CHUYỆN HÀM ÂN

truongnghi

Cả xóm bỗng đồn rùm lên là nghe đâu Ông Chài ở chòm trên “được hàm ân”.

Nói là xóm chớ thiệt ra trảng đất nằm kề con suối Co Co, cái trảng nông nổng này gần như góp đủ hết mặt mày dân các xóm Tiên Thái, Tiên Bình, Tiên Thạnh bên kia sông tản cư qua đây, cùng chen chúc sin sít ở bên nhau. Chừng mươi gia đình của xóm Tiên Trị bờ đối diện cũng kéo qua dựng lên mấy cái lều. Chỉ trong một thời gian ngắn, thốt nhiên nơi đây lều tranh trại lá mọc như nấm, trải dài từ Tiên An, Tiên Hòa xuống tới tận Tre Đôi, Soi Nổ. Mấy cái nhà lá mái, trính cối, cột to đùng ở bên kia sông Việt Minh đã cho đốt sạch. Toàn quốc phải tiêu thổ kháng chiến mà. Có riêng gì đất Bình Định nầy đâu. Lính Tây trên An Khê, Tú Thủy có mò xuống cũng sẽ chỉ gặp vườn không nhà trống. Tây có vượt sông đuổi theo dân, con nước sông Côn vùng đầu nguồn nơi đây đủ hung hãn làm chậm chân bọn chúng, dân sẽ kịp chạy lên Lỗ Trâu Nằm ở trên Hòn Dồ. Tây nó càn rát quá thì hè nhau theo đèo Bồ Bồ thoát qua Thuận Ninh. Chạy giặc mệt đủ điều, nhưng có mấy khi cả làng được túm tụm ở bên nhau, cùng gánh cùng gồng vui buồn sướng khổ với nhau như vầy đâu.

Nói đồn rùm lên có nghĩa là gần như bất kỳ lúc nào, ngồi chỗ nào cũng đều nghe người ta bàn tán chỉ mỗi một chuyện của Ông Chài. Thời buối súng đạn, hình như chẳng ai còn đủ sức chăm chút chuốt lại chuôi cày, rong từng bờ ruộng, nhưng thường người ta lại dư hơi tụm năm tụm ba kháo chuyện của thiên hạ. Lại nữa Ông Chài lại là người mà bấy khi nay áo chẳng đủ mặc, cơm chẳng đủ ăn, lâu lâu mới có được miếng thịt là nhờ “đi hờ” hoặc “la quợ quợ” đuổi cheo đuổi nai vô lưới cho ông bầu săn Chín Đi. Nay Ông Chài bỗng nhiên đổi đời.

Ông Chài được vô dân quân, được phát cho cây súng calip vắt vai vênh vênh cái mặt. Chỉ là chuyện nhỏ. Chẳng biết sao, tháng rồi cả xóm thấy Ông Chài tự dưng đi săn chỉ một mình mà hai lần đâm được hai con nai nhung. Rồi cũng liền đó hai lần ông mổ heo bày biện cúng bái ngoài cái miếu đã đổ nát nằm bên gốc me to. Đấy mới là chuyện động trời. Thời buổi mà mỗi tuần ai cũng nhín nhịn một ngày phải ăn cháo, để gạo lại góp lương nuôi bộ đội đánh Tây, Ông Chài dám mổ heo thì tránh sao khỏi tiếng ra tiếng vô, lời đồn lời đại. Khổ thế, người đời được mời ăn cúng, thịt thà dầu mỡ trơn cái lỗ miệng nên mồm của họ cứ ngứa chẳng chịu im, chẳng chịu thôi cái tật xoi mói đời tư của người đã cất công đi mời mình ăn cúng…

Còn “Được hàm ân” nghĩa là sao ! Đây là lần đầu tiên được nghe nói tới, Thằng Đực tìm đến Thầy Bốn Rượu để hỏi. Chẳng để đợi lâu, Thầy Bốn sốt sắng cắt nghĩa cho nó nghe:

-Được hàm ân có nghĩa là được nhận ân điển của trên trước. Ông Chài chắc đã được trên trước bày cho bùa chú. Khi đi săn, thấy thú rừng có ở tít trên dông cao hay trên sườn núi đi nữa, chỉ cần lấy giáo vẽ bùa dưới đất rồi trở ngọn giáo mạnh tay dộng xuống bùa, âm binh của trên trước sẽ giúp đuổi con thú tuôn ra đồng chui vô lưới. Chẳng tốn sức nhiều mà bỗng dưng được thịt, đấy gọi là được nhận ơn của trên trước.

-Có thịt thú rừng rồi mà sao Ông Chài lại phải mổ heo nữa vậy Thầy!

-Đó là mổ heo dâng tạ ơn trên trước, cũng như cúng cho âm binh của trên trước. Phải có qua có lại chớ. Thường tình của cuộc đời, thần thánh hay ngưu đầu mã diện gì cũng đều như nhau cả. Có ai đâu tự dưng lại đem của đưa không cho ta. Khi được hàm ân là phải lo cúng kính trả ơn. Được hàm ân là có được thịt ăn, nhưng cũng chẳng hay ho gì đâu. Xưa giờ mấy ông thầy pháp luôn kề cận trên trước, nhưng đã mấy ai có hậu vận suông sẻ đâu. Nhận hàm ân là phải kề cận trên trước. Cả làng sẽ phải khổ thôi. Để rồi coi.

* * *

Thầy Bốn Rượu là người mà thằng Đực hằng ngưỡng mộ. Bấy lâu những gì Thầy Bốn nói đều làm cho nó thêm sáng óc ra. Nhưng lần nầy thằng Đực cứ ngờ ngợ, có cái gì đấy trong cắt nghĩa của Thầy nó chưa hiểu rõ được.

Thầy Bốn vốn là con ông Phụng tế trên Tiên Hòa. Làm phụng tế lo cúng bái cho đình làng, ít nhất trước kia cũng phải là chức sắc của làng, huống hồ gì ông Phụng tế lại từng là tướng trông coi kho lẫm bên Đồng Trại, Đồng Hào cho Mai nguyên soái thời Cần Vương. Nghe đâu tiên tổ của Phụng tế chính là người xưa kia đã xin quan trên đặt tên cho 6 xóm ở đây, thứ tự đọc lên thành câu là An- Hòa-Thái- Bình -Thạnh -Trị. Vậy đó, cái tên của làng nói lên được tri thức của người ở trong làng, nói lên được ước muốn của dân làng. Tên chữ của Thầy Bốn cũng vậy. Ông Phụng tế đã đặt tên cho Thầy là Dự, có nghĩa là yên vui. Có lẽ ông Phụng tế mong muốn con cháu ông sống yên bình như xóm làng ở đây vốn đã yên bình. Thiệt ra anh em Thầy Bốn hồi nhỏ người có tên là Trà, người có tên là Tửu. Dân trong xóm lấy thế cứ nôm na gọi Thầy là Thầy Bốn Rượu. Cái tên nôm na nầy đã vần xoay trầy trụa cả cuộc đời của Thầy.

Thầy Bốn hẳn là con giòng cháu dõi. Cuộc đời của Thầy thật là lãng tử. Hồi cưới vợ, chưa kịp tới ngày hồi dâu, Thầy đã liền thục mãi đám soi của hồi môn lấy tiền dẫn bạn bè ra Huế. Cả tháng trời mới trở về. Người làng nói Thầy Bốn đàn đúm bạn bè đi lắc đò sông Hương. Có hay không chẳng biết. Nhưng chắc có là Thầy đã từng đánh bạc với Phụng Hóa Công, người mà sau đó ít lâu được đưa lên ngôi vua là Khải Định. Được chơi với người có tiếng có tăm, mà lại là người có quyền uy tột bực, ai lại chẳng đồ đi đồ lại cho thiên hạ lác mắt, ai lại chẳng nghe bạn bè của Thầy hùa nhau nói tốt cho cái nghề cờ gian bạc lận: “Thời nào chẳng vậy, ít ra cái nghề đánh bạc thấy vậy chớ nó giúp cho con người ta kề cận được với giới quan quyền dư tiền dư của. Giống như Thầy Bốn làng ta đấy”…

Đi chơi Huế trở về, chẳng bao lâu sau thì bị vợ để. Từ đó Thầy Bốn chẳng chịu lấy ai nữa, khỏi có ai cằn nhằn bên tai, vướng víu tay chân. Từ đó Thầy đầu húi cua giống như thời cả làng cắt bỏ búi tóc dài, theo Chánh Tổng Kham đi xin sưu kháng thuế. Thầy Bốn du Bắc du Nam, đi rong chơi khắp chốn. Mặc cho mấy ông già bà cả nhăn mày nhăn mặt sao lại phải mặc đồ của Tây, bắt chước kiểu sống của người Tây.

Nhưng kể ra những cái gì của Tây mà Thầy Bốn mang ra dạy cho trai trong làng, phải nói là cả làng như được của mà chẳng bỏ ra một đồng xu bát gạo nào. Cái mặt thằng Đực mấy khi nay thấy sáng sủa hẳn ra là nhờ những ngày nó cần mẫn ở bên cạnh Thầy Bốn Rượu. Thầy Bốn lúc thì lên Công Tum, Ban Mê Thuộc…, lúc thì vô tít tận trong Gia Định, Đồng Nai…, lúc nào về tới nhà là Thầy gọi trai làng lại để kể chuyện đi một ngày đàng Thầy đã học được một sàng khôn như thế nào. Riết rồi Thầy trở thành người dạy chữ quốc ngữ, dạy làm toán cho trai làng lúc nào chẳng hay. Người làng gọi Thầy là Thầy Bốn, bắt đầu kể từ những ngày ấy.

Thầy Bốn dạy học kiểu chẳng giống một ai. Thật ra Thầy có học sư phạm sư phiếc, trường lớp nào đâu. Thầy cất công xuống thăm Trường Ông Phàm ở Phú Phong đâu vài bữa. Trở về, Thầy biết được cái gì Thầy gò cho trai làng cái ấy. Cả lũ trai làng, đứa nào học được tới đâu, Thầy truyền liền cho cái kế tiếp, chẳng phân biệt lớp bậc gì ráo. Mới rồi Khu 5 đã cho mở trường công lập hệ 9 năm tới từng huyện, học trò khỏi phải tốn kém đi học xa tận dưới Qui Nhơn như hồi xưa nữa. Được nhắc khéo là việc học nay đã có chính phủ lo, Thầy Bốn vui vẻ không gọi trai làng tập trung lại nữa. Gọn ghẽ, chẳng vướng bận gì. Lâu nay cũng chẳng gọi là Thầy mở trường mở lớp. Nhưng những gì lâu nay nhận được từ Thầy Bốn, Thằng Đực tin rằng nó dám đứng chung lớp với thằng Kim trên Định Xuân, đang học trường Cấp II Bình Khê của chính phủ vừa mở ở dưới Mỹ Thuận. Hiện giờ thằng Đực viết đã thông, đọc đã thạo chữ quốc ngữ là chữ của nước nhà. Không những nó làm được phép tính Hàn Tín Điểm Binh, mà nó còn sành sõi sáu câu Bảng cửu chương “thất thất tứ cửu…, cửu cửu bát nhất…”. Thằng Đực còn giải được phép tính hóc búa:

“Vừa gà vừa chó ba sáu con
Trói lại cho tròn đếm đủ trăm chân
Hỏi bao nhiêu gà, bao nhiêu chó…”

Nói chẳng quá, nếu bây giờ mà cất lại cái miếu Tiên Thạnh bị đốt, Thằng Đực sẽ tính cho làng biết là cần bao nhiêu cột, bao nhiêu ruôi mè, bao nhiêu tranh ngói… Thằng Đực đã học được cách tính toán mà bấy khi Thầy Bốn đã giúp Xã Khuê làng Thượng Giang cất cái đình to đùng, mặt ngó lên Hòn Bà Phù bên Đồng Phó. Thằng Đực còn biết cả cách đạc điền mà ngày xửa mấy ông lý hương thì thào bảo nhau sao Tây nó giỏi thế, vẽ trích lục địa bạ đám ruộng nào ra đám ruộng ấy, rành rành hình dạng từng thửa trên giấy trên tờ.

Thầy Bốn có nói với thằng Đực là Thầy đã truyền cho nó kiến thức của người Tây nhiều hơn là của Ta. Nhưng với mớ kiến thức của dân Tây mà lâu nay học được, thằng Đực không thể nào dùng nó để cắt nghĩa cho thông chuyện “được hàm ân”, chuyện được trên trước cho bùa chú của dân Ta.

Từ ngày nghe đồn là Ông Chài “được hàm ân”, điều trước tiên thằng Đực thấy rõ là cái trại của Ông Chài lúc nào cũng nghìn nghịt người ra vô. Người ta nói nghèo mà ở ngay giữa chợ cũng chẳng có ma nào thèm tới, người giàu có dù ở tít tận trong rừng sâu cũng sẽ lắm kẻ mò đến thăm. Ông Chài chưa gọi là giàu có, nhưng cũng đã lắm kẻ tìm đến. Sướng thế đấy. Chẳng kể gì Trùm Sẽ, thằng Nần hay thằng Bụng… những người mà khi nhà nào có mổ thịt là thường chạy đến phụ giúp cho một tay, ngay cả ông Phụng Thủ bấy lâu chẳng qua lại gì với ai, nay cứ năm ba bữa là thấy ông có mặt ở trại của Ông Chài.

Lẽ thường chỗ đông người bao giờ cũng sinh ra chuyện ăn uống. Vậy thế mới có chuyện các cụ ngày xưa muốn con cháu thường xuyên tập trung lại, cùng về với nhau để lo việc họ tộc… nên phải bày ra chuyện ruộng hương hỏa từ đường. Nay người làng xúm nhau đến với Ông Chài, chung quy cũng chỉ từ chuyện ăn uống mà ra. Ông Chài giờ đây thỉnh thoảng có được thịt rừng, rồi lại phải mổ heo, có khác gì mật ngọt rủ rê cả đàn ong lũ bướm. Huống hồ gì khi có được nhung nai, Ông Chài đã biết gì đến việc phải bán cho ai, bán chỗ nào cho được giá đâu. Trong số đông người đến, ít ra cũng có người rành rẽ giúp cho ông buôn bán cái của hiếm lâu lâu mới có nầy chớ. Lại nữa ở cái thời giặc giã, biết lúc nào sống lúc nào chết. Nói dại, lỡ có bị tên bay đạn lạc cũng khỏi phải làm con ma chết thèm. Đâu như đỗi trước, cây cà nông nòng bạc Tây nó đặt trên đầu đèo An Khê, chiều nọ bắn hú họa qua đây chỉ năm ba trái, lại rớt ngay giữa mâm cơm nhà bà Niễng, tội nghiệp cả nhà chưa kịp ăn.

Đừng trách chi chuyện quanh cái miếng ăn thời bom đạn. Nhiều khi, lúc Tây càn phải chạy, ai mà để sót lại con gà con vịt cũng gọi là vướng lấy cái tội cung cấp lương thực cho Tây. Nhiều khi, như bà Bồng nghe hô Tây đã xuống tới Định Nhì, liền chạy thục mạng, chạy đến Soi Nổ mới ngớ ra mình chạy chỉ với cái chày cùng cái cối đâm tiêu trên tay…

Người ta từng nói giàu có mới sinh ra phú quý, có phú quý mới sinh ra lễ nghĩa. Thằng Đực thấy Ông Chài thốt nhiên gần đây lại sinh ra sính chuyện lễ nghĩa, quỳ lạy cúng bái. Trong khi đó nó rõ mười mươi ông cũng giống như người làng ở đây đang bở hơi tai mới có ngày hai bữa, không tính buổi sáng lúc thì nồi củ mì lúc thì rổ khoai lang. Đâu phải ngày nào cũng săn được thịt. Thời súng đạn, hươu nai nghe rền tiếng nổ thường rúc tận trong rừng sâu. Lửng thửng ngoài gò chỉ vài ba con chồn con nhím, bõ bèn gì mà phải dùng đến bùa chú hàm ân.

Ông Phụng Thủ thường nói khi đã cúng trên trước thì phải thành tâm, phải thực hiện đúng nghi thức cúng bái, trên trước mới thương tình mà ban lộc. Chắc vì lẽ đó mà thằng Đực thấy thỉnh thoảng ông Phụng Thủ tập cho Ông Chài bái lạy, đứng lên quỳ xuống. Nó nghe nói hồi Ông Chài mượn cái áo dài khăn đóng của ông Bát Tuyển đi cưới vợ, không chịu tập lạy nên lúc làm lễ gia tiên, lớ ngớ thế nào mà ông dậm phải cái vạt áo cắm đầu vô bàn thờ. May mà chẳng đổ ngã đèn nhang, bể vỡ chén bát xảy ra ngay trong ngày trọng đại. May mà bà con họ hàng thương nhau nên bỏ qua chuyện không rành lễ nghĩa. Giờ đây với trên trước, chắc là trên trước không thể nào thương tình cho cái chuyện đi xin lộc, cúng tạ ơn mà không biết lạy quỳ. Ông Chài phải ra công luyện tập cho đúng phép. Chịu cực nhọc với trên trước, có gì đâu mà phàn nàn…

Ông Chài chỉ đi xin có thịt ăn mà còn vậy, trách chi ngày xưa mấy ông đi làm quan lúc nào cũng phải biết nói cho trơn tru câu cửa miệng là “vạn vạn tuế đã ban ơn”.

Kể ra cũng lạ thiệt, từ khi Ông Chài rành rẽ chuyện lạy quỳ, ngày nào bầu bạn của ông mà vác lưới đi là ngày đó có thịt khiêng về. Có bữa khiêng về con Heo Một nanh dài cả gang tay làm ai cũng hãi. Lâu nay các bầu săn đều sợ gặp phải heo rừng đi một mình không sống theo bầy. Cọp trong rừng mà còn phải né mặt ngữ ấy nữa kìa. Nếu trên mà cho phép sử dụng súng ống để đi săn, cây calip của ông Chài cũng phải lẩy bẩy, run rẩy trước nanh heo một.

Thằng Đực nay thấy cả làng vây quanh Ông Chài với những bộ mặt tươi rói. Kháng chiến đã đi đến hồi quyết liệt. Tây trên đồn Tú Thủy thỉnh thoảng nống xuống tới Định Quang, Định Nhì. Cả làng đã mấy phen phải chạy lẩn lên Hòn Dồ. Có cực nhọc thiệt. Mùa màng thất bát, bữa đói bữa no. Nhưng khi về lại làng là mọi người như tìm lấy lại sinh khí, gõ chén gõ bát lung tung xèng trong những ngày Ông Chài mổ heo. Giờ đây Ông Chài trở thành một bầu thợ săn có tới mấy tay lưới. Dưới trướng của ông gom lại có tới mấy đàn chó, bạn săn hội đủ hết những tay “đi muông” sừng sỏ của làng. Ngay cả bầu săn trước đây của ông là Ông Chín Đi, nay cũng phải vác lưới đến nhập bầu với Ông Chài. Mỗi lần Ông Chài phát lệnh tù và gọi bạn săn, gần như đủ mặt cả làng rần rần chạy đến bên ông chờ lệnh lên đường. Nai nịt gọn gàng đứng giữa rừng giáo mác, Ông Chài giống như một vị tướng đứng giữa ba quân. Thấy mà phát thèm.

Mỗi khi tiếng tù và của Ông Chài rúc liên hồi trong mỗi trận săn, hầu như ai cũng nôn nao, miệng ứa nước miếng, thấy miếng thịt dường như đã sờ sờ trước mắt. Bữa đói bữa no mà ăn lại có thịt có cá ngót tận cái cuống họng, đố ai dám nói là không ham. Nhưng tiếng tù và giờ đây đã lần lên tới hòn Da Két, có bữa lấn tới tận hòn Bong trên Vĩnh Thạnh, điều nầy làm cho ông Chín Đi thấy lo.

Mở rộng được khu vực đi săn, ông Chín Đi không lo. Bằng với cả quan hệ rộng rãi đã từng có, ông Chín Đi lâu nay còn giúp thay Ông Chài qua tận bên Thuận Ninh, xuống tận dưới Suối Bèo tìm heo mua về cho Ông Chài cúng tạ. Heo mấy làng chung quanh gần như chỉ còn loe ngoe mấy mống vừa bỏ bú. Ở vùng giáp ranh chỗ Tây đóng đồn, lúc nào cũng trong tư thế sẵn sàng chạy giặc, tay nải, tay ruột nghé mấy ai dễ gì nuôi được con heo. Thế thì lấy đâu có đủ heo để cho Ông Chài cúng tạ. Trong trận săn bận trước, thấy con nai sải lên dông hòn Ngăn, chó ăng ẳng đuổi theo như bầy rùa đang chạy thi với thỏ, hăng máu thế nào mà Ông Chài lại mắt nhắm mắt mở, tay vẽ bùa miệng niệm chú. Con nai quay đầu tuôn xuống nhào vô lưới bị Trùm Sẽ lụi một giáo vào mông. Té ra đó là con nai chà chớ không phải nai nhung. Vậy là lỗ nặng. Săn được chỉ con nai chà mà cũng phải cúng con heo. Thịt chỉ đổi lấy thịt. Thịt nào rồi cũng phải chia năm xẻ bảy. Chẳng kiếm chác được thêm gì. Điên tiết, Ông Chài bận đó lệnh chỉ cúng con heo cắp nách, xách bằng tay được.

Ông Chín Đi lo. Chính là lo cái chuyện cúng kính, tạ ơn cho trên trước ấy.

* * *

Thằng Đực không hiểu bùa hàm ân là cái quái gì mà sao lại khiển được âm binh, những tay săn thịt cũng sẵn sàng nhào vô chịu sai khiến. Thiệt lạ kỳ. Thằng Đực theo sát Ông Chài, nó quyết coi cho biết Ông Chài vẽ cái bùa ấy ra làm sao. Là thằng sáng dạ lại có ý để tâm học hỏi, chẳng bao lâu nó thuộc lòng từng nét Ông Chài đã vẽ ngoằn ngoèo dưới đất. Chữ Nho chẳng ra chữ Nho, chữ Quốc ngữ chẳng ra chữ Quốc ngữ. Thằng Đực chạy tìm gặp Thầy Bốn Rượu.

Mọi khi Thằng Đực tìm đến Thầy Bốn, Thầy Bốn đều ân cần giảng giải những gì nó muốn biết. Không ngờ lần nầy thằng Đực bị Thầy Bốn to tiếng quát cho một trận:

– Quên phứt nó đi. Ngữ ấy không được nhớ. Trút chúng ra khỏi đầu ngay. Đấy là cái thứ làm hại đến sinh linh…

Thằng Đực hoảng hồn chạy một mạch ra bờ suối Co Co. Ngồi trên nhánh cây sung, nó lặng nhìn con nước êm đềm chạy quanh quanh dưới chân. Vì để sống mà con người bằng mọi cách cướp về cho mình cái miếng ăn, không cần biết là đã làm hại đến ai. Hàm ân ư, đi kèm với bùa còn phải có chú. Nó sẽ quên hình dạng cái bùa thôi. Nó không thèm để tâm, học cho biết chi câu thần chú gọi âm binh, gọi ngưu đầu mã diện trói cẳng hươu nai…

Nhưng rồi thằng Đực chả cần vướng bận chi chuyện không thèm học bùa chú hàm ân nữa. Sau đó ít lâu Ông Chài chết. Bầu bạn của Ông Chài tan đàn sẻ nghé.

Bầu bạn của Ông Chài đã tan đàn sẻ nghé. Không riêng gì đâu. Cả mấy bầu săn ở Vĩnh Thạnh cũng đều bị trên ra lệnh cấm. Nay không ai được tụ tập đông người, lục lạo vào rừng như trước nữa. Bộ đội đã tập kết về đây chuẩn bị tiến công lên Tây Nguyên. Đợt đánh đấm nầy phải giấu chỗ đóng quân. Không như bộ đội của trung đoàn ông Vi Dân năm về đánh lên đồn Tú Thủy, chưa áp sát vào đồn đã gọi loa thách thức lính Tây. Đồn đã không lấy được mà ông cùng với đội quyết tử không một ai trở về. Thằng Đực nghe Thầy Bốn nói là đợt nầy trên đánh đấm thiệt ra trò. Phối hợp các chiến trường, bộ đội âm thầm chia cắt, cầm chân lính Tây ở đây không cho ra cứu viện đâu tít tận ngoài Điện Biên Phủ.

Còn Ông Chài chết. Cái chết sanh nghề tử nghiệp. Sau bận cúng con heo cắp nách được, chẳng biết trên trước có đổ giận hay không mà từ đó bùa hàm ân hết linh. Đã mấy lần gặp được nai nhung, dộng giáo niệm chú mấy đi nữa nai cũng cứ nhởn nhơ trên sườn núi. Ông Chài đổ khùng. Một bữa ông ra ngoài bờ soi bủa lưới hờ sẵn. Bầy bò của ông đang gặm cỏ dưới triền sông. Bầy bò mà lâu nay ông sắm nên là nhờ vào tiền bán nhung nai săn được. Ông hươi giáo vẽ bùa, gọi âm binh thúc bò của ông vào lưới. Ông muốn thử xem lệnh lạc của ông có còn hiệu nghiệm nữa hay không. Nhưng bầy bò của ông vẫn cứ trơ trơ ra đó. Ông gào thằng Nần xách roi lùa chúng qua đây. Bầy bò lùng nhùng, sừng ngoắc qua ngoắc lại, muốn xé cả tay lưới đan bằng gai bố chắc nụi của lính Tây. Ông Chài trở cán giáo tiếp tay với thằng Nần quất như điên vào bầy bò. Ông không để ý tới con bò cầm chuồng mắt đỏ lừ, từng bước một đang tiến đến sát một bên ông. Ông Chài bị đổ ruột.

Bầy bò của Ông Chài quặt quẹo chẳng cày bừa gì được nữa. Mà cày bừa gì đâu khi cả làng lâu nay chỉ chăm chăm chạy theo miếng thịt. Thiếu người chăm sóc, ruộng để khô, đất để cứng như đá, cả làng lơ thơ chỉ mấy con bò mà con nào con nấy bụng tóp teo trơ rõ mấy cái xương sườn… Ông Chài đổ ruột chết ngay chiều hôm đó. Không biết có ai trong bầu bạn học được cái cách gọi âm binh của ông không. Cái cách mà muốn có thịt ăn chỉ cần bắt quyết, tay vẽ bùa, miệng niệm chú, nhưng mỗi lần bắt quyết, nhất thiết sau đó phải cúng tạ một con heo.

Thằng Đực giờ đây đã hình dung ra được những trật trìa trong chuyện nhận ơn và phải trả ơn. Nó nhớ lại lời nói của Thầy Bốn Rượu ngày nào: “Nhận hàm ân là phải kề cận trên trước. Cả làng sẽ phải khổ thôi. Để rồi coi…”.

PHAN TRƯỜNG NGHỊ
Tháng Một Năm 2016

Advertisement

“QUÂN NGỰ LÂM” CỦA NGUYỄN VƯƠNG – PHÚC ÁNH

truongnghi

Hiểu theo nghĩa thông thường, quân Ngự Lâm là loại quân hậu cận, ở bên cạnh và bảo vệ an toàn cho vua. Nhưng trong trận chiến tiến ra Quy Nhơn giao tranh với nhà Tây Sơn những năm 1799 – 1802, trong quân thứ của Nguyễn Ánh có binh chủng Quân Ngự Lâm mà ở đây quân binh đều kén lấy người của Quy Nhơn, hầu hết tướng lĩnh chỉ huy – kể cả cao cấp lại là hàng tướng của Tây Sơn theo về. Trong trận chiến, đội quân Ngự Lâm nầy đã có nguyên một quân hiệu trở ngược lại ngọn giáo làm khốn đốn cho quân của Nguyễn Vương không ít, làm cho Vương phải bao phen gọi là lao tam khổ tứ, ăn chẳng ngon mà ngủ cũng không yên.
Năm 1780, Nguyễn Ánh xưng Vương ở Gia Định, dùng theo niên hiệu của vua Lê. Năm 1781, sau khi giết Đỗ Thành Nhơn, Nguyễn Ánh lấy quân Đông Sơn của Nhơn chia làm bốn quân Tiền, Hậu, Tả, Hữu, làm cơ sở gầy dựng nên đại binh với các dinh Trung Quân, Tiền – Hậu – Tả – Hữu Quân sau nầy. Khi lực lượng đã phát triển, Nguyễn Ánh còn có Vệ Thần Sách, là đội cận vệ được trang bị và tập luyện chiến đấu theo kỷ – chiến thuật Tây phương. Năm 1793, Vệ Thần Sách được nâng lên thành Quân Thần Sách, được xem như là thân quân, lính hậu cận của Nguyễn Vương.
Đến tháng 6 năm 1798 Quân Thần Sách cải đặt làm 5 Đồn quân. Mỗi Đồn đặt một Chánh thống và một Phó thống.
• Trung Đồn có 4 Vệ : Túc Trực, Hùng Uy, Phấn Uy và Võ Uy
• Tiền Đồn có 4 Vệ : Ban Trực Tiền, Ban Trực Hậu, Long Võ và Kiên Uy
• Tả Đồn có 4 Vệ : Ban Trực Tuyển Phong Hữu, Diệu Võ, Dương Võ và Túc Võ
• Hữu Đồn có 4 Vệ : Ban Trực Hữu, Ban Trực Tuyển Phong Tiền, Hổ Oai và Uy Võ
• Hậu Đồn có 4 Vệ : Ban Trực Tả, Ban Trực Tuyển Phong Tả, Ban Trực Tuyển Phong Hậu và Hùng Võ
Nguyễn Vương lấy Phạm Văn Nhân làm Chưởng cơ Giám quân Quân Thần Sách, quản tướng sĩ năm đồn. Những chiến tướng có tên tuổi trên các chiến trường trước đây như Vệ úy Vệ Diệu Võ là Lê Văn Duyệt làm Chánh thống Tả đồn, Vệ úy Vệ Hùng Võ là Nguyễn Đức Xuyên làm Phó thống Trung đồn… Quân Thần Sách là binh chủng tinh nhuệ của Nguyễn Ánh, binh chế cũng như nhân sự của Quân Thần Sách là nòng cốt, kiểu mẫu để Nguyễn Ánh thành lập phiên hiệu Quân Ngự Lâm năm 1799.
Trước đây, năm 1793 binh Phú Xuân của vua Quang Toản vào giải cứu Quy Nhơn rồi kê biên luôn kho tàng, võ khố, khiến vua Thái Đức Nguyễn Nhạc uất ức mà chết đã gây không ít nỗi thất vọng trong lòng tướng sĩ nhà Tây Sơn. Đến năm Mậu Ngọ 1798, con của Thái Đức là Nguyễn Bảo cũng bị binh Phú Xuân vào bắt giết làm cho nhà Tây Sơn ly tán. Một số thuộc tướng của Nguyễn Nhạc đã bỏ vào Nam theo về với Nguyễn Ánh. Hàng loạt các Đại đô đốc Đoàn Văn Cát, Lê Chất, Võ Đình Giai, Nguyễn Văn Điểm, các Đô đốc Lê Văn Niệm, Hồ Văn Viện, Trần Văn Lân, Đô úy Mai Gia Cương, Nguyễn Văn Trí… chạy về với quân thứ Gia Định. Những tướng lĩnh nầy sau sẽ là cấp chỉ huy Quân Ngự Lâm của Nguyễn Vương Phúc Ánh.
Tháng 6 năm Kỷ Mùi 1799, Nguyễn Ánh đánh chiếm Quy Nhơn, đổi Thành Quy Nhơn làm Thành Bình Định. Tháng 8 cho kén binh ở phủ Quy Nhơn, cứ theo ngạch binh cũ trong 6 Thuộc ở đây tuyển được gần 19.000 quân. Tháng 9 lấy quân ở 2 Thuộc Võng Nhi, Hà Bạc và các xã miền dưới sung vào Thủy quân, lấy quân của 4 Thuộc An Ngãi, Nhơn Ân, Nghĩa Hòa, Sơn Điền đặt làm 5 Đồn quân Ngự lâm, biên chế mỗi Đồn có 5 Chi gọi là Trung Chi, Tiền – Hậu – Tả – Hữu Chi; mỗi Chi gồm 5 Hiệu gọi là Trung Hiệu, Tiền – Hậu – Tả – Hữu Hiệu; mỗi Hiệu có 2 Đội gọi là Nhất Đội và Nhị Đội.
Lược sơ các viên tướng quản lĩnh Ngũ Đồn Ngự lâm quân :
• Trung Đồn quân Ngự Lâm : Đô Thống chế là Khâm sai Phó tướng Tổng nhung Cai đội Phan Tiến Hoàng, trước là Cai cơ Phó tướng Tiền quân bị giáng làm Cai đội vào tháng giêng năm 1798 lúc còn quản dinh Bình Thuận. Thống chế là Thuộc nội Vệ úy vệ Võ Uy – Trung Đồn quân Thần Sách Hoàng Công Thành. Theo Liệt truyện, Thành người Phù Cát – Bình Định, Đô đốc của Tây Sơn theo vào Gia Định từ năm 1793.
• Tiền Đồn quân Ngự Lâm : Đô Thống chế là Đại Đô đốc Đoàn Văn Cát của Tây Sơn, Cát người Bình Sơn – Quảng Ngãi, năm 1798 trấn thủ Phú Yên, xảy ra binh biến Tiểu triều Nguyễn Bảo, Cát bỏ vào Diên Khánh theo Nguyễn Vương. Thống chế là Đô đốc Lê Văn Niệm của Tây Sơn, người Phù Cát – Bình Định, mới theo về tháng 4 năm 1799.
• Tả Đồn quân Ngự Lâm : Đô Thống chế là Đại Đô đốc Lê Chất của Tây Sơn. Thống chế là Đại Đô đốc Võ Đình Giai. Cả hai đều là người Phù Cát – Bình Định, cùng theo về với quân Gia Định vào tháng 4 năm 1799.
• Hữu Đồn quân Ngự Lâm : Thống chế là Khâm sai Thuộc nội Cai cơ Vệ úy vệ Dương Võ – Tả Đồn quân Thần Sách Từ Văn Chiêu, nguyên trước là Tham tán của Thái Đức Nguyễn Nhạc, năm 1795 theo về Gia Định. Phó Thống chế là Đại đô đốc Nguyễn Văn Điểm của Tây Sơn, mới theo về tháng 4 năm 1799.
• Hậu Đồn quân Ngự Lâm : Thống chế là Khâm sai Thuộc nội Cai cơ Vệ úy vệ Diệu Võ – Tả Đồn quân Thần Sách Nguyễn Văn Phát. Theo Liệt truyện, Phát người Phù Cát, Bình Định, ở với Tây Sơn làm tới chức Chỉ huy, từ năm 1793 đã theo vào với Gia Định. Còn Phó Thống chế là Đô đốc Hồ Văn Viện của Tây Sơn, mới theo về Nguyễn Vương tháng 4 năm 1799.
Binh chế Ngũ Đồn quân Ngự Lâm là Đồn, Chi, Hiệu, Đội, có lẽ dưới Đội còn có Thập và Ngũ. Với hơn 18.900 binh tuyển được ở Tuy Viễn phải phân lực lượng của 2 Thuộc Võng Nhi và Hà Bạc về với Thủy binh, nên chưa xác định rõ mỗi Đồn quân Ngự Lâm gồm bao nhiêu quân lính. Nhưng máy móc một chút, nếu một Đội có 5 Thập thì mỗi Hiệu sẽ có 100 quân, dẫn đến mỗi Đồn khoảng 2.500 quân. Cộng lại 5 Đồn được 12.500, gần đúng với 2 phần 3 số quân đã kén tuyển từ 4 Thuộc trong 6 Thuộc của Tuy Viễn.
Định xong biên chế, 5 Đồn quân Ngự Lâm và quân 2 Vệ cũng vừa chỉnh đốn lại ở đây là Thiên Trường (của quân Thần Sách) và Tín Trực (của dinh Hậu Quân), cùng duyệt quân ở Tam Tháp tức là nơi núi Long Cốt. Xưa kia trên hòn Long Cốt có ba ngọn tháp Chàm cao lớn xây trên ba đỉnh núi, bởi vậy núi có tên nữa là Tam Tháp Sơn. Ít lâu sau Phó thống chế Hậu Đồn quân Ngự lâm là Hồ Văn Viện xin lập 3 đội Chiến võ quân Lạc tòng (có lẽ là quân binh lưu lạc được thu nạp về). Nguyễn Vương y cho. Lại cho năm Đồn và hai Vệ Thiên Trường, Tín Trực, từ Đô thống chế đến Đội trưởng tham luận, đều được mộ lập thuộc quân theo mình sai sử. Nhưng chính điều nầy đã làm lủng củng đội quân ngay bước đầu thành lập. Tháng chạp năm 1799, xảy ra chuyện ở Hậu Đồn có việc sửa chữa sổ sách tuyển quân, che dấu sự nhập nhằng lính Lạc tòng với lính trốn ở trong quân… Việc bị phát giác, Thống chế Hậu Đồn quân Ngự lâm là Nguyễn Văn Phát và Tham tri Binh bộ Hồ Văn Định đều bị miễn chức. Nguyễn Ánh điều Thống chế Trung Đồn là Hoàng Công Thành sang quản lãnh Hậu Đồn.
Mùa gió bấc thổi mạnh, Nguyễn Vương Phúc Ánh rút quân về Gia Định, đặt Ngũ Đồn Ngự Lâm dưới quyền sai bát của Chưởng Hậu quân Võ Tánh, cùng cho trấn giữ thành Bình Định. Nhưng trong sách lược điều binh của mình, Phúc Ánh cho Chưởng Tiền quân Nguyễn Văn Thành kiêm quản Tả Đồn quân Ngự lâm đưa binh về đóng ở Trấn Biên, Chưởng Hữu quân Nguyễn Huỳnh Đức kiêm quản Hữu Đồn quân Ngự lâm đưa binh về trấn giữ Mỹ Tho.
Chẳng bao lâu sau đó đại tướng Tây Sơn là Thiếu phó Trần Quang Diệu và Đại tư đồ Võ Văn Dõng đem binh Phú Xuân vào hòng lấy lại Quy Nhơn. Ở Phú Yên, hàng tướng Phạm Văn Điềm cũng bất thần quay ngược lại đánh úp quân Nam, Lưu thủ Phú Yên là Hồ Đức Vạn không biết sống chết thế nào, một số thuộc tướng kẻ chạy ra với Võ Tánh ngoài Bình Định, người chạy vô Diên Khánh. Tham đốc Phạm Văn Điềm liên kết với binh Phú Xuân chiếm giữ Phú Yên, án ngữ, ngăn viện binh Diên Khánh ra giải cứu Bình Định. Binh biến ở Phú Yên làm đảo ngược tình thế, bất lợi cho quân Nam, khiến Nguyễn Vương phải đưa binh trở lại Quy Nhơn mong giải vây Thành Bình Định.
Kể từ đây, tháng giêng năm 1800 cho đến 1802 kết thúc trận chiến ở Quy Nhơn giữa Nguyễn Vương Phúc Ánh với Nhà Tây Sơn, binh chủng quân Ngự Lâm có 3 phiên hiệu Trung – Tiền – Hậu Đồn dưới quyền của Võ Tánh đang bị hãm trong thành Bình Định, 2 phiên hiệu Tả – Hữu Đồn nằm trong biên chế lực lượng giải vây của Nguyễn Văn Thành và Nguyễn Huỳnh Đức.
Dấu vết của Trung, Tiền, Hậu Đồn quân Ngự lâm ở tại Thành Bình Định, hiện diện trong bộ Đại Nam Thực Lục :
♣ Về Hậu Đồn Ngự Lâm Quân :
• Tháng 4 – 1800 : Bọn hàng tướng ở thành Bình Định là Trưởng chi Trung Chi Hậu Đồn quân Ngự lâm Võ Văn Sự cùng với Trưởng chi Hữu Chi Nguyễn Bá Phong đem đồ đảng làm phản, giết quân ta, mở cửa thành phía bắc để đầu hàng giặc. Võ Tánh sai Vệ úy Vệ Nhuệ Phong là Ngô Văn Sở chiếm giữ cửa, bọn quân phản đã ra trước ngoài thành hơn 400 người, còn dư thì không dám ra. Tánh liền xét bọn đồng mưu đem giết hết, phòng giữ nghiêm mật hơn [tr.438].
Hơn 400 người ra được ngoài thành, còn dư thì không dám ra, một số bị Võ Tánh giết chết. Theo thư tịch từ các nhà truyền giáo, lá thư của Longer gởi cho 2 giáo sĩ Boiret và Descourvières ngày 4.9.1801 cho thấy rõ con số binh lính gây biến còn ở trong thành bị Võ Tánh đem ra hành quyết là chừng bảy, tám trăm người. Con số không phải nhỏ. Số lính Hậu Đồn còn lại có gì đi nữa cũng sẽ bị khống chế, giám sát chặt chẽ… Qua binh biến nầy, cứ tạm xem như là Hậu Đồn quân Ngự lâm chỉ sau vài tháng thành lập đã mất hiệu lực chiến đấu. Thống chế trước đây của Hậu Đồn quân Ngự lâm là Nguyễn Văn Phát chết trong quân không rõ vào lúc nào, ở đâu, nhưng chắc chắn là không chết ở trong Thành, vì sau đó được tặng Chưởng cơ thờ ở Miếu núi Độc Sơn cửa Thị Nại – nơi thờ Võ Di Nguy, Tống Viết Phước và các tướng chết trận chết bệnh từ Quảng Ngãi đến Thị Nại… Còn Phó Thống chế Hồ Văn Viện kể từ khi về ở trong quân của Võ Tánh tại Thành Bình Định không thấy ghi chép gì nữa, cả trong Thực Lục cũng như Liệt Truyện.
♣ Về Trung Đồn Ngự Lâm Quân :
• Tháng 2 – 1802 : Đô thống chế Trung Đồn quân Ngự lâm là Phan Tiến Hoàng tự trong giặc đem quân lẻn về, sai lệ theo Lê Văn Duyệt để đánh giặc [tr.515].
Khi Võ Tánh cùng Ngô Tùng Châu người uống thuốc độc người tự thiêu tuẩn tiết tháng 5 – 1801, Trần Quang Diệu vào thành Bình Định mà không giết binh tướng của Võ Tánh. Tới bây giờ Phan Tiến Hoàng đem binh trở lại với Nguyễn Ánh mà không rõ là bao nhiêu quân số, nhưng chắc chẳng nhiều gì, lại cho lệ vào lính của Duyệt. Xem như Trung Đồn quân Ngự Lâm không còn tên tuổi. Sau thấy Tiến Hoàng có mặt đánh các trận ở Đạm Thủy (Cát Minh – Phù Cát, Bình Định bây giờ) và Tân Quan (Tam Quan – Hoài Nhơn, Bình Định bây giờ). Dưới triều Gia Long, ra Bắc hà Tiến Hoàng thụ chức Trấn thủ Kinh Bắc, rồi Lưu thủ Quảng Ngãi, đi đánh giặc Đá Vách thất bại bị Lê Văn Duyệt hài tội trói giải về kinh. Còn Thống chế Trung Đồn Ngự lâm quân Hoàng Công Thành trước đã điều sang quản lãnh Hậu Đồn, chết trong quân thứ, sau được tặng Chưởng cơ, thờ ở Đền Song Trung – Chiêu Trung Từ, nơi thờ Võ Tánh, Ngô Tùng Châu cùng các tướng chết trận chết bệnh ở trong thành Bình Định.
♣ Về Tiền Đồn Ngự Lâm Quân :
• Tháng 2 – 1802 : Thống chế Tiền Đồn quân Ngự lâm là Lê Văn Niệm, Khâm sai Cai đội là Võ Viết Bảo từ Bình Định về [tr.516].
Nguyên trong đợt về lại quân thứ nầy còn có Phó Đô Thống chế Trung dinh quân Thần Sách là Phan Văn Kỳ. Phan Văn Kỳ và Vệ úy Nguyễn Văn Trí là tù binh bị quân Tây Sơn bắt được vào tháng giêng năm 1801 trong trận Càn Dương (Cát Tiến – Phù Cát, Bình Định bây giờ). Còn Niệm và Bảo cùng quân Tiền đồn Ngự lâm bấy lâu bị hãm trong Thành Bình Định với Võ Tánh, là tù binh của Trần Quang Diệu hồi tháng 5 năm 1801. Sau nầy ra Bắc, Lê Văn Niệm thụ chức Trấn thủ Thái Nguyên. Còn Đô Thống chế Tiền Đồn quân Ngự lâm Đoàn Văn Cát trước đã chết trong quân tại Thành Bình Định, sau thờ ở Đền Song Trung, được tặng Chưởng cơ.
Dấu vết của Tả, Hữu Đồn quân Ngự lâm ở bên ngoài Thành Bình Định, hiện diện trong bộ Đại Nam Thực Lục :
♣ Về Hữu Đồn Ngự Lâm Quân :
• Tháng 5 – 1800 : Sai Thống chế Hữu Đồn quân Ngự lâm là Từ Văn Chiêu và Phó thống chế Nguyễn Văn Điểm đem quân bản đồn vượt núi Cù Mông đánh giặc, Binh bộ Nguyễn Đức Thiện tham biện việc quân [tr.441].
• Tháng 6 – 1800 : Triệu Nguyễn Huỳnh Đức đến hành tại. Sai Đô thống chế Tả dinh quân Thần sách là Lê Văn Duyệt đem quân theo đường Cù Mông, kiêm quản Phó tướng Hữu quân là Mạc Văn Tô và Nguyễn Đức Thành cùng tướng sĩ Hữu Đồn quân Ngự lâm, thẳng tiến đến Phú Trung đánh giặc…
Binh đi tuần của Hữu Đồn quân Ngự lâm bắt được một người Quán quân và hai người lính đem nộp. Thưởng tiền 100 quan… [tr.443].
• Tháng 7 – 1800 : Hàng tướng là Thống chế Hữu Đồn quân Ngự lâm Từ Văn Chiêu làm phản. Chiêu trước là tướng của giặc… sau lẻn vào Gia Định theo ta, đã được nhiều lần cất nhắc. Đến đây thầm ôm chí khác, bèn cùng Phó thống chế Nguyễn Văn Điểm đem 500 quân đồn theo giặc. Vua sai mật dụ bọn Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Văn Trương rằng: “Bọn tiểu nhân giở giói, dù có hay không cũng chẳng đủ gì. Duy nghĩ binh cơ của ta bị chúng tiết lộ, nếu ta không đề phòng trước tất khó chống chế. Bọn khanh nên cẩn thận”. Sau khi Chiêu đi, liều đánh cho giặc, nhiều lần cản quân ta, mọi người đều nghiến răng căm tức [tr.444].
Kể từ thời điểm nầy Hữu Đồn quân Ngự lâm được xem như là đã xóa sổ, Từ Văn Chiêu đem binh Hữu Đồn về lại với Tây Sơn, là lực lượng gây không ít tổn thất cho quân của Nguyễn Vương sau đó. Trong các trận chiến nẩy lửa với quân Nam hầu như đều có mặt Từ Văn Chiêu. Trận Thị Giã (Chợ Giã – là Tp. Quy Nhơn bây giờ) tháng 11 năm 1800, quân binh của Chiêu đã ngăn chặn bước tiến quân của Chưởng Tiền quân Nguyễn Văn Thành và Tả dinh quân Thần Sách Đô thống chế Lê Văn Duyệt (Duyệt đến năm 1802 mới được phong Chưởng Tả quân). Trận Càn Dương tháng giêng 1801, Chiêu bắt lấy Thống chế Phan Văn Kỳ, Vệ úy Nguyễn Văn Trí, giết 2 Vệ úy Hoàng Phước Bảo và Hoàng Văn Tứ. Trận Tân Quan tháng 6 năm 1801, Chiêu phục binh ở Hang Dơi bắt giết Trung dinh quân Thần Sách Đô Thống chế Tống Viết Phước… Sau Từ Văn Chiêu bị bắt cùng các tướng tháp tùng Trần Quang Diệu lúc chạy ra Thanh Chương – Nghệ An. Lên ngôi, Gia Long cho giết ngay Từ Văn Chiêu khi Chiêu còn xiềng ở trong ngục. Phó Thống chế Hữu Đồn quân Ngự lâm Nguyễn Văn Điểm có lẽ sau bị xử, chết cùng với các đại tướng Tây Sơn tháng 11 năm 1802 trong lễ tuyên cáo võ công, yết tế Thái miếu “dâng lễ hiến phù” ở Phú Xuân.
♣ Về Tả Đồn Ngự Lâm Quân :
• Tháng 4 – 1800 : Thuyền vua tiến đến Tích Áo (Vũng Tích – Phú Yên), sai Chưởng Tiền quân Nguyễn Văn Thành điều bát quân bản dinh và tướng sĩ vệ Ngũ Thần Tả quân và Tả Đồn quân Ngự lâm đến cửa biển Xuân Đài tiến theo đường bộ đánh giặc, bộ binh của bọn Nguyễn Đức Xuyên đều theo Thành tiết chế, Hộ bộ Trần Đức Khoan thì theo làm việc quân lương [tr.440].
• Tháng 5 – 1800 : Vua nghe rằng binh Tả Đồn quân Ngự lâm nhiều người trốn, Lê Chất lấy làm lo. Vua xuống chỉ dụ rằng: “Vua tôi gặp nhau, xưa vẫn khó. Khanh dẫu ở bên giặc về hàng, ta vẫn lấy lòng thành đối đãi, mà khanh cũng đem lòng thành thờ ta, bầy tôi cũ của nước chắc cũng không hơn thế. Nay khanh vâng mệnh đánh giặc, hăng hái quên mình, ta đã nghe biết, không xiết khen ngợi. Trong bộ khúc hoặc có kẻ quá nhớ làng mà trốn, ta cũng không để ý, đừng lo” [tr.441].
Thành (Tiền quân Nguyễn Văn Thành) đóng ở Thị Giã, bày trận đối lũy với địch, cho các quân do sáu đường cùng tiến. Giặc ở trong bảo bắn ra, tiếng súng không ngớt, quân ta hết sức đánh, từ giờ dần đến giờ tý không phá được. Vệ úy vệ Thần Võ là Nguyễn Văn Sử chết trận. Sĩ tốt bị thương và chết cũng nhiều. Phó Trưởng chi Hữu Chi Tả Đồn quân Ngự lâm là Lương Văn Cương và Trưởng Hiệu Hậu Chi là Nguyễn Văn Vân đem hơn 200 quân chạy sang với giặc. Thành thấy binh cơ của mình đã tiết lộ mà sức quân cũng mỏi, bèn kéo quân về Thị Giã [tr.442].
• Tháng 7 – 1800 : Phó trưởng chi Trung Chi Tả Đồn quân Ngự lâm là Đỗ Văn Pháp cùng với hơn 150 người lính ốm thuộc đồn ở tại bảo Hội An (ở Phú Yên), nhân ban đêm trốn đi. Vua nghe tin, hạ lệnh hết thảy những lính ốm thuộc Tả Đồn, Hữu Đồn đều thả cho về thăm nhà… [tr.445].
• Tháng 3 – 1801 : Tham đốc giặc là Phạm Văn Điềm giữ bảo Hội An. Sai Lê Chất đem quân Tả Đồn và kiêm lĩnh các đội Vệ Túc Trực đến đánh. Lại giục Hoàng Văn Khánh tiến lên hội tiễu. Chất đến, đánh nhau với giặc ở Mễ Tân [Bến Gạo], bắt được Đô ty giặc là Nguyễn Nhiễu. Điềm thua chạy. Chất bèn đóng quân ở Hội An, chia sai đuổi bắt… [tr.467].
Đô Thống chế Tả Đồn quân Ngự lâm là Lê Chất, viên tướng vào triều Gia Long sau nầy năm 1819 làm tới Tổng trấn Bắc Thành, nên nói chung Tả Đồn Ngự Lâm Quân dù có thế nầy thế kia đi nữa cũng tồn tại đến năm 1802. Tháng 5 – 1802, vừa lên ngôi Gia Long cho đổi Tả Đồn quân Ngự lâm làm dinh Hậu quân, cho Lê Chất làm Khâm sai Chưởng Hậu quân Bình Tây tướng quân. Còn Thống chế Võ Đình Giai trước đã chết trong quân khi còn đóng binh ở Hoa An. Sau được tặng Chưởng Cơ, thờ ở Miếu Hòn Nần vũng Cù Mông – nơi thờ Đô thống chế Hậu dinh quân Thần Sách Mai Đức Nghị và các tướng chết trận chết bệnh từ Thị Giã đến Phú Yên… Trong quân thứ tướng lĩnh Tả Đồn còn có người họ thuộc với Giai là Đô đốc Võ Đình Duyên trước cũng theo Giai về cùng lúc, là Trưởng chi Tiền chi Tả Đồn quân Ngự lâm. Mùa xuân 1801 Duyên được thăng Ngự lâm quân Tả đồn Phó Thống chế, sau là Phó tướng Hậu quân.
Ngũ Đồn Quân Ngự Lâm tồn tại trong quân thứ Nguyễn Ánh chưa tròn đủ 3 năm. 3 Đồn quân Trung, Tiền, Hậu đặt dưới quyền thống lĩnh của Chưởng Hậu quân Võ Tánh phòng ngự Thành Bình Định, nơi đây đã xảy ra biến cố 2 Chi của Hậu Đồn là Trung Chi và Hữu Chi giết quân, mở cửa thành tìm về với Tây Sơn. Biết đâu biến cố nầy có bàn tay sắp đặt của Phó Thống chế Hậu Đồn Hồ Văn Viện, vì trong hầu hết sách sử nhà Nguyễn sau nầy không hề thấy nhắc đến tên ông kể từ khi quân Hậu Đồn về đây. Trong khi đó các chỉ huy cấp thấp như Trưởng hiệu, Cai đội Đội trưởng của các phiên hiệu trong Ngũ Đồn quân Ngự lâm thấy chép có người được thuyên chuyển qua Quân Thần Sách, có người được ghi tên nơi các Miều thờ… Còn với Hữu Đồn, xem ra Nguyễn Vương Phúc Ánh cho giết Đô Thống chế Từ Văn Chiêu ngay khi ông còn bệnh ở trong ngục, đủ biết Vương căm hận binh tướng Hữu đồn Ngự lâm quân biết chừng nào. Còn đối với Tả Đồn, bên ngoài thì an ủy phủ dụ nhưng bên trong Nguyễn Ánh không phải là không ghét cay ghét đắng Lê Chất, viên tướng quản lĩnh Đồn quân Ngự Lâm nầy. Rất nhũn nhặn nhưng đã có lần Nguyễn Ánh phải cắn răng đồng tình với thuộc tướng quy trách nhiệm Lê Chất đã không truy đuổi bắt Vua Quang Toản :
Tháng 5 năm 1801, khi Nguyễn Ánh bỏ chiến trường Quy Nhơn tiến ra đánh lấy Phú Xuân, Quang Toản chạy ra Bắc, Lê Chất được sai phái đuổi theo. Nhưng Lê Chất cứ “khua trống mà đi thong thả. Khi quân đến châu Nam Bố Chính thì Quang Toản đã qua sông đi rồi. Đến đây bị gọi về, đem dâng hai quả ấn ngụy. Vua cùng các quan bàn việc đánh Tây Sơn, nói rằng : Quang Toản được thoát là tự người chứ không phải tự trời” [tr.472].
Với Ngũ đồn Ngự lâm quân, nói cho cùng chỉ có Tả Đồn của Lê Chất là đem lại nhiều chiến công cho quân Nam, nhưng thật ra các tướng lĩnh của quân Nam cũng chẳng tin cậy gì ở đội quân nầy. Tháng 6 – 1800 Tiền quân Nguyễn Văn Thành đã dâng sớ lên Nguyễn Vương :
“Số quân của giặc hiện nay thêm nhiều, chúng dựa núi đắp lũy, hiện đã vượt qua sau lưng quân ta, mà quân ta thì bị ốm, con số có phần sút kém. Hơn nữa, quân Tả đồn thì mỗi ngày thường ra đầu hàng giặc, trong quân hư thực thế nào giặc đều biết cả. Số còn lại cũng không đủ tin, nên không dám sai khiến. Thần đương tính thế giặc, lánh chỗ khỏe, đánh chỗ yếu, đem các quân đánh đằng trước, quân voi ngăn đằng sau. Nếu nay lại chia tượng quân làm hai, sợ quân chia thì sức yếu, chưa phải là kế vạn toàn” [tr.443].
Thống quản Tượng binh là Nguyễn Đức Xuyên cũng theo đó dâng sớ nên rút quân Tả Đồn về hành tại để khỏi lo về sau. Còn theo Liệt truyện thì ngày trước, khi Lê Chất về hàng đầu, Nguyễn Ánh cho Chất ở trong quân của Võ Tánh, nhưng Tánh cũng tìm cách đẩy Chất vô Gia Định.
Vậy điều gì đã khiến Nguyễn Vương Phúc Ánh cho thành lập đội quân với binh tướng đều toàn là quân của Quy Nhơn. Tại sao Vương cho lấy phiên hiệu là Quân Ngự Lâm. Tại sao Vương phải bao phen lao tam khổ tứ an ủy, phủ dụ binh tướng đội quân sớm đầu tối đánh nầy. Tại sao Vương phải đưa mẹ và vợ con của Chất vào tận Gia Định cấp tiền lương nuôi nấng.
Trước tiên phải nói là Gia Định đất rộng nhưng người chưa đông. Lính Gia Định cũng đâu phải toàn tâm theo đuổi cuộc chiến, họ lẩn trốn, bỏ hàng ngũ khiến quan địa phương phải bắt nhốt gia thuộc họ để làm áp lực. Năm 1798 Đông cung Cảnh từng xin với Phúc Ánh : “Trai gái có phân biệt, đó là chế độ xưa, người đàn bà bị giam kín một đêm, trọn đời khó lòng biện bạch. Nay vợ con lính trốn bắt giam lẫn lộn, sợ không được phân biệt, xin hạ lệnh cho hữu ty làm chốn giam riêng” [tr.393].
Với nhu cầu cho cuộc chiến, Nguyễn Ánh phải thu nạp nhiều quân binh người nước ngoài, không riêng chỉ lính đánh thuê Tây dương người Pháp, người Y Pha Nho (Tây Ban Nha)… Khi Võ Tánh trấn giữ Thành Bình Định, quân binh dưới quyền ông ngoài lính bản dinh cùng với Ngũ Đồn quân Ngự lâm, các tướng sĩ Vệ Võ Lương Trung chi Hữu quân, Đội Thuộc Viên Trung chi Tiền quân, Tả chi Túc Uy dinh Tiên phong, hai Vệ Thiên Trường và Tín Trực… còn thấy cả một vạn quân Xiêm (Thái Lan hay Cao Miên !?) có mặt ở đó [tr.423]. Lúc đem binh giải vây Quy Nhơn, khi các tướng Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Đức Xuyên xin đưa Tả Đồn Ngự lâm quân về phía sau để tránh hậu họa, qua lời Dụ của Nguyễn Vương cho các tướng cũng thấy ở đây có mặt 5.000 lính Chân Lạp (Cao Miên) của tướng Cao La Hâm Sâm :
“Việc dụng binh cần phải biết địa hình. Thị Giã là nơi núi rừng hiểm hóc, không phải là nơi dùng voi; mà đường Cù Mông thì từ Dự Nguyên đến Vân Sơn Phú Trung, địa thế bằng phẳng, rất lợi việc đánh bằng voi. Huống chi bọn giặc chỉ phô trương hão ở đấy, không phòng bị gì, chính nên nhân mà đánh chiếm lấy. Phải kén ngay voi đực những con đã từng ra trận, cùng 100 tượng binh mà sai đi. Còn quân Tả Đồn thì hãy đợi khi quân Chân Lạp đến, sẽ có cách xử trí riêng, động gấp không phải là hay” [tr.443 – 444].
Lục đục giữa quân Phú Xuân và quân Quy Nhơn đã tạo cơ may cho Phúc Ánh thu nạp được binh lính Quy Nhơn về với mình. Với phiên chế của nhà Tây Sơn lấy Ấp làm Đội, biến toàn dân đều làm lính đã cung cấp cho Nguyễn Vương nguồn nhân lực tinh nhuệ, dồi dào để bổ sung, tổ chức quân đội. Thuở thành lập, chỉ trong thời gian ngắn ở Tuy Viễn mà Nguyễn Vương đã kén được gần 19.000 quân, đội ngũ sắp sẵn, chỉ cần biên chế lại là đã có liền phiên hiệu Ngũ Đồn Ngự Lâm Quân. Lính Quy Nhơn ở đây có phải trước là lính Ngự lâm cũ của Thái Đức Nguyễn Nhạc hay không… Hay là Phúc Ánh lấy tên gọi Ngự lâm để vỗ về, xem như lính Quy Nhơn mới kén tuyển là lính hậu cận của mình, hay là Phúc Ánh gieo rắc cho họ tự ám thị, xem đây là lực lượng của Thái Đức, xung trận đánh binh Phú Xuân trả thù cho vua Thái Đức…
Phải nói Nguyễn Vương Phúc Ánh chẳng phải là kẻ lơ mơ nghệ thuật chiến tranh, mù mờ việc thu phục kẻ về dưới trướng. Chẳng vậy đã không có Lê Chất theo về cúc cung tận tụy. Chỉ cần lấy hiểu biết của Lê Chất về quân tình thủy binh Tây Sơn cũng đủ giúp Nguyễn Vương thu được thắng lợi ở trận đại hải chiến cửa Thị Nại, đối đầu với Đại tư đồ Võ Văn Dõng tháng giêng năm Tân Dậu 1801. Còn để đối phó với hạng binh sĩ lúc nào cũng lăm le trốn về chủ cũ Tây Sơn, Phúc Ánh chẳng phải tay vừa. Thấy quân của Ngũ đồn Ngự lâm hầu như mỗi ngày đều có kẻ chạy về với giặc, có lúc trốn đi cả trăm người cùng với cấp chỉ huy, tháng 7 – 1800, Phúc Ánh liền cho những lính ốm của Tả Đồn, Hữu Đồn Ngự lâm quân về “thăm nhà” (lính ốm bệnh thì đánh đấm được ai, cho quách về nhà khỏi tốn quân lương, lính đã trốn đi thì đâu phải chỉ để về thăm nhà). Kèm bên cạnh đó Nguyễn Vương ban lời Dụ, đọc lại lời Dụ mới thấy tầm răn đe của Nguyễn Vương (hay chính là của bộ tham mưu quân Nam…) :
“Thương nhớ quê hương, ai không như thế. Bọn các ngươi từ năm ngoái về thành Gia Định, năm nay lại theo đại binh đi đánh giặc, trải từ Hội An đến Thị Giã, từ Lữ Quán đến Hoa Lộc, gian khổ chẳng từ, hoặc vì tên đạn mà bị thương, hoặc nhiễm gió sương mà mắc bệnh, thiếu người nuôi nấng, lòng về lại càng thiết tha, cho nên triều đình nghĩ thương, đặc biệt thả cho về. Nên về nói chuyện với những người đã trốn trước, cũng vì nóng về, trên đã soi xét, nên bảo ban nhau, chớ nên ngờ sợ, sớm muộn ta cũng lấy lại được Quy Nhơn, không bắt tội đâu” [tr.445].
Vì sao phần nhiều binh tướng của Ngũ Đồn Ngự Lâm Quân đã không toàn tâm toàn ý ở lại trong quân thứ của Nguyễn Ánh… Ngay như Đô đốc Nguyễn Đức Thu là em của Thống quản Tượng binh quân Phúc Ánh – chiến tướng Nguyễn Đức Xuyên, Thu theo Từ Văn Chiêu phản nghịch Nguyễn Vương, sau thất trận mới về hàng trở lại với quân Gia Định. Nếu nói riêng Từ Văn Chiêu có hằn thù cá nhân với tướng của quân Nam là Tống Viết Phước, thì binh tướng Hậu Đồn quân Ngự lâm gây ra binh biến ở Thành Bình Định lẽ nào cũng có hằn thù với Võ Tánh (!). Nếu nói Lê Chất phải ở lại trong quân của Phúc Ánh vì Chất có cơ tâm làm quan làm tướng, theo Nguyễn Vương để trả thù binh Phú Xuân đã giết Đại Tư lệ Lê Trung, hay là vì mẹ già vợ yếu con thơ của Chất đang ở trong tay của Nguyễn Vương tận trong Gia Định (!).
Các tướng lĩnh của Ngũ Đồn Quân Ngự Lâm trước kia thấy Nhà Tây Sơn anh em, chú bác tranh giành quyền lực với nhau gây ra giết chóc, họ đã không mong mỏi gì ở chính nghĩa của triều đại mới nữa mà bỏ theo vào với Phúc Ánh. Nhưng trong cuộc chiến ở Quy Nhơn nầy họ thấy Phúc Ánh cũng chỉ là người muốn lấy lại quyền lực của cha ông ngày trước mà thôi. Hồi mới đánh chiếm được Quy Nhơn năm 1799, vào tháng 7 sau khi đã tổ chức thu thuế điền ở đây, Nguyễn Vương còn có ý thu luôn thuế thân, là suất thuế mà trước rồi Tây Sơn đã tha cho dân binh Quy Nhơn. Tham mưu Trung dinh Đặng Đức Siêu dâng mật sớ ngăn cản, không nên thu để gây ơn. Phúc Ánh nghe theo, nhưng chỉ 3 tháng sau là lệnh thu thuế thân cả 2 phủ Quy Nhơn, Phú Yên. Đặng Đức Siêu cũng là tác giả của bài Văn tế Võ Tánh và Ngô Tùng Châu nổi tiếng, Siêu là người Quy Nhơn thì lẽ nào binh tướng người Quy Nhơn không biết chuyện. Vắt kiệt sức dân, nói một đằng làm một nẻo, cai trị bằng sự trí trá… dễ dẫn đến sự thất vọng trong lòng những kẻ từng khuấy nước chọc trời mới theo về. Bên cạnh đó binh tướng Nam hà thường ra mặt khinh khi kẻ về hàng, quân Ngự lâm sớm đầu tối đánh cũng là chuyện hiển nhiên.
Trong cuộc chiến với nhà Tây Sơn, Nguyễn Vương Phúc Ánh gặp nhiều cơ may đến với mình. Nhưng cũng phải thừa nhận là Phúc Ánh cùng Nam binh đã có những kỷ năng vốn có để tạo được quyền lực cho mình. Nguyễn Vương thành lập Ngũ Đồn Quân Ngự Lâm toàn người Quy Nhơn là mong được sử dụng lòng quả cảm, chí phục hận của họ. Tướng lĩnh của Quân Ngự Lâm hầu hết cũng là những người bỏ Nhà Tây Sơn theo về Gia Định, có người đã từng được trui rèn trong Quân Thần Sách, đội binh tinh nhuệ của Nguyễn Vương. Có lẽ Nguyễn Vương Phúc Ánh mong muốn trong quân thứ của mình, 5 đồn Quân Ngự Lâm sẽ trở thành quân hiệu ưu tú như 5 đồn Quân Thần Sách đã có. Sự thực đã không như mong muốn. Tháng 5 – 1802, khi Nguyễn Vương cho đổi Tả Đồn của Lê Chất thành dinh Hậu quân, thay thế cho dinh Hậu quân của Võ Tánh đã tan nát, xem như năm tháng nầy là thời điểm kết thúc quân hiệu Ngũ Đồn Quân Ngự Lâm.
Sự thực lịch sử cũng đã ghi nhận là Nguyễn Vương Phúc Ánh xuất phát từ Gia Định đi ra tới Thăng Long, lên ngôi cửu ngũ lấy niên hiệu là Gia Long. Chuyện được hay mất của Ngũ Đồn Quân Ngự Lâm chỉ còn là chuyện thắng thua của những người vì bên nầy, bên kia, chuyện ai vì chủ ấy, nó chỉ được mổ xẻ trên bàn của những ai quan tâm đến kỷ thuật, nghệ thuật tranh giành quyền lực, định bá đồ vương. Cuộc chiến 1771 – 1802 đã gây không biết bao ly tán trong lòng người, can qua đã đem bi thương, rẽ phân đến với những người cùng chung một quân thứ, đôi khi với người cùng trong một mái nhà.

—————————————–
• Các Chú thích – lấy năm tháng theo âm lịch, trích dẫn từ Đại Nam Thực Lục Tập I, nxb Giáo Dục 2001, Tái bản lần thứ nhất

THAM KHẢO
• Đại Nam Thực Lục – QSQ triều Nguyễn, nxb Giáo Dục 2001, Tái bản lần thứ nhất
• Đại Nam Liệt Truyện – QSQ triều Nguyễn, nxb Thuận Hóa 2006, Tái bản lần thứ hai
• Hoàng Việt Hưng Long Chí – Ngô Giáp Đậu, nxb Văn Học 1993
• Địa Chí Bình Định, Địa Bạ Và Phép Quân Điền – Nguyễn Đình Đầu, Quy Nhơn 2002
• Việt Sử Xứ Đàng Trong – Phan Khoang, nxb Khai Trí, Sài Gòn 1969
• Tập San Sử Địa số 21 – nxb Khai Trí, Sài Gòn 1971
• Lịch Sử Nội Chiến 1771 – 1802 Ở Việt Nam – Tạ Chí Đại Trường, Sài Gòn 1969 – bản điện tử pdf

NGUYỄN TRƯỜNG NGHỊ

ĐÔI ĐIỀU VỀ PHỦ THÀNH “PHỦ QUI NHƠN”

truongnghi

Năm 1471, hạ xong thành Đồ Bàn, bắt Chiêm vương Trà Toàn đem theo quân thứ ban sư về kinh, chỉ vài tháng sau vua Lê Thánh Tông lập ra đạo thừa tuyên thứ 13 là Thừa Tuyên Quảng Nam. Rồi vị tướng nhiều công trạng trong cuộc chiến tiến binh vào kinh đô Đồ Bàn năm ấy là Trung quân Đô thống Phạm Nhữ Tăng, ông được giao quyền Đô Ty Quảng Nam kiêm Trấn Phủ Hoài Nhơn. Phủ Hoài Nhơn là châu Vijaya của người Chiêm trước kia, là một trong 3 phủ mới được thành lập : Thăng Hoa, Tư Nghĩa và Hoài Nhơn, chúng đã được ghi tên vào bản đồ Đại Việt sau cuộc nam chinh của vua Lê. Từ một số thông tin của tộc phả họ Phạm dòng dõi Thượng tướng quân Phạm Ngũ Lão nầy cho thấy Đô thống phủ, lỵ sở của Thừa Tuyên Quảng Nam lúc ấy đặt tại thành Đồ Bàn. Quan Đô thống đã thọ bệnh qua đời và chôn cất tại đây vào tháng 2 năm 1478, sau được cải táng về làng Hương Quế nay thuộc Quế Phú huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. Như vậy vị quan đầu tiên trấn nhậm Quảng Nam kiêm lý phủ Hoài Nhơn, ông ở chức chỉ được 6 năm tại Hoài Nhơn, vùng cực nam của Đại Việt thời bấy giờ – là vùng đất cả tỉnh Bình Định bây giờ.

Quảng Nam thời ấy được thống hạt bỡi 3 Ty là Đô Ty, Thừa Ty, và Hiến ty. Nhiều người cho rằng lỵ sở của Tam ty Quảng Nam có ở Châu Sa (Quảng Ngãi), rồi Chiên Đàn (Tam Kỳ), nhưng chưa cho biết rõ lỵ sở dời ra đó vào lúc nào, vì sao phải chuyển dời. Dù sao thì điều phải rõ hơn hết là lỵ sở của một đơn vị hành chánh to lớn, của một đạo thừa tuyên mới thành lập phải được đặt nơi có thành trì, nơi có dân cư đông đúc, trù phú. Thành trì ngày xưa chính là nơi tứ dân an toàn trú ngụ, yên ổn mưu sinh. Thành trì cũng là nơi mà vua quan điều động quân lương, kén tuyển quân binh một cách nhanh chóng và dễ dàng để phòng ngự hoặc chuẩn bị cho một cuộc viễn chinh. Dinh trấn của Quảng Nam đến đầu thế kỷ 17 đặt ở Thanh Chiêm – vùng đất màu mỡ Điện Bàn đã nói lên được điều nầy khi các nước Tây dương đến đây đã xem Quảng Nam trù phú như là một đất nước riêng ở Đàng Trong.

Thành Đồ Bàn, kinh đô cũ của vương quốc Chiêm Thành, dù sau đó có không phải là lỵ sở của Tam ty đi nữa thì cũng là phủ thành của Phủ Hoài Nhơn trong một thời gian dài vào thời nhà Lê. Đến khi Chúa Nguyễn Hoàng vừa bước được vào nam, năm 1602 đã đổi Quảng Nam là Dinh (Doanh) chứ không gọi là Đạo Thừa Tuyên nữa. Theo Đại Nam Nhất Thống Chí thì Chúa đã đổi gọi Phủ Hoài Nhơn của Quảng Nam thành Phủ Qui Nhơn cũng vào năm nầy [1]. Biểu hiện của một sự thay đổi quyền lực, lẽ thường bao giờ cũng có sự thay đổi trước tiên về điển chế thông qua thay đổi địa danh trị nhậm. Nhưng điều quan trọng là với địa danh mới, bá tánh có an nhiên thoải mái sử dụng ngay hay không mà thôi. Ngay như trong thời buổi hiện tại, tên gọi Sài Gòn vẫn cứ được trăm họ hồn nhiên sử dụng qua cửa miệng chẳng chút gượng gạo song song với tên gọi trên giấy tờ hành chánh. Chỉ 50 năm sau ngày Chúa Nguyễn Hoàng thay đổi tên gọi đất Bình Định xưa, vào năm 1651 Chúa Nguyễn Phúc Tần đã cho đổi tên Phủ Qui Nhơn thành Qui Ninh. Rồi đến năm 1742 Chúa Nguyễn Phúc Khoát lại cho lấy lại tên cũ là Phủ Qui Nhơn. Trích dẫn lại từ Địa Chí Bình Định thì theo Thực Lục Tiền Biên – Viện Sử Học xuất bản năm 1962 cho biết 2 năm sau, năm 1744 Chúa Phúc Khoát cho dời phủ lỵ ra phía Bắc thành Đồ Bàn, nơi mà ngày nay thuộc Phường Nhơn Thành của Thị xã An Nhơn.[2]

Thay đổi tên gọi một địa danh cho vùng đất khi phải sáp nhập hay chia tách thì khác, nhưng ở đây với địa giới phủ Hoài Nhơn hay Qui Nhơn hay Qui Ninh thời Chúa Nguyễn, xem thấy chẳng có chút gì gọi là thay đổi. Năm 1611 thời Chúa Tiên Nguyễn Hoàng, cương vực phía nam đã mở rộng tới núi Thạch Bi, cũng cho thuộc vào Dinh Quảng Nam, nhưng là lập thêm một phủ mới ở phía nam Cù Mông gọi là Phủ Phú Yên. Đến năm 1629 Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên cho lập dinh trấn mới ở đây gọi là Dinh Trấn Biên để chuẩn bị tiến xa xuống phía nam. Đã không có chút thay đổi gì về địa giới, vậy điều gì đã khiến cho các Chúa phải thay đổi tên gọi vùng đất Bình Định thời đó. Các sử thần ngày xưa đã không ghi lại chuyện đó vì sao, các sử gia ngày nay chắc cũng chẳng ai hơi đâu tìm hiểu làm cho giới sưu khảo nghiệp dư có người phải tốn công tốn sức đi tìm thông qua việc tìm hiểu ngữ nghĩa của địa danh. Nói thì nói vậy chớ chẳng dễ dàng gì, ngày nay việc tìm hiểu địa danh qua ngữ nghĩa chẳng khác nào rơi vào mớ bòng bong. Lớp trẻ thời bây giờ có mấy ai đọc và hiểu rành rẽ tự dạng chữ Hán Nôm. Trong mấy ai đó có bao nhiêu người tiếp cận được kho tư liệu ngày xưa để tìm những minh chứng từ chỗ địa danh. Rồi địa danh đổi thay xoành xoạch qua mấy lớp bể dâu mấy tầng triều đại, mấy ai đó dễ gì đủ điều kiện để đi tìm cho tới nơi tới chốn. Chẳng hạn với địa danh Bả Canh, vị trí của Bả Canh nằm trong vòng thành Đồ Bàn và cũng là kế cận Nhơn Thành bây giờ (Nhơn Thành là nơi mà Thực Lục Tiền Biên trên kia đã cho là Phủ Thành Qui Nhơn dời ra đây năm 1744), Bả Canh được hiểu theo nghĩa là “cầm cày”, hay là “cày ruộng quan”, hay bằng một ngữ nghĩa nào khác nữa (!?).

Đọc lại Địa Bạ Bình Định lập năm Gia Long 1815 thì Trường Cửu Bả Canh Chánh Hộ ấp của Thuộc Thời Đôn, Huyện Tuy Viễn, Trấn Bình Định lúc ấy có 24 mẫu quan điền, công điền 48 mẫu, tư điền có 90 mẫu. (Quan điền là loại ruộng công do quan chức quản lý, để cho lính hoặc dân, cũng có thể là dân ở nơi khác đến cày cấy nộp với mức thuế cao thu làm quốc khố. Công điền cũng là loại ruộng công nhưng do xã thôn quản lý, chia cho dân của xã thôn canh tác theo một định kỳ nào đó). Đến năm 1832, Minh Mệnh đổi gọi Trấn Bình Định là Tỉnh, vua cho tiến hành chính sách quân điền ở đây. Sau khi bình quân, chia lại ruộng đất, Ấp Trường Cửu Bả Canh Chánh Hộ đã rút gọn tên họ thành Thôn Bả Canh của Tổng Thời Đôn, huyện Tuy Viễn, Tỉnh Bình Định (hiện bây giờ là Bả Canh của Phường Đập Đá, Thị xã An Nhơn). Lúc nầy mới té ra quan điền ở đây tăng gần gấp đôi (42 mẫu), gộp với công điền lên tới 119 mẫu trong khi tư điền chỉ còn 45 mẫu. Bả Canh thời đó đã là chánh hộ ấp chớ không phải là khách hộ ấp, có nghĩa là tên của nó đã có trong sổ bộ thu thuế tự đời nảo đời nao. Bả Canh nằm trong vòng thành Đồ Bàn, ruộng đất ở đây đa phần là quan điền, chính quyền cho thu tô cao để chiết lập quân lương cho thành trì. Chữ Bả theo tự dạng chữ Nôm có khác một chút theo tự dạng chữ Hán. Xem vậy không thể chỉ tra tự điển Hán Việt thấy Bả nghĩa là cầm nắm, Canh nghĩa là cày bừa mà cứ gọi đại ra Bả Canh là cầm cày. Cày bừa và Cái cày bản thân ngữ nghĩa đã khác hẳn nhau, ấy vậy mà Hán ngữ còn thêm chuyện đồng âm dị tự đem đến bao nhiêu điều tréo cẳng ngỗng. Ngày nay có nhiều người đã diễn dịch tên gọi Qui Nhơn có nghĩa là con người quy tụ về đây, trong khi đó tự dạng chữ Nhơn trong Qui Nhơn có nghĩa là “lòng nhơn” là nhơn nghĩa chớ không phải là “người”. Ngữ nghĩa lại còn lắm điều kỵ húy phải cải lại kiểu viết, cải lại kiểu đọc từng làm đau đầu các sĩ tử ngày xưa khi đi thi nữa là. Xưa vợ của Thái tử Đảm (vua Minh Mệnh sau nầy) tên là Hồ Thị Hoa, vua cha Gia Long ban sắc chỉ kiêng kỵ tên Hoa. Việc thương yêu con dâu quá đáng của vua đã dẫn đến chuyện Phường Hoa Phúc của xã Thời Lượng, Tổng Hạ, huyện Phù Ly (chính là vùng đất Phường Nhơn Thành, Gò Găng của An Nhơn bây giờ, lúc đó thuộc Tổng Hạ huyện Phù Ly tức là Phù Cát ngày nay); hoặc là Thôn Phong An của Phù Cát bây giờ nguyên trước xưa là ấp Hoa An cũng của xã Thời Lượng, tất cả thần dân đều phải đọc trại ra thành Ba Phúc phường, Ba An ấp. Ngay như Phúc cũng là đọc trại từ âm Phước của Hán ngữ, vì kiêng húy chữ Phước là bối tự – chữ lót của họ vua. Đi điền dã để sưu khảo, khi hỏi mấy cụ ngày xưa mà không lưu ý âm đọc thì chỉ có nước sa vào mớ rối bòng bong ngữ nghĩa.

Thông qua việc tìm hiểu địa danh để minh chứng vì sao Chúa Tiên đổi gọi tên Phủ Hoài Nhơn được đặt ra từ thời Lê Thánh Tông thành Phủ Qui Nhơn, vì sao Chúa Nguyễn Phúc Tần đổi gọi tên Phủ Qui Nhơn của chúa Tiên thành Phủ Qui Ninh quả là không dễ. Còn thông qua các bộ sử của Đại Việt cũng chưa thấy đâu dấu tích tên của Phủ thành gọi cho Thành Đồ Bàn là lỵ sở của Phủ thời ấy. Cuốn hồi ký của giáo sĩ Cristophoro Borri (1583 – 1632) ghi chép lại thời gian ông đến với Đàng Trong, nay đã được in thành sách ở Việt Nam dưới tên “Xứ Đàng Trong Năm 1621”, cuốn sách có nhiều tư liệu quý giá cho biết bối cảnh Quảng Nam và Qui Nhơn thời bấy giờ, nhưng cũng chẳng cho thấy rõ Dinh quan trấn thủ thời ấy như thế nào (Quan trấn thủ ở đây chính là Khám Lý Trần Đức Hòa, người đã tiến cử Đào Duy Từ cho Chúa Sãi).
Khi Chúa Nguyễn Phúc Khoát lấy lại tên gọi Phủ Qui Nhơn của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng, tên Qui Nhơn mới được biết nhiều, nhắc nhiều, hẳn nhiên qua đó cũng có tên của Phủ Thành Qui Nhơn.

Với Chuyện Chàng Lía – Văn Doan Diễn Ca, lướt qua chỗ sau khi xưng hiệu Sơn vương, Lía đem lâu la rời sơn trại đi đánh quan binh :

“… Bình Hòa kéo xuống, đông đà quá đông.
Quan thành nghe báo một khi,
Tức thì ra lịnh điểm binh trừ loàn.
Hai bên giáp chiến một khi,
Trống giong cờ phất, hơn hai ngàn người…”

Lía đánh quan binh, quan giữ thành đưa lính ra kháng cự mà không biết ở đây là thành nào, quan quân thua trận phải “Chạy về Bình Định đặng mà xin binh…”.

Còn với Tây Sơn Lương Tướng Ngoại Truyện của Cụ nghè người Nhơn Hậu – An Nhơn, Bình Định là Nguyễn Trọng Trì (1854 – 1922), trong chuyện Đô Đốc Nguyễn Văn Tuyết nói rõ hơn lên là có hành cung ở Qui Nhơn khi Chúa Nguyễn Phúc Khoát xa giá đến đây :

“Xa giá của Chúa Nguyễn đến Qui Nhơn. Một mình Nguyễn [tức là Nguyễn Văn Tuyết] ban đêm vào hành cung, thấy canh giữ rất nghiêm ngặt, không thể đến gần (chúa) được, bèn rẽ vào vườn sau. Nghe ngựa hí, tiếng rất hùng tráng khác ngựa thường, biết đây là giống ngựa hãn huyết (mồ hôi có màu máu), lòng hồi hộp, bèn lấy trộm ra. Một đêm chạy năm sáu trăm dặm đến An Khê trời chưa sáng tỏ. Ngựa tên Xích Kỳ, là cống vật của Cao Man. Chúa rất yêu thích, nên xa giá xuống phương nam cũng đem ngựa theo. Đến Qui Nhơn một đêm bỗng mất ngựa, bèn xuống chỉ tìm khắp nơi.

Lúc bấy giờ Nguyễn Khắc Tuyên làm Tuần Phủ Qui Nhơn, nghe tin sợ quá, cho người cỡi ngựa rảo tìm bắt kẻ trộm. Nhưng rốt cuộc không tìm được. Tuyên suýt phải tội. Trương Phúc Loan hết sức cứu mới được miễn…”

Tây Sơn Lương Tướng Ngoại Truyện không cho thấy rõ hành cung nơi Chúa ở khi Chúa đến phủ Qui Nhơn là nơi nào, ở ngay trong Phủ Thành hay hành cung dựng tại một địa điểm ở đâu đó ngoài thành. Dù sao Tây Sơn Lương Tướng Ngoại Truyện cũng cho biết Tuần phủ Qui Nhơn lúc ấy là Nguyễn Khắc Tuyên, cũng giống như Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện Quyển 30 của Quốc sử quán nhà Nguyễn xác nhận :

“Nhạc là người nhiều mưu cơ trí trá, một hôm tự ngồi vào trong cũi, sai bè lũ xe đến nói là bắt được Nhạc giải nộp, Nguyễn Khắc Tuyên không ngờ là dối, sai mở cửa thành để nhận, đêm hôm ấy bọn lũ của Nhạc lẻn vào đốt doanh giết tướng, chiếm cứ lấy thành…”
Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục Quyển 44 của Quốc Sử Quán nhà Nguyễn cũng ghi nhận việc Nguyễn Nhạc khi dấy nghĩa, năm 1773 đã đánh chiếm Thành Qui Nhơn bằng chiến tích ly kỳ như trong Liệt Truyện :

“Văn Nhạc là người nhiều cơ mưu trí tuệ. Một hôm, tự ngồi vào trong cũi, rồi sai đồ đảng luân chuyển báo đi rằng : Bắt được Văn Nhạc đem giải nộp trấn doanh. Viên tướng giữ trấn không ngờ là sự trí trá, bèn mở cửa doanh thu nhận. Đêm hôm ấy, đồ đảng của Nhạc lén đến ngoài thành, Nhạc liền phá cũi mà ra, mở toang cửa thành, đốt doanh trại, giết tướng giữ trấn, bèn chiếm cứ thành Qui Nhơn…”

Nhưng ở đây, theo lời chua trong Cương Mục thì thành Qui Nhơn lúc ấy lại chính là Thành Đồ Bàn ngày xưa [3]. Như vậy có hay không có việc đã chuyển dời lỵ sở Phủ Thành Qui Nhơn từ Phường Hoa Phúc (Nhơn Thành bây giờ) trở lại Đồ Bàn ngay trong thời Chúa Nguyễn Phúc Khoát cai trị Đàng Trong, hay vào thời Chúa Nguyễn Phúc Thuần sau đó. Hay là Cương Mục đã chép sai !

Lần theo sách Đại Nam Thực Lục Tiền Biên – nxb Giáo Dục năm 2001, đây là bộ sử biên niên của Quốc Sử Quán nhà Nguyễn đã được Viện Sử Học phiên dịch và hiệu đính, cho in lại. Trong Quyển 10, niên đại 1742 có chép :

“Nhâm Tuất, năm thứ 4 [1742], đổi phủ Qui Ninh làm phủ Qui Nhơn, phủ Diên Ninh làm phủ Diên Khánh…”

Tìm đến năm 1744 để xác định lại năm Chúa Phúc Khoát cho dời phủ lỵ Qui Nhơn ra phía Bắc thành Đồ Bàn thì chỉ thấy trong năm nầy nói những việc Chúa đúc ấn Quốc vương, truy tôn huy hiệu các đời, định lại triều phục… Liên quan đến Qui Nhơn thì chỉ có chép câu :
“Các Dinh đặt Trấn thủ, Cai bạ, Ký lục để cai trị. Duy 2 phủ Quảng Ngãi và Qui Nhơn lệ thuộc vào Dinh quảng Nam thì đặt riêng chức Tuần phủ và Khám Lý để cai trị…”

Không biết Thực Lục Tiền Biên của Viện Sử Học in năm 1962 có khác gì với Bộ Thực Lục tái bản năm 2001 hay không. Hiện nay với bộ Đại Nam Nhất Thống Chí – nxb Thuận Hóa năm 2006, trong Tập 3, Quyển 9 nói về Tỉnh Bình Định cũng không thấy dấu vết gì việc dời Phủ Thành Qui Nhơn ra ngoài phía Bắc Thành Đồ Bàn vào năm 1744, như Địa Chí Bình Định đã trích dẫn là có chép trong Tiền Biên của Viện sử Học bản in năm 1962. Như vậy có điều gì đã gây ra sự rối rắm ở trong các bộ sử của Quốc Sử Quán (!?)

Thư tịch cổ ngày xưa còn có Đồ Bàn Thành Ký, là phần cuối trong cuốn Nguyễn Thị Tây Sơn Ký [4] của cụ Hoàng giáp Nguyễn Văn Hiển người Cát Hanh – Phù Cát, Bình Định (1827 – 1865), bài ký có nhắc đến phủ thành Qui Nhơn nằm ở phía ngoài Thành Đồ Bàn. Theo bản dịch của cụ Tô Nam Nguyễn Đình Diệm (chuyên viên Hán học của phủ Quốc Vụ Khanh Đặc Trách Văn Hóa), in trong Tập San sử Địa số 19 & 20 – Sài Gòn 1970 có đoạn :

“Sau lưng Thành Chàm có núi Thập Tháp, trước mặt núi có ngôi chùa danh tiếng, là nơi tu hành của vị sư bên Tàu tên gọi Hoán Bích Hòa thượng, (chùa này xây dựng từ niên hiệu Chính Hòa năm thứ 4 tức đời Lê Hy Tông, DL 1684), trên biển có đề Thập Tháp Di Đà Tự chúa Nguyễn Hiển Tông Hiếu Minh hoàng đế ban cho (1691 – 1725). Cách hơn một dặm về phía tây, làm cây thông reo, tốt tươi xanh mướt, đó là Văn Miếu thờ đức thánh Khổng. Phía đông miếu còn nền móng lũy xưa đó là bức thành của phủ Qui Nhơn ngày trước (thành này thuộc huyện Phù Cát), cách hơn dặm về phía bắc thành Đồ Bàn là nơi trước kia Nguyễn Nhạc tụ họp quân Mán kéo xuống đánh thành Qui Nhơn, rồi tu sửa thành Đồ Bàn để làm quốc đô, còn nền móng thành Qui Nhơn phế bỏ…”

Tựu chung các sách sử nói về phế tích Phủ Thành Qui Nhơn chắc chỉ có bài ký của cụ Hoàng giáp là nhắc rõ hơn cả. Cụ Nguyễn Văn Hiển và em là Nguyễn Văn Sách cùng đỗ Cử nhân khoa Bính Ngọ năm Thiệu Trị 1846, năm sau thi Hội ông đỗ Tiến sĩ Đệ nhị giáp, làm quan tới chức Tuyên phủ sứ đạo Phú Yên. Gốc quê ông ở xã Mỹ Chánh huyện Hải Lăng (Quảng Trị), nhưng sinh ở làng Vĩnh Ân, Phù Cát nên thường gọi là Ông Hoàng giáp Vĩnh Ân. Theo Nguyễn Phu và Nguyễn Thiều trong cuốn Các Nhà Khoa Bảng Bình Định Dưới Triều Nguyễn (nxb Thuận Hóa 2004) thì sau khi đỗ ông được bổ Hàn lâm Tu soạn, sau thăng Hàn lâm Thị Độc, nhưng vì mẹ già yếu nên xin về quê phụng dưỡng. Sau đó lại được triều đình bổ Đốc học, hàm Hàn lâm Thị Giảng, rồi thăng Án sát Quảng Ngãi. Ông mất năm 39 tuổi khi còn tại chức Tuyên phủ sứ ở Phú Yên. Nghe truyền rằng ông có trí nhớ giỏi không khác gì Lê Quý Đôn. Trong Đồ Bàn Thành Ký ông có nói ông soạn bài nầy thể theo lời yêu cầu của quan Hộ đốc họ Bùi khi về trị nhậm ở Bình Định. Như vậy bài ký nầy có thể được làm trong khoảng thời gian ông về Vĩnh Ân – Phù Cát phụng dưỡng mẹ già.

Không phải ai cũng có thiên năng bẩm sinh như Hoàng giáp Vĩnh Ân Nguyễn Văn Hiển hoặc Quế Đường Lê Quý Đôn để đủ điều kiện đọc, hiểu, biết hết những tri thức của nhân loại, những di cảo của người xưa. Sách vở chỉ là một trong những mối dây. Những khẩu truyền trong dân gian, những di chỉ, những dấu vết sinh sống, xây dựng… của người xưa là những mối dây khác nữa. Tìm lại quá khứ không thể thậm tin vào sách, cũng không thể hời hợt đào xuống bới lên. Chắc có lẽ cũng không quá hời hợt, cũng không quá thậm tin nên hiện nay ở Bình Định đã có bia Di tích lịch sử Phủ Thành Qui Nhơn, đặt tại Phường Nhơn Thành, Thị xã An Nhơn. Gọi “nơi đây là lỵ phủ Qui Nhơn dưới chính quyền nhà Nguyễn Đàng Trong thời Trịnh Nguyễn phân tranh, năm 1773 nghĩa quân Tây Sơn đánh chiếm và dùng làm căn cứ quân sự”.

Tấm bia trên kia đã mặc nhiên công nhận : với Di tích Phủ Thành Qui Nhơn, những ghi chép lưu truyền trong dân gian đã có giá trị thực hơn những gì sử thần đã chép.

Nói cho cùng, Phủ Thành Qui Nhơn hồi ấy tọa lạc tại vùng Nhơn Thành bây giờ, xem ra nó tồn tại chỉ khoảng 30 năm, trong thời gian đó nó không nói hơn được điều gì về mặt lịch sử ngoài chiến tích nghĩa quân Tây Sơn hạ thành khá ly kỳ, huyền thoại. Lịch sử Thành trì của Qui Nhơn hầu như đã dồn nén hết vào Thành Đồ Bàn cũ. Khi Nhà Tây Sơn sửa chữa Thành Đồ Bàn làm Thành Hoàng Đế cho triều đại mới, sau đó ở đây đã chính là nơi xuất binh vào Nam “quét sạch 300 chiến thuyền Xiêm La do Phúc Ánh lưu vong rước tới”, là nơi xuất binh vượt ra Bắc xóa tan phủ Chúa, để rồi sau đó “đánh tan 20 vạn hùng binh Mãn Thanh do Duy Kỳ khất lân lĩnh về”. Nhưng cũng chính nơi đây trào tuôn những giọt nước mắt khóc cho cảnh anh em, chú cháu bất hòa đem binh vây hãm, nồi da xáo thịt bắn giết nhau. Cũng chính nơi đây sau đó chẳng bao lâu, đại binh Phú Xuân hơn một năm trời công phá đã tiến vào thành mà tha hết quân binh giữ thành, chẳng giết một ai, thể theo lời thỉnh cầu của 2 chủ tướng họ đã xin trước khi tự thiêu, uống thuốc độc tuẫn tiết.

Thành trì là nơi để tứ dân an toàn trú ngụ yên ổn mưu sinh. Nhưng bi hùng của Thành trì là mang mang đâu đó câu “nhất tướng công thành vạn cốt khô” …

Phan Trường Nghị

——————————–
[1] Đại Nam Nhất Thống Chí – Quốc Sử Quán Triều Nguyễn – Viện Sử Học, nxb Thuận Hóa 2006 – Tập 3, trang 7
[2] Địa Chí Bình Định – Website Sở Khoa Học và Công Nghệ Bình Định : Bình Định Thiên Nhiên, Dân Cư và Hành Chính – Phần III Địa Chí Hành Chính – Chương XI Tổ chức Hành Chính và Bộ Máy Quản Lý Nhà Nước – Mục II Dưới Thời Các Chúa Nguyễn :
http://www.dostbinhdinh.org.vn/diachibd/TNDCHC/P3_chuong_11.htm
Phủ lỵ dời ra phía Bắc thành Đồ Bàn, đóng tại thôn Châu Thành (nay là xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn)16. Phủ lỵ được xây đắp thành lũy kiên cố. Hiện còn dấu vết của bờ thành đắp bằng đất.

Chú thích :
16 Đại Nam thực lục tiền biên, Sđd, tr. 208
[3] Trang 936 – Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục – nxb Giáo Dục 1998
[4] Sách do Trường Viễn Đông Bác Cổ in microfilm, được tàng trử tại Viện Khảo Cổ Sài Gòn trước năm 1975.
.

CHỊ HAI

truongnghi

Cài nhanh then cửa, Lành chạy vội vô phòng tắm. Vục mặt vào lavabo để mặc cho nước xối xuống tóc xuống cổ, Lành đờ đẫn tìm kiếm sự tỉnh táo. Mệt đừ cả người, Lành thấy như ai đấy đang dần đang băm từng thớ thịt. Da mặt Lành cũng đang căng ra, hình như chúng muốn tiếp tay cùng những thớ thịt bên trong trương lên để biểu hiện sức săn chắc tuổi gái một con của Lành. Cái kiếp làm thợ ngành may quần quật với những việc chẳng nặng nề gì mà luôn ngốn lấy công sức con người khủng khiếp, nhưng đối với Lành chúng chẳng có ký lô gram nào cả, Lành mệt đừ, đơn giản chỉ vì suốt ngày ai gặp Lành cũng cứ ra rả một gọi Chị Hai, hai gọi Chị Hai.
Lúc nãy về vừa bước vào cổng, đang bù khú với Hoan ngoài sân, Bác Tư Sẹo chủ dãy nhà trọ cũng tiếp theo Hoan mà buông ra lời chào khác ngày thường :
– Nay tăng ca hay sao mà về muộn thế Chị Hai !
Với Hoan, thằng bạn cùng xóm học chung trường hồi nhỏ ngoài quê, lâu nay Hoan gọi Lành thế nào cũng được, Bác Tư mà gọi như vậy thì Lành làm sao chịu nổi. Nghe đâu ngày xưa Bác cũng là một tay anh chị đất Sài Gòn nầy. Vết sẹo trên mặt Bác Tư là dấu tích còn lại của một thời Bác lăn lộn với giới giang hồ Xóm Củi. Lành biết dân anh chị khi buông ra một lời là như cóc cắn. Cóc mà cắn là không khi nào nhả. Dân giang hồ tứ chiếng thời xửa thời xưa mà buông ra lời là như đinh đóng vào cột. Hình như có điều gì đó ẩn náu bên trong tiếng gọi Chị Hai của Bác Tư.
Lành hất mái tóc ra sau nhìn thẳng vào gương soi. Trong gương đôi mắt Lành long lanh chớp chớp nhưng vẫn chất chứa cái nhìn hồn hậu của một gái quê, đôi môi chín mọng vẫn tươi tắn nét nhu mì giống như tên của nàng, da mặt nàng trắng trắng hồng hồng, không đen đúa như hồi còn ở quê cắm đầu xuống ruộng dầm mưa dãi nắng…, Lành thấy Lành chẳng ra vẻ gì là một tay đàn chị của dân giang hồ cả. Lâu nay Lành cũng đâu có hành động nào gọi là thể hiện tính du côn du đảng đâu. Nhớ năm trước cũng ở dãy nhà trọ nầy, Lành đã từng ra tay quẳng một thằng trai ra cửa như quăng một con nhái – cái thằng là bạn trai của Gái Thoa trọ phòng bên làm cùng xưởng với Lành, hắn đến mè nheo với Gái Thoa, hằn học nã Gái Thoa đưa tiền cho hắn đi cá độ đá banh. Ra tay chút ngón nghề của gái Bình Định khi thấy chuyện bất bình thôi mà, có to tiếng gì đâu. Lành cài thế đẩy hắn bay ra cửa, nàng đanh giọng bảo đừng nên sống bám vào váy phụ nữ nữa, hắn lồm cồm bò dậy, lẳng lặng xách gói đi biệt cho tới tận bây giờ chẳng thấy mặt. Từ đó mọi người chung dãy nhà trọ, kể cả bạn làm cùng chung trong xưởng đều gọi Lành là Chị Hai. Nhưng hôm nay, đây là lần đầu Lành nghe tiếng gọi đó thốt ra từ Bác Tư Sẹo.
Lành dừng tay khăn đang lau khô mái tóc lắng nghe Bác Tư khề khà với Hoan ngoài sân :
– Qua nói thằng Hai mầy nghe. Thằng Hai mầy uống có cỡ nhưng mầy dở như con bọ nẹt. Đờn ông đờn yêng gì mà không dám nói tuốt ruột ra. Con Lành nó sống nó chết với người thế cô, dám ra mặt đòi chủ đáp ứng quyền lợi chung cho cả bọn. Nó đáng mặt Chị Hai, nhưng qua biết nó là người nhu mì, ít nói. Mở miệng ra là Thằng Hai mầy cứ gọi nó bằng chị Hai chị Ba thì làm sao nên việc.
Té ra mọi việc đều từ chỗ Hoan mà ra. Với Gái Thoa cùng mấy đứa làm chung xưởng, lâu nay Lành đã căn dặn kỹ là khi về nhà trọ không nên nói đi nói lại những gì Lành đã làm cho chúng ở công ty. Tội cho mấy con bé hồn nhiên ở miền Tây bỏ ruộng bỏ đồng lên bon chen cùng bụi bặm Sài Gòn, Lành biết chắc là lúc nào chúng cũng riu ríu làm theo lời nàng. Có lẽ Hoan đã biết chuyện Lành mấy hôm rồi nổi đình nổi đám đứng ra bảo vệ chị em đòi công ty không nên tăng ca quá mức, để rồi hôm nay rượu vào lời ra mà Hoan vui miệng kể lại cho Bác Tư ! Đàn ông khi có rượu vào là bép xép như phụ nữ. Rõ xấu !
Kể ra cũng tội cho Hoan, Hoan lúc nào cũng quanh quẩn bên cạnh với Lành. Từ ngày còn đi học, Hoan đã thầm để ý Lành nhưng không hiểu sao nàng chẳng chút mảy may rung động nào trước săn đón của Hoan. Ngày Lành nghỉ học giữa chừng vào Sài Gòn tìm việc, chẳng bao lâu Hoan cũng vào theo. Ngày Lành kết đôi với Sang, người đã đem lại chút ấm áp cho cuộc đời nàng, tiệc vui ngày cưới đơn sơ nơi xứ lạ cũng chỉ có mỗi mình Hoan dự chúc phúc chung vui. Ngày Lành sinh bé Tí Nị, Hoan lại cũng là người thay mặt Sang, người bạn đời vắn số của nàng mà lo cho nàng mẹ tròn con vuông giữa đất Sài Gòn. Năm trước về đây ở, Hoan cũng tìm đến thuê chung dãy trọ với Lành. Lành biết rõ Hoan muốn chăm sóc cả cuộc đời nàng, Hoan đeo đuổi nàng cho tới cùng, mặc cho Lành vẫn cứ xem Hoan chỉ là người bạn học, bạn cùng quê.
Có Hoan ở gần bên, nhiều khi nghĩ lại Lành thấy mình cũng phần nào đỡ tủi.
Ngày Lành được sinh ra chưa tròn năm, chưa biết đi chập chững thì ba của Lành phải đi chiến trường Tây nam. Ông đi biệt gần mươi năm mới trở về, không như bác Tấn, ba của Hoan chỉ mấy tháng sau là phải về cùng với đôi nạng gỗ. Ba Lành về là lăn ngay ra đồng, ông vứt bỏ mọi quan hệ chỉ chăm chăm với cán cuốc chuôi cày.
“Nghiệp nhà mình là dân làm nông, chẳng tranh giành cùng ai chi, cứ vui cùng với trời với đất vậy con”. Lành biết ba mình có niềm vui với từng lát đất đường bừa, vui dù phải ngửa mặt lạy trời trông mưa trông nắng, nhưng Lành hờ hững với lời khuyên của ba khi nàng xin vào Sài Gòn tìm việc. Ba Lành xuất ngũ về chẳng bao lâu là Lành có thêm mấy đứa em nhỏ. Nhà thêm người nhưng ruộng đất đâu có thêm, trong khi đó đất canh tác ngày cứ càng eo hẹp lại theo đà mở rộng khu dân cư hai bên đường lộ lấp ruộng bán đất cất nhà. Hẳn nhiên nhà hai bên đường lộ hình thành nên phố thị bán buôn chớ không dành cho nông dân ở đường nhựa. Trong xóm đã lác đác vài đứa bạn của Lành vô Nam làm thợ, tiền lương hàng tháng của chúng chắt chiu gởi về bằng ở nhà một mùa thu vô. Mỗi chiều nhìn mấy đứa em nhỏ lóc thóc tranh nhau lấy rơm bỏ vào chuồng cho bò ăn thêm, trời chưa sáng tỏ là mẹ đã phải dậy nổi lửa lo cho ba lót bụng ra đồng, Lành âm thầm ra gốc xoài sau nhà dấu đôi mắt đẫm ướt. Ngày ba của Lành đổ bệnh nằm mấy tháng trời, Lành quyết chí vô Nam. Làm nông bây giờ cả nhà đã thành nông thợ, đi xa cũng là làm thợ, Lành sẵn sàng rời xa mái trường dù chỉ hơn năm nữa là thi tốt nghiệp. Thản nhiên với quyết định. Lành tự biết quyết định như vậy là đã chấp nhận phần thua thiệt về mình, chấp nhận một thân một mình đương đầu với những rủi ro, những phản phúc của cuộc đời.
Đời thiệt lạ, ai cũng leo lẻo là xã hội nhiều thầy hơn thợ phải làm cái gì đó để giảm bớt lớp thầy đi, nhưng thật ra ai cũng muốn con mình phải làm thầy làm xếp chớ không muốn con mình đi làm thợ làm cu ly. Ai ai cũng tranh lấy phần hơn về mình, tận dụng mọi thế lực để con cháu mình đừng đứng trong lớp thợ, lớp làm thuê. Bạn của Cô Nguyệt làm Hiệu trưởng Đại học nào đó ở Sài Gòn, thằng con chỉ mới lớp 10 đã cho đi du học, làm như kiểu học ở đất nước nầy chỉ để đào tạo ra những đứa cu ly.
Cũng phải thôi, xã hội bon chen kỳ quái đã đẩy đưa mọi người phải tranh lo cho trẻ ngay từ lúc mới sinh ra nếu không muốn cho con cháu mình phải thua thiệt. Cô Nguyệt, cô giáo chủ nhiệm của Lành năm lớp 11, Cô sẵn sàng hưu non để vào trong nầy chăm nom cháu ngoại. Con gái Cô học đến nơi đến chốn nên có chỗ làm tốt ở trong nầy, Cô không muốn cháu mình phải tách xa mẹ, Cô cũng không muốn cháu mình gởi nhà trẻ lỡ đâu ăn phải “cháo ngủ” hằng ngày. Hôm Lành đến thăm Cô, Cô cười buồn :
– Nay nhà nhà đều đi làm Oshin. Cô đang là bà, đang là mẹ, đang là Thầy cũng phải nghỉ dạy đi làm Oshin đây Lành ạ.
Nghĩ đến đây Lành lại nhớ đến Tí Nị đang gởi cho ngoại ở quê. Lành thẫn thờ bước lại vòi hoa sen xả nước mặc cho nước xối tuôn ướt cả áo quần.
Hôm Tết rồi Lành về thăm nhà, thăm con. Tí Nị lẫm đẫm theo mấy Dì của nó chạy ra mừng Lành. Tí Nị nay đã đi đã chạy vững vàng, nó cũng ôm chầm lấy Lành ríu ra ríu rít như chim :
– Chị Hai dzìa, Chị Hai dzìa…
Lành đứng sững dưới vòi hoa sen chẳng buồn vuốt nước trên mặt. Lành nghe như có vị mằn mặn đang đọng ở khóe môi. Lành phải bôn ba nơi xứ xa, nàng có đứa con thơ dấu yêu, gặp con, được ở bên con mấy ngày nhưng chỉ để nghe tiếng con thơ gọi ngoại của nó là Mẹ…

PHAN TRƯỜNG NGHỊ

GÃ BƯỞI

truongnghi

Bưởi hay Bử. Cái ngữ âm chết tiệt vùng trung du đất Bình Định chẳng biết đâu mà lần để ghi lại cho đúng tên người ta gọi gã. Nhưng nghe cái tên Bử thấy chẳng ra khoai ra môn gì cả. Bưởi có họ hàng với cam quít, có mặt có tên, gọi Bưởi xem ra còn có danh có phận. Nói cho cùng, ai lại muốn cái tên của mình chẳng có nghĩa lý gì mà lại xấu hươ xấu hoắc. Lắm người khi được chút danh phận, chẳng phải thường dấu nhẹm đi cái tên cha mẹ đã đặt cho, cải thành những cái tên khua như tiếng dao miết trên đá mài đấy sao. Thực ra trên giấy tờ gã có tên là Lê Trấn Sơn. Đố ai dám bảo là cái tên xấu. Nghiệt nỗi chẳng mấy ai biết được gã có cái tên nầy, lại nữa nó chẳng xứng với một gã chưa có gì gọi là làm nên trò trống với đời. Vậy thì với gã, thôi cứ ghi lại tên của gã là Bưởi vậy.

Tên là thế, còn tướng tá gã kể ra cũng cao ráo, khỏe khoắn, dáng dấp trông không đến nỗi xấu. Nói thẳng ra thì gã cũng có chút phong độ, đẹp trai. Ấy vậy mà gã lại có cái hành vi quái đản là thích đi quẹt mông đàn bà con gái để ngửi. Mà phải là gái lạ, ít ra nhìn cũng phải mướt con mắt kìa. Bà già cũng phải, gái lớn lên cũng phải, hồi ấy hễ cứ người lạ nào mặc quần lĩnh Mỹ A láng bóng dạo chợ Phú Phong, trước sau gì cái mông nổi gân qua làn vải ấy đố mà tránh được bàn tay của gã.

Ai đấy may mắn chiêm ngưỡng trọn vẹn cảnh Gã Bưởi đứng ngửi, có lẽ chỉ người ấy mới thực sự thấy được sự nâng niu của người biết trân trọng những mùi hương ở trên đời. Cho dù mùi hương đó có là cái mùi của mông đàn bà.

Đi tận tít đằng xa mà thoáng thấy bên sạp chợ nhô ra cái mông là lạ đang cúi xuống săm soi lựa hàng là gã băng băng tới ngay. Hình như gã có cái khiếu phân biệt được cái mông nào quen, cái mông nào lạ. Tới gần, dù trên vai đang gánh cái gánh gì đi nữa thì cũng mặc kệ, gã quăng chúng ngay xuống đất. Đang cầm cái gì đó trên tay gã cũng vứt đi nữa là. Khẽ khàng vẹt người sang hai bên lấy lối đi, lặng lẽ đến đứng bên cạnh, gã nhẹ nhàng… quẹt. Và cũng chừng ấy nhẹ nhàng, gã từ tốn, trịnh trọng, chậm rải đưa tay lên ngửi. Mũi gã phập phồng nhiu nhíu, đôi mắt gã mơ mơ màng màng như đang đánh giá, tận hưởng mùi hương. Có cô nào đó khi chỗ khó nói của mình thình lình bị xâm phạm, hoảng hồn quay ngoắt lại sừng sộ thì gã ủ ngón tay vào ngay trong vạt áo như sợ hương bay mất rồi chạy ù ra tận đằng xa. Đến được chỗ có vẻ an toàn gã mới khom đầu xuống sát dưới vạt áo, he hé thò ngón tay ra, vồ vập hít những gì còn đọng lại ở nơi đây.

Thoạt đầu mấy bà mấy cô quát mắng, đánh đuổi không cho gã đến đứng gần bên cạnh, nhưng riết rồi thành quen. Hành vi của gã kỳ quặc thiệt. Bị quẹt vào cái chỗ mắc cỡ thiệt. Nhưng nghĩ lại cũng đâu có mất mát cái gì. Họa hoằn lắm mới có cô bị gã quẹt lần thứ hai. Bị lần thứ ba thì hầu như chưa hề thấy xảy ra nên có gì đâu mà phải nổi tam bành với gã. Cái chợ quận đất Phú Phong hồi ấy chẳng lớn gì, lâu lâu mới có người lạ đến mua sắm, thành thử chuyện Gã Bưởi quẹt mông đàn bà để ngửi không gây nên chuyện u đầu mẻ trán, nổi đình nổi đám lan đi xa.

Nhưng kể cũng lạ. Thói thường ở đời những kẻ có hành vi kỳ kỳ quặc quặc đều bị người ta gọi bằng Thằng ráo tuốt. Vậy mà một thằng đàn ông đi quẹt mông đàn bà con gái để ngửi, một gã có cái tật kinh dị đến thế mà tới tận bây giờ những người lớn tuổi ở Phú Phong khi nhắc chuyện cũ vẫn trọng vọng gọi gã bằng tiếng Ông – Ông Bưởi!

Người ta đã gọi gã bằng Ông. Gã đâu có cái huông ám ảnh chết người để ai cũng hãi đến nỗi phải gọi kiểu như gọi Ông Tý, Ông Ba Mươi đâu. Gã thàng thàng, gã hiền như cục bột. Có cô nào đó đã bị quẹt mông từng dí tay vào mặt gã đay nghiến, lôi trời lôi đất ra hăm he. Nói chẳng quá chớ trời có xuống gầm trước mặt đi nữa thì gã cũng nhiu nhíu cái mũi thỏ lên cười. Khi cười, cái mũi gã hênh hếch, cái môi gã giật giật rung rung, nếu không nhìn vào ánh mắt của gã thì không ai biết là gã đang cười hay nhăn. Thực ra gã chưa hề biết nhăn nhó ai bao giờ. Gã ít nói. Hầu như chẳng nói chuyện với ai, gã luôn tươi tắn với mọi người. Gã cũng chưa hề gây sự với ai, và cũng chưa ai từng dám đem chuyện thể hiện sự hiếu thảo ra so với gã. Được mời ăn cỗ, đố có ai bắt chước được như gã khi tan tiệc cứ đứng sững ra đó chờ tới khi nào chủ nhà đưa cho cuốn bánh, khi thì gói cho cả khúc chả lụa mới ba chân bốn cẳng mang về cho mẹ ở nhà.

Gã Bưởi cũng đâu có sang giàu để buộc người ta phải cúi đầu cung kính gọi Ông. Gã nghèo nhớt mồng tơi. Mới nứt mắt ra là gã đi chận bò cho Xã Háo miết cho tới năm chính phủ ông Diệm đổ. Rồi làng Trinh Tường mất an ninh, Xã Háo tóm thâu bầu cọ, bán sống bán chết chạy theo Cha Cần vô ở xứ đạo nào đó đâu tận Bà Rịa. Không còn phải nương dựa vào ai, gã quay sang làm thuê sau khi loay hoay dựng được túp lều cho hai mẹ con. Sáng sáng gã xuống Phú Phong gánh hàng cho mấy sạp chợ. Xế xế nai lưng xay bột cho mấy bà tráng bánh tráng. Chiều nắng sắp tắt thì gã chạy vội ra sông gánh nước uống cho mấy nhà dưới phố. Từ xưa tới nay cái kiếp đem sức trâu ra làm quần quật như vậy có mấy ai đã giàu đâu !? Gã nghèo. Có phải vì nghèo bị gái chê hay không mà bấy lâu gã vẫn chăn đơn gối chiếc. Nhưng lại có người nói rằng nghe đâu gã chẳng chịu ưng cô nào cả, gã chỉ muốn ở vậy để tự tay chăm sóc bà mẹ già tật nguyền của gã.

Người ta gọi gã bằng Ông cũng đâu phải vì người ta tôn trọng tuổi tác. Tôn trọng thế nào được với một gã có cái hành vi quái quỷ ấy với mấy chị em. Mà gã có lớn tuổi gì cho cam. Năm Việt Minh cướp chính quyền gã mới chừng chín mười tuổi. Xem ra dạo ấy gã cũng chỉ mới gần gần đâu cỡ bốn mươi. Cỡ chừng tuổi đấy là còn ở tuổi quân dịch, phải cầm súng ra trận, thế thì sao thuở ấy gã lại được ở nhà nhông nhông ngửi mông người ta. Đúng ra sau tiếp thu người ta cũng có bắt gã vô lính, nhưng chẳng mấy lâu thì cả xóm lại thấy gã chường mặt ở nhà.

Vào quân trường, bắt trườn thì gã trườn, bảo bò thì gã bò… Chỉ có cái hễ tới bữa là gã cầm chén cơm ngồi rũ ra như con gà ướt. Gã nhớ mẹ. Giữa chốn đông người, chung quanh ăn rào rào như tằm ăn lên mà gã không thể nào nuốt nổi. Ai cũng xúm lại chọc quê cái thằng mới rời vú mẹ, chẳng muộn gì cũng gầy như con cầy hương. Nhưng chuyện nuốt không trôi chỉ là chuyện nhỏ, nó chẳng suy suyển gì tới cái vai u thịt bắp của gã. Khi được người ta giao cho cây súng, lúc đầu gã ngắm nghía, săm soi nó như trẻ con săm soi cái bánh mẹ mua chợ về, tới chừng nghe tiếng nổ chát chúa phát ra từ cái đồ quái quỷ ấy là gã quăng nó xuống đất cái xạch. Run như thằn lằn đứt đuôi, gã nằm mẹp ôm lấy đầu khóc nức khóc nở. Rõ khổ ! Ra trận để bắn nhau, giết nhau. Ấy vậy mà cầm lấy cây súng, cầm tới trái lựu đạn là gã vứt quách đi thì làm sao mà giết được ai. Rồi cái thứ giết người ấy mà đụng đâu quăng đấy, không khéo cả lũ phải mang lấy vạ vào thân. Thế là gã được trả về nhà.

Về nhà rồi lại bị bắt đi, bắt đi vài bữa lại quay về nhà. Sau mấy bận y như vậy Xã Háo mới ra công làm giúp cho gã cái giấy hoãn dịch gia cảnh. Hoãn dịch vì là nhà con một, phải nuôi mẹ già đui mù. Được cái bùa ấy lận trong lưng, từ đó Hiến binh, Quân cảnh cũng quen mặt gã luôn, gặp gã trên đường chẳng ai buồn ngoắt gọi gã lại nữa.

* * *

Qua vậy Gã Bưởi có cái lý lịch tạm gọi cũng bình thường. Khi gã đi quẹt mông đàn bà con gái để ngửi mọi người cho đó cũng là thường tình, nên chẳng mấy ai thắc mắc, tốn sức tìm hiểu chi vì sao gã nảy ra cái tật dị hợm như vậy. Xem lại cuộc đời của Gã Bưởi thì hầu như luôn có bóng dáng của Xã Háo quanh quất ở một bên. Những gì gã có được, nói chắc như đinh đóng cột là đều từ Xã Háo mà ra.

Xã Háo đúng ra tên thật là Lê Hiếu, là một trong những nhà có máu mặt của làng Trinh Tường. Trước xưa hắn đã từng làm Xã ăn trước ngồi trên, người ta kiêng, phải cung kính gọi trại tên đi là Háo. Giống như làng Hiếu Nghĩa dưới kia xưa giờ người ta gọi là làng Háo Ngãi vậy thôi. Tất nhiên Xã Háo là người giàu có. Kẻ giàu người nghèo bao giờ cũng sống gắn bó với nhau. Làm chủ điền không thể không có tá điền. Những kẻ đã giàu lên, họ đâu có thiếu cái ngón nghề mượn lấy công sức, tận dụng cái ngây thơ chân chất của người ngờ nghệch sự đời.

Nhưng giàu nghèo sống chung nhau cũng có năm bảy đường sống chung. Sống với tá điền, Xã Háo kiểm soát cái bao tử người làm công cho hắn khéo tới mức phần chia cho họ chỉ vừa ăn đủ no. Bù lại, khi họ cần chi tiêu việc gì đó là gần như hắn sẵn sàng đến giúp. Giúp theo kiểu cho không. Năm Gã Bưởi oa oa khóc chào đời dưới túp lều mới lợp, tranh lợp túp lều ấy là của Xã Háo mua cho vợ chồng người tá điền – cha mẹ gã. Năm cha của gã mất vì chẳng may bị rắn độc cắn phải, Xã Háo sắm cho cái áo quan. Năm đói Ất Dậu vua Bảo Đại thoái vị, mẹ con gã không phải vất vơ vất vưởng cũng là nhờ vào sự đùm bọc của Xã Háo… Nói chung, tá điền đã nhận ở hắn khá nhiều ân điển. Họ ở với hắn giống như thần tử ở với vua, nếu vua giận đưa cho chén thuốc độc đi nữa bề tôi cũng cầm lấy mà miệng cứ hô vạn vạn tuế đã ban ơn.

Phải nói Xã Háo là người khéo sống. Chẳng vậy mà khi triều đại đổi đời, con trai cả của hắn đang học dưới Collège QuiNhon bỗng là một cán bộ Việt Minh dẫn bạn bè về xưởng dệt Delignon đưa tự vệ xuống thu ấn tín Tổng đốc Bình Định. Nhà hắn từ đó lúc nào cũng nườm nượp người có chức sắc ra vô. Những kẻ vô công rồi nghề mới vừa xỉa xói hắn sao lại thừa cơ đói kém đi bắt mẹ con Gã Bưởi về ở đợ giờ phải im thin thít, miệng câm như miệng hến. Cả làng Trinh Tường phải nể vì nhà Xã Háo. Nhưng những tháng năm dài kháng chiến sau đó chẳng một ai dám đến cầu thân với hắn. Út Tin, con gái rượu của hắn lúc ấy vừa tuổi xuân hơ hớ mà chưa ai đem cau trầu đến dạm hỏi.

Kể ra nhan sắc Út Tin của Xã Háo cũng dễ nhìn. Người ta cũng không tính gì chuyện Út Tin là phụ nữ của thời đại mới, mới quá cỡ. Người ta có thể làm lơ cảnh Út Tin hay nhảy đô mí sòn với đám dân quân. Làm lơ luôn cảnh cô thủ lĩnh đám thiếu nhi nầy thường hay dẫn bọn chúng leng keng mõ lon xộc vào từng nhà xem nhà ấy ngày đấy có ăn cháo, có nhín gạo lại để nuôi quân không. Làm lơ mọi thứ nhưng người ta không thể không dè chừng bà chị dâu của Út, vợ con trai thứ của Xã Háo. Hai vợ chồng trước cùng là tự vệ của xưởng Delignon. Năm bộ đội về đánh đồn Tú Thủy, anh chồng xung phong vô cảm tử quân và sau trận ấy đã không trở về, chị vợ vẫn khép nép ở trong nhà chồng nhưng ngoài làng miệng chị ta có gang có thép. Người miệng có gang có thép lúc đấy không ai gọi là quan nữa mà gọi là cán bộ, là đầy tớ của dân. Sợ bà cán bộ con dâu của Xã Háo. Người ta sợ luôn cả Út Tin vì cô đi đâu cũng có hình có bóng bà chị dâu bên cạnh.

Gã Bưởi chẳng thiết phải biết tới cán bộ nó là cái quái gì. Phụ nữ làm cán bộ thì có sao đâu. Chị dâu Út Tin làm đầy tớ của dân gì đấy chẳng phải đã đẩy đưa cuộc đời của gã đến chỗ sáng sủa hơn trước hay sao. Cũng đã khá lâu không ai dám gọi gã là thằng trai ở đợ mà gọi là người nhà của Xã Háo. Gã thấy gã ung dung thoải mái trong nhà Xã Háo, nhưng nếu nói sợ Út Tin… hình như gã cũng có sờ sợ. Chẳng biết người ta sợ có giống như kiểu sợ của gã hay không. Gã ở cho Xã Háo, gã biết Út Tin từ lúc cô còn tóc chỏm đuôi gà. Giờ không hiểu sao khi đứng trước mặt Út Tin, cặp giò của gã cứ run run, cái mặt cứ gằm xuống đất chẳng ngẩng lên nổi. Đã lâu rồi gã thấy sức trai đang khang khác trong người.

Còn nhớ hôm Xã Háo thủ thỉ với gã bên góc chuồng bò “Mầy rán chịu khó chịu cực đi, mai mốt tao gả Út Tin cho”, gã bỗng thấy mình chợt lớn phổng lên mà lại bồng bềnh nhẹ hểu như đang ở trên mây. Mấy khi nay ai gặp cũng gọi gã là thành phần cốt cán của xã hội mới, gã thấy người cũng nhẹ hều ra thiệt nhưng chẳng bằng khi nghe Xã Háo rót vào tai là sẽ gả Út Tin cho. Mỗi chiều lùa bò về chuồng, gã ngó quanh ngó quất xem có Út Tin đang xách nước ngoài giếng không. Lỡ có, gã lấm la lấm lét ngắm Út Tin nhoài người khom xuống giếng. Cái mông tròn lẳn đánh qua đánh lại, đung đưa theo nhịp sải tay bắt lấy dây gàu. Gã cứ ngẩn người ra trước cái mông dưới làn vải láng ấy. Sao ai đó lại bảo chổng mông vào mặt người ta là vô phép vô tắc chớ, quả là khe khắc. Sáng đi rong bò sớm gã cũng tạt vào bếp xem bóng hồng của gã đang có ở đó hay không. Kể ra ngày nào cũng gặp. Nhưng thiệt lạ, mỗi lần gặp, đố mà gã dám ngó thẳng vào mặt con gái út của Xã Háo. Gã chẳng hình dung ra nổi khuôn mặt của Út Tin. Có lần được đi họp thanh niên thanh nữ ngoài sân đình, Út Tin đang điều khiển cuộc họp, gã lom khom bò tới muốn nhìn cho rõ mặt. Dưới ánh đèn tù mù gã chỉ thấy được ánh mắt như dao sắc lóe trong đêm. Với gã, Út Tin là thần tượng để hằng đêm gã mơ gã tưởng. Mỗi lần nghĩ tới Út Tin, gã thấy cứ sao sao rạo rực trong người.

Những cái sao sao ấy lại sùng sục thêm lên vào một đêm trăng mùa làm mía. Sau đêm ấy gã mê mê mẩn mẩn, cứ thấy tê tê thế nào trong bụng ấy. Gã đã từng rủa thầm sao trăng đêm đó không sáng hơn lên. Nhiều khi gã chép miệng tiếc rẻ, tức cho mình đêm đó sao lại ngái ngủ quá vậy.

Làm mía nấu đường mà không ngái ngủ mới là lạ. Ngày xưa làm ra được cục đường là thấy rạc cả người. Đường ngọt nhưng làm ra nó mồ hôi đổ mặn chằn. Dựng lò, đặt che, đốn mía, róc lá, cho che ăn, chụm lò, phơi bã…, đủ thứ những trời ơi đất hỡi ngốn lấy công sức con người. Chỉ cần một công đoạn đứt lìa, mía chạy chè, đường không đứng là coi như công sức cả năm trời đổ sông đổ biển. Làm mía phải làm liên tục, hết công đoạn nầy là tiếp liền công đoạn nọ. Quần quật làm bất kể ngày đêm nên ai mà chẳng mệt đừ. Sức trai như trâu cũng phải đuối, dụi được chỗ nào là lăn ra ngủ chỗ đó. Được ngủ là ngủ như chết, nếu có ai đấy đái vô mặt chắc gì đã tỉnh ra đâu. Làm mía nấu đường thì lấy gì có tỉnh táo mà gã tiếc với không tiếc.

Đêm ấy được người tới thay phiên chụm lò, chảo mới vừa xuống lắng nước chè hai, Gã Bưởi lảo đảo bước ra sân phơi bã. Trăng hạ tuần xê xế trên đỉnh đầu, trời hơi có chút sương, trong cửa lò vừa bước ra nên gã chợt thấy lạnh. Che ăn chỉ vài nhả mía nữa là nghỉ, chắc rồi mấy bà sẽ dọn bữa lót dạ khuya, chẳng thiết gì, gã chui vào lùm nhãn bên bờ rào. Gã muốn ngủ. Ngủ sướng hơn ăn.

Nằm xuống là ngủ mê ngủ mệt nên gã đâu biết được là sau đó không mấy lâu, một bóng người từ lò mía bước ra chỉ thoáng ngó quanh ngó quất hai bên rồi xăm xăm bước lại bờ rào trật quần ngồi xuống. Gã Bưởi ú ớ thức giấc, nước xối như tuôn vào chỗ gã nằm. Chắc nín nhịn lâu nên giờ bung ra tiếng nước kêu xè xè rõ to. Nước vã đầy cả mặt gã. Gã vuốt vuốt mặt, dụi mắt cố nhướng lên nhìn cho được chỗ nguồn nước phun ra. Bóng người thấy động giật mình đứng dậy kéo quần qua khỏi mông bước như chạy vào trong trại lò. Dưới bóng trăng mờ thoáng ánh quần Mỹ A đen láng bóng. Gã Bưởi ngồi bật dậy. Út Tin. Lâu nay chỉ có gái út của Xã Háo mới là người có và dám mặc loại quần lĩnh sang trọng nầy. Gái trong làng bấy lâu thô cứng trong lớp vải sita nặng trề nặng trịch. Đứng bên cạnh, gã thấy cái thô ráp ấy truyền qua chẳng làm cho gã muốn khụy xuống như lúc đứng bên cạnh Út Tin. Gã Bưởi ngẩn ngơ nhìn ánh quần Mỹ A lấp lánh. Gã nhẹ đưa tay lên mũi ngửi. Gã hít lấy hít để như sợ cái mùi nó bay biến đi mất.

Tới mấy tuần liền Út Tin tránh không gặp mặt gã. Từ trước tới giờ gã có biết ngẩng đầu, có dám ngước nhìn lên mặt ai đâu mà phải né. Hồi giờ gã chỉ ngó xuống, chỉ thấy chỉ biết cái màu đen láng bóng của cái quần. Nay gã biết thêm được cái mùi bên trong cái quần ấy. Người ta nói nước đái đàn bà có mùi khai như nước đái ngựa. Gã thấy không phải. Nhưng gã không biết phải diễn tả thế nào cho người ta biết cái không phải ấy nó như thế nào. Thôi thì kêu khai cũng được. Gã thấy nhơ nhớ cái mùi khai ấy. Một đêm bước qua sân cát nhà Xã Háo, trên dây phơi đồ giăng trong góc tối, gã thấy có mấy bộ áo quần. Gã nhận ra ngay chúng là của Út Tin. Một chút ngập ngừng, ngó quanh chẳng thấy ai, Gã Bưởi bước lại vùi mặt vào cái quần đen mà hít hít. Gã ôm cứng lấy nó như không muốn rời ra. Gã không biết rằng phía đằng sau tấm phên Xã Háo đang đứng yên lặng cười mỉm.

Xã Háo là người thiệt giỏi xoay sở. Trong lúc mọi người ăn nhín nhịn thèm, hắn lúc nào cũng ăn trắng mặc trơn. Trong thời buổi vác một bao bạc xuống hạ bạn chỉ mua được vài con cá mòi, chẳng hiểu bằng cách quái nào mà hắn rinh về cả một bầy bò giao cho Gã Bưởi tự do thả rông trên Hòn Đất. Gã Bưởi nay một mình một cõi cùng cái trảng núi nằm lum lúp dưới chân Hòn Ông Đốc làng Trinh Tường. Xã Háo cười hơ hớ với gã “Mầy coi ngó cả một hòn núi, chừng đi làm giấy hộ tịch tao khai cho mầy tên là Lê Trấn Sơn nghe chưa”. Tên nào lại chả là tên. Kẻ không làm nên trò trống gì với đời như gã, đời sẽ gọi chết cái tên có từ hồi nhỏ mà cha mẹ đã đặt cho.

Một mình làm chúa hòn núi Đất nhưng chung quanh chỉ với bầy bò, Gã Bưởi buồn không biết nói chuyện với ai. Gã muốn hỏi ai đó cho rõ chuyện. Nghe đâu dưới hạ bạn nhiều gia đình trước kia lừng lẫy giờ thường kết thân, gả con cho những kẻ nghèo mạt hạng như hắn để được hạ thành phần, cho nhẹ bớt cái bậc phú nông, địa chủ trầy trụa sống dở chết dở. Gã hy vọng lắm. Nhưng kể từ ngày ở đây trấn hòn núi, gã chưa hề gặp lại được Út Tin. Bò nay cả bầy, tinh sương gã phải lùa chúng lên núi, tối mịt mới về được tới nhà, ngó quanh ngó quất, vẫn như mọi khi chẳng thấy bóng dáng Út Tin đâu. Gã bức rức trong người lại thấy chút thấp thỏm lo âu. Gã sợ gã chẳng rờ được tới cái chân con gái út của Xã Háo.

Rằng y như vậy. Có lần gã thấy cả làng rần rần. Có chuyện gì ấy xôn xao giống như hồi dân làng được dẫn lên An Khê giúp bộ đội thu chiến lợi phẩm, những thứ của thằng Pháp nào đấy thua chạy như vịt đã bỏ lại. Lần nầy giữa trăm tiếng xầm xì, Gã Bưởi thoáng nghe ai đấy nói Út Tin cùng đi với bà chị dâu tập kết ra Bắc. Gã chẳng biết tập kết nghĩa là làm sao, ra Bắc là đi đâu, nhưng gã thầm nghĩ chắc là đi xa, xa lắm. Đánh bạo, có lẽ là lần bạo gan duy nhất gã dám đi hỏi Xã Háo. Xã Háo buông thõng “Út Tin tao bệnh, nó đi chữa bệnh dưới nhà thương Quy Hòa”. Gã cũng chưa biết cái nhà thương Quy Hòa đó nó ở đâu, nhưng gã biết gã khó mà gặp được Út Tin nữa.

Tiếp thu, lính về đầy ở dưới Phú Phong. Lính ngày nào cũng ăn thịt chớ không ăn cơm vắt muối mè như bộ đội lúc trước. Bầy bò của Xã Háo lại bỗng được việc, chúng được bán lần lần nhưng đem lại khối tiền cho Xã Háo và cũng mang lại cái thảnh thơi hơn cho Gã Bưởi. Lại đổi đời. Xã Háo thốt nhiên quay ra mộ đạo, chủ nhật nào hắn cũng cần mẫn xuống nhà thờ vừa mới xây bên kia đầu cầu Phú Phong, trên khuôn viên xưởng dệt Delignon đã tan hoang thời vườn không nhà trống.

Một sáng chủ nhật nọ Gã Bưởi cùng với Xã Háo xuống Phú Phong đi lễ nhà thờ. Trong lúc Xã Háo lo xưng tội gì đó với Cha Cần, gã lén ra đu xe đò đi Quy Nhơn. Gã đã hỏi thăm biết chỗ cái nhà thương Quy Hòa. Nhưng tăm cá mịt mù, gã chẳng tìm ra đâu bóng dáng của Út Tin. Rồi mẹ gã bỗng ngã bệnh, chẳng ít lâu sau mắt không còn thấy đường được nữa. Còn gã lại bần thần đi tìm mùi hương ngày nọ. Ngày ngày xuống chợ Phú Phong, gã miệt mài kiếm tìm mùi hương đó trong những cái quần lĩnh Mỹ A.

* * *

Ở với người mẹ tật nguyền, Gã Bưởi một lòng chăm chút cho mẹ. Hình như chẳng cô dâu nào thay thế được đứa con trai của bà. Hằng ngày gã chăm cho bà từng chén cơm muổng cháo, đêm đêm quạt muỗi dắt mùng cho bà rồi mới yên tâm đi nằm. Không biết đã mấy năm trời rồi gã lo cho mẹ như vậy, ngày nào cũng như ngày ấy. Không ai dám chê bai gã cả.

Một hôm nọ mẹ của gã cảm nặng. Bà muốn ăn cháo. Lục đục rửa nồi, gã nghe tiếng mẹ lơ mơ nói trong hơi thở mệt nhọc :

– Tao muốn ăn cháo lòng của con Que.

Gã Bưởi khoát mùng lại ngồi bên mẹ. Trán của bà còn đẫm mồ hôi. Gã nghe bà lẩm bẩm trong cơn mê :

– Con Que là đứa có hiếu. Đứa có hiếu biết chăm chút món ăn cho người già nên thường nấu ăn ngon. Cháo nó bán ngày nào hết ngày đấy. Cháo nó ngon.

Chẳng nói chẳng rằng, Gã Bưởi cầm lấy tô mở cửa bước vào màn đêm. Gà mới vừa gáy chặp đầu, trời vẫn còn lấp lánh ánh sao. Nhà của bà Que xê xế cửa nhà thờ ở phía dưới cầu Phú Phong. Trời cỡ chừng nầy lính Đại Hàn giữ cầu chắc là chưa mở rào chắn, Gã Bưởi lần đường đi xuống bến chài. Băng ngang qua đường vô Đồng Lẫm, gã bước xuống sông Đá Hàng. Cởi áo gói cái tô vào trong, gã khuấy nước lội qua sông.

Ánh đèn pha trên cầu chợt bật sáng lên chiếu thẳng vào chỗ gã. Gã vẫn cứ đạp nước lội qua. Gã phải mua cháo bà Que cho mẹ. Bấy lâu mẹ gã thích cái gì thì gã đều làm cho bà, làm cho bằng được mới thôi. Nước sông từ Hầm Hô chảy ra mang theo khí đá lạnh lẽo, nhưng Gã Bưởi chẳng thấy lạnh chút nào. Tay cầm tô vẫn giơ cao lên trời, tay còn lại gã vẫn sải cánh bơi. Ánh đèn pha rê theo. Gã nghe có tiếng súng nổ.

Gã Bưởi chết. Sáng ra người ta thấy tay gã vẫn còn cầm chặt cái tô đi mua cháo cho mẹ. Đáng thương. Nhưng kể ra gã chết thế nầy còn hơn là chết mê chết mệt đi tìm mùi nước đái ngày nọ mà chưa biết bao giờ mới tìm thấy nó. Không cần biết vì sao ở Phú Phong người ta gọi gã bằng ông mà không hề gọi là thằng. Gã chết vì tô cháo cho mẹ cũng đáng để cúi đầu gọi gã bằng Ông.

Ông Bưởi chết hình như đâu quãng cuối tháng một năm một nghìn chin trăm bảy ba. Bận ấy cuối tháng chạp năm Nhâm Tý. Trời sắp Tết.

PHAN TRƯỜNG NGHỊ

NHỮNG LÍNH NGA TỐT SỐ Ở SÀI GÒN

truongnghi

Đó là những thủy thủ của Tuần Dương Hạm Diana trong cuộc chiến tranh Nga – Nhật đầu thế kỷ trước. Gọi tốt số cũng được. Mà gọi là có số phận may mắn hơn đồng đội cũng được. Vì cái may cái rủi, cái sống cái chết của người chiến binh chỉ trong đường tơ kẽ tóc giữa mũi đạn làn tên.

Tuần dương hạm Diana của Đế chế Nga vào những năm đầu thế kỷ trước đã tham gia hạm đội Thái Bình Dương để tăng cường uy lực hải quân Sa hoàng ở vùng Viễn Đông. Nguyên sau cuộc chiến Thanh – Nhật, theo hiệp ước Mã Quan ký kết giữa nhà Thanh và Nhật Bản vào năm 1895 thì bán đảo Liêu Đông trong đó có hải cảng chiến lược Lữ Thuận (Port Arthur) được nhường cho Nhật, nhưng Nga liên kết với Đức và Pháp uy hiếp Nhật từ bỏ phần đất nầy. Nhật Bản ngậm đắng nuốt cay nhượng bộ. Chỉ mấy năm sau thì Nga được nhà Thanh dành cho quyền làm đường xe lửa ở Mãn Châu, được phép đóng quân và khai thác Cảng Lữ Thuận.

Năm 1903 cảng Lữ Thuận được người Nga xây dựng thêm, căn cứ được mở rộng, tàu chiến được điều từ Đại Tây Dương bổ sung cho hạm đội Thái Bình Dương phô trương thanh thế, diễu võ dương oai ở Viễn Đông. Chịu hết nổi, tháng 2 năm 1904 Nhật Bản tuyên chiến, cho các tàu khu trục đánh đắm tàu Nga.

Nga hoàng phái Đô đốc Makharov sang Thái bình dương thay thế Đô đốc Alekseev đối phó hải quân Nhật. Ngày 13.4.1904 kỳ hạm Petropavlov bị thủy lôi của Nhật nổ tung chìm xuống biển, mang theo xác Đô đốc tài danh Makharov. Trên bộ lục quân Nhật đánh chiếm Đại Liên, cắt đứt bán đảo Liêu Đông với cảng biển. Dưới nước hải quân Nhật bao vây phong tỏa, bít đường ra khơi của hạm đội Thái Bình Dương. Quân Nga khốn đốn ở Lữ Thuận. Ngày 10. 8.1904, trong một trận phá trùng vây, kỳ hạm Tsarevits trúng đạn bốc cháy, Đô đốc Whitev vừa kế nhiệm bị tử thương, hạm đội Thái Bình Dương của Nga bị đánh chìm tổn thất nặng nề. Tuần dương hạm Diana may mắn chỉ trọng thương, không chạy về được Hải Sâm Uy (Vladivostok), Diana thoát xuống phía nam xin cư trú ở Sài Gòn. Nơi đây Diana bị chính quyền thuộc địa Pháp tước vũ khí, quản thúc thủy thủ đoàn.

Tuần dương hạm Diana ở lại Sài Gòn hơn một năm. Mãi đến tháng 11.1905 Diana mới được phép tháp tùng với một số chiến hạm còn sót lại của hạm đội Baltique sang cứu viện bị thất trận tan tác (tháng 5.1905) ở eo biển Đối Mã (Tsoushima) cùng quay về Đại Tây Dương. Nhưng 12 (!?) thủy thủ của Diana phải nằm lại ở đất Sài Gòn. Họ đã mất vào năm 1905. Mất “vì vết thương trong cuộc chiến với Nhật Bản” hay “vì khí hậu bất thường” (dịch bệnh !?).

Dù sao thì những người lính Nga của Sa Hoàng Nicolas II nầy được xem là tốt số.

Người chiến binh ra sa trường phải chấp nhận da ngựa bọc thây, biển cả được xem là mồ chôn của lính thủy. Những lính thủy của tuần dương hạm Diana tốt số hơn đồng đội, họ đã được chôn cất tử tế trên đất liền ở Sài Gòn. Khoảng năm 1985 – 1986, nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi ở Sài Gòn giải tỏa để thành lập công viên (công viên Lê Văn Tám bây giờ) và xây dựng trạm viễn thông Hoa Sen, hài cốt của những lính thủy Nga nầy được dời về nghĩa trang Lái Thiêu, nằm sát bên tỉnh lộ 743, phường Bình Hòa, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương.

Số phận của những lính thủy Nga thời đầu thế kỷ trước nầy thật may mắn. Danh tính của 8 người trong họ được xác định. Mộ họ được xây dựng như một đài tưởng niệm bề thế ở nghĩa trang Lái Thiêu, được chăm sóc chu đáo. Trong khi đó ngay trên đất nước Việt Nam, nhiều chiến binh đã nằm xuống vì bảo vệ biển đảo, lãnh thổ mà chưa được thừa nhận công khai. Qua rồi mấy mươi năm, sau ly loạn lửa binh vẫn còn biết bao mồ chưa yên, mả chưa đẹp. Mộ bia đã đều như nấm mà đến nay vẫn còn phải ra công tìm mộ đồng đội.

Chiến tranh và di hại của chiến tranh thật là đau lòng, nhức nhối…

DSCN3195

Cúc nguyệt, Giáp Ngọ niên
Phan Trường Nghị

TIẾNG GẦM TRONG CUNG CẤM

truongnghi

Già Lạc lặng lẽ bước ra đường, cánh cửa Am nhẹ khép phía sau lưng nhưng giữa đêm thanh vắng nên cũng gây thành tiếng động rõ to. Mùi hương trầm đuổi theo thoang thoảng như còn muốn níu lấy đôi chân Già nán lại chốn thiền thêm chút nữa. Già thầm trách mình sao lắm chuyện. Chỉ mỗi một câu chuyện cần phải hỏi, rồi chuyện vãn kéo dài đến nỗi Già quên cả giờ giấc. Sư cụ Am Tịnh Liên sau thời kinh chiều cũng mải mê đàm đạo với Già bỏ cả nghỉ ngơi. Nếu đêm chưa khuya, chắc Già cũng chưa phải quay gót.

Ngẩng lên nhìn trời, Già Lạc thấy sao Cày đã lên quá trên đỉnh đầu, trăng thượng tuần xê xế phía Tây bóng khuất sau tàu cau cao. Mọi thứ chung quanh chìm trong yên ắng. Già Lạc trầm ngâm đạp lên cái bóng đổ dài của mình trên đường. Chốc nữa thôi. Cũng đã sắp tới giờ nghe tiếng Hổ gầm phát ra từ phía Hoàng cung.

Hôm trước đem củi vào bán trong chợ Hoàng thành, Già Lạc nghe được tin ngọc thể của Hoàng thượng chẳng ổn. Không hiểu sao mình mẩy Vua bỗng ngứa ngáy sinh ra đầy lông lá. Hình như các Ngự y trong cung không biết đó là căn bệnh gì, tất cả đều bó tay trước hình dạng quái ác của nhà Vua. Người trong Hoàng thành còn tán với nhau là khi mấy đại quan vào vấn an, Vua vụt chồm lên chụp phải một người nhe răng cắn lấy cắn để. Cả triều thần đều một phen kinh hoảng. Từ ấy đến nay, hằng đêm người ta nghe tiếng gầm gừ vang ra từ chốn hậu cung. Thoạt đầu chỉ nghe lơi lơi tiếng hừng hực, nhưng càng về sau thốt lên thành tiếng gầm xé tai của loài dã thú chốn sơn lâm. Mọi người cho là Vua đã hóa thành Hổ.

Già Lạc chợt bật cười thầm. Bấy lâu nay lăn lộn với núi rừng, không chỉ với Thỏ Sóc Hươu Nai…, Già đã từng gặp gần như đủ hết các loài ác thú. Giờ Già bỗng muốn được thấy bóng dáng con người trong hình hài của Chúa sơn lâm. Không khéo lại phạm húy mất. Nhưng nói để mà vui chớ với kẻ thường dân như Già dễ gì diện kiến được long nhan. Mà kể ra cũng lạ, chuyện người hóa Hổ biết được trong đời Già, lần nầy có phải là lần thứ nhất đâu.

Bốn mươi, bốn mốt năm về trước, quãng ấy Già chừng đâu được hai lăm, hai sáu, thuở mà vợ chồng Già mới xuôi về đây che tạm cái lều bên lạch Phù Khê, Già thường theo cửa Quảng Phúc vào ra Hoàng thành đổi chim muông lấy gạo lấy mắm. Già còn nhớ dạo đó cả Thành râm ran câu chuyện người hóa Hổ muốn hại Vua lan ra khắp ngõ hẻm hang cùng. Năm ấy Tiên đế Lý Nhân Tông đang ngự thuyền ở Dâm Đàm xem đánh cá, trời bỗng chợt nổi mây mù mịt mà chung quanh lại có tiếng mái chèo rào rào bơi sát bên thuyền Rồng, Vua sợ có biến nên lấy giáo từ bọn thị vệ ném ra. Mây mù theo đó lắng tan nhưng mọi người hoảng kinh thấy trên thuyền tự nhiên xuất hiện một con Cọp dữ. Người đánh cá vội lấy tay lưới chụp trùm lên con thú. Khi định thần nhìn rõ thì té ra con thú trong lưới đó lại chính là Thái sư Lê Văn Thịnh. Sau nghe đâu triều đình bắt tội là Thái sư học được phép lạ hóa ra Hổ định làm chuyện thí nghịch, nhưng Tiên đế xét vì Thái sư đã có nhiều công trạng với đất nước nên chỉ đưa đi an trí trên miệt Thao Giang.

Già Lạc chép miệng thở dài. Thuở trước là Thái sư, dạo nầy lại là Hoàng thượng. Sao vậy nhỉ. Người hóa thú không phải Quan thì cũng là Vua, không phải kẻ cầm cân nẩy mực thì cũng là người có quyền uy tối thượng !

Xa xa phía trước bóng Hoàng thành chìm dưới chân trời. Ánh trăng mờ mờ soi chẳng rõ đường đi nhưng Già Lạc vẫn rảo bước. Mấy khi nay Già đã vốn quen đi lại, đã quen từng vạt cỏ bờ cây trên đường nầy. Nơi sơn thôn hoang dã lèo tèo mấy nóc nhà, chỉ riêng Già là thường qua lại chốn vắng vẻ nầy để hầu chuyện cùng với Sư cụ Am Tịnh Liên. Am Tịnh Liên chỉ là một mái lá nhỏ dựng bên bờ đầm chừng ba năm nay. Sư cụ là người trước đây như thế nào, ở đâu về đây… Lâu nay Già không tiện hỏi hay đúng hơn là không muốn hỏi. Già chỉ cần biết khi bước vào thảo am của Sư cụ xem có vẻ nghèo nàn so với những ngôi chùa Phật vàng tráng lệ do triều đình xây dựng trong thành, nhưng chỉ có ở đây Già mới thấy mình phiêu phiêu như ở giữa chốn hư vô. Già chỉ cần biết khi tiếp chuyện cùng Sư cụ với bao nhiêu chuyện trên đời không riêng gì là chuyện của cửa thiền, Già thấy mình như nhẹ hẳn ra sau những nhọc mệt với công việc hằng ngày. Nhưng đêm nay… Đêm nay trên đường rời thảo am trở về nhà, Già thấy vẫn còn cái gì đó chưa làm thanh thản được bước chân. Tại sao những người đầu tắt mặt tối như Già không sinh ra chuyện hóa thành ác thú như vậy. Rồi trong hình hài ác thú, con người có hay không có bản tính của con người… !? Già chưa kịp hiểu hết những gì lúc nãy Sư cụ đã nói.

Đang rảo bước Già Lạc bỗng dợm chân đứng lại. Một bóng đen thoáng vụt qua lao biến trong màn đêm dao động cả tàng cây bên đường. Phía trước mặt là một khe nước cùng với nhịp chân chạy vừa rồi, Già biết chắc bóng đen lúc nãy hẳn là một con nai tơ. Ừ, nếu con nai vừa rồi là một con nai trắng thì hay biết mấy. Nếu muốn Già sẽ theo dấu nó đến cùng và chẳng muộn gì nó sẽ dính bẩy sập của Già. Chẳng cần phải dùi mài kinh sử như Thái sư tiền triều làm gì, chẳng cần chi phải đeo đuổi khoa cử, vì dưới triều Hoàng thượng hiện nay đã có lắm người được triều đình ban tước lộc chỉ nhờ vào mỗi một việc là dâng lên cho Vua những con rùa, con chim, con hươu trắng…

Già Lạc soải chân bước qua khe nước rộng. Nói cho cùng, việc Hoàng thượng ưa điềm lành thích vật lạ đâu có gì đáng để phải tán chuyện. Hồi nhận được báo tiệp của Thái phó Lý Công Bình ở Châu Nghệ An phía nam gởi về, Hoàng thượng xa giá đến tận các kiểng chùa, các đạo quán trong thành để lạy tạ ơn trên đã ngầm giúp cho Thái phó thắng giặc. Điều đó tỏ thấy Hoàng thượng rất sùng đạo, đắm vào đạo hơn cả Vua cha. Cả Hoàng thái hậu tiền triều là Linh Nhân Hoàng hậu Ỷ Lan được tiếng mộ đạo cũng chẳng thể so bì. Già Lạc trầm ngâm. Thế thì nay sao Hoàng thượng lại hóa thành ác thú cuồng loạn cắn xé làm ai cũng phải sợ, triều đình phải sắm “kim lung” cho Hoàng thượng ở tạm trong đó. Sao vậy nhỉ !?
* * *
Ánh đèn tờ mờ trong nhà không đủ sáng để xuyên qua phên liếp thưa. Tiếng con Mốc rít khe khẽ ở bên trong. Già Lạc vừa đẩy tấm phên bước vào nó đã quắn quíu vẩy đuôi, dụi đầu quấn lấy chân Già.

– Ông nó về rồi đấy à.
– Bà nó cũng chưa ngủ sao.
– Mới vừa hãm ấm nước đấy, lấy Ông nó uống nghe.

Nhìn bọt nước lá vối lăn tăn nổi trào trên miệng bát đất, Già Lạc hít một hơi dài lắng nghe cái mùi ngai ngái của lá vối đậm hơi khói bếp xông sâu vào trong lồng ngực. Mùi sương đêm hầu như đã rũ bỏ hết bên ngoài sân. Mấy mươi năm rồi vợ chồng Già đạm bạc bên nhau, nó nồng nồng, chan chát nhưng lúc nào cũng quyện sánh như màu sắc cùng mùi vị của bát nước lá vối.

– Sao Bà nó không uống cùng.
– Ừ, Ông nó uống trước đi. Tiếng trong cung đêm nay… có vẻ muộn hơn mọi khi Ông nó nhỉ !?

Có vẻ là vậy, Già Lạc ngập ngừng đưa bát nước lên môi. Hoàng cung là nơi quyền quý cao sang, chắc Hoàng thượng chưa từng dùng tới thứ nước dân dã nầy. Nghe đâu thiên hạ cho rằng Hoàng thượng chính là hóa thân của Đức Thánh Láng Từ Đạo Hạnh. Già còn nghe nói Đức Thánh Láng trước khi hóa có bảo cùng đồ đệ rằng vì túc nhân chưa hết nên phải thác thai vào cung ! Già chưa thấy hết sự huyền diệu của đạo pháp nhưng dưới cặp mắt tục thế của mình, Già nghĩ đã bước vào chỗ chức quyền là nơi phải chấp lấy sự quyết liệt chốn trần đời. Nơi ấy, dễ gì Hoàng thượng đã có được cảnh ấm cúng như Già nâng bát nước mà vợ của Già vừa mới rót cho. Chốn quan trường, chỗ triều trung là nơi cuốn xoáy cuộc sống của tứ dân. Thế nào mới gọi là đủ đạo hạnh để bước vào nơi hiểm ác đó mà vẫn ung dung, thanh thản. Rong chơi trong cõi tồn sinh, dễ gì đạo hạnh thắng được cám dỗ của hưởng thụ và quyền lực… Già Lạc thấy mình như càng lúc càng đắm chìm vào những vướng bận không đâu.

– Ông nó nè, tiếng nó… đấy.

Già Lạc tỉnh người khẽ buông bát nước xuống bàn. Xa xa phía hoàng cung đã vọng đến tiếng gầm của hằng đêm. Ban đầu còn văng vẳng, càng lúc tiếng càng rõ dần. Ban đầu thưa từng tiếng một, càng lúc tiếng càng dồn dập xé màn đêm. Đã chờ đã quen lắng nghe nhiều đêm rồi, Già bỗng nhiên thấy tiếng chúa sơn lâm đêm nay nó khang khác làm sao ấy. Tiếng gầm vang rõ sức thị uy nhưng chất chứa niềm cô độc, có cái gì đấy bi thương, dằn xé ở bên trong. Con Mốc dưới chân Già không nép mình mẹp dí xuống đất giống mấy đêm trước, nó nhổm dậy như muốn cất tiếng sủa lại. Già Lạc nhẹ tay vỗ vào đầu nó mấy cái. Con Mốc lặng lẽ bò sang nằm bên ngạch cửa. Già chợt thừ người ra nhớ lại bài kệ mà Sư cụ Am Tịnh Liên bảo rằng đó là của Đức Thánh Láng. Sao nhỉ, đại khái là :

Cho rằng Có thì cát bụi đều Có
Cho rằng Không thì hết thảy đều Không
Có và Không giống như trăng dưới nước
Chớ chấp vào Không là Có hay Không

– Sao vậy ! Sao Ông nó thừ cả người ra vậy !

Vợ của Già lặng người. Bà thấy hình như Già không nghe tiếng của bà hỏi, hình như Già cũng không nghe tiếng gầm nơi cung cấm còn vang vọng tới. Bà thấy rõ rằng Già đang để tâm lắng nghe tiếng nói ở trong Già.

PHAN TRƯỜNG NGHỊ

NGÀY TIẾT THANH MINH – ĐỌC LẠI “THANH MINH” CỦA ĐỖ MỤC

truongnghi

Thanh Minh là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt của Đỗ Mục, một thi gia thời vãn Đường. Ông cùng với người cùng thời là Lý Thương Ẩn được đời sau xưng tụng là Tiểu Lý – Đỗ. Gọi để phân biệt với Lý – Đỗ, thi tiên và thi thánh thời thịnh Đường Lý Bạch và Đỗ Phủ. Qua bài phú Cung A Phòng (A Phòng Cung Phú) của ông, người đọc dễ nhận thấy ngòi bút ông vạch rõ thói hoang dâm, phung phí hưởng lạc của giới cầm quyền thời bấy giờ. Đọc qua bài thơ Thuyền Đậu Bến Tần Hoài (Bạc Tần Hoài) cũng dễ nhận ra trong ông nỗi ưu thời mẫn thế, lòng ray rức trước cảnh người đời hát xướng ăn chơi, lơ mơ trước mối hờn nước mất (thương nữ bất tri vong quốc hận / cách giang do xướng Hậu đình hoa). Nhưng với Thanh Minh, có thể có nhiều người đã chưa thấy rõ nỗi đau đứt ruột của ông trước tình đời.

Giai thoại văn chương Việt Nam còn ghi truyền chuyện các cụ nhà ta trước đây đã ngắt câu, biến bài thơ Thanh Minh của ông thành một bài ngũ ngôn tứ tuyệt.

Nguyên văn bài Thanh Minh của Đỗ Mục :

Thanh minh thời tiết vũ phân phân
Lộ thượng hành nhân dục đoạn hồn
Tá vấn tửu gia hà xứ hữu
Mục đồng dao chỉ Hạnh Hoa thôn.

Tiết thanh minh trời mưa rơi lất phất
Người còn đi trên đường buồn muốn đứt ruột
Ướm hỏi thử nơi nào có quán rượu
Trẻ chăn trâu chỉ về phía xa xóm Hạnh Hoa

Các cụ cho rằng bài thơ trên rườm rà, thừa chữ. Thừa ít nhất 2 chữ mỗi câu. Các cụ lý luận rằng : “Thời tiết vũ phân phân” đã đủ diễn tả cảnh mưa bay, không nhất thiết phải của tiết Thanh Minh. “Hành nhân dục đoạn hồn” cũng đã đủ nghĩa, cần chi có 2 chữ Lộ Thượng, đi trên đường chớ không lẽ đi dưới nước. “Tửu gia hà xứ hữu” vốn đã là câu hỏi, thêm Tá vấn là thừa ! “Dao chỉ Hạnh Hoa thôn”, ai chỉ cũng được, lẽ gì phải nói rõ Mục đồng, đứa trẻ chăn trâu kia mới chỉ cho cái quán rượu… Thế là các cụ ra tay ngắt phứt những chữ mà các cụ cho là thừa kia để thành một bài mới :

Thời tiết vũ phân phân
Hành nhân dục đoạn hồn
Tửu gia hà xứ hữu
Dao chỉ Hạnh Hoa thôn.

Trời mưa bay lất phất
Người đi lạnh mất hồn
Hỏi nơi nào bán rượu
Được chỉ Hạnh Hoa thôn

Xem ra cái bài mới nầy không phải là không có nghĩa, đọc thấy cũng lý thú. Nhưng Giai thoại ghi lại chuyện vui chỉ để mà vui, gượng gán bài thơ chỉ để minh chứng cho tinh thần không nên quá lệ thuộc cổ nhân của các cụ. Thật ra với tiêu đề bài thơ là Thanh Minh, Đỗ Mục đã trải nỗi lòng lúc tiết Thanh Minh, lấy bối cảnh ngày tiết Thanh Minh mà xét thì những gì mà các cụ cho là thừa kia chẳng thừa một chút nào.

Trong tâm thức của người Hoa cũng như người Việt xưa, tiết Thanh Minh được xem là ngày Tết của cõi Âm, cũng là ngày hội du xuân của nam thanh nữ tú sau rét mướt mùa Đông, sau tháng ngày sang Xuân mà tiết trời vẫn còn âm u, ướt át (Vũ Thủy) :

Thanh Minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh
Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân …
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Đến tiết Thanh Minh – tiết khí trong sáng trời quang mây tạnh, lúc nầy cỏ non đã xanh dợn chân trời, là lúc mà cháu con phải lo tu tảo, thắp nén nhang cho mộ phần Tiên tổ. Thế ấy thì trong Thanh Minh của Đỗ Mục, đã tiết Thanh Minh rồi mà mưa vẫn còn lất phất bay, người vẫn còn đang ở trên đường (Lộ thượng), còn xa nhà, hỏi sao người chẳng vương phải nỗi buồn muốn đứt ruột. Thiếu 2 chữ Thanh Minh ở câu đầu (câu khai), thiếu 2 chữ Lộ thượng ở câu 2 (câu thừa), là không thấy sắc nét nỗi đau của khách hữu tình không có mặt ở nhà trong ngày Tết cõi Âm. Nỗi đau mà Nguyễn Trãi đã nói rõ hơn trong bài thất ngôn bát cú Thanh Minh của ông :

Nhất tòng luân lạc tha hương khứ,
Khuất chỉ thanh minh kỷ độ qua.
Thiên lý phần doanh vi bái tảo,
Thập niên thân cựu tẫn tiêu ma …

Từ khi lưu lạc quê người đến nay,
Bấm đốt ngón tay tính ra tiết thanh minh đã mấy lần rồi.
Xa nhà nghìn dặm không săn sóc phần mộ tổ tiên được,
Mười năm qua bà con thân thích đã tiêu tán hết …

Hiện nay dù ở xa cố quốc, một số người Hoa ở Việt Nam vẫn còn giữ được phong tục tu tảo mộ phần Tiên tổ trong ngày tiết Thanh Minh. Nhưng một số khác như người Hải Nam lại lấy ngày tiết Đông Chí làm ngày tu tảo, giống như người Việt, bộ tộc Lạc Việt của tộc Bách Việt phía Nam Trường Giang từ lâu nay vẫn còn giữ được cách thế sống tự nghìn xưa. Tháng chạp là tháng sau tiết Đông Chí, người Việt thường chạp mả Ông bà để Ông bà thảnh thơi về ăn Tết Nguyên Đán với cháu con. Đến tháng ba, không những đi thăm phần mộ Tổ tiên sau tháng ngày tiết trời ướt át, hỗn độn cỏ lau, người Việt còn mang cuốc rựa sang sửa những mả mồ lâu nay không có người nhang khói. Mỗi xóm của làng quê xưa Việt Nam trước đây đều có Miếu Thanh Minh. Đến ngày tiết Thanh Minh cả xóm cùng nhau ra công tu tảo những mộ phần vô chủ trong xóm, lấy ngày nầy làm ngày cúng ở Miếu Thanh Minh, Tết của những người Âm thế. Hội đạp thanh – dẫm cỏ xanh của người Việt không mang tính chất nam thanh nữ tú du xuân mà cả làng ra sức với nhau thể hiện ý thức cộng đồng, tình làng nghĩa xóm.

Mang ý nghĩa ngày Thanh Minh của tộc Bách Việt nầy mà đọc lại Thanh Minh của Đỗ Mục thì sẽ đứt đoạn từng khúc ruột, nói tới chi là thấy muốn đứt ruột !

Thử hình dung cảnh người còn xa nhà của Đỗ Mục đứng cạnh bãi tha ma bên vệ đường, ngày Thanh Minh mà những mả mồ ở đây đều hoang lạnh, đầy cỏ lau… xem ra chẳng khác nào cảnh Thúy Kiều du xuân gặp mộ Đạm Tiên :

Sè sè nấm đất bên đàng
Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh
Rằng sao trong tiết Thanh Minh
Mà đây hương khói vắng tanh thế mà …

Người còn ở trên đường của Đỗ Mục đã gặp Thúy Kiều của Nguyễn Du ở tấm lòng đối với tha nhân :

Trải bao thỏ lặn ác tà
Ấy mồ vô chủ ai mà viếng thăm
Lòng đâu sẵn mối thương tâm
Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa …

Mối thương tâm của Người còn ở trên đường không thể hiện ra ngoài đầm đầm châu sa như Thúy Kiều, mà ruột quặn từng cơn trước cảnh ngổn ngang mả mồ hoang lạnh, đây đó bò nhởn nhơ gặm cỏ cùng đôi đứa mục đồng. Chung quanh không một bóng ai, nơi đó đã không có người ra công thể hiện tình làng nghĩa xóm với những mộ phần vô chủ. Bỡi thế mới có chuyện mục đồng chỉ cho quán rượu chớ nơi đó có ai đâu mà chỉ. Ngữ cảnh từ 2 chữ Mục đồng ở câu 4 (câu kết – câu hợp) mới nói lên đủ cái hoang lạnh làm đứt đoạn lòng người trong Thanh Minh của Đỗ Mục. Mà ngữ cảnh đó có được là nhờ ở 2 chữ Tá vấn của câu 3 (câu chuyển). Chung quanh hoang tàn, lạnh lẽo, có phải người lữ khách muốn tìm nơi có rượu để sưởi lòng (!?) Hỏi nơi nào có quán rượu chỉ là mượn cớ hỏi (Tá vấn) để xem quanh đây có xóm có làng, người trong xóm trong làng có còn tình nghĩa với người nằm xuống không ai nhang khói (!?) Cay đắng một điều, thôn xóm dưới xa kia lại mang tên Hạnh Hoa, một cái tên gợi lên biết bao là thơ mộng.

Đường thi tứ tuyệt chỉ với 4 câu vẫn phải diễn ý đủ cấu trúc của một bài thơ xưa : khai – thừa – chuyển – hợp. Cái thần câu chuyển của Đỗ Mục không những đã làm rõ hơn không gian ngày Thanh Minh ở câu thừa mà còn làm cho câu kết hiển hiện nỗi cay đắng tình đời. Lo cho người Âm thế, ý thức chúng sinh sẽ làm cho người Dương thế biết chia sẻ, đùm bọc nhau hơn. Khi con người sống chỉ biết cho riêng mình không còn mang tính cộng đồng làng xóm có phải chăng tình người đã phân hóa (!?). Có phải chăng đây là nỗi đau đứt ruột của Tiểu Đỗ trong bài thất ngôn tứ tuyệt Thanh Minh (!?)

Tiết Thanh Minh Giáp Ngọ
PHAN TRƯỜNG NGHỊ

ANH ĐI RỒI CÒN ĐÓ BIỂN TÌNH ANH

Buông điện thoại xuống, tôi chưa kịp nói gì thì Đoàn Nguyên đã hỏi vội :
– Có phải anh ấy đã không ổn !?
– Ảnh không ổn rồi, chị Tùng Vân nói hôm nay phải sắp xếp cho anh ấy xuất viện. Mình đến còn kịp.

Đoàn Nguyên chưa gặp anh Chu Trầm Nguyên Minh lần nào. Trước đây tôi cũng chưa từng gặp được anh Đoàn Nguyên ở ngoài đời. Khi nghe tin tôi vừa về lại SaiGon sẽ đến thăm tác giả của bài thơ Lời Tình Buồn, anh cũng muốn cùng đi. Sáng nay chúng tôi đã gặp nhau trước khi đến với anh Chu Trầm Nguyên Minh.

Vậy thì anh Chu Trầm Nguyên Minh ơi, anh lại là cầu nối cho lớp trẻ chúng tôi, những thằng lang bạt ở đất người gặp nhau, biết nhau để cùng sẻ chia những trôi nổi đường đời. Những người lang bạt chưa già nhưng cũng đã không còn trẻ nữa, những người tìm đến với nhau chỉ với một tấm lòng.

Khoảng mấy tháng trước, qua mạng tôi liên lạc với anh Đoàn Nguyên, lâu nay anh sinh hoạt ở trên sannhac.com. Tôi đang có mấy bản nhạc đã ký âm mà anh Chu Trầm Nguyên Minh gởi cho. Tôi nhờ anh giúp cho việc phối âm, xuất ra file mp3. Một việc nhỏ nhưng lại là lớn đối với người không sành nhạc lý như tôi, lớn vì đây là việc làm mà chỉ những người cùng bắt được sóng của nhau mới xắn tay áo cho nhau. Không những phối khí cho nhạc bản Về Thôi Em Ơi do anh Nguyễn Phú Yên phổ bài thơ Đêm Tạ Từ của anh Chu Trầm Nguyên Minh, anh em bên sannhac.com, anh Vũ Hoành còn tự hát mẫu làm nền cho file nhạc.

Việc làm ấy của những nghệ sĩ không chuyên đã làm rung động cả tâm hồn nghệ sĩ, nhạy cảm của người thơ : anh Chu Trầm Nguyên Minh. Quãng trước Tết anh Chu Trầm Nguyên Minh có thuật lại anh Nguyễn Phú Yên đã tiếc là không kịp sửa một vài chỗ trong bản nhạc trước khi anh em bên sannhac phối âm, nhưng với anh, anh rươm rướm nước mắt, tất cả đã đến với anh chừng ấy là quý giá vô ngần rồi. Trong anh là cả một biển tình.

Tôi chỉ mới được làm quen với anh Chu Trầm Nguyên Minh gần đây qua sinh hoạt anh em Tập San Quán Văn. Thế hệ chúng tôi trước kia sống trong các Ca Khúc Da Vàng. Thấm đau thân phận con người nên chúng tôi đâu có ngỡ ngàng gì trước tâm sự sâu kín của anh :

Đêm xuống rồi em buồn không hở ?
Trời sa mù tầm tay với âu lo

Chu Trầm Nguyên Minh có cách nói thật nhỏ nhẹ, dịu dàng. Trong một lần cùng uống café với tôi và Ngọc Thơ. Anh nhẹ nhàng khuyên chúng tôi :
– Mấy em đừng nên ôm đồm nhiều. Làm ít nhưng phải làm thường xuyên. Mỗi ngày chỉ cần viết một đôi dòng. Nghĩ gì ghi để đấy. Sau góp lại thì có biết bao điều mà các em cần chuyển tải.

Đối với những người khác thì đó là chuyện thường tình. Nhưng với chúng tôi, những đứa tập tành cầm bút, những người mấy mươi năm rồi mới biết tới cây viết, đó mới là những lời khuyên chân tình, thiết thực. Bên ngoài anh như một hồ thu phẳng lặng, nhưng trong anh, kể cả trong thơ anh là biển tình dậy sóng.

Đoàn Nguyên lấy điện thoại mở bản nhạc Về Thôi Em Ơi mà Thy Xuân – bạn đời của Đoàn Nguyên là người hát áp vào tai anh cho anh nghe. Anh đang thở oxy. Anh thở thật khó nhọc, nhưng lúc ấy tôi biết anh đang nghe tấm lòng của người đến với anh. Tôi chuyển cho anh Tập san Tương Tri số 10 mà anh em giao tôi mang đến. Chị Tùng Vân nói sẽ đọc cho anh nghe. Lúc xế chiều Ngọc Thơ điện đến bảo là anh đã đi rồi ! Anh đi, có lẽ Chị Tùng Vân chưa kịp đọc, nhưng tôi biết anh đã nghe đọc vì với Tương Tri :

Mấy lời tâm phúc ruột rà
Tương tri dường ấy mới là tương tri …

Lòng anh là biển tình. Biển bao la dung túng mọi bụi bặm của trần đời. Anh đã từng :

Giữa mênh mông một mình anh đứng ngóng
Gọi tên người sao mải miết vô tăm

Chỉ bao nhiêu đó biển tình của anh đã long lanh nước mắt. Anh đi rồi, nhưng với chúng tôi Anh vẫn còn đó. Còn đó Biển Tình Anh.

Đêm 19.02.2014
TRƯỜNG NGHỊ

THẦM LẶNG VỀ QUÊ ĂN TẾT

Trường Nghị

sound_village

Ai xa xứ cũng đều muốn có mặt ở quê 3 ngày Tết. Tết Nguyên Đán là ngày đoàn tụ gia đình. Dù đang ở chân trời góc biển, dù đang sống nơi phố thị phồn hoa, Tết đến, có cái gì đó thôi thúc trong lòng người xa xứ phải về quê. Về ăn Tết ở quê …

Về quê ăn Tết, một chút ấm cúng không khí gia đình rồi phải hối hả đi thăm bà con láng giềng, họp mặt thầy cô, bạn bè … Thế mà đã kỳ họp mặt thứ 22 !  Rồi tất bật với công việc phải quay lại Saigon. Quay cuồng với hối hả, cả tuần nay mới ngồi lại viết đôi dòng.

Nhớ năm nào cô bạn nhỏ tâm sự về năm đầu tiên phải ăn Tết Saigon thời thập niên 70, 80 sáng mồng 1 ra ngồi vỉa hè, ước gì có được chuyến xe về quê ăn Tết muộn. Về được đến quê, nếu có  gặp ngay người lâu nay ghét cay ghét đắng đi nữa cũng ôm chầm lấy mà cười như pháo Tết ! Cái thôi thúc của quê hương sao mà lạ, nó mang cả sự bao dung, hiền dịu đến cho con người. Nơi phố thị dù cũng có láng giềng, dù cũng có niềm vui gặp gỡ, thăm hỏi nhau 3 ngày Tết, nhưng cái ý tưởng ăn Tết ở quê thôi thúc phải đi, phải về … con người chấp nhận quần quật với cái hối hả của cuộc sống Tiếp tục đọc