1.
– Nó giết mấy con gà, nó sát sinh. Rồi mấy cậu giết nó, còn ăn nó nữa chớ… Tới phiên mấy cậu cũng mang tội sát sinh!
Tôi cảm thấy khó chịu, xốn xang. Ánh nắng xế trưa chiếu xuyên qua tán lá cây mít, vẽ những đốm sáng lay lắt lên đỉnh đầu, gò má bọn tôi nhưng đám bợm chẳng tên nào thèm để ý mà sửa thế ngồi cho tránh chói. Tựa lưng vào gốc cây, tôi uể oải đưa tầm mắt ra xa vượt khỏi khu vườn còi cọc của Thường, nhìn về núi Dinh Cố. Bên dưới vài đám mây trắng lóa bởi nắng đang rất gắt giấc này, sườn núi xanh rờn màu cây lá, lác đác vài chỗ chợt sẫm tối bởi bóng mây.
Dân nhậu hay nói trời nắng nóng mà uống rượu đế thì rất mệt người, phải vật vã, nhăn nhó như Phan Thanh Giản uống thuốc độc nhưng nảy giờ, cái bình toong quân nhu cũ mèm, đựng gần năm xị đế cũng đã nhẹ tưng từ hồi nào dù chỉ có hai bợm ngồi ‘cưa’ đôi, đưa qua đẩy lại.
Thật lòng tôi có ray rức vì lời buộc tội vừa rồi của cháu gái Thường nên cố gắng phân bua:
-Để cậu nói cho con nghe. Con trăn này bữa nay nuốt mấy con gà, nếu nó còn sống thì mai mốt thế nào nó ăn thêm gà thêm vịt nữa. Rồi nếu… ốm nhách, nặng chưa tới ba chục ký lô như con mà ra đồng một mình, lỡ gặp nó, đúng lúc nó đang đói, kiếm không ra mồi, thì sự thể sẽ ra sao đây? Dù con nói gì thì rõ ràng nó đã là sát sinh… Thôi để cậu gọi nó là “sát thủ” nhe, y như trong bộ băng Bao Thanh Thiên bên nhà bác Tư mướn về coi hoài đó? Ừ, “sát thủ” lạ mặt này đã giết mấy con gà nhà mình. Nó phải bị trảm! Hai cậu không còn cách xử nào khác hơn. Không chịu thì con đi hỏi bà ngoại đi. À mà con hãy từ bi hỉ xã bỏ qua cho mấy cậu cái tội ăn luôn “sát thủ” nghe con…
Con trăn dài gần hai mét, đường kính vòng thân mình cỡ lon sửa bò. Về lý lịch con trăn thì tôi đồng ý với Thường, rằng vùng đất rẫy An Ngãi này đã bị giải tỏa gần hết, mấy con đường nhựa đã làm xong, cỏ hoang và cây dại đâu còn bao nhiêu mà rắn rít, sóc, chuột đồng… còn chỗ sống; rằng hơn nữa con này không phải rắn mà là trăn dài thượt như vậy thì chắc gốc gác nó phải là từ phía núi kia, run rủi sao mà bò vô tới miếng rẫy này…
Cứ như vừa rồi miếng rẫy của Thường chợt hóa thành công đường xử án lưu động của Bao đại nhân, Thường khề khà kể tiếp về diễn tiến vụ việc với giọng lạnh lùng kiểu “ký sự pháp đình” nhưng không khỏi thêm thắt chút đỉnh. Tội danh của “sát thủ”: giết bằng cách nuốt sống ba con gà của gia đình Thường, nhưng số “kẻ bị hại” có thể nhiều hơn nếu bỏ công đi hỏi bà con hàng xóm xung quanh đây. Hiện trường: đám cỏ tranh. Thời gian gây án: không rõ, chắc đã mấy ngày rồi. Chủ tọa hội đồng xét xử: ông Thường, chủ rẫy. Hội thẩm nhân dân: mấy phụ nữ đứng vòng ngoài, đã không hề có ý khoan hồng. Luật sư tình nguyện bào chữa: con gái Thường.
Sau khi tội danh thành lập, án đã được thi hành ngay lập tức. Đặc biệt là Thường – ông chủ tọa hội đồng xét xử, cũng xăng xái tham gia vào “đội thi hành án” nhưng thực ra, ông ta chỉ đứng xa xa, tay quơ quơ cái cuốc, miệng la hét om sòm gọi là chỉ huy. Cả đội cứ xà quần, dày xéo đám cỏ tranh khá lâu mà kẻ thủ ác vẫn luồn lách, tìm đường trốn chạy. Rốt cuộc, vì nghe ồn ào, một thằng cháu lâu nay bệnh khật khùng của Thường ở rẫy bên cạnh đã chạy qua và lẵng lặng tự bổ sung ngay vô đội. Nhát cuốc duy nhất của anh khùng bổ xuống, chính xác vào ngay đầu sát thủ.
2.
Nếu không có tôi tình cờ từ Sài Gòn xuống đúng lúc vụ án xảy ra thì “sát thủ” đã được đem chôn cất tử tế. Vì, một là có người bàn việc lột bộ da con trăn phơi khô rồi kiếm chỗ bán, nhưng da đã hư nát vì nhiều nhát cuốc, nhát rựa “ăn theo”. Hai là trong nhà không có ai biết ăn thịt rắn – nay là trăn thì cũng vậy thôi – trừ mỗi mình Thường, tiếc là bạn tôi tuy đã từng ăn và thích ăn thịt rắn nhưng lại không biết làm bếp, nhất là không hề có chút ý niệm nào về “lộ trình” chế biến thịt loài bò sát còn ghê gớm hơn rắn này. Còn lý do thứ ba chính là sự lên án của đứa cháu gái Thường đối với cả hai lý do có trước, nên phải lẽ hơn hết là đem chôn cất con vật cho đàng hoàng, cũng là để làm phước đối với một sinh linh vừa rời bỏ cuộc sống thế gian.
Do đó, khi tôi lên tiếng mọi người muốn chôn con trăn thì cứ chôn, chỉ cần để tôi chặt ngay giữa mình con trăn để lấy – cho tôi và tất nhiên cả cho ông chủ nhà – một khúc khoảng hai kílô, rồi tôi sẽ làm thịt trăn thành món nhậu. Lập tức trước mắt mọi người, tôi – cái gã dân thành phố văn minh – chợt có cái vẻ gì đó như dân man dã ăn tạp, tức ác đức hơn rất nhiều so với dân ở rẫy, nhiều lắm là chỉ thô lỗ, cục mịch thôi!
Sau 30 tháng 4, xong một năm đi học cải tạo về “tội” làm cán bộ xây dựng và bình định nông thôn, rồi hết phương kiếm sống ở thị xã, Thường đành cùng cả gia đình ba mẹ, chị em lui về miếng đất rẫy hẻo lánh này. Muốn đến vạt đất khô cằn này thì phải vượt qua 2 cây số đường mòn gập ghềnh, quanh co đi về phía chân núi Dinh Cố, một đoạn đường thường xuyên rất vắng người, cỏ hoang cây dại um tùm. Tỷ dụ như ai xui xẻo bị rắn cắn dọc đường thì rất ngặt nghèo vì phải lết đi mấy trăm thước mới thấy căn nhà lá nào đó.
Thấm thoát mấy chục năm đã trôi qua… Hiện giờ ở rẫy của Thường vẫn nhà tranh, vách đất, vẫn đèn dầu, nước giếng, cây trái còi cọc ngoài vườn – nghĩa là vẫn nghèo. Lâu lâu, vì ngặt nghèo quá, có khi Thường phải lén cắt tranh “lộn” bên đất người ta để bán kiếm tiền đong gạo. Mỗi lần từ Sài Gòn xuống, phải kẹt tiền lắm tôi mới để thiếu thứ quà thực tế – thức ăn. Với bọn tôi, lần nào cũng là manh chiếu rách trải dưới tàng cây mít với thứ rượu đế rẻ mạt đựng trong bình toong nhà binh, vài miếng ổi chát hay con khô mặn…
Bữa nay, có khúc thịt trăn, tôi đưa tiền cho đứa cháu nhỏ chạy u ra cái quán gần nhà, được tiếng là xa chợ mà cũng có bán đủ thứ. Như ngũ vị hương là thứ rất cần cho món trăn xào, nhưng xả, ớt đã sẵn có dư dả ngoài vườn. Và dĩ nhiên, không thể thiếu một bình toong rượu cùng với nước đá chữa lửa. Cái chái bếp tồi tàn, lạnh lẽo, vừa thấp vừa tối của nhà Thường bỗng trở nên ấm cúng, nhộn nhịp, chộn rộn tiếng nói tiếng cười, khác hẳn ngày thường.
Làm bếp xong, việc dọn bãi đáp đã có chủ nhà nên tôi thong thả ra tắm cạnh cái giếng trong vườn. Gió thổi rào rạt đến phát lạnh, nước giếng cũng lạnh ngắt nhưng ngay gáo nước đầu, xác thịt chợt được kích thích lạ lùng. Khó có thể diễn tả được cái cảm giác thống khoái kỳ cục, nặng trĩu nhục cảm. Tắm xong, bọn tôi xà vào chiếc chiếu rách quen thuộc đã được trải dưới gốc mít …
Phần còn lại của thi thể con trăn “sát thủ”- như đã nói – giờ là đĩa xào ngũ vị thơm phức. Mấy con chó xớ rớ gần đó bị đuổi chạy cho xa vì người ta cử kiêng, không bao giờ cho chúng ăn xương rắn, xương lươn. Xương trăn cũng vậy thôi. Cảm giác sảng khoái một lần nữa lại lan tỏa khắp người, dĩ nhiên bắt đầu từ vị giác. Thứ rượu dỏm, hôi như mùi cao su cháy hay mùi giẽ rách lau bàn, mấy ngụm đầu tiên lại chợt ngon lạ lùng. Có khi hạnh phúc chỉ đơn sơ quá đỗi và bé mọn đến tội nghiệp như thế.
3.
Vậy mà đứa cháu gái Thường đang kết tội tụi tôi sát sinh: một “nhóm sát thủ” này giết một “sát thủ” khác, bạo tàn hơn là còn ăn luôn cả một phần thi thể. Riêng Thường, có nhỏ nhẹ phân bua rằng hành vi ăn thịt luôn “sát thủ” thì trong trường hợp này nó lại là một con vật nên con người không mắc tội sát sinh, do ông bà mình từ xưa đã có chủ trương “vật dưỡng nhơn”. Vậy ở đây, lời buộc tội không xác đáng: không sát sinh đối với “vật” thì con người làm sao được “dưỡng” từ “vật”? Rõ ràng tụi tôi đã cố gắng giải thích, mong mỏi sự đồng cảm từ “luật sư” bào chữa cho con trăn “sát thủ”.
Bất giác tôi ngước mặt lên nhìn đứa cháu gái của Thường. Đó là một cô nhỏ ốm yếu, đen đũi, gương mặt không đến nổi xấu gái nhưng trông thật tối, đã 18 tuổi rồi mà thân thể cứ khô đét, không một chút gì nở nang, tròn trịa. Những khó khăn, túng thiếu kéo dài ở gia đình này đã khiến cô nhỏ chỉ biết mang những suy nghĩ, hoài vọng bế tắc của mình đến cửa những am, chùa, miếu, cốc… đầy dẫy ở vùng đất khô cằn này. Rồi niềm an ủi có thể chợt đến từ lời giảng dong dài của một ni cô trẻ vô chùa vì thất tình hay từ một ông sư già đi tu bởi thua đề mất nhà nào đó. Hẳn là cô nhỏ được dạy rằng, sống ở đời, có nghèo khổ thì chỉ là do số mạng, do nghiệp báo không thể tránh khỏi. Hơn nữa, sống ở đời là phải nhẫn, luôn chịu nhận lấy phần thua thiệt về mình. Như về chuyện con trăn giết, nuốt mấy con gà – phải nói là một biến cố, mất mát khá lớn bởi đây là cả một tài sản chắt chiu của cái gia đình nghèo quá nghèo này – thì cô nhỏ vẫn nhất định không kết án con trăn, cũng như không chịu cho ai trị tội “sát thủ”. Hãy tha thứ cho kẻ ác! Đừng chấp! Hãy ẩn nhẫn và chịu đựng trước cái ác, cái tội lỗi!
Tôi nhìn lại đĩa thịt trăn. Chỉ là một niềm vui nhỏ bé, chung rượu hạ bạc khi vô thăm bạn nghèo ở cái đất rẫy đìu hiu này mà cuộc đời vẫn không cho phép?
Thôi, bữa nay hoàn cảnh không vui, men rượu không đủ gây hứng cảm – dù là một chút lãng đãng chiêm bao – để nhắc Thường trở vô nhà lấy ra cây ghi-ta như mọi lần. Trời mới về chiều mà tôi đã nghĩ đến sáng mai trở về thành phố, bình lặng trở lại công việc kiếm sống. Cũng như bạn tôi phải lầm lũi trở lại với mấy gốc mảng cầu, gốc mít cùng đám cỏ tranh. Chỉ có “sát thủ” là đã đi vào Hư Vô…
Phạm Nga
”Trăn sát thủ”ăn ba con gà!
Giờ đền tội-Trăn đây trả giá…
”Cuốc rựa băm vằm da tơi tả!
Khúc giữa thân-mồi nhậu người ta!”
….Ao giếng tắm mát thịt mát da.
Dưới gốc mít bày ra thịt thà…
Ngũ vị hương ướp Trăn thơm quá!
Rượu quê hương trong veo uống đã!
….”Trăn sát thủ”ăn ba con gà
Người ăn Trăn là nuốt tất cả!?
Vậy là nhất vẫn con-người -ta?
Qui thành một chúa tể”Sơn hà”?
….*Đâu hề gì chỗ nơi tệ xá?
Rượu hạ bạc nghèo cũng Vui Mà?
Vẫn bạn bè trong cõi Ta Bà…
Chỉ ”Sát Thủ ”vào cõi Thăng Hoa…hihi………..