tiễn Em phổ thơ Cung Trầm Tưởng, Đôi Mắt Người Sơn Tây phổ thơ Quang Dũng)…v..v.
Dáng ngồi của Bình đáng yêu quá, Thy nhủ thầm. Kiến thức âm nhạc Đông và Tây của chàng sâu rộng, bài nghiên cứu sống động. Bình trình bày mạch lạc với giọng nói trong và ấm, thu hút cử tọa. Chàng dạo nhạc và hát một vài câu tiêu biểu của từng bản nhạc của các nhạc sĩ tiền chiến. Giọng hát của Bình trầm bổng theo điệu nhạc, tỏa lan trong không khí, ve vuốt thính giác của khán giả. Thy đã mê mẩn một lần với giọng hát quyến rũ và tiếng đàn đầy ma lực đó, và nàng chẳng ngạc nhiên khi thấy gần trăm người yên lặng ngẩn ngơ thưởng thức. Căn phòng chỉ rộn ràng tiếng nói và giọng hát của Bình.
Lúc ra về, vừa ngồi vào xe, Thy nhoài người luồn tay vào mớ tóc bồng bềnh của Bình, kéo về phía nàng, vít đầu chàng xuống và hôn lên môi Bình. Nụ hôn bất ngờ và vũ bão làm Bình bàng hoàng, ngây ngất. Tâm trí Bình phiêu du ở một cõi xa xăm nào đó khi đôi môi Thy gắn chặt lấy môi chàng. Mãi đến lúc Thy cắn nhẹ lên môi Bình, chàng vẫn còn mơ màng trong vị ngọt của nụ hôn và mùi hương ngào ngạt của da thịt trinh nguyên.
– Em yêu anh rồi đấy!
Bình lắc lắc đầu cho tỉnh cơn mơ, hỏi ngược:
– Em nói gì?
– Em yêu anh rồi, anh biết không?
Bình nghiêng đầu, nhíu mày:
– Lạ nhỉ! Hai tháng trước em nói mê anh, bây giờ lại yêu là thế nào? Có gì khác biệt không?
Thy vuốt má chàng:
– Khác chứ, khác nhiều lắm. Mê chỉ là khoảnh khắc. Đúng ra em mê tài nhạc của anh. Còn yêu, em yêu cả tài lẫn con người anh. Mê cuồng nhiệt nhưng mau tàn. Yêu nồng nhiệt nhưng không cuồng, nghĩa là còn chỗ cho lý trí. Em suy nghĩ rồi, chúng ta phải tính chuyện lấy nhau.
Lần đầu tiên trong đời, Thy yêu. Tình cảm trước đây với những người đàn ông cũng rung động nhưng rồi tắt ngấm. Vài cuộc tình đã trôi qua và Thy vẫn dửng dưng. Với Bình, nàng tìm thấy những rung động cũ nhưng mãnh liệt hơn, tha thiết hơn. Thy thẳng thắn nói ra ý nghĩ của mình. Yêu nhau thì phải lấy nhau, Thy nghĩ thế. Thy mạnh dạn mở lời với lòng tự tin là Bình sẽ thuận lời nàng. Một lần nữa, Bình lại gật đầu. Bình đã trên 30. Cỡ tuổi này lập gia đình không sớm cũng không muộn. Bình không mót lấy vợ nhưng lấy được một người như Thy thiết nghĩ cơ duyên không thể đến lần thứ hai.
Nghe tin Thy sắp lấy chồng, con bạn gọi cho nàng:
– Giới thiệu ai mày cũng nói là jerk, hóa ra mày yêu anh chàng nerd.
– Hê… hê, chàng của tao mà mày gọi là nerd hả.
– Thì không nerd là gì. Cứ nhìn mặt là tao biết tỏng. Giới thiệu ông anh tao cho mày thì mày chê. Nói tao nghe, mày chê anh tao chỗ nào.
Thy gầm gừ:
– Thưa chị, mả nhà em không thích đàn ông lắm mồm.
– Trời ơi, ăn nói có duyên thế mà mày lại bảo lắm mồm. Tao hết hiểu nổi mày.
– Để tao nói cho mày nghe. Ông anh mày mồm miệng lắm, tấn công tới tấp tao ngay từ đầu làm tao tối tăm mặt mũi. Mày biết rồi, tao nói như sáo, lấy ông anh mày về rồi hai vợ chồng nói cho… hàng xóm nghe hay sao. Cái số tao nó vậy, cứ thấy đàn ông nói nhiều là tao ngại. Ông anh mày không những nói nhiều mà lại khéo nói nữa nên tao đâm sợ. Bình ít nói, lại hiền, hơi cả đẫn, nhưng tao biết chắc tao giữ được. Đàn ông khéo mồm thường bay bướm. Ngữ anh mày tao thấy khó giữ. Tính tao lo xa, hay nhìn trước trông sau, nên không dám phiêu lưu. Hụt làm chị dâu mày tao cũng tiếc thật đấy nhưng tại duyên số cả mày ơi.
Duyên số đưa đẩy Thy gặp Bình, nhưng nghề nghiệp của nàng chẳng phải cơ duyên gì cả. Ngay từ thời trung học, Thy quyết định sẽ theo học ngành quản lý về tiền bạc. Thy cho rằng, tất cả những vấn đề sinh tử trên thế giới đều bắt nguồn từ hai chữ Kinh Tế. Mà mạch máu của nền kinh tế là tiền tệ. Bởi vậy, muốn giữ vững nền kinh tế, mỗi quốc gia phải biết sử dụng đồng tiền một cách hiệu năng. Làm thế nào để huy động vốn, nghiên cứu thị trường để đầu tư khôn ngoan là sở trường của nàng. Thy mơ ước một ngày nào đó nằm trong tập đoàn đầu tư của hệ thống ngân hàng Mỹ.
Bước đầu để đạt ước mơ đó, Thy dồn nỗ lực vào việc học hỏi và nghiên cứu. Nàng tốt nghiệp ưu hạng ngành Quản trị Kinh doanh (MBA). Thy là một trong 3 người được các công ty đến phỏng vấn 2 tháng trước khi tốt nghiệp Cao học. Lương khởi sự của nàng bắt đầu bằng một dãy năm con số zêrô. Mới 24 tuổi, Thy được giao trách nhiệm theo dõi một số vốn đầu tư lên đến cả 100 triệu. Không hiểu thiên khiếu hay may mắn, hàng năm Thy đem về cho hãng hàng triệu đô la tiền lời. Như bàn tay của vua Midas trong thần thoại Hy lạp, bất cứ tiền quỹ nào Thy đụng đến, chỉ cần vài năm sau số vốn tăng lên gấp rưỡi dễ dàng. Sau khi lấy Bình, nàng về đầu quân cho công ty Mallen. Với chức vụ giám quản (manager) ở công ty này, Thy thật sự như rồng gặp mây. Nguồn tài trợ của công ty từ tiền bảo hiểm và quỹ hưu trí tư nhân lên đến hàng tỷ bạc, lợi nhuận mang về nhờ tài điều khiển khéo léo linh động của Thy lên đến cả trăm triệu. Chỉ vài năm sau, Thy được Hội đồng Quản trị đề bạt lên chức giám đốc (director) rồi giám đốc vùng (regional director), coi sóc cả một lãnh vực đầu tư. Với số lương tăng hàng năm với mức độ chóng mặt 10%, tiền bạc Thy mang về bảo đảm đời sống vật chất của cả gia đình dư dả. Mỗi năm, Thy còn nhận được số tiền thưởng bằng nửa phần nghìn tiền lợi nhuận do nàng tạo ra. Chỉ riêng tiền thưởng này thôi đã ăn đứt lương năm của Bình làm giáo sư dạy nhạc ở một trường trung học. Bởi thế, sau khi sinh con Rốt, Thy bàn với Bình ở nhà coi sóc hai đứa con. Không gì bằng bố, Thy bảo, còn hơn đi gửi nhà trẻ, vừa tốn tiền lại chẳng biết nó có thương con mình không. Thương con, chiều vợ, Bình chấp nhận ở nhà làm việc nội trợ thay Thy.
Lấy nhau được 9 năm, 2 mặt con. Bình chu toàn nhiệm vụ nội trợ, để mặc Thy tung hoành ngoài xã hội. Thy luôn cám ơn chồng đã thay nàng chăm sóc 2 đứa con. Được một tấm chồng như Bình, hiểu vợ, chiều vợ không phải dễ kiếm. Thy biết thế nhưng đôi lúc nàng thở dài vì bản tính hiền hòa, chân thật của chồng đến độ bực mình. Bình thẳng thắn, ruột ngựa, bảo sao nghe vậy, chứ không linh động, tháo vát như nàng. Như chuyện sáng nay, Bình cứ lải nhải hỏi hoài về ngày sinh nhật trong khi nàng đã trễ giờ. Nếu cứ để tối nay, sau một ngày tu nghiệp, về đến khách sạn rồi hai vợ chồng bàn chuyện trên điện thoại cũng đâu muộn. Mãi đến lúc đậu xe trước địa điểm tu nghiệp, nỗi bực dọc trong lòng Thy vẫn chưa nguôi.

Thy bước vào đại sảnh của khách sạn Ramada lúc 9:25 sáng. Nàng có hơn nửa tiếng để chuẩn bị. Nói là chuẩn bị nhưng thật sự nhân viên cấp dưới của nàng làm hết tất cả. Hai cô nhân viên sửa soạn giấy bút, sách vở, tài liệu đầy đủ đặt ngay ngắn trên từng bàn con cho mỗi học viên. Máy phóng hình đã bật lên, màn hình đã kéo xuống. Thy chỉ việc bật laptop lên và cắm dây nối với máy phóng hình. Sửa soạn xong nàng vẫn còn hơn 10 phút để lấy bình tĩnh trước khi bắt đầu khóa học. Đây là lần đầu tiên Thy hướng dẫn một khóa tu nghiệp như thế. Công trình nghiên cứu của nàng suốt 2 năm với đầy đủ dữ liệu, thống kê, kết quả và thêm những nhận xét riêng của nàng. Khi trình lên ông Chủ tịch công ty, ông ta gật gù sau 1 tuần nghiền ngẫm và ra lệnh các nhân viên lần lượt học hỏi kinh nghiệm từ công trình nghiên cứu của nàng. Sau 2 ngày, nếu suôn sẻ, chắc chắn khóa tu nghiệp sẽ để lại tiếng vang và từ đó con đường tiến thân của Thy sẽ thênh thang mở rộng. Trong trí Thy thoáng hiện chiếc cầu thang danh vọng cao vòi vọi đang chờ những bước chân của nàng.
Công ty Mallen thuê hội trường của khách sạn trọn cả 2 ngày. Hội trường này có thể chứa đến trăm người nhưng thật sự khóa tu nghiệp chỉ có 20 học viên do công ty tuyển chọn. Đây là những giám quản đến từ các tiểu bang có chi nhánh của công ty. Năm phút trước giờ học, các học viên đã tự ngồi vào bàn, viết tên lên một tấm biển hình tam giác ống, mặt viết tên họ quay về phía giảng viên. Nàng cũng nắn nót viết tên “Thea Nguyễn” và quay mặt biển về phía dưới lớp. Chỉ mới màn giới thiệu giáo đầu, Thy đã đọc được sự ngạc nhiên hiện lên khuôn mặt của các học viên. Họ không ngờ người đàn bà trong bộ đồ vest màu đỏ thẫm có khuôn mặt đẹp như một nhân vật trong truyện thần thoại lại là giảng viên của khóa tu nghiệp. Sau hơn 2 tiếng đồng hồ lái xe mệt mỏi, khuôn mặt Thy vẫn là một khối nam châm thu hút sự chú ý của 20 người đàn ông đang ngồi ngay ngắn nhìn sững nàng không chớp mắt.
Thy thao thao giảng bài. Nàng giải thích tường tận từng lãnh vực đầu tư. Theo nàng, sự nhạy bén trên thương trường dựa trên thiên phú và may mắn chỉ chiếm chừng 10%, còn lại là do sự tìm tòi học hỏi và tích lũy kinh nghiệm. Tất cả những biểu đồ phản ảnh từng giai đoạn biến động của quỹ đầu tư Thy giải thích cặn kẽ. Giọng nói truyền cảm, bài giảng biểu hiện kiến thức rộng, bộ đồ may cắt đúng thời trang ôm gọn lấy thân hình gợi cảm và với khuôn mặt hớp hồn Thy thật sự đã mê hoặc tất cả các học viên. Họ chăm chú lắng nghe và hý hoáy ghi chép. Chỉ riêng anh chàng ngồi ở góc trái tỏ vẻ lơ đãng, hồn phách như người mộng du. Bằng đuôi mắt, Thy liếc bảng tên và nhận ra anh chàng này là người Việt. Ryan Le.
Thy đoán Ryan chưa đến 30. Vai hắn rộng, thân hình lực lưỡng, khuôn mặt khá điển trai. Với từng ấy tuổi mà leo đến chức manager thì chứng tỏ tài năng của hắn không kém gì Thy. Một người tháo vát, biết xoay xở, Thy nghĩ thầm. Ryan ngồi mơ màng, có vẻ không chú ý gì đến nội dung của bài học. Có lúc hắn lại nhìn Thy đăm đăm, cặp mắt đờ đẫn như người say á phiện. Đôi lúc nàng cảm thấy nong nóng ở sau gáy, Thy bất chợt quay lại và thấy ánh mắt soi mói khá sỗ sàng như muốn bóc trần thân thể của nàng. Bắt được cái lừ mắt của Thy, hắn luống cuống nhìn xuống, mặt đỏ bừng.
Điều này tối kỵ trong môi trường làm việc. Ai cũng biết vấn đề “quấy nhiễu tình dục” được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, nhằm bảo vệ một môi trường làm việc lành mạnh cho phụ nữ. Một lời khen, “Trông cô đẹp quá!” có thể không sao, nhưng “Trông cô khêu gợi quá!” đã vượt quá giới hạn. Đám đàn ông bù khú qua những chuyện “đố tục giảng thanh” với nhau thì không sao, nhưng nếu có mặt một phụ nữ thì cần phải dè chừng, hay nhất là đổi đề tài. Lời nói đã phải cẩn thận thế, chứ đừng nói đến cái nhìn sỗ sàng của chàng trẻ tuổi vốn dòng… soi mói. Cấp trên lợi dụng quyền hành để quấy nhiễu nữ nhân viên cấp dưới lại càng cấm kỵ. Đằng này, Thy hiện tại xem như cấp trên của chàng, không lẽ cấp dưới lại dám “quấy nhiễu” cấp trên. Vậy mà cặp mắt tinh ranh của Ryan vẫn rình rập nàng, chờ đợi những lúc thuận tiện Thy quay lưng để xoắn chặt lấy tấm thân nẩy nở và đôi mông tròn trịa nhún nhẩy trên cặp giò thuôn thuôn, dài thườn thượt.
Tại sao hắn cứ dán cặp mắt vào thân thể Thy với cái nhìn ngây dại? Leo lên chức manager, Ryan phải biết những luật lệ nghiêm khắc nhằm bảo vệ phụ nữ. Thế sao hắn vẫn dùng cặp mắt để “quấy nhiễu” nàng? Chỉ còn lối giải thích là Ryan không thể… cưỡng lại được. Người nàng toát ra một ma lực cám dỗ ước muốn đen tối của Ryan, và hắn đã đỏ mặt khi Thy bất chợt quay lại lừ mắt nhìn. Tưởng kẻ ăn vụng bị bắt quả tang cũng chỉ ngượng ngập đến thế là cùng. Phải cho anh chàng này một bài học, nàng nghĩ thầm.
Một ngày trôi qua mau chóng. Thy lái xe về khách sạn Peppermint cách xa địa điểm tu nghiệp chừng vài dặm. Ở đó công ty dành riêng cho nàng một căn phòng thượng hạng, loại Penthouse Suite, phòng sang nhất của khách sạn Peppermint. Mở cánh cửa chính để lộ một hành lang dài chừng 5 mét với ánh đèn mờ ảo. Cuối hành lang là một cánh cửa nữa. Đàng sau cách cửa này là phòng ngủ và phòng giải trí. Chạy song song với hành lang là chiều dài của phòng tắm; ở góc phải là chỗ tắm lộ thiên, nghĩa là bốn bề trống hoác, và vòi sen tỏa nước được gắn chìm trên trần. Riêng một bồn tắm hình vuông đủ chỗ cho 4 người ngồi, nước bắn ra từ thành bồn có tác dụng xoa bóp cho dãn gân cốt. Chiếc bàn trang điểm dài cỡ 2 mét, bên trên đặt tấm gương khổng lổ cao đến trần. Góc trái là chiếc TV kiểu mới nhất, lớn cỡ 62 phân tây. Với diện tích chừng 120m vuông, quá rộng cho một người ở tạm từng ấy ngày. Nhưng ở cương vị giám đốc vùng của Thy, căn phòng đắt giá Penthouse không thấm gì so với công tác phí công ty dành cho nàng. Tối hôm đó, Thy gọi điện thoại về nhà nói chuyện với con và hứa sẽ về nhà sớm. Nàng vẫn còn giận Bình nên chỉ hỏi han lấy lệ. Thy đi tắm, thay quần áo lên giường rồi nàng chìm vào giấc ngủ mau chóng.
Chương trình tu nghiệp ngày thứ Bảy hôm sau tiến hành trôi chảy. Ryan chú ý hơn vào bài vở nhưng thỉnh thoảng Thy vẫn bắt được cái nhìn lén lút của hắn. Đột nhiên, lòng Thy chợt dấy lên niềm hãnh diện về sự quyến rũ của nàng. Hiếm có một người đàn bà hai con như Thy mà vẫn còn đủ ma lực để hớp hồn một chàng thanh niên trẻ như Ryan.

Khoảng 2 giờ chiều, Bình đi đón con như thường lệ. Con Măng học ở trường tiểu học, còn con Rốt gửi ở nhà trẻ. Đang lái xe, Bình suy nghĩ mãi về lời nói của Thy chê chàng cù lần ngày hôm qua. Đôi lúc, chàng cũng cảm thấy mình… cù lần thật. Cuộc sống an bình với hạnh phúc tràn ngập trong từng cử chỉ từ tốn, qua sự nhẫn nại đối với Thy, một người đàn bà xốc vác, sinh động. Bình nhận ra tuy hai vợ chồng như hai thái cực, nhưng rõ ràng cả hai bổ khuyết cho nhau, một điều kiện ắt có và đủ để bảo đảm hạnh phúc gia đình. Bình không thể hành động khác với bản tính điềm tĩnh của chàng. Bình nhìn đời như những nốt nhạc trong một bài hát chàng sáng tác, có nốt cao, nốt thấp. Nhưng rõ ràng những nốt nhạc khác nhau này lại tạo ra một âm điệu du dương. Thy ở những nốt cao, chàng ở những nốt thấp để tạo ra một bản giao hưởng tuyệt vời.
Hôm nay là sinh nhật của Thy. Chàng muốn nghĩ một cái gì khác lạ, bất ngờ cho vợ để nàng khỏi chê chàng cù lần, chậm chạp. Đột nhiên, một ý nghĩ lóe lên trong đầu. À, phải rồi. Chiếc xe lạng nhẹ sang một bên vì chàng đập cả hai tay vào vô-lăng khi ý nghĩ lạ lùng đó in đậm nét trong trí. Chắc chắn việc cha con sắp làm sẽ khiến Thy bất ngờ, chàng nhủ thầm.
Đón hai con xong, chàng cười cười nói:
– Hai con muốn mừng sinh nhật mẹ không?
Cả hai đứa nhao nhao:
– Mẹ về hả bố?
– Khi nào mẹ về?
Bình nựng con Rốt:
– Tối khuya may ra mẹ mới về, nhưng bố con mình đi đón mẹ rồi mừng sinh nhật mẹ luôn. Sao, con thấy được không?
– Đi đón mẹ hả bố. Hay quá, hay quá!
– Thế nào mẹ cũng surprised, bố hén.
Đúng 3 giờ chiều, Bình khởi hành. Đến khách sạn Peppermint lúc 5 giờ hơn. Chàng dẫn con vào quầy khách sạn. Sau khi trình giấy kết hôn, Bình ngỏ ý muốn làm tổ chức sinh nhật bất ngờ cho vợ ngay tại phòng nàng. Nghe qua kế hoạch của chàng, và nghe hai đứa con gái liến thoắng hỏi han, bà quản lý khách sạn đồng ý. Bình đặt một cái bánh nhỏ, thêm 38 cây nến ngắn, vài chục bong bóng đủ màu, và khoảng mươi tờ giấy để hai đứa con vẽ thiệp chúc mừng sinh nhật mẹ. Bánh có sẵn, chỉ cần viết tên Thea Nguyen và chừng nửa tiếng sẽ có bồi mang đến tận phòng. Những vật dụng còn lại, Bình cho vào túi xắc và dẫn hai con lên phòng. Lúc đó đã 5 giờ rưỡi chiều.

Buổi tu nghiệp chấm dứt đúng theo chương trình vào lúc 5 giờ rưỡi chiều. Sau lời cầu chúc tốt đẹp của Thy, toàn thể học viên chẳng ai bảo ai đồng loạt đứng dậy vỗ tay khen ngợi nàng, và chúc mừng một chương trình tu nghiệp thành công. Lần lượt từng người đến bắt tay Thy và hỏi han đôi lời theo đúng phép xã giao rồi chào từ giã. Chừng mươi lăm phút sau, căn phòng rộng rãi chỉ còn lại Ryan và Thy. Hắn cố ý nấn ná đến phút cuối để gặp nàng. Chững chạc đứng trước mặt nàng, hắn chìa tay:
– Tôi học hỏi được rất nhiều trong hai ngày qua.
Thy nhìn thẳng vào mắt hắn. Nàng có năng khiếu đọc được ý nghĩ của người ta qua cặp mắt. Câu nói của Ryan như một lời khen gián tiếp nhưng Thy đọc được sự thèm muốn qua ánh mắt ngây dại của hắn. Không hiểu sao lòng Thy bỗng rộn ràng khó tả. Có thể tại đôi bờ vai rộng của hắn, cũng có thể tại đôi bàn tay lớn quá khổ đang siết chặt lấy bàn tay nhỏ bé của nàng. Đứng gần chỉ cách nhau chưa đến một sải tay, Thy thấy rõ khuôn mặt khôi ngô và vầng trán rộng của Ryan, cả vùng ngực nở nang phập phồng và nàng thoáng nghe hơi thở gấp gáp của hắn. Điều này chứng tỏ Ryan không giữ được bình tĩnh. Bản năng chinh phục của Thy chợt chỗi dậy như linh tính của loài thú sống trong rừng sâu đánh hơi được nguy hiểm đang rình rập. Thy rút tay về, nắm lấy cà vạt, kéo nhẹ về phía nàng và nói nhỏ vào tai hắn:
– Lấy áo khoác rồi theo chị, em cưng.
Lời đề nghị của Thy làm hắn giật bắn người, lảo đảo như người say rượu. Hắn đến chào xã giao rồi chia tay như mọi người, chứ có ngờ đâu thần may mắn lại chiếu cố đến hắn. Lần tham dự trò chơi trên truyền hình, số hên nên hắn trúng đến mấy chục nghìn. Lần đó hắn nhảy cẫng lên như một đứa con nít. Nghe Thy nói xong, cả người hắn nhẹ tênh và nếu nhảy cẫng lên có lẽ thân hình hắn sẽ lơ lửng trong không khí và khó rơi trở lại mặt đất. Nhưng hắn vẫn đứng như trời trồng. Sự bất ngờ làm hắn cứng người, và đôi chân hắn chôn chặt dưới đất như bắt vít. Cái may mắn trúng thưởng lần đó chẳng thấm gì so với cái may mắn được đi gần Thy. Đành rằng hắn chết mê chết mệt nàng nhưng hắn không hề dám nghĩ đến diễm phúc được Thy rủ đi chung. Đi đâu không cần biết, miễn là đi với Thy, hoặc ngồi ăn với nàng là niềm hạnh phúc tuyệt vời mà cả đời hắn chẳng mong có được lần thứ hai. Ryan nín hơi, không dám thở mạnh, trong khi Thy lúi húi gom máy tính, giấy tờ, và tài liệu nhét vào cặp.
Ryan riu ríu đi theo Thy. Khách sạn kẻ đến người đi, không ai để ý đến hắn và nàng, thế mà người hắn cứ run lên khi bước song đôi với Thy. Cả hai sánh vai nhau đi bộ khoảng một đoạn đường và bước vào một quán ăn. Cả hai ngồi ở quầy rượu. Thy gọi một chai vang. Thêm đĩa thức ăn nhón bằng tay để đưa đẩy câu chuyện xoay quanh gia đình và việc làm. Thy không dấu chuyện nàng đã lập gia đình. Nàng còn khoe chiếc nhẫn cưới nhận kim cương lấp lánh treo nơi ngón áp út. Ryan còn độc thân và đúng như nàng đoán, hắn chưa đến 30. Cả hai ngồi uống tì tì hết nhẵn chai vang. Nàng gọi thêm một đĩa sò tươi, bóp chanh với muối tiêu. Ăn xong, Thy nhìn thẳng vào mắt hắn, giọng ráo hoảnh:
– Về phòng chị.
Hắn nuốt nước bọt đánh ực. Cứ tưởng nghe lầm, nhưng hắn biết hắn không nghe lầm. Đề nghị này quá bất ngờ, vượt ra khỏi dự liệu của Ryan. Nếu lời đề nghị đi chung của Thy xem như một cơn gió mát thì lời rủ rê hắn về phòng như một cơn bão thổi táp vào mặt khiến hắn choáng váng, tối tăm mặt mũi. Ryan đờ người, đực mặt như ông phỗng. Hắn chưa kịp mở miệng thì Thy dí ngón trỏ vào vùng ngực đầy múi thịt của hắn, nói rõ từng chữ:
– Một điều nữa. Nhớ cho kỹ, cậu em. Đây chỉ là sex, không hơn không kém. Sau đêm nay, cậu đi đường cậu, chị đi đường chị. Chúng ta không hề biết nhau, và tuyệt đối không nhắc nhở gì về chuyện này.
Ryan vẫn ngây người nhìn nàng. Thy rút ngón tay về, lừ mắt, trầm giọng:
– Hiểu chưa?
Hắn choàng tỉnh, giọng lí nhí:
– Vâng… hiểu.
Ngửa cổ uống cạn phần rượu còn lại, Thy dằn tờ giấy $100 dưới ly, nắm tay kéo hắn ra khỏi quán ăn.

Ở khách sạn, Bình đã chuẩn bị xong xuôi. Bong bong đủ màu thả bay đụng trần. Con Rốt vẽ hình bố và mẹ nắm tay 2 đứa nhỏ đứng giữa. Bức tranh của con Măng có thêm mái nhà và thêm hàng chữ “We’re a Family”. Nét vẽ ngây thơ nhưng khá sắc sảo. Cả hai tấm hình chúng nó cầm nơi tay và trốn với bố trong phòng tắm. Chiếc bàn nhỏ cao ngang tầm ngực có bánh xe đựng chiếc bánh khá lớn, bên trên cắm đúng 38 ngọn nến cao cỡ ngón tay. Bình tính toán khá kỹ, sau khi Thy nhận tấm thẻ điện tử mở cửa phòng nơi bàn nhân viên, cô thư ký trực sẽ gọi lên phòng báo cho chàng biết. Lúc đó, ba bố con Bình mới thắp nến. Thời gian từ dưới nhà lên tầng cao nhất của khách sạn, bước nhẩn nha đến phòng và mở hai cánh cửa Thy mất chừng 5 phút. Bước vào phòng chắc chắn Thy sẽ ngạc nhiên khi thấy biển chữ “Happy Birthday” dán trên tường và ba bố con sẽ mở cửa phòng tắm nhảy xổ ra ngoài. Bình sảng khoái khi tưởng tượng đến sự kinh ngạc hiện trên khuôn mặt Thy. Chắc chắn Thy sẽ không bao giờ chê chàng cù lần nữa, Bình nghĩ thầm. Còn con Măng và con Rốt thì thấp tha thấp thỏm từ nãy giờ, cứ níu tay chàng hỏi mẹ sắp về chưa bố. Coi bộ hai đứa thích trò chơi bất ngờ này. Hai tay nâng tấm hình ngang ngực, chúng bồn chồn chờ đợi…

Ryan lái xe theo Thy về khách sạn Peppermint lúc gần 7 giờ. Vào đến cửa, hắn rụt rè đi thụt phía sau. Thy đi thẳng đến bàn nhân viên và lấy thẻ khóa phòng, còn Ryan cắm cúi đi thẳng đến cửa thang máy đứng chờ. Cửa thang máy vừa đóng lại, Thy xoay người tấn công Ryan ngay. Một tay đẩy hắn sát tường, bàn tay kia vòng qua gáy, nàng kéo đầu Ryan xuống và ngoạm lấy miệng hắn. Thiết tưởng con chim cắt chụp mồi cũng nhanh và chính xác đến thế là cùng. Thy đứng một chân, còn chân kia co lại quặp lấy đùi Ryan. Trong tư thế đó, Thy gần như đeo cứng lấy hắn như đỉa bám. Chiếc váy ngắn gần chấm đầu gối lại không có váy lót nên khi Thy co chân lên đã thấy thấp thoáng chiếc quần lót thời thượng màu hồng nhạt. Chỉ mấy giây đầu Ryan nằm trong thế thụ động, nhưng ngay sau đó bản năng đàn ông vùng dậy, hắn chồm lên như con hổ vồ mồi. Hắn hôn Thy điên cuồng thật điệu nghệ theo đúng kiểu french kiss. Cái hôn đúng điệu của hắn làm người Thy rạo rực như thuở mới hôn đàn ông lần đầu. Hai tay ôm gọn lấy chiếc eo gợi cảm, hắn kéo sát Thy dính vào người. Cả thân hình nàng uốn cong cong theo hình bán nguyệt. Chiếc áo blouse cổ hình chữ V đã sổ tung mấy hột cúc, bộ ngực no tròn của Thy ép sát vào ngực hắn. Chiếc xú chiêng Thy đang mặc là một nghệ thuật độc đáo của hãng Victoria Secret; loại half-cup, nó chỉ ôm nửa ngực. Chỉ cần một vài cử động mạnh, nó gần như tuột hẳn, để lộ hai quả tuyết lê trắng hồng ẩn hiện qua làn vải áo. Người hắn run lên, hơi thở dồn dập trong cơn khoái cảm chưa từng có. Đứng thẳng người, Ryan định luồn bàn tay vào bên trong cổ áo hình chữ V. Thy chụp lấy bàn tay hắn, mắt lườm sắc như dao:
– Thong thả, cưng.
Ngay lúc đó, chuông thang máy kêu kính coong và rùng mình đứng lại ở tầng cao nhất. Cả hai vội rời nhau ra, vuốt vuốt lại quần áo. Cửa thang máy mở, hành lang vắng hoe. Từ cửa thang máy đến phòng phải đi qua hai hành lang dài. Bên trong phòng tắm, ba bố con Bình đã thắp lên 38 ngọn nến. Bình đưa ngón tay lên miệng, ra dấu im lặng. Hai đứa con cũng đưa ngón tay lên miệng giống bố, gật gật đầu. Không nén được hồi hộp, hai đứa huých huých cùi chỏ rồi cười rích rích. Bình phải suỵt suỵt chúng nó mới đứng yên.
Bốn bức tường cách âm nên Bình phải lắng tai lắm mới nghe được tiếng động từ hành lang. Chàng vừa nghe tiếng cửa mở, rồi tiếng cửa tự động đóng. Cách một bức tường, nhưng Bình nhắm mắt vẫn “nhìn thấy” được những thói quen của vợ. Ở nhà, đi làm về, vào đến phòng, Thy thả ngay chiếc cặp ở cửa, kiễng một chân để tháo chiếc giày rồi dùng mấy ngón chân tháo nốt chiếc giày kia, cởi phăng chiếc áo và nằm kềnh ra giường thở một hơi dài.
Dãy hành lang dài 5 mét dẫn đến cửa chính. Thy thả chiếc cặp ngay tại cửa. Nàng nắm lấy cà vạt của Ryan và kéo hắn lại, và hôn nhẹ lên môi. Thy tát nhẹ vào má hắn, kiểu nựng yêu. Bàn tay nhanh nhẹn mở hết hàng cúc, nàng cởi phăng chiếc áo ném xuống thảm. Ryan thành thạo luồn tay ra phía sau mở khóa kéo của chiếc váy và để thả rơi trên sàn. Ngọn đèn chìm trên trần tỏa ánh sáng mờ mờ nhưng đủ sáng để Ryan chiêm ngưỡng trọn bộ ngực săn chắc đang nhìn hắn khiêu khích. Máu trong người hắn chảy rần rần như nước lũ vỡ đê. Hắn có cảm giác những tĩnh mạch quá nhỏ không đủ cho máu lưu thông. Tim hắn đập rộn ràng như trống ngũ liên. Hai bàn tay to lớn ôm hết cặp mông tròn mẩy, hắn xoa bóp thô bạo rồi dùng sức kéo ngược lên. Theo đà, Thy rướn người và hai chân nàng quặp lấy eo hắn. Môi hắn dán chặt lấy môi Thy. Vóc dáng Ryan xứng đáng là lực sĩ. Tấm thân roi roi của Thy cỡ 120 cân thế mà hắn nâng nàng trông nhẹ như bấc. Ryan bước về phía cửa chính dẫn vào phòng ngủ, hay bàn tay vẫn đan chặt vào nhau ôm lấy mông nàng. Hai tay Thy giữ chặt lấy đầu hắn để hôn, nàng vẫn đeo dính trên người Ryan. Gần đến cửa, Thy thò tay ra sau nắm lấy quả đấm cửa, và định vặn một vòng…
Bên trong phòng tắm, tuy tiếng động lọt vào tai nghe nhỏ nhưng Bình vẫn đoán được tiếng cặp rơi, tiếng giày lăn lóc trên sàn, rồi một vài tiếng sột soạt mà chàng không thể đoán được là gì. Hình như Thy chặc chặc lưỡi thì phải, chàng nghĩ thầm. Bình nghe từng bước chân chậm chạp, khá nặng nề, tiến về phía cửa chính. Xoay sang hai đứa con gái, Bình nói khẽ:
– Chuẩn bị… một… hai…
Lúc Bình sửa soạn đếm số ba để bố con xô cửa phòng tắm nhảy xổ ra là lúc Thy đang định vặn quả đấm cửa… Ngay giây đồng hồ chết người đó, thời gian như khựng lại, không gian ngột ngạt vì sự sống sượng của phản bội làm mọi sinh vật hầu như nghẹt thở thì đột nhiên… một hồi còi báo động vang lên đâm thốc vào màng nhĩ của mọi người.
Mọi người trong phòng đứng chết sững. Mãi đến khi hệ thống chữa lửa trên trần tự động phun nước xối xả thì Bình mới kịp nhận ra khói của 38 ngọn nến vô tình đã kích hoạt hệ thống báo động hỏa hoạn. Cũng tại Bình bất cẩn để chiếc bánh ngay dưới dụng cụ báo khói, chiếc bàn lại cao ngang tầm ngực cọng thêm bề dày của chiếc bánh, nên chỉ cần khoảng 5 phút hệ thống báo động hoạt hóa ngay. Tiếng còi rú lên dồn dập làm át đi mọi tiếng động khác nên hai đứa con cũng chẳng nghe lời rủa “shit, shit..” của bố. Hơn nữa, sự nguy hiểm của hỏa hoạn khiến mọi người chỉ nghĩ đến việc chạy thoát thân, nên chẳng ai để ý ai. Phải mất 15 giây Bình mới thổi tắt hết 38 ngọn nến.
Thy và Ryan sững người khi hồi còi vang lên và nàng nhận ra ngay còi báo động hỏa hoạn. Thy hốt hoảng tuột người xuống, xô hắn ra, chạy ngược ra cửa, hấp tấp mặc váy, chụp chiếc áo, quơ lấy đôi giày, túm vội chiếc cặp rồi bươn bả mở cửa chạy ra ngoài. Ryan tất tả chạy theo. Ra đến ngoài, Thy thả rơi cặp, mặc vội cái áo rồi chạy đến cầu thang. Ryan vẫn chạy sát sau lưng nàng.
Thy cắm cúi chạy theo dòng người xuống ba bốn dãy cầu thang thì bố con Bình mới thoát ra đến hành lang. Bình bồng con Rốt lên, tay kia nắm chặt con Măng. Trong khi bố con chen lấn cố chạy xuống tầng trệt thì Thy và Ryan đã ra đến ngoài bãi đậu xe. Nàng vòng tay ra sau gài lại móc xú chiêng đã tuột ra trong cơn sốt xác thịt, cài lại hàng cúc áo, vuốt vuốt lại mái tóc. Người người đứng thành từng nhóm trước cửa khách sạn. Đảo mắt một vòng nhìn người và cảnh vật, rồi đột nhiên, Thy tỉnh cơn mê, tỉnh hẳn. Nàng chợt thấy sự bốc đồng trong cơn nhục dục đã vượt qua ranh giới của đạo lý căn bản trong tình nghĩa vợ chồng. Tuy sự vụng trộm chưa đi đến việc ăn nằm nhưng nếu không có hồi còi báo động thì chắc chắn bây giờ cả hai đang quằn quại trên chiếc giường rộng quá khổ có trải tấm khăn nhung mượt mà, Thy biết chắc như vậy. Nàng chợt nhớ đến 2 đứa con gái đĩnh ngộ, có khuôn mặt xinh như nụ hoa sớm mai. Thy bỗng nhớ đến Bình, người chồng trầm lặng, sống âm thầm chiều chuộng nàng. Trong đáy thâm tâm, Thy cảm thấy nhoi nhói đau và nàng chợt thấy mình đã buông thả quá trớn.
Thy quay sang Ryan, thở dài:
– Xin lỗi cậu, việc này thật không đúng. Tôi thấy mình sai và muốn chấm dứt ở đây, ngay bây giờ. Thôi, cậu đi đi.
Ryan đã tỉnh người, có lẽ do những tia nước lạnh từ hệ thống chữa lửa rưới hết lên thân hình hắn. Cơn sốt nhục dục đã nguội hẳn. Hắn thấy quyết định của Thy hợp lý. Không nói một lời, Ryan khẽ nhún vai, nhếch môi cười nhẹ và quay lưng cắm cúi bước đi.
Thy thẫn thờ nhìn Ryan mất hút ở cuối bãi đậu xe. Nàng thở dài lần nữa, chẳng biết vì cảm thấy tội nghiệp cho Ryan, hoặc vì hối hận đã vượt qua ranh giới của tình nghĩa vợ chồng. Mọi người tụ thành từng nhóm đứng rải rác khắp bãi đậu xe. Thy đưa mắt nhìn về phía cửa chính khách sạn. Hai cánh cửa đã mở rộng hoác, khách nhẩn nha bước ra ngoài. Họ bước bình thản, chẳng hấp tấp chạy trối chết như nàng. Nhân viên cứu hỏa đã vào bên trong để xem xét. Hình như mọi việc đã được giải quyết ổn thỏa, nên nét mặt mọi người chẳng thấy vẻ vội vàng, lo lắng thuờng có khi hỏa hoạn xảy ra.
Và kìa, Thy chợt thấy bóng dáng chồng và hai con. Nàng dụi mắt nhìn cho kỹ. Bình đang bồng con Rốt, tay dắt con Măng lững thững bước ra khỏi cửa khách sạn. Trời ơi, Thy than thầm, chồng con sao có mặt ở đây, lúc này? Bình có thấy nàng tất tả chạy xuống thang và Ryan lẽo đẽo chạy theo không? Những câu hỏi hiện ra dồn dập trong trí làm Thy đứng sững như trời trồng. Nàng cứng người, mắt trợn tròn nhìn về phía chồng con, không một phản ứng. Mãi đến khi con Rốt trườn người khỏi tay bố, ngón tay chỉ về phía mẹ, Thy mới thật sự lấy lại bình tĩnh:
– Mommy, mommy…
Và Bình thấy vợ. Hai đứa con chạy a lại phía Thy và ôm cứng lấy nàng. Thy ngồi sụp xuống mở rộng vòng tay ôm choàng lấy con, hôn lấy hôn để lên hai khuôn mặt ngây thơ, sáng rực rỡ. Bình vừa trờ tới, Thy đứng dậy, cố nở nụ cười thật tươi mà trong thâm tâm nàng hy vọng chồng không nhận ra đó là nụ cười gượng:
– Sao bố con lại có mặt ở đây?
Bình hoàn toàn không thấy sự thay đổi trên nét mặt vợ. Chàng vẫn nhận ra sự duyên dáng của Thy, cho dù quần áo khá xốc xếch và tóc tai rối bù. Bình nghĩ chạy sống chạy chết tránh hỏa hoạn thì quần áo như thế là tươm tất lắm rồi.
Cả hai đứa nhao nhao:
– Happy Birthday mẹ.
– Bố con bất ngờ đến đây để mừng sinh nhật em. Trên phòng bố con trang trí đẹp lắm…
Thy ngắt lời:
– Cái gì? Anh trang trí phòng em? Lúc nào?
Bình phá lên cười ngặt nghẽo:
– Thấy chưa! Hết chê anh cù lần chưa? Em đâu có ngờ bố con núp trong phòng tắm chờ. Hai đứa còn vẽ hai tấm tranh để mừng sinh nhật mẹ. Anh cũng đặt cả chiếc bánh nữa.
Nói đến tranh vẽ, Bình nhìn xuống hai đứa con và nhận ra trong lúc vội vàng chúng đã bỏ quên trong phòng. Vì nhìn con, Bình không để ý đến nét mặt của Thy tái hẳn đi. Thy nghe tim mình đập loạn nhịp như người bị tai biến. Nàng cảm thấy chóng mặt. Bàn tay Thy dựa vào thành xe bên cạnh để giữ thăng bằng. Nàng cố giữ bình tĩnh khi Bình vẫn thản nhiên tiếp tục:
– Anh đâu ngờ mấy ngọn nến thắp trên chiếc bánh lại gây ra báo động hỏa hoạn. Lúc đó anh định mở cửa chạy ra giữ em lại nhưng không kịp. Thổi tắt cho được từng ấy ngọn nến, rồi lại vướng hai đứa con, bố con chạy ra đến cầu thang thì em mất hút…
Tai Thy lùng bùng. Nàng phải cố gắng lắm mới đứng vững trên đôi chân. Thật không ngờ lúc nàng và Ryan hôn nhau cuồng loạn ở hành lang thì chồng và hai con đang chờ nàng trong phòng tắm. Chồng con vượt đường xa đến mừng sinh nhật Thy, thế mà nàng lại có hành động buông thả, đi ngược lại nề nếp truyền thống căn bản. Hóa ra bên kia bức tường là sự phản bội, còn bên này là tình mẫu tử và lòng thủy chung.
Giọng con Măng lo lắng:
– Mẹ, mẹ sao vậy? Mẹ đau hả?
Thy hít một hơi dài, dùng hết sức bình sinh để lấy lại vẻ tự nhiên:
– Mẹ không sao. Báo động hỏa hoạn làm mẹ hoảng quá.
Sự phản bội về thân xác, báo động hỏa hoạn, chạy thoát thân, chồng con đến mừng sinh nhật… chỉ trong vòng mươi lăm phút mà toàn những chuyện bất ngờ và kinh khủng xảy ra nhanh đến độ chóng mặt. Thy chợt thấy tinh thần bải hoải hơn bao giờ. Sự hiện diện của chồng con ở đây đã đẩy tâm trí bằng thép của nàng đến tận cùng của sự chịu đựng. Cứ nhìn vào khuôn mặt vô tư của hai đứa con gái, Thy lại càng cảm thấy đau nhói trong tim. Nàng cố cầm giữ nỗi cảm xúc ngay sau khi nghe 2 đứa con vượt đường xa đến gặp mẹ để chúc mừng sinh nhật. Bỗng nhiên, Thy chán tất cả, chán vinh quang đang chờ đón nàng qua sự thành công của khóa tu nghiệp, chán thành phố này, chán khách sạn, chán luôn cả những người chung quanh mà nàng chưa hề quen biết. Nỗi chán chường đè nặng trong tâm trí của một người tuyệt vọng khi gặp cảnh ngang trái. Thy muốn rời bỏ khung cảnh như một sự chạy trốn thực tại. Nó giúp nàng tạm quên đi sự buông thả mà nàng đã dại dột vượt qua ranh giới của đạo lý.
Thy nói với chồng:
– Em muốn về nhà, Bình ơi! Em muốn về ngay bây giờ.
– Được quá đi chứ. Nào, chúng ta lên đường.
Tiếng con Rốt:
– Mẹ về luôn nghen mẹ.
– Mẹ về ngay… về ngay con ạ!
Vừa nói, Thy ôm lấy con, hôn lung tung lên mặt. Trời đã sẩm tối nên không ai thấy nàng khéo léo đưa ống tay áo lau giọt nước đang đùn ra nơi khóe mắt. Thy đứng lên:
– Anh chở con về trước. Em giải quyết một vài việc rồi về ngay.
– Okay… chào mẹ đi con.
– Bye mẹ…
Thy đứng vẫy tay, chờ Bình lái xe ra khỏi bãi đậu xe rồi nàng mới bước vào khách sạn. Thy thanh toán tiền phòng nơi quầy và dặn dò quản lý gom góp tất cả quần áo và vật dụng còn sót lại trên phòng gửi về tận nhà cho nàng. Lúc ra xe, tình cờ nhìn lên bầu trời tối đen như mực, Thy bỗng thấy một ngôi sao lóe lên để lại một đường sáng dài rồi mất hút vào cõi không gian mù mịt. Màn đêm buồn tênh như mảng tối trong tâm hồn nàng. Ngồi vào xe, Thy chợt nhớ ra hôm nay là ngày mùng Hai Tết, một trong 3 ngày quan trọng nhất trong năm theo truyền thống Việt đối với gia đình. Thế mà nàng lại phản bội chồng con vào đúng thời khắc linh thiêng của đất trời. Thẫn thờ nổ máy xe, Thy gục đầu vào vô-lăng, thở dài ảo não.

Thy về nhà lúc gần 11 giờ khuya. Nàng rón rén mở cửa từ nhà xe dẫn vào nhà bếp. Nhà cửa yên ắng. Ngọn đèn nhỏ gắn trên tường chiếu ánh sáng mờ nhạt khắp phòng. Thy thả đôi giày ở chân cầu thang và bước nhẹ lên lầu. Nàng mở hé cửa nhìn vào phòng 2 đứa con gái. Hơi thở đều đặn vọng ra từ giường hai chị em đang ngủ. Đường xa đi đi về về hơn nửa ngày nên chúng quá mệt mỏi, vừa đến nhà là ngủ vùi. Khép nhẹ cửa phòng của con, Thy bước vào phòng ngủ. Bình đang nằm trên giường, không biết đã ngủ chưa. Thy lặng lẽ bước vào phòng tắm.
Đứng trước gương, Thy thẫn thờ nhìn khuôn mặt hốc hác sau một ngày phiêu lưu nhiều biến động. Những ý nghĩ lẩn quẩn trong trí lúc lái xe bây giờ trở lại. Suốt quãng đường, Thy cố tìm cho được lý do tại sao nàng lại hành động cuồng loạn thiếu suy nghĩ đến thế. Nàng luôn chừng mực trong lời ăn tiếng nói, chín chắn trong công việc. Chưa bao giờ Thy dám liều lĩnh phiêu lưu xem nhẹ nghĩa tào khang. Thế mà hành động cuồng dại của nàng ngày hôm nay suýt đánh đổ 9 năm hạnh phúc với chồng con. Thy có quan niệm khá cởi mở trong tình yêu. Những cuộc tình trước đây đôi lúc đẩy Thy đi khá xa, nhưng chưa bao giờ vượt vòng lễ giáo. Tuy Thy cởi mở nhưng không bao giờ buông thả, vì bất cứ chuyện gì, theo nàng, đều có giới hạn của nó. Tình nghĩa vợ chồng phải xây dựng trên lòng tin, ngay cả những lúc sống xa nhau.
Không phải lần đầu tiên Thy sống xa chồng. Vì công việc, mỗi năm Thy đi công tác ba bốn lần, và đôi khi đợt công tác kéo dài vài tuần. Những lần xa nhà, nằm ở khách sạn một mình, Thy vẫn giữ một lòng trung trinh. Làm những việc bất chính sau lưng người phối ngẫu là điều Thy cho rằng hèn nhát. Chẳng thà trước mặt nhau tuyên bố thẳng thừng tôi không còn yêu anh nữa, rồi đường ai nấy đi, và muốn làm gì thì làm. Như thế vẫn dễ hiểu hơn là lén lút phản bội. Quan niệm về cuộc sống rõ ràng đến vậy, thế mà Thy vẫn sa ngã, và thả rơi tình nghĩa vợ chồng vào vòng tay của một thanh niên dưới quyền. Suy cho cùng thật chẳng đáng gì.
Thy lắc đầu không dám nghĩ tiếp hậu quả sẽ ra sao nếu còi báo động hỏa hoạn không hú lên đúng lúc. Nếu chồng con thấy được tư thế đĩ thõa của nàng với người đàn ông lạ, hai đứa con gái sẽ nghĩ gì về mẹ nó. Còn Bình nữa. Thy không đoán được phản ứng của chồng ra sao, nhưng chắc chắn là Bình sẽ ném ánh mắt khinh bỉ vào thân thể gần như trần truồng của nàng. Thy rùng mình. Trên đời nàng sợ nhất là sự khinh bỉ của người thân. Thy tin chắc nàng chưa bao giờ làm điều gì để mất sự kính trọng nơi chồng con. Vậy mà chỉ cần một phút bốc đồng, Thy suýt đạp đổ từng ấy năm hạnh phúc. Càng nghĩ Thy càng thấy hổ thẹn. Nàng cảm thấy xấu hổ với hai đứa con gái. Con cái vượt đường xa đến mừng sinh nhật mẹ, thế mà nàng… Thy chợt thấy mình có lỗi với hai đứa con quá chừng chừng.
Vừa nghĩ đến đó, Thy bật khóc.
Bàn tay đưa lên bụm miệng ngăn tiếng nấc đừng thoát ra ngoài, Thy mở ngay vòi nước để tiếng nước chảy át đi tiếng khóc. Đêm khuya, một tiếng động nhỏ đủ nghe rõ mồn một. Thy không muốn chồng biết một chút gì về sự hư đốn của nàng. Thy nhớ lúc còn nhỏ đêm khuya con bé thường hoảng sợ vì đám mèo hoang rượng đực rượt đuổi trên mái tôn. Mãi lúc lớn lên nàng mới biết những con mèo cái tìm giống đực để thỏa mãn cơn động tình. Sự thật trần trụi là, Thy cũng chẳng khác gì những con mèo hoang đó, hành động vụng trộm của nàng như cơn động cỡn của loài thú không hơn không kém. Thy cúi mặt lắc lắc đầu. Lần đầu tiên trong đời, nàng cảm thấy thân xác mình quá rẻ mạt và bẩn thỉu, tấm thân mà Bình nâng niu hôn lên từng vùng da thịt mãi không chán trong đêm hợp cẩn. Nàng cần phải gột rửa ngay hơi hướm của tội lỗi trên môi, trên má, trên ngực…
Thy cởi bỏ quần áo và bước vào bồn tắm. Ngửa đầu để dòng nước ấm xối lên mặt hòa lẫn với nước mắt, nàng dùng cả bàn tay chà xát lên môi. Thy xoa xà bông khắp người và kỳ cọ thật lâu. Nàng chà xát mạnh đến nỗi đôi môi bây giờ gần như sưng tấy, và đỏ quạch. Bầu ngực nàng cũng nóng ran vì sự ma sát giữa da thịt và miếng vải lau người. Thy cố giữ tiếng khóc đừng thoát ra khỏi miệng. Đêm khuya, những giọt nước rơi lộp độp trên sàn phòng tắm xen lẫn với tiếng nấc nghe như một điệu nhạc đơn điệu, buồn tênh. Thy đứng tắm như thế lâu lắm…
Vừa bước ra khỏi bồn tắm, chiếc quần lót và xú chiêng màu hồng nằm tênh hênh trên sàn đập vào mắt Thy. Nàng cúi xuống cầm lên, rồi nghĩ sao, Thy nghiến răng ném bộ đồ lót đắt tiền vào thùng rác ở góc phòng. Khoác chiếc áo ngủ lên người, Thy buộc hờ hai tà áo bằng sợi giây trước bụng. Ra đến cửa, Thy đứng tần ngần rồi quay lại và nhét bộ đồ lót sâu xuống đáy thùng rác. Nàng muốn tẩm liệm và chôn vùi một lần lầm lỡ đáng khinh, đoạn tuyệt hẳn với một lần động cỡn yếu hèn.
Thy rón rén leo lên giường. Nàng nhẹ nhàng nằm xuống cạnh Bình. Thy biết chồng đang thức. Nàng khẽ gối đầu lên cánh tay của Bình. Chàng co cánh tay kéo sát Thy vào người. Nương theo thế kéo, Thy áp má nàng vào vùng ngực trần của chồng. Bàn tay Thy vuốt nhẹ má chồng, lần xuống cổ và dừng lại ở vùng ngực trái, chỗ trái tim. Thy để yên bàn tay, nghe tim Bình đập từng nhịp một. Nàng rướn người, thỏ thẻ vào tai chồng:
– Em xin lỗi anh.
Bình vẫn nằm ngửa, mắt nhìn lên trần nhà:
– Không… em nhận xét đúng, chính anh đôi lúc cũng thấy mình cù lần chậm chạp nữa là em.
Một giọt nước mắt rơi xuống vùng ngực trần nhưng Bình lại nghĩ Thy tắm xong chưa lau khô tóc. Hóa ra Bình lại tưởng nàng xin lỗi vì đã chê chàng cù lần. Thy nức nở trong lòng, “em có lỗi với anh nhiều lắm, anh ơi.” Nàng nghẹn ngào:
– Tha lỗi cho em nhé, Bình.
Sợi giây buộc hờ trước bụng đã tuột ra, vạt áo lệch qua một bên, bộ ngực Thy đang cọ xát bên hông làm người chàng nóng ran. Bình vẫn không nói gì, nhưng vòng tay của chàng siết chặt hơn, tim chàng đập dồn dập như lần gặp gỡ lần đầu, hơi thở nóng bỏng của chàng phả vào mặt Thy. Nàng bỗng thấy rạo rực thèm chồng hơn bao giờ. Đêm quyến rũ và nồng cháy với cơn thèm muốn của nàng đang bùng lên như ngọn lửa trước cơn gió mạnh. Lửa tình sẽ đốt cháy rụi một lần dại khờ của Thy và hâm nóng lại tình yêu của hai vợ chồng.
Trước khi vít đầu Bình, kéo sát vào vùng ngực no tròn, căng phồng thèm khát, Thy thoảng nghe tiếng chồng nhẹ như tơ:
“Happy Birthday!”

 

HẢI NGỮ

LẬP ĐÔNG NƠI XA ĐÓ

nguyenngocnghia

Mắt mù sương ngấn nước
rưng rức chiều lập đông
buồn, vui. ai biết được
trên tay đời mênh mông

Môi phù sa thầm lặng
rớt giọt hôn tình đầu
dấu yêu giờ đã khác
phủ trắng bờ chiêm bao

Về đâu. tìm bóng đợi
tóc úa ngọn đông phong
thương trái tim ẩm mốc
bốn mùa nặng chờ mong

Men bờ rêu vườn cũ
le lói bóng quỳ vàng
hoa ơi vô tình đã
chạm nỗi xót mang mang

Phía bờ xa cổ tích
người theo đời phong ba
ta như viên sỏi nhỏ
lăn về dĩ vãng xa…

NGUYỄN NGỌC NGHĨA

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, “Việc gì cũng cần phải có thời gian”

nuocmattruocconmua

larryengelmann

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, nguyên tác Anh Ngữ “Tears Before The Rain” là một tập sử liệu về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam, do Larry Engelmann, Giáo Sư Đại Học San Jose State thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn nhiều thành phần: người Mỹ, người Việt, kẻ thắng người bại …Những cuộc phỏng vấn này khởi sự từ 1985, sách xuất bản năm 1990. Bản dịch Việt Ngữ do nhà văn Nguyễn Bá Trạc thực hiện năm 1993, xuất bản năm 1995 tại California.

TRUNG TƯỚNG TRẦN CÔNG MÂN ( Bắc Việt)
“Việc gì cũng cần phải có thời gian”

Tỉnh Phước Long được giải phóng vào đầu năm 1975. Sau khi giải phóng, cuộc tiến công Phước Long đã đặt cho chúng tôi hai hậu quả có thể xảy ra: Hoặc tỉnh này sẽ bị chiếm lại, hoặc sẽ mãi mãi nằm trong tay chúng tôi. Và chính đây là cuộc thử nghiệm đầu tiên của bộ đội chúng tôi nhằm đo lường tình thế miền Nam.

Để lấy lại Phước Long, chính quyền Nam Việt Nam cần phải có viện trợ quân sự cao độ của chính phủ Mỹ, nhưng chúng tôi nghĩ việc ấy không xảy ra, vì cuộc tiến công đã được thi hành sau vụ Watergate, lúc ấy đã có những dấu hiệu rõ rệt cho thấy công chúng Mỹ chán ngán chiến tranh rồi, quốc hội Mỹ đã bắt đầu lãnh đạm với Việt Nam rồi.

Muốn thắng một cuộc chiến, người ta cần hiểu đối phương, cần hiểu chính quyền họ. Có thể những người thiết lập kế hoạch ở Hà Nội không có đầy đủ chi tiết hơn về sự vận hành của người Mỹ, nhưng với mô thức tổng quát mà chúng tôi đã thấy, đã hiểu, thì chúng tôi biết khá rõ về thái độ người Mỹ, do đó có thể dự tính về họ được.

Về lính miền Nam thì tinh thần của họ gắn liền với sức mạnh Không quân Mỹ. Khi sức mạnh Không quân Mỹ giảm sút, tinh thần lính miền Nam cũng giảm. Về những người lính bình thường của miền Nam thì họ đã mệt mỏi chiến tranh, họ đã phải kéo dài một trận chiến không đi đến đâu. Nhưng đối với các sĩ quan quân đội miền Nam thì tinh thần họ cao hơn, vì họ biết nếu chiến tranh chấm dứt, sự nghiệp của họ cũng chấm dứt luôn.

Cuộc tiến công Phước Long là một cuộc trắc nghiệm đã được tính toán hết sức thận trọng. Chúng tôi muốn thử cả chính quyền Mỹ lẫn chính quyền Việt Nam. Nếu tấn công Quảng Trị, hoặc Đà Nẵng chẳng hạn thì xa quá, chúng tôi không trắc nghiệm được phản ứng họ. Nếu tấn công Saigon thì gần quá. Cho nên Phước Long là một địa điểm chúng tôi cảm thấy có một khoảng cách vừa phải đối với Saigon. Tất nhiên, đã không có phản ứng nào xảy ra. Đó chính là điều chúng tôi muốn tìm hiểu: Họ sẽ phản ứng, hay họ sẵn sàng buông xuôi? Câu trả lời là họ đã buông xuôi.

Trước khi cuộc tiến công xảy ra, tôi đang ở Ban Mê Thuột, nhưng khi tiến công, tôi ở Hà Nội. Tôi đã ở Hà Nội cho đến hết cuộc chiến này.

Về cuộc tấn công Ban Mê Thuột chúng tôi đã làm cho quân đội miền Nam ngạc nhiên nhưng mặt khác, chính họ cũng làm chúng tôi ngạc nhiên vì họ tan rã quá mau, chúng tôi không lường trước sự việc xảy ra như vậy. Chúng tôi cứ tưởng sau cuộc tấn công Ban Mê thuột, quân đội miền Nam sẽ tái lập phòng tuyến phản công. Chúng tôi dự liệu một trận mãnh liệt lâu dài hơn với quân đội miền Nam ở vùng chung quanh Ban Mê Thuột. Nhưng ngay cả trong trí tưởng tượng, chúng tôi cũng không hề nghĩ đến việc Thiệu đã phản ứng lại cuộc tấn công với cách như thế.

Trong thực tế, phản ứng của Thiệu đã tạo một câu hỏi lớn trong trí óc chúng tôi, làm chúng tôi tự hỏi phải chăng đây là một cái bẫy, một chiến thuật khôn khéo để nhử chúng tôi. Không thể nào chúng tôi tin nổi những chuyện ông ta đã làm. Chính vì hành vi đó của ông Thiệu, chúng tôi nghĩ chúng tôi sẽ phải đương đầu một chiến thuật phòng thủ cực kỳ sáng tạo mới mẻ, do đó trước hết các cấp chỉ huy của chúng tôi phải tiến lên hết sức cẩn thận, xem chừng đừng rơi vào bẫy.

Trong mấy ngày đầu, chúng tôi đinh ninh quân đội miền Nam đã hoạch định một vài ngạc nhiên lớn dành cho chúng tôi. Nhưng đến khi Thiệu rút quân ở Pleiku, đột nhiên chúng tôi nhận thức được là chẳng có cạm bẫy, chẳng kế hoạch gì, miền Nam đã bỏ cuộc, không chiến đấu nữa. Lúc ấy là lúc chúng tôi quyết định đuổi theo càng nhanh càng tốt.

Lúc đầu, khoảng những năm 1970, chính phủ Mỹ sử dụng máy bay B-52 làm chúng tôi lo lắng. Nhưng trong năm 1975 vấn đề ấy không còn nữa, vì lẽ vào năm 1972 người Mỹ đã không thành công trong việc đánh bom chúng tôi ở miền Nam, nên chúng tôi biết ít khi người Mỹ thử lại lần nữa.

Sau khi chúng tôi đã giải phóng xong miền Trung, thì có vài cuộc vận động ngoại giao giữa chính phủ Mỹ và Hà Nội nhằm mục đích làm chậm những cuộc tiến công của quân đội miền Bắc.

Việc này không thực hiện trực tiếp giữa đôi bên, mà qua một số nước khác, qua những người trung gian. Người Mỹ yêu cầu chúng tôi cho quân đội đi chậm lại để họ có đủ thì giờ hoàn tất cuộc rút quân khỏi Saigon. Họ cảnh cáo nếu chúng tôi không thực hiện như thế, họ sẽ can thiệp vào Việt Nam trở lại và sẽ tiến hành những cuộc tấn công đắt giá cho chúng tôi. Đấy là những gì chúng tôi đã được thông báo.

Tuy nhiên chúng tôi không còn coi điều ấy quan trọng nữa. Đấy chỉ là một sự đe doạ vô nghiã vào năm 1975, chúng tôi biết rõ như thế. Người Mỹ sẽ không còn quay trở lại.

Vì thế, gác bỏ những cảnh cáo nhằm làm chậm cuộc tiến quân, ngược lại, chúng tôi còn cố tiến nhanh hơn để khỏi đánh vào mùa mưa. Chúng tôi muốn đến Saigon trước khi mùa mưa khởi đầu. Nếu có một lúc nào cuộc tiến công có vẻ chậm lại, đấy chỉ vì nhu cầu chiến thuật dàn quân mà thôi.

Tôi không ở trong một số ít người có đặc quyền được biết điều này, tuy nhiên quan niệm của tôi là cuộc tiến công hoàn toàn do chúng tôi tiến hành, tuyệt đối không ai khác, tuyệt đối không có Liên Xô hay Trung Quốc liên hệ gì đến việc hoạch định cả.

Sau hiệp định Pa-ri, có việc rút giảm tiếp vận vũ khí từ các nước Xã Hội Chủ Nghiã. Nhưng Trung Quốc lại khác, vì trước cả hiệp định Pari, Trung quốc đã ký hiệp định Thượng Hải với Mỹ. Dựa trên sự công bố hiệp định này thì rõ ràng Trung Quốc không hỗ trợ chúng tôi và không thực sự muốn chiến tranh Việt Nam chấm dứt. Trung Quốc không thực sự hài lòng vui vẻ gì về việc cuối cùng trận chiến đã được giải quyết, họ không hài lòng vui vẻ gì về cuộc Đại thắng mùa Xuân của chúng tôi.

Các viên chức cao cấp Nam Việt Nam bấy giờ đã cố gắng nhằm đạt đến một thoả thuận trong việc kết thúc cuộc chiến. Khi thấy rõ sẽ thua, đột nhiên họ muốn có chính phủ liên hiệp. Nhưng chúng tôi đã ra lệnh bộ đội cứ gia tăng áp lực để đạt chiến thắng càng nhanh càng tốt, chúng tôi không chú ý đến bất cứ một hình thức chính phủ liên hiệp nào ở Saigon. Đã quá muộn rồi.

Chúng tôi chỉ nhằm đánh quân đội miền Nam, chúng tôi không muốn làm bất cứ một hành động nào liên hệ đến người Mỹ. Vì thế chúng tôi không đụng chạm gì đến người Mỹ, tuyệt nhiên không bắn họ. Chúng tôi chỉ muốn người Mỹ ra khỏi đất nước chúng tôi càng sớm càng tốt, ngõ hầu chúng tôi có thể dốc toàn lực vào thanh toán quân đội miền Nam.

Chúng tôi nghĩ toà Đại sứ Mỹ là cánh tay của Ngũ Giác Đài, nên chúng tôi cho rằng biện pháp tốt nhất là để tất cả người Mỹ ra đi từ Tòa Đại sứ mà hồi hương. Chúng tôi không làm thoả thuận nào với miền Nam về bất cứ điều gì. Chúng tôi không hề thoả thuận gì về việc Không quân của họ ở lại Saigon. Tất nhiên là không. Thực tức cười!

Mặc dầu ở Hà Nội, nhưng tôi vẫn được thuyết trình hàng giờ về những gì xảy ra chung quanh Saigon. Các tin tức về việc Saigon sụp đổ đã được thông báo cho các cán bộ lãnh đạo cao cấp ở đây trước. Tôi không phải là người duy nhất được nghe tin. Tất cả mọi người đã nhận được tin ấy vào khoảng buổi trưa ngày ba mươi. Tất cả đã tràn ra ngoài đường, vô cùng sung sướng. Chiến tranh đã dứt.

Chúng tôi cử hành liên hoan mừng Giải phóng Saigon. Thực tình chúng tôi nghĩ rằng còn phải khó khăn chứ không ngờ dễ dàng như vậy. Chúng tôi hết sức ngạc nhiên.

Việt Nam đã lâm vào tình trạng chiến tranh quá lâu, mọi người đều mong mỏi chiến tranh kết thúc nhưng chẳng ai biết bao giờ mới chấm dứt. Vì thế chiến thắng cuối tháng Tư là nỗi ngạc nhiên lớn cho tất cả mọi người. Ai nấy đều vui mừng. Mọi người chạy cả ra đường hò reo, hô khẩu hiệu, ca hát nhảy múa.

Lúc ấy tôi bận quá, không thể về nhà được. Tôi là Tổng Biên tập tờ Nhân Dân nhật báo nên phải viết bài cho tờ báo ấy.
Liên hệ vào cuộc chiến này là một lầm lẫn của chính phủ Mỹ. Họ đã không nhận thức được sức mạnh thực của những người mong muốn thống nhất và giải phóng đất nước họ.

Chúng tôi không đặt trách nhiệm cho nhân dân Mỹ về những gì xảy ra ở Việt Nam. Những thanh niên chiến binh Mỹ được gửi đến chiến đấu ở đây đã bị chính phủ họ lừa dối để tham dự vào việc sai trái. Khi những người này đến Việt Nam bắn giết, thực sự họ không rõ họ đã làm những gì.

Giờ đây chiến tranh đã qua. Giữa dân tộc của đất nước quý ông và dân tộc đất nước chúng tôi không còn thù hận gì nữa. Không lý do gì để chúng ta không thể làm bạn với nhau được.

Chính phủ Mỹ đã gây ra cuộc chiến, nên chính phủ Mỹ cần có nghiã vụ đạo đức và nghiã vụ tài chánh đối với nhân dân Việt Nam. Nhưng nhân dân Việt Nam không chạy theo xin xỏ những chuyện này. Tuy nhiên tốt hơn hết, ngay bây giờ chính phủ Mỹ nên xúc tiến việc thiết lập quan hệ bình thường với Việt Nam. Chúng tôi không yêu cầu gì hơn.

Trận chiến này chính là trận chiến dài nhất trong lịch sử Mỹ. Trận chiến này cũng là trận chiến dài nhất lịch sử Việt Nam, đã đem đến ba mươi năm đau đớn xót xa, khốn khổ cho người Việt. Tuy vậy, vào lúc kết thúc, nó cũng đem đến được một điều tốt đẹp, đấy là cuối cùng, đất nước đã thống nhất, độc lập. Cho nên cuộc chiến cũng đã đem lại nhiều kết quả và cảm xúc lẫn lộn. Nhân dân chúng tôi mất mát nhiều mạng sống, nhiều của cải nhưng nhân dân chúng tôi đã đạt độc lập, thống nhất, hòa bình, nên cuối cùng cuộc chiến cũng đáng giá cho những mất mát ấy.

Cũng xin đừng quên đây là một đất nước nhỏ bé, nghèo nàn mà vượt qua được một quyền lực lớn lao, giàu có. Cho nên cuộc chiến cũng đáng giá cho những mất mát ấy.

Có lẽ chính đây là một đặc tính của dân tộc Việt Nam, ngày nay chúng tôi không hề mang niềm cay đắng nào đối với người Mỹ. Chúng tôi đã từng phải trải qua rất nhiều năm chinh chiến với nhiều thế lực ngoại quốc đã muốn chiếm đóng Việt Nam. Nhưng khi cuộc chiến đã xong, không lý do gì để ôm mãi những mối hằn học nữa.

Đối với những người Mỹ đã phản đối, đã không cộng tác với cuộc chiến chống Việt Nam, như Jane Fonda, Tom Hayden, Harrison Salisbury, họ đã làm những gì đúng đắn, người Mỹ cũng không nên hằn học với họ. Nếu người Mỹ vẫn duy trì chính sách mà người Mỹ đã thiết lập từ năm 1945 với ông Archimedes Patti của O.S.S. đối với dân tộc Việt Nam thì cuộc chiến này đã không bao giờ xảy ra. Nếu quần chúng Mỹ được thông báo rõ về các mục tiêu và ước vọng của dân tộc Việt Nam, thì chắc chắn họ đã phải hỗ trợ cho các nỗ lực của chúng tôi trong công cuộc thống nhất đất nước chúng tôi.

Dù sao đi nữa, nếu chính phủ Mỹ có thể thoải mái dễ dãi hơn trong chính sách cho tin tức được loan chuyển tự do, không có thành kiến chống chính phủ Việt Nam, thì con người có thể hiểu rõ hơn về nhau, về các vấn đề của đất nước này ngày hôm nay.

Tôi hiểu người Mỹ cảm thấy không thoải mái với người Nga tại đây. Tuy nhiên quả có một vấn đề trong việc trình bày tin tức từ Việt Nam. Quần chúng Mỹ đã được bảo rằng ngày nay Việt Nam là một thuộc địa của Nga, nhưng nếu có những tin tức thông thạo chính xác thì quý vị sẽ thấy chúng tôi độc lập. Chúng tôi không thuộc về ai ngoài chúng tôi.

Chính phủ Mỹ sợ người Nga hơn sợ người Tàu. Tôi không rõ tại sao. Cả hai đều là Cộng sản. Tôi không rõ tại sao vậy.
Sẽ cần phải có thời gian để chính phủ Mỹ thoát ra được cảm giác thù nghịch Việt Nam. Việc gì cũng cần phải có thời gian.

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, “Chúng không cục cựa nổi nên chúng không bắn chúng tôi được”

nuocmattruocconmua
larryengelmann
NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, nguyên tác Anh Ngữ “Tears Before The Rain” là một tập sử liệu về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam, do Larry Engelmann, Giáo Sư Đại Học San Jose State thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn nhiều thành phần: người Mỹ, người Việt, kẻ thắng người bại …Những cuộc phỏng vấn này khởi sự từ 1985, sách xuất bản năm 1990. Bản dịch Việt Ngữ do nhà văn Nguyễn Bá Trạc thực hiện năm 1993, xuất bản năm 1995 tại California.

TRẦN MINH LỢI
(Luật sư)
“Chúng không cục cựa nổi nên chúng không bắn chúng tôi được”

Tháng Tư năm 1975, tôi đang hành nghề Luật sư ở Saigon. Bấy giờ tôi mới hai mươi lăm tuổi. Tôi nghĩ nếu Cộng sản chiếm được miền Nam thì tôi không thể nào sống dưới chế độ này nổi. Tôi không sợ bị Cộng sản giết nhưng tôi yêu tự do, tôi biết Cộng sản sẽ tước đoạt tự do của tất cả chúng tôi. Ngay khi Cộng sản mới chiếm được một vài phần đất, dân đã tháo chạy vì không thể sống với chúng. Dân Đà Nẵng, Nha Trang đều đã chạy vào Saigon tìm tự do. Bấy giờ có hàng ngàn người chạy về thành phố Saigon mỗi ngày.

Từ hai mươi tư cho đến hai mươi chín tháng Tư, tôi đã cố sức kiếm đường xuất ngoại, nhưng không xong. Phải có tiền mới đi nổi, mà tiền nong tôi lại chẳng có bao nhiêu. Ngày 30 tháng Tư, tôi với một người bạn xuống bờ sông Saigon. Chúng tôi nghe nói ở đấy có mấy chiếc tàu lớn sắp đi, hy vọng có thể kiếm được chỗ.

Lúc ấy một đám đông đang vây quanh Cảng. Có một tàu sắp nhổ neo. Chiếc tàu này trước bị hỏng máy. Nhưng đến 30 tháng Tư, họ sửa được một trong hai dàn máy. Thế là họ chất người lên tàu mà chạy.
Tàu chúng tôi đi rất chậm. Vì chỉ có một máy. Lúc ấy lại là lúc cần phải gấp rút, vì trước khi nhổ neo, chúng tôi nghe tin Tổng thống Minh đã đầu hàng Cộng sản.

Khi qua sông Saigon, cái đáng sợ nhất là hoả lực trên bờ sông. Tàu không treo cờ vì lẽ chúng tôi biết nguy hiểm, chúng tôi không sợ máy bay bằng sợ xe tăng trên bờ. Ngang khách sạn Majestic, chúng tôi thấy một chiếc xe tăng Nga T-54 được đưa đến, hướng mặt ra sông. Đám lính thiết giáp Cộng sản nhìn chúng tôi. Nhưng bấy giờ dân chúng đang bao quanh chiếc xe tăng để chào mừng, nhiều người trèo lên xe tăng đứng phất cờ. Chính vì dân chúng bao quanh, bọn thiết giáp Cộng sản không cục cựa nổi, chúng không bắn chúng tôi được. Chúng chỉ nhìn. Nếu chúng bắn thì chúng tôi bỏ mạng cả.

Khi chạy đến gần Vũng Tàu, phần lớn mọi người kéo nhau xuống núp dưới boong để con tàu đừng có vẻ khả nghi. Chúng tôi sợ nếu lính Cộng sản thấy tàu chất đầy người, chúng có thể bắn. Cho nên chỉ còn một ít người đứng lại trên boong, họ được nhìn thấy hình ảnh Việt Nam lần cuối. Hình ảnh bãi biển Vũng Tàu.
Sau chúng tôi, không còn một con tàu nào nữa. Tàu chúng tôi ra đi là chuyến cuối cùng.

Ra đến ngoài khơi Nam Hải, chúng tôi gặp một chiếc tàu Hải quân Hoa Kỳ. Chúng tôi đánh tín hiệu cấp cứu SOS, họ cập đến, cho người lên tàu chúng tôi. Họ cố sửa hộ dàn máy đã hỏng, nhưng không xong. Họ bảo tàu chúng tôi chỉ còn một máy, không thể nào đi xa. Vì vậy, họ cho chúng tôi lên chiếc tàu Hải Quân Hoa Kỳ.
Khi tất cả chúng tôi đã lên xong, chiếc tàu Hải quân Hoa Kỳ bắt đầu nổ đại bác bắn chiếc tàu chúng tôi. Họ bắn hụt vài lần. Cuối cùng, con tàu trúng đạn, bốc lửa. Hình ảnh sau chót chúng tôi nhìn thấy là con tàu bắt cháy, từ từ trôi dạt lại phiá Việt Nam.

Tất cả chúng tôi đều cảm thấy đau buồn vì chuyện mất nước. Chúng tôi cảm thấy chính người Mỹ đã để cho Cộng sản thắng. Tất cả những gì chúng tôi cần để tiếp tục cuộc chiến chỉ là viện trợ Mỹ. Chúng tôi đã cạn tiếp liệu. Chúng tôi không hiểu tại sao Hoa Kỳ bỏ rơi chúng tôi.

Nhiều người ở miền Nam Việt Nam trước kia không hiểu Cộng sản là gì. Nghe Cộng sản tuyên truyền, nhiều người đã cả tin vào chúng. Nhưng giờ đây Cộng sản chiếm được đất nước, người ta mới hiểu sự thật về Cộng sản. Họ sẽ chiến đấu chống Cộng Sản. Ngay đến bây giờ vẫn còn nhiều người ở Việt Nam chiến đấu chống Cộng.

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, “Chúng tôi là những cứu tinh”

nuocmattruocconmua

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, nguyên tác Anh Ngữ “Tears Before The Rain” là một tập sử liệu về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam, do Larry Engelmann, Giáo Sư Đại Học San Jose State thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn nhiều thành phần: người Mỹ, người Việt, kẻ thắng người bại …Những cuộc phỏng vấn này khởi sự từ 1985, sách xuất bản năm 1990. Bản dịch Việt Ngữ do nhà văn Nguyễn Bá Trạc thực hiện năm 1993, xuất bản năm 1995 tại California.

HAROLD J. MURPHY
(Thợ mộc, thủy thủ tàu Greenville Victory)
“Chúng tôi là những cứu tinh”

Vào năm 1975 tôi lại nghe biển cả thôi thúc. Tiếng réo gọi của biển đôi lúc vọng về. Ông ạ, nếu ông có thân quyến hoặc bạn bè đi biển, ông sẽ hiểu điều tôi muốn nói. Tôi đã nghe tiếng biển khơi réo gọi từ khi còn trẻ, cho nên chẳng bao giờ có thể ngừng đi. Có kẻ nào đi biển – khi đã lên đất liền – mà lại không nghĩ đến chuyện trở về với biển đâu?

Cho nên năm ấy, tôi đi Nữu ước. Ở đó, trên chiếc tàu Greenville Victory người ta đang thiếu một chân thợ mộc. Thế đấy. Tôi lại ra khơi trên chiếc tàu Greenville Victory với tư cách là một bác phó mộc. Chúng tôi sang bờ biển miền Tây, đến Port Chicago, chất một chuyến vũ khí
đạn dược, rồi vượt sóng đại dương đến vịnh Cam Ranh và Đà Nẵng.

Bấy giờ, người Việt Nam không hiểu rõ tình hình đã tệ hại đến mức nào. Tôi chắc chắn như vậy. Chúng tôi cũng không biết trời trăng gì hơn. Nói cho đúng, chúng tôi biết tình hình rất xấu, đất nước này chẳng tồn tại được lâu. Tuy nhiên tôi nghĩ là không có ai biết được việc đổ vỡ đã xảy ra nhanh chóng đến như thế.

Đầu tiên, chúng tôi cho tàu đến Vịnh Cam Ranh, rồi đến Đà Nẵng. Đà Nẵng lúc ấy căng thẳng. Người ta đã cảm thấy được có chuyện sắp xảy ra. Địch quân thường cho người nhái lội đến gài mìn, người ta phải để hàng thùng lựu đạn trên tàu. Cứ khoảng năm mươi bộ Anh lại để một thùng, thỉnh thoảng liệng xuống nước vài trái phòng ngừa.

Chúng tôi đến Thái Lan, chất một mớ hàng quân dụng, rồi quay về Mỹ. Nhưng vừa cập bến, mọi chuyện đã bùng ra. Người ta yêu cầu tàu quay lại Việt Nam. Bấy giờ nhằm ngày chủ nhật, lễ Phục Sinh, khoảng cuối tháng ba, chúng tôi được yêu cầu đi Đà Nẵng. Họ bảo đi giải cứu những người sống sót.

Lúc ấy, chúng tôi đã hiểu những gì đang xảy ra. Hiệp Chủng Quốc đã rút quân khỏi Việt Nam từ một, hai năm trước. Tôi hiểu người miền Nam Việt Nam đang lôi thôi to. Chúng ta đã gây nhiều tệ hại cho họ, tôi cảm thấy có mặc cảm phạm tội về chuyện này.

Địa điểm đầu tiên tàu vào lần này cũng là Cam Ranh. Chúng tôi bốc người tại bến tàu, nhưng việc bốc người trở nên hỗn loạn nên chúng tôi phải đưa tàu ra ngoài bỏ neo. Tại đây, người ta dùng thuyền nhỏ bơi ra, chúng tôi bốc họ lên. Những người ấy sinh sống trên những con thuyền, ông có hiểu không, nhiều người đã đem theo tất cả của cải. Nhưng tất nhiên làm sao chúng tôi có thể bốc lên tất cả mọi thứ, ngoại trừ người, một ít đồ ăn, và những chiếc xe Honda 50 phân khối be bé của họ. Những chiếc xe này, chúng tôi cho phép họ đem theo, cũng chẳng rõ đã chở đi tất cả bao nhiêu chiếc.

Thôi thì đủ loại người: thường dân, đàn bà, con trẻ, nhà binh, mấy người này hiển nhiên đang tháo chạy, chúng tôi phải cố mọi cách tước khí giới, không thể để cho họ giữ đủ các thứ vũ khí lung tung trên tàu được. Chúng tôi làm việc cật lực, nhưng ông phải có mặt ở đấy mới thấy, tình trạng hết sức hỗn loạn xô bồ. Chúng tôi sử dụng mọi phương tiện bốc họ vào tàu: nào trục từ bên thành tàu, nào câu họ vào bằng lưới bốc hàng. Chúng tôi bốc người như bốc hàng hoá, họ cứ đeo nhau, len lấn mà lên tàu.

Chúng tôi tìm cách tước khí giới họ bằng mọi giá – súng trường, súng lục, lựu đạn, đủ thứ vũ khí chất đầy một phòng, mà vẫn còn sót, không lấy được hết.

Trên chuyến tàu này, chúng tôi chở khoảng mười ngàn con người. Ông nhớ cho, đây là chiếc Victory, dài 500 bộ Anh. Tàu chở đạn trọng tải chín, mười ngàn tấn, với 5 năm khoang chở hàng. Cứ thế chúng tôi nhét họ vào như nhét hàng. Chỗ nào cũng là người. Ngay trên mấy tàu cấp cứu cũng đầy người.

Chúng tôi cố ngăn không cho họ vào khoang chính trong lòng tàu, là khu vực thủy thủ làm việc. Ấy thế mà người ta vẫn tràn vào. Mặt khác, chúng tôi cố lo cho họ đồ ăn thức uống, nhưng số người đông quá sức. Chúng tôi chỉ có thể lo liệu được trong khả năng thôi. Chúng tôi – ít nhất, chính bản thân tôi – đã cảm thấy cần phải chuộc lỗi chút đỉnh với họ về những chuyện tệ hại chúng ta đã gây ra. Đúng thế, chúng ta đã gây nhiều tệ hại cho họ. Đáng lẽ ngay từ đầu, chúng ta đừng nên đến đất nước ấy, có lẽ như thế, nhưng khi đã đến đấy rồi thì cần phải xử sự cho đúng đắn. Nhưng không, chúng ta đã bỏ rơi họ và nói rằng: “Đấy, bây giờ các anh tự làm lấy mọi thứ đi.” Và họ làm sao có khả năng làm chuyện ấy?

Trên tàu không thực phẩm, không nước uống, không cả tiện nghi vệ sinh. Xin ông bỏ lỗi, mười ngàn con người, ông thử tưởng tượng xem? Tàu không có đồ ăn, nhưng họ có mang gạo – với máy lọc nước, tàu chỉ có thể cung cấp chừng mười lăm tấn nước ngọt mỗi ngày, nhưng họ đã dùng đến ba mươi tấn.

Chúng tôi tìm cách bắt vòi rồng, chạy bơm nước cứu hỏa để ít ra người ta có thể tắm gội bằng nước biển, và để chùi dội những thứ họ bài tiết trên khoang tàu. Tình trạng hết sức tệ.

Những khoang chứa có lót ván gỗ để bảo vệ đạn dược, người ta phá vách tháo gỗ ra chụm lửa thổi cơm. Còn nói gì nữa, hỏa hoạn phải xảy ra thôi. Có nhiều vụ cháy chúng tôi bở hơi tai mới dập tắt được. Sau chúng tôi cho cắt đôi các thùng sắt đựng dầu loại 50 ga-lông, chúng tôi cho họ dụng cụ tháo gỗ và chẻ củi cho tử tế, rồi dùng các thùng sắt này làm bếp nấu cơm để tránh xảy ra hỏa hoạn.

Ông ạ, lối vào Vịnh Cam Ranh bao quanh bởi những vách đá cao có đặt đại liên 105 ly. Chúng tôi lo, chẳng biết các họng súng này có nhả đạn vào chúng tôi không. Nhưng may mắn, lúc bốc lên tàu đủ số người có thể chở được rồi, thì một trận mưa gió mù mịt nổi lên. Không ai còn có thể nhìn thấy gì nữa. Chính trận mưa gió mù mịt này đã che chở cho tàu ra khơi.

Bấy giờ hạm đội ở cả bên ngoài. Có lệnh không được vào gần bờ ba mươi hải lý, nên họ ở cả ngoài khơi, nhưng tất nhiên chúng tôi liên lạc với họ bằng vô tuyến để nhận lệnh chỉ huy từ hải quân. Thủy thủ đoàn chúng tôi đều là dân sự, nhưng tàu là của hải quân.

Họ bảo chúng tôi đưa người tỵ nạn đến một hòn đảo, tên là đảo “Phú Quốc,” hòn đảo này nằm ở ngoài khơi giữa biên giới Việt Nam và Cam Bốt. Tôi nhớ hải trình mất đến hai hay ba ngày. Khi đến đảo, chúng tôi thả neo, định cho người xuống, rồi trở lại xem có thể giúp thêm một số người khác chăng. Nhưng họ từ chối không ra khỏi tàu.

Mấy chiếc xuồng đổ bộ đáng lẽ phải ra đưa người vào, nhưng xuồng không thấy ra. Cho nên chúng tôi cứ bỏ neo chờ, chừng đâu một ngày thì phải. Người tỵ nạn trở nên bứt rứt bực bội. Sau cùng, họ đưa một phái đoàn đến tận phòng lái. Về chuyện này, tôi nhớ là vì về sau thuyền trưởng Ray Iacobacci cứ bảo ông ta may mắn lắm mới sống sót. Phái đoàn gồm có một ông cha Công giáo, một số đại diện những người trên tàu. Những đòi hỏi họ đưa ra là chúng tôi phải rời vùng ấy ngay tức khắc. Họ sẽ không lên bờ. Họ bảo, điều thứ nhất, Phú Quốc nguyên là chỗ đi đày, nghe như thế họ đã không thích rồi. Điều thứ hai, lỡ Cộng sản đến, họ mắc kẹt. Chẳng có lối nào thoát ra khỏi đảo, cứ ở đấy thì sẽ trở thành những cái tử thi thôi.

Tiếp theo, họ bảo họ có vũ khí, có chất nổ trong tay – đủ sức phá tung chiếc tàu. Nếu chúng tôi không chịu rời đi ngay, họ sẽ làm đúng y chang những lời họ nói. Họ mang theo một bản đồ hải hành. Chúng tôi hỏi thế họ muốn đi đâu. Họ chỉ “Vũng Tàu.” Đó là một cái cảng ở ngay cửa sông dẫn đến Sàigòn. Trong tình thế ấy, tất nhiên quyết định tối hậu phải là: “Khôn hồn đi quách khỏi nơi đây.”

Phải nói tôi có cảm tình với những người này. Tôi không trách họ, nếu ở hoàn cảnh ấy, tôi cũng làm thế thôi. Cho nên khi thuyền trưởng hỏi: “Phải làm gì bây giờ?” Tôi bảo: “Kệ xác. Nhổ neo đi quách khỏi nơi đây.” Thật giản dị. Tôi nghĩ mọi người đã hiểu rõ những gì họ nói. Ớ góc đảo ấy, lấy đâu ra lối thoát?

Bấy giờ, ông hiểu không, tôi biết họ nói là họ làm. Tôi không ngờ vực gì chuyện họ dọa nổ chìm tàu. Họ sẽ làm đúng điều họ nói. Thế mà, ông hiểu không, suốt lúc ấy tôi không hề cảm thấy một nỗi hiểm nguy nào cho tính mạng tôi cả.

Họ không hề dọa dẫm bất cứ một cá nhân nào trong thủy thủ đoàn. Ô, thưa ông không. Chúng tôi chính là những cứu tinh của họ.

Thế đấy, chúng tôi đã rời đảo Phú Quốc quay lại Vũng Tàu. Tôi quên mất tổng cộng số thời gian ở trên tàu bao lâu, nhưng ít nhất phải năm ngày trời. Năm ngày ròng rã không thức ăn nước uống gì trên tàu cả.

Cập đến Vũng Tàu, sau rốt chúng tôi thả hết được họ xuống. Xuồng đổ bộ chạy ra, đưa tất cả những người trên tàu vào đất liền. Chúng tôi bèn cho tàu ngược dòng sông, đến Sàigòn chùi rửa. Chuyện này thì hết chỗ nói.

Trong suốt tác vụ, chỉ thiệt một nhân mạng. Lúc bốc người từ thuyền vào tàu, một đứa bé rơi xuống biển, giữa khoảng cách của thuyền và tàu, không ngoi lên được nữa. Đó là thiệt hại nhân mạng duy nhất. Tuy nhiên trong thực tế, nhân số lại sinh sôi, bởi lẽ đã có hai đứa trẻ ra đời ở trên tàu.

Khi quốc gia này mất, chúng tôi vẫn còn ở Vũng Tàu. Tại đây, chúng tôi nhìn thấy trực thăng từ toà đại sứ bay qua, chúng tôi hiểu mọi sự đến lúc cáo chung rồi. Lúc ấy, sự rối loạn hỗn độn lại bục ra. Hàng ngàn chiếc tàu: tàu lớn, tàu nhỏ, ghe thuyền đủ thứ đủ loại chạy túa ra. Chúng tôi bốc người lên tàu đa số bằng cách thả lưới bốc hàng. Trước khi rời thuyền, họ đục lỗ ở thùng xăng, châm lửa để Cộng sản không lấy được thuyền của họ. Cả một khu vực trên mặt biển lúc ấy đầy những ghe thuyền tàu bè bốc cháy. Những ghe thuyền này đều là nhà của họ. Thật đáng buồn khi nhìn người ta tự thiêu đốt chính căn nhà của mình.

Với những gì đã xảy ra, với những gì tất cả những con người này phải trải qua, nếu là trường hợp người Mỹ, tôi nghĩ người ta đã hoá điên hết mất thôi. Họ châm lửa đốt nhà cửa của cải. Họ không thể đem đi theo bất cứ một thứ gì.

Tàu chúng tôi lúc ấy chốc chốc phải di chuyển, vì lẽ họ kéo đến đông quá. Với bấy nhiêu ngàn con người, chúng tôi còn có thể làm gì được. Thỉnh thoảng, chúng tôi cho tàu ra chừng một hải lý, rồi lại quay trở vào, cứ thế vài lần. Chúng tôi đánh chìm mất một thuyền tỵ nạn, vì chân vịt của tàu chặt xuống trong lúc lùi. Bấy giờ là một lúc hoàn toàn rối rắm. Chúng tôi tiếp tục bốc và chất người lên tàu trong tình trạng như thế cho đến tối mịt thì đầy. Chúng tôi chở số người ấy nhắm hướng đến Vịnh Subic ở Phi Luật Tân. Chúng tôi không gặp khó khăn nào. Chúng tôi đã cố tịch thu vũ khí càng nhiều càng tốt. Một số vũ khí được giữ lại trên tàu, hàng ngàn món vũ khí khác cứ thế liệng xuống lòng biển.

Vì người ta mong muốn ra đi, nên họ đã hết lòng cộng tác với chúng tôi – Tất cả những người trên tàu làm được gì, họ làm nấy – Bất kể việc gì cần, họ làm, từ bồng bế di chuyển trẻ qua những đường cầu tàu: Vô số trẻ con, trẻ sơ sinh đã phải chuyển dần từ người này qua người khác dọc theo đường từ mũi đến lái.

Toàn bộ thủy thủ đoàn nỗ lực tham dự mọi việc trăm phần trăm. Những việc này, tất nhiên mang nhiều ý nghĩa hơn là việc khiêng vác chuyên chở đạn dược. Những con người này đang gặp hoàn cảnh cực kỳ bi đát khốn cùng. Cuộc sống của họ treo trên chỉ mành, và chúng tôi là tất cả mối hy vọng duy nhất để giúp họ rời khỏi xứ. Trong nhãn quan của người miền Bắc, họ là những cảm tình viên của người Mỹ, họ là những người cộng tác với Mỹ, họ là “Ngụy”. Chúng ta là kẻ thù của Cộng sản, họ là những người đã cộng tác với chúng ta. Điều này đây chính là một bản án tử hình cho họ.

Suốt hải trình đi Subic, không nhân mạng nào mất mát. Chưa kể lại thêm một chú bé ra đời, tăng nhân số người tỵ nạn lên trong chuyến đi.

Chuyến này chúng tôi chuẩn bị chu đáo hơn chuyến trước. Khi ghé Sàigòn, nhiều cơ quan cứu trợ đã tiếp tế lên tàu hàng tấn thực phẩm. Chúng tôi đã chu đáo tổ chức những khu nấu cơm, cung cấp cho họ những cái bếp ba chân để chụm lửa. Chuyến thứ nhất, quả thực chúng tôi không hề rõ những gì sẽ xảy ra. Bấy giờ chỉ biết: Đi, đi xem có thể giải cứu gì một số người tỵ nạn chăng.

Những người tỵ nạn xét ra là những người rất thân thiện. Tương đối so với tất cả những gì đã xảy ra, những gì họ đã phải trải qua, họ là những con người tuyệt diệu – và quá sức là đông. Chỗ nào cũng là – người. Mỗi lần tôi đi từ giữa tàu đến mũi tàu là phải đi ngang đám người đông đảo ấy, họ đều dãn ra hai bên nhường lối cho tôi qua. Mỗi một phân vuông trên tàu đều chen chúc toàn người là người.

Tại Vịnh Subic, một hòn đảo được sử dụng làm khu tạm ngừng – Mọi người đều được đưa đến đảo ấy, tôi đoán mục đích để kiểm chứng tên tuổi, căn cước và thiết lập hồ sơ, nên tất cả đều phải chờ ở đây. Thủy thủ đoàn chúng tôi cũng đều phải ở lại Vịnh Subic một hoặc hai tháng dự phòng trường hợp chúng tôi cần đưa họ sang Guam, là khu vực tạm cư chính. Nhưng sau đó người ta không cần chúng tôi làm công tác ấy nữa. Đa số người tỵ nạn được đưa sang Guam bằng máy bay, nhưng chúng tôi vẫn cứ nán lại suốt thời gian ấy để dự phòng.

Tôi nghĩ chúng tôi đã thi hành công tác này một cách tốt đẹp. Chúng tôi đã đưa đi được mười tám ngàn người. Thật ra, ước chi chúng tôi có thể đưa đi được nhiều hơn nữa.

Sau khi rời Vịnh Subic, tàu chúng tôi vượt biển về Mỹ, đến thành phố Mobile ở tiểu bang Alabama. Tại thành phố này, người ta đã dành cho chúng tôi một cuộc tiếp đón hết sức trọng thể. Thị trưởng và tất cả dân chúng trong thành phố đã ùa ra nghênh đón với ban nhạc kèn đồng, và nhiều thứ tốt đẹp khác, chắc ông cũng biết. Mỗi chúng tôi đều nhận được một tấm giấy, họ nói cảm ơn chúng tôi đã làm việc tốt, cử chỉ này thực là khả ái.

Ông ạ, có nhiều việc sau khi làm rồi thì người ta mới kiếm cách giải thích, chứ thực ra trước đó có nghĩ gì đâu? Bấy giờ đối với chúng tôi mọi chuyện giản dị hết sức: “Đó, người ta đầy ra đó. Bốc họ đi khỏi chỗ ấy ngay!” Thế là xông vào làm thôi, những lúc ấy, kích thích tố trong cơ thể dâng lên làm cho người ta hăng hái, người ta xắn áo, bắt tay vào việc thôi. Bọn đi biển kỳ khôi lắm, ông biết đấy. Việc gì cần làm, họ làm gọn. Họ là những người rất tốt, những người tốt nhất đời mà tôi được biết. Họ luôn luôn làm tròn công việc của họ. Đây là tôi nói bọn đi biển chuyên nghiệp, chứ không nói về bọn nhà binh. Bọn đi biển chuyên nghiệp làm gấp mười bọn nhà binh. Ông thấy chiếc tàu Greenville Victory đấy, chiếc tàu trọng tải mười ngàn tấn mà thủy thủ đoàn chỉ cần có ba mươi tám mạng. Nếu là tàu hải quân, họ phải xài ba trăm năm mươi thủy thủ là ít. Bọn tôi là bọn đi biển chuyên nghiệp, nó khác, bao giờ tôi cũng hãnh diện mà nói như thế, thưa ông.

Từ sau những chuyến đi ấy đến nay, thật đáng tiếc là tôi chưa hề có dịp gặp lại một người tỵ nạn Việt Nam nào từng ở trên chiếc tàu chúng tôi đã đưa đi.

Tôi vẫn ao ước phải chi tôi có giữ được tên của một trong những người ấy mà gặp gỡ chuyện trò, bất cứ người Việt Nam nào đã đi trên chiếc tàu Greenville Victory năm ấy mà nay đã đến Mỹ định cư.

Cách đây chẳng lâu, tôi có dịp đọc nhật trình cũng thấy nói về cộng đồng Việt Nam bên miền Tây. Báo chí nói họ được thành công, nhiều người đã khá lắm. Họ là những người chăm chỉ, những người tốt đấy. Họ chịu khó làm việc cực nhọc chớ không chịu ăn trợ cấp, họ luôn luôn cố gắng làm việc để nuôi con cái ăn học. Gần đây, tôi còn nghe nói có một người Việt đã đỗ cả thủ khoa trường võ bị. Người Việt Nam là những người rất thông minh, chăm chỉ. Tôi đã ở Viễn Đông khá lâu, với những kinh nghiệm trải qua ở Việt Nam, tôi hiểu những người Việt Nam như thế nào.

Còn mấy đứa con tôi, đứa ba mươi bảy, đứa ba mươi lăm, đứa ba mươi ba, một thằng cháu nội đã mười lăm tuổi đầu. Khi tôi về, kể chuyện chúng ta đã bỏ rơi dân tộc ấy, chẳng đứa nào buồn hỏi câu gì. Không đứa nào hỏi một câu, ví dụ quan niệm tôi thế nào, chúng ta có nên rút đi và bỏ lại những người ấy hay không?

Những buồn tiếc không thể kể hết được, ông ạ. Khi tôi nhìn vào mắt những người Việt Nam lúc ấy, tôi cảm thấy một cách sâu xa cái câu hỏi chứa đựng trong lúc họ ngước nhìn: “Tại sao bỏ rơi chúng tôi? Tại sao người Mỹ đã bỏ rơi chúng tôi?” Các cặp mắt ấy không hề tỏ lộ oán thù. Những cặp mắt ấy chỉ như mắt đứa bé con ngước nhìn cha mà hỏi: “Bố ơi, tại sao bố lại đánh con?” (!)

Người Việt Nam là những người tuyệt diệu. Tôi yêu mến họ lắm. Tôi ước chi tôi có thể mang hết tất cả người Việt ra đi. Nhưng tất nhiên, tốt hơn nữa, tôi ước chi đã không để xảy ra những lý do làm cho họ cần phải ra đi. Đáng lẽ, họ không phải bỏ xứ ra đi.

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, “Hy vọng luôn bừng nở”

 

nuocmattruocconmua

larryengelmann

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, nguyên tác Anh Ngữ “Tears Before The Rain” là một tập sử liệu về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam, do Larry Engelmann, Giáo Sư Đại Học San Jose State thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn nhiều thành phần: người Mỹ, người Việt, kẻ thắng người bại …Những cuộc phỏng vấn này khởi sự từ 1985, sách xuất bản năm 1990. Bản dịch Việt Ngữ do nhà văn Nguyễn Bá Trạc thực hiện năm 1993, xuất bản năm 1995 tại California.

LACY WRIGHT
(Nhân viên ngoại giao. Trưởng phòng chính trị)
“Hy vọng luôn bừng nở”

Tôi sinh trưởng ở Springfield, Illinois thuộc miền Trung Tây nước Mỹ. Xong đại học, sang La Mã thụ giáo linh mục hai năm rưỡi. Rồi bỏ dở. Về lại Mỹ dạy trung học tại Chicago một năm. Thời gian ấy tôi dự một kỳ thi tuyển nhân viên ngoại giao và theo học chương trình cử nhân Bang giao quốc tế tại đại học Chicago một năm. Tôi cũng không theo hết chương trình, vì đã được nhận làm nhân viên ngoại giao từ đầu năm 1968. Lúc ấy, ai vào ngoại giao mà chân còn cất bước và mồm còn bỏm bẻm nhai kẹo cao su được là được gửi đi Việt Nam.

Có thể nói lúc ấy đối với đa số người làm ngoại giao, bị đưa sang Việt Nam là một điều cay đắng. Ngành ngoại giao thời ấy, ít hay nhiều, đều có khuynh hướng chống chiến tranh. Chưa kể người ta sợ, chẳng ai muốn mất mạng giữa thời son trẻ. Nhưng phần lớn chúng tôi đều đã được đưa sang Việt Nam.

Sang bên ấy, có điều kỳ lạ làm chúng tôi thay đổi: đa số đâm ra thích Việt Nam. Nhiều người, kể cả tôi, sau khi về, lại tình nguyện xin trở lại.

Trước khi đi, chúng tôi được học mười tháng tiếng Việt tại học viện ngoại giao ở Hoa Thịnh Đốn. Dù không giỏi bằng nhiều người khác, nhưng khả năng Việt ngữ của tôi cũng không đến nỗi nào. Trái với điều người ta thường bảo người Mỹ không hiểu biết gì về xứ sở này, kể ra cũng có phần đúng, nhưng phần lớn nhân viên ngoại giao và nhân viên các ngành đều nói được tiếng Việt, nói rất giỏi. Tất nhiên không sánh được với người Pháp và vài nhóm người ngoại quốc khác tại Việt Nam.

Học viện ngoại giao không phải chỉ gồm có nhân viên ngoại giao. Dù nhân viên ngoại giao chiếm đa số, nhưng còn có cả các sĩ quan quân đội, thường là cấp thiếu tá, trung tá, và nhiều người thuộc các cơ quan khác. Nói chung, sĩ quan quân đội hơi lớn tuổi đối với việc học Việt ngữ, vốn là một ngôn ngữ khó. Trung bình họ ngoài bốn mươi, và cũng không có ai cố theo học. Còn nhân viên ngoại giao đa số đều học tiếng Việt, nhiều người sau khi sang Việt Nam ra ngoài sinh hoạt, làm việc ở các tỉnh, đã trau dồi thêm và nói tiếng Việt rất giỏi.

Sau một năm học Việt ngữ rồi tham dự những lớp thuyết trình chuẩn bị, tôi đã đến Việt Nam vào tháng 3, 1969.

Có vài điều tôi muốn nói. Điều thứ nhất: Dân Việt không phải ai cũng như ai, có người thế này người thế khác, có người khá có người không. Những nhân viên sang bên ấy trước vẫn không có cảm tình với chính phủ Nam Việt Nam, nhưng sau khi tiếp xúc với người Việt, làm việc với người Việt, sinh hoạt với các viên chức địa phương, dần dà nảy sinh nhiều tình cảm. Những người này bắt đầu đứng bên họ, mong cho họ những điều tốt đẹp, hy vọng họ sẽ thắng. Và mặc dầu tất cả chúng tôi đều thấy chế độ Nam Việt Nam có nhiều thiếu sót, nhưng sau khi quen thuộc với chiến thuật đối phương, thấy rõ sự khác biệt của phía Cộng sản và phía bên này, chúng tôi đều nảy sinh nhiều tình cảm đối với Nam Việt Nam. Điều thứ hai: Ở Việt Nam người ta có thể sống một cuộc đời phiêu lưu, với một giá sinh hoạt rẻ. Phần lớn nhân viên dân sự chúng tôi sống tiện nghi thoải mái, tương đối an toàn. Tất nhiên nhiều người phải về những vùng nguy hiểm, nhất là những người đi các tỉnh lẻ. Nhưng với đa số chúng tôi, những hiểm nguy đó chỉ vừa đủ cho cuộc đời thêm thích thú. Nó là cảm giác sôi nổi của cuộc sống thú vị giữa những hoạt động đầy tranh cãi của thời đại chúng ta. Và đàn bà thì vô số! Người ta ở vào một thời gian và không gian mà mọi kiềm chế bình thường được tung hê tháo bỏ, chẳng phải giữ gìn gì. Tất nhiên, đó là một hấp dẫn không ngừng.

Thế đấy. Nơi ấy đã có những cái tốt, những cái xấu, có những điều cao quí và cũng có nhiều thứ kém cao quí như vậy.

Một trong những chuyện tôi thích kể là vào năm 1973 sau khi đã ký hiệp định Paris, Bộ Ngoại giao quyết định gửi nhiều nhân viên về lại
Việt Nam. Đưa người sang Việt Nam là bật rễ họ khỏi cuộc sống, gây nhiều trở ngại và thay đổi. Để thu hút chúng tôi, họ tìm cách tạo khích lệ: Trước hết, chỉ cần đi trong vòng sáu tháng để theo dõi việc thi hành hiệp định. Lương được tăng đến 25 phần trăm. Trong thời hạn có sáu tháng, lại được về thăm nhà một chuyến, hoặc tùy ý du lịch bất cứ chỗ nào vói phí tổn tương đương. Và Mỹ ở tận bên kia địa cầu, như thế nghĩa là có thể đi du lịch bất cứ chỗ nào trên thế giới tùy thích.

Sau khi đặt ra đủ thứ khích lệ hấp dẫn như thế, Bộ Ngoại giao lại cho biết nếu được chỉ định là phải đi, không có quyền lựa chọn. Tuy nhiên sau khi công bố, ai cũng muốn đi. Có người gọi cả điện thoại đến sở nhân viên hỏi: “Này, sao không thấy tên tôi trong danh sách trở lại Việt Nam.”

Chuyến đầu tiên tôi sang Việt Nam một năm rưỡi. Vào thời gian ấy chương trình Bình định đạt nhiều kết quả. Chương trình này có hai diện: một là loại bỏ Cộng sản, hai là cải thiện đời sống dân chúng. Nhiều tiến bộ đạt được trong cả hai lãnh vực. Nói chung những tiến bộ ấy bắt đầu kể từ sau vụ tổng công kích Mậu Thân thất bại và tiếp tục được vài năm. Những kết quả này làm cho phần lớn vùng đồng bằng Cửu Long trở nên yên ổn.

Vùng đồng bằng gồm 16 tỉnh, tôi đã làm việc tại một trong 16 tỉnh ấy. Không hề có hoạt động của đối phương. Phần lớn vùng đồng bằng đều như vậy, an ninh rất tiến triển. Vì thế khi trở lại, tôi có một thái độ lạc quan khá ngây thơ. Mọi người đều phấn khởi là chiến tranh đã chấm dứt, hoặc ít nhất, có một triển vọng mới cho hoà bình: Bất kể sự kiện hiển nhiên là hiệp định hoà bình này không thực hoàn hảo gì. Có lẽ vì hy vọng luôn bừng nở? Chúng tôi đã hy vọng: dẫu có thế nào, biết chừng đâu hiệp định này sẽ mang nhiều kết quả!

Vào thời điểm ấy, vẫn còn nhiều người Mỹ ở tại Việt Nam, nhờ đó đời sống vẫn thịnh vượng. Nhưng đến khi chúng ta rút đi một con số lớn người Mỹ, xứ sở này bắt đầu xuống dốc. Họ bắt đầu đối mặt với những khó khăn kinh tế trầm trọng, thiếu tiếp vận cho quân đội, và họ mất tinh thần.

Đầu năm 73 tôi được gửi đi Chương Thiện khoảng một, hai tháng. Rồi tôi lên Cần Thơ, thủ phủ vùng đồng bằng, cũng là thủ phủ quân khu 4. Lúc ấy chúng tôi thiết lập tại đây một lãnh sự quán cũng như các lãnh sự ở các quân khu khác. Tôi trở thành một trong 16 nhân viên ngoại giao làm việc dưới quyền lãnh sự Mỹ ở Cần Thơ.

Tình hình đồng bằng Cửu Long thực ra mỗi lúc một xấu. Đầu năm 74, lãnh sự quán làm một bản phân tích chiến sự rất dài, rất bi quan. Chúng tôi nắm rõ những dữ kiện xảy ra: lính đào ngũ gia tăng, quân vận thiếu hụt, tinh thần xuống thấp. Những dấu hiệu cho thấy sau một thời gian khả quan ở vùng đồng bằng vào năm 73, tình hình tuột dốc kể từ mùa Xuân 74.

Vào lúc này, Cam Bốt sắp bị Khmer Đỏ nuốt trọn. Chúng tôi đang đứng ở lằn ranh của diễn trình này. Một sự hiện đáng kể – ít ai biết – là bấy giờ có một số dân tỵ nạn chiến tranh chạy trốn Khmer Đỏ, sang Việt Nam, đến tỉnh Kiên Giang. Một nhân viên lãnh sự quán của chúng tôi đã thẩm vấn họ, đúc kết nhiều bản báo cáo dài. Sau này Khmer Đỏ chiếm đóng toàn bộ Cam Bốt, tạo ra những cuộc tắm máu, thảm sát hàng triệu con người, nhưng thật ra các hành động tàn bạo nổi tiếng ấy đã xẩy từ trước. Các cuộc thẩm vấn cho thấy Khmer Đỏ đã giết chóc dã man tại những vùng họ chiếm trước rồi, chúng tôi đã ghi nhận những sự kiện ấy vào tài liệu rất sớm, ngay từ 1974.
Nhưng việc ấy không được công bố rộng rãi. Thật ra, chúng tôi có công bố các tài liệu này tại Hoa Thịnh đốn trên một vài mức độ, tôi nhớ những người như Sidney Schanberg của tờ New York Time hồi ấy đã gạt đi, coi các báo cáo này chỉ là tài liệu tuyên truyền của Mỹ. Nhưng tôi nghĩ, nói chung, dân Mỹ không hoàn toàn xem những vụ chiếm đóng ấy bằng nhãn quan được gọi là tuyên truyền Mỹ, hay Mỹ bóp méo sự thật.

Tôi rời đồng bằng vào tháng 9,1974, nhận nhiệm vụ phụ tá đơn vị Nội chính trong ngành chính trị tại toà đại sứ. Công việc chúng tôi là theo dõi nội tình chính trị Việt Nam.

Khi phái đoàn quốc hội đến vào đầu 1975, tôi đã thuyết trình cho phái đoàn này trong lãnh vực chuyên biệt của tôi. Họ không hề đặt với tôi những câu hỏi như ông Thiệu thế nào, có nên duy trì quyền lực cho ông Thiệu hay không, hay bất kỳ câu hỏi nào khác như vậy. Họ chỉ thích nói về vai trò các đảng phái chính trị, vai trò các nhân vật chính trị khác, ví dụ về ông linh mục nổi tiếng, ông cha Thanh lãnh đạo phong trào chống tham nhũng.

Vấn đề đàn áp đối lập và vấn đề tù nhân chính trị không phải là một vấn đề mới. Nó hiện hữu và đã được quan tâm. Song le điều tôi muốn nói là vào lúc này chẳng nên xoáy vào vấn đề tù chính trị mà trọng điểm của vấn đề phải là sự sống còn của quốc gia này. Đó mới là vấn đề chính đáng. Trong mấy chuyện nhân quyền, vấn đề này cũng quan trọng thiệt, đặc biệt là quan trọng đối với mấy cha ngồi tù. Nhưng trong chuyện chính trị thì trọng điểm lúc ấy của phái đoàn quốc hội là phải đến để thực hiện một phán đoán khó khăn về chế độ Thiệu, phải cân nhắc xem Hoa Kỳ có nên tiếp tục hỗ trợ chế độ này nữa hay là thôi.

Người như Don Fraser là loại người có cái tình cảm của phái Tự Do, họ cố tìm kiếm các dấu hiệu cho thấy chính phủ Thiệu tham nhũng hay không tham nhũng. Tôi nghĩ những người như thế đã vấp phải cùng một cái lầm lẫn của dân Mỹ nói chung thường có khuynh hướng mắc phải, đó là cứ xoáy chặt vào những tội lỗi của chế độ Thiệu. Chế độ này quả có những tội lỗi. Nhưng nếu không cân nhắc xác đáng để thấy tội lỗi của đối phương còn ghê tởm gấp bội, và nếu không suy nghĩ rốt ráo để hiểu việc gì có thể xảy ra nếu đối phương chiến thắng – thì chuyện ấy không thể tha thứ hay bào chữa được.

Trong thời gian đại sứ Martin ở Mỹ, việc tan rã cao nguyên đã xảy ra lúc ông đang vắng mặt. Theo sự hiểu biết của tôi, ông đã lạc quan một cách thiếu bảo đảm lúc về lại Hoa Thịnh Đốn có thể vì ông không ở tại trung ương, ông không nắm vững những gì xảy ra. Vai trò của đại sứ Martin và phương cách làm việc của ông tất nhiên cũng là một đề tài đáng lưu ý.

Khỏi cần nói, nếu quý bạn ở địa vị ông, quý bạn cũng sẽ phải cực kỳ thận trọng mỗi khi tuyên bố, hay mỗi khi mở lời nói một điều gì. Đại sứ Martin cũng vậy. Ông được xem là con cừu đầu đàn. Những gì ông làm đều có giá trị tượng trưng. Khi phân tích phê bình ông, người ta phải nhìn các hoạt động của ông trong bối cảnh ấy, với ánh sáng ấy. Nhìn như thế, người ta sẽ thấy ông bắt buộc phải lạc quan. Một khi đại sứ Martin bắt đầu biểu lộ bi quan, ấy là mọi sự đổ vỡ hết.

Người ta cũng nói đến đại sứ Martin và những lý luận của ông trình bày về sự can dự của chúng ta vào Việt Nam. Ông giải thích tại sao chúng ta ở đây, để làm gì, tại sao cần tiếp tục. Những luận giải của ông hay hơn, vững chắc hơn rất nhiều người khác. Tôi nghe ông nói vài lần và ông đã gây nhiều ấn tượng sâu sắc với tôi.

Nhưng có một điều tôi nghĩ ông đại sứ có thể làm, và nên làm – mà ông đã không chịu làm là đối với giới truyền thông, báo chí. Tôi không bảo rằng truyền thông, báo chí không bao giờ lầm lẫn, thật ra họ lầm lẫn khá nhiều, nhưng đại sứ Martin đã gây ra nhiều đối kháng nơi họ. Ông làm cho những người vốn đối kháng cá nhân ông, đối kháng sự can dự của chúng ta ở Việt Nam trở nên đối kháng mạnh mẽ hơn. Tôi nghĩ việc này có thể đối phó cách khác. Nhưng tôi không hiểu nếu như thế liệu có ảnh hưởng gì đến cái kết quả cuối cùng không? Có lẽ không, chắc chắn cũng chẳng có gì tốt hơn. Thường người ta khó biết bên trong con người Martin, ông thực sự nghĩ gì, tin tưởng gì khi nói chuyện với công chúng và ông phải phủ trên những chuyện ấy một bộ mặt đẹp đẽ.

Tôi không dám chắc có ai biết. Nhưng bây giờ, chúng ta đã biết được một điều. Đó là trong trí ông, ông có cái hy vọng sẽ thương thảo như một giải pháp cứu vãn danh dự. Mặc dù giải pháp này chẳng hơn gì một cuộc thất trận được che đậy, nhưng như thế ít nhất còn có thể cho phép thực hiện di tản, giúp những người cần ra khỏi nước có thể đi thoát. Chúng ta cũng biết cái hy vọng ấy chỉ là hy vọng hão huyền, nhưng chính hy vọng ấy đã từng ở trong trí ông lúc ông nỗ lực đối phó tình hình.

Đầu tháng Tư, nhiều chiến dịch nhỏ được thiết trí để đưa một số người ra khỏi xứ một cách lặng lẽ, không bị lưu ý. Đại sứ Martin giao cho tôi việc giúp đỡ những người Việt thân thích của người Mỹ ra đi. Có một số nhân viên ngoại giao kết hôn với người Việt, gia đình ở tại Sàigòn và khắp nơi trong xứ. Các nhân viên này đến ăn vạ ở Bộ Ngoại giao, nằng nặc yêu cầu giúp đỡ gia đình họ. Khỏi nói chúng ta đều biết gia đình họ quả sẽ là những người phải chịu nhiều nguy hiểm.

Chúng tôi thực hiện tác vụ này qua các căn nhà an toàn ở những địa điểm khác nhau. Trong mười ngày cuối cùng chúng tôi bận rộn bù đầu, ngày nào cũng nửa đêm mới về đến nhà như cái xác chết. Sau này tôi tiếc lúc ấy tôi đã không viết được gì để ghi lại, nhưng thật ra cũng không thể làm gì, vì sau mỗi ngày làm việc là kiệt sức, cứ thế cho đến ngày cuối.

Sáng 29 tháng Tư tôi choàng dậy từ sớm vì bom nổ ở phi trường. Lúc ấy tôi ở cách toà đại sứ có nửa khu nhà, tôi thức giấc đi ngay đến toà đại sứ mà không biết ngày hôm nay chính là ngày cuối cùng. Nhưng khi đến, tôi hiểu rõ và chúng tôi cố rút người từ tất cả các trạm ra đi.

Sáng hôm ấy chúng tôi liên lạc gọi tất cả những người Việt thuộc đường dây chúng tôi trách nhiệm đến toà đại sứ hoặc đến một trong các căn nhà an toàn được thiết lập làm trạm di tản. Mọi thứ trên đường phố đều tuyệt đối im lìm vì có giới nghiêm 24/24, không một bóng người lai vãng. Tôi rời toà đại sứ bằng xe hơi đến một căn nhà an toàn mà hôm trước tôi đã bỏ lại một danh sách gồm các tên người – vì tôi tưởng hôm sau tôi sẽ trở lại. Tôi cần phải lấy lại danh sách ấy, tôi không muốn nó rơi vào tay đối phương. Tôi đã đi về an toàn, không trở ngại gì.

Sau đấy tại văn phòng đại sứ, Alan Carter cứ lo lắng suy nghĩ: có vài người Mỹ và một số người Việt vẫn còn đang ở tại trụ sở phòng thông tin Hoa Kỳ. Ông không biết cách nào mang họ đi, ít nhất là mang hai người Mỹ đi. Tôi bảo ông ta để tôi lo, tôi lái xe đến đấy, bốc họ về. Vẫn không có trở ngại. Đường phố vắng tanh. Chúng tôi cứ loay hoay, suốt buổi như thế. Chừng tám giờ sáng, có một Mục sư Tin Lành người Anh lò dò bước đến cổng toà đại sứ, dòm vào. Ông ta hỏi: “Thưa quý ông, chẳng hay tình hình hiện nay như thế nào?” Tôi nói: “Tình hình xấu lắm, mục sư nên vào trong này. Sắp sửa phải di tản. Nơi này sắp rối beng đến nơi.” Ông mục sư bảo: “Ô, chúng tôi nào dám làm phiền quý ông! ” Tôi nói lại lần nữa: “Tốt hơn hết, Mục sư nên vào trong này.” Lúc ấy ông mục sư mới chịu bước vào, sau đó đã được trực thăng bốc đi. Có những người khiêm tốn đến thế! Giữa cơn phong ba bão tố, họ vẫn cứ một mực cung kính mà thưa rằng: “Chúng tôi nào dám làm phiền quý ông!”

Chừng buổi trưa, chúng tôi bắt đầu đi đón người. Vào lúc đó, chúng tôi tiến đến một ý tưởng tuyệt vời. Phải nói ý tưởng ấy là quà của Chúa gửi cho chiến dịch di tản: Đó là sử dụng xà lan để đưa người Việt đi bằng đường sông. Thật ra đây là đề nghị của vài người, trong ấy có Mel Chatman đã đưa ra một hai tuần trước nhưng lúc ấy ai cũng cho ý kiến này là “óc thỏ,” nghĩa là: nông nỗi và liều lĩnh. Nay trong tình trạng khẩn cấp, cần đến các hành động quyết đoán, họ đã mang ý tưởng ấy ra sử dụng và cho xà lan chuẩn bị, chờ dưới bến.

Do đó từ trưa cho đến 3 giờ 30 là lúc tôi ngừng, tôi cùng với một người bạn là Joe Mc Bride liên tục chở người ra xà lan bằng chiếc xe thùng. Không bao giờ tôi quên chuyến đầu tiên, nó chật ních hơn cá mòi đóng hộp. Lại thêm không kiếm ra xà lan đậu ở chỗ nào. Mọi thứ không dễ dàng đến thế! Chúng tôi phải qua một cây cầu, lúc ấy dân chúng bắt đầu tràn ra, cả thành phố đã trở nên điên cuồng. Tôi lo không cách gì qua cầu nổi vì đường đã bắt đầu kẹt xe. Tôi tính nếu có đi thoát được thì đây chắc phải là chuyến cuối cùng.

Trời ngó lại! Phép lạ xảy ra là có một người ở toà đại sứ mang theo một nắm tiền. Anh ta biếu hết cho cảnh sát, yêu cầu cứ đứng đấy chỉ chỏ cho xe chạy. Nhờ thế chẳng mấy chốc chúng tôi tiếp tục di chuyển, rồi còn trở đi trở lại căn nhà bốc thêm mấy chuyến nữa.

Hôm ấy tại căn nhà này người ta đến rất đông. Cảnh tượng ấy thực não lòng: Ai nấy đều tuyệt vọng mong đi, ai nấy đều biết thế là hết. Thế là xong. Trên đầu chúng tôi trực thăng bay sành sạch, rõ ràng số người quá đông, Joe và tôi không thể nào mang đi xuể. Tôi sẽ không bao giờ quên chuyến xe chót. Mọi người tuyệt vọng chen lấn lọt vào, tôi đã gần như phải dùng đến vũ lực để giữ trật tự. Tôi sẽ không bao giờ quên một người đàn ông, một ông già đã tự động đứng sang một bên giúp tôi sắp xếp mọi người. Ông không tìm cách len vào xe. Ông bảo mọi người “Đừng lo, anh ta sẽ trở lại.” Lúc ấy tôi biết rất rõ là tôi sẽ không bao giờ trở lại nữa. Toà đại sứ đã bảo tôi: đấy là chuyến cuối.

Sau đó, buổi tối ở toà đại sứ tôi nhận cú điện thoại của một ông đang ở đâu đó trên đường phố. Ông này nói với tôi rằng người ta đã dặn ông đến chỗ này chỗ kia ở một địa điểm nào đó, nhưng chẳng ai đến cả. Ông ta đang ở trên đường, không ở trong trạm an toàn. Điều duy nhất tôi có thể làm là bảo ông tự kiếm cách đi xuống xà lan. Nhưng lúc đó mọi người đều sợ phải đi ra ngoài. Đây cũng là câu chuyện rũ rích: hễ cứ đi với người Mỹ thì người ta mới thấy an toàn, và cảm thấy là có thể đi lọt. Còn tự đi một mình thì người ta sợ! Biết chuyện gì sẽ xảy ra đây? Nhưng tôi đã cố thuyết phục ông này rằng ông phải tự đi lấy, hãy tự bắt lấy cơ hội, và đó là một cơ hội nhiều triển vọng!

Tôi rời Việt Nam từ toà đại sứ Hoa Kỳ vào lúc chín, mười giờ tối ngày 29 tháng Tư. Nếu muốn, tôi có thể đi sớm hơn vì hễ trực thăng đến mà người nào muốn đi và đã sẵn sàng đi là cứ lên sân thượng mà đi. Vì vậy lúc 9 giờ tôi thầm nghĩ: tại sao không đi lúc này? Tôi không còn lý do gì để ở lại lâu hơn nữa. Khi ra đi, có một việc tôi sẽ không bao giờ quên, đó là lúc trực thăng quần một vòng trên thành phố, người ta nhìn thấy ở hướng tây, căn cứ Long Bình đang bốc cháy. Một đám cháy vĩ đại. Long Bình là một trong những căn cứ lớn nhất của chúng ta ở Việt Nam. Nhìn ngọn lửa, tôi nghĩ nó đang thiêu đốt tất cả. Mọi công trình của chúng ta ở đấy đang thiêu đốt ra tro. Và tất nhiên cũng phải nghĩ đến những con người chúng ta đã bỏ lại, một con số to lớn những người chúng ta đã rời bỏ mà đi.

Hôm nay tôi lại nhớ đến những người ấy. Tôi cũng nghĩ đến các oán thù bên phía đối phương. Họ đã không tạo ra các cuộc tắm máu như ở Cam Bốt, vâng, có vẻ như thế. Nhưng họ cũng đã giết biết bao người, và đến nay sau bao năm tháng trôi qua, vẫn còn những người bị giam giữ mỏi mòn trong các trại cải tạo. Suốt thời chiến tranh Việt Nam không một người nào dùng thuyền rời nước. Ngay cả vào những năm khi chiến cuộc đến mức khủng khiếp nhất, vẫn không hề có một người Việt nào bỏ nước ra đi. Nhưng từ 1975, một triệu rưỡi con người đã đi, bây giờ vẫn ra đi. Hai mươi lăm ngàn con người mỗi năm tiếp tục rời nước bằng thuyền, chưa kể ba ngàn người mỗi năm vượt thoát bằng đường bộ băng qua ngả Cao Miên.

Từ khi chiến tranh chấm dứt, nhìn những gì Cộng sản đã làm ở Việt Nam và ở Cam Bốt, nhiều người mới hiểu: Khi chính phủ chúng ta nói rằng Hoa Kỳ đang chiến đấu chống lại một bọn người hung ác, thì đây là trường hợp lời nói đã được xác nhận đúng như thế…

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA : TÔI RÁN TỚI SỞ LÀM NHƯNG HỌ CỨ NỔ SÚNG BẮN TÔI

nuocmattruocconmua

Henry Hicks (Nhân viên văn phòng tùy viên quân sự)

Ngày 24 tháng 4, tôi đưa gia đình ra khỏi Sài Gòn, tôi nghĩ khi tình trạng khẩn trương qua đi, gia đình sẽ trở về. Tôi không bao giờ tin đất nước này sẽ sụp đổ, ngay cả vào giây phút cuối. Tuy nhiên tôi vẫn đưa gia đình ra khỏi xứ. Tâm trạng tôi lúc đó giống một anh suốt đời vô thần, lúc gần chết, gọi người bạn đến yêu cầu kiếm hộ một mục sư. Khi người bạn hỏi: “Tại sao cần mục sư?” Bèn trả lời: “Bởi vì tôi có thể lầm”. Tôi không nghĩ đất nước này sẽ sụp đổ, nhưng tôi nghĩ tôi có thể lầm. và nếu tôi lầm, tôi không muốn gia đình tôi phải trả giá cho sự lầm lẫn đó .

Trung Tướng Homer Smith giao cho tôi nhiệm vụ di tản nhân viên văn phòng Tùy viên Quân Sự. Mọi việc tiếp diễn tốt đẹp cho đến đêm 28 tháng 4. Chúng tôi đang làm việc cật lực để đưa người đi, bỗng xuất hiện vài chiếc máy bay khốn kiếp. Chúng thả bom. Mấy tên cựu sĩ quan không quân Việt Nam đào thoát sang phía bọn khốn kiếp Bắc Việt đã lái những chiếc máy bay này. Chúng thả bom phi đạo khiến máy bay chúng ta không thể hạ cánh được Rồi đúng đêm hôm đó chúng nã hỏa tiễn vào.

Khoảng 2 giờ sáng ngày 29, tôi quyết định về nhà đánh một giấc ngủ. Tôi lái xe qua thành phố, trời tối đen như mực, chẳng có một ngọn đèn. Sớm hôm sau tỉnh giấc, lái xe trở lại Tân Sơn Nhất thì mấy tên lính gác nổ súng cảnh cáo khi đến gần cổng phi trường. Tôi trở về, điện thoại đến Văn Phòng Tùy Viên Quân Sự xem có chuyện gì xảy ra tại đó . Người ta bảo hãy đậu xe ở ngoài rồi đi bộ vào cổng, như vậy không có vấ đề gì. Vì thế, tôi lái xe trở lại, đậu xe, bắt đầu tiến vào cổng phi trường, thì một lần nữa bọn lính gác khốn kiếp lại nổ súng. Dĩ nhiên họ không cố ý giết tôi, tôi nhớ thế. Họ chỉ tìm cách dọa nạt thôi. Tôi đứng cách khoảng 200 bộ Anh, họ vẫn tiếp tục bắn. Tôi quay lưng lại , rời phi trường lần thứ hai. Tôi lên xe lái về nhà, lại gọi văn phòng Tùy viên Quân sự. Tôi nói: “Bọn nhân viên khốn kiếp của các ông đã nhận được lệnh chưa? Chuyện gì kỳ cục xảy ra vậy ? Tôi ráng đến sở làm nhưng họ cứ nổ súng bắn tôi ? ” Lần này họ bảo đến số 191 đường Công Lý. Tôi nghĩ khi đến đó, sẽ có người đưa tôi đến nơi làm việc. Nhưng khi đến nơi, người ta đưa thẳng tôi lên sân thượng. Một chiếc máy bay đã đậu sẵn- chiếc trực thăng của hãng Air America. Chiếc máy bay vẫn đợi … Đợi cho đến 3,4 giờ đồng hồ khốn kiếp! Vì vậy tôi lại gọi Văn phòng Tùy viên Quân sự hỏi: “Sao cha phi công này không chịu đưa tôi đến Tân Sơn Nhất ?” Họ nói :”À, hắn được lệnh đợi thêm vài người nữa.” Chúng tôi lại đợi. Rồi nhiều người khác xuất hiện. Cuối cùng viên phi công nói:”Xong, chúng ta đi.”Cả bọn người khốn khổ bước vào trực thăng, đông đến nỗi viên phi công không cất cánh được , hắn phải bỏ bớt một số người ra. Cuối cùng hắn cất cánh, nhưng không trực chỉ Tân Sơn Nhất. Hắn bay về hướng Vũng Tàu.

Viên phi công hạ thấp máy bay. Tôi nhìn xuống. Tôi nghe được cả tiếng súng nổ, nhưng tưởng tiếng pháo. Tôi trông thấy vài đứa trẻ vẫn nô đùa trong sân trường học khi bay qua thành phố. Mọi việc vẫn có vẻ êm đềm…Nhưng tôi cảm thấy một nỗi buồn tê tái khi rời khỏi nơi này. Một nỗi kinh tởm lớn lao. Tôi không thể tin là chúng ta đã để cho bọn Cọng Sản thắng trận chiến này.

Chúng tôi bay qua Vũng Tàu, trực chỉ biển Đông. Nhìn qua cửa sổ trực thăng, tôi bỗng thấy cả một hạm đội dưới biển. Quang cảnh giống như caqcsw bức hình trong thời đệ nhị thế chiến, khi các hạm đội tập hợp. Chúng tôi tiến về chiếc Blue Ridge, nhưng chưa được phép hạ cánh, trực thăng quay lại vòng thứ hai, rồi đáp.

Ngày hôm sau, nhiều máy bay trực thăng nữa cũng đáp xuống chiếc Blue Ridge. Ngay sau khi hạ cánh, người ta lật nhào mấy chiếc trực thăng xuống biển. Đó là một canhrtuwowngjteej hại nhất mà chưa bao giờ người ta được thấy.

Trên chiếc Blue Ridge, bọn nhà báo có một căn phòng riêng, một căn phòng đặc biệt dành cho họ làm việc. Tôi không muốn chuyện trò giao lưu gì với họ. Thực ra, tôi cũng từng có những quan hệ tốt đẹp với bọn nhà báo cho đến cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân. Sau đó, tôi nhớ họ đã gọi cái Tết này là một “Đại Thắng” của Cộng sản. Tôi hiểu quá rõ là không phải như vậy . Bọn nhà báo cũng hiểu như vậy. Khi ấy tôi đã nghĩ:” Vậy bọn nhà báo muốn những chuyện khốn nạn gì đây?” Tôi từng coi một vài tấm hình, dĩ nhiên xếp đạt trước, họ chụp sau Tết, khi vụ tấn công đã xảy ra. Những tấm hình này có tác dụng khiến cho lòng người tan nát.Rồi tôi cũng lại được coi thêm nhiều bức hình nữa cũng đã dàn cảnh trước. Tôi bắt đầu nghĩ ngợi: “Chẳng còn có gì bọn nhà báo lại không thể dàn cảnh ra được nữa!”

Trước hết vào đầu cuộc chiến, chúng tôi đã tổ chức nhiều buổi họp báo để cung cấp tin tức cần thiết cho báo chí viết bài. Nhưng chẳng bao lâu, bọn nhà báo gọi những buổi thuyết trình này là : Trò điên lúc 5 giờ “. Họ luôn luôn có nhuwngxchuyeenj khốn kiếp như thế. Thật ra chúng tôi chưa bao giờ cảm thấy ai là người có trách nhiệm phải bảo đảm các bài viết tốt để bọn nhà báo bán báo kiếm lời, rồi chia lời cho các cổ đông của họ. Thật ra, đối với họ, báo chí chẳng qua cũng chỉ lkaf việc làm ăn buôn bán. Họ làm ăn buôn bán kiếm lợi thế thôi! Vậy mà họ cứ vo ve, ra vẻ như một nhóm người cực kỳ đặc biệt trên cõi đời.

Bọn truyền hình lại là bọn tệ hại nhất. Bọn khốn nạn này là bọn chẳng bao giờ nói ra sự thật, chẳng bao giờ chịu nhìn thấy sự thật. Tôi không bao giờ hiểu nỗi bọn truyền hình đã làm những chuyện trời ơi đất hỡi gì ở Việt Nam… Nhưng rõ ràng: SỰ THỰC KHÔNG BAO GIỜ ĐƯỢC HỌ NÓI LÊN.

Bản dịch của nhà văn NGUYỄN BÁ TRẠC

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, “Bước luẩn quẩn với cái rọ trên đầu.”

 

nuocmattruocconmua

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, nguyên tác Anh Ngữ “Tears Before The Rain” là một tập sử liệu về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam, do Larry Engelmann, Giáo Sư Đại Học San Jose State thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn nhiều thành phần: người Mỹ, người Việt, kẻ thắng người bại …Những cuộc phỏng vấn này khởi sự từ 1985, sách xuất bản năm 1990. Bản dịch Việt Ngữ do nhà văn Nguyễn Bá Trạc thực hiện năm 1993, xuất bản năm 1995 tại California.

ĐẠI SỨ GRAHAM MARTIN
“Bước luẩn quẩn với cái rọ trên đầu.”

Cho đến 1975 Việt Nam không đáng để Hoa Kỳ tốn thêm sinh mạng nữa. Lẽ ra, Hoa Kỳ đừng nên gửi quân tham chiến. Tôi đã chống giải pháp này. Khi làm Đại sứ ở Thái Lan, tôi cũng chống lại việc gửi cố vấn sang Thái, và tôi đã phải đương đầu bốn năm trời ròng rã với Robert Mc Namara (*) để giữ chiến tranh khỏi lan tràn vào đất Thái.

Miền Tây Bắc Thái Lan lúc ấy cũng giống như giai đoạn đầu ở Đông Dương đã có những cuộc nổi dậy nhưng tôi nhất định chủ trương: Chúng ta chỉ cần yểm trợ cho chính phủ, không gửi quân chiến đấu, cố vấn cũng không-vì lẽ bên hàng ngũ đối phương không có một bộ mặt da trắng nào, chắc chắn chúng ta không nên gửi nhân viên quân sự xuống đến cấp dưới tiểu đoàn.

Một ký giả ở nơi nào đó tại vùng Trung Tây nước Mỹ tên Paul Harvey từng mỉa mai: “Có một Đại sứ ở Thái Lan trình độ chỉ đáng đưa đi làm đại sứ ở hòn đảo Johnson, nghĩa là một hòn đảo 1000 bộ chiều dài, 50 bộ chiều ngang, không thể lớn hơn cỡ ấy” chỉ vì tôi đã không cho phép người Mỹ mang súng, ngay ở trong căn cứ cũng vậy.

Đúng. Tôi giữ quan điểm và chấp nhận rủi ro vì lẽ chỉ cần một vụ phục kích xảy ra là công luận sẽ đưa tôi ra mà cắt họng. Nhưng tôi đã bẻ gẫy các vụ nổi dậy. Cũng không để xảy ra một vụ tàn sát Mỹ Lai nào. Tôi đã thành công.

Nhưng ở Việt Nam, Mc Namara và nhóm quân nhân đã áp dụng đường lối của họ. Và một khi quân đội chúng ta đã được gửi sang bên ấy, chúng ta không muốn thấy quân đội thất bại và rồi cho đến 1975, còn một vấn đề quan hệ nữa vẫn phải đặt ra, đấy là lời hứa của chúng ta. Liệu chúng ta có giữ lời hứa và giữ lời cam kết của chúng ta hay không?

Vụ tấn công Ban Mê Thuột và quyết định rút quân ở Cao Nguyên của Thiệu làm tôi hoàn toàn kinh ngạc. Vào giai đoạn này Tổng thống Thiệu yên trí rằng một vài người Mỹ thường hở cho báo chí biết tin, rồi tin tức lọt sang các nhóm chủ hoà, cuối cùng lọt sang đối phương. Không rõ ai đã thuyết phục ông như thế, nhưng suốt thời gian này ông không cho chúng tôi biết gì nữa. Chúng tôi chỉ còn dựa vào tin tình báo để theo dõi hành động Bắc quân, nhưng các tin tức này không phải lúc nào cũng chính xác.

Thời gian này tôi về Hoa Thịnh Đốn để cố xin viện trợ cho Nam Việt Nam. Trong chuyến về Mỹ tháng Ba cùng với phái đoàn quốc hội, tôi đã yêu cầu những người có thẩm quyền quyết định chính sách riêng: Cần phải chuẩn bị vấn đề tỵ nạn, xin hãy sắp xếp mọi thứ liên hệ cho người tỵ nạn ngay. Nhưng rồi, chẳng ai lo liệu gì.

Trong buổi họp cuối tại Bộ Ngoại giao ở Hoa Thịnh Đốn vào tháng 3/1975, Kissinger bảo: “Ông phải trở lại đấy vì dân Mỹ cần có một người để trút hết các trách cứ lên đầu.”

Thực vậy, người Mỹ chúng ta vẫn có cái thói ấy và luôn luôn như thế, cho nên tôi bảo:

“Ông hãy nhớ hộ một điều: Đối với mọi chuyện ở Việt Nam, tôi là người duy nhất liên hệ đến toàn thể nội vụ, mà tuyệt đối chẳng có áp lực để làm bất cứ một quyết định nào hầu tránh khỏi các phê bình chỉ trích. Tuyệt đối chẳng có cách gì tôi thoát việc nhận lãnh trách nhiệm sụp đổ Sàigòn. Cái gì cũng đổ cho tôi, từ đầu đến đuôi. Vậy tôi sẽ không thích dính dáng bất cứ chuyện gì khác ngoài một chuyện duy nhất hợp lý vào lúc này, đó là: Mang người Mỹ sống sót ra đi an toàn, mang những người bạn Việt Nam liên hệ với chúng ta đi khỏi càng nhiều càng tốt. Tôi sẽ làm như vậy, và tôi sẽ không để cho ai thúc bách gì, ngoại trừ trường hợp ông giải nhiệm tôi.” Rồi tôi quay lại Việt Nam.

Đối với người Việt, tôi không có mối liên hệ riêng tư, bất kể người Bắc hay ngưòi Nam. Tôi chẳng đặc biệt thích một người Việt nào. Tôi yêu mến người Thái, tôi nghĩ họ là một giống dân kỳ diệu nhất thế giới. Tôi thích một số đông người Tàu, nhưng tôi đặc biệt không thích người Khờ Me, tôi không thích người Lào, tôi không thích người Mã Lai. Tôi thích người Nam Dương.

Tôi có một đứa cháu trai chết ở Việt Nam từ đầu cuộc chiến. Nhưng việc này tôi chỉ oán trách Thủy quân Lục chiến Mỹ đã không chịu gắn lá chắn thép dưới gầm trực thăng trước khi tung nó ra một chiến trường mà bên dưới đầy súng đại liên 50.

Nói như thế là để hiểu rằng: Sự cam kết của tôi đối vói người Việt không quan hệ gì đến cái chết của cháu tôi, cũng chẳng dính dáng gì đến cảm tình riêng tư nào của tôi đối với người Việt Nam. Đối với tôi, vấn đề thuần túy phải đặt ra là: Chúng ta đã tuyên bố một lời hứa. Khi đã hứa mà lại bội hứa thì chúng ta sẽ có ngày phải trả một cái giá đắt khôn lường ở khắp mọi nơi trên cái thế giới máu me tàn khốc này.

Khi trở lại Việt Nam, một người đã đến gặp tôi là Ed Daly bên hàng không World Airways. Anh ta đeo súng lủng lẳng bước vào phòng, tôi yêu cầu bỏ súng ra, để bên ngoài. Thấy anh ta ngần ngừ, tôi kêu Thủy quân Lục chiến đưa ra ngoài tước súng. Hắn trở vào lại, ngồi xuống nói với tôi: “Ông có biết không, mấy người Việt Nam họ bảo nếu tôi cất cánh ra Đà Nẵng, họ sẽ bắn hạ tôi. Ông sẽ làm gì?” Tôi đáp “Vỗ tay hoan hô chứ sao! Ông cho ông là cái thá gì? Ông chúi trong cái lỗ đục dưới đất, đến cái đít của ông, ông cũng cóc dòm ra. Ông không biết một cái đếch gì ở đây cả.” Sau đó, tôi với anh ta không bao giờ nói chuyện gì thêm, anh ta cũng không bao giờ trở lại toà Đại sứ nữa.

Tôi gửi Harry Summers ra Hà Nội trong tháng Tư (1). Chúng tôi vẫn có chuyến bay ra Hà Nội là để chuyên chở người thuộc ủy ban liên hợp quân sự ở căn cứ Davis. Đề đốc Geyler phản đối, nhưng tôi nhất định gửi người đi. Tại sao? Tại vì bấy giờ ở đấy có một việc không một ai biết ngoại trừ tôi và Wolf Lehmann, phụ tá của tôi. Việc ấy là chuyện đi lại của Brezhnev và Kissinger với Hà Nội. Và theo Leonid Brezhnev, Hà Nội đã đồng ý ấn định thời hạn cho chúng tôi rút. Hạn chót là ngày 3 tháng 5. Đó là một thỏa thuận.

Tôi có nói với Kissinger: tôi cần hai tuần lễ. Kissinger cho biết ông đã thông báo cho Hà Nội và Hà Nội đã chấp nhận. Bắt buộc phải chấp nhận luật chơi thôi, lỡ cái xảy nảy ra cái ung thì tôi cũng đành phải chịu (2). Người ta bảo máy bay có thể bị hạ, nhưng tôi nhất định cho đi. Vì thế chúng tôi bốc người từ căn cứ Davis, và Summers đã đưa họ ra Hà Nội, ngồi xuống mà thảo luận với người Việt Nam. Chúng tôi muốn nói chuyện (thẳng) với người Việt Nam là chúng tôi chấp nhận thi hành phần chúng tôi trong cuộc mà cả của Kissinger-Brezhnev. Họ sẽ để chúng tôi yên. Tôi tính là chỉ cần đến ngày 1 tháng 5, không cần đến 3
tháng 5. Tôi không muốn quá ngày ấy.

Đâu chừng một tuần trước ngày sụp đổ, tôi gửi một điện văn, lúc ấy Hoa Thịnh Đốn bất đầu tỏ ra bực bội. Tôi nói “Điều duy nhất ở đây chúng tôi có là sự điềm tĩnh của tôi, là khả năng phán đoán tình hình của tôi. Thực sự chúng tôi không còn gì khác. Bây giờ chẳng có gì để mất, vì tôi đang bước đi luẩn quẩn với cái rọ úp trên đầu rồi.”

Ngày 21 tháng 4, Tổng thống Thiệu từ chức. Tôi không thuyết phục ông rời xứ. Chính người kế vị của ông (3) đã gọi tôi, bảo Thiệu vẫn ở trong dinh Tổng thống làm ông khó cựa quậy, đó là cách lịch sự để bảo tôi rằng Thiệu vẫn tiếp tục gặp gỡ các tướng lãnh. Ông hỏi tôi có thể giúp đưa Thiệu đi không? Tôi trả lời tôi sẽ giúp nếu ông Thiệu yêu cầu. Sau đó chừng 15 phút, Thiệu điện thoại nhờ tôi đưa ông ra khỏi xứ. Bây giờ tôi lại phải đương đầu một vấn đề khác. Nên sử dụng quân đội Mỹ để lo việc này hay không? Như thế là gây rắc rối cho Bộ Tham Mưu Liên Quân (Mỹ), gây rắc rối với người Bắc Việt và máy bay có thể bị hạ. Tôi đã yêu cầu quân đội đưa đến Sàigòn một máy bay bốn động cơ bấy giờ cất ở Nakhon Phanom (Thái), và tôi giao việc này cho Polgar (4) thay vì cho quân đội lo. Bên quân đội biết máy bay đến, nhưng họ không rõ sử dụng vào việc gì. Tôi hy vọng bên quân đội sẽ không biết việc chở Thiệu ra khỏi xứ cho đến khi đưa ông ta vào được tàu bay. Đây là tôi muốn nói Quân đội Mỹ, đặt quân đội Việt Nam sang một bên. Vì thế tôi bảo Polgar cho Frank Snepp (5) lái xe vào căn cứ quân sự, lên phía trên chỗ máy bay đậu một chút, rồi tôi đưa họ vào máy bay. Trước đấy, Charlie Timmes (6) và tôi đã đi gặp Nguyễn Cao Kỳ. Timmes có hẹn với Kỳ, nên tôi bảo Timmes: “Rồi, để tôi đi cùng với ông.” Hai chúng tôi lái chiếc xe Volkswagen nhỏ của Timmes, chuyến đi hơi rợn tóc vì thành phố đã bắt đầu hỗn loạn. Tất cả chủ đích chuyến đi là để bảo cho họ biết rằng một cú đảo chánh máu me sẽ không phục vụ bất cứ một cái gì cho cõi trần gian xanh tốt này ngoại trừ một việc: Phục vụ cho cái tôi của Kỳ. Có thể ông ta đã suy đoán được để hiểu rằng thời điểm của ông ta không đúng lúc, và mục đích của tôi là chỉ muốn ông ta bỏ cái ý định ấy đi. Tôi để cho các người khác làm việc với ông ta. Tôi dặn họ: đừng để ý gì nhiều đến ông ta cả.

Nếu có một nhân vật biết được ngọn ngành mọi việc mọi trò của những người ở đấy thì chính là tôi. Nhưng vào giờ phút cuối, có những người khác nữa làm gì, thì chịu, tôi không biết đích xác cho nổi. Một ông đã gây rối cho tôi như thế lại chính là một bạn tốt, mà đến nay tôi vẫn thích, đó là Erich Von Marbod. Erich Von Marbod đến từ bộ Quốc phòng. Ông ta cho không quân Việt Nam bay đi vài chiếc F-5 của họ sang Thái. Chuyện này trái lệnh tôi. Một mặt, chả quan hệ gì. Nhưng mặt khác, lại vô cùng hệ trọng. Bởi vì tôi đã yêu cầu Kissinger một thời hạn, tôi nói là hai tuần. Chúng tôi cố mang đi tất cả các nhà thầu công tác quốc phòng mà chúng tôi không thể rõ hết là những người ấy ở những nơi nào. Không thể bỏ họ lại mà đi. Đó là lúc cần đòi hỏi sự chậm rãi, sự thận trọng, cho nên việc Erich Von Marbod thuyết phục tướng Trần Văn Minh cho mấy cái phi cơ bay sang Thái là một lỗi lầm rất lớn. Nó làm người Thái e ngại. Rồi những người đưa phi cơ sang bên ấy lại bị giấu diếm, họ không được bảo trước rằng sau đó họ sẽ không được phép trở về với gia đình. Để làm họ dịu xuống, người ta phải phục thuốc họ. Và chính những người này đã gây rối khi đến Guam. Lỗi của tôi. Đáng lẽ tôi phải tống cổ Von Marbod từ hai ngày trước. Đáng lẽ tôi cũng phải tống cổ cả Polgar đi: Hắn không biết trời đất gì. Hắn không xứng đáng điều khiển cơ quan tình báo ở đấy. Hắn muốn chơi trội cùng với gã Malcolm Browne bên tờ Times và các ông bạn Hung Gia Lợi của hắn bên ủy hội Quốc tế kiểm soát đình chiến, rồi cả William Colby (7) lẫn Kissinger đều nói lại với tôi việc ấy (8) Và tôi đã nói với Polgar rằng nếu anh cứ tiếp tục làm những chuyện như thế, tôi sẽ cắt hai hòn dái nhét vào mỗi lỗ tai của anh một hòn. Jim Kean đã nghe tôi nói với hắn như thế trong cầu thang máy.

Tôi không có gì để ân hận nhiều ngoài việc ân hận đã không tống cổ cả Polgar lẫn Von Marbod từ sớm. Họ đi hay ở cũng chẳng có gì khác biệt. Chỉ có một khác biệt trầm trọng mà sau đó tôi khám phá ra khi đọc tấm điện văn của các tướng Bắc Việt: Họ nghĩ việc đưa mấy chiếc phi cơ sang Thái là chúng ta nuốt lời hứa với họ. Chúng ta đã nói chúng ta sẽ không mang các chiến cụ đi. Chúng ta chỉ muốn họ để chúng ta yên ổn ra đi trong trật tự. Vì họ nghĩ chúng ta nuốt lời, hôm sau họ pháo kích phi trường, giết mất vài Thủy quân Lục chiến của chúng ta. Vì vậy, đến lúc tôi phải hạ lệnh trực thăng vận. Đây là lúc mọi sự bắt đầu bung ra.

Tôi vào Tân Sơn Nhất xem xét sau khi xảy ra vụ pháo kích. Hơn ba mươi năm trước, tôi đã là Đại tá không quân, bổ nhiệm từ 1936, nên những chuyện phi cơ, cái gì bay được cái gì không, tôi nắm trong bàn tay. Tôi đã là Tư lệnh phó sư đoàn Thái Bình Dương thời đệ nhị thế chiến, kiêm chỉ huy quân báo. Việc gì tôi làm, tôi làm cật lực, tôi nắm vững, tôi biết rõ. Buổi sáng 29/4 hôm ấy ở phi trường Tân Sơn Nhất, họ bảo tôi máy bay không đáp xuống được. Chuyện này vô lý. Ra tận đấy quan sát, tôi vẫn thấy chuyện họ nói chả nghĩa lý gì, người ta chỉ cần vác một cái xe Jeep quần ra phi đạo ba mươi phút là dọn sạch mọi thứ vụn vặt. Nhưng lúc ấy, quả là bên quân đội Việt Nam bắt đầu rối loạn. Chỉ huy cao cấp đã chạy, Tân Sơn Nhứt không còn chỉ huy nữa. Trong tình trạng này nếu máy bay đáp xuống là bị tràn ngập bởi đám đông vô kiểm soát. Chúng tôi cần dựa vào quân đội Việt Nam để di tản trong vòng trật tự, và chúng tôi cũng đã hứa với họ phút cuối sẽ bốc họ đi. Nhưng đến giây phút ấy, không còn có sự bảo vệ của họ nữa.
Vì Tân Sơn Nhứt hết bảo đảm được an ninh cho máy bay có cánh đáp xuống, nhưng khu vực văn phòng tùy viên Quân sự hãy còn hệ thống phòng thủ tốt, chúng tôi bèn cho trực thăng đáp xuống khu này thay vì Tân Sơn Nhứt.

Tôi liên lạc với hạm đội, và với sự khẳng định của Hoa Thịnh Đốn, tôi nói với mọi người-tôi nói với rất nhiều người Việt là: “Chúng tôi không thể bảo đảm di tản tất cả quý vị. Nhưng nếu quý vị có thể dùng thuyền ra khơi, chúng tôi vớt.” Chúng tôi đã cho tàu đậu ngoài khơi ba ngày ròng rã để vớt người đến khi tàu chật ních. Khi sĩ quan chỉ huy quân y cho biết nếu cứ tiếp tục, có thể bị bịnh dịch đe dọa, lúc ấy chúng tôi mới cho tàu đi. Tôi cũng ra lệnh cho hai máy bay tại căn cứ Clark đáp xuống Vũng Tàu để bốc gia đình lính Thủy quân Lục chiến Việt Nam. Đề đốc Geyler phản đối, nhưng tôi gạt đi. Hai chiếc máy bay đáp xuống, hoàn tất việc bốc người trong vòng mười lăm phút rồi thẳng cánh bay qua Clark. Từ giờ phút ấy, Thủy quân Lục chiến thuộc quyền điều động của tôi. Họ phụ trách bảo vệ trong trường hợp chúng tôi cần di tản ra từ bãi biển. Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương không có nhiệm vụ di tản người từ bãi biển ra. Từ nhiều tuần trước ngay việc đáp phi cơ trinh sát xuống, họ cũng không chịu, nhưng chúng tôi vẫn cứ làm. Đấy, tôi đã phải đối phó công việc với những cách thức như vậy.

Còn về câu chuyện cây me, thật là một câu chuyện vô nghĩa (9) Hạ cái cây xuống cũng là chuyện hoàn toàn vô nghĩa. Cây me này chả mang một biểu tượng gì. Về chuyện này, mục đích là tôi cố giữ cho Sàigòn một bộ mặt yên tĩnh, phải tránh mấy chuyện rối loạn đã từng xảy ra ở Đà Nẵng, Nha Trang. Ngoài ra, quỷ thần ạ, cần gì phải chặt cái cây ấy để lấy chỗ cho trực thăng? Nên tôi bảo “Để cái cây ấy yên đi!” Đơn giản thế thôi. Khi cần phải chặt, chỉ mười phút là xong. Cuối cùng mọi sự cũng đã xảy ra y như vậy. Chúng tôi không muốn có một hành vi bộc lộ rằng chúng tôi đang thua chạy, để Sàigòn phải nháo nhào lên.

Cái cây này tuyệt nhiên không biểu trưng gì cho sự có mặt của người Mỹ. Nhưng về một phương diện, Jim Kean cũng có lý khi nói vậy.(10) Bởi vì nó là cái dấu hiệu vật chất cho thấy chúng ta sắp rời đi, nên tôi phải che đậy. Việc tôi giữ cái cây chẳng có cái ý nghĩa thâm thúy gì như đó là biểu tượng cam kết của chúng ta cả.

Vào những giây phút chót, có nhiều việc không thể làm ngơ. Về những việc này Bộ trưởng Quốc phòng James Schlesinger đáng phải lãnh điểm xấu. Ông tỏ ra ngu xuẩn, nhiều phần trong con người ông luôn luôn như vậy.

Chúng tôi có một gã tên Stuart Herrington làm dưới quyền Đại tá Madison (11) Gã này đang giúp việc xếp người vào trực thăng trong sân toà Đại sứ. Gã có biết cái gì hơn là xếp người? Nhưng khổ nỗi, gã là thứ mồm loa mép giải, đáng lẽ biết thì thưa thốt, không biết dựa cột mà nghe. Đàng này ai hỏi gì gã cũng trả lời láo lếu. Vì thế khi các phi công bay vào, họ muốn hỏi tôi còn phải chở bao nhiêu người nữa, gã Herrington mau mồm nói “Hai ngàn hoặc hai ngàn rưỡi nữa.” Ông Đề đốc Noel Gayler ở ngoài hạm đội dãy nảy như gái ngồi phải cọc. Chở nhiều quá lỡ xảy tai nạn, ai gánh đây? Ông ấy là người phụ trách công tác, ông bèn áp lực khủng khiếp mà thúc chúng tôi “Di tản người Mỹ! Di tản người Mỹ! Di tản người Mỹ xong là đi quách đi, bỏ những người khác lại.” Chuyện này không được. Đây là chuyện mà tôi từ chối. Brent Scowcroft (12) đã hứa với tôi rằng tôi sẽ có năm mươi chuyến trực thăng người Việt và Đại Hàn mà chúng tôi cam kết. Chúng tôi đã đếm kỹ lưỡng số người khi kéo họ qua bức tường lọt vào toà Đại sứ. Nhiều người là những nhân vật trọng yếu, có người là bộ trưởng chính phủ. Tất nhiên chúng tôi không có ý định mang họ vào rồi bỏ họ mà đi! Khốn thay, lời nói của gã Herrington với viên phi công được chuyển tới ông Đề đốc, rồi chuyển tới Tư lệnh Thái Bình Dương, lời nói ấy chuyển vòng đến Bộ trưởng Quốc phòng Schlesinger ở Ngũ Giác Đài. Các tướng Tham mưu thúc hối Schlesinger rằng: “Hễ cứ hỏi là lúc nào Martin cũng bảo còn 2000 nữa, bất kể đã chở được bao nhiêu. Cứ cái đà này đến phút chót vẫn là 2000!” Trong công tác bê bết máu lửa này dựa trên lời hứa của Scowcroft, chúng tôi đã phải thực sự tính toán cẩn thận: cứ mỗi chuyến chín mươi người. Ông ấy là Cố vấn An ninh của tổng thống, không tin ở ông thì tin vào trời đất quỷ thần nào? Thế rồi đột ngột họ gửi điện văn bảo: Chấm dứt. “Chuyến trực thăng kế tiếp đến, xin ông đi cho!” Tất cả chỉ vì gã Herrington này, và sau đó anh ta lại viết sách rồi trở nên một đại anh hùng !(13)

Tôi cũng lấy làm phiền về viên chỉ huy an ninh toà Đại sứ, người lãnh trách nhiệm di tản cảnh sát Việt Nam. Tôi đã giữ riêng cho họ hai cái tàu trên sông, nhưng ông ta cứ lằng nhằng muốn đưa họ ra đi sớm. Phía tướng tá Việt Nam báo cho tôi biết: không cách gì có thể duy trì trật tự trong thành phố nếu tôi rút cảnh sát Sàigòn đi. Vì thế tôi bảo ông ta khoan lại, đợi đến ba giờ trưa hãy đi. Ông ta bực bội chỉ muốn làm theo ý riêng mình. Nhưng ông ta cũng đợi được đến ba giờ trưa rồi cho cảnh sát lên tàu di tản cùng với gia đình họ. Tôi không có gì để than phiền nhiều về chiến dịch di tản này vì tổng thống và Kissinger đều đứng bên tôi, hỗ trợ tôi cho đến tận giây phút cuối cùng.

Tôi không bảo chiến dịch ấy hoàn hảo, nhưng khi duyệt xét lại, tôi có quyền hỏi: “Ai có thể làm khác hơn trong những hoàn cảnh đặc biệt ấy?”

Khi rời toà Đại sứ tôi biết đấy là giây phút lịch sử. Chắc chắn như vậy. nhưng trước đây tôi từng hỏi Hoa Thịnh Đốn: “Chúng ta có sự lựa chọn. Trong sự lựa chọn đó cần phải hỏi: Sau tôi, còn những việc gì sẽ xảy ra? Đối phương sẽ lấn chúng ta hơn nữa, ở khắp nơi trên thế giới. Chúng ta cần phải giữ những lời cam kết của chúng ta!”

Trong lúc trực thãng bay, tôi nghĩ chúng tôi đã rũ bỏ xong. Chúng tôi đã kinh qua biết bao việc, chúng tôi đã mang hết được người Mỹ đi. Và mang hết người Mỹ ra đi, đó là trách nhiệm chủ yếu của chúng tôi. Chúng tôi cũng mang được một số lớn người Việt trong khả năng chúng tôi. Đáng lẽ chúng tôi nên mang đi nhiều hơn nữa, chúng tôi đáng lẽ phải mang 400 con người cuối cùng ấy ra đi, nhưng rất tiếc chỉ vì sự lôi thôi đã xảy ra trong lúc rối loạn như thế thôi.

Tôi nghĩ người Mỹ có quyền hãnh diện về chiến dịch di tản. Phần tôi tuyệt đối chẳng có gì dính líu đến những chuyện phải xin lỗi cả.

Tôi đã nhận lãnh nhiều trách cứ về vụ Việt Nam. Chính vì thế mà rất lâu sau, đợi cho mọi thứ lắng xuống, tôi mới ra trước Quốc hội để mọi người đứng lên lãnh trách nhiệm và nhận lỗi của mình, và họ đã làm như thế.

Dẫu sao tôi cũng có nhiều điều thích thú. Tôi không bao giờ lo rằng mình có thể bị giải nhiệm. Tôi đã tính nếu bị sa thải, thì sẽ về ngồi với cái máy chữ mà viết.

Áp lực của nhóm chủ hoà đã áp đặt trên hệ thống giáo dục, và sự mù quáng của cái chủ trương “đừng-làm-một-cái-gì-có-thể-gây-tranh-luận- hoặc-bị-tấn-công” đã có khuynh hướng chế ngự hệ thống giáo dục chúng ta, do đó các nhà xuất bản sách giáo khoa hoặc giả lơ chuyện Việt Nam, hoặc chỉ mô tả sơ sài nhạt nhẽo chẳng giúp cho ai có thể hiểu sự thực thế nào. Điều này đáng tức cười, bởi vì về một phương diện khác, nó lại là điều tốt. Thỉnh thoảng nói chuyện với sinh viên, tôi nhận ra đa số chẳng những không hiểu biết gì, mà còn cực kỳ ngây thơ về chuyện Việt Nam. Nhưng chính vì thế, họ lại có thể tìm hiểu vấn đề với một quan điểm hoàn toàn khách quan. Chính vì thế, họ trở thành nhóm người duy nhất tại nước Mỹ có thể nhìn mọi sự với quan điểm khách quan ấy. Nhưng vì vậy, khi thấy được những sự kiện phô bày đầy đủ rõ rệt trước mắt, họ bực tức vì họ đã bị bưng bít, do đã bị từ chối trong việc tìm hiểu và đã chỉ được đọc một phần của cả vấn đề.

Hiển nhiên, sau này các sử gia sẽ đào sâu mở rộng hơn. Có lẽ họ sẽ đối xử rất tử tế với tôi, có lẽ còn tử tế hơn cả sự xứng đáng của tôi. Dầu vậy, chúng ta hãy còn biết bao nhiêu chuyện trời đất mà những chuyện ấy vẫn chưa từng được kể hết ra!

____________________________

(*) Mc Namara Bộ trưởng quốc phòng Mỹ.
(1)Harry Summers là Đại tá văn phòng tùy viên quân sự, DAO.
(2) Người Mỹ gọi là luật Murphy-” Murphy’s Law”-Khi cái gì hư hỏng xảy ra, là nó xảy ra, thế thôi!
(3)Tổng thống Trần Văn Hương.
(4) Trưởng nhiệm Sở Trung Ương Tình Báo Mỹ.
(5)Thuộc Trung ương Tinh Báo Mỹ.
(6) Trung tướng Mỹ văn phòng Tùy viên Quân sự.
(7)Giám đốc Trung Ương Tinh Báo Mỹ.
(8) Đây là việc Polgar tự động liên hệ với nhân viên Hung Gia lợi sắp đặt việc thương thảo với Bắc Việt. Chuyện này sẽ do Polgar tự kể trong chương kế-Polgar không biết những người làm chính sách Mỹ chỉ muốn rút, không thương thảo gì, không có ý định lập chính phủ liên hiệp. Việc này phụ tá Đại sứ Lehmann đã nói ở phần đầu của chương 4. Ghi chú của người dịch.
(9) Xem phần phỏng vấn Phụ tá Đại sứ Wolf Lehmann và phần phỏng vấn Thiếu tá Jim Kean chương 9. (10) Jim Kean, Thiếu tá Thủy quân Lục chiến, sẽ có bài ở Chương 9.
(11) John Madison, Đại tá Bộ binh, thành viên ủy ban Liên Hợp Quân Sự.
(12) Cố vấn an ninh quốc gia.
(13) Xem phần phỏng vấn Stuart Herrington ở Chương 7 . Ghi chú của người dịch.