BÀN TAY NHỎ DƯỚI MƯA

truongvandan

“….Tôi chả tâm sự với ai về những gì đang xảy đến với mình. Bởi cái làm tôi đau thì chỉ mình tôi cảm thấy đau. Điều làm tôi lo lắng chỉ mình tôi lo lắng. Trong nỗi đau này chắc chẳng ai hiểu được tôi mà có lẽ tôi cũng chẳng hiểu được ai. Tôi nghĩ mọi an ủi xã giao vô thưởng vô phạt của bạn bè đều vô ích. Nó chỉ làm mình tủi thân. Vả lại, do tính cao ngạo, tôi hoàn toàn không muốn biến thành đối tượng cho sự thương hại của bất kỳ ai.
Nhưng còn anh? Tôi cũng chưa nói gì với anh về căn bệnh!
Tôi sẽ phải làm gì đây? Nói cho anh biết sự thật hay âm thầm trốn chạy? Tôi sẽ phải làm gì? Thế nào là chọn lựa “đúng” trong lúc này?Tôi không biết. Băn khoăn, tôi thường hay đến bên cửa sổ, ngơ ngẩn nhìn người qua lại. Mỗi con người đều có vẻ vội vã, hấp tấp đến, vội vàng đi. Tôi nhìn họ, một chút hờn ghen trỗi dậy vì tất cả đều biết mình sẽ đi đâu, còn tôi chẳng biết mình sẽ làm gì.
Chẳng có ai nói cho tôi biết. ”
………

…Trời gần sáng nhưng người tôi ê ẩm, không dậy nổi. Đột nhiên tôi nghe có tiếng động nhỏ trên sàn. Tiếng động như cào nhẹ, tôi nhìn thấy những vết màu đen, to bằng ngón chân cái, như những trái táo tàu nằm rục rịch trên sàn. Ban đầu ít, thưa thớt. Thoắt cái, táo từ trần nhà rớt xuống. Mỗi lúc mỗi nhiều. Lăn. Di chuyển. Chậm chạp. Bỗng một trái chạy lướt qua, bất ngờ hiện thành một con gián. Rồi một con đen đúa khác chạy theo, con thứ ba, thứ tư…những bước chân nhỏ xíu thoăn thoắt chạy. Vài con đứng giương râu nhìn quanh quất. Có một con chạy lạc, bò lên tấm chăn đang đắp trên vùng ngực. Tôi hốt hoảng, muốn hất nó nhưng cánh tay cứng đờ, không vung lên nổi.
Thế rồi nhiều con gián khác, mười, hai mươi… hằng trăm con đổ ra từ mọi phía. Chúng leo lên giường, bò lên tủ, chạy trên thảm, tràn ngập khắp căn phòng. Thoắt một cái, chúng hiện diện khắp nơi…có con còn dám chui vào chăn. Tôi lạnh mình, hai tay bấu chặt mép chăn, ép người sát nệm. Nhưng cảm giác rùng rợn của những que chân bò lướt trên da, bò lên bò xuống dọc theo cơ thể vẫn không chấm dứt.Tôi giãy dụa, ngồi bật dậy, tung mền, huơ tay cố hất …nhưng hai bàn tay lạc lõng, quơ vào khoảng không.
Hoảng, tôi hét lên và muốn nhảy xuống đất, nhưng đôi chân cứng ngắt, không đỡ nổi thân mình. Có một sức lực vô hình giữ lại khiến không cựa quậy.
Tôi thu mình, nửa nằm nửa ngồi. Lưng dựa vào thành giường.
Chết ngất.
Những con gián vẫn hùng hổ chạy. Tôi chỉ nhớ là cảnh đó diễn ra rất lâu. Không dứt.
Cuối cùng tôi ngã lăn ra.
Mất hẳn mọi ý niệm về thời gian.
Rồi tôi tỉnh lại thấy mình nằm dưới đất. Đau đớn. Khắp người ê ẩm. Một nỗi khiếp sợ vẫn bám lấy. Toàn thân tôi mệt mỏi một cách tuyệt vọng.Tôi cảm thấy như gã thần chết đang sờ mó trên thân thể mình. Trong đời người sao lại có thể cảm thấy cái chết đến gần mình đến thế. Tôi nghe được hơi thở của gã. Một thứ mùi khét lẹt như nhựa cháy.
Căn buồng mất ánh sáng, tối lờ mờ.
Màn đêm đắng nghét.
Có một bàn tay vừa chạm lên người tôi.
Tôi hét lên….
Kinh hoàng.
Lúc mở mắt thì thấy anh ngồi trong phòng đang ve vuốt lấy đầu tôi.
Thế là người đàn ông quan trọng nhất thế giới này đã trở về!
Xương thịt của tôi mà định mệnh đã từng muốn cắt lìa!

Anh đặt một bàn tay lên trán tôi. Hơi ấm của bàn tay chồng lên nỗi lạc lõng, lo âu. Anh giữ lại thật lâu và cho tôi cái cảm giác là tôi sẽ không còn bơ vơ nữa. Anh áp đầu tôi vào ngực anh rồi thì thầm: “Em vừa mới đi qua địa ngục phải không?


TRƯƠNG VĂN DÂN

Trích đoạn
Từ tiểu thuyết “Bàn tay nhỏ dưới mưa” , trang 247-249

TRÊN CHUYẾN TÀU VỀ QUÊ ĂN TẾT

elenapucillo

Elena Pucillo Truong
(Nguyên tác: il mio ritorno in paese)

Bản dịch của Trương Văn Dân

Mệt mỏi! Chiếc xe lửa liên tục dằng xóc tạo nên những va đập trên lưng làm toàn thân tôi ê ẩm. Có lúc cơn mệt nhọc đã làm tôi thiếp đi trong một giấc ngủ ngắn, rồi giật mình thức giấc vì cái đầu lắc lư, đập lên thành toa, đau điếng.
Nhưng không phải cơn mệt mỏi hay sự thiếu tiện nghi đang làm tôi khó chịu mà chính là cảnh hành khách bị nhồi nhét trên toa. Nhiều người bị chèn ép, nửa nằm nửa ngồi giữa những hành lý ngổn ngang: vali, giỏ xách, thùng giấy được bó, cột sơ sài; Ngoài tiếng ồn còn có thêm tiếng khóc inh ỏi của các bé. Đó đây lốn nhốn những thân hình lèn sát vào nhau để chống lạnh hay để làm giảm sự cứng rắn của những thanh gỗ ghép làm lưng dựa và ghế ngồi.
Bao nhiêu nhọc nhằn mà hành khách phải trải để có được vài ngày vui Tết với những người thân! Nhiều người trong số họ đã phải làm việc tất bật suốt một năm dài, chắt chiu để có thể dành dụm được ít tiền trang trải cho chiếc vé về quê ăn Tết; Mà mua được một chiếc vé trong những ngày cuối năm là có thể tự xem mình may mắn, là đạt đến đích sau những vật vã, lăn lộn giữa muôn vàn khó khăn, chen lấn.
Niềm hạnh phúc ấy thật nhỏ nhoi, dù đổi lại là một chỗ ngồi chẳng mấy tiện nghi. Nhưng chắc chắn có người vẫn đang nghĩ là dù có phải bó gối ngồi nép mình trong suốt chuyến đi trên băng gỗ cũng vẫn hơn là phải ép xác trên những chuyến xe đò nguy hiểm, nhồi nhét người lẫn đồ vật, có khi có cả gà vịt, xe máy dưới ánh nắng gay gắt ban ngày và cái lạnh buốt giữa đêm khuya.
Và, trong những ngày này, dù chọn bất kỳ phương tiện nào, giá vé cũng có thể tăng gấp hai, gấp ba… những ngày thường! Thế nhưng các hành khách cũng đành phải chấp nhận vì trong những tình huống dù xấu đến đâu con người vẫn phải bám vào một lý do gì đó để tự cho là mình may mắn.
Đây là tất cả những ý nghĩ đã chồng chất lên nhau trong đầu tôi giữa những cơn ngủ gật. Tôi đã may mắn lắm mới có được một chỗ ngồi trên toa tàu này, ngay lúc cảm thấy mình tuyệt vọng và sắp sửa từ bỏ ý định về quê ăn Tết. Tôi không muốn nhớ đến những tằn tiện của mình để có thể góp nhặt được số tiền, bước đến quầy mua chiếc vé ước ao… rồi bẽn lẽn biết vẫn chưa đủ vì những ngày cận Tết giá vé đã tăng! Hoàn toàn tuyệt vọng! Phải làm gì bây giờ? Làm sao tôi có thể tìm được số tiền còn thiếu trong ngần ấy thời gian?
“Chiều tôi sẽ quay lại!”
Tôi nói thế nhưng không tin là mình có thể quay lại! Rồi, như một phép lạ, cuộc gặp tình cờ với một người bạn cũ… và đây là những tờ bạc còn thiếu để có thể mua được tấm vé tàu mơ ước.
Đã 3 năm rồi tôi không thể về quê và nhiều lúc tôi cảm thấy mình có tội vì không gặp mẹ trong suốt quãng thời gian ấy. Mỗi lần nói chuyện với bà qua điện thoại tôi thường cố kìm lòng không khóc để bà khỏi nhận ra là trong lòng tôi đang đau đớn xiết bao. Chẳng những không khóc tôi còn cố vui cười nhiều hơn bình thường, khen ngợi và chia sẻ về những gì bà kể, dù trong đầu tôi lúc nào cũng chất đầy lo lắng về một tương lai vô định. Qua đường dây điện thoại, nghe giọng nói của mẹ tôi thường hình dung đến đôi mắt trũng sâu của bà, người mẹ chất phát và đơn giản, nhớ đến đôi bàn tay xương xẩu và sần sùi, mỗi ngày mỗi khô khốc từ mưa nắng sau nhiều năm phơi người trên đồng ruộng.
Mẹ tôi thường lạnh lùng và nghiêm khắc nhưng đôi lúc mẹ cũng hết sức ngọt ngào. Cách đây vài tuần, trước khi tôi bước lên toa tàu này, mẹ có gửi cho tôi một bức thư, mà giờ tôi vẫn còn mang theo bên mình. Nó như một hòn than đỏ và nóng bỏng đang âm ỉ trong túi áo của tôi, những lời bà viết giờ tôi đã thuộc lòng, như thể đó là những dấu ấn bằng lửa in hằn lên tâm trí.
“ Con yêu thương! có bao điều mẹ muốn nói với con, vì mẹ hiểu là trong lòng con đang chất chứa rất nhiều nỗi đau… Điều làm mẹ đau lòng nhất là mẹ không thể làm gì được cho con, bởi mẹ ở quá xa và một bà già quê dốt nát như mẹ thì đâu biết có gì về những chuyện trong một thành phố lớn; Thế giới ấy quá xa lạ với trí óc của mẹ… Từ lúc sinh con ra mẹ chẳng cho con được gì… mẹ không biết là mình còn thời gian để có thể cùng đón một cái Tết nữa bên nhau… Nhưng dù sao mẹ cũng cảm ơn con đã hiện diện ở cuộc đời này”
Phải chi đó là một bức thư nguyền rủa và oán trách vì tôi không thường xuyên gọi về thăm mẹ… rồi ý tưởng là sẽ không còn thời gian để cùng mẹ đón ông bà trong những ngày đầu năm làm lòng tôi tơi bời và đau khổ. Bức thư ấy, đọc đi đọc lại nhiều lần rồi bỏ vào túi áo, thực tình là tôi không hề chờ đợi. Và chính vì bức thư đó mà lần này tôi đã cố gắng hết sức để có thể về thăm nhà.
Tôi nghĩ đến tất cả những điều này trong lúc chiếc xe lửa vẫn tiếp tục lao tới. Trong đêm những tiếng ồn trong toa như bị làm nhỏ lại, bị che lấp bởi tiếng bánh xe nghiến trên đường sắt. Tuy nhiên cuộc hành trình cũng có nhiều lần dừng lại, rất lâu, trong bóng tối, để xe lửa có thể tránh những chuyến tàu ưu tiên. Nơi chờ đợi là những bãi đậu có đường ray phụ, nằm giữa vùng quê hay núi rừng hoang vắng. Thỉnh thoảng tôi có nghe tiếng khóc của một vài em bé, tiếng hát ru con của các bà mẹ, vài tiếng nói thì thầm hay tiếng ngáy của vài người khách. Những khoảng không gian ban ngày bỏ trống như lối đi chính giữa, giờ đây đã được lấp đầy bởi những thân người nằm la liệt, họ xem nơi đây là một chỗ ngủ khá tiện lợi, chỉ cần trải lên sàn một vài tờ báo. Ở phía xa hơn tôi còn nhìn thấy mấy anh bộ đội, đang ngồi chơi bài với mấy chàng sinh viên, thỉnh thoảng cười lên vui vẻ. Các anh mặc áo thun ba lỗ màu xanh, chiếc áo đồng phục đã được cởi ra và gấp cẩn thận với chiếc mũ lưỡi trai, đặt trên giá hành lý để khỏi bị nhàu nhò trong cuộc hành trình.
Trước mặt tôi có một cô gái đang nghiêng mình, ngồi áp đầu vào ngực bạn trai bên cạnh. Cô ta đang ngủ, còn anh bạn thì đang ôm cô vào lòng dù thế ngồi không mấy thuận tiện cho lắm. Thỉnh thoảng anh cúi xuống nhìn cô gái hay kéo lọn tóc dài của cô đang rớt xuống phủ mặt. Cảnh âu yếm đó thật dễ thương, và lòng tôi bất chợt dấy lên một chút ganh tị. Trong một thoáng tôi ước muốn là mình cũng được yêu thương và che chở… muốn đổi cuộc đời tôi với cuộc đời cô ấy… nhưng giật mình vì ý nghĩ ích kỷ này thật bất công cho cô gái, có thể tôi sẽ có một cuộc đời tốt đẹp hơn… nhưng tội nghiệp, cô ta sẽ mang lấy tất cả những bất hạnh của đời tôi!
Tôi nhắm mắt cố ru mình vào giấc ngủ cùng với ước mơ là khi mở mắt sẽ bất ngờ nhìn thấy mình ở một nơi khác, trong một thế giới khác, xa thật xa với tất cả những điều đang làm tôi lo nghĩ và khổ đau.
Bao nhiêu lần rồi, mẹ ơi, con vẫn chưa dám kể cho mẹ biết! Con cũng chưa dám kể với mẹ là con đã làm như thế nào để có thể trở về nhà đón tết cùng mẹ. Bao nhiêu đêm rồi, con về nhà rất trễ sau khi làm hàng nghìn công việc, bao nhiêu cánh cửa đã dập trước mắt con, từ những người chỉ cần búng ngón tay là có thể giúp được con. Có một thời gian con tìm được một việc làm mà con tưởng là đã giải quyết được vấn đề của mình. Buổi sáng con có thể đến trường đại học còn buổi chiều và buổi tối phục vụ trong một nhà hàng. Tất cả trôi qua bình yên cho đến một hôm, một thực khách, sau một chầu say xỉn, đã giở trò bông lơn rồi sàm sỡ, sờ soạn lên người con.
Bằng tất cả sự bình tĩnh và dịu dàng con đã yêu cầu ông ta không nên làm thế nhưng chỉ làm ông ta giận dữ thêm lên. Con không biết điều gì đã đến trong đầu ông ta, mà, như trong một cơn điên, ông hất đổ nồi lẫu đang sôi vào người con. Cho đến lúc này con vẫn còn nghe tiếng thét của mình và tiếng còi hụ của chiếc xe mang con đi cấp cứu. Và sau đó, khi trở về nhà, con tháo gỡ tất cả các gương soi và phủ kín các cửa kính trong cái ổ chuột gọi là “nhà” của con. Con không có đủ can đảm để nhìn khuôn mặt mình bị biến dạng, cái đầu không tóc và một cánh tay bị bong da. Sau đó, chừng gần một năm dài tóc mới mọc lại và một chiếc thẹo xấu xí nằm trên khuôn mặt để nhắc con nhớ đến câu chuyện đau lòng đã xảy ra…
Về sau con đã tìm mọi cách để che dấu cái thẹo kinh khủng ấy với những lọn tóc uống quăn và phủ xuống mặt. Con thường chọn chỗ ngồi bên góc, cạnh cửa sổ để không ai nhìn thấy. Tuy vậy, thỉnh thoảng con vẫn nhìn thấy bóng mình hiện trên mặt kính rồi phải giật mình cố nghĩ là mình đang nhìn một ai khác. Một cái “tôi” của con thuộc về quá khứ mà con phải mang theo.
Có một quãng thời gian con gần như không đủ can đảm bước ra khỏi nhà. Nhưng dần dà tóc cũng mọc lại, và con đã có thể đi dạo mà không sợ bị người ta nhìn thấy. Rồi về sau con tìm được một việc làm khác vào buổi sáng sớm hay buổi chiều tàn, những công việc không cần ngoại hình xinh đẹp : quét dọn và lau chùi trong các văn phòng. Bằng cách ấy con đã có thể dành dụm tiền để trang trải cho chuyến về quê và đáp ứng lời kêu gọi của mẹ.
Một cú giật mạnh và chiếc xe lửa bắt đầu chạy lại sau nhiều lần ngừng tương tự. Tôi mở mắt và nhìn thấy ánh nhìn của một trong mấy chàng sinh viên lúc nãy chơi bài với các anh bộ đội. Trước đó tôi cũng đã nhận biết sự chú ý của anh ta, nhất là lúc tôi giả bộ ngủ. Thấy tôi đang ngủ nên có lẽ anh ta mạnh dạn hơn và tôi đã cảm nhận đôi mắt của anh ngừng lại khá lâu trên người … chỉ vài phút và khi tôi bất thần mở mắt làm anh giật mình quay nhìn về hướng khác.
Tôi có thể ngay lập tức tháo gỡ cho anh ta những ảo ảnh bằng cách chìa ra khuôn mặt có chiếc thẹo của mình. Chắc chắn đó sẽ là một cú schock cho anh!!
Nhưng có quan trọng gì đâu!…Tôi cứ để anh ta tự do nhìn ngắm và cũng không muốn phá huỷ cái cảm xúc về một câu chuyện đẹp đang hình thành trong trí tưởng của anh. Và làm thế khác nào tôi cũng từ bỏ cho mình một niềm hạnh phúc trong một cuộc đời khác.
Trời bắt đầu sáng, bình minh đang lên, và toa tàu cũng bắt đầu sinh động. Có tiếng điện thoại reo, tiếng nói chuyện thì thầm trộn lẫn với tiếng khóc của trẻ con… Một vài người khó nhoc, vừa vịn vừa đi, tránh các thân thể nằm trên lối đi để tìm đường ra toilet.
Có lẽ cũng là lúc tôi phải duỗi chân một chút và đi rửa mặt. Anh chàng sinh viên hay e thẹn lúc này đang còn ngủ và trời cũng chưa sáng lắm để anh ta có thể nhìn thấy vết sẹo trên mặt tôi.
Vượt qua bao chướng ngại, tôi đi cẩn thận và cố gắng tránh không dẫm phải ai trên đường đi.
Khi quay lại, tôi đi theo lối cũ nhưng lần này dễ hơn vì đã có vài người thức dậy, lên ngồi trên băng, đỡ em bé đang nằm trên ghế hay xích ra ngồi ở trong góc. Một vài người mở hành lý, tìm vật gì trong túi xách hay trong các thùng, gói đặt dưới ghế rồi lôi ra một chai nước hay vài thứ đồ ăn…
Có lẽ chì vài phút nữa sẽ có người đẩy xe đi bán cà phê và các thức điểm tâm. Ừ, một tách cà phê nóng lúc này có thể giúp tôi sưởi ấm bên ngoài lẫn bên trong. Bao nhiêu lâu rồi tôi không hề biết thế nào là tình yêu, niềm vui hay tình cảm… trong tất cả mọi thứ tôi làm không có tình yêu và trong cuộc đời tôi chưa bao giờ có niềm vui và cũng chẳng hy vọng là sẽ có trong tương lai.
Mà đủ rồi! Chỉ còn vài giờ nữa là tôi sẽ đến nơi. Hai bạn trẻ ngồi trước mặt tôi bây giờ cũng đã thức, cô gái đang soi guơng để chải lại mái tóc trong khi anh bạn đùa giỡn, lấy tay kéo những lọn tóc vừa được chải và bó vào một cái đuôi dài. Có lẽ họ chỉ trẻ hơn tôi chừng vài tuổi mà trông họ hồn nhiên như trẻ thơ trong khi tôi lụ khụ như một mụ già.
Anh chàng sinh viên lúc này cũng đã thức giấc. Anh mở mắt nhìn tôi giống như một em bé vừa thức dậy trong đêm Giáng Sinh và nhìn thấy những món quà của ông già Noel mang lại. Rất tiếc là tôi không thể nói với anh là mình rất muốn được là một món quà cho anh, lời hứa về một tương lai bình an và tươi sáng.
Thế nhưng tôi cũng dịu dàng nhìn lại anh và mỉm cười, như thể cám ơn anh về phút giây lãng mạn và đầy những ảo ảnh mơ mộng này.
Cuối cùng rồi chiếc xe bán cà phê cũng đến. Tôi gần như không nhận biết vì lúc đó cũng đang ngủ gà ngủ gật. Tôi lục túi xách chuẩn bị ít tiền để khỏi mất thời gian khi chiếc xe đẩy đến gần.
Cô gái bán hàng bước đến, nhưng tôi chưa kịp gọi thì cô ta đã mang đến cho tôi ly cà phê bốc khói và trong lúc tôi đưa tiền thì cô mỉm cười nhìn tôi rồi chỉ tay về phía chàng sinh viên:
Đã thanh toán rồi! Anh ta mời chị cà phê. Chúc chị vui vẻ!
Tôi gật đầu cảm ơn. Có lẽ anh ta không đến nỗi nhút nhát như tôi tưởng. Nhưng bây giờ chỉ còn ít phút nữa thôi và tôi cần phải chấm dứt cái trò chơi trốn tìm này trước khi nó trở thành khó xử. Và có lẽ anh chàng sinh viên kia cũng đã hiểu rằng tôi chưa “ngã” nên, hơi thất vọng, anh ta cũng bắt đầu thu xếp hành lý.
Mấy anh bộ đội lúc này cũng đã mặc đồng phục, họ đang vuốt tóc vừa thấm nước khi rửa mặt ngoài bồn và đang ngắm mình vào tấm kính trên thành xe lửa để sửa chiếc mũ. Tôi cũng nhìn ra ngoài, những cánh đồng thẳng tắp, xóm làng và những mái nhà tranh, cảnh thôn quê với những con đường nhỏ có đàn vịt đang lạch bạch ra ao. Lúc còn ở thành phố, tưởng nhớ về màu sắc ở thôn quê, đến những màu xanh lá mạ và màu vàng của mùa lúa chín thường làm lòng tôi dịu lại. Rồi tôi nghĩ đến màu nước lấp lánh trên những dòng sông, đến những đồng ruộng trâu cày trước mùa gieo mạ rồi nhớ đến những phụ nữ chân lấm tay bùn suốt ngày phơi mình trên đồng ruộng… rồi tôi còn nhớ đến những cánh cò trắng bay lượn trên bầu trời xanh lơ trước khi đáp xuống… hay những đám lúa bị gió làm cúi rạp mình trông như biển xanh đang gợn sóng… ôi, thân thiết biết bao bầu trời của tuổi thơ, nó hằn lên tâm trí tôi càng thêm sâu đậm từ ngày tôi phải rời xa để sống trong thành phố.
Và chính vì những hình ảnh thân thiết này mà tôi phải về quê, để tìm lại cảm xúc ngày nào, như có thể uống cạn nó để có thể tiếp tục đi tới.Tôi muốn tìm lại vài phút giây hạnh phúc, bình an và được ngã vào vòng tay của mẹ thêm một lần nữa. Tôi hình dung đến phút giây cảm động này trong khi chiếc xe lửa đang bắt đầu vào sân ga và chợt mỉm cười khi thấy chàng sinh viên đang tiến đến gần, lúc này dường như anh không còn vẻ nhút nhát mà có lẽ đang chuẩn bị tấn công.
– Tôi có thể mang giùm chiếc vali cho cô không? Anh hơi ngập ngừng nói với tôi.
Đột nhiên tôi cảm thấy mình thật lạ và dường như chiếc thẹo trên mặt tôi cũng vừa biến mất, có gì quan trọng đâu… nó chỉ hiện diện trong hồn tôi … nhưng trong thế giới này còn có nhiều chuyện trầm trọng hơn nhiều, còn tôi thì chỉ muốn có được một tẹo hạnh phúc. Tôi chuyển chiếc vali cho anh, hai bàn tay chúng tôi chỉ tình cờ chạm nhau mà tác dụng như một sự chạm điện. Tôi ngước mắt nhìn anh và thấy anh cũng đang nhìn lại tôi. Và dường như anh không có vẻ giật mình:
Đừng bận tâm! Với tôi, cô vẫn còn đẹp lắm!!!

Bản dịch TRƯƠNG VĂN DÂN

NHỮNG NGÀY ĐÁNH MẤT

truongvandan

Nguyên tác : I giorni perduti
Của DINO BUZZATI

..” Dino Buzzati sinh năm 1906 tại Belluno, mất năm 1972 ở Milano (Italia). Trước khi viết văn, ông là họa sĩ, nhạc sĩ và nhà báo, từng là phóng viên chiến trường và phụ trách mục phê bình nghệ thuật cho Corriere della Sera, một nhật báo quan trọng nhất nước Ý. Với Sa mạc Tartari (1940), tác phẩm đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, ông đã trở thành một trong những tên tuổi lớn của thế kỷ 20. Nhiều truyện dài của ông đã được chuyển thành kịch bản sân khấu, phát thanh và truyền hình. Truyện Con chó gặp Chuá, đã được trình diễn trên đài truyền hình Pháp.
Ông viết nhiều tiểu thuyết nhưng hình như thể loại yêu thích của ông là truyện ngắn. Chủ đề quen thuộc của Buzzati là những ám ảnh và nỗi bất an của kiếp người, sự chạy trốn thời gian, định mệnh, sợ hãi đối với hư vô, thất bại của sự sống, mong manh của tình yêu, bí ẩn của nỗi đau và cái ác…”
Bằng bút pháp độc đáo ông dắt người đọc ra khỏi cuộc sống thường ngày để bước vào một thế giới khác, rồi đẩy họ vào những sự kiện nghịch lý, ly kỳ và đầy bí ẩn. Bí ẩn vì nằm ngoài cánh cửa của đời sống thường nhật nhưng cũng có thể đồng hiện hữu với diễn biến thường ngày mà chúng ta đã vô tình không nhận thấy để cuối cùng phải kinh ngạc, suy nghĩ… trong một niềm xúc động sâu xa.”

Vài ngày sau khi mua biệt thự, một bữa về nhà Ernst Kazirra thấy một gã đàn ông đang lách ra ngõ phụ trỗ qua tường, trên vai vác một thùng gỗ rồi chất nó lên xe cam nhông.
Anh chưa kịp chận thì gã đã bỏ chạy. Anh phải đuổi theo bằng xe hơi. Chiếc cam nhông chạy ngoằn ngoèo đến tận ngoại biên thành phố rồi mới chịu dừng trên lề một bờ vực.
Kazirra xuống xe và bước đến. Gã lạ mặt đang khuân một thùng gỗ, khệnh khạng đi vài bước rồi quăng xuống hố. Dưới đó đã có chất hằng nghìn thùng gỗ khác, rất giống nhau.
Anh đến trước mặt gã đàn ông và hỏi: ” Tôi thấy anh mang những thứ này từ khuôn viên nhà tôi. Anh bỏ cái gì trong đó ? Còn những cái thùng gỗ này là đồ quái gì vậy ? ”
Gã lạ mặt nhìn anh rồi tủm tỉm cười. ” Tôi còn nhiều lắm trên xe cam nhông, để vất đi. Ông không biết à ? Chúng là những ngày.”
” Những ngày gì ?”
” Những ngày của ông ”
” Những ngày của tôi ?”
” Những ngày đã mất của ông. Những ngày mà ông đã hoang phí. Có phải ông đã đợi chúng không ? Chúng đến rồi đấy. Nhưng ông đã dùng để làm gì? Ðấy, ông xem, còn nguyên vẹn. Bây giờ thì … ”

Kazirra đảo mắt. Những thùng gỗ đang chất thành một đống lớn. Anh lần xuống hố rồi đến mở một thùng.
Trong đó có một con đường mùa thu, và ở cuối đường người yêu của anh, Graziella đã vĩnh viễn bỏ đi. Nhưng anh đã không thèm gọi.
Anh mở thùng thứ hai.Trên chiếc giường nằm trong một căn phòng bệnh viện , người em trai Giosué đang đau nặng và có ý mong anh. Nhưng anh đang bận áp phe ở một nơi nào đó.
Anh mở thùng thứ ba. Ngoài cổng một căn nhà cũ nghèo nàn, con chó Duk trung thành đã đợi anh từ hai năm nay, gầy đến trơ xương. Mà anh đâu có muốn quay về.
Anh chợt nghe nhói lên ở chỗ này, ngay cuống bao tử. Gã lạ mặt đang đứng hiên ngang trên bờ vực, bất động như một kẻ thi hành công lý.
” Ông ơi ! ” anh gọi lớn . ” Ông làm ơn nghe tôi nói. Ông cho tôi xin lại ba ngày. Tôi van ông. Ít nhất ba ngày này. Tôi giàu lắm! Tôi sẽ trả cho ông bất kỳ giá nào ông muốn.”
Gã lạ mặt phát một cử chỉ bằng tay phải, nửa như ngầm chỉ một nơi nào không thể đến, nửa như muốn nói là đã quá trễ rồi và không còn cách nào cứu vãn. Bóng gã vụt nhoà đi trong không gian và lúc đó đống thùng bí ẩn cũng đột nhiên biến mất.
Rồi bóng đêm tràn xuống.

TRƯƠNG VĂN DÂN Chuyển ngữ

 

LỜI TÌNH BUỒN – CHU TRẦM NGUYÊN MINH

Lời ngỏ :
Bài này viết vào đầu tháng 1/2014, lúc anh Tâm (CTNM) nhập viện. Lúc đó đã có 2 bản dịch ra tiếng Pháp và tiếng Ý của Elena. Dù rất mệt nhưng anh Tâm cũng cố gắng viết và gửi cho tôi bài viết về nguồn gốc và những liên quan về “lời tình buồn” để làm tư liệu.
Vừa rồi khi đến thăm anh ở bệnh viện Triều An anh Tâm nói còn thiếu bản dịch sang tiếng Anh. Tôi có nhờ HKO nhưng lúc này chị rất bận. Anh nhờ tôi thay anh viết mail nhờ nhà thơ Đặng Lệ Khánh.Mới đầu chị Khánh cũng hơi ngại việc dịch thơ nhưng khi biết tình hình sức khỏe của anh Tâm đang chuyển biến xấu … thì ngay chiều hôm đó tôi nhận được bản dịch qua mail. Mừng quá, tôi copy vào bài viết và gửi cho anh. Nhưng lúc này anh đã phải thở oxy và không mở mail được.
Hôm 18/2/2014 tôi gọi điện thăm anh nhưng mãi đến chiều mới liên lạc được. Chị Tùng Vân cho hay là lúc đó anh đang ngủ. Chị cho biết là lúc sáng chị có mở mail và đọc lại bài viết này cho anh nghe. Anh rất vui và xúc động.. 16h ngày 19/2 thì nghe tin anh đã từ giã bạn bè…
Tôi xin gửi bài viết này như thắp một nén nhang không màu khói để tiễn anh về cõi vô thường. Và tưởng nhớ những ngày chung sống cùng anh và các bạn văn ở nhà bs Thiện tại Paris..
TVD

“ Lời tình buồn” . Thơ, nhạc
và các bản dịch . Anh, Pháp, Ý.

Trương Văn Dân

Gần 50 năm trước bài thơ Lời Tình Buồn của Chu Trầm Nguyên Minh xuất hiện như một lời chia tay trong tâm trạng bấp bênh, mang đầy nuối tiếc của kẻ ra đi mà chẳng biết ngày về… “Anh đi rồi” vang lên như lời than thở của kẻ đang giã từ đời sống bình yên để bước vào cõi đạn bom. Cuộc ra đi đó là dấu chấm hết của đời thư sinh, xếp bút nghiên để cầm lấy súng. Bản tính hiền hòa, CTNM mang súng mà có lẽ chắc chẳng biết phải dùng súng để làm gì. Trong lòng anh chỉ mang nặng những âu lo, trước mắt anh chỉ có một bầu trời đầy sa mù nên lời thơ của anh âm thầm vang lên như một nỗi buồn thân phận. Cá nhân. Nhưng cũng là tập thể, của những trai tráng cùng thời…

Chỉ với câu thơ đầu : “ Anh đi rồi còn ai vuốt tóc”…. Bài thơ đã ngân lên như một khúc nhạc nhẹ nhàng, nhưng cũng đầy day dứt, xót xa khi phải xa cách trong tình yêu.
Chỉ một từ “đi” thôi nhưng sao nó làm nỗi buồn như kéo dài đến vô tận! Từ “đi ” ở đây không hẳn là chuyển động… mà còn là sự chia ly, là kéo dài khoảng cách không gian giữa hai kẻ yêu nhau, sẽ không còn thấy, không còn gặp, không còn được tình tự, âu yếm nhau nữa.
Một cảm giác cô quạnh khi hai người không được sống bên nhau. Sự chia ly làm kẻ ra đi buồn da diết và tình yêu sâu sắc của anh dành cho người ở lại lúc này đang lớn lên như biển như trời. Những câu hỏi kế tiếp chính là nỗi băn khoăn của kẻ ra đi: “đêm xuống rồi em buồn không hỡ?” Trời sa mù tầm tay với âu lo…
Chắc chắn là chỉ trước lúc xa nhau con người mới cảm nhận hết tình yêu thương, sự mất mát và nỗi cô đơn. Ý tưởng không mới, cũng chẳng lạ… thế nhưng người đọc thơ anh cứ nghe lòng buồn da diết – Có lẽ nó giải bày niềm khát khao hạnh phúc và nỗi đớn đau lúc chia ly trong tình yêu bằng cảm xúc rất thật, rồi ngôn ngữ và nhạc điệu đã làm cho cảm xúc thăng hoa? Đọc thơ anh, không khó nhận ra là lời thơ tự nhiên tuôn chảy, hoàn toàn không cường điệu hay cố gắng tạo ra những tiếng kêu thê thiết… mà âm vang vẫn man mác, trầm buồn.
Anh đi rồi còn ai đưa đón…
Nỗi lo lắng đơn giản mà xúc động. Những câu hỏi sau đó còn được anh liên tiếp, phóng bút đưa ra, dồn dập… như sự hốt hoảng này chính là nỗi buồn/nhớ đang giăng ngập hồn mình. Nó chiếm lĩnh trọn tâm hồn kẻ ra đi.
Bởi ra đi trong thời khói lửa chiến tranh là sự ra đi một đi không trở lại.             

Quá khứ không quay về… Có còn lại chỉ là những kỉ niệm về ngày xưa. Những hoài niệm làm người đi day dứt… nên “đi rồi” mà như vẫn đứng đó, ngẩng nhìn về phía sau, vì, chỉ một chút nữa thôi là không còn chi nữa. Không còn mái tóc xanh “trùng dương sóng lượn” không còn cả ngôn ngữ để “ nói hết yêu thương”.

Đi, mà lòng vẫn ao ước được ở bên em… ở đâu cũng được, dưới thấp hay trên cao, thậm chí lơ lửng giữa bầu trời như một đóm sao…miễn là được nhìn thấy em, chiêm ngưỡng em… chăm lo cho em mọi thứ. Nhưng đi rồi…thì không gian xa khuất… nên lòng “..chợt buồn đứng ngóng bâng khuâng”

Bâng khuâng. Và lo sợ. Vì ngày mai biết đâu anh sẽ không còn sống, hay sống sót trở về mà một phần xương thịt đã gửi lại núi rừng.
Bài thơ chỉ có vỏn vẹn 112 chữ nhưng chứa đựng bao điều muốn nói. Ngắn, nhưng cô đọng những tâm tình, những âu lo, mất mát, của tuổi thanh xuân chìm sâu hun hút theo dòng lịch sử của một thời chinh chiến.

Bài thơ khi đọc lên, tự nó đã thấy buồn. Rồi qua lời hát nó còn da diết hơn. Thê thiết hơn. Ngôn ngữ trữ tình thanh thoát còn được bay lượn trên làn sóng âm thanh làm lòng người nghe cảm nhận một cảm giác chơi vơi. Đó có phải là kí ức về một thời trai trẻ, về mối tình đầu… mà ai ai trong chúng ta cũng sẽ giữ mãi? Cho dù ngày sau có ra sao đi nữa…có chết đi…thì vẫn hạnh phúc vì đã có được một tình yêu nồng thắm… “Phúc yêu em dấu lần quá khứ ”…Âm thanh du dương cao vút rồi khép lại bằng “ Nụ hôn đầu rụng xuống hư vô” …
Rồi tất cả chìm vào hư không… Còn lại chăng chỉ là một nỗi buồn, tiếc, nhớ… mênh mang…

&

Thơ là một dòng suối mà ngôn ngữ là con thuyền chuyên chở cảm xúc, nhờ thứ ngôn ngữ cô đọng đó nên “cái bên trong” của nhà thơ… lan ra bên ngoài…tưới mát tâm hồn và chạm đến trái tim người đọc. Thế nhưng xưa nay hiếm có những bài thơ mà âm vang dừng lại thật lâu, đọng lại trong tâm người thưởng thức..
Phần lớn những vần thơ đến với chúng ta chỉ trong một thoáng, nó như bức tranh mây đa sắc xuất hiện giữa bầu trời…và hình như chỉ khi nào có một họa sĩ tài hoa bằng nghệ thuật độc đáo của mình, nắm bắt được hình ảnh bất chợt, vẽ lên tranh thì hình tượng ấy mới trở nên cụ thể, hư ảo và sắc màu cùng hiện thì cảm xúc của nhà thơ mới được hình tượng hóa : và người yêu thơ mới có thể cảm nhận hết sự cộng hưởng của giai điệu và lời ca.
Bài thơ Lời Tình Buồn của CTNM nhẹ nhàng và ngôn ngữ tự nó có mang theo âm tiết như một bài ca. Nhưng phải nói thêm là tiếng vang của nó sẽ vụt tắt nếu không bắt gặp bàn tay tài hoa của Vũ Thành An. Chính có sự gặp gỡ này thì ngôn ngữ và âm thanh mới giao thoa và những cung bậc cảm xúc được vang lên bằng một thứ âm thanh len lỏi vào trái tim người nghe, ngân vang và được lưu giữ mãi.
Bài hát đã chắp cánh cho những vần thơ ngọt ngào, da diết … bay cao, lay động lòng người.

Nhiều năm sau nghe lại Khánh Ly (*)…giọng hát có lúc trầm buồn, có khi cao vút, khơi dậy trong lòng người nghe những nỗi nhớ của một thời yêu thương, lòng vấn vương bao kỷ niệm của hương xưa, của thuở chiến chinh, của trời mây non nước… Lời Tình Buồn cuốn hút, mang tâm hồn tôi bay ngược về quá khứ, hất tung những hình ảnh bị che mất dưới lớp bụi mịt mờ của thời gian…

Trương Văn Dân

Sài Gòn 1/2014

Trong cảm xúc ấy, xin ghi lại ở đây bài thơ Lời Tình Buồn của Chu Trầm Nguyên Minh:

LỜI TÌNH BUỒN

Anh đi rồi còn ai vuốt tóc
Lời tình thơm sách vở học trò
Đêm xuống rồi em buồn không hở
Trời xa mù tầm tay với âu lo

Anh đi rồi còn ai đưa đón
Áo em bay khuất mất thiên đường
Tuổi hai mươi vòng tay chờ đợi
Ngôn ngữ nào anh nói hết yêu thương

Anh đi rồi còn ai chiêm ngưỡng
Cổ em cao tay mười ngón thiên thần
Tóc em xanh trùng dương sóng lượn
Anh chợt buồn đứng ngóng bâng khuâng
 
Anh đi rồi còn ai tình tự
Đêm đầy trời ru tiếng nhớ bơ vơ
Phúc yêu em dấu lần quá khứ
Nụ hôn đầu rụng xuống hư vô.

Chu Trầm Nguyên Minh

…và bản dịch sang tiếng Anh của Đặng Lệ Khánh :

Love Blue
 
Once I am away, no one will softly touch your hair
Loving words – sweet as school years – no longer murmured to your ears
Night is falling now, are you feeling heartbroken
Misty fog is dripping down filling your arms with worriment
 
Once I am away, no one will pick you up and see you off
Paradise becomes unreal, so is your fluttering dress
Being twenty something, we are waiting for embraces
No word, nor language can describe my love enough
 
Once I am away, no one will adore your graceful neck
And your fingers so heavenly delicate
Your long hair flows like soft waves in the ocean
Standing here, in sudden sadness, I am longing for none
 
Once I am away, there will be no one to share your love
The night sky is filled with songs of remembrance and sorrow
The joy of loving you will soon be flowing into the past
And our first kiss will be falling into emptiness
 

và hai bản dịch sang tiếng Pháp và tiếng Ý của Elena Pucilo Truong

Les paroles tristes pour un amour     

Je suis parti ….Qui te caressera les cheveux ?
Les mots d’amour parfument encore les cahiers
Tu seras triste quand  tombera la nuit
Et le ciel brumeux te remplira de souci
 
Je suis parti…Qui t’accompagnera ?
Vole la bande de l’ao dai , en voilant le paradis
A vingt-ans , les bras sont ouverts en attendant un amour
Par quels mots je pourrais exprimer  tout mon sentiment?
 
Je suis parti….Qui  adorera
Ton long cou et tes doigts d’ange
Tes cheveux, fluctuants comme une vague de l’océan?
Et le regard se perd dans la tristesse…avec émotion
 
Je suis parti….à qui tu t’es confieras ?
Le ciel nocturne  murmure la nostalgie mélancolique
La chance de t’avoir aimée , maintenant me fait oublier notre passé
Et le premier baiser sombre déjà dans le rien…
 

Bản dịch sang tiếng Ý :

Le parole tristi per un amore

Sono partito, chi ti accarezzera’ i capelli ?
Le parole d’amore profumano ancora i quaderni
Sarai triste quando calera’ la notte
E il cielo nebbioso ti riempira’ di preoccupazione.

Sono partito..chi ti accompagnera’?
Il lembo di ao dai vola, velando il paradiso
a vent’anni , le braccia sono aperte in attesa di un amore
Con quali parole potrei esprimere tutto il mio sentimento?

Sono partito… chi adorera’
Il tuo lungo collo e le dieci dita d’angelo
I tuoi capelli, fluttuanti come l’onda dell’oceano?
E lo sguardo si perde nella tristezza…con emozione

Sono partito… con chi ti confiderai ?
Il cielo notturno sussurra la malinconica nostalgia
La fortuna d’averti amato ora mi fa dimenticare il nostro passato
Ed il primo bacio già sprofonda nel nulla…

Cuối cùng xin mời các bạn lắng nghe Lời Tình Buồn qua tiếng hát của Khánh Ly.

(*) http://nhacso.net/nghe-nhac/loi-tinh-buon.XVpXVkJa.html

NGƯỜI MUÔN NĂM CŨ…

ong-do-xua-3[1]Mùa Đông lạnh lẽo đang qua, nắng ấm mùa Xuân sắp đến, lòng chúng ta ai cũng đang nao nức đón chờ và hy vọng những điều tốt đẹp nhất sẽ đến trong năm mới. Người nghệ sĩ, vốn dĩ mang tâm hồn nhạy cảm chính là những người đầu tiên nhận biết được những tín hiệu của đất trời : văn thi nhạc hoạ tha hồ nắm bắt cảm xúc của mình, từ tiếng kêu ríu ít của cánh én dặt dìu, đến bóng chiều rớt trên giàn thiên lý, từ cánh hoa mai vàng đang ướm nụ hoặc chồi đào sắp nở…
Và cùng với nụ hoa đào tươi thắm, ông đồ đã trở thành biểu tượng của mùa xuân. Vì mỗi khi nhìn sắc thắm hoa đào giữa nắng xuân, chúng ta không thể không nhắc đến bài thơ Ông đồ của nhà thơ Vũ Đình Liên. Ở Việt Nam, nhắc đến Tết, có lẽ không có bài thơ nào được phổ biến rộng rãi như bài thơ “Ông đồ”. Lời thơ mộc mạc và giản dị là sự hoà quyện của hai nguồn cảm hứng: “Lòng thương người và tình hoài cổ” (Hoài Thanh). Mỗi dịp Tết, trước thời khắc chuyển giao thiêng liêng giữa năm cũ đang tàn và năm mới sắp đến người Việt xưa thường “xin chữ” viết trên giấy hồng điều, dán trước cửa để gửi gắm những mong ước, khát vọng của gia đình mình trong năm mới.  Chữ đó là chữ Nho, thứ chữ tượng hình rất giàu ý nghĩa. Người có hoa tay, có thể viết mà tưởng như đang vẽ tranh.
Đầu thế kỷ XX, trên các đường phố Hà Nội thường có những cụ đồ cặm cụi vẽ từng nét chữ trên giấy điều để bán cho dân Hà Thành vào những ngày trước Tết. Hình ảnh ông đồ già trong chiếc áo the, khăn xếp và guốc mộc cũ kỹ từ đó đã in sâu vào tâm trí và trở thành biểu tượng cho những mùa xuân cổ điển. Vũ Đình Liên đã nắm bắt hình ảnh nên thơ ấy và viết nên bức tranh thơ sinh động: Trên một góc phố, dưới cánh hoa đào đang phơ phất trong gió xuân vẫn còn se lạnh, có một ông đồ với mái tóc bạc phơ đang bày mực đen và giấy đỏ. Rồi khi khách đến mua, người xem kinh ngạc nhìn thấy ông thầy đồ đang hoá thân thành một nghệ nhân đang vung bút. Tiếng trầm trồ thán phục. Trên giấy đỏ hiện lên những con chữ mà không hẳn là chữ, vì đó là một bức hoạ thần kỳ, đường nét như phượng múa rồng bay. Nhưng ông đồ đang trải lên giấy chữ nghĩa của thánh hiền, hay đang trải lòng mình nỗi ngậm ngùi của kẻ sĩ đang nhìn thời cuộc đổi thay? Câu hỏi ấy nhắc chúng ta nhớ lại thời kỳ đất nước Việt Nam trải qua những cơn biến động, xã hội đảo lộn, và hệ quả có liên quan đến số phận của ông: sự tàn tạ của nền nho học. Khoa thi cuối cùng của triều Nguyễn đã khép, làm tiêu tan giấc mộng vinh quy của các đệ tử cửa Khổng sân Trình. Biến động ấy dẫn đến sự thất thế của một lớp người mà có thời chúng ta coi như biểu tượng của văn hoá truyền thống. Người người đổ xô đi học tiếng Tây. Ông đồ cũng đành từ giã mái trường, từ giã những buổi bình văn, để chấp nhận cách mưu sinh buồn tủi là ngồi viết thuê dăm ba câu đối. Xưa nay ông quan niệm chữ nho là thứ chữ thánh hiền và việc học không phải để kiếm sống mà là để làm người quân tử, để phò vua, giữ nước … thế nhưng trong thời buổi suy tàn, ông phải đi bán chữ. Chữ nghĩa cao quý ngày nào giờ trở thành một món hàng đem ra chưng trên vỉa hè đường phố … làm sao lòng ông không khỏi xót xa cho ánh hào quang rực rỡ một thời. Trong nỗi xót xa của người buộc phải làm điều bất đắc dĩ, những tấm tắc ngợi khen của khách qua đường âu cũng an ủi được phần nào nỗi niềm của kẻ sinh bất phùng thời. Nhưng rồi chút an ủi nhỏ nhoi ấy cũng không còn. Ông đồ cảm nhận số khách hàng mỗi năm mỗi vắng. Không còn ai cần, không còn ai hay là ông vẫn ngồi đấy cô đơn, lạc lõng giữa vệ đường. Màu sắc cũng phôi pha. Giấy cũng không còn thắm, bẻn lẽn nằm bên đĩa mực đã khô với những xác lá vàng. Hình bóng lẻ loi, cô độc của ông đồ giống như một nỗ lực cuối cùng, đang cô đơn chống chọi trong vô vọng… cố níu giữ một thời vàng son trên nét bút giữa dòng đời hối hả. “Lá vàng rơi trên giấy” gợi trong lòng khách yêu thơ một không gian thấm đượm nỗi buồn, đang quấn lấy số phận hẩm hiu của ông đồ trước khi tàn tạ. Tiếng gõ nhịp thời gian càng khắc khoải với câu hỏi :“Người thuê viết nay đâu?”rồng, phượng” trên tờ giấy hồng điều đỏ thắm. Dường như trong phút xuất thần ấy ông đồ đang bặm môi, gửi gắm tất cả lý tưởng và khát vọng của mình lên từng nét chữ và nỗi niềm đã và đang làm con chữ sống dậy. Bài thơ của Vũ Đình Liên như muốn níu kéo thời gian lùi lại, đưa chúng ta trở về không gian cổ, để cùng tưởng nhớ thời vàng son của những đệ tử “cửa Khổng sân Trình”.
TRƯƠNG VĂN DÂN

…Bài thơ ông đồ Hơn sáu mươi năm qua, bài thơ Ông đồ luôn để lại những rung cảm trong lòng khách yêu thơ. Nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn nhận xét : “Một thứ dư ba kỳ lạ. Ý ở ngoài lời. Và càng đọc, người ta càng thấy mình không chỉ thương cảm với một lớp ông đồ hay chữ nay quá thời lạc lõng, mà còn cảm thấy bùi ngùi trước tất cả những gì tốt đẹp, bị thời gian đẩy vào quên lãng… Chỉ bằng một bài thơ nhỏ 25 câu, 100 chữ, ông đã ghi lại được một hình ảnh đã qua đi cùng lịch sử, để nó có thể vĩnh viễn tồn tại trong tâm tưởng nhiều thế hệ bạn đọc. Và đó chính là sức mạnh kỳ lạ đến ma quái của thơ ca, của văn chương…”

Ông đồ

Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua.
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
“Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay”

Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu…

Ông đồ vẫn ngồi đấy,
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài giời mưa bụi bay.

Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ ???

Vũ Đình Liên

Và dưới đây là bản dịch sang tiếng Pháp của chính tác giả Vũ Đình Liên cùng với Mireille Gansel. Le vieux lettré calligraphe. Chaque année s’ouvre la fleur du pêcher On retrouve le vieux lettré encre de chine, papier pourpre étalés Sur un trottoir parmi tant de passants Nombreux ils demandent une calligraphie Puis prodigues des louanges s’extasient : « Quel tour de main pour tracer ainsi des traits Beaux comme un vol de dragon, une danse de phénix ! » Mais chaque année, on compte les absents Où sont-ils ceux qui demandent une calligraphie Le papier triste perd son éclat L’encre sèche dans l’écritoire mélancolique …. Le vieux lettré est toujours assis là Ils passent leur chemin – nul ne le voit Sur le papier tombe la feuille jaune Dans l’air vole la fine brume Cette année elle s’ouvre de nouveau la fleur de pêcher On ne retrouve plus le vieux lettré Les hommes du temps passé Où s’en sont-ils allés ? (Traduction de Mireille Gansel et de Vu Dinh Liên)
Và bản dịch sang tiếng Anh của Dr. Chat V. Dang : The Sino-Vietnamese Teacher Each year, when peach flowers blossom, We see again the old teacher Display black ink and crimson paper On the sidewalk busy with passers-by. Many people hire him to write, Praising in wonder his talent: “His dexterous hand draws like Dancing phoenix, flying dragon.” But each year, clients become rarer. Where are you now calligraphy users? Untouched red paper deep in sadness, Unstirred ink gloomy inside the jar. The teacher is still sitting there, Pedestrians are unaware. A yellow leaf falls on the paper As dusty rain flies in the air. This year, peach trees bloom again Ancient teacher is not seen. People from millennia past Where are your souls now? (Translated by Dr. Chat V. Dang) (From: Vietnam History: Stories Retold for a New Generation)

Và cuối cùng là bản dịch sang tiếng Ý của Elena Pucillo Truong: Il vecchio letterato calligrafo Ogni anno sboccia il fior di pesco Si rivede il vecchio letterato Con il suo inchiostro di china, i fogli di carta rossa stesi sul marciapiede tra i tanti passanti In molti domandano una calligrafia Poi prodighi di elogi si estasiano: “Che abilita’ della mano nel tracciare dei tratti cosi’ belli come un volo di dragone, una danza di fenice!” Ma ogni anno, si contano gli assenti Dove sono quelli che chiedono una calligrafia La carta triste perde il suo splendore L’inchiostro secca nel calamaio melanconico Il vecchio letterato e’ sempre seduto li’ Essi vanno per la loro strada, nessuno si interessa a lui Sulla carta cade la foglia ingiallita Vola nell’aria una pioggia leggera Quest’anno sboccia di nuovo il fior di pesco Non c’e’ piu’ il vecchio letterato Gli uomini del tempo passato Dove se ne sono andati? (Traduzione di Elena Pucillo Truong)

Ghi thêm : sau khi bài này đăng trên Quán văn số 12, nhà thơ Lê Mộng Thắng có gửi email cho người viết và giới thiệu thêm một bản dịch sang tiếng Hoa.( http://www.thivien.net/viewpoem.php?ID=80) Xin chép lại để mời các bạn thưởng lãm: LÃO TÚ TÀI Niên niên đào hoa khai Tổng kiến lão tú tài Truy nghiễn hồng tiên bãi Thông cù nhân vãng lai Đa thiểu thị tự giả Trách trách tiễn châu ky Xảo bút nhất huy tựu Long vũ nhi phụng phi Lãnh lạc niên phục niên Cố khách hà mang nhiên Hồng tiên bi sắc thấn Truy nghiễn sầu mặc kiên Tú tài do tại ti Lộ quá hữu thùy tri Tiên thượng hoàng diệp lạc Thiên biên tế vũ phi Kim niên đào hựu tân Bất kiến cựu thời nhân Thương nhiên không trướng vọng Yên tai vạn cổ hồn. 老 秀 才 年 年 桃 花 開 總 見 老 秀 才 追 硯 紅 箋 擺 通 衢 人 往 來 多 少 恃字者 嘖嘖 羨 珠 機 巧 筆 壹 揮 就 龍 舞 而 鳳 飛 冷 落 年 復 年 僱 客 何 茫 然 紅 箋 悲 色 矧 追 跰 愁 墨 堅 秀 才猶 在斯 路 過 有 誰 知 箋 上 黄 葉 落 天 邊 細 雨 飛 今 年 桃 又新 不 見 舊 時 人 傷然 空 悵惘 煙 災萬 古 魂

TRƯƠNG VĂN DÂN

(Nguồn : Tác giả gởi)