Trời lạnh, tôi đứng bên nầy sông Santa Ana, sau cơn mưa nước sông cũng chỉ như dòng suối, nhưng bên cạnh là mặt hồ rộng của công viên Centennial. Tôi tưởng tượng điếu thuốc Pall Mall trên môi và nhìn làn khói trắng tan vào trong gió, thói quen để chống trả cảnh hiu hắt và giá lạnh giữa biển khơi thuở nào. Hình ảnh đã xa lắm, nhưng hôm nay đứng đây, bất chợt tôi liên tưởng đến anh bạn Trần Thoại Nguyên (TTN), trên tay lúc nào cũng kẹp điếu thuốc. Và
mơ hồ, nhân vật Tất Đạt trong “Câu chuyện Dòng Sông” của Hermann Hesse. Hai nhân vật không liên quan gì với nhau, nhưng cùng lúc cả hai hiện hữu trong trí nhớ của tôi.
Trần Thoại Nguyên – người bạn kết nối từ những dòng thơ trên FaceBook – Tất Đạt và TTN mỗi người một tính cách. Tất Đạt, sau khi từ bỏ lý thuyết và những điều thầy (Cồ Đàm) dạy, đi tìm cho mình lý thuyết tốt đẹp hơn với một ý chí thép – đạt tới đích hoặc chết –
Còn TTN một mình, một cõi, không phe nhóm, không hội đoàn, chàng thong dong sống với thơ trong mơ hồ về Phật tánh, về triết lý siêu hình, bằng cảm giác và trải nghiệm của một thi sĩ.
“Tôi đi giữa lòng cuộc đời
Không hội đoàn băng nhóm.
Cánh cửa hồn thơ tôi
Mở ra những chân trời huyền diệu mộng!”
Trích – HUYỀN NGÔN THƠ.
Khi Tất Đạt theo hồng nhan Kiều Loan và đại gia Vạn Mỹ, sống trong trụy lạc, tham lam. Đời sống trở nên trống rỗng, nhàm chán. Lạc thú và của cải không thay thế được nhu cầu tri thức, Tất Đạt tìm đến bên dòng sông, làm người đưa đò với Vệ Sĩ – Người thực sự giúp cho Tất Đạt chứng nghiệm và giác ngộ.
Trần Thoại Nguyên, sau bão tố lịch sử, những xáo động của xã hội bắn tung chàng lãng tử rơi từ thiên đường xuống địa ngục, từ cõi nhân gian vào chốn lọc lừa. Càng lăn lóc, thơ TTN càng quấn quít với chân tình và phảng phất khói hương thiền tông Phật đạo. Trên đường thơ, có khi TTN lạc vào mê hồn của Hàn Mặt Tử theo trăng.
“Tình yêu phụng hiến trăng là nguyệt
Khép mở muôn trùng … cánh sao băng!”
Rải rác, trong thơ TTN ta gặp trăng:
“Trên đỉnh thu sầu màu trăng vỡ
Đường nhân gian lạnh buốt đêm dài!
Người yêu hỡi ! Trăng vàng suối ngọc
Cát mịn màng … sóng vỗ biển dâu.”
(Cõi Tàn Phai)
Và :
“Triệu con trăng khóc tang mùa
Tôi nằm tuyệt huyết bên chùa động chuông.”
(Bướm lạ)
“Tàn khuya núi đá vô ngôn
Bướm tiền duyên về đậu
Ôm mảnh cô hồn
Tôi gối đầu trăng sao say sáng tạo.”
(Thi sĩ)
Trăng với TTN như một nhân duyên kết tụ, ngoài những trăng rải rác trong các câu thơ, ta bắt gặp “ĐÊM TRĂNG LEO LÊN MÁI CHÙA” , “ĐÊM TRĂNG PHƯỚC TÍCH”(*), và “ĐÊM TRĂNG NGỦ TRÊN ĐỒI CÙ ĐÀ LẠT”(**).
ĐÊM TRĂNG LEO LÊN MÁI CHÙA
Ngồi trong vườn nguyệt lộ
Hôn một màu trăng non.
Nghe lòng mình cười rộ
Chạy băng đồi vô ngôn.
Ồ. Hồn tràn mộng trắng
Tôi ôm trăng không màu
Tôi ngút xuống biển dạng
Tôi dại khờ mắt nâu.
Ngắt một bông trắng lau
Hương thắm giọt máu đào.
Đêm bừng lên nguyệt thẹn
Tôi nằm dài xanh xao.
Chim về ngủ ôm trăng,
Ngô đồng rơi chánh điện.
Tôi ngồi giữa Phật đàng
Làm thơ như thánh hiện.
Máu ràn rụa tây hiên,
Ồ. Máu băng ngực điên!
Tôi tĩnh mịch trang thơ
Hồn bay theo nhang khói.
Chim chết giữa điện thờ
Tôi rớt xuống điện thờ.
Chùa BẢO LỘC, Thu 1970.
Đêm trăng leo lên mái chùa là định mệnh, là cột mốc giữa đời sinh viên lang bạt, bằng một sự kiện hi hữu, TTN trở thành thi sĩ.
Sau khi bị té từ mái chùa xuống đất, đầu rướm máu, TTN xuất hồn viết bài thơ trên giấy của bao thuốc Bastos xanh, bài thơ qua tay người ban đến với Thiền sư Tuệ Sĩ, được chọn đăng trên Tập san TƯ TƯỞNG của Viện Đại Học Vạn Hạnh – Cơ quan ngôn luận, dẫn đạo về tư tưởng, Triết lý, Giáo dục và Văn hóa rất uy tín của Phật Giáo Việt Nam.
Hai mươi tuổi, chàng sinh viên Trần Thoại Nguyên có thơ đăng trên tạp chí TƯ TƯỞNG là một vinh dự lớn. Chỗ đứng của một bài thơ tự khắc xác định đảng cấp của một tác giả. Nhưng với người phê bình, không thể vì “Bứt dây động rừng” mà né tránh những nhận thức của mình với “Đêm trăng leo lên mái chùa”.
Đọc bài thơ, như tác giả thổ lộ với Lý Thừa Nghiệp thì leo lên mái chùa là ” định chơi ngông muốn thưởng trăng nơi cõi thượng giới ” thưởng trăng cõi thượng giới là cách nói từ vô thức. Thượng giới thuộc về trời cao, vô biên. Khoảng cách độ cao từ mái chùa đến mặt đất, đối với vô biên chỉ là con số không, nghĩa là thưởng trăng dưới đất và trên mái chùa như nhau. Do ý nghĩ sai lầm đó, TTN đem vào trong thơ những từ ngữ triết học và thiền tông, bài thơ trở nên khó hiểu, nó chỉ phù hợp với một số đọc giả tin vào giá trị và uy danh tạp chí Tư Tưởng của Đại học Vạn Hạnh. Bài thơ được đăng ở Tư Tưởng số 16, trang 27, năm 1970. Tên tuổi Trần Thoại Nguyên đứng chung với những tác giả lừng danh như Thích Minh Châu, Thích Nguyên Tánh, Tuệ Sĩ, Lê Mạnh Thát, Kim Định, Trúc Thiên, Lê Tôn Nghiêm, Phạm Công Thiện, Bùi Giáng, Phạm Thiên Thư ….. tự khắc, chỗ đứng của bài thơ mặc nhiên khẳng định TTN là một Thi Sĩ. Chàng Thi Sĩ hai mươi tuổi từ đó sa đà vào dòng thơ mang tính cách bác học, ý niệm Thiền và hơi hướng Phật giáo chi phối lổn ngổn trong nhiều bài thơ của TTN, nó hướng tâm hồn của thi nhân vào chỗ đứng cao ngất ngưỡng, cần có một số vốn liếng triết học và căn bản Phật học môn phái Thiền tông, mới hoà nhập vào hồn thơ và ý nghĩa của “Đêm trăng leo lên mái chùa”.
Ngồi trong vườn nguyệt lộ
Hôn một màu trăng non.
Nghe lòng mình cười rộ
Chạy băng đồi vô ngôn.
Nguyệt lộ là trăng sáng, sương rơi, là cảnh đẹp thiên nhiên. Vô ngôn trong Thiền tông diễn tả trạng thái tự chứng pháp, tức là thâm mật, là bản trụ của pháp tính. Một khổ thơ rất đẹp, trong vườn sương long lanh ánh trăng, chàng thanh niên ngồi hôn màu trăng non, lòng vui sướng tự chứng cho mình một pháp tính, các khổ thơ tiếp theo diễn đạt thêm. Một bài thơ mang tính thiền, ở đây tôi đang trình bày về Đời thơ, Phận người và Thi sĩ Trần Thoại Nguyên, chỉ lướt qua một ít thơ đặc trưng theo chủ đề, để có thể định hình tính chất Trần Thoại Nguyên trong thơ.
Chúng ta thử tách ra một vài khổ thơ rồi dấu tên tác giả TTN, như:
Cây lá xanh biêng biếc thời gian
Chuồn chuồn châu chấu mãi bay sang
Cầu vồng sinh tử thiên thu soi bóng
Lối bay về thiên sứ ca vang.
(Huyền ngôn thơ)
Đọc khổ thơ trên, Có thể nhiều bạn đọc nghĩ là thơ của Bùi Giáng.
Hay, một chút gì váng vất Tuệ Sĩ, dưới đây:
Từ đỉnh núi cao đến biển sâu thăm thẳm
Hạt cát vàng lấp lánh khắp cõi uyên linh.
Hôn giọt nắng ta nghe lòng mình xanh thắm
Người yêu ơi ! Màu năm tháng mãi xanh tình.
(Mỗi sáng mai mở cửa ta chào ngày mới)
Với bài “Bướm lạ” tặng Pham Thiên Thư, TTN viết những câu lục bát tài hoa. Không phải ai làm thơ lục bát cũng thành thơ , TTN đã viết những câu lục bát để tặng cho tác giả “Động hoa vàng” ở lứa tuổi hai mươi đậm chất thiền, lại ứng vào đời sống như một tiên tri.
Triệu con trăng khóc tang mùa
Tôi nằm tuyệt huyết bên chùa động chuông.
Có con bướm hiện dị thường
Gáy liên thiên mộng hoang đường nửa đêm.
Ngần ngần hồn vỡ thơ điên
Ồ! Con bướm lạ ấy tiên tri đời.
Trên đây là những trích dẩn khi tôi đọc lướt qua một vài bài thơ của TTN, mà đời thơ TTN quá đồ sộ, diễn tả đủ mọi tình huống. Cho nên trích dẫn có thể là tích cực, nhưng thường là theo chiều hướng tiêu cực. Còn tôi, tôi muốn người bạn tài hoa của tôi nhìn lại mình, làm sao để mọi người khi đọc lên là nhận ra thơ của Trần Thoại Nguyên, chứ không thể ai khác.
Thi sĩ Trần Thoại Nguyên sống đời lảng tử, mê thơ, sáng tác thơ từ thuở thiếu thời. Lớn lên giữa chiến tranh, thơ song hành cùng với những nẻo đường lang bạt kỳ hồ. Người lính ngoài trận địa tin vào hoả lực, tin vào sức mạnh vũ khí, thì người thơ sống bằng ý thức, được tâm hồn chuyển hoá thành thơ. Tâm hồn thi nhân là sợi tơ căng giữa cuộc đời, bao nhiêu biến chuyển của xã hội tác động làm rung sợi tơ. m thanh từ sợi tơ tác động tâm hồn, người thơ vịn vào khả năng của mình, cùng với tâm hồn, thơ ra đời từ đó.
Trong số bạn bè thân thiết, nhiều người biết thơ TTN, thuộc thơ của chàng. Trần Thoại Nguyên có thơ đăng rải rác trên các tạp chí danh tiếng từ những thập niên 70 của thế kỹ 20. Nay có nhiều trang mạng văn nghệ chọn đăng, nhiều nhạc sĩ phổ nhạc. Một đời người, đời thơ nhưng TTN đến nay chưa có tác phẩm nào xuất hiện. Tuy nhiên, trong một phản hồi trên FaceBook, TTN đã có lần thổ lộ:
Thân du tử ! Đi về đâu chẳng biết
Zulu DC ơi ! Bằng hữu đẹp thơ ơi !
Đời mộng ảo trần gian chân lếch thếch
Sông đã nguồn con sóng lạ trùng khơi !
Thơ tôi làm ra tặng đời sao kể xiết
Thuở mười hai nay suơng gió bạc đầu
Thơ là hơi thở thơm tho hồn bất tuyệt
Chưa in được thi phẩm nào ! Ai biết vì đâu !
Tôi đã từng gọp thơ trình bày rất đẹp
SẦU CA TÓC XANH thuở trung học mê gái lang thang
THIÊN SỨ CA bạn bè sinh viên chuyền tay đọc khen hết biết
TRƯỜNG CA MẸ TÔI cũng đều thất lạc trong ngọn lửa hung tàn !
Ôi năm tháng mộng tình bay theo mây trắng
Thơ một đời cùng tay trắng chào lúc ra đi
Còn vần điệu ghim trong lòng người đồng cảm
Thuộc lòng từ xưa cho lại như cánh nhạn lai thi !
Trần Thoại Nguyên đi nhiều, sống nhiều, quen biết nhiều những tài danh như Bùi Giáng, Phạm Thiên Thư, Nguyễn Đức Sơn, Tuệ sĩ ….. Trịnh Công Sơn.
Tôi biết Trần Thoại Nguyên qua những bài thơ trên Facebook, những bài thơ thấp thoáng ánh đạo vàng, một chút về thiền, thiên nhiên, tình bạn, tình người ….. Thơ TTN không thâm nhập trực tiếp, nó đòi người đọc chiêm nghiệm, trăn trở với thơ, với những ngôn từ lạ lẫm, những câu thơ tân hình thức, hậu hiện đại. Loại thơ thích hợp cho những ai có nhu cầu khám phá mới lạ của ngôn ngữ mà thôi.
Gió thổi qua mùa hư không
Lá vặn gân lá máu đông
Hoa tàn kiệt
Mặt đất rung cơn hủy diệt
Cõi người xương máu áo cơm
Điêu khắc thành sầu đáy huyệt
Cõi người xương máu điêu linh
Héo hắt những linh hồn !
(Thi Sĩ)
Trần Thoại Nguyên là một thi sĩ dấn thân, không phải vào đời thường, chàng lăn xả vào thi ca, liều mạng và độc lập, nhưng chưa thể tạo cho mình bản lĩnh và làm nổi bật cá tính của một thi nhân.
Trần Thoại Nguyên, với tính cách nghệ sĩ, là gạch nối dàn trải sinh hoạt trực tiếp văn chương giữa hai chế độ, hai xã hội, hai nền văn hoá, từ khi chàng còn rất trẻ. Bằng trình tự dân tộc và cảm thức trong sức sống của miền nam, TTN tiếp thụ văn hoá mới và đồng thời duy trì, phát triển văn chương nhân bản, văn học khai phóng của nơi TTN sinh và lớn lên.
Đứng nhìn bóng phượng liên chiều
Chiều ơi ! Chiều dại ! Chiều xiêu ngã lòng.
Chiều vang, chiều trắng, chiều không
Ồ ! Tôi đứng hát giữa mông mênh chiều.
(CHIỀU KHÔNG)
Tính cách nghệ sĩ của TTN không bị dòng Bến Hải ngăn đôi, dù hình thức hay tư duy. TTN vẫn làm thơ, sống với thơ, lang thang trong thơ như mạch sống lăn đều, như những toa tàu, chỉ thay đổi hành khách lên xuống, TTN vẫn là TTN với cảm xúc tự chân tình, vẫn thân quen. Nếu có khác, thì chỉ khác ở mức độ hoàn cảnh mà thôi. Họa hoằn lắm, để ý chúng ta có thể thấy kinh nghiệm phiêu du một thời của bóng đêm và sự tỉnh lặng còn sót lại chút gì như khắc khoải, vô vọng đâu đó trong thơ.
Đập đổ tan mọi thần tượng
Cho cây đời trổ hoa ngát hương.
Cho tôi sống hồn nhiên ngất ngưỡng
Ca hát Tự Do trên những con đường.
(HUYỀN NGÔN THƠ)
Thơ Trần Thoại Nguyên có sức thuyết phục nhờ nôi dung phong phú, không gian trải rộng và chữ nghĩa được chắt lọc kỷ càng, nhưng đôi khi thơ đưa người đọc đến chỗ vô vọng, dửng dưng với cảm xúc, nhiều từ ngữ mang tính triết lý, hơi hướng thiền và câu thơ gần với tân hình thức, là một dạng thơ kén chọn người đọc.
Hạt cát vàng lấp lánh thế gian
Đóa hoa nghiêng chao trời đất mơ màng.
Vô biên xanh tay cầm khoảnh khắc
Chớp mắt sáng lừng vĩnh cửu mang mang!
(Huyền ngôn thơ)
Nhưng đó chỉ là những lúc xuất hồn, ngôn ngữ trong thơ là thứ ngôn ngữ của tỉnh với mê, khi tâm hồn thi nhân lạc vào trong những công án thiền, làm cho ý tưởng thoát ra ngoài cõi nhân gian, xa lạ, đòi hỏi sự cảm nhận đồng điệu, cùng một tần số mới hiểu được những gì trong thơ của thơ.
Nhìn một tác giả từ nhiều góc cạnh, trong mênh mông của văn chương, những gì lưu lại với tâm trí của người đọc rõ nét nhất, nó sẽ làm nên tên tuổi của tác giả.
Thơ TTN không có gì to tát lắm, những đề tài thường là biểu tỏ nội tâm mang tính triết lý, ảnh hưởng thiền định và tinh thần Phật giáo. Tình gia đình, bạn hữu, tình quê hương.
Thi sĩ Trần Thoại Nguyên, con người và thơ văn là sự kiện văn học nối từ nền Cộng Hoà qua Xã Hội Chủ Nghĩa. Thơ đến với TTN tình cờ, như cơn gió thoảng cho tâm hồn ta mát, cho tình ta gần lại và lòng ta đẹp hơn. Những ý niệm về Thiền, về Phật trong thơ TTN chỉ là nét chấm phá nguệch ngoạc của chú tiểu bắt đầu học kinh.
Điều chúng ta quí mến ở TTN là tấm lòng. Thơ anh khao khát tình thân, bè bạn, yêu đời nhưng bất cần danh vọng, quyền uy. TTN như là lữ khách rảo bước trên con đường thơ, bằng cảm xúc và chân tình, chàng đi tìm tri kỹ, tri âm. Thơ như cây lá ven đường, có khi sương che, gió thoảng, người lữ hành đơn độc, tựa hồ như đi vào vườn khuya trăng chiếu, vẻ huyền hoặc đó mơ hồ đưa thơ TTN vào cõi mông lung, thơ vươn ra khỏi cảnh bình thường.
Thơ là tiếng lòng do tâm hồn cô đọng lại, là ngôn ngữ được chắt lọc mang tính sử thi, thơ gần gủi thực sự khi chúng ta nghe trong tiếng mẹ đẻ ấy có tiếng của lòng mình. Điều nầy Trần Thoại Nguyên thể hiện chính xác và tài tình.
Sông Trà chết giấc nay bừng tỉnh
Bạn quê ơi ! Nâng chén,đừng than !
Giá phải đêm trăng dòng lấp lánh
Có bờ xe nước múc ánh vàng…
Cây lá xanh đôi bờ vẫn mộng
Vẫn ngân vang chén rượu chiều nay
Thưa em mây gió vô cùng sóng
Bạn hữu quê hương bát nước đầy!
Anh bạn dang tay như múa hát
Đọc thơ sang sảng quán chiều mưa
Đọc thơ sang sảng Cao Bá Quát
Nhớ “Trăng Sông Trà” một đêm xưa !
Sóng nước miên man nguồn ơi biển
Nâng chén khà khà thân củi trôi!
Cầm tay Trà Khúc lòng quyến luyến
Nửa thế kỷ buồn thân phận tôi !
(CHIỀU MƯA UỐNG RƯỢU SÔNG TRÀ)
Về hình thức thơ TTN đa dạng, ở lãnh vực tình cảm, nhiều bài thơ đã lưu lại trong trí nhớ của bạn bè, người đọc. Nhiều bài được các nhạc sĩ phổ thành nhạc, nhưng chưa có đĩnh cao để nhìn cho rõ tính cách của thơ Trần Thoại Nguyên.
Con người trong cuộc sống hàng ngày, ảnh hưởng nhiều bởi ngôn ngữ của thời đại, bởi tính cách xã hội uốn hình lịch sử, cho nên thơ TTN không thể vươn lên khỏi vận nước, dù rằng chàng vẫn ôm ấp giấc mơ làm cho thơ mình đạt đến cõi siêu thức. Có thể đó là nguyên do thơ TTN còn tạp chất và chưa định hình rõ nét.
Thơ của Trần Thoại Nguyên chưa có dấu hiệu mệt mỏi, bao nhiêu cảm xúc cho đầy
tâm hồn nghệ sĩ như TTN. Yêu đời, yêu người, yêu thiên nhiên sự vật, chàng mê trăng, mê cả sông hồ. Nhưng rất lạ, chàng yêu luôn gió, mà yêu một cách trang trọng. Với Trần Thoại Nguyên gió là một thực thể hữu hình, chàng đối đãi với gió như là người bạn tri âm. Có khi TTN một mình thức trắng đêm, sự thôi thúc của sáng tạo, của thơ và đối mặt với cô đơn, gió thành người bạn.
ĐÊM TRẮNG
Tàn khuya gió gọi ngoài hiên vắng
Tôi thức mình tôi. Gió cứ vào !
Cửa khép hờ, bàn trang giấy trắng
Gió cùng tôi vẽ mộng chiêm bao!
Trên bầu trời lấp lánh trăng sao
Dưới mặt đất hoa cỏ nhiệm màu
Tôi thở luồng hơi sương khói trắng
Chập chờn bóng ảnh gió lao xao!
Đêm tĩnh lặng dòng hương tinh khiết
Tôi thức mình tôi. Đêm trắng tinh.
Xương máu gọi thơ reo gió biếc
Hồn tôi đêm trắng một trang kinh!
Đêm tỉnh mịch, bầu trời lấp lánh trăng sao, mặt đất hoa cỏ nhiệm mầu. Trong căn phòng êm ái, tàn khuya là hết đêm, tác giả chưa ngủ, ngoài hiên thì thầm tiếng gió. Trong căn phòng TTN đặt sẵn trang giấy trắng, cửa khép hờ để gió vào cùng chàng vẽ mộng chiêm bao.
Trần Thoại Nguyên, thi sĩ chân tình với thơ, phong thái ngoài đời và hình ảnh trong thơ, TTN là anh chàng lảng tử, phiêu bạt giang hồ, hiền hoà, thân thiết với anh em, bè bạn, hiếu thảo trong gia đình và thanh thản ngoài xã hội.
Trần Thoại Nguyên, một thi sĩ có bề dày hơn 55 năm sáng tác, là một tên tuổi trong giới văn nghệ sĩ, với hoàn cảnh, với thời cuộc, TTN vẫn là một lử hành chưa chọn ra điểm đến, một sa di chưa có mái chùa, một thi sĩ chưa có tác phẩm, dù thơ chàng trải dài hơn nửa thế kỹ nay.
Zulu DC.