Đừng bao giờ là tôi!

 

“ Con thú ăn thịt đồng loại rồi đi ngủ.
Con người làm trái rồi ăn năn. ”

Francois- Réne de Chateaubrian

Tôi nói với con gái:

– Con cho ba ghé chỗ bác Trung vé số nghe. Ba ngồi chơi với Bác, khi nào ba gọi thì ra chở ba về.

Đứa con gài tấp xe vào quán cà phê Tùng, nơi có quầy vé số của anh Trung. Từ ngày vào Sài gòn định cư, tôi thường hay nhờ con chở đến chỗ anh Trung, Tôi quen biết anh ban đầu là một hai lần mua vé số, thấy anh cởi mỡ, tôi thường ghé chơi, có khi mua vài tấm vé, có khi không… chuyện trò cùng anh là chính.

Sáng nay, đi cắt tóc về, tôi nhờ con chở thẳng đến anh Trung ngồi chơi.

Vừa thấy tôi, anh đã đưa tay vẩy chào, miệng hô to vào quán:

– Hai ly cà phê cho hai thằng già này nghe cháu!

Cô bé bàn quán ngững mặt nhìn rồi gật đầu chào tôi, cũng là tỏ cho anh Trung biết là đã nghe thấy, cô bé đi vào quầy…Anh kéo cho tôi cái ghế có chỗ tựa lưng rồi ngồi xuống dán mắt vào tờ báo cũ.

– Có tin gì mới và gay cấn lắm ha anh Trung?

– Không, báo từ đời nao rồi, nhưng có cái này hay hay, chú đợi chút tôi đưa chú xem…

Tôi ngồi xuống ghế, nghiêng người bỏ cặp nạng tựa vào gốc cây, châm điếu thuốc rồi nhìn vu vơ ra đường trong khi anh Trung vẫn chăm chú với tờ bào.

Tôi thích chuyện trò với anh vì anh là người có tâm có tình, ngồi bán vé số, anh gặp nhiều người và biết được nhiều chuyện đời khá thú vị. lại nữa, những hiểu biết của anh rất phù hợp với tôi, tính ra anh chỉ hơn tôi bốn tuổi, học trước tôi vài năm, ngày tôi học lớp 11, thì anh rớt tú tài II, dăng linh, khóa 4 năm 1971 trường Bộ Binh Thủ Đức. Anh không xuất cảnh được vì chỉ cải tạo hai năm, hai lần trọng cấm trong ba năm lính, đến ngày 30/4/75 anh trình diện với cấp bậc thiếu úy ĐPQ. Nghĩa là ra trường chuẩn úy, 18 tháng sau, anh lên Thiếu úy đúng như quy đinh, rồi nằm đó cho đến khi đi cải tao! Bạn bè cùng khóa anh ra tác chiến, phần nhiều lên Trung úy, có người cố Đại úy và cải tạo trên ba năm nên giờ ở hải ngoại rất đông. Lâu lâu anh có tí quà từ bạn bè, bao giờ anh cũng kéo tôi đi làm vài lon đưa  cay với dĩa mồi to tướng.

Nhiều người biết anh là sĩ quan, không được xuất cảnh, khơi lại chuyện cũ, anh cười nói:

– Con người có số cả rồi, xuất ngoại cũng phải có số xuất ngoại chứ.

Hồi mãn khóa, anh nắm trong số tốt nghiệp từ 1 đến 10, được chọn đơn vị, vì có mẹ già nên anh chọn Tiểu khu Biên Hòa, ĐPQ.

Chiến sự năm 1972 rất căng thẳng, bạn bè phần nhiều chọn Dù hoặc Biệt Động Quân.

Khi biết anh về Tiểu Khu, bạn bè đùa, ném cho anh những chiếc mũ đen :

– Cho mày, về “ Rùa” đội, tụi tao có nón khác!

Nóng máu, anh muốn chọn Dù cùng các bạn ra tái chiếm Cổ Thành…nhưng Mẹ và chị anh khóc lóc, không cho.

Khi anh chưa hết phép mãn khóa, bốn thằng bạn cùng Đại Đội anh về Dù, đã nằm xuống nơi ấy. Số còn lại, bây giờ đang ở Mỹ, những lần về Việt Nam, gặp lại nhau, khi tuổi đời đã gần thất thập, ôn chuyện quân trường, chuyện lính tráng sinh tử cận kề, ai cũng cho là mỗi người có một số mệnh riêng…Ngồi bán vé số bên đường như anh Trung chưa chắc đã khổ, sung túc ở hải ngoại làm kiếp lưu dân chưa chắc đã là hạnh phúc…

Chưa cầm súng ngày nào nhưng lại sống trong thời đất nước loạn lạc, bạn bè tôi cũng nhiều người nằm xuống trên chiến trường, nên tối rất đồng cảm với những chuyện anh Trung kể.

oOo

Khi cô bé mang cà phê ra cũng là lúc anh Trung rời mắt khỏi tờ báo:

– Không biết chú có khi nào gặp tâm trạng này chưa?! Đọc đoạn này này…

Tôi nhận tờ báo từ tay anh.

“…Bây giờ, việc thi hành án cho một tử tù bằng hình thức tiêm thuốc độc vô cùng rắc rối. Nếu phạm nhân nằm ở trại giam đã xây dựng “phòng” tiêm thuốc độc thì còn đơn giản, nhưng nếu ở các tỉnh xa thì không đùa được. Cả một đoàn người trong ban tổ chức thi hành án gồm hàng chục cán bộ của công an, tòa án, viện kiểm sát, cảnh sát bảo vệ, pháp y. Cảnh sát dẫn giải phạm nhân phải đi từ nửa đêm gà gáy, vượt quãng đường có khi hàng trăm cây số để đến trung tâm thì mệt mỏi đến mức thế nào.

Nhưng rắc rối nhất, khó khăn nhất lại chưa phải là chuyện đó, mà là từ việc “ai sẽ là người lấy ven, chọc kim vào tay tử tù?”.

Thế mới có chuyện rằng, để một bác sĩ lấy ven tử tù, người ta đã phải làm một văn bản gần như đánh lừa người bác sĩ đó với một cụm từ hết sức mơ hồ là “hỗ trợ”. Tất nhiên, sau lần ấy thì chắc chắn người bác sĩ này sẽ không bao giờ tham gia nữa.

Rồi lại có chuyện ở đơn vị công an nọ, tìm mãi không ra người lấy ven, tiêm thuốc cho tử tù. Cuối cùng, họ tuyển một cô mới học Trung cấp Y kèm theo lời hứa, nếu chịu làm công việc ấy thì cho vào biên chế để cô gái nhận lời. Không hiểu rồi cô gái ấy sẽ làm được công việc này trong bao lâu?

“…Có anh lính mới, láu cá lắm, phải làm nhiệm vụ, anh ta sợ ám ảnh nên cố tình không bắn vào tim tử tù (vị trí có dán cái băng dính để làm “cọc tiêu”), mà anh ta bắn vào chân tay họ, rồi tự nhủ “mình không hề giết người”…

Tôi trả tờ báo:

– Có gì đâu anh?

– Nỗi ám ảnh, lòng hối hận! Không biết bây giờ thế nào. Tôi nghe nói, ngày trước, tiểu dội hành quyết có 12 người, mỗi cây súng chỉ có một viên đạn, lấy từ 12 viên đạn trước mặt, trong 12 viên dạn đó có một viên đạn giả, không gây chết người, vậy là mỗi người trong đội hành quyết ai cũng hy vọng là mình đã chọn đúng và đã bắn viên đạn ấy, yên tâm mình không giết người, không đem cài chết đến cho tử tủ. Trong chiến tranh, giữa trận mạc, bắn búa xua chẳng chủ tâm trúng ai, có khi nhiều người chết vì đạn của mình nhưng mình không hề biết và không ray rứt, nhưng khi dối phương vô tư trong tầm đạn, nâng súng lên ta không dám bắn, không phải vì ta hèn, mà vì ta sợ chính lương tâm mình! Tôi cũng đã có lần như thế !

– Anh kể đi.

– Ừ. Anh Trung nhấp ngụm cà phê, chậm rải: Hồi đó, đang có hiệp định ngưng bắn, tôi đóng quân ở Hố Đá, Biên Hòa. Trung đội tôi nằm bên con suối, án ngữ con đường vào làng. Tiếng thì ngưng bắn nhưng bên kia cứ thấy bên này sơ hở là tấn công, cắm cờ dành đất, vì thế nên luôn luôn phải đặt trong tình trạng báo động, căng thẳng hơn cà lúc không ngưng bắn. Để giữ đất, nên trung đội tôi chia mỏng thành 3 toán. Mỗi toán một tiểu đội trừ! Chiều hôm đó, sau cơm tối xong, tôi ngồi với trung sĩ trung đội phó, bên máy truyền tin. Bất chợt, tôi thấy một chú vi xi trẻ măng, quàng một lá cờ Xanh đỏ quanh cổ đi ngang trước mặt, cách chừng 15 mét, tôi với tay cầm cây M 16 lên, với tầm này thì không cần nhắm nhiếc gì, bóp nguyên băng là nó tiêu. Tay trung sĩ đưa tay ấn nhè nhẹ mũi súng chúc xuống, tôi nhìn hắn, hắn đưa ngón tay lên miệng ra dấu im lặng. Khi tên vi xi khất xa về phía làng, tôi hỏi:

– Sao vậy?

– Thứ nhất là sai chiến thuật, biết đâu đây là thằng cảnh giới đi trước, đàng sau là cả trung đôi, đại đội. Thứ hai là ông liệu có quên được hình ảnh nó chết trước mắt bởi loạt đạn của chính ông trong khi lệnh ngưng bắn vẫn còn hiệu lực không?!

– Khoảng một giờ sau, khi tay trung sĩ xuống suối pha ca phê, tôi đang ngồi nhìn về hướng Biên Hòa thì chính thằng vi xi trẻ kia quay lại, lần này thí hí hửng lơn tơn, là cờ vẫn còn quấn ngang cổ, trên lưng đeo ba lô, trên ba lô còn có mấy đòn bánh tét. Tôi nâng súng lên, hướng về phía cậu ta,  bụng nhủ thầm: “ Hai lần rồi nghe nhóc con, mày mà cắm là cờ trong làng là mai bỏ mẹ tao!”

Đêm đó yên lành và cả ngày mai cũng không có rắc rối nào, tôi nhẹ người! Có nhiều khi ta thở phào như vậy lắm trong đời.  Nhiều năm sau này, tôi cũng một lần nữa thở phào, cảm ơn trên đã không đễ tôi sai phạm…

Tôi nhìn anh hỏi:

– Sao anh ?

Anh Trung lại nhấp ngụm cà phê, tay sửa mấy xấp vé ngay ngắn dưới mấy hàng dây thun…

– Dạo đó, vào những năm 79-80, đói kém lắm, Tôi xót xa đến đứt ruột mỗi khi nhìn đứa con gái tôi nổi ghẻ chốc đầy người vì ăn không có chất, vợ tôi xanh xao, môi thì lỡ loét, rát đau mỗi lần đưa thức ăn vào miệng hay uống nước! Tôi xin vào làm bốc vác cho một nông trường cao su ở Đồng Nai mong kiếm tí tiêu chuẩn Gạo, mắm muối…cải thiên cuộc sống! Tay kế toán công ty, biết tôi là sĩ quan cải tạo về, cho tôi lên phụ cho một cô kế toán Đội. Thằng này ăn bẩn khủng khiếp, Công nhân than trời than đất nhưng hắn vẫn thản nhiên tại chức, Giám đốc cũng ghét hắn nhưng không dám đụng vì hắn là em ruột của tổng giám đốc cao su miền Nam. Hắn hài lòng tôi vì tôi chăm chỉ, từ ngày có tôi, sổ sách ít sai, cô kế toán là bồ của hằn nên hằn quan tâm hơi nhiều…Một buổi chiều, hắn gọi điện tới bảo tôi tối chuẩn bị sẵn, sau cơm tối, hắn sẽ đến đón đi chơi…còn dặn: “ Bí mật nhé”. Tối đến hắn chạy chiếc xe Vespa mới cứng đến chở tôi đi. Chiếc xe này hắn mua lại của một Linh mục trong vùng. Chiếc xe được đem từ Ý về hôi ông ấy đi học bên đó,  Ông Cha nhận giáo xứ xong thì 75 ập đến, nó được đắp chiếu từ khi về đến nay vì không có xăng…Tôi không biết hắn đi đâu mà lại chạy vong vèo trong các lô cao su vắng vẻ. Gần một giờ sau mới tới nơi, đó là căn nhà to như biệt thự, cũng nắm trong lô cao su. Hắn đi đánh bạc với những tay đồng liêu, có lẽ cũng là những tên hạm như hắn. Tôi được hắn chỉ vào nằm trên chiếc võng của trạm bảo vệ. hắn dựng xe ở đó rồi vào trong nhà. Tôi nằm trên võng,  lạnh và muỗi không ngủ được. Thì ra hắn đem tôi đi theo vì đoạn đường dái và vắng, hắn sợ cướp, có tôi ngồi sau xe hắn yên tâm hơn. Tôi kéo cao cài mủ của chiếc áo khoác, kéo sợi dây buộc trùm mật cho đỡ muỗi. Gần sáng, hắn đi ra với cái túi xách căng, chật cứng tiền, hắn thắng bạc vơ sạch sòng đêm đó.

Kể đến đây anh Trung ngừng lại nhấp một ngụm cà phê, nhấp thêm ngụm nữa. Hỏi tôi:

– Chú hồi trước có hay đọc truyện trinh thám không?

– Có, Thích lắm anh.

– Chú có khi nào đọc cách giết người không bằng dao, bằng súng mà bằng dây cước hay dây dù không?

– Có nhiều…mà sao anh?

Anh kể tiếp:

– Ngồi sau lưng tay kế toán gian ác, tôi nảy ra ý định giết hắn đễ cướp cái túi tiền. Tôi rút cái dây nơi áo khoác một cách nhẹ nhàng, vo lại, cầm trong tay. Trong khi đó hắn vô tư chở tôi đi vòng vèo trong đường cao su vắng, lạnh và tối. Ánh đèn pha của xe Vespa rất sáng, rọi khá xa… nên hắn có lẽ cũng bớt sợ. Tim tôi thì đập thình thịch liên hồi, muốn ngộp thở. Khi hắn dừng xe trước phòng kế toán đội cho tôi xuống, tôi thở phào bắt tay hắn rồi đi nhanh vào chiếc giường của tôi nơi cuối phòng, nằm vật xuống. Ban đầu tôi trách mình nhát, bỏ qua một cơ hội có thể đổi đởi, hay ít ra cũng có một cuộc sống khá hơn, hết đói khát… nơi một tỉnh nào đò ở miền Tây xa xôi…Tôi thiếp đi trong chập chờn những mưu toan, sáng ra tỉnh dậy, tôi nằm im và ý thức là vẫn không có chuyện gì, nỗi sợ qua đi, tôi thở phào nhẹ người vì đã không có chuyện gì!!!

Tôi nhìn anh cười cười, nói:

– Sao không tận dụng cơ hội loại bỏ một con sâu?!

– Sâu sia gì, những tử tù cũng đều là những tên gian ác, đáng tội chết tòa mới kêu án tử. nhưng nó chết vì ai đó, sao đó… chứ không phải là mình. Còn nếu là mình thì không tránh được ray rứt trong tâm trí! Chú không đọc đoạn bài báo nói không ai dám nhận công việc tìm tỉnh mạch đễ chích mũi thuốc độc vào tay kẻ lãnh án  tử à?

Tôi nhìn bâng quơ ra đường rồi nhìn lại anh Trung…Lâu sau mới trả lời anh:

– Có !

Sài gòn, 17 tháng VIII năm 2917.

Trạch An-Trần Hữu Hội

Advertisement

Vui buồn đời thợ ảnh

 

 

 

Tôi đã mang cái máy ảnh 26 năm. Làm nghề chụp hình để nuôi bản thân và gia đình. 26 năm, gần nửa đời tôi đã đi qua. Vui có, buồn cũng không ít với những gì mà nghề chụp hình mang lại

Người ta thường gọi nghề này là nghề Nhiếp ảnh, riêng tôi, tôi cho rằng hai chữ “Nhiếp ảnh” lớn lao quá, nó chỉ dành cho những “Nhiếp ảnh gia”, chuyên chụp những tấm hình nghệ thuật. Còn tôi, từ khi vào nghề, đã xác định là chụp hình kiếm cơm, kiếm cái ăn để sống nên từ ấy cao đẹp quá tôi không dám gán cho mình. Quả thật thế, 26 năm cầm máy ảnh, tôi chưa ghi được một tấm hình nào có đủ yếu tố để gọi là nghệ thuật, nên tôi luôn cho mình chỉ là anh “thợ chụp hình”. Nhờ nghề này, tôi tiếp xúc với nhiều khách hàng, với những hoàn cảnh buồn vui. Của mình và của người…

Nay tôi đã vào tuổi 63, xem như gần cuối đời, nên chăng ghi lại những câu chuyện này như những dòng… tâm sự?!

 

 1.Vào nghề:

Khoảng cuối năm 1982, Tôi rời nơi cư trú là Quảng Sơn, Ninh sơn, Ninh Thuận, vào Sài gòn kiếm sống bởi nơi đây không cho tôi được ngày hai bữa ăn như mong ước đơn giản nhất của tôi và cũng của nhiều người.

Người dân nơi đây lần hồi bỏ xứ vào Đồng Nai, xin vào công nhân Nông Trường Cao su, lên Buôn Mê Thuột làm thuê, làm nông, hoặc vào miền Tây làm ruộng…Họ đi bất cứ nơi nào, dù vất vả nhưng kiếm được cái ăn. Còn nơi đây, làm nông thì không được bởi nắng mưa thất thường. Đi buôn chuyến thì cũng có người sống được qua ngày nhưng không kiếm đâu ra vốn! May mắn lắm cho ai có bà con, thân nhân có hộ khẩu Sài gòn thì bám lấy nơi đây, chạy xe thồ, xích lô, buôn bán chợ trời, làm nghề linh tinh kiếm sống!

Tôi chẳng có ai bà con thân thích, chỉ có một đứa cháu gọi tôi bằng cậu. con bà chị đầu của tôi, đang học năm thứ ba trường đại học Y khoa và một vài người bạn thân cũng rời bỏ vùng dất khô cằn Quảng Sơn trước tôi, vào mưu sinh nơi thành phố khó khăn nhưng cũng có nhiều cơ hội, dù chỉ là cơ hội để tồn tại!

Bạn bè gặp lại nhau, sau cái bắt tay mừng là lo âu. Trước mắt, ai cũng lo lắng kiếm cho tôi một công việc để sống. Nhiều công việc, nhiều phương án được đưa ra nhưng rồi xét đi xét lại không chọn được việc nào. Đi bỏ trà và thuốc lá lậu, là công việc mà các anh em vào sài gòn trước tôi thường chấp nhận làm để qua ngày trước khi tìm một công việc khác ổn định hơn, thì tôi không có vốn gối đầu, lại không rành đường Sài gòn, không có các quán quen làm nơi tiêu thụ đều đặn (mối). Đạp xích lô cũng gặp phải trở ngại này, từ nhỏ đến lớn tôi sinh ra, lớn lên nơi Quảng trị, rối vào Ninh Thuận, chọn nơi đây làm quê hương thứ hai sau khi Quảng Trị tan hoang vì bom đạn từ mùa hè dỏ lửa 1972, thỉnh thoảng vào Sài gòn. Còn ngơ ngác như chú nhà quê trước cái bề thế của thành phố này.

Sài gòn ngày tôi vào lại chỉ nhiều đường sá. rộng lớn có sẵn trước đây thôi, cái sầm uất ngày nào chỉ còn trong kí ức của người Sài gòn. những dổi thay 7 năm, sau 1975 là một sự vắng vẽ, im lìm. chứ không đông đúc, náo nhiệt, xô bồ… như hôm nay.

Bạn bè thân tình thương thì thương nhau lắm, nhưng sẻ chia cơm áo trong những năm này thật không dễ chịu chút nào! Ai cũng có một hoàn cảnh khó khăn riêng nên không thể cưu mang thêm tôi. Vả lại, tôi cũng không muốn mình trở thành gánh nặng cho riêng ai.

Cái ăn đã khó, cái ở còn khó hơn, một vài người bạn vì tình cảm mà liều lĩnh muốn đưa tôi về ngủ trong nhà mình, nhưng vì biết là sẽ rất phiền toái cho bạn nếu bị xét hộ khẩu đột xuất hằng đêm…nên tôi từ chối, chấp nhận hằng đêm ra ga Bình Triệu hoặc Hòa Hưng, gần đâu thì về đó. thuê chiếu ngủ rồi sáng mai lại…lang thang gặp gỡ bạn bè tìm kiếm việc làm.

Vận may tình cờ đến với tôi, cùng lúc giải quyết luôn cả hai khó khăn: ăn và ở!

Một hôm, đang ngồi ăn cơm trong một quán bình dân ở đường Nguyễn Duy Dương, quận 5. Tôi gặp một người đạp xích lô, tên Tấn. anh ta lớn hơn tôi chừng sáu tuổi, chuyện trò qua lại, anh cho tôi biết là trước đây, anh từ Quảng Ngãi vào, cũng lang thang như tôi, sau đó anh xin được vào làm công, đóng bao bì ( két gỗ đựng bia hay nước ngọt chai) cho một xưởng mộc của Trường Lê Quý Đôn. Không hợp đồng giấy tờ hộ khẩu gì, Chỉ cần đưa cho tổ trưởng CMTND. Cứ sáng đến chiều tổ trưởng đếm được bao nhiêu thì tính tiền bấy nhiêu, một tuần lãnh tiền một lần vào chiều thứ bảy, chúa nhật nghỉ. Anh sẽ hỏi lại rồi báo cho tôi biết vào ngày sau.

Ngày sau, cháu tôi chở tôi đến quán cơm, hồi hộp chờ anh Tấn. Anh đến ăn muộn vì vừa đạp một cuốc xe qua quận Bình Thạnh.

Anh vừa lau mồ hôi vừa bào tin mừng cho tôi, không những đã xin được cho tôi việc làm mà còn có thể ngủ lại vào ban đêm cùng với nhóm thợ máy rong xẻ gỗ.

Tôi chộp lấy hai vai anh Tấn lắc mạnh với lòng biết ơn, ngưỡng mộ!

Anh Tấn chở tôi đến xưởng mộc chiều hôm đó, vào làm ngay. Tôi được giao cho một túi đinh 3 phân, chừng 2kg. Một công nhân dẫn tôi đến chỗ để gỗ, cứ ôm về đóng, hết thì  đến lấy tiếp. Công việc dễ đến độ tôi nhìn thoáng qua là làm được ngay. Buổi chiều hôm ấy, tôi đóng được 17 cái thùng. Một cái 0,5 đồng (năm hào), ngày sau và những ngày kế tiếp trung bình đóng được 40 cái. Tính ra một ngày được 20 đồng. Thu nhập khá cao cho cuộc sống của tôi khi ấy! Cơm trưa được ăn tại xưởng, không mất tiền, tối ăn cơm bình dân 2 đồng, sáng tôi uống cà phê với gói thuốc Mai hết 2 đồng. Một ngày trước mắt tôi thừa được 16 đồng. Tôi tính nhẩm, trước tiên, sẽ cố gắng để dành cho đến khi mua được chiếc xe đạp.

Niềm vui ngập lòng, tôi mong đến chúa nhật để khoe cho bạn bè yên tâm. đồng thời giới thiệu anh Tấn, ân nhân của tôi với họ. Tôi nghĩ đến chuyện sẽ cùng anh em uống mừng công việc và cũng bù cho những tình cảm mấy hôm nay của bạn bè. Địa điểm là các quán phở ở đường Kỳ Đồng, gần nhà thờ Chúa Cứu Thế, ga Hòa Hưng. Nơi đây phở rẻ nhất. một tô một đồng (rẻ là bởi có thể xin thêm dĩa giá trụng vun mà không thêm tiền). Về đây tìm là gặp bạn bè tôi.

Một tháng sau, tôi để dành được trước sau 50 đồng. một người bạn đem tôi lên đường Lê Lai, nơi đây là chợ xe đạp. Mới có, cũ có, vào hầm chứa xe thì có thể chọn theo ý mình. Tôi cùng bạn chọn một chiếc, cũ nhưng khá tốt: Xich, líp, Niềng và Sườn đều của Nhật.

Tôi hỏi bạn xe đâu mà ở đây nhiều thế?

– Xe chôm từ các nơi gom về đây. Cứ yên tâm vì chiếc này ráp từ ba chiếc lại, không ai nhận ra đâu!

Tốt nhưng rẻ, chiếc xe chỉ 36 đồng, vẫn còn thừa 14 đồng! Tôi có thể trả chiếc xe mượn từ hôm vào đến hôm nay lại cho cháu tôi đi học. Nó ở KTX  đường Ngô Gia Tự qua trường cũng gần nên mấy hôm nay nó đi bộ.

oOo

Xưởng mộc của trường Lê Quý Đôn là nơi hợp đồng của một HTX nào đó. Lấy nguồn gỗ từ Đồng Nai, dạo này vào mùa mưa, thỉnh thoảng bị gián đoạn vài ngày vì không có gỗ. Họ cũng đang có ý định chuyển hướng sang sản xuất đồ mộc cao cấp, nếu vậy thì cần ít công nhân hơn và tay nghề cao. Những ngày nghỉ tôi đạp xe loanh quanh tìm bạn bè ngồi chuyện trò, May mà tôi đã mua được chiếc xe để đi lại, công việc không còn đều đặn nên thời gian này cũng không dành dụm được gì!

Một hôm tôi đang ngồi đóng thùng, bảo vệ báo có người tìm, tôi ra cổng thì gặp Lượng. Lượng là em ruột Quảng. một người bạn thân của tôi, từ hôm vào đến nay tôi chưa gặp. Chuyên trò chút xíu rồi Lượng hẹn chờ tôi đi ăn cơm tối.

Quảng đã vượt biên bốn năm nay, Lượng cho tôi biết là Quảng đang đinh cư ở Canada.

Lượng hỏi han tình hình công việc, nơi ăn ở của tôi hiện nay. Nghe xong. Lượng đề nghị:

– Lâu nay trong gia đình của em vẫn xem anh như anh Quảng, nay ba mẹ mất rồi, anh Quảng cũng đã ở xa, trong nhà không còn ai, anh đã vào đây thì về ở với tụi em cho vui.

Từ ngày vào Sài gòn, những đề nghị của bạn bè như thế này cũng có, nhưng tôi từ chối vì biết là sẽ khó khăn nhiều cho bạn. bây giờ Lượng đưa ra đề nghị này làm tôi băn khoăn.

– Hình như em đã lập gia đình rồi phải không?

– Dạ, vợ em hiền và dễ chịu chứ không khó khăn gì đâu!

– Từ Bình Thạnh mà lên Lê Quý Đôn, Quận l, đi làm thì xa quá Lượng ha?!

– Em nghĩ anh thôi làm chỗ đó đi.

Tôi nhìn Lượng dò hỏi:

– Hiện nay bên quận Bình Thạnh, có mở Câu Lạc Bộ dạy nhiếp ảnh, anh qua ở với em rồi đăng ký học chụp hình đi, em thấy anh làm nghề này cũng hay, đỡ vất vã.

Tôi nói với Lượng:

– Mai anh em mình đi gặp anh Trung, hỏi xem ý anh ấy thế nào.

Anh Trung cũng là người ra đi từ nơi tôi ở, vào Sài gòn trước chúng tôi. Trước năm 75, anh ấy làm hiệu trưởng dồng thời dạy Pháp Văn cho một trường tư thục Thiên Chúa Giáo ở Nha Trang. Sau 75 đi cải tạo hai năm, về không được đi dạy nữa, anh đem vợ và hai đứa con vào Sài Gòn. Hiện anh làm bảo vệ không lương cho một võ đường Teakwondo,. Có nhiệm vụ trông coi, quét dọn sàn tập hằng đêm sau khi võ sinh tập xong. Chúng tôi thường đùa vui:

-Tầm cỡ bảo vệ võ đường Teakwondo thì in ít cũng là tam đẳng trở lên đây nhe…Liệu hồn mấy thằng lơ mơ!!!

Thực ra, anh nhỏ con và thậm chí gầy còm, đâu khoảng chừng 46 kg.

Không có lương nhưng anh lại có chỗ tá túc cho vợ con trong một căn phòng nhỏ chừng 12m2 của võ đường. Căn phòng ở tít lầu ba, cầu thang thì hẹp, không gởi xe ở dưới được, nên chúng tôi hoặc là vác xe lên lầu ba, hoặc là đứng ở dưới rồi hét gọi anh ấy mỗi lần cần gặp nhau.

Hai chúng tôi gọi thật lâu mới thấy con trai anh ấy thò đầu ra nơi cửa sổ, thấy tôi và Lượng, cháu quay vào gọi anh Trung. Chúng tôi cùng nhau đến quán cà phê đầu dường, quán cà phê không phải cửa hàng quốc doanh là một nơi xa xỉ, chúng tôi chỉ dến những quán này khi nào rủng rỉnh tiền bạc hoặc có chuyện quan trọng cần bàn, quán ngồi riêng từng bàn, cách nhau bởi các chậu cây cảnh chứ không ngồi bàn dài, tập thể như các cửa hàng quốc doanh!

Chính anh Trung là người báo cho Lượng biết tôi đã vào Sài Gòn…Anh lớn tuổi và chín chắn, rất có tình với anh em nên ai cũng quý mến và tôn trọng anh như anh cả. Nghe Lượng nói chuyện đưa tôi về ở trong nhà rồi đi học chụp hình, anh Trung nghĩ ngợi thật lâu:

– Trong anh em, Lượng là người có diều kiên nhất. Nhà của mình, kinh tế cũng tàm tạm chứ không chạy bữa như những anh em khác, chú Sinh về ở với Lượng thì tốt rồi, nhưng chuyên đi học chụp hình rồi kiếm sống bằng cái máy ảnh không biết có ổn không?

Lượng nói:

– Nghề này được cài là dễ học, đi sâu vào nghệ thuật thì khó nhưng mình chỉ cần biết kỷ thuật chụp, tráng rọi ảnh…kiếm cơm thì hai anh em cùng làm với nhau như lâu nay em làm, tính ra cũng đủ nuôi gia đình. Có mối thì đi chụp, khi nào rãnh  cứ lên công viên, bến nhà rồng… kiếm chừng hai chục kiểu là có ăn.

– Chuyện ăn ở, bên phường có khó khăn chi không?

– Có anh Sinh thì thêm chút xíu, nhưng hàng tháng anh Quảng có gởi cho em vài kg thuốc Tây. Em không khó khăn như anh em mình ở đây. Có anh Sinh như có người lớn trong nhà. Ông tổ trưởng rất thương em, hôm bà vợ ông ấy bệnh, anh Quảng gởi về cho mấy hộp thuốc, từ đó ông coi em như con ruột. Em cứ báo anh Sinh là anh con bác ngoài quê vào là êm, Tụi mình cùng nói “trọ trẹ” họ tin liền!

Lượng tuy đã có gia đình, nhưng còn nhỏ. chỉ mới hai mươi bốn tuổi. nhỏ hơn Tôi sáu tuổi. Lượng có một chị, lấy chồng hiện đang ở quê chồng dưới miền Tây. Sau Lượng còn hai em nhỏ học cấp hai. Trong nhà hiện nay gồm hai vợ chồng và đứa con hai tuổi, hai đứa em, thêm tôi vào là sáu miệng ăn nhưng đều còn nhỏ nên cũng không chật vật. Lượng rất chịu làm. Ngày lên hồ Con Rùa và các nơi chụp ảnh lưu niệm cho khách, tối về rọi, sáng mai giao. Trung bình ngày cũng kiếm được bốn năm chục đồng. Những ngày lễ có ngày được cả trăm.

Tôi ôm vai Lượng như ôm một đứa em. Gương mặt Lượng rất giống với Quảng, hồi còn nhỏ, Quảng rất lo cho cu câu, nghe đâu có đành lộn là y như rằng có Lượng. Tự nhiên Lượng thay đổi hẳn sau ngày cha mẹ qua đời…Nhờ vậy, Quảng mới yên tâm vượt biên.

oOo

Hôm đó tôi về nhà ngủ đêm đầu tiên với Lượng. Tôi gặp vợ Lượng ra chào mà ngạc nhiên không biết có phải đây là vợ của Lượng không ?! Một cô bé con chứ đừng nói đây là một thiếu nữ. lại là đã có một đứa con! Đóan được điều ngạc nhiên trong tôi, Lượng cười:

– Vợ em mới hai mươi tuổi thôi anh Sinh!

Tôi cười đùa:

– Ừ, tại chú dụ dỗ nên hoang sớm phải không?

Tối lại, hai anh em chúng tôi ngủ chung trên tấm chiếu trải giửa nên nhà, nằm đốt thuốc rầm rì chuyện xưa chuyên nay, phần nhiều là nhắc đến Quảng. Lượng kể tôi nghe cái khốn đốn ngày cha mất, rồi năm sau đến mẹ! Quảng vượt biên cũng do một người bạn của cha, thương mấy anh em côi cút, cho đi chớ nhà không có tiền hay vàng gì cả!

– Ban đầu, anh Quảng định cho em đi. Nhưng bác ấy nói:

– Con đi, trước mắt cứ đưa mấy em về ở với nhà em gái con. Chị em nuôi nhau, con đi được qua bên đó mới làm lụng được, nuôi mấy em chứ Lượng còn nhỏ, biết làm gì nơi xứ người!

– Thế chú lấy vợ khi nào?

– Anh Quảng đi, tụi em về ở với chị Thương dưới miền Tây. Vợ em là cháu của anh Thục, chồng chị Thương.

Gần sáng, hai anh em định chợp mắt một lát để ngày mai lên câu lạc bộ nhiếp ảnh dăng ký cho tôi học chụp hình. Tôi nhắm mắt thì nghe Lượng lâm râm một mình:

– Em nói gì vậy?

– Không, em cầu nguyện, từ khi anh Quảng vượt biên, đêm nào em cũng đọc kinh, giờ thành quen, tối nào không đọc, cứ trằn trọc…khó ngủ!

Sáng sớm. Lượng dậy trước tôi, lục tìm một lúc rồi đưa cho tôi hai cuốn Kiến Thức Phổ Thông, hai số báo chủ đề về nhiếp ảnh. Hai anh em đến cửa hàng giải khát Thanh Niên. Lượng mua phiếu hai ly cà phê, tiêu chuẩn kèm cho hai ly là một gói thuốc Hải Đảo. Tất cả là hai đồng. Chừng bảy giờ rưỡi, chúng tôi đến Câu lạc bộ. Học viên đăng ký chỉ cần có Chứng minh thư và đóng mười hai đồng cho một khóa ba tháng. Lượng không cho tôi đóng tiền:

– Anh giữ lại mà tiêu vặt, để em đóng.

Tôi mua tại quầy sách ở cổng một tập vở dày và một cây bút. Lượng dắt xe ra, nói với tôi:

– Có mấy ông thầy giỏi lắm. Em hồi đó nhờ thầy Tôn Lập. Vài bữa em giới thiệu với anh. Ông dạy Chân Dung và Háa chất, tráng rọi ảnh. Nhà cũng gần nhà mình…

Tôi vào học nghề Chụp hình như thế, một nghề mà từ trước tôi chưa bao giờ nghĩ đến, sẻ là nghề gắn bó với tôi suốt hai mươi sáu năm. Nuôi sống bản thân rồi cả gia đình, bốn đứa con…cho đến khi không thể theo nghề được nửa!

oOo

Khốn khổ phim Liên Xô ! 

Sau này, khi tuổi đời đã khá lớn, tôi mới thấy rằng cuộc đời nhiều chuyện đến với mình, suông sẻ hay trầy trật…cũng đều do cài Duyên cái Số.

Nhưng vào thời kỳ tôi dang chật vật với cái ăn, cái ở… những ngày tháng đầu khi đặt chân đến đất Sài gòn, với tuổi đời chưa tới ba mươi, tôi cho là số mình may mắn, thậm chí còn có chút tự hào là mình “Biết xoay xở” “ Cố gắng”và “ Tài giỏi” nữa!

Gặp lại Lượng, em của một người bạn thân trước 75 là Quảng, giờ đã vượt biên và định cư ở Canada. Về ở với Lượng, đi học chụp hình và cùng làm nghề nuôi thân với Lượng, cuộc sống tôi ổn định và thú vị với cái nghề tạm gọi là: Chụp hình lưu niệm.

Thời kỳ này, đã bắt đầu chụp hình màu trở lại. Ngày trước 75, cũng đã có hình màu nhưng phần nhiều là hình chụp lấy liền, với loại máy Polaroid vả giấy ảnh chụp xong là có hình, chỉ cần bóc lớp giấy mỏng. Sau 75, do khó khăn là thị trường không nhập được giấy ảnh nên rất đắt, rồi dần hết hẳn. Về sau, thời kỳ tôi làm chụp hình dạo, một số phim màu được đem về từ Đức, hiệu Agfa, thỉnh thoảng có  Kodak( Mỹ), bắt đầu có hình màu trở lại. Nhưng cũng rất khó khăn vì khâu tráng rọi thủ công. Cả nhóm thợ chúng tôi, nhiều khi  ba, bốn điểm chụp mới có một máy gắn sẵn phim màu, chỗ nào có khách thì chạy đến lấy về chụp rồi trả máy ngay. Khi cắt phim để rửa vì chưa hết cuộn,  rất buồn vì phải mất chừng ba kiểu phim, dù đã nối đuôi phim! Phần nhiều là thợ nào cần gấp thì chịu khoản phim này, Hẹn khách cả tuần mới giao ảnh, và đắt như vàng, chỉ tám kiểu là có thể ngang với một chỉ vàng!

Lượng đón đầu “phong trào” bằng cách đi học tráng rọi ảnh màu.

Quảng gởi về cho Lượng mấy đợt thuốc Tây, dành dụm mua được cái máy rọi ảnh Axomat, của Đức., vừa rọi ảnh đen trắng vừa có thể rọi ảnh màu, nhưng phải kèm nhiều phụ kiên hổ trợ như: Đồng hồ ngắt điện tự dộng (timer). Máy phân tích màu…( analiser) Thay cho cái máy Lucky cũ chỉ rọi được hình đen trắng.

Thời điểm chúng tôi làm nghể, cài gì của Đức cũng tốt! (hơn Liên xô và các nước XHCN khác).

Học chụp hình ở CLB chỉ ba đêm một tuần, tôi vẫn theo học đều đặn vì rất cần giấy chứng nhận của CLB. Người ta nói: “học thầy không tày học bạn”, trường hợp tôi thật đúng, chỉ cần Lượng bày cho tôi hai buổi, là tôi có thể tự canh ánh sáng qua khẩu đô, tốc độ, chỉnh nét….

Thực tập thêm bằng cách hai anh em đạp xe ra dường Tôn Đức Thắng, gần hãng tàu Ba Son, Lượng làm người mẫu, tôi chụp hình, lấy nửa người, nguyên người, có phông là những chiếc tàu, hay xóa phông, phông xa, phông gần, bố cục ảnh, chiều sâu ảnh…chưa đến một cuộn phim Orwo là tôi chụp được. Tối hôm thực tập, hai anh em cùng pha hóa chất, tráng phim. rọi ảnh. Lượng chờ sấy hình xong, đem ra hai anh em cùng xem…Lượng phán một câu làm tôi mát dạ:

– Ăn tiền thiên hạ được rồi!

Cái máy ảnh của Lượng tôi đang dùng hiệu Canon QL 17. gọi là mày gián tiếp, phân biệt với máy trực tiếp là hình ảnh đến mắt qua một lăng kính sau ống kính. Máy gián tiếp thì che tay đầu ống kính vẫn thấy hình vật chụp, Máy trực tiếp nếu che đầu kính sẽ không thấy gì. Máy gián tiếp lấy nét bằng cách chỉnh cho hai hinh chập lại nhau, trời sáng rõ thì dễ, chỉ nhắm hạt nút áo, hoặc một bên vai…nhưng trời âm u hay hơi tối thì rất khó khăn. Sai nét tức là bỏ tấm hình vì khách nào nhận tấm hình mờ! Suốt ngày, lúc nào rảnh là tôi mang máy ra tập chỉnh nét (focut). Chi tiết kỷ thuật này ám ảnh tôi ngay cả trong lúc ngủ!

Ngày sau, Lượng đem tôi đến gặp tổ trưởng tổ chụp hình lưu niệm, thuộc HTX nhiếp ảnh quận I. Xin thế chân Lượng, vì Lượng hoàn toàn dành thời gian cho việc học ảnh màu. Đã là dân chụp hình kiếm cơm, anh em thợ phần nhiều rất thoáng. Chúng tôi làm quen bằng một chầu nhậu, cũng chỉ rượu cây lý,  khô cá đuối…

Tôi bắt đầu vào sáng hôm sau, bấm những kiểu hình ăn tiền của khách!

oOo

Hai anh em chúng tôi dậy cùng lúc. Lượng vào phòng tối, đem cho tôi cái túi xách màu đen, Tôi ngạc nhiên nhìn Lượng lôi từ trong túi ra một con gấu bông, một cái lục lạc…đồ chơi trẻ con. Lượng cười với tôi:

– Bảo bối đó, có khách nào ẳm theo em bé, anh dụ cho cháu cười rất dễ, lại dụ thêm vài kiểu cũng không khó!

Hôm nay không uống cà phê cửa hàng, chúng tôi lên tới nơi chụp hình, uống cà phê với anh em thợ.

Gần cuối năm, thợ cứ ngồi với nhau là kháo chuyện chụp hình dịp tết. Ai cũng hy vọng vào dịp này có thể trang trải nợ nần, giải quyết nhưng khó khăn trong năm.

Lượng cũng sẽ đi chụp trong dịp tết nên hai chúng tôi đang lo lắng vì hiện chỉ có một cái máy, mua thêm thì không đủ tiền!

May cho tôi, chú em con chú ruột tôi, là Trung úy Quân cụ, bị thương mất một mắt, ngày 30/4 là thương binh, trốn trình diện, trốn cải tạo, về miền Tây, ở tận Minh Hải, Cà Mâu. Làm nghề bán cà rem từ 75 đến nay. Nghe tôi vào Sài gòn, đang làm nghề ảnh, chú viết cho tôi một lá thư dài, kèm thêm 05 đồng cho tôi đi xe… nhắn tôi về chơi. Tôi về, anh em mừng mừng tủi tủi vì quá lâu không gặp nhau, giờ gặp lại trong hoàn cảnh này…Sau khi thắp nhang trên mộ Thím tôi, chú ấy khóc thật nhiều:

– Em về đây là để tính chuyên vượt biển. Hai lần rồi không được, may là không bị bắt. Em tính khi đi thì chôn số vàng còn lại dưới tấm bia mẹ em, rối qua được sẽ nhắn anh vào đem mẹ em về quê. Chuyến vừa rồi, em chôn tới 4 cây vàng đó, vậy mà …

Là vai em, nhưng chú ấy lớn hơn tôi tới 15 tuổi. Về nơi đây, chú khai không biết chữ, thỉnh thoảng có việc gì phải ký tá, chú ấy xin lăn tay hoặc viết chữ thập! Nhưng rồi con gái đầu học lên đến cấp 2. không có ai kèm nên chú kèm cho nó. Thầy ngạc nhiên vì nó học xuất sắc, nhất là toán. Hỏi nó ai dạy cho nó, nó hồn nhiên nói là ba dạy! Chuyên vỡ lở, nhưng địa phương rất thoáng, họ cho qua hết, chỉ lâu lâu có việc gì cần người biết viết lách…thì nhờ chú ấy!!!

Đêm lại, chú ấy đem ra một cái máy mới tinh, bọc nhiều lớp vải, còn nguyên bao da màu nâu, hiệu Minolta. Máy này là của chú em, em của chú ấy đem về từ Mỹ. sau lần đi du học Kiểm soát không lưu mấy năm trước, Sau 30/4, chú ấy qua lại Mỹ từ phi trường Biên Hòa.

– Anh cầm lên Sài gòn mà làm nghề, em để lâu cũng hư !

Tôi xem qua máy, bấm nghe màn trập nhảy tốt, mừng vô cùng!

Về Sài Gòn. Lượng cũng mừng, máy dễ sử dụng vì ánh sáng auto. Trên đầu máy có một màn hình, hai chiếc kim, một chiếc màu dỏ nhỏ, một chiếc kim màu xanh lá cây lớn hơn. Cứ hướng máy về vật chụp (chủ đề), kim đỏ sẻ nhảy theo ánh sáng lúc đó, thợ chỉ cần vặn cho kim xanh chồng lên kim đỏ là đúng sáng!

Chụp và tráng rọi mấy kiểu hình, cả hai chúng tôi an tâm lắm. Ngày sau, tôi bỏ máy Canon ở nhà, dùng máy mới…Đến nơi chụp, anh em thợ ai cũng trầm trồ vì máy mới, ống kính trong veo, không một chút halo vì nhìn vào lớp màu tím nơi ống kính là biết. Lượng nói với tôi:

– Lâu lâu anh cũng nên dùng máy Canon kẻo quên đi kiến thức. Máy này thực ra không dùng cho thợ. Anh không chủ động kết hợp khẩu đô và tốc đô để tạo được chiều sâu ảnh, không xóa được phông, không chụp được hình ngược sáng…Qua tết, có đủ tiền thì mình mua thêm máy.

Lúc này, ban đêm tôi đi học, các thầy đang dạy: “ Tăng một nấc khẩu độ, bằng giảm một nấc tốc độ, hoặc ngược lại…”.

Tôi vẫn không nản, cứ ngồi nghe thầy giảng những đều đã biết! Giáo trình hình như được lấy từ hai cuốn Kiến Thức Phổ Thông mà tôi đã thuộc nằm lòng!

oOo

 

Càng gần đến tết, chúng tôi càng xôn xao vì chỗ chúng tôi đang hành nghề không phải lả điểm tập trung khách. Phần nhiều thợ tìm đến những điểm khác ngoài địa bàn xin vào chụp mấy ngày tết.

Tôi và Lượng cũng băn khoăn nhiều về chuyện này, nhưng vì tôi không có giấy phép và hộ khẩu nên chưa biết làm sao!

Cũng thêm một dịp may đến với tôi, nhưng lần này thì không suông sẻ!

Một bạn nghề già, chú Vang, lớn tuổi rồi, năm nay cũng đã 58 tuổi, nhưng vẫn còn làm nghề, chú khoe với tôi là chú có một ông hàng xóm, ngoài Bắc vào, hình như là con ông cháu cha gì đó bên sở Văn Hóa. Thầu chụp hình ở cảng Nhà Rồng. Lúc này vừa xây xong nhà lưu niệm rất hoành tráng. Cần nhiều thợ. Bản thân chú Vang cũng sẽ chụp ở đó dịp tết này. Tôi và một anh thợ nữa, anh Tùng, làm nghề khá lâu rồi, quê ở tận Bình Dương, cũng không có hộ khẩu Sài gòn, nhờ chú ấy xin dùm…

Không khó khăn gì, chiều 28 tết, chúng tôi cùng nhau đến gặp ông Danh, người thầu ở Bến Nhà Rồng để hợp đồng. Chúng tôi rất phấn khích, háo hức và tin tưởng lắm…

Tôi lo nhiều nhưng cũng trấn an mình vì nhờ cái máy mới, Không có đèn (flast) nên tôi quyết định không chụp ban đêm như lâu nay. Ba chú cháu chúng tôi luôn cặp kè bên nhau, những ngày này ít khách, ngồi uống cà phê hoài. Chiều chiều chúng tôi cũng làm vài xị cây lý, lạc quan mong chờ ngày tết!

Hợp đồng rất dễ: Chúng tôi chỉ cần có máy và tay nghề. Phim, tráng rọi ảnh đều do tổ tráng rọi của ông Danh lo, hẹn khách ngày sau nhận hình. 22 giờ giao phim và đếm biên lai giao tiền cho tổ trưởng, nhận phim cho ngày mai… tại nhà ông Danh.

Nhưng đến ngày cuối, khi nhận xong phim và những tập biên lai thì người của ông Danh yêu cầu thợ hẹn khách ba ngày! Phim được nhận không phải là phim Orwo của Đức như lâu nay chúng tôi vẫn dùng mà là phim Liên xô! Tên đọc từ tiếng Liên Xô là “Tắc ma”, cũng có loại hệt như thế, dọc là “ Xvai ma” Có hộp nhưng nhìn qua, chúng tôi rất nghi ngại về chất lượng, vả lại chúng tôi không quen chụp phim này, chú Vang hỏi, muốn tự mua phim orwo nhưng không được, người của ông Danh bảo: Cứ chụp bình thường như phim orwo.

Thực ra, phim này đã lưu hành lâu rồi nhưng ít ai dùng, chỉ trong các cơ quan, dịch vụ của nhà nước. Chất lượng có thể gọi là “may rủi”, Thợ chụp hình tránh xa, đến độ có người không biết nó tồn tại trên thị trường, như tôi !

Sáng mồng một chúng tôi có mặt, gặp nhau nhưng vì chưa có khách nên vào Can tin, uống cà phê. Ở đây cũng đã có một đám thợ khác, là người đã hợp đồng thẳng với HTX Nhà Rồng từ trước. Họ ung dung và có vẽ không lo lắng gì, họ có điểm giao hình và có người trực giao hình cho khách. Gần chín giờ, cũng lác đác vài anh thợ nữa đến, họ cũng hợp đồng với ông Danh. Nhập bọn cùng nhau, chúng tôi cũng chuyện trò thân tình vì cùng là thợ kiếm cơm như nhau…

Những thợ này cũng lo lắng vì phải chụp phim Liên xô và hẹn giao hình ba ngày như chúng tôi! Tự giao hình là một khó khăn vì khách phải tìm thợ, giao hình thì trở ngại chuyên chụp hình! Chúng tôi dự tính sẽ nêu khó khăn này với ông Danh vào cuối ngày…

oOo

Không có đèn flass là một thất lợi lớn. Tôi không dám chụp trong phòng trưng bày, chỉ lợi dụng hành lang và cửa sổ, nhưng cũng chỉ chụp hạn chế rồi đề nghị khách ra ngoài. Đêm thì hoàn toàn bó tay. Suốt ngày mồng một tôi chỉ chụp được năm (05) cuộn. Cổ tôi khàn, chân rã rời vì lên xuống cầu thang, chỗ này qua chỗ nọ theo khách!

Chiều, tôi về nhà ông Danh giao phim và tiển. Đếm theo biên lai được 184 kiểu, mỗi kiểu 05 đồng. Tôi nộp dủ 920 đồng cho thu ngân. Thu ngân là con gái của ông Danh. Tôi nhận biên lai rồi chạy về tìm Lượng ở điểm chụp.

Cái flas Lượng đang dùng hiệu Sunpak, có giá tới hai chỉ vàng. Nhưng có tiền chưa chắc đã mua được, phải ra các Kios chuyên buôn bán vật tư máy ảnh ở đường Nguyễn Huê đặt hàng may ra có, mà có cũng phải chờ vài tháng!

Tôi ngồi nghỉ một lát rồi thế chân cho Lượng nghỉ, uống ly nước, hút điếu thuốc! Lượng không chờ tôi hỏi, đưa năm ngón tay ý là đã năm cuộn phim. Tối nay nếu khá thì cũng thêm chừng  02 cuộn.

Lượng tuy ngồi nghỉ, nhưng luôn quan sát tôi để nhắc “gối phông”. Chụp đèn những nơi này mà không gối đầu và thân của khách lên một cái gì đó thì thua. Một bức tượng, một chậu hoa cao, Gốc cây….Ánh sáng đèn bắn vào khoảng không coi như chỉ sáng khuôn mặt, xung quanh tối, tóc mất hai mảng bên này, bên kia, hình rất xấu!

– Chụp đèn bên ngoài khác xa với trong nhà, nên phải luôn luôn tìm một cái gì đó làm vật phản quang nhe anh Sinh!

Lượng dặn tôi thật kỹ từ tháng trước, khi anh em tập sử dụng đèn, nhớ lời Lượng như in, tôi kiếm những chậu hoa kê gần tường, cho khách đứng…

Giao máy lại cho Lượng chụp, tôi phụ thu tiền và ghi biên lai.

Đúng như tôi dự đoán, đêm đó Lương chụp thêm 02 cuộn. là 07 cuộn. Mười giờ đêm chúng tôi về đến nhà, Tôi nói với Lượng về việc tôi dùng phim Liên Xô. Lượng cũng lo lắng không kém tôi.

Hai ngày, mồng hai và mồng ba, đám thợ hợp đồng của ông Danh và chúng tôi mong chờ tối mồng ba đễ nhận hình khách từ tổ tráng rọi ở nhà ông Danh.

Nỗi ám ảnh hình xấu, hình hư làm tôi lo lắng không một phút nào quên. Tôi không biết có phải đây là lương tâm nghề nghiệp hay không, nhưng cứ nghỉ đến khách thất vọng rồi to tiếng…là tôi lạnh người!

Chiều mồng ba. Minh, một người bạn từ hồi còn ở đường Hồ Đắc Hanh Quảng trị. Ghé vào tìm tôi. Lâu quá không gặp…Minh cũng chụp hình dao bên Thủ Thiêm, chụp loanh quanh các gia đình chứ không có điểm cố định nào. Anh em cho biết tôi ở đây, nên ghé thăm.

Khi tôi quay trả phim để ráp cuộn mới, Minh cản tôi lại:

– Trong máy tao còn chừng 16 kiểu, mày chụp luôn dùm tao, tối giao thợ làm hình, khỏi phải cắt phim mất công! Mai tao đem hình và phim qua.

Tôi hỏi Minh:

– Phim gì vậy Minh?

– Orwo. Vậy mày chụp phim gì?

– Phim Liên Xô mới lo chứ!

– Ủa sao không xài Orwo?

– Tay nhà thầu bảo giống nhau.Thợ hợp đồng với nó toàn xài loại này!

Tôi rã rời không muốn chụp tiếp. xong đoạn phim của Minh, hai chúng tôi cùng đi uống cà phê, đưa tiền 16 kiểu cho Minh rồi tôi về bên nhà ông Danh giao phim…

Đúng ra, ngày hôm nay là thợ phải nhận hình chụp hôm mồng một, mồng hai, để sáng mai giao cho khách theo như hẹn ba ngày. Nhưng cô thu ngân nói là tổ làm hình làm chưa xong. Cứ đóng phim và tiền ngày hôm nay, rồi ngày mai, mồng bốn nhận hình và thanh toán luôn tiền công.

Tôi phân vân, vì thợ vẫn đang chụp nên không gặp ai mà hỏi han. Tiền và phim chụp ngày hôm nay được 04 cuộn, tôi cũng đã đóng! Lo lắng mà không nói được với ai, tôi quay lại Nhà Rồng gặp chú Vang và anh Tùng. Họ cũng tức tối và lo lắng rã rời, các thợ khác cũng xúm lại xôn xao…

Một anh thợ có vẽ sành sỏi, bộ dạng ra dáng dân giang hồ:

– Đù má tụi này định chơi trò “ Sóng giang” rồi!

Chú Vang hỏi:

– Sóng giang là sao?!

– “Sáng dông” đó mà, mai mốt tụi nó ôm tiền về Bắc, thánh nào tìm cho ra?! Tụi mình đừng chụp nữa, bây giờ về nhà cha Danh, nhớ là không giao phim và tiền ngày hôm nay. Đòi đưa hình hai ngày trước, có hình mới tiếp tục. nếu không có, mai chúng ta mua phim va biên lai. Tự chụp…Nhớ là chưa có hình thì không giao phim và tiền…

Tôi như đứng không vũng, muốn ngồi thụp xuống đất. Tôi đã giao tiền và phim hôm nay. Cà ba ngày là 13 cuộn phim, Tôi không giữ lấy đồng nào!

Cả nhóm gần chục thợ cùng kéo nhau về nhà ông Danh đòi hình…

Cuối cùng, một gả đàn ông chừng 35 tuổi, đem ra một ôm phim trắng nhếch, thả tất cả xuống cái bàn:

– Các anh không biết chụp hình, coi phim này, hoàn toàn thiếu sáng, phim thế này làm sao ra hình cho được! Cả bọn im lặng, chết điếng đi một lúc, rồi cũng anh thợ có dáng giang hồ lớn tiếng:

– Đù má, tao nói cho mày nghe nhé, thằng nào ở đây cầm máy ảnh bét gì cũng dã 5 năm, ăn cơm thiên hạ mòn răng rồi, tụi mày lấy phim quá đát, lại là của liên xô, không bắt sáng. Giờ đổ thừa cho thợ phải không?

Một anh thợ khác:

– Mày ra đây, tao còn trong máy mấy kiểu, mày chụp tụi tao rồi tráng phim ngay, coi tại ai?

Gả đàn ông lầm bầm rồi lén vào trong nhà

Con hẻm xôn xao, người trong xóm đến xem chật ních. Lúc này mới có nhiều bà con cho biết:

– Nhà này là của một cán bộ, lâu nay cho thuê, dạo gần đây thì đóng cửa cho đến khi ông Danh vào…

– Đù má, đúng bài sóng giang mà! Anh em giữ lấy tiền ngày hôm nay, cố gắng tìm chỗ làm hình giỏi, may chăng cứu được. Mai mua phim orwo và biên lai, tự chụp, tự kiếm chỗ làm hình và tự giao. Không lẽ bỏ cái tết sao?!

Tôi nghe đắng trong cổ mình, Cái tết nhiều hy vọng mua cái flass tiêu tan!

Không dủ can đảm chụp tiếp vì sợ khách làm  reo. Mấy hôm sau tôi về đứng phụ chụp cho Lượng. Thấy tôi cứ bần thần buồn bã, Lượng nắm tay tôi siết thất chặt;

– Mình em chụp cũng dư mua đèn, anh đừng buồn, còn nhiều cái khốn nạn nữa chứ chưa hết đâu!

 

 

Chia tay là vĩnh biệt.

                                     

 

 

Qua tết, Tôi vẫn còn sốc với chuyện phim Liên xô! Tâm trạng hoang mang không biết có nên tiếp tục làm nghề chụp hình lưu niệm không?

Kiếm một công việc khác để nuôi thân vào thời điểm này cũng không dễ. Lượng hối thúc tôi đi mua cái flash, nhưng tôi ngần ngừ chưa muốn, thứ nhất là vì còn dao động trong thâm tâm, thứ hai là tiền mua đèn hoàn toàn do Lượng chi ra chứ tôi không có.

Tháng trước, hai anh em tôi đã lên nhận giấy chừng nhận xong khóa học ở CLB, đăng ký học tiếp khóa II được hai tuần rồi. Với tấm giấy chứng nhận này, tôi chỉ có thể cầm máy ảnh và sử dụng hợp pháp chứ chưa thể xin vào điểm chụp hình nào trong thành phố vì không có hộ khẩu thường trú.

Sau tết, công việc tráng rọi ảnh màu của Lượng cũng bận rộn, Lượng vừa học vừa làm phụ với thầy nên tôi chụp ban ngày, ban đêm tự tráng rọi ảnh để ngày mai giao cho khách. Có khi Lượng ghé điểm chụp hình, hai anh em cùng về, có khi tôi về trước, 11giờ đêm Lượng mới về tới nhà!

Lượng thấy tôi nản lòng, khích lệ:

– Làm nghề này được cái tự do, ít phụ thuộc, đỡ vất vả hơn so với những việc làm kiếm cơm khác. Nhưng cũng có những lúc xui xẻo. Anh đừng nản lòng. Sau nảy còn có những chuyện không do mình mà là do nhiều cái khách quan gây ra…Cũng đắng cay lắm!

– Ừ, anh cũng thấy như vậy. Nhưng thế này, mình xem có loại đèn nào rẽ, mua một cái làm một thời gian rồi tính. Em còn cả gia đình, bỏ ra hai chỉ vàng mua cái đèn cho anh, anh xót ruột lắm!

Lượng ngẩm nghĩ một lúc:

– Em nghĩ mua đồ làm nghề thì nên mua một cái cho ngon luôn. Hiện nay có loại đèn Crown chỉ năm phân vàng là mới tinh trong hộp. Thợ cũng dùng rất nhiều.

– Được đó, mình mua loại đó đi Lượng.

Hai anh em chúng tôi đạp xe một ngày, rảo qua các cửa hàng bán đồ nhiếp ảnh. Mua được một cái đèn hiệu Crown. Cũng dùng 4 pin, mua luôn bộ charge. Đèn lên khá nhanh, độ phát sáng không bằng đèn Sunpak, thợ dùng quen cho biết là nên tăng ½ khẩu độ, cự ly 3,5m trở lên thì tăng 1 khẩu độ khi chụp là vừa.

Lượng nói thêm:

– Mình chủ động tráng phim nên anh không lo, cứ tráng tăng thời gian chút xíu là đẹp hình thôi.

Nhìn cái đèn, 4 viên pin và bộ chage, mới tinh và hiện đại…tôi lại phấn chấn tinh thần…Lượng cũng vui với niềm vui của tôi.

oOo

Sau tết là mùa nghỉ của thợ ảnh. Minh tìm chúng tôi rũ đi chơi. Gặp anh em bạn bè mấy hôm, chuyện trò vui vẽ…So với anh em, Lượng và tôi làm ra tiền nhẹ nhàng hơn nên phần nhiều cuộc vui Lượng dành thanh toán.

Trong số bạn bè, có Phương là người ở Sài gòn lâu nhất. Một hôm Phương đến tìm tôi và Lượng tại nhà:

– Ê, có mối chụp hình này ngon lắm.

Lượng và tôi cùng hỏi:

– Ở đâu?

– Bình Dương. Chổ xưởng rượu “ Gin” tao đang làm đó. Xưởng nhận bằng khen và huy chương hôm triển lảm hội chợ Hàng Tết ở Hà Nội.

Phương vào Sài gòn khá lâu, bên vợ có nhà ở khu Hòa Hưng. Vùng này có một số gia đình là công chức chế độ cũ. Các ông gom vốn mở xưởng sản xuất rượu Gin, tạo công ăn việc làm cho con cháu…

Ở Sài gòn sau 30/4/75. Thành phần không có việc làm rất dễ bị đi kính tế mới, hoặc TNXP. Những người này có trình độ, họ cũng còn chút vốn liếng, xin hợp đồng với Huyện đôi Huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương, mở một xưởng sản xuất rượu, công thức họ nghiên cứu từ quy trình sản xuất rượu trái cây lên men của Pháp. Tận dụng nguồn trái cây của Bình Dương…Không những tạo việc làm cho con cháu, xưởng cũng thu nhận khoảng chừng 30 công nhân địa phương…

Vừa qua, triển lãm Hôi chợ hàng Việt Nam, xưởng được tặng huy chương mặt hàng Rượu. Chính quyền tỉnh Bình Dương rất vui mừng. Các bác trong xưởng làm tiệc mừng đón nhận huy chương theo gợi ý của Tỉnh.

Hồi mới vào Sài Gòn, Phương có rũ tôi vào làm công trong xưởng rượu, nhưng do lương không đều, lại rất thấp vì các bác phải bán tài sản trả lương, duy trì hai năm nay, với rất nhiều khó khăn mới hình thành và sản xuất được hàng đem triển lãm và tiêu thụ với số lượng ít ỏi, nên tôi từ chối, Tôi cũng có theo Phương về ở chơi vài lần, công nhân rất vui vẻ và thuận hòa vì xưởng tổ chức như một gia đình.

Lần này tôi và Lượng cùng lo vì chưa lần nào tôi chụp hình hội nghị, đám tiệc đông người. Nhưng rồi Lượng khích lệ tôi:

– Tiệc buổi trưa nên cũng không khó, anh cứ gắn đèn, bắn phụ vì đứng xa và nhiều người trong ảnh. Tránh cửa sổ vì bị ngược sáng, ánh sáng này rất mạnh, nhưng có đèn phụ nên cũng bớt lóe sáng. Bố cục anh đóng khung ảnh cho thật chặt, đừng thừa, đừng cắt mặt và đầu người, cái này thì về làm hình mình bố cục lại, nhưng tránh trước vẫn hơn. Chú ý cái phông và nội dung ghi trên phông. Khi chụp bàn tiệc anh nhớ là đứng trên một chiếc ghế đẩu rồi khom người xuống, cao hơn bàn tiệc để tránh đầu người lô nhô trong ảnh. Khi họ nâng ly anh nhắc hạ bớt đừng để che mặt nhau!

Những lời khích lệ của Lượng, trở thành bài học cho tôi lấn ấy và rất lâu, suốt những năm cầm máy sau này…

oOo

Sáng chúa nhật hôm đó, tôi run thật sự, khi mấy chiếc xe của tỉnh đoàn, huyện đoàn và quan chức đến. Tôi ân hận sao không kéo Lượng đi theo, dù sao cũng lên tinh thần hơn! Lượng không cho tôi dùng máy mới tự đông mà chụp bắng máy Canon QL 17. Tiêu cự 40mm rộng hơn máy Minolta, tiêu cự 50mm

Rồi cũng qua giây phút sợ hãi ban đầu, tôi nhủ lòng: Phải cẩn thận, nhẩm lại những gì Lượng dặn, tôi chụp chậm và tính toán kỷ từng tấm hình. Phương và bác Giám đốc không hạn chế số lượng ảnh: “ Mày cứ chụp thoải mái”, Phương nói  thế nhưng tôi chỉ chụp 50 kiểu, chưa hết 2 cuộn phim Orwo.

Chụp xong, tôi định đạp xe về, mấy công nhân kéo tôi ở lại để chụp ngoài, nhưng tôi hẹn lại khi nào về giao hình sẽ thong thả hơn, chụp đẹp hơn…Họ muốn chụp bên lò chưng cất, bể lọc nước và trong kho lên men…nơi mà hàng ngày họ sinh hoạt.

Tuyền, con của chú Vàng, tổ trưởng tổ lên men, đem đến cho tôi một cái khăn ướt và ly nước chanh đường. Lúc này tôi mới thấy mình ướt nhẹp mồ hôi. Tôi cảm ơn Tuyền bằng ánh mắt, ngồi xuống nơi bậc cấp uống ly nước mát lạnh. Cổ tôi khàn đi vì lo lắng, vì luôn miệng nhắc nhở các vị khách, cứ nâng ly là không thấy được mặt ai trong bàn!

Tuyền ngồi bên tôi như chờ lấy ly và khăn. Tôi nhìn Tuyền, nét phúc hậu, khả ái hiện rõ trên toàn gương mặt. Tự dưng tôi bâng khuâng!

Tôi đã gặp Tuyền trong những lần về chơi trước đây, Có chú ý Tuyền ví cô lớn tuổi nhất, có vẻ là đàn chị của tổ lên men. Lúc làm việc, họ mặc áo dài phủ tay, mặt đeo mạng và ai cũng giống ai. Tôi cũng có chút cảm tình đặc biệt với Tuyền cũng bởi cô là con gái lớn của chú Vàng, người ít nói nhưng hay cười, hiền hòa ngồi bên lò chưng cất với cuốn sách thường xuyên trên tay. Lần đầu tôi được Phương dẫn vào giới thiệu lò, Chú đang đọc cuốn “Quo Vadis”. Bằng tiếng Pháp. Tuyền cũng đã đỗ tú tài và đang học đại học thì biến cố 75 đến!

Các bác, các chú ở nơi đây đều có trình độ, từng làm công chức chế độ cũ. Đi cải tạo về với tấm giấy khoan hồng của chính phủ cách mạng lâm thời, trung bình chỉ chừng một tháng, tháng rưởi… Họ mừng vì với những người bạn đồng liêu ở các nơi, bây giờ vẫn còn đang lao động trong các trại cải tạo, có người bị đưa ra tận Nam Hà, ngoài Bắc!!!

Họ rũ nhau lập xưởng với công sức và tài chánh không còn bao lăm sau đổi tiền. Với số tài sản còn lại ít ỏi họ không ngại ngần bán đi để cùng xây dựng nên xưởng sản xuất rượu Gin.

– Anh lên lại Sài gòn chiều nay ả?

– Ừ, tráng phim và rọi hình xong, khoảng chiều ngày kia anh xuống lại.

– Những tấm ở bàn của khâu lên men, anh làm thêm cho em với nghe.

Tôi nửa đùa nửa thật:

– Đẹp thì làm thêm mà xấu thì thôi nhé?!

– Kỷ niệm mà, xấu đẹp gì !

Một đám cả nữ lẫn nam kéo đến:

– Chị Tuyền, chị nói anh nhiếp ảnh vào chụp cho tổ mình một kiểu ngay “dãy chuồng lên men” đi.

Khu lên men được xây y hệt chuồng nuôi heo, cao khỏang 90cm và ngăn lại, Chia ô lên men, ô chứa Thơm, ô chứa Mít, Chuối…ủ dưới những bao tải. Vào khu này lúc nào cũng có mùi ngây ngây như men rượu. Tuyền nói, giọng nhẹ nhàng:

– Anh Sinh phải đạp xe lên Sài Gòn. Xa quà, thôi để ngày kia ảnh xuống lại, mình chụp nhiều nhiều luôn.

Tôi chào Tuyền và các công nhân. Một cậu trai chạy đến cầm tay tôi:

– Em có phát biểu trong lễ, anh Sinh phóng thêm cho em tấm nghe.

– À, anh làm thêm cho cả tổ lên men nữa. Chờ nghe, ngày kia.

Tôi dắt xe ra cổng, đạp về Bình Thạnh. Hình ảnh Tuyền đi cùng tôi trên suốt đoạn đường, ngay cả khi vào phòng tối, chuẩn bị tráng phim và rọi ảnh!

oOo

Bỏ những thau thuốc cũ, tôi pha lại thuốc mới. Hồi hộp tráng phim, sau khi cho “riu”qua thuốc định hình, tôi mừng rỡ khi kiểm tra phim, phim trong và đẹp. Đôi mắt dịu dàng của Tuyền lại hiện đến làm  hưng phấn lòng tôi.

Chờ Lượng về, tôi ra đầu ngõ uống ly cà phê. Ngồi vẫn vơ…nhớ Tuyền…

Tôi cũng đã hai mươi tám tuổi, cùng tuổi với Tuyền. Không phải lần đầu tôi biết xao xuyến vì một cô gái. Cũng đã có những cuộc tình đến rồi đi… Những cuộc tình qua đi vì tôi không cố níu giữ. Níu giữ làm gì khi mà bản thân chưa lo được cái ăn, cái ở cho mình, Mưu sinh trong một hoàn cảnh khó khăn, những thiếu thốn tối thiểu nhất đã làm tôi sợ hãi chuyện hôn nhân!

Nhưng dạo gần đây, ở cùng gia đình Lượng, tôi nhiều khi thèm cài hạnh phúc gia đình, một cuộc sống bình yên với một người vợ sẻ chia cùng nhau những buồn vui…Tôi tự cười tôi, nhưng rồi lại thấy rằng đây là một quy luật tự nhiên, một thèm muốn rất bản năng trong con người của thằng Tôi 28 tuổi, sợ cô đơn, thèm hạnh phúc!

Cái khăn ướt và ly nước chanh chiều nay nhận từ dôi tay của Tuyền, ánh mắt, nụ cười…Tuyền không nói gì, nhưng tất cả những cái ấy đã cùng lúc nói thật nhiều vời tôi, rồi lớn lên , chiếm lĩnh hồn tôi với niềm cảm xúc tuyệt vời!

Gặp nhau chưa lâu, chỉ thỉnh thoảng, nhưng trong lòng tôi đã hình thành một hình ảnh khá trọn vẹn về Tuyền! Tôi đã yêu rồi người con gái ấy!

Lượng về nhà không thấy tôi, nhìn hai dãy phim đang treo, đoán là tôi ra quán.

– Phim đẹp đó chứ anh Sinh!

– Ừ, anh toát mồ hôi mấy lần, không có những kinh nghiêm Lượng dặn trước, anh chắc bỏ về không dám chụp luôn!

Thường thì chúng tôi phải đi mua lẻ giấy rọi ảnh nơi cửa hàng vật tư ngành ảnh Hồng Đào,  đường Quách Thị Trang, quận 1. Nhưng mấy hôm nay sau tết ít hình, giấy còn thừa rọi cho gần hai cuộn phim tôi vừa chụp. Chuẩn bị một lát, rữa sạch mấy cái chậu đựng thuốc định hình, rửa ảnh, Lượng muốn tôi tự làm nhưng tôi nói:

– Chú rọi số hình này, luôn tiện bố cục lại, lại nữa phim không đều “tông” , anh làm không đẹp bằng chú đâu.

oOo

Cho phim và hình vào túi xách, tôi nói với Lượng:

– Anh về giao xong hình, có thể ở lại chơi thêm một hai ngày…

Hôm qua khi rọi hình, tôi có chỉ cho Lượng xem hình của Tuyền. Tuy hình đông người, nhưng nhờ vị trí ngồi ngay giữa ảnh, nên Tuyền khá rõ ràng. Lượng cũng thấy Tuyền xinh:

– Để em đem vào cho vợ em xem, chị ấy coi bộ phúc hậu nhưng hơi lớn tuổi phải không?

– Bằng tuổi anh, con gái đầu nên có vẻ chững chạc, chín chắn lắm!

– Lần này anh coi “ dừng bước giang hồ” được rồi…

Tôi cười nói với Lượng:

– Anh vẫn chưa tỏ tình hay hỏi han cô ấy câu nào về tình cảm của cô ấy đối với anh!

Quả thật, tôi quá trẻ con và chủ quan khi tin rằng Tuyền cũng có cảm tình với tôi!

Con đường Điện Biên Phủ dài thật dài, qua khỏi cầu Bình Triệu, Tôi ghé vào quán nước gần ga xe lửa, uống ly cà phê. Chủ quán là một trung niên, có cái máy Cassette khá to và là tay sành “ nhạc vàng”. Đã uống vài lần nơi đây nên anh ta biết tôi. Chào hỏi qua loa rồi vào trong thay cuốn băng: “Băng Vàng Shotgun 71”. Gồm những bản nhạc tiền chiến mà tôi rất thích từ những ngày còn cắp sách đến trường, trốn học, học đòi làm người lớn, ngồi nhâm nhi nghe nhạc bên ly cà phê đen…

Tôi xuống đến Thuận An cũng đã trưa. Các chú bác đi họp trên tỉnh chưa về, Khi chưa giao được hình thì trong lòng tôi hồi hộp không yên, may mà các công nhân kéo tôi đi chụp nơi này nơi kia… Tuyền luôn bên tôi, tôi thực sự cảm nhận được tình cảm của Tuyền dành cho mình.

Khi tuổi đời không còn nhỏ, chỉ cần một ánh mắt, một nụ cười… cũng đủ để nhận ra tình cảm của nhau…Tôi hút thuốc nhiều, Tuyền mang cái túi xách đựng hình. Tay cầm hộp quẹt và gói thuốc dùm tôi…

Chiều hôm đó các chú họp về, gương mặt không vui. Khi tôi đem hình đến văn phòng, Chú Hòa giám đốc khen hình đẹp nhưng cũng với thái độ hững hờ rồi gọi Dung, cô con gái làm kế toán kiêm thủ quỹ:

– Con xem thanh toán tiền cho anh thợ nhé. Ba lên Sài gòn trước với các chú, con lên sau.

Chú Hòa cùng vài người nữa buồn bã lên chiếc Toyota cũ của chù Hòa. Chú Vàng ba của Tuyền, gọi công nhân bộ phận lọc nước căn dặn rồi cũng lên xe theo các chú về Sài gòn…

Không khí của xí nghiệp chìm hẳn xuống, công nhân vẫn bình thường nhưng Tuyền thì buồn ra mặt. Tôi lên tầng trên, nơi có hồ nước lớn, tìm Dũng, bạn thân của tôi. Thấy tôi, nó hỏi to:

– Mày lên Sài Gòn hay ở lại?

– Chắc là ở lại, tối tao ngủ đây nhé?

– Ô kê ! Để tao đi kiếm cái gì lai rai…

Trời chiều, vùng nông thôn Bình Dương buồn buồn nhưng dịu mát, vườn cây um tùm bao bọc khắp nơi. Những cây dâu tây to lớn mọc che kín nhà cửa trong khu dân cư, đứng trên cao nhìn ra chung quanh, chỉ cỏn một màu xanh cây lá.

Dũng trở về với Kha. Con trai của bác Hòa, công nhân vẫn chưa quen gọi bác là giám đốc. Người Kha lấm lem dầu mỡ vì suốt ngày vật vả với chiếc xe chở trái cây và củi của xí nghiệp!

Kha nhỏ hơn tôi chừng hai tuổi, gương mặt gầy với cái miệng móm nhưng khi cười thì trông rạng rỡ vui vui.

– Anh Sinh ở lại chơi luôn à? Anh Dũng, có cái ca nào đưa em cái coi?

– Mày coi trong bi-đông còn rượu không, hôm qua tao với Giai, Phú làm hơi quá hớp!

Kha quay tìm cái bi-đông, lắc lắc rồi cười to:

– Có ông Giai mà rượu còn thì chuyện lạ!!!

Dũng lấy cái ca nhựa, lau qua bằng vạt áo may ô rồi đưa cho Kha, nói rồi nheo mắt cười với tôi:

– Nửa ca thôi Kha ơi, anh Sinh còn “tư tác” tối nay nữa đó!

– Tư tác gì vậy anh Dũng?

– Thì lâu lâu người ta về Thuận An, phải đi thăm vườn cây vườn quả chứ!

Chính tôi cũng chưa xác định được tình cảm của tôi với Tuyền và ngược lại, nhưng sự ân cần của Tuyền với tôi trong những lần tôi xuống chơi đã làm cho bạn bè cảm nhận được là chúng tôi có tình cảm với nhau, dù rất mơ hồ…

Kha cười cười cầm ca đi xuống chiếc cầu thang sắt:

– Chị Tuyền ghét mấy thằng nhậu lắm đó nghe.

– Ai biểu mày uống vào là cứ lải nhải, nói dai… ai chịu cho được!

Rượu ở đây chúng tôi không mua, chỉ cần múc nửa xị rượu nguyên chất ở lò chưng cất, cho nước lọc vào là ra một bi-dông, Vẫn ngon và đậm đà hương vị trái cây. Cái thích nhất là say cỡ nào sáng mai cũng không nhức đầu…

Lúc nảy, Dũng đi kiếm mồi nhậu, cũng chẵng có gì, một trái xoài và dĩa “thịt vịt quay hàng xanh”…Các quán nơi đây lên tận Hàng Xanh mua vịt quay về bán cho dân nhậu, dĩ nhiên là đắt như vàng!

Uống một lát, Tuyền và Hương cùng xuất hiện nơi cầu thang. Hương là bồ của Dũng. Hương thương Dũng lắm nhưng ngán nhất cài gàn bướng khi rượu vào! Những đêm say, hắn khoái ngủ trên thành bồn lọc nước, bề ngang chỉ chưng 0,20cm.  Nằm vòng tay ngủ. Rớt xuống bồn nước cũng nguy hiểm vì đang say, rớt ra ngoài bồn cũng không thua gì vì cao tới 3m5! Nói gì cũng không chịu nghe. Khi nào có tôi về, Dũng mới chịu nằm nền nhà cùng nói chuyện, thỉnh thoảng chay ra xem mức nước trong bồn, tinh thần trách nhiệm cao quá độ!

Có lẽ thấy mấy anh em nhậu với mồi quá đơn sơ, hai chị em nháy mắt với nhau rồi xuống dưới. chỉ chừng một giờ sau, cả hai khệ nệ bưng lên nồi cháo và con gà luộc, muối chanh…Dũng và Kha cùng cười:

– Gà và cháo của ai đây ta?

Tôi nhanh miệng:

– Còn của ai nữa, ở đây chỉ có Hương là người địa phương, Mày coi ăn đi rồi mai chi tiền Hương đem trả lại cho bà già!

Tuyền cười cười, vừa xé thịt gà vừa nói:

– Cả chuồng mà Hương chỉ bắt con này, nói là Gà đen ăn bổ, ông Dũng ho mấy hôm nay!!!

Chừng mười giờ đêm, cũng vừa xong bi-dông rượu. Kha xin đi ngủ sớm, mai còn tháo cái láp xe đưa lên Sài Gòn tiện lại. Dũng xuống tổ lên men cùng Hương tìm trái cây ăn “ giải nhiệt”.

Tôi và Tuyền ra ngồi nơi cầu thang. Bầu trời đêm trong vắt lấp lành những vì sao trông thật thanh bình.

– Sao chiều giờ buồn vậy Tuyền?

– Không biết mấy hôm nay họp chuyện gì mà các chú xuống tỉnh họp hoài, cứ họp về là ai cũng rầu rầu buồn bã, ít nói, làm cả xưởng buồn theo!

Tôi cũng buồn lây, nắm tay Tuyền rồi quàng tay kia ôm nhẹ bờ vai. Mùi hương lạ ngào ngạt, có lẽ là của những loại trái cây đang ủ trong các ngăn, vương vất trong không gian cộng với mùi thơm riêng biệt của mái tóc dài cột đơn sơ của Tuyền hòa với nhau…làm tôi ngất ngây!

Muốn an ủi Tuyền một câu gì đó nhưng tôi không biết phải nóí gì ngoài sự đồng cảm mù mờ…Đặt lên mái tóc Tuyền một cài hôn nhẹ, tôi ghì lấy đôi vai rồi tìm đôi môi…Tuyền quay người lại, nụ hôn thật dài…Tôi cảm nhận được tình yêu của Tuyền qua đôi môi ngọt, vòng tay ấm quàng qua lưng mình! Chúng tôi im lặng, dành thời gian cho những nụ hôn,..lấp đầy trời đêm mát lạnh.

oOo

Tôi có thể ở lại chơi thêm, nhưng tâm trạng không vui của Tuyền và của anh em công nhân làm tôi ngần ngại. Sau khi uống cà phê với Dũng. Kha, có Phương vừa từ Sài Gòn xuống và cả Tuyền, tôi lên lại Sài Gòn!

Thứ bảy đến thật nhanh, Phương ghé nhà cho tôi biết là Tuyền muốn gặp tôi ở xưởng chiều thứ bảy này. Tôi nhìn đồng hồ, đã hơn 06 giờ chiều. Cũng rán về thôi, một linh cảm bất an cứ ngồn ngộn trong lòng!

Vừa đạp xe vừa nghĩ ngợi. Có chuyên gì xảy ra được đây. Tôi nhớ lại câu chuyên của Hợp Tác Xã Mành trúc ở ngoài quê, Khi các Soeur Dòng thánh Phao Lô ở đó, vận động bên tòa Giám Mục và các nơi, tổ chức nên một xưởng sản xuất mành trúc, tạo công ăn việc làm cho các tu sĩ của Dòng cùng một số Thanh nữ ở địa phương. Nông dân thì đi rừng khai thác trúc về bán lại cho xưởng. Từ nhiều khó khăn ban đầu, ba bốn năm sau thì hình thành và sản xuất được hàng đem bán, Địa Phương đã đưa người vào nắm quyền, gọi là chủ nhiệm, Soeur trông coi công việc chính và giao dịch, bị làm kiểm điểm lên xuống huyện nhiều lần…Rồi lấy cớ đã già không cho làm việc nữa! Một HTX Mây-Tre-Trúc ra đời không còn dính dàng gì đến Dòng Phao Lô, nơi mà từ đó cơ sở này ra đời!

Cái chết ngoắc ngoải của HTX này tôi đã chứng kiến trước khi vào Sài Gòn…

Hay là ván bài này cũng đang xảy ra với Xí nghiệp rượu Gin?!

Gặp nhau tối hôm ấy, nỗi lo lắng về xưởng bị quốc doanh không làm cho Tuyền buồn lắm, mà là chuyện ba củaTruyền, chú Vàng và các chú bác lo lắng với câu nói làm tuyệt vọng mọi người từ miệng ông Bí Thư Tỉnh Bình Dương:

– Nợ máu của các anh lớn lắm, cải tạo một hai tháng không nghĩa lý gì…Thế nên các anh cần thành khẩn, nhiệt tình cộng tác với các cấp địa phương…

Bảy tám năm nay không nhắc gì đến chuyện cải tạo, nợ máu…nay nghe như thế, không ai khỏi lo lắng đến mất ăn mất ngủ. Mọi người gầy xọp đi trong chỉ mấy ngày!!!

Tuyền gầy và buồn bã như người bệnh, tối đến, trên bồn lọc nước cao, Tuyền khóc thật nhiều, tiếng khóc rấm rứt như xé lòng tôi. Tôi ôm Tuyền bằng hai tay không nói. Hôn những nụ hôn lên đôi mắt sủng nước, vẫn không linh cảm được chuyện chia tay! Cuối cùng Tuyền nói trong nghẹn ngào:

– Ba tính chuyện vượt biên anh ạ!

Tôi buông vòng tay ôm, dặt hai tay lên vai Tuyền.

– Sao không tạm thời chấp nhận cho họ quản lý xưởng rồi tính sau?!

– Ba nói có thể họ sẽ bắt đi cải tạo lại, rối đưa người thay thế hết, họ sẽ trừ ba ra vì khó có người thay thế khâu kỷ thuật. Nhưng bác Hòa quyết đinh ra đi, ba theo bác Hòa!

– Bao lâu nữa?

Tuyền lắc đầu.

– Em không biết!

Chuyện vượt biên bằng tàu, những năm này rất khó khăn. Từ trên bờ cho đến trên biển và cả những trại tập trung chờ các nước bảo lãnh!

Cái cảm giác sợ hãi lại bất chợt ập đến với tôi. Từ dạo lênh đênh trên chiếc tàu năm đó, sự sợ hãi như đã thường trực trong lòng tôi mỗi khi nghe đến biển.

Sống trong thời điểm này, không ai không nghĩ đến chuyện tìm cách ra đi. Nhất là những thanh niên nhẹ nhàng ít gánh nặng như tôi. Nhưng chưa bao giờ tôi nghĩ đến chuyện phải đi bằng đường biển.

Sau 30/4/1975. Tôi cùng một anh bạn xin phép Ủy Ban Quân Quản đi tìm thân nhân. Vợ và con anh ta cùng gia đình bên vợ đều lên tàu mà Linh mục hướng dẫn xứ chúng tôi xin tòa Đại sứ Mỹ đưa dân vùng tôi ở rời Việt Nam. Cha quá ngao ngán vì đã chạy từ Quảng Trị vào trong này lánh nạn vẫn chưa yên…Tàu đến Hải phận Quốc tế thì nghe đâu có một cuộc điên thoại gọi cho Linh mục: “Sài gòn chưa mất mà cha!” Vốn không mặn mà gì với người Mỹ. Ngài tự ái gọi xin ngay hai chiếc tàu của Korea ( Đại Hàn) rồi quay tàu vào Phú Quốc chờ…

Tàu Korea đến các nơi như Long Hải, Vũng Tàu nhưng không có dân và Linh Mục. Họ cũng vớt lên tàu một số dân tứ xứ có một vài gia đình còn kẹt lại vì nhiều lý do…Tin Sài Gòn thất thủ đến khi họ ra khơi vì chẳng biết phải làm gì, họ cứ tưởng là Cha đã đưa dân dến đảo Guam nên cho tàu đến dó, đâu biết rằng toàn bộ dân và Linh mục vẫn đang ở Trường An Thới, Phú Quốc chờ tàu trong tuyệt vọng!

Đến Rạch Giá chừng 10 giờ đêm, hai chúng tôi xin được quá giang ra Phú Quốc trên một chiếc ghe dánh cá lớn. Ngồi trong khoang với tâm trạng an toàn, chúng tôi vui cùng các ngư dân Phú Quốc đi buôn bán trở về.

Hai ngày sau, khi đã gặp thân nhân, tôi trở lại Rạch Giá bằng chiếc ghe loại nhỏ…Ghe đánh cá, chủ ghe tham lam cho lên ghe nhiều người quá. Đi khoảng một hai giờ thì nghe nhốn nháo là có tàu Khờ me đàng xa! Mọi người lâm râm cầu nguyện, Lạy Phật, Gọi Chúa!!! Tôi nhìn mạn thuyền Cách mặt nước chỉ ba lóng tay mà sợ hãi, ghe chạy mà như vẫn đứng yên một chỗ! Sợ từ đàng trước, sợ từ trong thuyền! Chưa nói đến bọn Khờ me tàn bạo mà tiếng đồn nghe lâu nay…Nếu thuyền có sóng to, mạnh một chút thôi. Lắc lư một chút thôi cũng có thể bị chìm! Xung quanh mênh mông biển khơi, con thuyền cô đơn cùng với số phận của bao nhiêu con người chỉ cỏn biết cầu mong vào Trời Phật, Thánh Thần! Chuyện sống sót giữa biển khơi như thế này thật hy hữu!

Ôm chặt Tuyền trong vòng tay, tôi hy vọng bác Hòa và gia đình Tuyền không đi trên những chiếc ghe như thế!

Hôm đó, chúng tôi ngồi suốt đêm bên nhau. Tôi dự tính ngày mai chúa nhật sẽ ở lại thêm một ngày nữa với Tuyền. Nhưng sáng ra, Kha từ Sài Gòn xuống thật sớm, thì thầm với Tuyền cùng mấy người nữa trong gia đình, chuẩn bị lên Sài Gòn bằng chiếc xe Toyota cũ của bác Hòa.

Tôi lẫn Tuyền bàng hoàng, Nụ hôn cuối vội vàng sau căn phòng nhỏ của dãy lên men, tưởng chỉ là phút tạm biệt, chia tay cho một chuyến đi xa …Tôi nói với Tuyền, giọng nghèn nghẹn:

– Anh sẽ tìm cách qua bên đó với em.

Đâu ngờ rằng dó là lần vĩnh biệt. Chiếc tàu của gia đình bác Hòa đến được Bidong, Chiếc có gia đình Tuyền không đến được bến bờ nào, nó im lìm đâu đó trong lòng đại dương mênh mông!

Hai năm nghe ngóng chờ tin, tôi loay hoay tìm đường đi bộ qua ngã Campuchia, nhưng hai lần đều thất bại.

Có những lúc thật buồn, lòng tràn ngập nhớ thương, tôi đưa ngón tay trỏ sờ lên môi mình gọi khẽ:

– Tuyền ơi!

Sàigòn, 03 tháng 5.năm 2017,

Trạch An-Trần Hữu Hội.

 

 

Đáo hạn.

trachantranhuuhoi

Ngồi chờ đã hai giờ đồng hồ mà vẫn chưa thấy Hằng, Thụ nhấp nhổm nhìn ra cửa. Quán không có ai, bà chủ sau khi bưng ly cà phê cho anh rồi biến đi đâu mất làm anh muốn xin thêm chút đường cũng đành chịu!
Mấy năm rồi, từ ngày lập gia đình, anh trở thành khách hàng thường xuyên của Ngân Hàng. Lấy nhau, cả anh lẫn chị đều tay trắng. Anh làm đủ việc, từ đi rừng đốn gỗ lậu đến buôn gỗ vào Sài gòn…Gom được vài chục triệu, chưa kịp mừng thì chuyến kế tiếp bị bắt! Vay nóng nhiều chứ Ngân Hàng chỉ vài chục triệu không đủ làm vốn, được cái lãi thấp, có kỳ hạn trả nợ chứ không đòi bất thường như các chủ nợ chuyên cho vay nóng. Anh nhớ có lần nghe tin anh bị bắt gỗ trong Phan Thiết, bốn năm bà chủ nợ đến liên tục làm anh phải trốn lên Đà lạt cả nửa tháng. Ở nhà, chị Thu vợ anh khốn khổ với họ…
Từ ngày làm được cái sổ đỏ, dành dụm xây cái nhà, xem như có tài sản thế chấp, anh bắt đầu trở thành con nợ của ngân hàng, làm ăn theo hướng ổn định hơn là bán đồ lưu niêm, phim chụp hình, băng đĩa nhạc…kiêm luôn nghề thu băng.
Vừa lảm trả nợ xây nhà, vừa trang trải cho sinh hoạt của hai vợ chồng và hai đứa con, món nợ ngân hàng cứ tăng dần tử ban đầu ba mươi triệu, ba năm nay đã lên trăm triệu chẵn! Cái nhà anh ở mặt tiền đường Quốc Lộ nên cũng có giá, cộng với phí phần trăm chung chi cho cán bộ tín dụng qua mấy bà cò (*), anh mới vay được tới trăm triệu. Cứ đến hạn, cố làm sao chạy cho ra tiền lãi, còn tiền gốc thì đã có các cò tạm ứng, trả xong vay lại ngay, con nợ chỉ cần ký nhận còn cò nhận tiền…
Tiền phí dịch vụ, tức tiền lãi ngày trong thời gian chờ làm thủ tục trả, vay, có người lấy cao, có kẻ tình cảm thì lấy thấp. Cò không chỉ ứng tiền gốc, họ phải hỏi trước cán bộ tin dụng có cho vay lại không mới ứng tiền…Đã có những trường hợp dở khóc dở cười là sau khi trả xong cả gốc lẩn lãi, không vay lại được. Đòi gì được khách hàng nghèo rớt mồng tơi! Bởi vậy, cò phải là tay bản lĩnh trong quan hệ với ngân hàng và cả khách hàng…
Hằng là cò cứng cựa nhất trong số cò ở vùng này.
Quan hệ ngân hàng tốt và nhiều vốn. Hằng đẹp, mượt mà, lại góa chồng. Với cái tuổi ba chín, Hằng xem trẻ như mới chừng hai tám, ba mươi, nếu không bị cái tiếng sát phu thì chắc chị cũng đã có người tử tế chắp nối duyên tình từ lâu.
Anh chồng chị là một cán bộ huyện, đám cưới đúng ba tháng thì anh ta bị bênh uốn ván chết chỉ vì đạp cái đinh sét khi vào chăm đàn dê trong chuồng. Cũng may là đã kịp để lại cho chị thằng con trai trong bụng…Đâu khoảng chừng hai năm sau ngày chồng chết, một anh cán bộ Kiểm Lâm thương chị như điếu dổ, họ dự định làm đám cưới thì anh ta bị tai nạn chết khi vừa phóng xe ra từ cây xăng thường ngày vẫn đổ! Từ đó đến nay, nhiều người đàn ông nhìn chị khát khao…nhưng chị vẫn cô đơn.
oOo

Ba năm nay Thụ trở thành khách hàng của Hằng, lần đáo hạn này anh tính nhờ Hằng giúp cho anh tăng tiền vay lên trăm rưỡi triệu, một trăm trả lại cho Hằng còn dư năm mươi triệu mua cái máy photocopy, làm thêm dịch vụ này.
Anh vừa định gọi cho Hằng thì thấy cô ấy đến:
– Anh Thụ chờ lâu phải không?
– Ừ, kẹt gì thế?
– Anh có biết anh Kiên bên xưởng mộc không? Em vừa trả xong lãi và gốc hai trăm triệu, vay trung hạn, làm hồ sơ lại rồi nhưng vợ chồng lình xình, hôm qua đánh nhau ầm ỉ, đòi ly dị…Chuyện tới tai cán bộ tín dụng làm Ngân hàng không cho vay lại…
– Rồi sao, em uống gì anh gọi?
– Phải chờ vài hôm, êm êm rồi vợ chồng anh Kiên mời cơm, diển tuồng kha khá, nó thấy cơ sở làm ăn…Có em nói vào là xong thôi. Em uống rồi!
Hằng vòng hai tay ôm cái túi trong lòng, cười với Thụ rồi quay người nhìn quanh quán, những bụi hoa Hoàng yến vàng rực và nhiều loại hoa trồng chậu rất đẹp…nhưng từ khi vào đến giờ, Thụ chưa hề đảo mắt bởi trong anh đang cộm lên nỗi lo âu thường trực cứ mỗi lần đáo hạn. Lần này, vay thêm năm mươi triệu anh lại càng lo hơn.
Năm ngoái, khi vay lại một trăm triệu, Hằng cho anh biết là càn bộ tín dụng nói nếu tính theo sổ đỏ, ngôi nhà mặt tiền của anh còn rất ít đất sau khi trừ đường dây điện cao thế phía sau và mốc lộ giới phía trước. Tính theo giá quy định của tài chính thì lô đất không đến sáu mươi triệu, mặc dù giá thị trường có thể lên đến vài trăm! Anh nói với Hằng cứ chung chi và giúp anh vay lại mức ấy…Nhưng rồi không tốn kém gì, tiền lãi vay ngày và đơn trương cho dịch vụ Hằng chỉ lấy anh hai trăm ngàn. Anh ngạc nhiên nhìn Hằng, cô ấy nói:
– Em chỉ lấy anh phí bên Tài nguyên môi trường thôi.
Năm nào cũng vay và năm nào cũng tốn phí cho Tài nguyên dù đất và nhà ở không hề thay đổi, tiền thì không nói nhưng cái công chờ đợi…Nhiều lần hồi chưa có Hằng, anh chờ có khi cả hai ngày mới đóng được con dấu. Trong phòng chờ của tài nguyên, lúc nào cũng đông, chỉ toàn những người nghèo, vay đôi ba chục, có người chỉ vay năm bảy triệu sửa cái chuồng bò…cũng phải đợi…Những khuôn mặt lo âu ngao ngán nhìn nhau… Nếu không hoàn thành hồ sơ thì phải qua ngày khác, kéo theo chậm trễ bên Ngân hàng và tăng lãi vay vốn nóng tính từng ngày của việc đáo hạn.
Cò giải quyết khâu này rất nhanh bằng cách riêng của họ!
Bây giờ vay thêm năm mươi triệu không biết Hằng có giúp anh được không! Thụ tự nhiên hồi hộp như đứng trước cán bộ ngân hàng:
– Anh tính lần này cô giúp vay cho anh trăm rưởi, được không Hằng?
– Làm gì vay nhiều vậy anh Thụ?
– Anh làm thêm dịch vụ Photocopy.
Hằng nhìn Thụ, nghĩ tới Thu vợ Thụ, hơn năm nay bỗng bị bệnh tiểu đường và suy tĩnh mạch, vào ra Sài gòn liên tục.
-Trên một trăm là chuyển qua vay trung hạn, trả dần trong hai năm, nhưng phải có cơ sở làn ăn hay kinh doanh…Cái sổ đỏ lô đất của anh mà nó cho vay một trăm là nể nang em lắm rồi…
– Cô cứ chi thêm phí đi Hằng, anh cần làm thêm mới có dư ra chút ít chứ như hiên tại thì chỉ đắp đổi…
Hằng có vẻ suy tính…
– Anh đưa hợp đồng vay cũ cho em, gặp thằng cán bộ này mới đổi về…hơi khó. Có gì em gọi lại.
Thụ tin vào khả năng của Hằng nhưng vẫn lo âu. Hằng bỏ xấp hợp đồng vào túi xách, nói:
– Có thể phải lo cái giấy phép kinh doanh.

oOo
Gom hết tiền trong nhà mới đủ một triệu rưỡi. Thụ nhìn Thu đang lo lắng bồn chồn, anh nói cho vợ yên tâm:
– Có cái giấy phép kinh doanh thì tốn thêm thuế hàng quý, hàng năm, nhưng mình làm ăn dễ hơn em ạ. Em uống thuốc chưa? mệt thì gởi ai mua đại cái gì ăn cũng được, khỏi đi chợ.
Ba ngày nay Thụ bần thần, không biết Hằng có lo được không thì sáng nay nghe cô ấy gọi, bảo đang chờ anh trên huyện, mang theo một triệu rưởi đóng tiền làm giấy phép kinh doanh cho phòng Thông Tin – Văn Hóa.
Từ phòng TT-VH đi ra, Thụ cảm phục tài giao tế của Hằng. thêm tin tưởng vào lần vay này. Anh nhìn Hằng nói rất thật tình:
– Cô Hằng nói sao mà hay vậy?
– Tiền nói chứ em có nói đâu, anh xem cái phiếu thu chỉ hai trăm bốn chục ngàn mà mình đóng tới một triệu tư lận!
– Anh tính vay xong cũng phải chạy cái giấy phép kinh doanh, giờ cô làm dùm thế này anh đỡ khổ. Cho tiền cũng chưa chắc làm dễ thế này! Xe cô để ở đâu?
– Thằng con chở em lên, giờ nó đi Phan Rang rồi. Anh cho em qua ngân hàng, nếu sáng nay duyệt được thì nhận tiền luôn.
Thụ nhìn Hằng với đôi mắt biết ơn. Khi cán bộ tín dụng nhận hồ sơ rồi trình duyệt, thì xem như đã được vay. Không cưỡng được nỗi mừng, anh nắm lấy bàn tay Hằng bóp nhẹ, nhà đễ xe vắng vẽ, Hằng dựa người vào Thụ, anh ngây ngây trong mùi nước hoa và hơi ấm của cơ thể Hằng…
Đẩy chiếc xe quay đầu, Thụ nói như cố xua đi cảm xúc vừa bùng lên trong anh:
– Cái thằng Hào leo thật nhanh, năm năm trước, hồi nó mới ra trường thực tập, ngơ ngơ ngáo ngáo…vậy mà giờ đã là phó giám đốc ngồi duyệt đơn vay!

oOo
Nhận tiền xong thì cũng vừa lúc Ngân hàng nghỉ việc.
Những lần đáo hạn trước, anh chỉ ký nhận nợ ở hợp đồng, mấy tờ phiếu chi nơi quầy thu chi tiền vay rồi chào Hằng, có khi cô ấy ghé nhà lấy phí dịch vụ, có khi anh mang xuống nhà, bao giờ cũng rẻ hơn những cò khác.
Lần này số tiền nhận ra có phần dư năm mươi triệu, Hằng để Thụ tự nhận. Cô nhân viên gầy nhom ở quầy chi tiền chuổi ra cho anh một cái túi nilon có in chử “Ngân Hàng Nông Nghiệp”, Thụ bỏ tiền vào túi trong khi các nhân viên cũng lục tục chuẩn bị ra về.
Anh tìm Hằng định chào và cảm ơn như mọi khi nhưng chợt nhớ Hằng không có xe. Lác đác vài con nợ nhếch nhác và cò trong sân, Thụ thấy Hằng nổi bật trong cách ăn mặc gọn gàng sang trọng, nước da trắng mịn với nụ cười, đang đứng chờ bên quầy rút tiền ATM ngay cổng ra vào.
– Có rắc rồi gì không anh Thụ?
Hằng hỏi khi đã ngồi sau xe, Thụ nói đùa rồi quay lại đưa túi tiền cho Hằng:
– Không, kiểm tiền xong cô thu ngân còn cười duyên khi cho anh cái túi nữa!
Hằng cũng vui vẽ:
– Vay được tiền rồi thì thấy ai cũng dễ thương phải không?
Thụ cười thành tiếng, tâm trạng anh không còn nặng nề như những ngày trước.
oOo
Về đến nhà Hằng, ngôi nhà rộng và vắng vẻ, Hằng bật chiếc quạt trần ở phòng khách, vào trong rồi trở ra với cái túi có năm mươi triệu và ly nước.
Đặt ly nước và cái túi lên bàn, nhìn anh cười như chia niềm vui, hỏi:
– Anh dự tính khi nào mua máy Photocopy?
– Cũng phải sắp xếp nhiều thứ, Hằng cho anh gởi mấy cái phí dịch vụ, bao nhiêu vậy Hằng?
Hằng cười cười lắc đầu:
– Sang năm đáo hạn em lấy luôn.
– Sao được!
– Được, em chỉ bỏ chút công nói giúp anh thôi mà!
Thụ không tin là Hằng không chi phí cho nhân viên tín dụng, ít nhất cũng một triệu cho trường hợp của anh! Hằng lại đứng dậy đi vào trong, trở ra với cái túi nilon màu đỏ:
– Bánh người ta cho, anh mang về cho mấy nhóc.
Thụ nhìn Hằng, bất giác anh nắm tay Hằng rồi ghì mạnh…Hằng thở dồn dập đón nhận đôi môi tham lam của Thụ! Đôi tay Hằng cũng ghì lấy tay Thụ nhưng rồi buông ra trong tiếng nói ngắt quảng:
– Đừng anh… lỡ có chuyện gì…thì tội cho Thu và…mấy đứa nhỏ!
Thụ như không nghe thấy gì…Anh siết mạnh tấm thân run rẩy trong vòng tay, nhẹ đẩy Hằng nằm xuống salon…Hằng đưa hai bàn tay yếu ớt đẩy nhẹ ngực Thụ thì thào:
– Con em sắp về…Em có đi coi nhiều thầy, ai cũng nói cái số ấy là có thật…
Thụ sựng người tỉnh lại, cơn rạo rực đang hừng hực chợt lắng xuống, anh đỡ Hằng ngồi dậy:
– Anh…anh… xin lỗi!
Hằng đưa tay vuốt tóc rồi quay qua nắm tay Thụ bóp nhè nhẹ:
– Quản lý thị trường họ cũng quản lý cả Photocopy, có rắc rồi gì thì gọi cho em…

Sài gòn, tháng 8 năm 2016.
Trạch An-Trần Hữu Hội.

(*) Cò: Những người làm dịch vụ ứng tiền ra trả cho Ngân hàng khi đến hạn, lấy liền lãi, tiền công làm hồ sơ…

Mẹ và những cuốn sách.

trachantranhuuhoi

Cuối năm, chuẩn bị đón tết, vợ và các con bận rộn quét, lau mọi ngõ ngách trong nhà ra tận cửa. nước lênh láng từ tầng trên xuống tầng dưới…Ông Cần vì cái chân cụt, không làm được việc gì nên ngồi trên giường sắp xếp lại cái tủ sách, làm cho có việc.
Từ ngày vào Sài gòn, không biết đã là định cư chưa, bởi có nơi ông đã ở tới 40 năm, tưởng sẽ là vĩnh viễn, thế mà rồi phải bán tất cả để vào ở cùng các con. Vào đây, ông mua lại căn nhà, bé hơn nhà ông ở quê, bé hơn nhiều lắm, nên ông cho cái tủ sách nằm ngay trong phòng ngủ, ở cuối giường. Cũng hay, xưa nay ông thích nằm đọc sách hơn là ngồi.
Hôm chuẩn bị chuyển nhà, ông quyết định đồ đạc tủ bàn bỏ lại hết, vào trong này mua lại. Chỉ có sách là ông tiếc, không bỏ hết được, lọc lựa thế nào cũng còn mấy thùng giấy cứng. Vào đây hai năm, mua thêm một ít, bạn bè tặng một ít thành nhiều…
Miên man với những cuốn sách, rối nhớ tới những ngày mẹ còn sống, những năm tháng khốn khó 40 năm trước, những cuốn sách của ông đã làm mẹ khốn khổ hơn, ông ứa nước mắt vì thương mẹ…
Ngày ấy, ông chỉ mới hai mươi, mẹ đã còng lưng theo năm tháng cực nhọc từ hồi nào rồi, thủa chưa rời quê vì bom đạn.
Theo đoàn di dân vào lập nghiệp nơi núi rừng Ninh Thuận này, những luống khoai, đám mì càng làm lưng mẹ còng hơn.
Chính thể đổi thay, kéo theo mọi sự thay đổi. Gia đình ông bấy lâu nhờ vào đồng lương của người chị, anh rể là lính. Nay không còn lương tháng nên vất vả hơn.
Mấy tháng sau khi tạm ổn định việc đưa đi học tập cải tạo các đối tượng thuộc chế độ trước. Ủy ban Quân quản có lệnh thu giữ và tiêu hủy văn hóa cũ, không phân ra loại sách nào là đồi trụy hay phản động…mà là tất cả!
Hồi còn đi học, lâu lâu chị cho tiền mua sách, ngoài sách học, thừa tiền ông mua thêm những cuốn sách mà ông thích, lần hồi cũng được chừng mấy chục cuốn.
Nhìn kệ sách, vuốt ve, lật xem từng cuốn…ông quyết định không đem nộp, biết rằng những cái tên tác giả nước ngoài trên bìa sách có thể lả tai họa! Ông lấy một cái bao gạo, loại bao 50 kg, sắp gọn tất cả vào, rồi cho xuống gầm giường, đẩy sâu vào góc tường, dự tính nếu nghe có đi kiểm tra thì mang vào rẫy dấu đâu đó.
Cả thôn rầm rộ đem nộp sách, truyện…Có người một hai cuồn, có người mang cả chồng báo Playboy, có người là thầy giáo dạy học bao năm, cho xe kéo đến mấy thùng, toàn: Tự điển, sách Nghiên cứu Giảng dạy, Văn học, Lịch sử Thế giới…Tất cả được cho vào kho trụ sở. Bạn thân ông làm Tuyên Văn Giáo thôn, từng học Đại học Văn, ban Việt-Hán tại Đại học Đà lạt, cả hai đứng nhìn mà lòng tiếc xót!
Chừng hai tháng sau ngày 30/4/1975. Ông cùng bạn được gọi lên trụ sở thôn. Cán bộ trên xã về lảm việc, bạn ông được giao cho làm Tuyên-Văn-Giáo, còn ông, cho đi học hai tuần về làm Kinh Tài thôn.
Bạn ông cũng như ông, thương mấy cuốn sách lắm, nhưng cha của bạn ấy là Công chức chế độ cũ, không cho ông giữ lại, buộc phải đem nộp hết! Hai đứa phụ bưng các thùng sách vào kho mà tâm trí cứ băn khoăn không biết người ta có duyệt, chọn lọc loại nào cần tiêu hủy, loại nào cần trả lại hay không. Chẳng lẽ tất cả đều là đồi trụy và phản động hết sao!?
oOo
Lâu lắm rồi, kể từ ngày đem sách đến nộp, không thấy ai nhắc nhở gì đến chuyện tiêu hủy hay giải quyết thế nào về số phận của những cuốn sách, những chỗ dột làm ướt một số, một số bị các ủy viên lén lấy về làm giấy đi vệ sinh.
Căn phòng được trưng dụng làm kho cũng là phòng đặt máy phóng thanh, trong các ban ngành, Kinh Tài là ban thông báo nhiều hơn hết, từ gạo, mắm, dầu lửa đến vải, nilon…Hằng ngày ông vào thông báo trên loa phóng thanh cho bà con trong thôn, cứ thấy đống sách là ông xót ruột mặc dù chẳng phải của mình.
Một hôm, trong trụ sở thôn không có ai, ông nấn ná ngồi lại sau khi thông báo xong. Lật xem mấy cuốn, toàn sách của những tác giả ông ưa thích: F. Dostoievsky, E. M. Remaque, A. Camus, J. P. Sartre, V. Gheorghiu…Nhiều tác giả, tác phẩm mà Cha Mai Nghị, dạy môn Triết ông hồi còn đi học hay nhắc đến nhưng ông chưa được đọc. Số sách này phần nhiều ký tên Lê Thanh Dân, một thầy giáo dạy Văn ở Quy Nhơn đem nộp. Ngày thầy đem sách đến, ông đứng bên thầy, nhìn thầy húng hắng ho. nhìn nước da tái xanh và đôi mắt đỏ như muốn khóc mà thương…
Biết chắc là không có ai, ông lấy cuốn “Anh em nhà Karamazov” của Dostoievsky, cho vào chiếc túi mang về. Cuốn này, bao nhiêu lần ông đứng ngắm nó trong hiệu sách, nhưng không dám hỏi mua vì biết chắc rất đắt, nhìn độ dày của nó cũng đủ biết! Ông khóa cửa phòng lại, đi ra mà lòng lo sợ đủ thứ chuyện, lỡ có ai đi vào, dọc đường gặp ai đó tò mò hay một cán bộ xã…Ông đi như chạy, vào trong nhà, ngồi trên giường mà tim ông đập như vừa chạy bộ mấy cây số, vội vàng cho xuống gầm giường, dự tính vài ngày sau mới lôi ra đọc.
Được một lần, đọc xong, rồi những lần sau ông lấy hai cuốn, ba cuốn tùy độ dày mỏng của những cuốn sách. Tò mò về Chủ nghĩa Cộng Sản, ông lấy những cuốn liên quan về Chủ nghĩa này, đọc ngấu nghiến hằng đêm. Đọc xong, ông cho thêm vào bao gạo, chẳng bao lâu, phải kiếm một cái bao khác…Cứ thế, lấy về, đọc xong cho vào bao. Đã bốn cái bao đầy mà không ai phát giác hay nói chuyện mất sách trong kho, chừng như ai cũng có lấy về đi vệ sinh, nên chẳng ai thèm thắc mắc gì!
Có một hôm, cán bộ phụ trách an ninh, họp toàn dân phổ biến lệnh kêu gọi những ai còn tàng trữ sách báo chưa nộp thì đem nộp tiếp, phát giác ai còn cất giấu thì tố cáo với chính quyền để thu hồi…Ông ngồi nghe mà lo sợ cho những cuốn sách, lo sợ cho bản thân sẽ bị quy là ngoan cố hay phản động! Ông muốn đem đi nộp nhưng lại ngại là sẽ bị hỏi sao lâu nay không nộp!
Mấy ngày sống trong âu lo, cuối cùng, ông quyết định sẽ dần dần mang vào đám rẫy gần nhà. Khi đã chuyển vào hết, mẹ cùng ông đào một cái hồ, lót một lớp nilon ở dưới, phủ một lớp bên trên rồi lấp đất lại. Cả hai mẹ con vừa đào vừa hồi hộp, thỉnh thoảng ông chạy ra đường đi nhìn trước nhìn sau…Kể từ hôm đó, ông không đọc mà cũng không lấy thêm cuốn sách nào!
Chừng hai tháng sau, cả ông và bạn đều bị cho nghỉ việc thôn. Một ông lớn tuổi, từ Quảng Ngãi vào được thay ông làm Kinh Tài, một anh bên chi đoàn Thanh Niên thay bạn ông làm Tuyên Văn Giáo.
Nghỉ việc thôn, bạn ông bị gọi đi Nghĩa vụ Thanh Niên Xung Phong, còn ông, có mẹ già nên được miễn.
Ở cuối đám rẫy cùa mẹ, có một bộng mối rất lớn, một hôm trời trở mưa, mối bay đầy, bay cả vào mặt ông. Lo cho mấy bao sách, ông bàn với mẹ đem về lại nhà, thời gian này thấy cũng êm êm, không còn nhắc chuyện nộp sách nữa. Hai mẹ con lại đào lên rồi lần hồi chuyển về, dấu sau đám mì của lô gia cư. Những lúc mưa, không có ông ở nhà, một mình mẹ lôi vào nhà từng bao thật vất vả. Ông lại đọc những cuốn chưa kịp đọc, chuyền cho những bạn thân của ông cùng đọc.
oOo
Anh rể đi cải tạo về, làm rẫy chỉ khoai lang và mì không đủ qua ngày bèn đưa chị và đứa con vào Long Khánh làm ăn. Cũng không khấm khá hơn là bao. Nhà chỉ còn ông và mẹ.
Kinh tế càng lúc càng khó, ông bèn đi buôn tàu lửa cùng những người dân trong vùng. Dân buôn xứ ông đầy sân ga…Đi buôn cũng không đủ gạo cơm mắm muối, phải ăn độn mì, khoai… Một hôm, mẹ ngại ngần nói:
– Con lựa cho mẹ mấy cuốn sách đã đọc rồi.
– Làm gì vậy mẹ?
– Mẹ bán cho mấy người bán hàng, họ gói hàng.
– Sách khổ nhỏ họ có mua không?
– Họ cắt nhỏ gói bột ngọt, ớt bột, tiêu…
Ông ra sau nhà, giữa mấy luống mì ngồi lựa, cuốn nào cầm lên cũng tiếc! Ông đem cho mẹ năm cuốn. Mẹ cho vào bao mang ra chợ!
Vốn không có, đi buôn càng khó. Chái bếp nhà ông đã dỡ hết tôn đem bán lần hồi, tội nghiệp mẹ phải ngồi nấu nướng giữa nắng, những lúc mưa phải dời bếp vào trong nhà! Vốn cứ cụt dần vì vừa ăn, vừa bị bắt mất hàng.
Chị cả ông ở Quảng Trị vào thăm, mẹ và chị ôm nhau khóc suốt mấy ngày. Hôm về, chị bảo ông cùng ra quê. Mấy ngày về quê không vui, chỉ gặp được các cháu nhưng chúng còn nhỏ, ông dành một ngày đi thăm mộ cha và bà con, hôm sau ông vào lại. Đứng trước sân nhà, chị sụt sùi:
– Chị muốn đưa mẹ và em về làng, nhưng em không làm ruộng Hợp tác xã nổi đâu. Chị còn mấy chỉ vàng, em cầm hai chỉ làm vốn mà buôn bán.
Ông òa khóc, còn khóc to hơn chị! Nhìn túm gạo chị ông cột sẵn cho ông mang vào, chỉ chừng 10 kg, nhưng ông lo không biết có mang vào được không!
– Em sợ không mang gạo vào được, hay chị để lại, có vốn rồi, em vào đi buôn mua gạo trong đó cũng được, mất uổng lắm!
– Mất thì thôi em ạ.
Chị đưa ông ra cổng làng, ngay trạm kiểm soát này đã không qua được. Chị năn nỉ mãi nhưng cũng đành mang về. May mà gặp thằng cháu trong họ gác trạm, nếu không thì đã bị tịch thu.
oOo
Có hai chỉ vàng, ông bán đi làm vốn, theo một người bạn đi buôn xe đạp từ Sài gòn về bán trong địa phương. Một lần đi, ông mua hai chiếc, thỉnh thoảng có người đặt mua xe cũ, ông mua thêm một chiếc theo ý người đặt. Đi buôn xe đạp thì đi bằng xe đò, ít vất vả nhưng hồi hộp hơn là đi xe lửa, bởi phải qua nhiều trạm kiểm soát, nhờ tài xế và lơ xe năn nỉ cũng qua lọt. Không chi cho trạm thì chi cho tài xế. trạm tốn nhiều, tài xế ít hơn!
Ông đi được chừng sáu chuyến, mẹ mừng vì bớt nổi lo gạo mắm. Chuyến cuối, ông từ Sài gòn về vừa vào nhà, mẹ ghé tai ông thì thào:
– Họ đến tìm con!
– Ai vậy mẹ?
– Du kích và công an!
Ông nhìn mẹ lo lắng, nói:
– Mình có làm gì đâu mà sợ mẹ, chắc chuyện đi buôn thôi!
Mẹ không bớt lo âu nhưng cũng xuống dọn cơm, hai mẹ con vừa ngồi vào bàn thì ba du kích cùng công an xã đi vào:
Với lý do không xin phép đi lại, anh bị bắt. Ở trại tạm giam huyện, anh được biết thầy dạy Lý- Hóa của anh và ba người bạn học khác, bị bắt trước anh nhưng cũng cùng ngày!
Hơn hai năm bốn tháng, ông trở về cùng mẹ. Lệnh tha ghi tội danh là: “Nhen nhóm âm mưu lật đổ chính quyền”. Thầy ông phải ở thêm ba năm nữa mới được tha.
Chiều hôm trở về, mẹ mừng quá, hét lên khi ông vào nhà. Đôi tay gầy guộc ôm chặt lấy ông khóc mếu máo!
Sáng hôm sau, ông hỏi mẹ về mấy cuốn sách. Mẹ buồn rầu:
– Mẹ bán dần dần đi thăm nuôi, còn mấy cuốn thôi con ạ!
Anh cười lớn, nói cho mẹ yên lòng, mặc dù còn nhiều cuốn ông chưa kịp đọc:
– Hết thì thôi, con đọc hết rồi mẹ ạ.
Những ngày trong tù, hàng tháng mẹ đi thăm đều đặn. Mẹ kể chuyện làng xóm, người xắt cho ký thuốc rê, người cho đường tán, bánh tráng…Mẹ không tốn gì, chỉ bán vài cuốn sách mua cho anh ít đồ ăn ngay như bánh mì, xôi, gói chè, nải chuối…
Mẹ lôi cái bao gạo dưới gầm giường, anh sắp mấy cuốn sách ra xem: “Anh em nhà Karamazov” của Dostoievsky, “Exodus” của Leon Uris, “Hố thẳm thư tưởng” của Phạm Công Thiện, “Giọt lệ và nụ cười” của Kahlil Gibran và “Sử thi Mahabhahta” của Ấn độ.
Những cuốn sách này dày hoặc do bìa mới, mẹ cho là hay, có lẽ ông quý hơn cả nên chừa lại!
– Mẹ bán luôn đi, con cũng đã đọc những cuốn này rồi.
Bữa cơm trưa có thịt bò nhờ mấy cuốn sách nặng ký! Ông thầm nghỉ bữa ăn gồm: Văn học Nga, Ấn độ, Ả rập, Việt nam và Mỹ(*) mà không thịnh soạn sao được! Ông cười, gắp miếng thịt bò bỏ vào chén mẹ:
– Thịt bò ngon quá mẹ ạ, mẹ cùng ăn chứ sao con ăn hết được!
– Lâu lâu mới có người ở Động Mé lên bán xương bò của HTX, mẹ mua được cái xương, lóc thịt ra đó.
Năm cuốn sách dày và hay, mua được cái xương bò. Ông muốn cúi đầu tạ lỗi, tạ lỗi với những ai đã viết, đã dịch, đã bỏ công sức làm nên những cuốn sách!

Sài Gòn, Tháng I, năm 2016.
Trạch An-Trần Hữu Hội
————————————————————————————————
(*) – “ Anh em nhà Karamazov” của Dostoievsky: Nga.
– “ Exodus- Về miền đất hứa.” của Leon Uris: Mỹ.
– “ Hố thẳm tư tưởng” của Phạm Công Thiện : Việt Nam.
– “Sử thi Mahabhata”: của: Ấn Độ.
– “ Giọt lệ và nụ cười” của Kahlil Gibran : Ả Rập.

Giáng sinh – Tật nguyền!

trachantranhuuhoi

Thủ mở cửa đẩy chiếc xe ra, chân anh đau như có ai đó lấy kẹp mà kẹp cả bắp chân. Nhìn lề đường trước mắt đất đá lổm chổm, cao như ngọn đồi mà ngao ngán. Con đường Quốc lộ đang đi lại được, tự dung cày ra, đổ đá, đổ đất từng ụ cả năm nay rồi để vậy, không biết bao giờ mới chịu làm! Thùy nhìn anh nhăn nhó, nói:
– Mười giờ đêm rồi, hay để sáng mai lên thăm anh ấy cũng được, đằng nào cũng chết rồi!
– Tội nó quá!
Thủ nói rồi đẩy lùi chiếc xe vào lại nhà.
Hơn hai mươi ngày nay, chân phải anh đau kinh khủng, cơn đau bắt đầu từ bắp chân, lan lên tới mông, mỏi như muốn kéo rị người anh xuống giữa nển nhà! Đêm nằm ngủ, phải ngủ nơi salon, thòng chân phải xuống mới đỡ đau! Bác sĩ chẩn đoán là đau thần kinh tọa, chích thuốc cả mười lăm ngày không giảm, bèn chích Terneurin vào bắp chân, không giảm được cơn đau mà còn đau hơn!
Cuốc điện thoại vừa rồi của Sáng, một người bạn thân báo tin Hướng vừa chết, có lẽ do trụy tim làm Thủ nghẹn ngào. Mới chiều nay, Hướng ghé thăm anh, thất thểu bước vào nhà với túi đồ nghề làm mộc, uể oải buông người xuống salon than thở:
– Cúp điện dài dài thế này làm không đủ tiền nuôi con!
Thủ nhìn lên cái quạt trần vẫn xoay:
– Đâu có cúp!
– Tao gắn cửa cho ông Tá trong xóm, trong đó cúp toàn bộ. Mày đau sao vậy?
– Cái chân mấy năm nay đau âm ỉ, mấy hôm nay trở nặng, thần kinh tọa hay sao ấy!
– Sao không đi châm cứu?
– Tao ghét cái màn nằm ẹp chờ, ngày nào cũng vậy! Đang chích thuốc, không biết có đúng bệnh không mà chẳng thấy khá hơn chút nào!
Hướng lấy cái mũ vải trên đầu lau mặt, thở dài:
– Con với cái, hai đứa đang học Cao đẳng, bỏ ngang thị lại Đại học, nói không chịu nghe. Nó đậu thì mình chết!
– Sao vậy?
– Muốn vay lại tiền vay dành cho sinh viên thì phải trả tiền vay cũ, sau đó mới được vay lại cho khoản mới. Nó biết mình khổ, cứ học tạm Cao đẳng, sau này ra trường đi làm rồi liên thông Đại học thì đỡ mình biết mấy!
– Nó cũng sỉ diện với bạn bè, trả tiền cũ là bao nhiêu?
– Ba chục triệu hơn, cả hai đứa!
Thủ nhìn bạn mà thương xé lòng! Dĩ nhiên không vì một việc này mà Hướng bị trụy tim, nhưng cái nghèo, cái lo âu lâu nay thường trực trong lòng làm cho con tim ngày càng yếu!
Trời vừa hửng sáng, Thủ uống vội chén trà rồi cố kìm cơn đau, chạy xe lên nhà Hướng. Anh đứng ngay cửa nhìn vào trong. Hướng nằm như đang ngủ trên chiếc giường kê giữa nhà, Khuyên, vợ của Hướng và bốn đứa con ngồi khóc rấm rức. Anh ngồi xuống nền nhà, ôm xác bạn mà khóc, anh hét lên: Hướng ơi, Hướng ơi!
Anh kêu tên bạn, trong lòng anh như trút tất cả nỗi uất ức giận hờn lên sự nghèo khó!
Khuyên cùng bốn đứa con nhào tới, ôm chồng, cha, khóc như mưa. Hướng vẫn nắm với gương mặt thanh thoát vô ưu. Thủ cảm thấy được hơi ấm từ thi thể của Hướng, anh ôm ghì bạn, nói trong thổn thức:
– Khốn khổ chi rồi cũng qua được, như bao năm nay đã qua, sao mày không ráng thêm vài năm nữa hở Hướng!
Anh ngồi như thế, nói với các con của bạn:
– Từ nay không còn Ba, mọi khó khăn đổ lên vai mẹ, các cháu cố gắng chấp nhận thiếu thốn, vượt qua cho được mấy năm học, Cao đẳng hay Đai học gì cũng được. Không có quyền chậm trễ năm nào cả nhé!
Cả bốn đứa lớn nhỏ “Dạ” rồi khóc. Đứa lớn nắm lấy cánh tay Thủ kéo anh dậy, dìu anh ngồi vào chiếc ghế gỗ. Bạn bè hôm qua thức khua cùng Hướng, gần sáng chạy về nhà một lát giờ đã lục tục kéo đến. Thủ cà nhắc ra ngồi với bạn.
Phùng, một người bạn hay đùa, nói:
– May nhà nghèo! Không có đồ đạc gì phải dọn dẹp bên trong, lát nữa gom mấy chậu bông ra sau nhà cho trống chỗ này đi là được!
oOo
Hai ngày nay chân Thủ đau hơn, nằm ẹp trong nhà, không lên thăm lại Hướng, sáng nay cũng không đưa bạn ra nghĩa địa được, Thủ lẩm nhẩm:
– Mày đi đi, con cái nó có số phần của nó, linh thiêng thì phù hộ cho nó khỏe mạnh. Mày đi sướng hay ở lại như tụi tao sướng hơn, chỉ mày có thể biết! Hồi chưa đau cái chân, tao mơ ước lo lắng đủ điều, giờ đau quá, tao mong đổi tất cả những gì có được, lấy cái khỏi đau thôi Hướng ơi!
Thùy, vợ của Thủ sáng đi đám tang, xong ghé thăm bên nhà ngoại về, vừa vào nhà vội vã hỏi:
– Chị Mai tới chích thuốc chưa?
– Chưa, chắc phải đi Sài gòn em ạ, anh đau lắm!
– Anh uống cái này xem có bớt đau không đã rồi tính.
– Cái gì vậy?
– Có thể anh bị hơi. Mấy người đi liệm xác chết về, thường xông và uống cái này.
– Ở đâu mà có vậy em?
– Em lên trên làng, nói chuyện anh đau, họ cho đó.
Thùy với xem chai rượu, còn một ít. Mấy ngày nay đau quá, anh bảo chị mua cho anh lít rượu. Khi đau thì anh uống ực một ly, có khi hai ly nhưng cũng chỉ êm êm được một lát rồi đau như cũ!
Chị trút gói giấy vào chai, bột gì trăng trắng, lắc mạnh rồi rót ra ly đưa cho Thủ. Anh uống vào gờn gợn ở lưỡi, có mùi như long não.
Thùy vào phòng thay đồ xong, đem cho Thủ tô bún mua dọc đường, anh ăn chầm chậm, có vẻ ngon miệng, không thấy ngán như mọi khi. Thùy cũng mừng.
Chưa được mười phút, anh nôn thốc tháo ra giữa nhà. Chị vuốt lưng anh rồi ra múc đầy thau nước, nhúng khăn lau mặt, lo lắng hỏi:
– Anh thấy trong người ra sao, mệt lắm không?
– Không sao đâu em!
Thùy lại đi thay thau nước, Thủ nôn nhiều hơn, anh với tay lấy chai dầu nhưng mắt hoa lên, không nhìn thấy gì, vừa lúc Thùy trở vào, thấy tay anh quéo lại, mắt trợn trừng, chị hét lên: Anh Thủ! Rồi chay ra xô mạnh hai cánh cửa hét lớn:
– Chương ơi, chị Lan ơi, anh Thủ bị tai biến!
Chị hét như vậy, không biết có ai nghe thấy không, hai tiếng “tai biến” làm chị liên tưởng tới bài đọc cách sơ cứu người trong trường hợp này, chị vừa khóc vừa vào phòng lấy cái kim may, đặt anh nằm xuống salon, chích mấy đầu ngón tay, ngón chân rồi hai dái tai. Chị lại chạy ra cửa hét.
Chương là hàng xóm sát nhà, nhưng là nhà sản xuất bánh kẹo nên lu bu đằng sau, nghe được liền chạy qua, hắn không cần hỏi han, kêu lớn qua quán cà phê phía đối diện:
– Có đứa nào bên đó qua phụ tao đưa anh Thủ đi cấp cứu với.
Hàng xóm và khách uống cà phê chạy qua nhà, Chương bồng ngang người Thủ, nhảy lên xe của một thanh niên, một người khác chở Thùy chạy theo.
Bệnh viện huyện xem qua, Huyết áp 190/90. Họ cho anh uống thuốc, anh tỉnh dần, rồi chuyển về bệnh viện tỉnh theo yêu cầu của Thùy với câu ghi: Nghi ngộ độc rượu, huyết áp tăng. ( người bệnh nhân nồng nặc mùi rượu!).
Oan cho anh, 17 năm không uống rượu vì bị ngộp tim, hôm nay uống hai ly, bị ói, bệnh án ghi như anh là một tay bợm!
Chân anh đau buốt, anh nói với Chương khi xe còn đợi làm thủ tục chuyển viện:
– Mồi cho anh diếu thuốc rồi bóp bắp chân cho anh với, đau lắm!
Chương mồi thuốc, vừa bóp vừa vuốt bắp chân, tay Chương mạnh nên đau lắm nhưng anh không dám nói. Một lát, nhớ là nhà không có tiền, anh nói với Chương:
– Chú về trước, chuẩn bị cho anh mượn ít tiền, chừng mười triệu, xe đi ngang đưa cho chị!
– Có cần em đi theo xuống bệnh viện không?
– Không cần, có gì thì chị gọi về. Chú cho anh gởi nhà.
Chương dạ nhỏ rồi đi. Là hàng xóm, sát vách nhau hơn hai chục năm, coi nhau như anh em. Chương làm ăn khá hơn, thiêu thốn tiền nong Thủ mượn đỡ nơi Chương. Con của Chương thương Thủ như bác ruột. Hồi các con của Thủ chưa vào Sài gòn học và đi làm, chúng như anh chị em với nhau. Tối ngủ chung, râm ran chuyện trò. Mấy năm nay bốn đứa con anh vào học và làm việc trong đó, ở nhà chỉ hai vợ chồng, anh dự tính năm tới chị về hưu sẽ chuyển vào ở với con.
Khi xe dừng lại trước nhà, Chương đưa tiền cho Thùy, Thủ nằm trong xe không thấy được nhưng anh nghe nhiều lời chào, chúc anh mau khỏe, có lẽ hàng xóm và bạn bè cũng đợi chào anh.
Về đến Bệnh viên Tỉnh. Bác sĩ, sau một hồi siêu âm tim và bụng, xem lại bệnh án hỏi:
– Chú uống có nhiều rượu không?
– Chú chỉ uống hai ly, không phải Huyết áp, Tim và ngộ độc đâu cháu. Chân phải chú đau lắm, hơn hai mươi ngày các Bác sĩ trên phòng y tế chích thuốc mà vẫn đau. Cháu xem dùm chú với!
– Đau chỗ nào chú?
– Đau nhất là bắp chân.
Bác sĩ trẻ siêu âm từ dưới bụng, dọc theo chân phải, chân trái, kết luận nhanh chóng:
– Chú bị tắc nghẽn đông mạch chi dưới rồi, chú hút thuốc nhiều không?
– Chừng hai gói mỗi ngày.
– Cũng nhiều nguyên nhân gây tắc động mạch, nhưng chú coi bõ thuốc lá đi. Chắc là phải chuyển chú vào Sài gòn, trong đó mới điều trị hoặc phẫu thuật thông động mạch được chứ ở đây không có đều kiện.
Lần đầu tiên Thủ nghe đến bệnh này.
– Có nguy hiểm lắm không cháu? Ý chú là có cần chuyển ngay không?
– Tính mạng thì không nguy hiểm gì nhưng giải quyết sớm thì tốt hơn.
– Ngày mai Chủ nhật, 20/11. Các con chú về thăm mẹ và thầy cô giáo. Chú muốn về nhà gặp các cháu rồi thứ Hai vào Chợ Rẫy cùng các cháu luôn được không, phương tiên chú tự lo?
– Cũng được, nếu đau quá chú uống thuốc giảm đau. Bệnh này đau lắm!
– Chú cảm ơn cháu. Cháu ghi cho chú loại giảm đau nào dùng được nhé.
oOo

Bệnh viên Chợ Rẫy sau khi thăm khám, Thủ được đưa vào khoa “Lồng ngực và Mạch máu”, nằm ở lầu năm. Uống và chích thuốc mười hai ngày nhưng không tiến triển gì. Các bước siêu âm và chụp xi ti cũng đã làm xong nhưng cứ chờ làm Thủ chán nản! Cái mụt ở chân như muốn lở to ra thêm. Tối lại, đau quá anh ngồi, gần như cả đêm không ngủ.
Sáng nay, khi đứa em đưa anh đi vệ sinh về phòng, ngang qua bảng thông báo, anh thấy tên mình nằm trong số bệnh nhân chuẩn bị phẫu thuật thông mạch máu. Khi bác sĩ vào thăm bênh buổi sáng, anh hỏi:
– Chú phẫu thuật thông hai chân hay một chân vậy cháu?
– Chắc hai chân, chú tắc nhiều lắm. Hôm nay đi siêu âm tim lại.
Đã siêu âm tim một lần, bây giờ lại siêu âm tim. Từ phòng siêu âm về, không có thông bào gì về tim mà chỉ biết là chuẩn bị chuyển qua Khoa Tim, Thùy cùng các con anh lo lắng lắm nhưng không biết hỏi ai.
Khoa lồng ngực mạch máu ít bệnh nhân, qua khoa tim thì quá tải đến không có chỗ nằm, Thủ nằm chung giường với hai bệnh nhân khác, Thùy nằm ở sàn nhà, dưới giường, trải tấm chiếu nhỏ! Một bệnh nhân chung giường cho biết là có hai mươi lăm người bị tim ở bệnh viện Trà Vinh chuyển lên, theo một chương trình gì đó, hai tuần rồi chưa mổ được nên phòng chật. Họ có vẽ ốm nhưng không yếu, ăn uống, chuyện trò đùa cợt râm ran, náo loạn cả phòng!
Gần chiều, một Bác sĩ trẻ vào gọi tên Thủ rồi nói ngắn gọn:
– Chú chuẩn bị đóng 90 triệu, mai phẫu thuật.
Thủ ngạc nhiêu hỏi lại:
– Phẫu thuật tim hay chân vậy cháu?
– Mổ tim.
Quá ngạc nhiên anh bật cười nhìn bác sĩ không nói gì. Bác sĩ trẻ nhìn anh nói trước khi ra khỏi phòng:
– Sẽ có Bác sĩ lớn tuổi đến nói chuyện với chú!
Lát sau, một bác sĩ trạc 50 tuổi, đến nhìn anh chằm chằm nói:
– Bệnh của anh thì đóng 90 triệu, mai mổ tim, sau đó cắt chân phải, hết!
Thủ cười gằn ngạc nhiên với thái độ của vị lương y, không biết ông này đem nổi bực dọc ở đâu, đến đây trút lên anh!
Một bệnh nhân trong số chờ phẫu thuật lên từ Trà Vinh hỏi to, tức tối:
– Tụi tôi chờ nữa tháng nay, đã nhổ răng, khám, siêu âm đủ cả rồi mà chưa mổ, chú này mới vào, đóng tiền mai mổ là sao?
– Ông này một mình, còn quý vị thì đông, lên lịch làm một lần nên phải chờ.
Bác sĩ đi rồi, Thùy nhìn anh rươm rướm nước mắt:
– Chạy đâu cho ra ngần ấy tiền đây anh?!
Nếu con đường trước mặt nhà không làm lại, nâng cao lên, thì vợ chồng Thủ không đến nỗi thiếu thốn, 90 triệu hay nhiều hơn cũng có thừa để lo, nhưng vừa qua anh dốc tất cả những gì dành dụm được lâu nay, sửa sang, nâng nền nhà lên cho bằng đường nhựa, thế là hết. Nhà vừa hoàn tất đúng một tháng, anh trở bệnh! Thủ trấn an vợ:
– Em đừng lo. Chờ anh chút.
Thủ gọi điện cho đứa cháu ngoại, đang là bác sĩ khoa thần kinh bệnh viện Phan Thiết, nó tốt nghiệp hệ chính quy cũng đã lâu, hôm nhập viện, nó muốn vào gởi gắm với các đồng nghiệp nhưng anh không muốn. Nghe qua, cháu anh nói:
– Mổ tim khó khăn ở chỗ hậu phẫu, xuất viện rồi cậu về lại Ninh Thuận xa quá, khó theo dõi, có gì vào lại cũng quá chậm. Theo con, cậu bị thế này đã lâu. Tim cũng có thể đã thích nghi, nếu giải quyết được các chỗ tắc nghẽn thì tim sẽ được cải thiện dần. Cậu từ chối phẫu thuật tim rồi xin phẫu thuật thông mạch chân lại thử xem bênh viên có chịu không!
Bênh viên không chấp nhận yêu cầu của anh. Thủ có ý định đến các bệnh viện tư, hy vọng họ có thể giải quyết, và dù tư nhân hay Chợ rẫy. cũng phải có thời gian để chạy khoản tiền quá lớn đối với kinh tế của Thủ. Anh nói với Thùy:
– Em nói với con xin xuất viện đi, về nhà rồi tính!
Đứa con gái lớn của anh vào trọ học ở Sài Gòn mấy năm nay, rồi các em cũng vào, nó khá nhanh nhạy với các việc gia đình, từ hôm anh vào viện, mọi thủ tục đều giao cho nó…Thùy nhìn anh lo lắng:
– Lỡ có chuyện gì thì sao anh?
– Chỉ có những cơn đau chân là đáng lo, nhưng giờ anh biết là cứ thuốc giàm đau mà uống, có ảnh hưởng về sau thì cũng chưa là bây giờ. Về ngoài mình, tính toán chuyện tiền nong rôi vào lại sau em ạ.
Nói với vợ như vậy nhưng trong lòng anh cũng lo lắng không kém. Với 90 triệu đồng cho ca phẫu thuật thì chỉ có bán nhà đi chứ khó xoay xở đâu ra. Chương hay bạn bè có giúp, cho mượn thì cũng chỉ vài chục triệu, tiền làm ăn có dư nhiều đâu. Còn chuyện trả lại nữa! Bán cho được nhà thì biết đến bao giờ!
Từ hôm đi bệnh viện đến nay, Trung, đứa em cột chèo giao việc nhà cho vợ, theo anh vào Sài gòn, túc trực thường xuyên lo cho anh, từ chuyện vệ sinh đến đẩy xe đưa đi siêu âm, thử máu…Không có xe đẩy, Trung ẵm, cõng anh đi. Bây giờ sắp lễ Giáng Sinh, chú ấy lại là lo việc Giáo xứ, không lẽ vì mình mà mất cả niềm vui. Thủ lại gọi cho con gái, bảo con xin xuất viện!
Lo xong thủ tục thì cũng đã chiều, bệnh nhân chung giường với Thủ, ở Nha Trang, nhập viện mười ngày nay, chờ phẫu thuật. Ban ngày về nhà con gái, tối đến ngủ ở bệnh viện. Thấy tình trạng bệnh của Thủ nói:
– Ở Nha Trang, có một ông thầy thuốc Nam, trị bệnh tắc đông mạch rất hay. Xóm tôi có bà bị bệnh này, châm tím hết rồi mà uống chỉ ba chai thuốc nước, loại chai ba xị, là hết đau.
Thủ mừng lắm, níu lấy ông ta hỏi:
– Anh có địa chỉ hay số điên thoại không, giúp tôi với!
– Để tôi gọi về cho con tôi, nhờ nó chạy tới hỏi. Nói rồi ông gọi ngay cho con, lát sau anh có trong tay địa chỉ và số điện thoại của cơ sở thuốc Nam. Thủ nói với Thùy:
– Mình đi thẳng ra Nha Trang tối nay luôn em ạ. Em nói Trung và con chuẩn bị đi.Tiền bạc thế nào em?
Thùy gọi con gái, hỏi. Con gái anh đếm tiền trong túi, rồi mở mấy bì thư mà bạn bè anh đến thăm, nói với Thùy:
– Tất cà tiền mẹ mượn chú Chương và bạn ba, bạn mẹ… thăm cho quà là 29 triệu, con thanh toán viện phí và mua thêm thuốc về nhà còn 22 triệu mẹ ạ.
Thùy nhìn Thủ:
– Không biết có đủ cho tiền thuốc Nam không!?
– Anh ấy bảo thuốc rẻ lắm!
Thủ vào bệnh viện Chợ Rẫy mười mấy ngày. Hôm đi, tiền nhà và mượn thêm Chương nữa chỉ 15 triệu. Ăn uống và sinh hoạt, viện phí đủ là quá mừng.Anh cảm ơn bạn bè, nghe tin anh nằm bệnh viện, đã thông bào cho nhau đến thăm. Biết anh khó khăn về tài chính, bạn nào cũng giúp, nhờ vậy anh bớt buồn và có tiền trang trải cho sinh hoạt.
oOo
Xe ra Nha Trang là xe giường nằm, nhưng vì không nằm được, Thủ ngồi suốt đêm. Cứ một giờ hay hơn chút thì anh uống một bịch sữa rồi nuốt một viên giảm đau! Khó khăn phiền toái nhất là chuyện vệ sinh, Trung cõng anh lên xuống xe, vào nhà vệ sinh dọc đường nơi các trạm dừng thật vất vả!
Đến Nha Trang, ngồi trên taxi Thủ gọi điện cho thầy thuốc Nam. Vào nhà, ông ấy như đang chờ.
Khi xuất viện, vết lở ở bàn chân chỉ bằng hai ngón tay, thấy khó nhìn nên anh đắp một miếng gạc lên vết thương, khi ông thầy gở miếng gạc, da dính theo thành một đám loét lớn bằng cả bàn tay! Xem vết thương và sờ xem bắp chân, ông thầy nói:
– Thuốc của tôi chỉ làm thông mạch cho máu xuống chi. Vết thương này anh phải dùng kháng sinh để chữa. Phải kháng sinh loại mạnh đó!
Thủ hơi thất vọng nhưng anh nghỉ nếu thông được mạch máu, thì chuyện chữa vết loét bằng kháng sinh chắc không khó. Thầy thuốc bán cho anh một tháng thuốc, thuốc viên chứ không phải thuốc nước như người bệnh chung phòng nói.
– Anh uống hết số thuốc này thì bệnh giảm, đây là tài khoản và số diện thoại của tôi, muốn lấy thêm thuốc thì cứ chuyển tiền vào tài khoản, tôi sẽ gởi xe đò đưa thuốc vào cho anh.
Từ nhà thầy thuốc, Thùy thuê xe taxi vào thẳng nhà. Mới mười mấy ngày mà Thủ thấy như cả năm. Hàng xóm, bạn bè đến thăm liên tục làm anh vui, nhất là niềm hy vọng vào thuốc Nam mà anh sẽ uống! Buồn cười nhất là bạn anh, số hút thuốc nhiều, cứ đưa chân cho anh xem rồi lo sợ căn bệnh “lạ” này! Thủ đùa:
– Đứa nào hút in ít thì không sao, còn nếu hút cỡ một gói một ngày thì coi chừng!
Bạn anh phần nhiều thuộc loại nhả khói như chiến hạm, có đứa nói liều:
– May, tao hút hai gói nên ngoại lệ rồi, ung thư phổi mau chết hơn!
Đã nghe vọng đến tiếng nhạc Giáng sinh. Anh về nhà đã hơn mười ngày. Hằng ngày, buổi sáng, Thùy làm vệ sinh cho vết loét rồi đắp một miếng gạc, xong xuôi mới đi dạy. Anh uống thuốc Nam, cách giờ uống thuốc Tây chừng hai tiếng. Kháng sinh và giảm đau, bao tử anh đã có dấu hiệu đau, nhưng chẳng biết phải làm sao!
Sáng nay, sau khi làm vệ sinh xong, Thùy nói như reo:
– Anh sờ bắp chân xem, hình như âm ấm chứ không lạnh như mọi khi!
Thủ sờ xem nhưng không nhận ra. Thùy quả quyết trong nỗi mừng vui:
– Em thấy ấm lên thật mà, đễ em gọi Trung xuống sờ xem.
Trung nghe Thùy gọi, tất tả chạy xuống sờ chân Thủ, chần phải rồi chân trái:
– Em thấy có nóng hơn đó anh, hy vọng uống thuốc này một thời gian nữa thì máu xuống chân tốt.
– Mấy hôm nay chú làm gì?
– Về tới nhà là có việc ngay, em đang phụ làm máng cỏ và trang trí cho nhà thờ! Anh tính sao cái vụ mổ tim?
– Quên nó đi, ngoài “khả năng chi trả” của mình rồi thì nghỉ chi cho mệt.
Trung cười, chỉ lên trần nhà:
– Phú cho Trời thôi!
oOo
– Anh Thủ !
– Gì vậy em?
Thùy trợn tròn mắt chỉ vào vết thương:
– Anh xem phải giòi không?
Thủ cúi gần hơn, nhìn chăm vào vết loét, có cái gì trăng trắng nhúc nhích, anh nhờ Thùy lấy cái kính, nhìn kỹ, đúng là giòi!
Thùy lấy bông thấm nước muồi lau qua lại vết thương, thở dài:
– Thuốc kháng sinh không tác dụng, làm sao đây anh? mấy hôm nay em nghe có mùi hôi nhưng không nói!
– Anh cũng biết, để anh gọi nhờ Dũng xem sao.
Dũng là bạn của Thủ, Học Đại học Y khoa Huế, Tốt nghiệp năm 1979, bị chuyển lên Kom Tum, Dũng không tuân theo bố trí nên không được cấp bằng. Anh về địa phương hành nghề lâu nay nhưng không mở phòng mạch.
– Alô, mình nghe đây Thủ.
– Dũng đang ở đâu, ghé nhà mình chút được không?
– Chờ 15 phút, chuyền xong chai nước mình ghé lại.
– Cảm ơn Dũng, mình chờ nghe.
Dũng nhìn vết thương, ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:
– Máu không xuống được bàn chân nên thuốc kháng sinh không đến được vết thương, tác dụng của thuốc rất ít, mình rất ngại hoại tử nặng dẫn đến nhiễm trùng máu, hay là vào Sài gòn lại đi!
Nghĩ đến niềm vui Giáng sinh của đứa em cột chèo, Trung. anh hỏi:
– Có chờ thêm được vài ba hôm không Dũng, qua Noel?
– Minh sợ không được, như thế này là nặng rồi!
Thủ nhìn Thùy, như muốn hỏi ý. Thùy dứt khoát:
– Đi ngay tối nay thôi anh. Anh gọi Kháng xin phép cho em. Em gọi Trung báo cho nó biết.
– Tội chú ấy quá, còn ba ngày nữa là Giáng sinh rồi!
Cả Thùy và Thủ cùng im lặng, lát sau, Thủ nói như dò ý Thùy:
– Em, anh quyết định tháo khớp chân! Chấp nhận cụt chứ cứ loay hoay thế này có vẻ bế tắc, lo lắng mãi!
– Anh cụt một chân sao?!
– Anh thấy nếu điều trị thì lâu lắm, vào ra Sài gòn tốn kém, thêm phần lo lắng không yên, chưa nói đến chuyện có thể chửa hoài không khỏi! Con cái thì chỉ bé út là còn tốn kém, sang năm em về hưu thì có mấy đứa lớn lo cho nó, mình còn cái nhà, bán đi vào với các con, mắm muối qua ngày cũng được! Từ hôm bệnh đến giờ, em và các con vất vả. lo lắng. buồn phiền quá rồi, cụt một chân còn hơn là chết, anh sẽ làm những gì có thể làm với cái chân như thế, nghe em!
Thùy chưa hề nghĩ đến chuyện Thủ phải mất đi cái chân, hình ảnh Thủ tật nguyền chưa hề đến trong đầu chị bao giờ, nhưng con giòi xuất hiện sáng nay ở vết thương và nỗi lo sợ nhiễm trùng máu dẩn đến cái chết làm chị thấy nhẹ nhàng hơn khi Thủ đưa ra quyết định đột ngột này.
– Tháo khớp thế nào anh?
– Tháo khớp từ gối xuống, minh làm ở bệnh viện tư. Anh sẽ hỏi, tiền bạc hôm về nhà đến giờ bà con, bạn bè cho thêm cũng đủ, nhưng anh vẫn gọi vào cho cháu Vinh, phòng hờ nếu thiếu, nó lo giúp rồi sau tính lại.
Thủ lấy chiếc điên thoại xem lại tài khoản, còn kha khá, anh gọi cho một Bác sĩ ở Bệnh viện Hồng D. , Bác sĩ này anh quen khi con gái anh bị tai nạn, phẫu thuật bắt ốc ở ống chân. Bác sĩ trả lời:
– Chuyện tháo khớp gối không khó khăn gì, nhưng cháu đề nghị chú vào trực tiếp, khám rồi giải quyết chú ạ. Tình hình vậy thì nên vào sớm chừng nào tốt chừng đó. Chú cứ vào thẳng phòng cấp cứu của bệnh viện rồi gọi cho cháu.
Từ khi đi bênh viện, rồi tứ bệnh viện trở về, tư tưởng phải vào lại Sài gòn lúc nào cũng sẵn trong đầu Thủ và Thùy nên việc chuẩn bị không mất nhiều thời gian. Trung, với cái túi xách vào nhà trước giờ xe chạy chừng một tiếng. Thủ nhìn đứa em nói:
– Khổ cho chú quá, anh làm chú cực!
oOo
Xe vào đến sài gòn trời cũng vừa sáng, Trung gọi taxi, Thùy, Thủ và đứa con gài lên xe về Bệnh viện Hồng D., Vẫn chưa đến giờ làm việc, anh gọi cho bác sĩ quen, chừng 15 phút sau thì bác sĩ đến. Xem vết lở ở chân xong, bác sĩ lấy một cái túi nilon bao vết thương lại rồi gọi con gái anh vào trong:
– Với vết thương của chú thì không chỉ tháo khớp gối mà phải cắt bỏ trên gối! Bệnh viên Hồng D. làm được nhưng việc xử lý cái chân thải theo nguyên tắc môi trường thi không được phép, bây giờ cứ qua bệnh viện 115, sẽ có bác sĩ đón ở phòng cấp cứu. Vấn đề quan trọng nửa là làm công tác tư tưởng cho chú, làm sao để chú đứng quá sốc khi tỉnh dậy thấy mình bị mất một cái chân, đã có trường hợp hét la náo loạn, làm bậy…rất nguy hiểm!
Thùy nghe con nói lại, nhìn Thủ. Chị biết không hề có chuyện đó. Thủ đã tự ý chấp nhận mất cái chân trước khi vào đến đây. Xe taxi lại đưa Thủ qua bệnh viện 115. Đúng là có bác sĩ đón ở phòng cấp cứu.
Thủ kìm tiếng rên vì những cơn đau liên tục, anh muốn thiếp đi nhưng hôm nay lại có một số sinh viên thực tập. Họ mở bao nilon, cố chịu mùi thối, xem, chụp hình…dưới sự hướng dẫn của Bác sĩ giảng dạy, cũng là trưởng khoa “Lồng ngực và mạch máu” của bệnh viện.
Chừng 02 giờ chiều, Thủ được đưa đi siêu âm tim. Mấy tiếng sau thì bác sĩ gọi Thùy thông bào:
– Hoại tử nặng quá, không thể chờ qua đêm nay vì khả năng nhiễm trùng máu rất cao, đã nhiễm trùng máu thì rất khó chửa trị, chỉ có cách cắt bỏ phần chân bị tắc. Nhưng khó khăn là tim rất yếu, phẫu thuật cắt bỏ chân với tình trạng tim như vậy cũng rất đáng lo. Quyết định bây giờ tùy vào gia đình, chị bàn bạc rồi ký vào giấy đồng ý phẫu thuật hay không!
Thùy trở lại phòng cấp cứu, chị nhìn Thủ thật lâu rồi nói lại lời bác sĩ. Thủ nắm tay Thùy:
– Cứ phẫu thuật đi em, bác sĩ khi nào cũng tính chuyện chắc ăn. Em và các con cầu nguyện xin bình an cho anh. Nếu phải chết trong khi phẫu thuật thì cũng đừng quá buồn, tin vào số phần của anh chỉ đến thế!
Các con anh đều có mặt, các cháu ở Sài gòn cũng đến thăm. Tất cả xúm quanh anh, khóc thút thít. Thủ đùa với Trung, cũng cho cả nhà bớt buồn:
– Chúa Trời đang bận lo sinh quý tử, không rảnh mà phán xét anh đâu!
Trung cười đùa thêm:
– Đúng rồi, giờ này các Thiên thần đang tập hát, lôi sổ sách ghi công ghi tội ra rách việc lắm, cho qua!
Hộ lý bệnh viện đẩy chiếc băng ca nhôm sáng bóng đến. Trung ẵm anh qua, cô hộ lý nói:
– Thân nhân đi theo lối khác đến phòng phẫu thuật, có phòng chờ ở đó.
Thùy vuốt tóc trên trán Thủ nói nhỏ:
– Trước khi vào phòng phẫu thuật, anh nhớ cầu nguyện lại.
Thủ nhìn Thùy, anh mỉm cười. Không rõ từ đâu, từ niềm tin nào, anh không tin mình sẽ chết:
– Ừ, anh nhớ!
oOo
Thủ đau đớn nằm trên chiếc băng ca rời phòng phẫu thuật. Thời gian phẫu thuật khá nhanh, thuốc mê cũng tan sớm. Phóng hậu phẫu đông đúc vì tai nạn giao thông vào những ngày sắp giáng sinh. Tiếng rên la náo loạn xung quanh làm Thủ chán nản. Anh không chết, con tim anh đã ngoan ngoãn nằm im, anh sờ xuống phần thân thể còn tê buốt, cắt khá cao, đau quá anh thử ngồi dậy, có phần đỡ đau hơn! Thì ra bác sĩ phẫu thuật đã băng chặt quá, khi ngồi dậy phần bắp vế anh đỡ bị ép, bớt đau. Anh ngồi như thế cho đến sáng, trông dùm những chai nước truyền cho bệnh nhân gần mình. Có người hết thuốc, máu chảy ngược về chai, anh hốt hoảng gọi cho y tá trực! Chừng hai tiếng sau, anh đau ước chừng không chịu nổi, gọi y tá hỏi:
– Cháu cho chú thuốc giảm đau với, đau quá!
Y tá đến xem bệnh án, trở vào nói:
– Chú còn một bình giàm đau nhưng ba giờ sáng mới chuyền được.
– Bây giờ là mấy giờ rồi cháu?
– Hai giờ!
– Chú uống sữa được không cháu?
– Được, chú uống đi.
– Chú nghe nói sau phẫu thuật không được uống sữa hay nước mà?
Y tá cười:
– Chú cắt chân chứ đâu có phẫu thuật bụng, sữa chú để đâu?
– Chú nhờ cháu ra phòng chờ bào thân nhân Trần Thủ đưa sữa dùm được không?
Y tá nam vui tính đi ra. Thủ mừng là qua y tá lấy sữa, Thùy có thể biết anh còn sống. Anh lại hỏi khi y tá vào:
– Chú thấy mấy người mổ sau chú được ra ngoài mà sao chù ở lại lâu vậy cháu?
– Bác sĩ chưa cho chú ra, có lẽ sáng mai, sau khi giao ban mới ra được. Chú ngủ đi, nói nhiều mệt lắm!
Thủ không ngủ được vì đau và lo, sợ Thùy và các con anh tưởng anh đã chết nên mới lâu đưa xác ra!
Đau quá, Thủ cứ chờ được chuyền chai giảm đau. Rồi cũng tới lúc, đến với anh là Bác sĩ nữ gây mê anh khi phẫu thuật, anh hỏi:
– Sao chú lại ở trong này lâu vậy cháu?
– Tại trong toa thuốc chú uống trước khi phẫu thuật có Asperin. Giữ chú lại trong này phòng khi vết thương chảy máu, dễ theo dõi hơn. Sáng mai ra, chù ngủ đi cho khỏe.
Yên tâm với giải thích của bác sĩ và chai thuốc giảm đau, anh gục người vào thành giường ngủ ngồi chờ sáng!
Khi hộ lý vào đẩy chiếc băng ca của Thủ ra, anh mừng như được tái sinh! Nằm thì đau và vì muốn trống thấy Thùy cùng các con nên anh cứ ngồi vậy, mặc cô hộ lý bảo nằm! Thấy anh ra, Thùy củng các con anh hét lên, tiếng hét vượt lên trên những âm thanh huyên náo của phòng chờ khi thấy anh ngồi mà không nằm, không phủ tấm vải trắng kín người như xác chết, hình ảnh mà suốt đêm qua Thùy cứ lo lắng sợ hải! Thùy chạy nhanh hơn cả, chị nắm tay chị hộ lý dừng lại, ôm Thủ hôn vào môi anh thật dài, nụ hôn hệt như thũa mới yêu nhau mà phải vắng xa nhau hàng tháng !
Cô hộ lý bước nhanh và dài, Thủy cùng các con lúc thúc chạy theo. Hộ lý hỏi:
– Muốn nằm phòng nào đây?
Đêm qua thao thức chờ, Thùy có nghe thân nhân đến trước nói chuyện là có hai loại phòng, phòng bình thường và dịch vụ, phòng dịch vụ thì phí cao nhưng có các tiện nghi như tủ lạnh, TV…chị đáp nhanh:
– Chị cho phòng dịch vụ!
Một chọn lựa “xa xỉ”, khác với tính cách của anh chị lâu nay!
Yên vị trong phòng dịch vụ, giường bên có một cậu thanh niên bị đâm thủng ngực và mấy nhát ở bụng, đã phẫu thuật, đang nằm mê nam.
Thùy vuốt ve phần chân cụt của Thủ qua lớp băng, nói trong nước mắt:
– Ngày mai là Giáng sinh, anh đã không chết! Mất một cái chân mà được sống cùng nhau, cùng các con…May mắn lắm rồi anh ạ!
Thủ ôm ngang lưng Thùy:
– Ừ, anh cảm ơn em, cảm ơn em!
Ngoài kia, tiêng còi xe cấp cứu vọng vào phòng, Thủ thoáng nghĩ: Nếu không chết, thì mọi tai ương đều là hồng ân!

Sài gòn, mùa giáng sinh 2015.
( Kỷ niệm 05 năm, mất một chân.)
Trạch An -Trần Hữu Hội

Số mạng.

trachantranhuuhoi

– Chú Trứ có tin con người ta sống hay chết đều do số mạng không?
Tiếng gió rít từng hối trên ngọn dương liễu bên ngoài cùng với cơn mưa rã rich giữa khuya, trong biệt giam tối và lạnh làm cho câu hỏi của Tưởng như có gì huyển hoặc xa vời.
Tưởng lớn hơn Trứ chừng sáu tuổi, bị tội buôn, trộm và mổ bò lậu, lãnh án ba năm, ở trong Trại giam Phan Thiết hai năm nay rồi. Gần đây, bắt được một vụ trộm bò ở Ninh Thuận, khai ra có lên can với Tưởng trong những vụ trước. Anh lại bị đưa về Ninh Thuận để làm việc.
Tưởng không hề trộm bò, anh chỉ chuyên mổ bò và là bò của Hợp Tác Xã. Trong căn phòng nhỏ cỡ bốn mét vuông, một đêm anh có thể mổ sáu con, các mối chở xương và thịt đi, sáng ra là đã được dọn sạch phi tang. Tưởng ở chung phòng biết giam với Trứ cả tháng nay.
– Ý anh là sao?
– Nghĩa là khi cái số mình chưa tận, thì cho dù có bỏ trong lu, lấy búa tạ mà đập thì cũng không chết!
Trứ cười, anh cũng thường nghe nói đến số mệnh, không riêng gì chuyện sống, chết, mà giàu nghèo, sang hèn, sướng khổ…đều có số định sẵn. Nghe thì nghe thế nhưng do tuổi tác còn trẻ, anh ít quan tâm. Giờ đột nhiên nghe hỏi, chẳng biết sao mà trả lời:
– Tôi có nghe nói nhiều nhưng vu vơ, mơ mơ hồ hồ, bản thân thì mới hai sáu tuổi đầu chưa có gì gọi là kinh nghiệm về chuyện này nên nói không tin thì không phải, mà tin một cách chắc chắn cũng không!
– Tôi thì tôi tin vì ngay chính bản thân tôi, mấy lần tưởng tiêu đời rồi nhưng cuối cùng vẫn cứ sống nhăn!
– Có ai đó bỏ anh vô lu mà đập bằng búa tạ à?!
– Hà hà, bỏ vô lu thì chưa, nhưng bắn và bỏ cho chết đói thì có rồi!
– Anh Tưởng kể đi.
– Ừ, thì kể.
oOo

– Chừng hai mươi ngày sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi mới hai mươi hai tuổi. Hồi tới tuổi lính, tôi vào Địa Phương Quân, binh nhì, bốn năm lính, tôi trình diện ủy ban quân quản với cấp bậc hạ sĩ. Không biết chọn lựa theo công tội thế nào mà có một sồ cho học tập tại nhà, một số phải đi tới trại.
Hôm tập trung trình diện, cán bộ quân quản thông báo đi cải tạo, học tập chính sách và đi ngay, ai cũng hoảng là lo. Cán bộ nói là trại gần, thân nhân sẽ đem đồ dùng đến sau. Hai bộ đội chính quy cùng hai thằng du kích, người trong xã, dẩn đám ngụy quân, ngụy quyền chúng tôi chừng ba mươi lăm người lên trại, cách nhà chừng mười cây số, đi hàng một. Lính gồm những thằng tre trẻ như tôi, một vài người hơi lớn chừng bốn mươi, bồn lăm. Các bác được gọi là ngụy quyền thì lớn hơn, già không hà, gồm trưởng thôn, mấy ông trong ban đại diện xã…
Đi được chừng năm cây số thì bác trưởng thôn quay lại xin nước uống. Anh lính đi sau bác không có, tôi may có cái bình hai lít mẹ tôi đưa cho hồi sáng, tôi đưa cho anh lính chuyền cho bác. Uống thì phải dừng lại, bác ấy đang dốc cái bình lên miệng thì thằng du kích, nó cũng là người trong xã nhưng thoát ly đâu từ lâu nên lạ, tống một báng súng ngay bụng làm bác ấy gập người xuống, cái bình rơi ra xa, tôi bước tới cúi xuống đinh nhặt thì bị nó cho một đá ngay mông chúi người tới trước. Tuy là lính Địa Phương Quân, một binh chủng thuộc loại hiền nhưng tôi ba gai cũng chẳng thua ai. Máu bốc lên đầu, định chụp cây súng của nó nhưng Bác trưởng thôn và mấy anh em ôm tôi lại…Tụi tôi đi tiếp nhưng nó cứ hầm hè, còn tôi thì chẳng ngán, lườm lại nó. Một bộ đội chính quy đi lên ngang nó rồi bảo nó đi lùi ra sau, anh ta đi vào vị trí của nó. Chiều thì đến trại. Rất đông người đến trước đã dựng lều lán lúc nào rồi, vùng này mất an ninh từ lâu, thỉnh thoảng đơn vị tôi có vào hành quân và choảng nhau nơi này.
Chúng tôi được chia ra, chiều tối, khi các tổ đến trước đi lao động về, sắp hàng điểm danh rồi chúng tôi cùng theo họ vào lán trại, tôi cùng hai người nữa, vào một tổ mới mà tổ trưởng là một người cao to, da đen, có vẻ là sĩ quan chế độ cũ. Mấy người mới chúng tôi được nằm gần nhau, Bác thôn trưởng cũng được chia ở cùng tôi. Lán vẫn còn rộng rinh, chắc là còn nhiều người sẽ đến.
Sáng ra, tôi cùng những người mới đi làm việc với những anh em đến trước. Chiều về, lúc sắp hàng điểm danh trước khi vào lán, tôi thấy thằng du kích hôm trước đi nhìn từng người, hắn thấy tôi và bác trưởng thôn đúng gần nhau, mắt hắn trường trừng nhìn tôi rồi lặng lẽ đi về cuối trại.
Tối lại, nằm bên tôi, bác thôn trưởng, lúc này tôi đã biết tên bác vì khi điểm danh nghe hô Trương Quang Cần. nghiêng qua thì thầm:
– Cháu nên tách xa bác ra, bác sợ cháu bị liên lụy!
– Sao vậy bác?
– Thằng du kích đó, nó thù bác, sẽ kiếm cách trả thù.
– Vì sao nó thù bác?
– Nó là cháu bên vợ bác, cha nó chết sớm, lêu lỏng ăn chơi chẳng chịu học hành làm ăn gì. Cách nay chừng hai năm, cảnh sát bắt nó vì tội đánh lộn, phá phách trong quán bida. Mẹ nó đến khóc lóc nhờ bác, bác đến Cuộc cảnh sát khuyên lơn nó, cũng hăm he cho nó sợ rối bảo lãnh cho nó về. Mấy ngày sau, nó cùng hai thằng bạn giữa đêm vào nhà đánh bác rồi phá phách lung tung. Bác chưa làm gì thì cả ba thằng biến mất. Nó nghỉ là bác đã cho cảnh sát bắt nó!
Cuộc cảnh sát cho biết là chúng vào rừng theo Việt Cộng.
Tính tôi ngang, đã vậy tôi cũng không ngán, cứ ở gần bác Cần. Gia đình thăm nuôi có gì chúng tôi gom lại ăn chung. Bác nhắc lại hoài chuyện tách xa bác nhưng tôi gạt ngang:
– Ngán gì bác, chẳng lẽ nó bắn chết mình!
Tưởng đâu chừng một tháng hay tháng rưỡi chi là được về, ai dè hơn hai tháng vẫn chưa nghe động tỉnh gì. Vài ngày lại có một số lên xe đi đâu đó, phần nhiều là sĩ quan, công chức cấp cao. Bác Cần nghe nói là những người đó bị đưa ra Bắc.
Một hôm đi lao động về, bác Cần ham hái rau sam nên tụt lại sau, tôi ngờ ngợ có chuyện nên quay lại tìm, đúng lúc thằng du kích chận bác lại, nó ngó trước ngó sau rồi thoi vào bụng bác làm bác gập người xuống, mớ rau văng tung tóe. Tôi chạy nhanh đến, không thấy nó cầm súng nên lao vào đạp nó một đạp từ sau lưng, nó ngã chúi lên người bác Cần, thì ra nó bỏ cây súng xuống gần đó để đánh bác Cần bằng tay, nó lăn qua chụp cây súng nhưng bác Cần kịp ôm chân nó hét:
– Chạy lên ban chỉ huy trại đi.
Tôi chạy nhưng nó vùng dậy được, vừa bắn nó vừa hô:
– Trốn trại, trốn trại…
Chỉ cách không đầy mười lăm mét, nó vừa chạy vừa nhắm thẳng vào tôi mà bắn, tôi cắm đầu chạy về phía trại chỉ huy. Cả tràng đạn AK đi đâu mất tiêu, tôi chẳng bị gì cả. Trong lán chỉ huy chạy ra mấy bộ đội chính quy, gọi là cán bộ quản giáo, người có súng, người tay không. Tôi đưa hai tay lên trời, dừng lại trước họ. Bác Cần cũng vừa chạy đến, bác cũng đưa hai tay lên đầu. Thằng Du kích chạy đến chỉ vào tôi
– Báo cáo thằng này trốn trại.
Trại trưởng, một bộ đội lớn tuổi, lệnh đưa hai chúng tôi và cả thằng du kích vào trại chỉ huy.
Mấy bản tường thuật, kiểm điểm của tôi và bác Cần giống nhau. Chúng tôi được cho về trại. Nhưng ba ngày sau, tôi được gọi lên rồi bị dẫn ra ruộng dưa. ở đó có một cái chòi trơ trọi. Tôi hơi lo, không biết họ định làm gì!
Một thằng du kích và một bộ đội, cả hai đều có súng, không có thằng du kích thù tôi nên cũng hơi yên tâm.
Chờ một lúc lâu, có hai thằng du kích nữa, vác đến một cái gì bằng gỗ, lần này thì có thằng du kích đó. Tôi được đưa vào lều, bên trong tối om. Một tên du kích bảo tôi nằm xuống, tôi nằm sấp úp mặt xuống thì nghe bảo nằm ngửa ra. Tôi nằm ngửa ra, một thằng kéo khúc gỗ tới bỏ hai chân tôi vào hai lỗ hai bên, thằng kia bỏ một khúc gỗ khác chồng lên hai chân tôi khít vào hai lỗ, một thanh sắt thọc ngang bên trên rồi khóa lại bằng ổ khóa to. Tôi đoán đây là cái mà các anh em ở trại thường gọi là cùm.
Trước khi đi, tên bộ đội nói:
-Anh bị kỷ luật, bỏ ý định trốn trại đi, cứ chấp hành cho tốt sẽ được tha.
Tôi hoang mang, băn khoăn, lo đủ điều. Tôi không mang theo được gì kể cả tấm chăn!
Tôi thử uốn người ngồi dậy nhưng hai lỗ cùm cao quá, hổng hai chân lên nên chỉ gồng người được một lát là phải nằm lại. Sau này tôi biết là cái cùm, mới được toán thợ mộc làm và tôi là người đầu tiên bị cùm!
Trưa hôm đó, không có ai cho tôi cơm nước gì, chiều tối, có người đem một túm cơm gói trong bịch nilon, miếng cá khô và một chai đựng nước đến. Tôi đói, ăn hết túm cơm mà vẫn còn đói. Ngày sau, khoảng trưa thì người đó mang cơm đến, anh ta bỏ túi nilon cơm và một can chừng hai lít nước xuống sát bên hông tôi rồi nói:
– Ông Cần chuyển trại đi nơi khác rồi!
– Đi đâu?
– Không biết!
Vốc cơm ăn, lòng băn khoăn không biết bác Cần chuyển đi đâu, có bị như mình không?!
Ngày sau, không có ai đem cơm đến cho tôi và những ngày sau nữa, tôi đói lả người. mắt tôi hoa lên, chập chờn nhiều ý nghỉ và hình ảnh trong đầu. Tôi thấy mẹ tôi, chị tôi vừa chạy vừa la “ Tưởng ơi Tưởng, con đâu rồi, con đâu rồi!!!”.
Thỉnh thoảng tôi tỉnh lại, với lấy cái chai nước dốc vào miệng, cái chai không còn giọt nào, cái can nhựa còn một ít, tôi uống cầm chừng, không nhớ được là mấy ngày như thế. Đến khi cái can cũng hết nước, tôi đái vào can rồi uống từng ngụm nhỏ, không hề thấy khai, cứ ngậm cho thấm từ từ…
Tôi không còn phân biệt được ngày hay đêm và không ăn mấy ngày rồi. Có lần tôi tỉnh dậy vì như có ai cào vào chân tôi, ngay giữa háng. Nằm một lát tôi nghe tiếng gà gáy rồi tục tác. Trong đầu tôi thoáng qua ý nghỉ là con gà hoang nào vào đẻ ?!.
Con gà bươi một hồi rồi nằm im, đúng là con gà đẻ, ngay giũa háng tôi. Khi nó bay đi rồi, tôi sờ xuống, một cái trứng mềm còn nóng. Muốn lấy ăn ngay nhưng tôi nhớ lại, người ta nói là con gà khi vào đẻ lại, thấy trong ổ không có trứng thì đi tìm ổ khác hoặc không đẻ nữa. Người nuôi gà khi nào cũng chừa một hoặc hai cái trong ổ, tôi cố nhịn không dám ăn, rồi mê đi…
Con gà lại vào đẻ, khi sờ xuống thấy hai cái trứng tôi biết mình mê đi một ngày. Tôi thò tay lấy một cái trứng đưa lên miệng, gỏ vào răng rồi hút, cả cái trứng tót vào họng,chỉ còn chút nhầy nhầy tanh tanh ở lưỡi!
Con gà đều đặn đẻ như thế, tôi không đếm được là bao nhiêu ngày.
Cho đến một hôm, tôi mơ hồ nghe tiếng người xôn xao, hình như nhiều người, đỡ tôi dậy, tháo cùm rồi khiêng tôi đi…Tôi phải vào trạm xá vì lưng tôi đã bị lầy, da tróc từng đám!
Tưởng kể đến đây thì ngồi dậy, anh lấy cái ráy tai tự chế mà trong tù ai cũng có, xoáy tai mình kêu rồn rột. Tôi hỏi:
– Anh có biết vì sao họ bỏ đói anh không?
– Họ không bỏ đói mà là họ quên !
– Tôi bị kỷ luật, phần cơm của tôi vẫn chia về toán, bác Cần lấy cơm rồi nhờ người đưa đến cho tôi, khi bác chuyển đi, không còn ai nhớ đến tôi! Lúc mẹ và chị tôi lên thăm, trại mới nhớ lại. Nếu mẹ và chị tôi không lên thăm hoặc thăm trể đi vài ngày, chắc là tôi tiêu rồi vì con gà đã ngưng đẻ hai ba ngày trước! Sau này mới biết tôi không ăn cơm mười một ngày, trong thời gian đó, con gà cho tôi tám cái trứng!
Tôi tin vào số mạng là vậy, nếu con gà không vào đẻ, hay đẻ xa tôi chừng mét rưỡi thì tôi không sống nỗi tới ngày mẹ tôi vào thăm. Số tôi chưa tận!

oOo
Ngoài biệt giam vẫn mưa, gió vẫn thổi, thỉnh thoảng lùa vào phòng từ ô cửa trên cao, tôi nằm im ngẩm nghỉ về sự trùng hợp lạ kỳ của chuyện con gà đẻ.
Hồi lâu, anh Tưởng lên tiếng hỏi:
– Chú ngủ rồi à?
– Chưa!

Sài Gòn, tháng 9 năm 2015.
Trạch An – Trần Hữu Hội

Sa ngã

 

trachantranhuuhoi

Thắng quay đầu chiếc Taxi, lùì sát phòng hồi sức của bênh viện. nơi ông Gia và cô con gái đang đứng:
-Bác có đỡ đau hơn không?
Ông Gia cười, nụ cười kéo giản đôi môi mỏng:
-Cảm ơn cậu, cũng đã khá hơn.
Ông Gia mới dọn về ở cùng con hẻm với Thắng hơn năm nay.
Nhớ ngày ông dọn nhà, chiều hôm sau thì cả xóm xôn xao, anh Hiệp chạy xe ôm bị tai nạn, thấy chị vợ lu loa luống cuống, ông gọi Taxi cùng người báo tin đến nơi bị nạn, xe cấp cứu đã đưa anh Hiệp vào bệnh viên, ông đến bệnh viện, ở đó, bao nhiêu viện phí cho ca cấp cứu ông đóng giúp, khi anh Hiệp ra phòng hồi sức, tỉnh táo, ông mới về. Khi về, ông gọi chị vợ ra hành lang dúi thêm năm trăm ngàn, nói là mua thuốc và sữa. Chị Tha vợ anh Hiệp muốn quỳ xuống mà cảm ơn. Không quỳ sao được khi mà nhà chị chỉ còn sáu chục ngàn cộng với tiền trong túi anh Hiệp nữa là một trăm ba chục ngàn, mà tiền ứng trước của bệnh viên là năm triệu.!
Lâu nay, trừ một vài nhà mua nước bình đễ uống và nấu, còn cả xóm dùng nước giếng bơm, hôi và chua lét ! Ông mua một cái máy lọc lớn, công nghệ nano, vừa lọc sạch vừa khử hết mùi, mua một bình chứa lớn, đặt trước nhà cho cả xóm dùng, ông cũng dùng chung với họ.
Ông thuê nguyên căn nhà cho hai cha con, nó gấp hai, ba lần căn phòng trọ cho cả gia đình Thắng. Cái sân nhà ông nay cũng là nơi để xe cho những nhà chung quanh. Cô con gái làm việc ở một công ty nào đó, sáng đi chiều về bằng xe gắn máy, ông Gia ít khi đi đâu, một tuần lể ông ra khỏi nhà một hai lần, thường là vào chiều chủ nhật, rồi thôi. Ba bức tường chật kín sách, chiếc bàn gỗ, cái máy vi tính và mấy chậu hoa… nuốt hết thời gian của ông.
Cư dân trong xóm quý mến cha con ông, nhưng không ai biết ông từ đâu đến, cuộc đời ông ra sao…dù rất đỗi tò mò!
Tháng trước, một cơn đau ở dưới sườn phải, cô con gái đi làm, gặp lúc Thắng về nhà ăn trưa, vừa cởi áo, anh đã vội mặc lại rồi cùng hai người trong xóm đưa ông vào bệnh viên. Bác sĩ chuẩn đoán, sinh thiết và xét nghiệm, hai ngày sau có kết quả. Ông bị Ung thư gan giai đoạn cuối! Cô con gái như muốn ngất đi bên giường bệnh.
Vừa lái xe, Thắng nhớ lại hôm đứa con trai đầu của anh bị sốt xuất huyết cách nay chừng sáu tháng, là tài xế taxi, nhưng ban đêm thì đỗ xe lại công ty. Chừng ba giờ sáng thì cơn sốt cao quá làm thằng bé lịm đi như đã chết. Chiếc xe Dame đời cũ không còn xăng, vợ anh nôn nóng bồng con đứng chờ Thắng đạp, mãi không nổ! Ông Gia lặng lẽ đẩy chiếc xe tay ga của con gái đến:
-Cậu đưa cháu đi bằng xe này, để xe đó tôi nhắc vào cho. Cầm thêm cái này phòng hờ…
“Cái này” là bốn tờ giấy bạc năm trăm ngàn mới toanh!
Sáng hôm sau, biết là cô gái đi làm sớm, Thắng tất tả để con lại cho vợ trông, anh chạy về trả xe. Không quên mua thêm lít xăng cho xe của minh:
-Cháu khỏe chưa?
-Dạ hết sốt rồi, đang chuyền thêm nước bác à. Cô đi làm rồi ha bác. Xe…
-Nó đi taxi một bữa củng không sao. Cháu khỏe là tốt rồi…
-Bác cho cháu gởi lại tiền hôm qua, chỉ hạ sốt và chuyền nước nên không tốn kém bao nhiêu.
-Khi nào cháu về nhà rồi tính.
Thế mà hôm nay ông xuất viện với căn bệnh chết người ! Cả xóm thở dài, cầu cho ông bằng an.
oOo
Thắng qua thăm ông với túi cam, ông Gia không chịu nằm mà vẫn ngồi bên chiếc bàn máy tính! Trông ông xanh và yếu. Gở gọng kính xuống, ông mời Thắng ngồi nơi chiếc ghế bên bàn với nụ cười làm giãn đôi môi mỏng:
-Qua thăm tôi là tốt rồi, mua quà làm gì cho tốn kém.
-Da…chỉ mấy quả cam, Bác có thấy khỏe hơn trước khi mổ không ạ.
-Còn đau lâm râm, đã là “căng-xe” thì vấn đề là bao lâu nữa thôi cậu Thắng ạ
-Cháu nghe nói có nhiều phương pháp mới…
-Nếu phát hiện sớm thì còn có cơ may, nhưng tôi là giai đoạn tồi tệ rồi! Thôi quên nó đi, Hình như cậu Thắng cũng theo Thiên Chúa Giáo?
Ông Gia vừa hỏi vừa chỉ lên tấm hình Chúa Giêsu chịu nạn. mũ gai trên đầu với những giọt máu đọng nơi khuôn mặt đớn đau.
-Dạ, nhà cháu là đạo gốc từ trước khi vào Nam ạ.
-Quê cậu ở đâu ngoài đó?
-Dạ Nam Định ạ.
-Tôi có người bạn cùng khóa, là Linh mục Chánh xứ của một họ đạo ở đó.
-Thế…trước đây Bác có đi nhà dòng?
Một khoảng lặng ập đến, đôi môi mỏng mím lại và đôi mắt sau làn kính sụp xuống. Tránh giây phút im lặng này, Thắng nhìn qua giá sách, nơi những cuốn sách Thần học, Triết học, Văn học dày cộm…Trước đây. Có người anh kế học Đại học văn khoa, dang dở vì phải đăng lính, anh chết sau khi ra trường được hai năm ở Tiểu khu Phong Dinh. Thắng đã đọc khá nhiều những cuốn sách anh để lại, một vài cái tên mà anh quen cũng năm trên các kệ sách ở đây. Tiếng ông Giá như từ đâu đó thật xa, kéo Thắng về với gương mặt trầm tư:
-Tôi đã là Linh mục!
Thắng bất ngờ không nói được gì, anh biết một linh mục đã thụ phong thì Bí tích ấy lớn lao ngần nào!
-Giá như căn bệnh này, hay một tai nạn náo đó, đến với tôi vào lúc đó thì hay biết bao!
Thắng đăm đăm nhìn không nói gì. Một lát, ông Giá hỏi rồi tự nói không đợi Thắng trả lời, ông tiếp:
-Cậu có biết thế nào là sa ngã không? Nó là một lựa chọn xuẩn ngốc, trong giây phút mà lý trí ta không hoàn toàn làm chủ được mình. Sau tám năm làm Linh mục, tôi đã sa ngã như một cậu trai khờ khạo với một phụ nữ.
Thắng hỏi với giọng ngại ngần:
-Một phụ nữ?
-Ừ, gọi là một phụ nữ bởi cô ấy đã mang thai trước khi đến với tôi.
-Thưa bác, chắc là người trong họ đạo của bác?
-Không, cô ấy không là người có đạo, chúng tôi gặp nhau trong một đoản từ thiện, sau đó cô ấy đến với tôi nơi giáo xứ, tôi đã nói dối với giáo dân đây là cô em họ…Nhục dục đã làm tôi không thể tách khỏi cô ấy…
-Có ai biết không ạ?
-Không, sau cái lần đầu tiên ấy, tôi như mê muội trong đam mê thân xác và sự cuồng nhiệt nhục dục nơi cô ấy…Một tháng sau, tôi tự rời bỏ họ đạo. Cô ấy muốn vượt biên, tôi cũng chỉ có con đường ấy để chọn. Theo cố ấy, Bà Rịa –Vũng tàu là nơi tổ chức những chuyến vượt biển khá thành công. Nhưng trước khi thực hiện, tôi trở về gặp Giám mục Địa phận. Ngài thất vọng, nói sau khi nghe tôi xưng tội: “Cha rất tiếc, nhưng thôi, con hãy là một người cha, người chồng tốt. Cha sẽ cầu nguyện cho con”
Tôi về thăm cha mẹ. họ gặp tôi, nghe tôi nói những lời xin lỗi vì đã đi sai con đường mà họ mong ước. Bố mẹ tôi đau đớn lắm, cả hai mất sau đó không lâu. Đám tang Bố tôi có về, nhưng ngày mẹ mất hai tháng sau đó, tôi đang chuẩn bị cho chuyến vượt biên nên không về được !
Những gì ông Gia vừa bày tỏ làm Thắng bàng hoàng. Anh cũng từng nghe chuyện Linh Mục sa ngã vì phải lòng một phụ nữ, thường thì xảy ra ở đâu đó thật xa. Anh khó dấu được sự bất bình, có phần khinh miệt khi nghe ai đó nói về chuyện ấy. Nhưng giờ đây, một người bằng xương bằng thịt, ngay trước mắt mình, đang nói với mình như thú tội giữa một con người với con người. Thật lạ, anh không có ý trách cứ hay bất bình, chỉ là nỗi cảm thông và thương cảm dâng lên trong lòng.
Dường như cũng thấy được sự cảm thông nơi Thắng, ông Gia tiếp:
-Sáu tháng sau thì Cát Trinh ra đời.
-Ai ạ?
-Cát Trinh, con gái đang sống với tôi đó. Vì tôi lấy tên thánh người đỡ đầu, chính là bà mụ ở trạm xá, là Catherina. Tôi phiên âm, rồi lấy họ mình đặt tên cho nó: Trần Thị Cát Trinh. Khi sinh, cháu bị sứt môi và hơi hở hàm ếch!
Thắng nhăn mặt, ngạc nhiên vì cô gái nay khá dễ thương chứ không có dấu hiệu gì về dị tật như ông Gia nói. Đoán được ý nghỉ của Thắng, ông Gia tiếp:
-Ngay trong bệnh viên, khi biết con mình bị sứt môi, cô ấy khăng khăng đòi bỏ đứa bé, buộc tôi phải đem cho cô nhi viện. Tôi không cam lòng, tôi an ủi cô ấy là sẽ cố gắng chạy chữa cho con sau này, nhưng cô ấy hét to như một kẻ điên:
-Đem nó đi cho khuất mắt tôi, nó có phải con của ông đâu mà ông mà tiếc !
-Tôi lặng đi, nhưng tôi thoáng nghỉ rất nhanh rằng: Con tôi hay không phải cũng chẳng sao, nó phải sống và được nuôi dưỡng, cho dù thế nào. Tôi chỉ nghỉ đến một đều là: Vì cô ấy, tôi đã phản lại lời thề khấn, giờ là hậu quả, có khác gì khi là con tôi hay con một ai đó, đã được hình thành trong thân xác của cô ta!? Hậu quả là một mầm sống và tôi phải đón nhận.
-Rồi cô ấy thế nào thưa Bác?
-Cô ấy là một người kỳ lạ! Tôi không thể không nghỉ đến hình ảnh con rắn khi nói đến cô ta, khác xa những gì tôi cảm mến khi đi làm từ thiên cùng nhau! Kể từ lúc sinh Cát Trinh, tôi không cảm thấy chút mến yêu nào khi bên cô ấy, không cả thèm muốn xác thịt, ngược lại, nỗi hối hận càng ngày càng ray rứt và thật lạ, càng hối hận bao nhiêu tối càng yêu thương Cát Trinh bấy nhiêu.
Thắng gục đầu như thầm cầu nguyện cho ông.
-Cô ấy rủa sã tôi không ngớt vì đứa con, bà mụ ở trạm xá, là hàng xóm và là người săn sóc tự nguyện cho nó. Khi Cát Trinh được bốn tháng, tôi đem cháu về Sài Gòn tìm Bác sĩ hỏi thăm về chuyện vá môi cho cháu. Một người bạn cũng là Linh Mục đã giúp tôi, Bác sĩ sau khi xem, lạc quan cho là chuyện nhỏ, chừng sáu tháng có thể phẫu thuật, rồi theo dõi thôi. Tôi rất mừng, ngoài môi trên bị mất một nữa, toàn bộ gương mặt cháu rất xinh, nhất là đôi mắt và mũi. Tôi trở về, hy vong niềm vui này làm cho cô ấy bớt buồn và có thể có được chút hạnh phúc, nhưng cô ấy không có nhà, hai ngày sau không về, trong lúc tôi đi, cô ấy đã vượt biển cùng tay chủ tàu chuyến trước mà cả hai chúng tôi cùng đi nhưng thất bại. Tôi dửng dưng không hề buồn, có cảm giác như vừa trút đi một gánh nặng. Số tiền ít ỏi mà bấy lâu bạn bè giúp đỡ cũng không còn!
Ông Gia lại im lặng như để trấn át cơn đau luôn lâm râm nơi sườn phải, lát sau ông cười như trấn an Thắng:
-Tôi làm thuê cũng đủ cho hai cha con, nhưng còn hai tháng nữa là phẫu thuật rồi, chỉ còn một cách là trở về gặp Giám Mục, tôi hy vọng Ngài sẽ có cách giúp tôi. Khi gặp được Ngài, tôi ngồi cúi đầu không dám nhìn, Ngài hiền từ nhìn tôi nói chậm rải:
-Con hãy luôn cầu nguyện, có lẽ con không biết chị con đã xuất ngoại. Bà ấy gởi lại cho con số tài sản của cha mẹ con đễ lại. Con đến gặp cha quản lý nhé.
-Tôi quá mừng! không cầm được nước mắt, thương bố mẹ. thương người chị duy nhất. tôi trách mình vì mặc cảm tội lỗi mà xa lánh luôn cả chị mình! Tôi mua một miếng đất chừng ba mẫu ở Bà Rịa, nó không cho tôi một chút lợi lộc nào lớn, Nhưng Chúa giúp tôi, cách nay chín năm, một công ty Đài Loan mua nó với giá tiến cao ngất ngưỡng mà chỉ nằm mơ mới có được!
Ông Gia nghỉ một lát như để thở, rồi nói tiếp:
-Phẫu thuật cho Cát Trinh không đơn giản, ba lần vẫn chưa hoàn chỉnh được. giọng nói ngọng nghịu làm khổ Cát Trinh. Tôi nghỉ đến chị, lúc này đã đinh cư ở Úc và Cát Trinh đã mười bảy tuổi. Một lần nữa Giám mục đã giúp tôi, qua thư, Ngài giới thiệu cho cơ quan từ thiện Caritas, chị tôi đã bào lãnh Cát Trinh qua Úc. Bên ấy, cơ quan này giúp hoàn chỉnh cho cháu cả môi, răng và thanh quản. Sáu tháng sau cháu trở về, trước mắt tôi là một thiếu nữ tuyệt vời cậu Thắng ạ.
-Thế bác chuyển về Sài Gòn lúc nào?
-Khi Cát Trinh từ Úc về, hồi bán được đất ở dưới đó, tôi lên mua nhà ở Thủ Đức. để tiện lo cho cháu. Năm ngoái, tôi lại bán căn nhà đó, chuyển tiền vào tài khoản của Cát Trinh, tôi chỉ giữ lại cho mình một ít. Rồi về mướn căn nhà này.
-Bác có biết mẹ Cát Trinh bây giờ ở đâu không?
Ông Gia hơi ngửa người dựa vào thành ghế, có lẽ lại một cơn đau:
-Tám năm nay tôi nuôi bà ấy !
Thắng kinh ngạc, nhìn ông Gia:
-Bà ấy vượt biển rồi…?
-Không đi được, bị bắt và phải ở trong trại giam bốn tháng. Chừng một tháng sau ngày bé Cát Trinh qua Úc, tôi nhận được tin bà ấy đang ở tại một ngôi chùa ngoài Trung, bị liệt nữa người ! Tôi ra đó hai lẩn, lấn sau khoảng hai mươi ngày trước khi Cát Trinh về. Không thể ra thăm bà ấy mãi được khi mà Cát Trinh đã đủ trí khôn. Tôi đã nói với Cát Trinh là mẹ đã chết khi nó lên ba. Từ ấy đến nay, không bao giờ nó đề cập đến mẹ. Bà ấy cũng đã năm mươi hai tuổi, bị lẫn, liệt nữa người và mờ mắt vì bị hỏng giác mạc.Tôi đưa bà ấy vào Vũng Tàu, khi về Sài Gòn, tôi cũng sắp xếp cho bà ấy tại Viện Dưỡng lão ở đây, hai tháng tôi đến thăm một lần. Gần đây, bà không còn nhận ra tôi là ai!
Thắng hơi ngập ngừng, hỏi:
-Bác không ghét bà ấy sao?
-Thực tình mà nói thì tôi không ghét, tôi cho rằng tất cả nằm trong hậu quả từ một lầm lỗi của mình. Nhưng nói thương thì thật sự tôi không thấy chút tình cảm nào trong lòng. Tôi làm bổn phận như Giám mục đã dặn tôi …và như thế, tôi cảm thấy bớt ray rứt.
-Cát Trinh, cho đến lúc này vẫn không biết gì?
Ông Gia sửa lại thế ngồi, hơi khom người, hai tay khoanh lên bàn:
-Đây là vấn đề, chính vì đều này mà hôm nay tôi mới thú thật hết với cậu. Nó biết hết, biết tôi không phải là cha của nó, biết mẹ nó đã có ý bỏ nó khi vừa sinh ra. chính bà mụ ở Bà Rịa đã nói hết cho nó nghe khi nó lên chín tuổi! Nó biết và im lặng cho đến tối hôm kia, khi tôi nói là mẹ còn sống và đang ở trại dưỡng lão, nếu ba chết thì con cố tiếp tục thay ba chăm cho mẹ. Nó đã nói :
-Kẻ nào dám hy sinh thì nhận được sự hy sinh. Con khước từ trách nhiệm này vì bà ấy đã như vậy với con, bà ấy đã chết! Con chỉ có Ba và ba phải sống, kể cả việc ghép lá gan của con cho ba.
-Cố ấy nói đúng quá!
-Không, đúng nhưng bất nhẫn cậu ạ. Tiếc là nó không hề có ý thay đổi khi tôi cố thuyết phục nó, hãy tha thứ và rộng lượng như kinh thánh dạy: “Hãy yêu kẻ ghét con.” Nhưng nó đã khẩn khoản: “Ba, đừng bắt con phải yêu kẻ con ghét. Con không thể!”
Ông gia cúi đầu thở dài:
-Hình như nó đã xem được câu nói này đâu đó trong những cuốn sách kia!
Im lặng một lát, ông Gia lại nói, rành rọt như đã suy nghỉ nhiều về những gì sắp nói:
-Cát Trinh đã hai mươi lăm tuổi. nó cần sống cuộc đời của nó. Thế nên tôi phải nhờ đến anh.
Thắng giật mình vì không biết ông Gia nhờ đến mình trong việc gì. Anh nhổm người nhìn ông với đôi mắt kinh ngạc. Ông Gia đưa bàn tay gầy xanh đặt lên vai anh:
-Nếu hôm nay anh không qua thăm, tôi cũng qua gặp anh. Có lẽ anh không ngại giúp khi tôi nhờ. Thế này anh Thắng ạ: Cát Trinh đang cố gắng lo cho tôi qua Úc, sẽ làm mọi cách chữa trị cho tôi, kể cả việc ghép lá gan mà nó là người cho nếu bệnh viên thấy phù hợp. Nhưng như tôi đã nói, chỉ kéo dài thời gian sống không cần thiết mà thôi. Hiện dang có một cậu trai đang yêu và muốn kết hôn với nó, hai năm nay rồi. Tôi thấy cậu ta là người tốt, dù nghèo. Tôi hy vọng cậu ta sẽ đem đến hạnh phúc cho nó. Việc hao tốn tiền bạc và thời gian cho tôi lúc này thật vô ích! Ngày mai, cậu cùng tôi đến viện dưỡng lão, cậu chở bà ấy đến thành phố N… theo địa chỉ tôi ghi nơi bức thư, đưa cho Giám Mục Phanxico, ỏng Gia lại thở dài, tôi cũng chỉ còn có Ngài để nhờ vả, có lẽ là lần cuối cùng.
Thắng nhìn ông Gia với đôi mắt buồn đầy thương cảm, cuối cùng anh nói thật nhỏ:
-Cháu sẽ làm theo nguyện vọng của Bác.
oOo
Vị khách trẻ và chiếc taxi đi rồi, xe của trại mồ côi của các soeur dòng Mến Thánh Giá cũng vừa chở người đàn bà khốn khổ ra khỏi khuôn viên Tòa Giám Mục.
Giám mục ngồi gục đầu, nhắm mắt nhớ lại gương mặt của Dominico Trần Hiếu Gia, chủng sinh mà ông kỳ vọng nhiều nhất trong số những chủng sinh năm ấy. Sự hiểu biết sâu sắc về Thần học và Giáo Luật, tính tình vui tươi và linh động trong tổ chức, sinh hoạt tập thể…Hồi đó, còn là Linh mục, ông đã từ chối không nhận làm cha linh hướng cho cậu vì đang là Bề trên chủng viện, nhưng Cha đã rất hài lòng khi chính mình lại là Giám mục Truyền chức Linh Mục cho Gia. Thế mà tám năm sau…
Giám mục mở lá thư đang cầm trên tay, xem lại một lần nữa:
“Kính Gửi Giám Mục.
“Người phụ nữ này là người mà qua bà ấy con đã phụ lòng Giám Mục và phản bội lời thế khấn với thiên chức của mình. Con đã làm cha và làm chồng. nhưng trong hai đều ấy con chỉ làm được một đều là cha tốt -dù rằng đó không hoàn toàn là máu thịt của con- với những gì con có thể. Giờ đây, con xin Ngài cho phép con gởi gắm người phụ nữ này, biết là một gánh nặng cho Ngài và Giáo phận, nhưng đó là cách hay nhất mà con buộc phải cậy trông, bởi con không thể tiếp tục làm bổn phận được.
“Thưa Giám Mục. Con đã một lần chọn lựa và ray rứt hối hận hai mươi bốn năm nay. Lần này con lại phải chọn lựa một lần nữa, phạm vào lề luật Chúa, đó là tự hủy hoại sự sống của mình! Hai chọn lựa này khiến cho con trở thành hoàn toàn bất xứng với ân sủng của Thiên Chúa. Nhưng với Ngài, con vẫn hằng mong Ngài sẽ tha thứ…Vĩnh biệt Ngài. Kẻ tội lỗi.”
Giám Mục Phanxico run rẫy bấm chuông gọi Linh Mục phụ tá. Nhưng ngài lập tức nhận ra rằng: Mọi sự đã muộn! Ngài ngước mắt lên cao làm dấu thánh:
”Lạy Cha, con luôn tin vào lòng yêu thương và tha thứ nơi Cha là vô cùng, xin Cha thứ tha cho một linh hồn tội lỗi, trong thân phận mong manh của con Người, mà ngài đã tạo dựng. Amen!”

TRẠCH AN-TRẦN HỮU HỘI

 

Rủi-May !

trachantranhuuhoi

Phận lại thức giấc. Nhiều đêm nay, từ cái ngày ấy, anh bị thức giấc nhiều lần trong đêm. Anh quơ tay bên cạnh, không đụng vợ. Anh chợt nhớ, cũng từ dạo ấy, đêm khuya thức giấc thường không có chị bên cạnh …
Phận lại thao thức tiếc xót và rủa sả mình thậm tệ !
Hồi đi nghĩa vụ quân sự, anh đóng quân tận Vĩnh Long, gặp Lài rồi lấy làm vợ. Mồ côi từ nhỏ, anh nghe chốn này có ông chú ruột nên tìm về, nào dè vế tới nơi thì ông chú đã chuyển đi làm ăn đâu trong Xuyên Mộc, Bà Rịa !
Vốn liếng không có là bao, tằn tiện mua lại được cái nhà.
Cha xứ thường thăm viếng và rồi cả hai học giáo lý, rửa tội theo đạo và làm phép cưới ở nhà thờ. Bốn năm rồi mà vẫn không có con!
Công việc tuy không phải là nghề, nhưng cũng mang lại cho hai vợ chồng Phận miếng cơm hàng ngày…
Dưới gốc cây me, trước cổng vào nhà thờ, với một cái bàn chữ nhật nhỏ bỏ dăm đôi giày, đôi dép… đã may xong, một ghế thấp để ngồi và mấy cuộn chỉ, hộp keo “con chó”, anh gia công khâu, dán lại các loại giày dép, cũng tạm qua ngày. Chị lài không quen làm rẩy nên chỉ ở nhà …
Thế nhưng hai con mắt anh không biết tại sao càng ngày càng mờ, nhất là những lúc trời nắng !
Hôm đi bệnh viện tỉnh khám, Bác sĩ bảo anh bị đục thủy tinh thể, chờ có phái đoàn mổ từ thiện của nước ngoài ghé địa phương thì xã sẻ thông báo. Phải chờ thôi chứ tiền đâu mà không chờ! Hai năm rồi chưa ai ghé, mắt ngày càng mờ thêm. Không thấy rõ nên may cũng chẳng xong !
Anh dẹp may giày, bày ra bán vé số, cũng có mắm có muối nhờ ở ngay trước cửa nhà thờ, có ngày anh bán cả trăm tấm !
Chục ngày trước, có cậu thanh niên ở đâu đi xe máy sà vô mua sáu tấm, sau khi trả tiền, cho lại anh một tấm, Phận mừng lắm, gấp đôi cho vào chiếc ví ở túi sau. Chiều còn lại mười hai tờ, đại lý ghé lấy .
Về nhà sớm một bữa.
Gần đến nhà, thằng Toàn hàng xóm đứng trong hàng rào vói ra hỏi:
-Còn vé không?
-Hết rồi !
Đi được một quãng, anh lại nhớ tấm vé cậu thanh niên cho hồi sáng,
-Chậc, biết có trúng không, bán mẹ nó lấy năm ngàn cho chắc ăn ! Cái số mình nó nghèo rồi, mấy lần bỏ tiền mua còn không trúng huống là cho !
Anh quay lại,
-Ê, còn một tấm, lấy không?
-Lấy !
Toàn đưa anh mười ngàn, anh thối hắn năm ngàn.
Sáu giờ thì tin trúng số lan nhanh. Anh Từ đại lý, ghé đưa cho Phận tấm giấy kết quả xổ số, nói :
-Lốc của mi trúng độc đắc, mi nhớ bán cho ai thì ghé nhà xin người ta ít triệu !
Không nhớ ai mua vì mắt kém, Phận kêu thắng Toàn dò thử.
Trúng ! 125 triệu !
Phận như trúng phải gió độc, sụm ngay trước nhà, hai ngày sau không dậy nỗi, ốm luôn!
Và rồi đêm nào cũng giật mình thức giấc, nằm tiếc xót 125 triệu, rủa sả mình ngu !
Nằm chờ chán vẫn không thấy chị Lài, “đêm đi tiểu đi tiêu cũng đâu có lâu như vậy?”. Phận thoáng chút nghi hoặc. Từ mấy tháng gần đây, thằng Toàn qua nhà anh luôn, Lài thì cớt cớt nhả nhả… “Mà thằng Toàn thì có vợ, có con, không lẽ…”
Mắt anh ban đêm, trời không sáng thì còn ro rõ, anh lần ra bếp. Ngay trong cái chuồng heo từ lâu không có heo, hai tấm thân trần truồng, quấn vào nhau say sưa… !
Thằng Toàn và chị Lài, vợ Phận !
Anh lảo đảo trở lại giường chong mắt nhìn lên đỉnh mùng rách lỗ chỗ !
Hơn mười ngày ốm, cộng với những đêm thức giấc không ngủ … thể chất và tinh thần anh bủn rủn…Những ý nghĩ hỗn độn, chập chờn, như ma trơi trong đầu anh !
Lài trở vào giường, còn thở hồng hộc như vừa cày xong đám rẫy mì!
Hai ngày sau thì mất tích, cả Toàn, Lài vợ anh, cùng ông Ngoạn cha của Toàn. Thì ra họ có sắp đặt rồi !
Phận cũng không dậy nỗi mà nấu chén cháo cho mình !

***
-Anh Phận , dậy húp chút cháo !
-A…i… đ…ó? Phận nói như rên .
-Em đây, Thê đây anh Phận ! Cái tụi nó anh đừng buồn nữa, em cũng chẳng tiếc tác chi cái thằng say vũ phu đó !
Thê là vợ của Toàn.
Thê hiền, đẹp và chăm. Chỉ tội cái hồi còn nhỏ, cháy nhà, phỏng nặng, chân phải bị teo, đi khập khễnh ! Toàn ưng chị vì một mẹ một con, tưởng đâu bà mẹ góa có vốn liếng nhiều, nào dè cưới xong hai năm, sinh được đứa con gái, mẹ Thê chết, giờ hắn mới biết là chẳng vốn chẳng liếng gì, ba chỉ vàng không đủ cho hắn mua chiếc xe cũ đời 86 ! nhưng cũng còn có cái nhà ! Hắn bán cái nhà cha hắn, rồi đem cha về ở chung trong nhà vợ !
Dạo gần đây, đêm lại, kéo quần vợ ra, thấy cái chân dúm dó hắn mất hứng, nổi quạu, tống một đạp làm Thê rớt xuống giường! Chị không dám leo lên, sợ hắn lại cho thêm một đạp khác nên cứ ngồi mé giường khóc rấm rức !
Phận cố ngồi dậy, muốn bỏ chân xuống giường mà không nổi, anh nhìn thấy gương mặt Thê nhờ bóng tối ! Mắt anh rưng rưng !
-Anh phận gắng nuốt miếng cháo lấy sức !
Phận nuốt cháo và cũng nuốt luôn nỗi xót xa trong lòng. Xóm giềng lúc này, ai ai cũng ghé thăm và khuyên nhủ anh quên cái con phản trắc lăng loàn ấy đi .
Thê săn sóc anh tận tình như một người vợ, hai con người chung nỗi thất vọng. Cái nghèo, cái khổ làm cho người ta dễ chấp nhận nhau.
Thê bồng đứa con gái một tuổi qua nhà Phận cả ngày để tiện chăm sóc cho anh hơn,tối về nhà mình. Chừng mười ngày thì anh đã phục hồi trí lực, chuyện cũ cũng nguôi ngoai nhờ có Thê. Chạng vạng chiều hôm đó, anh buồn bã nói với Thê
-Cứ đi qua đi về mệt, hay là Thê ngủ lại đây luôn ?
-Đóng cửa nhà à, người ta nói vô nói ra…
-Thì để họ nói !
Đêm đó chị Thê ở lại…
Hai ngày sau thì cha xứ ghé thăm, cha cho hai lon sữa và 100 ngàn, khi sắp về cha nói:
-Cha có nghe người ta đồn này đồn nọ, cha cũng rỏ hoàn cảnh hai con, nhưng cha nghĩ nên chờ một thời gian coi sao đã. Sống với nhau như vậy e khó coi và còn luật hôn phối nữa, hai con đều có làm phép nhà thờ !
Tối hôm đó,Thê ẵm con về lại nhà, nằm thao thức không ngủ được !
Bên này, Phận cũng không ngủ ! Anh cảm thấy trống trải hơn cả lúc Lài mới bỏ đi !
Chiều tối lại, anh qua nhà Thê:
-Đêm qua tui không ngủ được, Thê tính chuyện tụi mình thế nào ?
-Cha đã nói vậy biết sao giờ ?!
-Cha chưa ở với thằng Toàn và con Lài, Cha chưa thấy tụi hắn mần chuyện lăng loàn sau chuồng heo, cha có người lo nấu nướng cơm nước hàng ngày…nói chung, cha không phải là tui và Thê. Thê không qua bên đó thì tui ở lại bên này !
Tối đó, Thê lại ẵm con qua với Phận. Đêm không còn thao thức, Phận không chê cái chân nhăn nhúm của Thê. Họ mặn mà như một đôi mới cưới, sau phút giây hạnh phúc …Thê đặt tay lên bụng Phận:
-Anh Phận…
-Chi vậy Thê?
-Mình đi vô trong Sài gòn mổ mắt đi!
-Có tiền đâu mà mổ ?
-Hồi chưa chết, mạ có đưa em năm chỉ vàng, nói là phải chôn kỷ, không cho thằng Toàn biết, để sau mà phòng thân !
-Của Thê và cho con bé sau này, chừ lấy mổ mắt sao được !?
-Sáng mắt rồi mình làm bù lại, của mạ cho em, thì cũng như của anh, lo gì ! mình đã…!
Một chỉ vàng là bốn triệu ba, thay thủy tinh thể một con mắt hết năm triệu tư, bán hai chỉ cũng còn thừa làm vốn, Thê muốn thay luôn cho Phận cả hai mắt nhưng bác sĩ không chịu làm, phải đợi một năm sau.
Chao ôi, một con cũng đủ sáng rực như đèn pha rồi, Phận như lanh lẹ hẳn ra…
Bây giờ cái bàn phải làm to ra, một bên bày vé số, một bên bỏ mấy đôi giày…Mua thêm một cái ghế vì hai người cùng ngồi, vừa bán vừa khâu giày…Chị Thê cũng mau mắn, miệng mồm, vui vẻ. Cột một cái võng nơi chãng hai của gốc me, con bé ngủ, hết ngủ thì dậy đùa chơi bên họ.
Phận tươi tắn lại. Chuyên buồn cũng không còn bận trí của hai người. Nhưng cứ mỗi lần thấy Cha xứ thì họ lại như kẻ phạm trọng tội, mặc dù cha chẳng trách móc gì ! Chúa nhật họ đi lễ nhà thờ nhưng không đi rước lễ !
***

Tin dữ lan nhanh làm cả xã rúng rính !
-Sao mà chết ?
-Thì đi buôn xăng bên Campuchia, lật xuồng chết cả đám chứ sao !
-Ai báo về ?
-Hai ông Công an dưới Miền Tây họ ra làm việc với xã cả buổi chiều đó !
-Chừ làm sao ?
-Họ chôn luôn dưới đó rồi, chờ lâu thối quá mà.
-Ông Ngoạn cha thằng Toàn cũng chết à?
-Thì đã nói là cả đám mà !
Đêm đó cả Phận và Thê không ngủ, họ ngồi suốt đêm, không ai nói chuyện với ai .Gần sáng, Phận nói:
-Hay là mình xuống dưới đó cho biết chỗ, rồi về làm cái tang cho cả ba người, cho con bé để tang cha và ông nội nó, sau này thuận tiện mình đem cốt về ?!
-Anh tính vậy cũng được !
Cũng phải hơn mười ngày mới xong thủ tục dưới miền Tây. Phận và Thê về lại nhà, Phận nói:
-Mở cửa nhà bên đó, anh đóng cái bàn thờ cho cả ba người Thê ạ.

***
Hơn bốn tháng rồi từ ngày họ cho con bé chịu tang và dọn mấy mâm cho bà con tới đốt nhang trên bàn thờ nhà của Thê. Nhà chỉ mở cửa khi nào Thê qua quét dọn rồi thắp nhang…
Hôm ấy, Thê nằm nghiêng thì thầm vào tai Phận:
-Hồi học giáo lý anh có biết luật Hôn nhân thế nào không?
-Không?
-Hai người họ đều chết thì mình có quyền làm phép cưới với nhau. Em muốn đi lể và rước lể bình thường như mọi người, cứ như vầy hoài em bứt rứt lắm !
Phận nằm im lặng một lát, anh nắm tay Thê như năn nỉ:
-Chờ một năm nữa em ạ. Làm giỗ xong, mình qua xin cha làm phép cưới !
Chị Thê ôm lấy anh Phận:
-Anh tính vậy cũng được !
Chị Thê lại tỉ tê:
-Hôm qua đi chợ, người ta nói với nhau em nghe được…
-Họ nói gì?
-Họ nói anh sống có tình !
Phận nằm ngẫm nghĩ một lúc:
-Không biết anh có tâm có tình hay không, nhưng cái bụng anh nó nói sao anh làm theo như vậy !
Phận nói xong, cho tay vào quần chị thê, xoa lên chỗ da nhăn nhúm vì phỏng, chị Thê nhột quá, níu lấy tay anh…

Trạch An – Trần Hữu Hội.

Đêm Phan Thiết

trachantranhuuhoi

Hương ngồi trên bãi cát, nhìn mông lung ra biển. Thoáng trong gió, vẫn còn một cảm giác sợ sệt mơ hồ… Hình ảnh của Hiến hiện lên, dập dềnh, dập dềnh…theo cơn sóng. Những giọt nước mắt lại dâng lên mi… Những giọt nước mắt không ngừng chảy từ hai mươi chín năm nay!
Hai mươi chín năm. Kể từ ngày chị rời nơi đây với niềm hy vọng ít hơn nỗi sợ hãi! Niềm tin về một nơi có cái ăn, cái mặc, cuộc sống không phải lo toan từng bữa, từng ngày… Hạnh phúc được sống cùng Hiến, bên nhau mãi mãi, quá xa xăm mơ hồ, trong khi nỗi sợ hãi, bất an… thì hiện hữu thường trực trong lòng chị và cả Hiến. Nỗi lo lắng cho bản thân và cả cho nhau.
Hai mươi chín năm đơn độc, nuôi đứa con mà thượng đế đã hào phóng ban cho chị, không, cả Hiến nữa! Nó đã cho chị niềm hạnh phúc, cho chị niềm tin rằng Hiến vẫn sống bên mẹ con chị, cho chị nghị lực, để không buông xuôi trước những đa đoan, cô quạnh nơi xứ người!
– Hiến ơi, ổn rồi, ổn lắm rồi, con chúng ta đã kết hôn. Chỉ có niềm đau, nỗi buồn là không có anh đễ cùng nhau chung chia niềm hạnh phúc, Hiến ơi !
Gió biển cuốn ra khơi xa những lời thầm thì như tiếng thở dài của Hương…

oOo
Sau tiếng chuông, học sinh rời phòng học như một đàn ong, Hương uể oải nhìn buổi chiều buông xuống trên thành phố hắt hiu, một nỗi buồn lo lại đến ngập lòng chị mỗi khi đêm về. Những bước chân nghiêm nghị cố tạo, Hương bước qua cổng trường Hữu Nghị, nay đã là Phan Bội Châu, nhưng vẫn chưa ai quen với tên gọi này, hướng về nhà tập thể.
Bất giác, Hương quay lại, một gã cán bộ đội chiếc nón cối nhoẻn miệng cười:
– Hiến! anh, anh được tha à?
– Không, cứ đi tiếp đi. anh trốn trại! Có chỗ nào ngồi nói chuyện một lát không em?
– Về phòng tập thể của em?
– Đừng, kiếm cái xe nước mía nào khuất khuất chút, mình ngồi hay hơn.
Trời nhá nhem tối, băng qua chợ. Xe nước mía nào cũng vắng khách…Hiến kéo hai cái ghế con ra xa, dựa lưng vào tường rào một căn nhà phố, nhìn ra đường, cô bé mang đến hai ly nước mía còn sủi bọt, đặt lên một chiếc ghế khác…
– Họ cần một người biết tiếng Anh. Khỏi chung vàng!
– Em định cuối tuần này về đi thăm anh…
Đôi mắt Hiến rạng rỡ trên khuôn mặt ương bướng mà chị luôn muốn ghì lấy mỗi lần hai người gần nhau…
– Khi nào đi vậy anh ? anh có cùng chuyến không?
– Hai ngày nữa, cùng chuyến. Nghe nói cần thêm một người biết tiếng Anh, anh mừng quá!
– Liệu họ có đồng ý không?
– Phải đồng ý, cái hải bàn anh giữ mà.
Chiếc hải bàn mua bằng sáu chỉ vàng, qua hai chuyến đi không thành, anh vẫn chôn dấu được trước khi bị bắt. Nó là chiếc bùa hộ mạng của Hiến.
– Cũng những người cũ hả anh?
– Một số cũ, lần này có một tay vừa cải tạo về, làm việc có vẻ kỹ càng hơn. Mua bãi hai cây. Họ cho người ra tới trại giam Sông Cái liên lạc với anh.
– Cái nón cối này…
– Anh “chôm” của một tay cán bộ, bộ đồ này của một người trong nhóm cho.
Hương nhìn cái áo trắng cụt tay rộng thùng thình, cái quần kaki màu nâu và đôi dép râu màu đen… Nhìn chung, Hiến giống một cán bộ ngành Thương nghiệp hay Lương thực.
– Đêm nay anh ngủ đâu?
– Anh đinh thuê chiếu ngủ ở bến xe Phan Thiết, nhưng coi bộ không nên. Có thằng bạn ở bên thành đoàn, TNXP, nhưng cũng ngại cho hắn. Xuống Trường Y Tế Phong Nẫm cùng Lý thì phải giải thích này nọ về chuyện trốn trại. Anh rất ngại cô em họ lắm mồm này! Có lẽ anh ra Ga ngồi chỗ nào kín nhất, qua đêm. Em cứ về nhà tập thể như mọi khi.
– Ga đông người quen ngoài mình đi buôn lắm!
– Không lên tàu nên cứ tìm chỗ khuất mà ngồi… Có gì cũng dễ chạy!
– Em ở lại cùng anh được không?
– Không nên, các bạn ở tập thể trường thắc mắc.
– Tụi nó biết em hay xuống Lý, chắc nghĩ tối nay cũng vậy.
Hiến im lặng. Anh thèm được bên Hương biết bao nhiêu! Bốn tháng trong trại anh nhớ Hương đến quay quắt! Lần trước lâu hơn nhưng ở tận Bà Rịa, Hương lo lắng nhưng không biết ở đâu nên chẳng thăm, anh chấp nhận, cũng nhớ nhưng không bằng lần này! Hiến thở dài nắm tay Hương.
– Cũng được em ạ.
oOo
Khuất trong đám cây dại lúp xúp xa đường ray xe lửa, Hiến nằm nhìn lên trời cao với những vì sao lấp lánh, nỗi bất an cũng vơi dần…
Anh nhớ tới những ngày nào, khốn đốn từ những chuyện không đâu…
Sau 75, anh chấp nhận những đổi thay của Xã hội như một số Thanh Niên khác, cũng háo hức một cuộc sống mới. Một đất nước thanh bình không chiến tranh, không lệ thuộc vào ngoại bang…Anh tham gia Phong Trào Thanh Niên và làm phó bí thư chi đoàn, bên cạnh, nhờ có hai năm Đại học, anh được chỉ định làm Tuyên-Văn-Giáo thôn.
Nhiệt tình của anh vấp phải một chuyện nhỏ nhưng người ta cho là lớn. Anh bị nghi ngờ…
Khoảng tháng 10/75. Chủ trương xóa tàn tích văn hóa cũ: Dâm ô, đồi trụy và nô dịch, không lành mạnh…
Không sai, trong xã hội cũ, theo anh , bên cạnh những cuốn sách hay, vẫn có những cuốn sách mang nặng những nội dung không hay và nhảm nhí thậm chí tục tằn. Địa phương của anh trước đây có nhiều người đi làm sở Mỹ. Những cuốn Playboy, tranh khỏa thân… vẫn còn đâu đó trong dân. Không có giá trị bao nhiêu về nghệ thuật, tư tưởng….
Chiều hôm đó, anh có nhiệm vụ thông báo trên loa phóng thanh của thôn về chủ trương thu giữ và tiêu hủy sách cũ. Các thôn khác cũng như thế.
Sáng hôm sau, rất nhiều sách được người trong thôn mang đến nộp, có sự chứng kiên của Tuyên Giáo Huyện, địa phương của anh được đánh giá là thành phần Trí Thức nhiều nhất trong Huyện, trong Xã.
Hiến vui cười với những bà con bạn bè đem đến những cuốn truyện kiếm hiệp của Kim Dung, Hàn Giang Nhạn…Truyện trinh thám 007, Z.28 của “Người Thứ Tám”…Một số của “Người Khăn Trắng”, Dương Hà, Tùng Long …Trong đó có một số, anh không cho là đồi trụy, tuy nhiên, cũng không cần phải trả vì đa số cũng chỉ loại sách xem giải trí …
Khoảng gần trưa, một chiếc xe kéo tay mang đến một xe sách. Tất cả khoảng bảy thùng “các tông” lớn có nhỏ có. Anh nhận ra người kéo xe là con trai của Thầy giáo Lê Thanh Ninh. Thầy dạy Sử – Địa một trường Trung học ở Quy Nhơn, người đi theo là vợ của thầy, gương mặt cô ấy trông thật thảm hại:
– Thầy bị đau nên không đi được, cô đem sách đến nộp.
Hiến biết Thầy bị phổi nặng, nước da thầy đã chuyển qua xanh tái, kèm theo những tiếng ho khan từ hai tháng nay.
Hiền mở mấy thùng “các tông” xem qua. Một số tập san: Văn, Văn Học …còn phần nhiều là Tự Điển, sách Tham Khảo, Thế Giới Sử, Việt Sử… Một số tác phẩm văn học tiếng Anh, Pháp… Và cả những bản dịch Việt Ngữ …
Hiến bối rối thật sự vì khó phân định …
Có lẽ cũng thấy xót xa cho chồng, cô Ninh nói nghèn nghẹn:
– Thôi… cô về nghe em… Con ở lại kéo xe về sau…
Hiến chặn cô lại, nói:
– Khoan cô ạ, em thấy trong này có một số, có lẽ cô mang về cho thầy chứ không phải nộp!
Anh Tuyên Giáo Huyện, một cán bộ , nghiêm mặt:
– Không mang về được, nộp và tiêu hủy tất cả! Anh lấy quyền gì mà trả lại?
Hiến lôi ra mấy cuốn tự điển Hán-Việt, Anh-Việt và Pháp-Việt…Cuốn “Phong Lưu Đồng Ruộng” của Toan Ánh… bỏ lên bàn:
– Những cuốn này mà dâm ô đồi trụy và phản động ở chỗ nào?
Những năm học Đại Học, mấy cuốn sách này là mơ ước của anh, nó khá đắt!
Anh cán bộ quay qua mấy Du kích:
– Các anh cho vào trụ sở đi…Tất cả !
Nhân lúc Hiến đang đứng bên xe kéo, gã cán bộ đẩy chiếc ghế của anh ra sau, kéo chiếc ghế hắn đang ngồi qua chính giữa bàn. Hiến nghe nghèn nghẹn trong ngực, máu dồn lên mặt anh đỏ gay:
– Đồ…dốt !
Tiếng hét của anh làm tắt lặng hết mọi âm thanh! Không có ai dám nói với cán bộ Tuyên Giáo Huyện như thế cả…
Bước chân Hương nhẹ nhàng đến và tiếng nói nhỏ nhẹ làm Hiến trở về với thực tại:
– Anh chờ lâu không ? Em ghé nhà con bạn mượn ít tiền, bánh mì khá cứng, anh cố ăn nhé.
– Bạn em không nghi ngờ gì chứ ?
– Không đâu, nó có gia đình, biết em hay kẹt tiền giữa tháng mà.
Hiến thấy đói cồn cào, anh ăn ngấu nghiến ổ bánh mì cứng sửng, nhưng mùi vị ngòn ngọt của tinh bột làm anh có cảm giác khúc bánh mì ngon nhất từ trước tới nay, cả một ngày anh chưa có gì vào bụng!
Hương đưa khúc bánh mì mới ăn một phần cho Hiến:
– Anh ăn dùm em đi, em không nuốt nổi!
– Không, em phải ăn, anh chan nước mía vào cho em nhé, sẽ mềm hơn.
– Không, em mừng quá không ăn nổi!
Hiến cầm tay Hương, ghì lấy đầu nàng, nụ hôn nóng bỏng gắn lên môi, đôi môi khao khát vồ vập nhau với tất cả ngọt ngào nhung nhớ…Và rồi ..hai thân thể tan chảy trong nồng nàn yêu thương !
– Qua được, mình có làm đám cưới không anh?
– Có ai quen đâu mà đám cưới, chỉ có làm phép ở nhà thờ là đủ, ha em?
– Ừ nhỉ, em quên! à mà những người cùng chuyến sẽ dự lễ cưới tụi mình!
– Có thể, một số có đạo thôi…
– Lạy Chúa, cho lần này mình có…
Hiến ôm vai Hương, hôn lên tóc:
– Không lần này thì lần khác cũng sẽ có, anh thế này mà không có con sao?!
– Em muốn có ngay từ lần đầu, sẽ hạnh phúc hơn khi nghĩ đến hôm nay, nơi góc khuất của Ga này, trên thảm cỏ này!
– Ừ, sẽ có đó em, chúng ta yêu nhau mà!
– Em sẽ nhớ mãi đêm này: 21 tháng 5 năm 1984.
Lại một nụ hôn dài trong gió và mùi dầu hăng hắc của sân ga!
oOo
Trời tối như bưng. Nhóm của Hiến tập trung đủ 26 người trên bãi, chờ hơn một giờ rồi!
Bao lo âu nghi hoặc! Càng lo âu họ càng im lặng như nín thở, hướng mắt nhìn ra biển nguyện cầu, họ sợ bị bỏ rơi!
Hiến và Hương cũng cùng tâm trạng với họ.
Chừng 20 phút sau, ngọn đèn đỏ mờ mờ hiện ra cách xa bờ chừng 50m, xoay vòng làm hiệu. Hiến đáp lại bằng ngọn đèn pin cũng màu đỏ cầm trên tay…
Tất cả thở phào, Hiến nói vừa đủ cho mọi người nghe:
– Lội ra mau, ai có con dại thì cột chặt vào người, nhớ bịt miệng thật chặt khi nó khóc.
Điều này anh đã nói trước, thế mà lúc này cũng nhắc lại như một phản xạ tự nhiên!
Trên thuyền có tiếng nói rõ mà nhẹ:
– Người giữ hải bàn và người biết tiếng Anh lên trước đi.
Hiến trả lời cũng rõ và rắn:
-Tôi giữ hải bàn, tôi sẽ lên sau cùng.
Những bàn tay đàn ông kéo những người trong nhóm Hiến lên ghe, rất nhanh và êm thấm, anh đẩy lưng Hương, hai bàn tay cùng đưa ra đón hai người… Ghe chật, trong đêm tối, anh gặp ánh mắt thân thiện của “người mới cải tạo về”:
– Gọi mình là Phú.
– Tôi là Hiến, có lẽ nhỏ hơn anh! Bao nhiêu tất cả vậy anh Phú?
– 53 mạng lớn nhỏ.
Chiếc ghe chèo theo hướng ra biển, sóng vỗ nhẹ hai bên mạn ghe.
Hình như ai cũng thấy dấu hiệu của may mắn khi tiếng máy bắt đầu nổ. Chiếc ghe lao nhanh trên sóng, xa dần bờ yên tĩnh!
oOo
Đêm, ngày, rồi đêm và ngày… Đêm lạnh ngắt, ngày nắng như thiêu…
Những gương mặt đàn ông cũng như đàn bà phồng rộp, đỏ au… Lũ trẻ được trùm khăn kín mít, nằm trong lòng người thân như đã chết, những cơn sóng cao, nhồi con tàu như chiếc lá khô mỏng manh, hầu hết đàn bà tựa vào nhau lờ đờ… Có tất cả chín người đàn ông, nhưng sóng, gió và nắng làm họ rũ rượi như những bệnh nhân. Hương cũng ôm một cháu bé, con của một người có ba cháu nhỏ đi cùng, tựa vào chiếc thùng phuy đựng nước đặt giữa ghe, mặt và thân cháu bé đã mưng mủ nhiều chỗ!
Ngày thứ sáu, Phú kéo Hiến và hai người đàn ông còn khỏe mạnh khác, đến bên chỗ tài công, hét trong tiếng sóng và gió:
– Lương thực và nước gần cạn, hạn chế tối đa. Ai có con dại, lấy sẵn cho họ một bi-đông và dặn họ tiết kiệm, tránh đi lại nhiều.
Một người rụt rè:
– Chừng bao lâu nữa thì…
– Bốn năm ngày, nếu may mắn thì chúng ta có thể thấy Philippine , nhưng mong nhất là gặp một tàu ngoại quốc tử tế, hình như ra hải phận Quốc Tế rồi.
Niềm hy vọng lóe lên trên những gương mặt sầu thảm!
Sáng ngày thứ bảy, trời yên ắng hiền hòa! Những chú cá chuồn từ đâu xuất hiện lao vút qua ghe, một số con rớt vào ghe làm mọi người mừng rỡ!
Ngày sau lại, sóng gió lớn hơn, sẫm tối thì mưa. Những con sóng dữ dội chưa từng thấy nhồi chiếc ghe lên cao rồi lắc giật liên tục!
Phú thét lớn với Hiến trong khi tay ôm chặt cột cabin:
– Cột chặt dây vào mũi ghe rồi lần tới đây đi…
Phải ba lần Hiến mới hiểu Phú nói gì. Anh nằm soãi người kéo cuộn dây tói tìm đầu mối, khó khăn lắm mới cột được vào mũi ghe. Anh lần dây bò giữa ghe về phía Phú, vừa bò anh vừa hét cho mọi người bám chắc vào dây. Đoạn đường từ mũi ghe đến cabin như dài vô tận ! Khi Phú cùng Hiến đang cột dây vào thân chiếc cột, một con sóng cao kèm nhiều tiếng thét nổi lên, không thấy gì ngoài mưa và gió !
Gần sáng, sóng gió không còn hung dữ, Hiến và Phú hãi hùng nhìn cảnh tượng trên ghe. Hơn nửa số người biến theo cơn sóng gió, số còn lại nằm gọn giữa lòng ghe ngập nước, không thể phân biệt được ai còn sống và ai đã chết, hai thùng phuy nước uống lật nghiêng…Không thấy cả tài công, chiếc máy im re không động tỉnh!
Hiến đến bên Hương, có lẽ nhờ hai thùng phuy nước trống rỗng kèm hai bên nên Hương đã không văng xuống biển.
Phú gục đầu rên rỉ như một con thú. Vợ và hai đứa con gái không còn, đứa con trai nằm lịm bên anh! Không có ai, không có một cái gì trên mặt biển chứng tỏ rằng hơn ba chục con người vừa rớt xuống đó đêm qua. chỉ còn một số đồ đạc dập dềnh…
Ghe như đứng yên, nhồi theo từng con sóng. Không còn lương thực, không còn nước, nắng như thiêu… Hiến buông người nằm xuống bên Hương, bàn tay anh nắm chặt tay Hương, nỗi hối hận dâng lên trong lòng, trong đầu Hiến lóe lên một lời nguyện cầu khẩn thiết: “Lạy Chúa, Xin cứu giúp chúng con !”
oOo
Năm ngày trôi dật dờ …
Không một chiếc tàu nào đi ngang, mấy người chết bắt đầu bốc mùi thối! Phú và Hiến cùng ý nghĩ : “Cho họ xuống biển thôi !”. Trên ghe còn lại đúng 16 người, 16 cái thây bất động! Phú và Hiến gom họ vào trong cabin. Những con chim biển chao lượn trên bầu trời nắng chói, tấm bạt được căng ra hứng sương đêm…Phú và Hiến đến nhỏ từng giọt vào những đôi môi nứt nẻ !
Những con tép biển búng vu vơ, có con rơi vào ghe. Phú nhìn Hiến, cả hai bò đi nhặt rồi chia cho mọi người…
Những ngày sau, cả hai lên nằm trên cabin, cạnh chỗ căng bạt, cố gắng nhặt những con tép quý báu, bên dưới cabin, đã có thêm mấy cái xác bốc mùi !
Mọi hy vọng đều tan biến trong cái đói lã và khát bỏng cổ : “Bờ!”, đó là điều duy nhất còn lại trong những bộ não đã dại đi vì đói và khát!
Phú và Hiến cũng không còn sức, mặc cho những cái xác bốc mùi ! Người chết và người sống không còn phân biệt được nữa.
Sẫm tối, biển lại mưa! Phú và Hiến mừng đến dại người…Cả hai lăn hai cái phuy để giữa ghe hứng nước, nỗi mừng tăng thêm cho cả hai chút sinh lực. Sóng đánh vào chiếc ghe lắc lư, cả hai cố giữ hai cái phuy đang chao đảo. Hơn hai giờ mưa, hai cái phuy không cần phải giữ, đã đủ nặng để đứng yên. Biển tối đen và những cơn sóng.
Hiến lần đến bên Hương, cơn mưa và nước như phép mầu làm Hươn gượng ngồi dậy khi Hiến đến. Hiến ôm vòng qua người Hương lạnh ngắt, Hương thều thào vào tai Hiến:
– Có hứng được gì không anh?
-Có, gần đầy hai thùng em ạ.
– Anh Phú thế nào rồi?
– Còn sống, anh ấy đang ngồi với con.
Hiến nhớ đến hai con tép mò được hồi chiều, trong cái lỗ trũng gần bánh lái… Anh đứng lên chập choạng đi về sau ghe. Mưa và sóng vẫn giật từng cơn. Khi trở lại, một cơn sóng tràn lên ghe với cú lắc mạnh làm Hiến văng xuống biển. Hương thét lên hoảng hốt quay lại phía Hiến, nhưng một màu tối đen và mưa gió quất vào mặt. Hương gục xuống hai bàn tay nức nở:
– Hiến, Hiến…ơi!
Chỉ có sóng, gió, mưa và một màu đen của đêm.
oOo
Hương mở mắt, nhìn quanh, gắng ngồi dậy mà không được. Miệng và mũi chị cảm thấy mát lạnh, có cái gì như chiếc mặt nạ nhỏ chụp lên đó.
Một người phụ nữ mặc áo blouse, da ngăm đen, mập mạp, đến bên chị mỉm cười, nói một câu gì đó chị không hiểu. Bà ấy không nói tiếng Anh!
Người phụ nữ giảng giải thêm thật nhiều, nhưng chị chỉ đoán, có lẽ đây là Philippine vì nó được nhắc lại nhiều lần! Người phụ nữ nhẹ nhàng đặt bàn tay lên trán chị một lát, rồi vẫy tay cười hiền, rời khỏi giường.
Bốn ngày sau, Hương biết mình sống sót cùng hai cha con Phú và thêm ba người nữa. Tàu tấp vào Philippine rạng sáng hôm sau, khi cơn mưa vừa dứt.
Phép màu đã xảy ra, nhưng quá muộn màng ! Chị bật khóc:
– Hiến ơi, anh đâu rồi Hiến ơi !
Như một tia chớp lóe lên trong đầu, Hương đặt hai bàn tay lên bụng… Chị nhắm mắt nguyện

Trạch An-Trần Hữu Hội

Bức tranh.

trachantranhuuhoi

 

-Hình như cậu thích tranh ?
Luận nhìn quanh xem câu hỏi ấy phát ra từ đâu, khi biết chắc là từ ông già bất động trên chiếc xe lăn, Luận cúi đầu chào kính rồi nói:
-Vâng, cháu có thích thật, nhưng chỉ ngắm thôi chứ chưa hề mua một bức nào !
-Tại sao?
-Tranh giống như phụ nữ đẹp nhưng kiêu kỳ, muốn đến với họ thì phải có tiền, mà cháu thì nghèo!
Một tràng cười phát ra từ chiếc xe lăn. Âm thanh dòn dội vào các ngóc ngách của quán vắng, làm Luận thấy rờn rợn.
-Sao hả Bác?
-Hai mươi hai năm trước tôi cũng nói câu này, nhưng là nói với một người phụ nữ.
Luận rụt rè:
-Dạ…
Lại im lặng, im lặng như mọi khi. Chỉ còn tiếng nhạc nhè nhẹ.
Hơn sáu tháng nay, Kể từ ngày ra tòa chia tay với người vợ gần mười lăm năm chung sống không lấy gì làm hòa thuận, điều đau nhất của anh trong cuộc ly hôn này là không dành được quyền nuôi đứa con ! Anh trở thành một kẻ độc thân ở tuổi bốn mươi ba ! Luận chọn quán cà phê này trú thân, ngoài căn nhà trọ chật hẹp, cũng ấm cúng vì nó thích hợp với mẫu người cô độc như anh. Quán này cũng thế, sâu, hẹp nhưng ấm áp, vắng và nhiều tranh…Chủ quán, một thiếu phụ, chỉ xuất hiện khi có khách vào, pha cà phê xong là biến mất, còn lại ông già bất động trên chiếc xe lăn, ngồi trầm tư như thế suốt ngày, hiếm khi nghe ông nói gì, ông ở đó như một pho tượng, khách vào, ra không hề nghĩ đến sự hiện hữu của ông !
Luận cũng quen dần và cảm thấy những bức tranh trên tường ý nghĩa hơn cả sự tồn tại im lìm đó !
Hôm nay, pho tượng ấy đột ngột mở lời khi anh đang lơ đãng ngắm bức tranh chép lại của Levitan, “ Ngày nắng”. Treo gần cửa ra vào.
-Cậu biết gì về hội họa?
-Dạ hầu như không biết chút gì !
Lại một tràng cười….
Luận bối rối không vì kiến thức ít ỏi của minh mà vì câu hỏi đến từ một người mà anh vừa mới đây thôi, cảm thấy thú vị, tò mò…
-Tôi cũng đã nói như cậu !
-Với ai ạ?
-Bà ấy! Chủ nhật này cậu có đến đây không ?
-Thưa.. ngày mai ?
-Ngày mai là chủ nhật rồi à? Tôi quên mất ngày tháng ! Ừ, ngày mai cậu đến chứ?
-Dạ vâng, cháu đến, buổi chiều được không Bác?
-Được.
Lại im lặng, một khoảng lặng mênh mông….
oOo
Người đàn bà rời mắt khỏi giá vẽ, ngước mắt nhìn người khách vừa vào phòng :
-Ông muốn mua tranh ?
Người khách trung niên bối rối :
-Tôi muốn một bức sơn dầu, khoảng 0m70 – 0m90.
-Vậy là ông cần kích cỡ hơn tác giả và trường phái?!
Người đàn ông bối rối chưa biết nói gì thì một câu hỏi tiếp, lạnh lùng:
-Ông không thích hội họa?
-Thời trẻ tôi có thích, nhưng chưa bao giờ có đủ tiền để mua một bức tranh nào!
Một nụ cười thoảng nhẹ trên đôi môi người phụ nữ:
-Thế sao?!
-Bà hỏi gì ạ?
-Như vậy rồi ông không tìm hiểu gì về tranh, về hội họa nữa ư?
-Vâng, hoàn toàn không biết gì!
-Tôi không nghĩ thế, ít ra thì ông biết thích tranh sơn dầu…
Câu nói như khuyến khích người đàn ông mạnh dạn thêm một chút:
-Tôi thích tranh sơn dầu về tĩnh vật hoặc chân dung. Với tôi, màu sắc vẫn là chính.
Người phụ nữ cười thành tiếng:
-Khó cho ông rồi, những phòng chép tranh chỉ chép toàn tranh phong cảnh để dễ bán. Ông có muốn đặt một bức theo ý mình không? Khá lâu mới lấy và giá tiền cũng cao hơn.
-Vâng thế cũng được, tôi không vội, miễn là đẹp.
Người phụ nữ nhìn vào mắt ông. Đôi mắt buồn của người đàn ông góa vợ mười sáu năm nay bỗng xuyến xao pha chút trìu mến, khiến người đàn bà bối rối, lãng tránh bằng cách lật những bức tranh mẫu trong cuốn album dày cộm…
oOo
-Bức tranh đầu tiên tôi đặt là một giỏ hoa, chép theo mẫu của Rachel Ruysch. Treo đối diện cửa sổ thứ nhất đó.
Luận nhìn theo hướng ông già vừa nói. Bức tranh vẽ giỏ hoa với màu nền tối, nhưng những đóa hoa thì rực rỡ, trắng nhạt và hồng. Mặc dù treo đối diện, ngang với cửa sổ, vẫn không sáng lên được bao nhiêu!
-Rồi những bức kế tiếp…Tôi đến phòng tranh thường hơn.
-Những bức tranh trong quán này đều do bà ấy vẽ, thưa bác?
-Ừ, trong hơn một năm, bà ấy chỉ vẽ cho tôi. Bà ấy tự chọn mẫu, còn tôi, tôi thì chỉ cần được đến đó, ngồi xem bà ấy vẽ.
-Bác đã trở thành…người giàu ?
-Tiền bán căn nhà của tôi ở Đà Nẵng, mua lại căn nhà này, mở cái quán cho con gái, tôi vẫn còn tiền để sống. Những bức tranh chép bây giờ không còn là một cái gì quá cao để tôi không thể mua nổi ! Nhưng cái chính là do… bà ấy vẽ. Ông già khoa tay quanh tường… Được mười một bức thì bà ấy không vẽ nữa !
Luận nhìn ông già định hỏi, nhưng gương mặt của ông già đã chìm trong một nỗi buồn vừa ập đến sau câu nói. Quán như trống trải hơn, tối hơn và im lặng hơn…
Bên ngoài cửa sổ, chiều xuống trên dàn hoa pháo, nơi cánh cổng nhà bên cạnh.
Im lặng, Luận nhìn vu vơ những bức tranh…
-Tôi có chuyện phải về Đà Nẵng, mười hai ngày sau trở lại thì bà ấy đã chết, bà ấy bị Ung thư đại tràng giai đoạn cuối trước khi tôi đến đó. Một căn nhà nhỏ trong hẻm sâu, nơi đứa con trai đã có gia đình ở cùng bà ấy. Cậu ta trao cho tôi một bức tranh :
-Mẹ tôi bảo trao lại cho ông và dặn ông thay khung cho bức tranh.
Luận bật hỏi và lập tức đưa mắt nhìn bức “Người đàn bà xa lạ“ của Kramskoi treo đối diện:
-Bức tranh nào ạ?
-Không có ở đây, “Bà ấy” ở trong phòng của tôi. Khi thay khung, tôi thấy bức thư của bà ấy.
Im lặng lại bao trùm căn phòng, Luận nhìn những bức tranh giờ như những mảng màu loang lỗ quanh tường, mắt anh không tập trung được vào một chỗ nào. Khi quay lại nhìn ông già, anh có cảm giác như ông đã ngủ, đầu gục xuống lọt vào đôi vai gầy…Luận rụt rè đến bên tấm thân bất động:
-Bác có …khỏe …không ạ ?
Ông già ngẩng đầu nhìn Luận, gương mặt ông như nhão ra với những giọt nước mắt. Tiếng nói của ông bất ngờ vang lên, rõ ràng, tương phản với vẻ yếu ớt của cơ thể:
-Nếu tôi trao toàn bộ tranh cho cậu, cậu có đồng ý không?
-Sao, Bác không thích nữa à?
-Tôi vẫn quý chúng như những đứa con, nhưng tôi phải vào Viện Dưỡng Lão !
-Ở đâu ạ?
-Ở Long Thành. Tôi có cô em tu ở một ngôi chùa dưới ấy. “Viện mồ côi” thì đúng hơn.
-Thế con gái bác, chị ấy?
-Tôi làm khổ nó đủ rồi. Từ ngày bị tai biến, mười sáu năm nó phải chăm sóc tôi, không nghĩ chi đến chuyện chồng con, nó trở thành gái già khi nào không hay! Giờ nó gặp một Việt kiều góa vợ, tôi muốn nó xuất cảnh theo chồng.
oOo

Cuối cùng thì chiếc xe chở hàng thuê cũng vào được con hẻm chật chội nơi căn phòng trọ. Hai ngày bận rộn với việc tháo gỡ, đóng gói cẩn thận những bức tranh, Luận ở trong tâm trạng ray rứt, mâu thuẫn. Phần thì xót xa với hoàn cảnh của ông già, đàng khác, anh mừng vì bỗng dung lại có được những bức tranh….Nghĩ đến chuyện phải treo những bức tranh này lên bức tường nham nhở của phòng trọ mà não lòng.
Không nôn nóng với những bức đã thấy hàng ngày trong quán, anh hồi hộp đặt bức tranh “Người phụ nữ đợi chết” lên bàn. Báu vật của ông già là bức chân dung một người phụ nữ trạc ngoại tứ tuần, chính là người đã chép lại những bức tranh. Bức tranh thật đẹp, trong không gian dịu dịu của buổi xế chiều, một gương mặt phụ nữ trong chiếc mũ len màu nâu trùm kín đầu, bên khung cửa sổ, đôi tay khoanh hờ hững, ánh sáng chếch tôn lên chiếc mũi thanh tú. ” Bà ấy đây sao !” Luận buột miệng không hoàn toàn là bởi nét đẹp của người thiếu phụ mà do đôi mắt buồn, đăm chiêu của người phụ nữ vẫn hài hòa được với đôi môi mỏng, mĩm cười như khinh bạc thách thức.
Một linh cảm mơ hồ đều gì đó thật buồn, thật xót xa ập đến trong tâm hồn Luận làm anh xao xuyến lo âu khi chợt nhớ lại lời ông già:
-Tôi đã “sống” với bà ấy hơn hai mươi năm. Giờ thì tôi không cần gì nữa, Tôi vào viện mồ côi nhưng rồi cũng sẽ không phiền ai… Bức thư vẫn ở đằng sau bức tranh. Cậu cứ giữ lấy tất cả, tôi không nỡ đốt nó !
Luận run run lật úp bức tranh, mở lưng tìm lá thư. Một tờ giấy gấp tư, như được dán vào khung vải:
oOo

Ngày … tháng … năm 1993.

Này, người đàn ông vô duyên !
Tôi đã nghĩ như thế từ khi gặp ông, cho đến lúc này, hơn một năm và trong những ngày cuối cùng của đời mình, khi những tế bào ung thư đã di căn và hủy hoại hầu hết các bộ phận trong cơ thể, gây nên những cơn đau thật khủng khiếp! Tôi vẫn gọi ông như thế.”người đàn ông vô duyên”.
Trước hết, tôi cảm ơn ông đã đi xa đúng lúc để tôi không ray rứt vì sao không có ông bên cạnh, không ngóng đợi trông mong như những ngày ông thỉnh thoảng bận việc, không đến phòng vẽ .
Tôi gọi ông là người đàn ông vô duyên bởi: Ông đến và làm tôi xao lòng khi vừa phát hiên ra căn bệnh chết người một tuần lễ. Tôi quyết định không phẫu thuật hay đều trị vì nó đã ở giai đoạn cuối. có nghĩa là tôi không còn sống được bao lâu!
Trong đôi mắt ông từ lần gặp đầu tiên ấy, tôi đọc được một điều là Tôi sẽ yêu ông, và ngược lại.
Nhưng ông có thấy vô duyên không khi không hề có đoạn kết trọn vẹn cho cuộc tình này. Ông vẫn không biết gì, nhưng tôi, tôi biết sẽ phải xa ông khi tình yêu vừa đến! lẽ ra lúc này chính tôi phải nhận lấy hai chữ “vô duyên” nhưng tôi vẫn gọi như vậy, bởi nó mang nghĩa định mệnh cho cả hai chúng ta. Vâng, đó là một định mệnh!
Bức tranh này tôi vẽ cho người đàn ông vô duyên của tôi, một bức tranh duy nhất tôi vẽ chứ không chép. Hai tháng sau khi đã trải qua lo âu, sợ hãi tột cùng…, thật lạ, tôi lại trở nên bình thản, chấp nhận ngày nó đến. Tôi đặt tên cho bức tranh là ”Người thiếu phụ đợi chết”. Hãy nhìn màu xám nhạt của bầu trời, ông sẽ thấy…Ông cũng cứ gọi như thế nhé.
Thông thường, người bị ung thư, đều trị bằng phương pháp hóa trị đều rụng hết tóc, tôi không hóa trị, nhưng tôi muốn ở trong tâm trạng thường trực đối mặt với căn bệnh khi vẽ, chiếc mũ len trùm kín đầu có làm ông hình dung được điều đó không?!
Không biết lúc nào thì cái chết đến để giải thoát cho tôi khỏi những cơn đau! Ôi, tôi tiếc biết mấy những phút giây gần gũi bên ông, êm đềm quá, yên bình quá… sẽ không bao giờ có được nữa!
Đau quá! Tôi… tôi… vĩnh biệt ông thôi…! Người đàn ông vô duyên.

Luận vẫn cầm là thư trong tay, với lòng dạ bần thần. Anh muốn nhanh chóng tìm đến ngôi chùa nào đó ở Long Thành, nói với ông già rằng anh sẽ thay con gái ông chăm sóc ông, cùng ông sống với những tháng ngày còn lại với các bức tranh. Nhưng anh vẫn ngồi bất động. Hình ảnh ông già ở nơi nào đó gục đầu thì thào “Tôi…tôi đến với bà đây, chờ nhé” như rõ mồn một trong đầu anh!

Trạch An -Trần Hữu Hội

(Sài Gòn , ngày 20 tháng 3 năm 2014)