IM LẶNG CỦA THIỀN SƯ

phantranghy

1. Trời vần vũ. Bao tinh cầu xoay chuyển. Chỉ gió, chỉ tiếng gầm rú của chúng sinh. Không thể nhìn thấy mọi vật. Chỉ một màu đỏ ối trên trời. Mặt trăng biến thành quả cầu lửa.
Ađam lăn lộn trong cõi hỗn mang. Bỗng hai thằng người tách ra từ Ađam. Chúng cãi nhau giành phần thắng.
Nhiều con thú cười nói như người. Rồi tất cả thú hóa người nhảy múa vui mừng tru lên những giai điệu cuồng mê trong cõi vô minh. Những gương mặt thú biến mất trong phép của quỷ thần tích tụ. Chỉ có người và người.
– Hoan hô! Hoan hô! Đánh nữa đi!
– Đả đảo! Đả đảo!
Đám đông cuồng loạn. Vang trong cõi vô minh tiếng hò hét ầm ĩ điệu nhạc chiến tranh.

2. Bên gốc đại thụ, ánh hào quang tỏa sáng. Tưởng chừng như các thiên thần đang chào mừng ơn phước đến với thế gian. Thiền sư đang kiết già. Ngài dùng điển quan sát ba ngàn thế giới. Đâu đâu cũng thế!
Bên tai vọng lên giọng của hai thằng người giành phần thắng, Thanh Văn bạch với thiền sư:
– Thưa sư phụ! Có chuyện không hay.
Thiền sư hỏi:
– Ông xem họ đang làm gì vậy?
Cung kính, Thanh Văn bạch:
– Thưa sư phụ! Nếu dùng thần lực của con tính đếm trong nghìn kiếp mới có thể biết bọn họ làm gì.
Thiền sư bảo:
– Ông hãy tính đếm đi!
Nói xong, ngài nhắm nghiền mắt.

3. Âm nhạc. Tiếng trống, tiếng thanh la, tiếng kèn đồng, tiếng tù và, tiếng đàn, tiếng sáo… Vũ điệu. Tango, chachacha, lambađa, hiphop… Ánh sáng. Xanh, đỏ, tím, vàng, đen… Tiếng la hét hòa nhịp nhàng với ngàn âm vũ điệu:
– Hãy lên án tên giết người!
– Hãy giết hết bọn khủng bố!
– Hãy bắt tên tội phạm chiến tranh!
– Giết nó đi để trừ hậu hoạn!
– Hoan hô! Phe ta đã thắng!
– Đả đảo quân khát máu!
Đám đông hò hét ủng hộ. Đám đông hò hét phản kháng. Hỗn loạn! Hỗn độn cảnh hỗn chiến!
Thiền sư thiền định.

4. – Bạch sư phụ! – Thanh Văn hốt hoảng gọi thiền sư.
– Gì thế?
– Thưa sư phụ! Bọn người mê loạn trong cảnh đánh nhau.
– Theo ông, chúng ta phải làm gì?
– Theo con nghĩ chúng ta phải dùng phép màu tiêu diệt bọn họ.
Nụ cười hiền hậu nở trên môi, thiền sư ôn tồn nói:
– Đức háo sanh là căn nguyên tạo nên trời đất, muôn vật. Kể cả tính Phật cũng bởi đức háo sanh mà ra. Ta nhân danh Phật mà tru diệt chúng sinh ư? Không! Ta phải dùng pháp mà giải thoát chúng sinh.
– Thưa sư phụ! Người dùng pháp gì?
Thiền sư im lặng.

5. Eva múa khúc nghê thường. Nàng mơ màng hát khúc tình ca bất tử. Nàng trút bỏ xiêm y. Nàng khỏa thân khoe vẻ đẹp diệu kỳ của tạo hóa ban tặng.
Những cô gái bắt chước Eva.
Eva cùng những cô gái xuân trẻ tắm mát cơ thể trong các dòng sông. Các cô khoe thân thể. Các cô đến giữa bầy người cuồng loạn.
Đám đông im bặt. Hai thằng người trở thành Adam như lúc mới sinh. Bọn đàn ông làm theo Ađam.
Mặt trăng dịu dàng tỏa sáng.
– Bạch sư phụ! – Thanh Văn mừng rỡ thưa – Chúng sinh chung sống
hòa bình rồi!
Thiền sư im lặng…

Phan Trang Hy

Advertisement

VÒNG KÝ ỨC THÁNG BA

phantranghy

Hải bặm môi, trở mình. Mấy hôm nay trở trời, nằm trên giường nệm, anh vẫn thấy ê ẩm cả người. Vết thương ngày nào, giờ, tái phát. Nhưng anh gắng gượng. Anh phải cố sức để vẽ cho xong bức tranh về đồng đội anh ngày nào, về một thời đã ám ảnh anh trong từng hơi thở, trong từng mảng màu, nét cọ mà anh thao thức.
Anh khó nhọc chống cùi ngồi dậy. Miệng khô khốc. Anh nuốt nước bọt. Chỉ có sự rát đau ở họng. Anh đưa miệng ngậm chiếc ống nhựa, hút nước ở ly.
Uống nước xong, anh lại định thần, gắng hít thở thật mạnh. Tựa lưng vào chiếc gối, anh nhìn bức tranh còn dang dở. Hình ảnh đồng đội của anh lại hiện về.
Nhớ lại ngày ấy, anh cùng đồng đội xây dựng đảo. Chiến dịch CQ88 được phát. Nhận lệnh là đi. Chỉ có trái tim vì biển, vì đảo. Không phải là những câu khẩu hiệu tuyên truyền mà chính là mệnh lệnh của trái tim, của tình yêu biển đảo đã đưa anh cùng đồng đội đến với Gạc Ma.
Nhìn bức tranh, anh như thấy từng người. Này là Quân, lính trẻ nhất đơn vị, thích nghe anh nói chuyện về những cô gái ở làng biển quê Quảng Nam. Này là Nhơn, người lúc nào cũng thích ca bài chòi. Cựa một tí là ca. Dù chẳng có hơi xuống giọng xề. Thế nhưng, mỗi lần rảnh là ca. Anh em trong đơn vị thích cái tính xuề xòa của Nhơn nên cũng thích luôn những lời ca dân dã ấy. Này là anh Phương, chỉ huy, coi anh em như ruột thịt. Còn biết bao nhiêu người nữa. Họ trong tranh như cười động viên anh vượt qua cơn đau.
Nhìn tranh, anh nhớ lại ngày ấy…
Trời hửng sáng. Biển vẫn trong xanh. Cả đơn vị đang ra sức xây dựng đảo. Yên bình trên từng lời bông đùa của đồng đội. Yên bình trên từng con sóng. Hải như nghe được lời của Nhơn ca: “Đảo này là của chúng ta. Ngàn năm ta giữ nước nhà Việt Nam…”. Tiếng vỗ tay vang lên. Chưa kịp cười đùa cho thỏa thích, Hải bỗng nghe tiếng loa. Lởn vởn tàu của giặc. Chúng bắt loa gọi đơn vị anh rời đảo. Nhưng lời của bọn giặc chẳng là cái quái gì. Cả đơn vị phớt lờ lời của giặc. Anh em được lệnh của anh Phương: “Phải bình tĩnh. Đảo là của ta, ta quyết giữ. Chúng ta giữ đảo là giữ đất Mẹ Việt Nam. Quyết không rời đảo!”. Lúc ấy, Hải như thấy tất cả đều có tâm niệm: “Quyết không rời đảo!”. Bọn giặc tìm cách khủng bố tinh thần của anh em. Rồi bất thần, bọn chúng xả súng về phía đơn vị anh.
Hải không ngờ tình thế như vậy. Chỉ tiếng súng nổ. Và đạn bay… Chợt tiếng của Phương vang lên: “Tất cả nắm chặt tay nhau, kết thành vòng tròn. Quyết tâm bảo vệ đảo, bảo vệ cờ Tổ quốc!”. Đó cũng là mệnh lệnh của trái tim. Trong làn đạn của giặc, Hải và đồng đội siết tay thật chặt, kết thành vòng tròn, giữ cờ Tổ quốc. Lá cờ ngạo nghễ giữa biển trời. Giặc vẫn xả súng. Hải một tay nắm tay Nhơn, một tay nắm tay Quân. Và cứ thế vòng tròn vẫn vững trước đạn thù. Bỗng, Nhơn á lên một tiếng. Giọng Nhơn đứt quãng. Máu Nhơn! Nhơn bỏ tay Hải, quỵ xuống: “Anh Hải!… Hãy… trả thù… cho… em!”. Đạn giặc trước mặt, sau lưng, bên phải, bên trái… Đạn giặc bao vây đồng đội anh. Rồi, Quân cũng bị trúng đạn. Quân ngã trên người Hải, giọng phều phào: “Anh đưa… em… về quê… nghe!… Nói… với Mẹ… là em… em… nhớ Mẹ… lắm!… Còn chuyện… mấy đứa… con gái… làng chài quê anh…,… em xin… nói lời… vĩnh… biệt… với họ… Mẹ!… ”. Quân hy sinh trên tay anh. Anh chưa kịp nói lời nào thì lại nghe tiếng gào to. Đó là tiếng Phương. Tiếng của Phương hòa trong tiếng sóng: “Thà hy sinh, chứ không chịu mất đảo”. Đạn giặc bắn không ngừng. Hải thấy hai tay mình như có ai chém.
Hai tay của Hải không còn. Trước mắt anh sừng sững lá cờ Tổ quốc cùng đồng đội. Mắt anh vẽ một khoảng không. Biển. Đảo. Đồng đội. Cờ Tổ quốc!…
*
* *
Hải được giải đặc biệt về Biển đảo Quê hương, nhiều phóng viên đã đến tìm hiểu về cuộc đời anh. Bấy lâu nay, có ai biết đến Hải Trường Sa là ai đâu. Nhưng giờ đã khác. Bút danh Hải Trường Sa khẳng định với công chúng về tài năng hội họa.
Tôi được Hội Văn học Nghệ thuật thành phố gửi giấy mời tham dự buổi khai mạc và trao giải thưởng. Vì bận việc đột xuất, nên tôi đến trễ. Chỉ được xem tranh là chính. May mắn cho tôi là được thưởng thức một số tranh dự thi đoạt giải cùng với một số tranh khác của những họa sĩ nổi tiếng trong nước.
Sau khi xem từng bức tranh, tôi giành thời gian bên bức tranh đạt giải đặc biệt. Trước mắt tôi là bức tranh mang tên “Vòng ký ức Tháng Ba”. Và điều làm tôi ngạc nhiên là, bên cạnh bức tranh, một người không còn hai bàn tay. Đó chính là Hải Trường Sa, tác giả bức tranh ấy. Một số phóng viên đang phỏng vấn anh. Anh chỉ cười. Đứng cạnh Hải, tôi nghe anh trả lời:
– Có gì đâu! Tôi không vẽ là tôi còn nợ với chính tôi. Tôi chỉ là người lính giữ đảo năm nào, giờ là như thế này đây – Anh cười và đưa hai cánh tay cụt – Cũng may cho tôi là chất lính một thời trong tôi giúp tôi vẽ. Còn đời tư tôi, xin các bạn thông cảm, tôi không muốn nói về mình. Chỉ thế thôi!
Nghe những gì anh trả lời, không hiểu anh ta khiêm tốn hay kiêu. Nhưng rồi, nhìn nụ cười hiền với tiếng nói đặc sệt chất giọng Quảng Nam, cùng với ánh mắt sáng tự tin, tôi tin lời anh nói.
Và rồi, người xem tranh cũng bớt dần. Tôi đến làm quen Hải. Tôi tự giới thiệu về mình, là thầy giáo, nhà văn, thích xem tranh vẽ. Hải nhìn tôi cười. Và đưa cái cùi chỏ đụng vào bàn tay tôi lắc lắc.
Từ đó trở đi, chúng tôi thành bạn của nhau. Những khi rảnh, tôi thường đến thăm Hải. Hoặc trao đổi qua facebook. Càng ngày chúng tôi càng thân nhau. Biết tính Hải không muốn nói về mình, nhưng tôi cũng hỏi chuyện riêng tư của Hải. Vì thân, mà đã là bạn thân cần gì phải dấu nhau điều gì, nên rồi Hải cũng tình thật kể cho tôi nghe.
– Cậu biết không, hồi thanh niên, mình thích vẽ lắm. Nhìn những tranh của Bùi Xuân Phái, Tô Ngọc Vân, rồi đến Đinh Cường, Bửu Chí, Rừng… là mình mê tít. Mình có một tập ảnh chụp lại các bức tranh mình thích. Nhìn những bức tranh ấy, nhiều lần, mình tưởng tượng các sắc màu trong các tranh ấy như muốn nói với mình: “Bạn cứ tin vào khả năng và tình yêu của chính mình thì mới có thể vẽ những tranh đẹp được”. Mình tin lời sắc màu nói với mình. Từ đó, ngoài chuyện học, mình lại lao vào việc mày mò, tìm hiểu về hội họa. Nào là cách tìm chủ đề, tìm bố cục, cách pha màu… Thú thật, mình thích vẽ từ nhỏ, lại có chút năng khiếu, nên mình vỡ lẽ ra là mình có thể vẽ những gì mình thích, những gì in đậm dấu ấn trong lòng mình.
Hải nói như trút hết tâm trạng của mình. Tôi cầm cùi tay Hải, xoa xoa, nói:
– Hèn gì! Phần thưởng cậu nhận xứng đáng với công sức của cậu.
Hải kẹp ly nước lên uống. Rồi để xuống bàn. Tôi nhìn căn phòng xinh xắn, đầy những tranh. Có bức đã hoàn thành. Có bức chưa xong. Bên cạnh giá vẽ nào là những hộp sơn, lọ màu… Đủ cả. Tất cả đều gọn gàng. Nhìn căn phòng một hồi, Tôi khen:
– Họa sĩ như cậu có khác! Nghiêm túc dữ.
Hải nhìn tôi cười:
– Sao cậu lại nói thế? Tại cái tính mình giờ nó thế. Quen rồi. Để mọi thứ lộn xộn, ngổn ngang, mình không chịu được. Cũng tại chất lính một thời tạo cho mình cái tính ấy. Thật ra, khi còn trẻ, trước khi vào lính mình cũng a-ma-tơ lắm.
– Hồi trẻ, cậu nghệ sĩ lắm thì phải? Kể cho tôi nghe cậu tập như thế nào mà được như rứa?
Hải cười to, tiếng vang như sóng biển:
– Ừ, thanh niên đa phần là thế mà cậu. Bộ cậu không có à? Nhưng giờ, như cậu thấy đó, mình phải tự nghiêm túc với chính mình mà. Cũng nhờ làm lính đó.
Như được dịp kể cho tôi nghe, Hải cho biết những năm tháng ở quân trường, anh phải tự điều chỉnh ghê lắm. Chớ thằng con trai nào không có chút máu nghệ sĩ? Cái máu ấy tạo ra những biểu hiện để gọi là chút tài tử, chút chịu chơi. Hải nói rằng con trai mười tám, đôi mươi có tính như con chim trống rướn cổ hót phô bày bản lĩnh trước lỗ tai của những chim mái; như gà trống, rướn cổ gáy, phô diễn khả năng trước sự cương trứng của gà mái; như công trống xòe sự rực rỡ, phơi sắc màu tình yêu trước ánh mắt của chim mái. Hải cũng tâm sự, hồi chưa vào lính, anh thường thức khuya, đàn hát như khoe cho hàng xóm biết tài của mình, hoặc để bọn con gái chú ý. Có lẽ, hầu như đàn ông trai trẻ đều có một thời như vậy! Nhưng rồi, khi vào lính, dù tính đàn ông con trai vẫn thế, nhưng sống có quy củ hơn. Ăn có giờ, học có giờ, tập có giờ. Chệch giờ giấc là bị kỷ luật ngay. Không một hai gì cả. Còn quần áo, mùng mền, chiếu gối đâu vào đó. Ngay ngắn, sạch sẽ, ngăn nắp. Giường nào cũng như thế, cũng răm rắp.
– Còn bức tranh được giải vừa rồi, cậu vẽ khi nào? Do đâu?
– Khi nào à? Mình chỉ nhớ là mình nhớ biển, nhớ con sóng ở Trường Sa. Không biết làm gì để đỡ nhớ, mình lên mạng tìm những bài hát về biển đảo, về tháng Ba. Tình cờ mình xem một video về trận Hải chiến ở Gạc Ma. Xem mà mắt mình rưng rưng. Như có ai bóp tim mình. Như ai đó làm mình nghẹt thở. Vòng tròn ấy cứ ám ảnh mình từ đó!
– À, ra vậy!
Từ khi đạt giải, mỗi lần Thành phố có triển lãm tranh về chủ quyền biển đảo, Hải đều được mời gửi bức tranh đạt giải tham dự. Và lần nào cũng vậy, tôi tìm cách dàn xếp công việc, thời gian để chở Hải đến phòng triển lãm. Như mọi lần, tôi cùng Hải đứng trước tranh ngắm nghía. Hải nói như thấy Nhơn, Quân, anh Phương cùng đồng đội hiện về. Còn tôi, lần này, như thấy trong tranh, trước mắt mình, hiện lên là vòng lửa bất diệt, vòng của sự sinh tồn của đất nước, vòng của sự sinh sôi, nảy nở lòng yêu nước, vòng của sự kết đoàn toàn dân tộc. Trước mắt tôi là các chiến sĩ – những chàng trai nước Việt – nắm tay nhau làm cột mốc. Những gương mặt ánh lên lòng tự hào, sẵn sàng hy sinh vì biển đảo. Tôi như nghe đủ giọng nói của mọi miền Tổ quốc. Giọng Nghệ Tĩnh, Quảng Bình, giọng Khánh Hòa, Quảng Nam… Bắc, Trung, Nam có cả. Tôi như nghe họ hát. Tiếng hát của họ hòa vào sóng biển vang mãi ngàn năm cho con cháu Việt Nam biết một thời bi tráng của dân tộc.
Đứng trước bức tranh “Vòng ký ức Tháng Ba” là mọi người và tôi. Nhìn sâu vào trong tranh, tôi nghe từ tiếng vọng từ bức tranh: “Thà hy sinh, chứ không chịu mất đảo!”.

Phan Trang Hy

MƠ VỀ HOÀNG SA

phantranghy

Lão Ban, nhân vật trong một truyện ngắn của tôi, hẹn gặp tôi để trò chuyện. Biết tôi là nhà giáo, nhà văn viết về lão, lão lấy làm vui vì có người hiểu lão. Tôi được biết chính lão đã có ý kiến với Ban biên tập http://www.hoangsa.danang.gov.vn đưa truyện ấy vào trang mạng. Và cũng từ đấy, tôi trở thành bạn của lão.
Tôi đến thăm lão vào một buổi chiều tháng Ba. Ngôi nhà hai tầng nằm trong kiệt đường Nguyễn Công Trứ. Không gian vắng. Chỉ có chút nắng cuối ngày le lói trên khoảng sân nhỏ trồng ít cây cải, mồng tơi. Đứng trước cổng nhà lão, tôi đưa tay bấm chuông. Tôi đưa mắt nhìn vào trong chẳng thấy bóng dáng ai cả. Vẫn im lặng. Lại bấm chuông. Chờ đợi. Một lát sau, có tiếng: “Ai rứa?”. Tôi nhướng mắt nhìn vào. Một bóng già lững chững bước ra. Tôi biết chính là lão. Nhưng giả đò làm im để xem lão có nhận ra tôi không.
Lão mở cổng, đưa mắt nhìn tôi. Tôi lên tiếng trước:
– Chào bác! Bác có nhận ra tôi không?
Lão cười, nụ cười vui khi lâu ngày có người ghé thăm:
– Ôi, ai đây ta? Đúng là thầy rồi. Sao bữa ni thầy mới tới – Không đợi tôi trả lời, lão nói tiếp, giọng vui vui – Mời thầy vô!
Tôi chưa kịp dạ, lão lại nắm tay tôi kéo vào nhà.
Gian phòng khách của nhà lão sáng lên khi lão bật điện. Lão lên tiếng:
– Thú thật với thầy: Ở nhà một mình, tôi cũng nhác bật điện dù có hơi tối. Thường thì tôi mở ti vi. Để có tiếng nói, có tiếng người, cho đỡ buồn. Nhưng mấy hôm nay, hơi mệt nên tôi cũng không mở.
Quả thật như lời lão nói, có chút vắng lặng. Tôi nhìn kỹ phòng khách. Trên tường có treo một số hình chụp. Thấy tôi nhìn những hình ấy, lão đứng lên, lại sát một tấm hình rồi nói: “Đây là hình tôi chụp khi tôi làm khí tượng ở Hoàng Sa”. Như có dịp ôn lại những gì đã qua, lão chỉ tiếp một bức hình, nói: “Còn đây là hình con trai tôi, thằng Vũ, đi lính hải quân đóng ở Trường Sa, mà như thầy đã biết rồi đó, nó hy sinh ở Gạc Ma năm 1988”. Tôi thấy mắt lão rơm rớm. Một chút trầm lắng như buổi chiều tàn ở đây. Tôi muốn xua cái im lặng, bèn chỉ bức hình khác, lên tiếng: “Còn đây là hình Phong, phải không bác?”. Nghe tôi hỏi, lão đưa tay quẹt mắt, ra vẻ sung sướng lắm. Lão khoe: “Thằng Phong, cháu nội tôi đó. Mà thầy cũng biết nó rồi mà”.
Quả thật, tôi đã biết Phong trên các báo cùng những trang mạng viết về Hoàng Sa, Trường Sa, Biển Đông… Tôi cũng có lần trò chuyện với Phong khi cậu ta chuẩn bị tư liệu làm đề tài nghiên cứu. Tôi nắm tay lão, nói:
– Tôi có biết Phong. Vừa rồi, cậu ta thuyết trình về đề tài Biển Đông thành công. Xin chúc mừng bác.
Lão cười hãnh diện:
– Các thầy ở Sài Gòn đánh giá cao lắm. Tôi cũng mừng thầy ạ.
Tôi nắm tay lão, niềm vui trong chúng tôi như nhân đôi. Tôi cười, nói:
– Qua đợt hội thảo vừa rồi, nhiều đồng bào, học giả, luật sư trong nước và ngoài nước đánh giá rất cao.
Nghe tôi nói như vậy, mắt lão như sáng lên. Và lão nói một mạch như thể những lời sau lão đã thuộc lòng: “Đề tài này cùng với các chứng cứ, tư liệu lịch sử khác, chắc chắn khẳng định thêm chủ quyền quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam mình. Thầy biết không, tôi lấy làm vui khi bà Angela Merkel, thủ tướng Đức, tặng cho Tập Cận Bình bản đồ Trung Quốc mà biên giới cực nam là đảo Hải Nam. Tôi tin trước sau gì của Caesa phải trả lại cho Caesa thôi. Trước sau như một, Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam”.
Nghe lão nói, tôi cũng tin là vậy. Người dân Đà Nẵng cũng tin là vậy. Và tôi tin ai là con Lạc, cháu Hồng, ai là người yêu nước Việt Nam cũng tin là vậy. Tôi tiếp lời lão:
– Bác nói thế là phải. Rõ ràng mình đầy đủ bằng chứng, pháp lý. Nhưng phải chờ thời cơ thôi.
Lão gật đầu. Chợt tôi nghe tiếng thở dài của lão:
– Tôi thú thật với thầy, tuổi gần đất xa trời, tôi lại nhớ đảo lắm, nhớ Hoàng Sa lắm. Tôi mong có ngày về lại Hoàng Sa. Giờ, chỉ biết buồn thôi thầy ạ.
Tôi gật đầu đồng tình. Tôi thấy lão nhìn thẳng vào mắt tôi. Lão không nói, nhưng qua ánh mắt lão, tôi như nghe tiếng từ trái tim của người từng ở Hoàng Sa. Tôi nghe rõ nhịp đập của trái tim lão. Tôi cũng nghe rõ nhịp đập của tim tôi như hòa cùng nhịp đập của bao anh hùng, chiến sĩ, của bao ngư dân, bao đồng bào thôi thúc lòng mình: “Phải về lại Hoàng Sa. Đó là lẽ tất nhiên”.
Tôi nhớ lại, rất nhiều lần thì phải. Khi học sinh hỏi về Hoàng Sa, tôi đã nói rõ cho các em biết đó là một phần máu thịt của Tổ quốc. Đó là đất đảo, biển trời của dân tộc Việt Nam. Tôi cũng nói rõ cho các em biết từ xưa cha ông ta từng trấn giữ xứ này. Hoàng Sa vẫn mãi ngời ngời trong lịch sử dân tộc. Máu cha ông, xương cốt cha ông còn nằm ở Hoàng Sa. Biết là vậy. Nhưng không thể không đau xót khi quê hương của mình bị kẻ khác cưỡng chiếm.
Chợt điện thoại rung. Tôi xin phép lão nghe. Tôi lấy điện thoại từ túi quần ra nghe. Biết là ở Nhà xuất bản gọi điện. Họ xin lỗi tôi về việc họ đặt cho tôi một bút danh khác vào truyện ngắn “Đau đáu Hoàng Sa” của tôi. Tôi chủ động tắt máy khi họ xin lỗi xong.
Cất điện thoại vào túi, tôi nghe lão ho. Lão nói trong cơn ho:
– Càng ngày tôi thấy mình càng yếu. Nhiều điều muốn làm cho xong, nhưng vẫn chưa xong. Tôi thấy lo lo, thầy ạ.
Vừa nói lão vừa đưa tay che miệng. Tôi chú ý từng cử chỉ của lão. Quả là lão già, lại yếu nữa. Tôi động viên lão:
– Sống thọ như bác là quý lắm rồi. Mà bác còn lo chuyện chi nữa?
Lão lại ho. Rồi thở. Lão gắng tiếp chuyện:
– Không phải tôi lo cho cái mạng sống của tôi. Tôi lo là lo chưa làm tròn với lời tự hứa của mình.
Tôi an ủi:
– Bác cứ nghỉ cho khỏe. Chuyện chi rồi cũng sẽ qua thôi.
Tôi đứng lên, lại ngồi sát lão, nắm tay lão, tâm tình:
– Xin lỗi bác. Bác có thể cho tôi hỏi bác hứa chuyện chi rứa?
Lão cười buồn:
– Như tôi đã tâm sự là mong có ngày tôi sẽ về lại Hoàng Sa, nơi tôi làm việc trước đây. Không biết tôi có về được không?
Tôi vẫn nắm tay lão như muốn nói rằng lão cứ tin là có ngày ấy. Lão bỏ tay tôi ra, đưa tay chống xuống ghế, đứng lên. Lão tiếp lời:
– Thầy có rảnh không? Tôi muốn thầy xem cái ni, chắc thầy sẽ hiểu tôi hơn.
Tôi cười gật đầu:
– Dạ, nếu bác cho phép.
Rồi lão lọ mọ vào trong. Một lát trở ra. Trên tay lão là chiếc chìa khóa. Lão lại tủ sách. Tra chìa vào ổ khóa, mở tủ. Tôi chú ý thấy lão lấy cuốn album. Lão lên tiếng:
– Đây, tất cả ở trong cuốn ni đó thầy. Xin thầy bằng lòng nghe tôi kể nghe.
Nghe lão nói thế, tôi lấy làm vui.
Ngồi cạnh lão, tôi xem từng bức ảnh. Những bức ảnh đen trắng, có chỗ nhòe. Lão khoe. Nào là chỗ làm việc của lão ở trạm khí tượng. Này là lão đang múc nước ở giếng được chụp lại. Có vài bức ảnh lão chụp chung với lính. Lão nói với tôi, những người ấy là bạn thân của lão ở đảo. Giờ họ đã yên phận của họ rồi. Tôi thấy lão như muốn khóc. Lão kể, máu của những người ấy đã hòa vào đất đảo Hoàng Sa trong cuộc Hải chiến 1974. Lão kể. lúc ấy lão chỉ biết muốn hét thật to muốn gào thật lớn trước họng súng của quân thù. Nhưng lão không chết. Lão bị bắt. Sau đó được trao trả.
Ngồi xem một lúc, lão lên tiếng:
– Thầy biết không, tôi như thuộc những dòng chữ của thằng Vũ viết trong nhật ký: “Biển đảo là biển đảo của quê hương do cha ông để lại cho con cháu đời sau. Phải giữ để khỏi có tội với tiền nhân, với con cháu…”.
Lão đứng lên, lại tủ, lấy ra một cuốn tập, nói với tôi:
– Đây là cuốn nhật ký của Vũ. Những gì còn lại của nó.
– Bác có thể cho tôi coi được không?
– Được thôi. Nếu thầy muốn coi.
Tôi lật từng trang nhật ký. Nét chữ đẹp, cứng rắn. Chỉ là tình cảm của Vũ. Nào là nhớ vợ, nhớ con khi làm nhiệm vụ ở Trường Sa. Nào là đối đầu với sóng to, bão dữ. Nào là thiếu nước. Nào là yêu đảo, coi đảo là nhà. Không biết bao nhiêu thứ nào là… Tất cả chỉ là lòng của người lính đảo.
Trong nhật ký, tôi thấy có một trang, dưới những hàng chữ gạch chân bằng mực đỏ có ghi lại lời mà lão vừa nhắc lại khi nãy. Tôi mở tiếp, lại thấy trang vẽ bản đồ Việt Nam và vùng biển Đông có hai trái tim. Một trái tim ghi Hoàng Sa. Còn lại ghi Trường Sa. Và ở dưới ghi câu: “Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam”.
Đang xem, tôi nghe điện thoại rung. Tôi xin lỗi lão, rồi mở nghe. Phước gọi điện nói là có Khiêm và một số bạn mời tôi uống cà phê vào chủ nhật đến. Chả là có chút tiền nhuận bút, gặp anh em văn nghệ cho vui. Tôi nói là sẽ đến.
Bỏ điện thoại vào túi quần, tôi nhìn đồng hồ, trò chuyện với lão cũng đã lâu, tôi bèn chào lão ra về. Lão tiễn tôi ra tận cổng.
Lão nhắc lại:
– Khi nào rảnh, thầy nhớ lại nhà tôi chơi nghe!
Tôi đưa hai tay lắc lắc tay lão, nói:
– Dạ, tôi sẽ ghé thăm bác mà.
Tôi tạm biệt lão. Ra về mà lòng những vấn vương những gì lão kể…
Được nghỉ hè, tôi có rảnh đôi chút. Tôi không bận giữ cháu, cũng không bận dạy hè. Đang đọc sách, có điện thoại. Tôi mở máy. Lão Ban gọi. Lão mời tôi đến nhà lão chơi. Tôi hẹn là sẽ đến thăm lão.
Đúng hẹn, tôi đến thăm lão. Lão mừng ra mặt. Tôi thấy lão khỏe hơn đợt trước.
Lão rót trà mời tôi uống. Thực sự tôi chẳng ghiền trà, nhưng khi nghe lão nói trà ni là do Phong, cháu nội lão mới gửi về. Lão được dịp khoe với tôi là Phong đang qua Pháp, rồi sau đó sang Mỹ nói chuyện về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Có lẽ người già thường hay kể về quá khứ của mình. Và lão cũng thế. Như mọi lần, lão kể những gì lão nhớ. Lão kể, hai tuần trước lão sốt li bì, tưởng chết đi được.Tôi nghe thế, xin lỗi lão là không biết lão ốm, nên không thể đến thăm. Lão cười chọc tôi: “Không biết thì không có lỗi mà thầy”. Tôi cũng cười vui khi nghe lão nói thế.
Rồi lão kể giấc mơ về lại Hoàng Sa. Lão nhớ đâu kể đó. Kể hồi ra đảo khi làm công tác khí tượng. Kể thằng Vũ biết cười khi có con ốc mà lão mang về từ Hoàng Sa. Rồi lão kể lão mơ về lại Hoàng Sa trong niềm vui khôn tả. Lão như thấy lại cái giếng nước, nhớ lại bạn bè thuở nọ ở Hoàng Sa.
Lão kể ngày ấy sẽ đến. Dẫu mai này, lão từ giã cõi đời này, thì con cháu lão cũng sẽ thay lão về lại Hoàng Sa. Lão khoe với tôi là con cháu lão sẽ đưa lão, có thể là di ảnh của lão về lại cái giếng ngày xưa, về lại mảnh đất lão làm khí tượng ngày nào.
Tôi nghe lão kể, thấy trước mắt tôi không chỉ có lão, con cháu lão, và kể cả tôi, mà thấy cả gần trăm triệu người Việt về lại Hoàng Sa.
Tôi thầm gọi: Hoàng Sa ơi, hẹn ngày về lại Hoàng Sa!

Năm 2014
Phan Trang Hy

TRĂNG HÒA VANG VẪN THẾ

phantranghy

Gần đến Trung thu, thằng Quân háo hức chi lạ. Nghe cô nói năm ni các học sinh lớp 6 phải làm lồng đèn để chơi. Cô khuyên, đã lên học trung học rồi, nên làm chớ không nên mua. Có thế mới thấy ý nghĩa của cái Tết Trung thu. Chớ mua dù có đẹp nhưng cũng chẳng có kỷ niệm gì sau này. Nghe cô nói vậy, thằng Quân chỉ biết thế, chứ nó chưa thấy ý nghĩa, kỷ niệm gì cả. Nhưng nó nghe lời cô. Nó phải nhờ ba nó hướng dẫn nó làm mới được.
Mấy năm trước, ba mẹ thương nó nên thường mua lồng đèn bán sẵn. Có khi là lồng đèn xe hơi, con cá, hay thứ gì khác, đều là lồng đèn bằng nhựa có pin… Có thể, một thời hợp mốt đối với trẻ con. Nhưng rồi, vài năm trở lại đây, mốt lồng đèn được sản xuất tại Trung Quốc không còn hợp thời. Xu hướng chọn đồ chơi cho trẻ có khác trước.
Và qua lời cô, nó biết lồng đèn thắp bằng pin không phải là lồng đèn truyền thống. Và nó cũng từng nghe cô giáo nói có một số lồng đèn do Trung Quốc làm có chứa độc, nên nó sợ. Nhưng gần đến Trung thu rồi, lấy chi chơi đây, nên nó lại hỏi và nhờ ba:
– Ba ơi! Con không thích lồng đèn nhựa của Trung Quốc. Ba đừng mua nghe. Con thích chơi lồng đèn tự làm. Ba bày con làm nghe.
Nghe Quân yêu cầu, ba nó chép miệng:
– Tiếc thật! Ba muốn cùng con làm. Nhưng ba bận quá. Con nhờ nội đi. Nội con bày là nhất đó.
Quân năn nỉ ba, nhưng ba vẫn nói bận. Không còn cách nào khác, Quân nói lí nhí:
– Dạ. Con sẽ nhờ nội bày.
Mấy bữa nay, thằng Quân chưa dám nhờ nội. Nó đợi chiều, đi học về, nó sẽ nói với nội mới được. Trung thu gần đến rồi mà. Không nhờ nội thì làm sao có lồng đèn chơi.
Vừa vào nhà, thằng Quân thấy nội đang tưới nước mấy chậu mai, nó bèn chạy lại bên nội, nói:
– Nội ơi! Gần Trung thu rồi, nội bày con làm lồng đèn nghe!
Vừa tưới nước, lão cười nói:
– Cái thằng, bữa ni bắt nội bày làm lồng đèn, lạ ghê, Mà sao con biết nội làm được?
Nghe thằng Quân kể lại là ba nó nói thế, lão Thạc thấy vui vui. Lão cười:
– Cái thằng cha mi! Được, nếu con thích thì ông cháu ta cùng làm.
Thế là, hôm sau, lão Thạc tìm tre. May mà quê lão vẫn còn tre. Dù quê có thay đổi, làng như phố, nhưng tập tục, ruộng vườn vẫn còn. Những lùm tre bên sông vẫn còn. Chiều chiều có những con chim về đậu. Chiều chiều vẫn khói đồng sau mùa gặt. Vẫn những tiếng cười, tiếng nói mộc mạc đậm chén mắm cái chấm với rau lang, rau muống luộc. Lão gật gật cái đầu, mỉm cười một mình. Mắt lão nhìn con đường bê tông trước mặt. Quê lão có cuộc sống hiện đại hơn. Rồi điện về. Nhà lão có ti vi màn hình phẳng. Thằng con lão lại bắt cả kỹ thuật số. Nhiều kênh chi lạ. Không những phòng khách có cái ti vi to đùng, mà phòng ngủ của thằng con lão cũng có. Bọn trẻ bây giờ sướng thật. Quê mà có tủ lạnh, quê mà có máy giặt, xe hơi…
Vừa đi vừa ngẫm nghĩ, lão thấy sướng cả bụng. Chợt lão nghe tiếng gọi:
– Nè, ông Thạc ơi, đi đâu đó? Có rảnh ghé tôi uống chén nước chơi. Có
chút chè của thằng cháu mới mua.
Thì ra lão Đôn. Là bạn từ thời còn học trường làng đến giờ. Hơn 50 năm là bạn của nhau. Có chút vui, chút buồn họ đều chia sẻ cùng nhau. Thấy lão Đôn ra tận cổng đón, lão Thạc nắm tay bạn, nói:
– Được thôi. Nhưng không ngồi lâu đâu nghe. Tôi phải đi tìm tre làm lồng đèn cho thằng cháu nội.
– À, ra rứa. Tưởng chi, chứ tre nhà tôi có. Mình uống nước, nói chuyện chơi chút đã, rồi tôi đưa tre cho.
– Rứa là may cho tôi rồi.
Hai lão ngồi uống nước, nói chuyện. Chén nước chè làm tuổi già vui thêm. Tình quê đậm đà qua chén nước.
Và cái tình quê của hai lão lại rôm rả, xôm trò qua trò chuyện. Dù cảnh quê có thay đổi, nhưng tình làng xóm vẫn như ngày nào. Nhiều khi mưa gió, đúc được cái bánh xèo họ cũng đem cho. Có con cá tràu bắt được, làm mỳ, cũng mời nhau. Nhà có giỗ, cũng đem phần kỉnh hàng xóm. Nếp quê vẫn như cái thời hai lão còn con nít.
Hai lão nói không biết bao nhiêu chuyện. Nào là chuyện chuẩn bị tế Thu; nào là chuyện chuyển cơ cấu cây trồng sao cho hợp với hoàn cảnh khi Hòa Vang có chính sách hỗ trợ nông dân. Toàn chuyện vui. Mà không vui sao được, khi tuổi già thấy con cháu yên ấm, thấy làng xóm thương yêu nhau. Tình làng nghĩa xóm như hàng tre cứ xanh trên bờ sông Túy Loan, như hương lúa ngày mùa, như làng vào hội đình nhân lễ Kỳ yên, cầu quốc thái dân an… Hai lão cũng bàn chuyện năm đến làng tổ chức lễ hội. Hai lão đều ước năm đến lễ hội đình làng Túy Loan cũng được nhiều người tham dự như làng Phong Lệ ở Hòa Châu tổ chức lễ hội Mục đồng vừa rồi.
Rồi, chuyện cũng vãn. Lão Đôn tìm mấy khúc tre đưa cho lão Thạc. Cầm tre từ tay bạn, lão Thạc cười nói:
– Cảm ơn ông nghe!
Tiễn lão Thạc ra tận cổng, lão Đôn vỗ vai bạn:
– Thôi, ông về.
Những ngày sau đó, khi hai ông cháu rảnh, lão hướng dẫn thằng Quân làm lồng đèn. Thực ra, lão làm đủ thứ, nào là chuốt tre, chặt theo kích cở. Thằng Quân chỉ ngồi bên hỏi đi hỏi lại cánh làm. Nó cũng cột được vài chỗ. Đặc biệt, khi dán giấy màu trên lồng đèn, thằng Quân nói với lão:
– Ông bày con vẽ bản đồ Việt Nam có quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa nghe ông.
– Được thôi. Ông sẽ bày.
Rồi lão hướng dẫn thằng Quân vẽ đường cong hình chữ S. Tiếp đến lão chỉ cách tạo thành 2 quần đảo với những chấm nhỏ xinh xinh. Nhìn cũng được. Rõ ràng trước mắt hai ông cháu là hình ảnh nước Việt Nam thân yêu với hai quần đảo như châu ngọc trên biển Đông. Nhìn cây cọ chấm màu trên tay thằng Quân, lão như thấy đó là bàn tay của lão khi còn bé, học ở trường làng. Ngày xưa, ngày xưa, đối với lão như mới đây. Lão cũng làm lồng đèn, nhưng giấy dán chỉ là giấy vở, đâu đẹp như bây giờ. Còn màu thì lấy nào than, nào gạch, nào nghệ, lá cây… giã ra, cho tí nước vào. Thế là cũng thành hoa, thành chim, gà, cá… được vẽ cho lồng đèn thêm đẹp.
Đến Trung thu, thằng Quân đem lồng đèn cùng mấy đứa trẻ dạo chơi quanh xóm. Trống múa lân rộn ràng. Lão Thạc cũng rộn ràng theo nhịp trống. Lòng lão rộn lên lời hát: “Bóng trăng trắng ngà, có cây đa to, có thằng Cuội già ôm một mối mơ…”.
Quê lão còn biết bao chuyện còn phải làm. Lão mơ như thằng Cuội già năm nào. Giấc mơ của lão không là tiếng hát xẩm của con dế mèn. Mà giấc mơ của lão là thấy quê thay đổi. Càng già, lão càng hiểu sự thay đổi nào cũng phải trải qua những trở trăn, lột xác. Có trở trăn, lột xác nào được êm ả?
Tiếng trống vẫn rộn ràng. Trăng trên trời ngời sáng. Trước mắt lão là xóm làng lão, là ngôi nhà lão, là con cháu lão. Và trên tay thằng Quân là ánh đèn ngôi sao lung linh. Trên tay bọn trẻ là những ánh sáng nhảy múa theo nhịp trống múa lân. Lão thấy hình bóng của lão, hình bóng của lão Đôn, của bạn bè trong làng ngày xưa hiện về. Tất cả đang rước đèn mừng Trung thu.
Lão thấy bản đồ Việt Nam có cả Hoàng Sa, Trường Sa trên lồng đèn. Quê lão mừng Trung thu trong ánh đèn con trẻ. Hòa Vang quê lão rộn ràng trong tiếng trống múa lân.
Đêm khuya. Trăng sáng dịu hơn. Cả làng yên bình dưới trăng ngà như mọi khi. Trăng Hòa Vang đêm nay vẫn thế!

Phan Trang Hy

THẢO THƠM RẰM THÁNG BẢY

phantranghy

Lâu rồi ý niệm của câu tục ngữ Rằm tháng Bảy, kẻ quảy người không vẫn cứ in sâu trong lòng tôi. Tôi vẫn còn nhớ lúc cuộc sống khốn khó, tôi đã từng nghĩ, ừ thì mình có thì mình có mâm lễ, còn không thì năm ba cây hương cũng được. Rồi cũng qua chuyện cúng kiến, lễ bái.
Thế nhưng, trong tôi mãi vọng lên điệu kinh cầu về Rằm tháng Bảy. Đây là mùa báo hiếu của các Phật tử, của những người con đối với mẹ cha. Mục Kiền Liên là hiện thân của người con hiếu thảo. Trước tội lỗi của mẹ, Ngài có oán trách đâu. Chỉ có lòng nguyện cầu xin lượng hải hà vô biên của Bồ tát, cứu vớt linh hồn mẹ. Trong tôi cầu mong đạo hiếu của Mục Kiền Liên soi rọi tâm hồn mình để ứng xử với cha mẹ, tiên tổ, với những tiền nhân sao cho phải.
Tôi cũng được biết thêm cách hiểu khác như là tâm niệm của nhân gian về Rằm tháng Bảy. Đó là dịp xá tội vong nhân. Không cần biết người đã mất là ai, là kẻ thế nào, chỉ biết đó là hồn oan của những người đã mất, những hồn tìm sự an bình trong sự cầu an của người trần thế. Tôi cũng từng nghe bà nội tôi kể chuyện cúng cô hồn Rằm tháng Bảy là cúng các hồn không nơi nương tựa, cúng hồn đói cái ăn – cái ăn bởi kinh bởi kệ. Người đã chết, dù có tội, ít ra đến Rằm tháng Bảy cũng được xá tội, mong được bình an nơi cõi phúc. Trước mắt tôi là những hồn ma vất vưởng xếp thành hàng. Họ đi, đi âm thầm, mong được xá tội. Trong tôi hiện lên những hình ảnh của những hồn trong “Văn chiêu hồn” của Nguyễn Du. Có thể họ là những kẻ đâm thuê chém mướn, cũng có thể họ là kẻ cướp vợ đoạt chồng kẻ khác, có khi họ dối dưới lừa trên, cũng có khi họ là kẻ có chức có quyền cướp đất cướp ruộng của dân. Cũng có khi, họ là kẻ tranh chức đoạt quyền, cũng có khi là kẻ buôn thần bán thánh… Nói chung, các hồn ma đều mong được ân xá. Trong tiếng cầu nguyện của người đang sống, trong trầm hương của Rằm tháng Bảy, tôi thấy các hồn ma như được hồi tâm. Họ thực sự ăn năn hối lỗi. Tôi như thấy các hồn đang nguyện xin được xá tội. Duy không thấy được hồn của những kẻ bán nước cầu vinh. Tôi chẳng thấy hồn của Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống ở đâu. Nghe đâu bọn chúng đang chịu hình phạt ở hoả ngục, phải “khóc lóc nghiến răng đời đời”(Kinh Thánh). Thảm thay ! Tội nghiệp thay !
Bất chợt trong tôi cũng hiện lên hình ảnh những con người thực ở cõi đời, họ cũng thiếu ăn, thiếu gạo, thiếu muối trong những ngày giáp hạt, trong những lúc bão lũ, thiên tai…Này đây là hình ảnh còm xương của bao trẻ, bao dân lành miền núi thèm hơi muối, chút cơm. Này đây là những bàn tay giơ ra đón nhận gói mì tôm, chai nước. Này đây là cái chết oan khiên khi qua con suối, bờ nương…Họ làm gì nên tội mà phải đói khổ ở cõi trần ? Họ làm gì nên tội mà phải chịu thay cho tôi, cho bạn ?
Cũng về Rằm tháng Bảy, tôi quên làm sao được những lời của thầy tôi nói về thời cuộc, khi tôi học lớp 8 năm học 1969 – 1970 ở trường Đông Giang, rằng Rằm tháng Bảy là lễ giỗ những người chết trận. Lúc đó tôi lơ mơ hiểu rằng đã là người chết trận là phải được người đời sau làm lễ tưởng nhớ ghi ơn sự hy sinh của họ. Tôi nhớ lại lời kể của thầy, rằng, nước ta có thời bị chia cắt làm hai, lấy sông Gianh làm giới tuyến. Nhưng binh lính tử trận của cả hai bên đều được đời sau hương khói. Tôi nghe lời thầy, rằng như thế mới hợp đạo làm người. Rằng tiền nhân có lúc bất đồng ý kiến, có lúc gây gổ, đánh nhau vì quyền lợi nào đó, nhưng suy cho cùng, để dân phụng thờ tưởng nhớ, phải là người có công với dân tộc. Ai vì dân tộc đều được phụng thờ. Quân Trịnh, quân Nguyễn vì ai mà một thời đổ máu ? Vì ai mà hy sinh ? Vì ai mà chút xương tàn không tìm thấy ? Hồn của các chiến sĩ hai bên có khác gì nhau trong và sau trận chiến ? Hồn của họ có khác gì nhau trong ý niệm của thời gian, trong sự phán xét của người cùng thời, của hậu thế ?
Tôi bâng khuâng, như thấy trước mắt mình hồn của những chiến sĩ hai bên thuở nào cùng lặng im nghe lời khấn niệm của người đang sống, của kẻ cầm quyền, của người theo đạo này, tôn giáo nọ đang mong linh hồn của họ được siêu thoát. Các hồn như đang trò chuyện cùng nhau. Không có oán thù, không có tị hiềm, khích bác. Chỉ có sự hoà hợp của những hồn chiến sĩ năm nào. Chỉ có sự nguyện cầu cho đất nước an lạc.
Bao nén hương lòng thắp trong Rằm tháng Bảy. Khói hương vẽ đường đi cho những hồn về nơi cực lạc. Khói hương mang lòng thành đến người đã khuất. Khói hương Rằm tháng Bảy thảo thơm hồn con dân Việt như là tấm lòng nguyện cầu an lạc đến cả thế gian.

Phan Trang Hy

NHẤT CHI MAI – CHẤT NGƯỜI MUÔN THUỞ

phantranghy

Người, cũng là muôn loài trong cái thế giới ta bà, vẫn mang tứ khổ của cuộc đời, vẫn phải chịu bao cảnh trầm luân, vẫn phải nỗ lực tu tập để thoát khỏi luân hồi. Tôi cũng thế. Có lúc tôi chịu đớn đau, chịu bao phiền não. Tôi nào thoát được chốn trần gian đầy khổ ải.

Đôi khi, vì cớ này cớ nọ, tôi tìm đọc những vần thơ Thiền. Và tôi bắt gặp bài kệ Cáo tật thị chúng (Có bệnh bảo mọi người) của Thiền Sư Mãn Giác (1052 – 1096):
Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai.
Sự trục nhãn tiền quá,
Lão tòng đầu thượng lai.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.

Xuân ruỗi, trăm hoa rụng,
Xuân tới, trăm hoa cười.
Trước mắt, việc đi mãi,
Trên đầu, già đến rồi.
Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm qua, sân trước, một cành mai.
(Ngô Tất Tố dịch)
Thơ Văn Lý – Trần, tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội – 1977

Thiền sư nhìn sự vật trôi, với tâm định, định đến vô cùng, hòa nhập với chân như, nên tâm Ông rung lên tiếng thơ lòng thiền. Trước tự nhiên, tâm tự nhiên theo. Ông an nhiên theo vòng sinh hóa vũ trụ:
Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai.

Tự nhiên là vậy. Xuân khứ rồi xuân đáo, hoa lạc rồi hoa khai. Có phải đó là quy luật sinh hóa? Có phải đó là quy luật thời gian?

Nói về mùa xuân là để nói đến tứ mùa. Thời gian cứ trôi, kiếp làm người cũng như muôn loài phải mang chuyện sinh tử, phải chứng kiến những sự đời trôi qua trước mắt: Sự trục nhãn tiền quá. Sự đời trôi theo thời gian, mà thời gian lại trôi theo tâm, bởi tâm là con mắt huệ – mắt thiền. Đời trôi mà tâm định là cớ làm sao?

Nhưng, làm người cũng có thể tâm định kia mà!

Tâm định, nhưng thời gian vẫn cứ trôi. Và thế là cái lão vẫn cứ đến với con người.

Đó là sự nghiệt ngã của tự nhiên dành cho con người. Cái già từ từ đến trên đầu: Lão tòng đầu thượng lai. Đọc câu thơ, tôi bỗng nhận ra một điều: trên đầu tôi tóc đã hóa trắng. Tôi đang đến già. Già vì biết, vì khổ não, phiền trược. Tôi già theo thời gian…

Thời gian của vũ trụ, của ánh sáng thì vô cùng. Thời gian của đời người thì có hạn. Tôi nghe có ai đó nói bên tai tôi là, chỉ có vượt cái có hạn đế đến cái vô cùng mới có thể vượt qua vòng luân hồi của tử sinh – sinh tử.

Và trong tôi như thấy giờ phút sắp viên tịch, chất thiền của Mãn Giác Thiền sư tỏa sáng bên các đệ tử:
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.

Dẫu hoa tàn khi xuân hết. Nhưng sức sống của thiên nhiên vẫn mãnh liệt. Trong cái tàn của hoa xuân lại ẩn hiện mầm sống của đất trời qua hình ảnh nhất chi mai. Thiền sư không nói hoa nở trước sân, nhưng tâm cảm một cành mai đang hấp thụ, chắt lọc tinh túy của đất trời để tồn tại trên cõi đời này. Cùng sự đồng cảm với Mãn Giác, Thiền sư Chân Không (1046 – 1100) nói về Diệu Đạo: Xuân lai xuân khứ nghi xuân tận. Hoa lạc hoa khai chỉ thị xuân (Tạm dịch: Xuân đến xuân đi tưởng xuân hết. Hoa tàn hoa nở vẫn hoàn xuân).

Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã. Cảm nhận sự tuần hoàn ấy, hồn thơ của Mãn Giác đã định trước đổi thay, trước luân hồi của vạn vật. Không còn tứ khổ khi Nhà thơ Thiền mang bệnh lại nói nhất chi mai. Bởi vì Thiền sư đã an nhiên cái lẽ thường tình sinh tử: Sinh lão bệnh tử- Tự cổ thường nhiên (Diệu Nhân, 1041 – 1113).

Cả bài kệ đầy chất thơ, từng câu từ đầu đến cuối đều có ý niệm thời gian. Tác giả dùng thời gian như là qui luật mà con người phải nhận lấy để làm Người, để khẳng định sự tồn tại của chất Người – nhất chi mai. Quả thật, ở Thiền sư, thời gian tịnh đến độ như không có gì để nói, như bản ngã người hòa với Đại Ngã Tự nhiên, như chân như của người, của Phật.

Đọc Cáo tật thị chúng của Mãn Giác Thiền sư trong thời buổi này, tôi vẫn thấy nhất chi mai theo thời gian hấp thụ tinh khí thần của Nhật – Nguyệt – Tinh Đại Ngã để thành Người.

Phan Trang Hy

ĐAU ĐÁU HOÀNG SA

phantranghy

Kính tặng các chiến sĩ Hoàng Sa, Trường Sa…

Lệ thường, ngày nào cũng vậy, lão Ban lại ra biển. Không nhìn thấy biển là lão cảm thấy sao sao ấy. Lão dễ nổi cáu với vợ. Chỉ cần nhìn thấy biển, nhìn ra ngoài khơi xa là lão mới dịu đi những cáu ghét của cuộc đời. Lão đi biển không phải để nhìn thiên hạ tắm, không phải tập thể dục dưỡng sinh, cũng không phải bông lơn chọc ghẹo những mụ hồi xuân. Lão nhìn biển như thể cho vơi bớt nỗi lòng của mình, khi chẳng biết tỏ cùng ai. Thường là lão đi một mình. Nhưng lần này lại khác. Lão cùng thằng cháu nội ra biển chơi.
Nhìn thằng cháu đang lượm những vỏ ốc, vỏ sò, những con sao biển, lão thấy hồn mình như nhập vào sóng biển. Vẫn tiếng sóng vỗ bờ, vẫn tiếng rì rào của đại dương, của hồn biển Đông muôn thuở. Vẫn đâu đây từ cõi sơ khai nước mặn, trời nồng. Bỗng thằng Phong – thằng cháu nội của lão – lên tiếng:
– Nội ơi! Nội coi nè! Vỏ ốc này đẹp quá, nội ơi! – Vừa nói, nó vừa chạy tới khoe lão.
– Ừ! Đẹp quá! – Lão khẽ nói.
Nhìn vỏ ốc trên tay thằng Phong, lão lại nhớ cái vỏ ốc mà lão đã tặng cho Vũ, ba của thằng Phong. Quá khứ ấy như hiện ra trước mắt …
Lão làm sao quên được cái ngày lão được nghỉ phép về thăm gia đình ở Đà Nẵng. Được trở về đất liền, được thăm vợ, thăm con – thăm cái thằng con trai, cái thằng con mà lão chưa biết mặt, lão cảm thấy sao quá tuyệt vời. Nằm thao thức, nghe sóng, gió mang vị mặn trong đêm, lão không ngủ được. Ngày mai là có tàu vào đất liền. Mừng thật! Vui thật! Nghĩ đến vợ con, lão lục tìm trong đầu nên tặng vợ, tặng con những gì? Ở trên quần đảo này có gì ngoài phân chim, cát vàng, san hô, ốc biển… Tặng gì đây cho vợ, cho con?
Vừa về đến nhà, lão chào mọi người. Vợ lão ôm chặt lão, khóc: “Sao anh không ở ngoài đó? Anh về làm gì?”. Lão biết vợ quá thương mình nên nói vậy thôi. Chính vợ lão đã khuyên lão ra đảo nhận công tác khí tượng kia mà.
Nhìn thằng Vũ nằm trên nôi, lão giơ hai tay ra, vừa vỗ vỗ vừa kêu lên: “Ba đây con! Cho ba bồng tí!”. Thằng Vũ nằm trong nôi khóc ré lên. Thương con, lão muốn bồng con, ôm con. Nhưng mỗi lần lão bồng nó thì nó không chịu. Một bữa, vợ lão lo sắm sửa một ít đồ dùng để lão ra lại đảo, bèn giao con cho lão. Thằng Vũ cứ khóc, không chịu cho lão bồng. Lão lấy những thứ đồ chơi bằng nhựa cho nó chơi, nhưng nó vẫn không chịu nín. Cực chẳng đã, lão bồng con và dỗ. Lão kêu kêu, cười cừời; lão làm đủ trò; nhưng thằng bé vẫn cứ khóc. Khóc miết rồi cũng mệt. Mệt nên nó nín. Rồi nó đưa mắt nhìn lão, nhìn khắp phòng. Lão thấy mắt thằng bé nhìn các thứ để ở trong tủ gương như muốn khám phá điều gì đấy. Nhìn con, lão lấy làm lạ. Những thứ trong tủ có gì lạ đâu. Toàn san hô, ốc biển…, những thứ lão mang từ đảo về. Lão bồng con đứng trước tủ. Thằng bé cười – lần đầu nó nhoẽn miệng cười. Lão lấy mấy thứ nhỏ xinh cho thằng bé chơi, nhưng nghĩ lại, lão sợ thằng bé chơi, rồi nuốt bậy, nên lão cất. Thằng bé lại khóc. Cuối cùng, lão chọn cho con một con ốc to bằng nắm tay. Đây là con ốc lão lượm trên đảo đúng vào lúc nghe tin vợ ở nhà sinh thằng Vũ. Thằng bé cầm con ốc, ngậm vào miệng ra chiều thích thú.
Kể cũng lạ! Từ khi chơi với con ốc, thằng bé lại muốn lão bồng, lão bế. Chỉ trừ lúc nó thèm sữa, còn thì nó đòi lão bồng chơi cùng con ốc cho bằng được. Nó cũng thích lão hát cho nó nghe, nó cũng thèm lão hôn nó…
…Lão vẫn nặng nợ với đảo. Đảo là nhà, là phần cuộc sống của lão. Những lúc thương con, nhớ vợ, lão chỉ biết ngồi trên bãi san hô nhìn vào đất liền. Làm sao lão quên được những hoàng hôn. Màu sắc kỳ ảo vàng đỏ tím xanh cả biển. Mặt trời lặn dần xuống biển như thể thiên nhiên đang cất giấu viên ngọc hồng vào trong rương vũ trụ. Chỉ còn thứ ánh sáng diệu kỳ trên biển. Và trong lão sáng lên thứ ánh sáng của đêm, thứ ánh sáng gia đình, quê hương… Lão thèm được nhìn vợ, nhìn con, nhìn những gì thân thương của mình. Lão quên sao được những lần đem thư của con ra đọc. Ngó thế mà thằng Vũ cũng đã lớn rồi. Học lớp 11. Thư gửi cho lão, lúc nào nó cũng nhắc đến con ốc mà lão cho nó. Cũng từng ấy câu chữ, nó cứ viết vào những lá thư gửi cho lão: “Ba biết không? Bạn bè con, đứa nào cũng trầm trồ vì con có con ốc đẹp. Con đã từng khoe với bọn chúng là con ốc mang cả hình hài của quần đảo Hoàng Sa. Bọn chúng không tin. Nhưng con tin là thế!”.
Lão cũng tin là thế! Lão tin quần đảo Hoàng Sa là máu thịt của quê hương. Làm sao lão quên được có lần lão đã dắt thằng Vũ về quê ở tận Quảng Ngãi. Trong lần giỗ chạp, ông tộc trưởng họ Đặng của lão đã từng nhắc rằng lão là kẻ hậu sinh đang kế nghiệp tiền nhân. Mở gia phả, lão rưng rưng đọc những dòng chữ ghi công tích của họ Đặng. Vua triều Nguyễn đã từng phái dòng tộc lão vượt đại dương trấn giữ Hoàng Sa. Lão cảm thấy như máu tiền nhân đang chảy trong cơ thể, tăng thêm nghị lực, tăng thêm tình yêu cho lão trên đảo Cát Vàng. Làm sao lão quên được lúc cúng tế, bà con tộc họ đã bỏ thức ăn, sau khi xong lễ, vào một chiếc thuyền làm bằng bẹ chuối, thả xuống biển. Mũi thuyền hướng về Hoàng Sa như thể rằng Hoàng Sa không thể quên trong hồn người đã khuất. Trong tâm tưởng lão, lúc nào chiếc thuyền bẹ chuối ấy cũng lớn như những chiếc thuyền của dòng tộc họ Đặng, họ Trần, họ Lê… ở quê lão vâng lệnh triều đình, tiến thẳng Hoàng Sa… Trong lão như trỗi dậy những bài văn tế các thủy binh thời ấy. Nhận lệnh vua, nặng nợ nước nhà, buổi ra đi đâu dễ dàng. Sóng gió trùng khơi, thủy quái dẫy đầy, đến Hoàng Sa đâu dễ. Các thủy binh được tế sống lúc lên đường như thể rằng quê hương vẫn nặng nợ với những người con. Lão bùi ngùi, run rẩy như có ai đang bóp nghẹt trái tim. Lão khóc…
Và lão đã khóc rất nhiều khi nghe tin thằng Vũ hy sinh trên Trường Sa năm 1988. Lão không ngờ như vậy. Kỷ vật cuối cùng của con lão là quyển nhật ký. Lão đã đọc đi, đọc lại hoài. Những dòng cuối cùng lão như thuộc lòng: “Ba ơi! Biển đảo là biển đảo của quê hương do cha ông để lại cho con cháu đời sau. Phải giữ để khỏi có tội với tiền nhân, với con cháu. Dẫu có hy sinh, con vẫn không hối tiếc điều gì vì đã thực hiện theo lời ba dạy.”. Đến giờ, lão vẫn không biết mình dạy con điều gì. Lão chỉ nhớ những việc làm, những tình cảm gắn bó với Hoàng Sa. Không biết có phải những điều ấy là lời lão dạy với con? Có lần thằng Vũ cầm con ốc đố lão – lúc nó vừa thi xong tú tài: “Đố ba, trên mình con ốc này có gì?”. Lão ngạc nhiên sao con lão đố như vậy. Nhìn con ốc, lão cười đáp: “Thì chỉ những chấm, những chấm màu vàng nâu”. Thằng Vũ cũng cười, nói: “Rứa con đố làm gì!”. Rồi nó chỉ từng cái chấm, hỏi lão có giống những đảo mà lão đã từng ở không, nhiều chấm có phải là quần đảo không…Và rồi nó kết luận: “Trên mình ốc có in hình quần đảo Hoàng Sa”. Kể cũng hay hay. Từ đó, nó để con ốc vào chỗ trang trọng nhất. Khi nhập ngũ, đi bộ đội hải quân, nó xung phong đi Trường Sa. Lão không gàn con. Nó cũng có tình yêu đảo như lão kia mà!
Kể từ ngày thằng Vũ mất, lão như mất hồn. Cứ những đêm rằm, mồng một, lão lại ra biển. Dù nắng, dù mưa, lão vẫn ra biển thắp ba cây nhang hướng về Hoàng Sa, Trường Sa mà vái. Ngoài kia, những con thuyền thả lưới, những chiếc tàu đánh bắt cá sáng rực những ánh đèn như thành phố nổi trên biển. Trước mắt lão hiển hiện những ngư dân cần mẫn, chăm chỉ, chịu khó chịu thương. Trước mắt lão hiện lên những chàng trai giữ đảo, có cả hồn của những người như con trai lão cùng tiền nhân giong thuyền xuôi ngược biển Đông. Nhiều lúc lão lẩm bẩm một mình như đọc thơ về Hoàng Sa…
Và rồi thành phố Đà Nẵng bổ nhiệm Chủ tịch huyện đảo Hoàng Sa. Lòng lão trỗi dậy thứ tình yêu biển đảo mà bấy lâu nay ẩn trong tiềm thức. Người họ Đặng hôm nay lại nối tiếp họ Đặng, họ Trần, họ Lê… ở quê lão, như cái thuở cha ông vâng lệnh triều đình ra đảo, gánh trách nhiệm với Hoàng Sa. Lão thấy mình như trẻ lại, khỏe lại và vui hơn. Không vui sao được khi đất đảo quê hương được nhắc đến? Không vui sao được khi có người dám nhận trách nhiệm nặng mang? Lời thằng Vũ trong nhật ký sáng rực trong tâm trí lão: “Biển đảo là biển đảo của quê hương do cha ông để lại cho con cháu đời sau. Phải giữ để khỏi có tội với tiền nhân, với con cháu…”.
Tiếng thằng Phong như đánh thức lão:
– Nội ơi! Mai con phải vào thành phố Hồ Chí Minh.
– Ở thêm ít ngày, được không? – Lão hỏi như trách .
– Con phải vào để thầy hướng dẫn làm luận văn .
– Thế thì phải vào thôi! Mà này, con làm đề tài gì?
– Dạ! Con làm đề tài về quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa trong mối quan hệ với biển Đông.
Trầm ngâm một lúc, lão lên tiếng :
– Gay đó con! Nhưng phải gắng thôi.
– Dạ! Con nghe lời nội.
Hai ông cháu cùng dắt tay xuống tắm. Nước biển tắm mát cơ thể lão, cơ thể cháu lão. Nước biển Mỹ Khê giống như nước biển Hoàng Sa. Lão nghe mằn mặn bờ môi. Lão đứng lên. Mặc từng cơn sóng đổ trên người, lão nhìn ra xa khơi. Đau đáu là Hoàng Sa trong nỗi nhớ…

Phan Trang Hy

VÀ MỖI LẦN NOEL ĐẾN

Cứ cuối tháng 11, đầu tháng 12, cái lạnh bắt đầu thấm trên từng cây lá, thấm vào những bàn tay, vào những nụ cười, tôi nghe được cái lạnh qua lời nói của mọi người: “Gần đến Noel rồi!”. Và tôi nghĩ về mùa Giáng Sinh với những cây thông gắn những món quà xinh xắn, nghĩ về truyện “Cô bé bán diêm” của Andersen. Tôi cảm thấy mình còn may mắn được sống trong sự đủ dùng như theo lời nguyện của người Kitô trước những bữa ăn. Dẫu tôi không theo đạo nào, nhưng tôi vẫn tin có cái Đại Ngã Vô thường tồn tại cùng cái Tiểu Ngã của tôi.

Nhớ năm học 1973 – 1974, tôi học lớp 12B3 trường Phan Châu Trinh, Đà Nẵng. Tôi được học triết do thầy Hiền dạy. Dù tôi học ban B, thế nhưng cũng nhờ những khái niệm cơ bản về triết học, tôi nhìn nhận sự vật không chỉ duy tâm hoặc duy vật, duy lý hoặc duy tình. Môn triết là môn có thể là sở trường của tôi. Có lần, trong một giờ học, tôi đã giơ tay trình bày quan điểm non nớt, ngây ngô của mình: “Thưa thầy, theo lý thuyết thì bất cứ vật chất nào cũng bị nóng chảy ở nhiệt độ cao. Thế nhưng, mặt trời cũng là dạng vật chất, nóng đến hàng ngàn độ, nhưng sao nó chỉ có nóng mà không chảy?”. Tôi nhớ thầy không trả lời cụ thể, mà chỉ gợi cho tôi thấy rằng lý luận chỉ là lý luận. Cả thế giới vật chất này không chỉ có vật chất thuần tuý mà còn có sức mạnh vạn năng nào đó đang điều hành cả vũ trụ này. Lời thầy chỉ thoáng khơi gợi một điều gì đó trong tôi…

Và mỗi lần Noel đến, tôi đều tự hỏi: Sao nhạc thánh có sức mạnh lôi cuốn, nhẹ nhàng, thánh khiết như vậy? Sao tiếng chuông nhà thờ làm rung chuyển sự tỉnh thức của mỗi tâm hồn đến vậy? Sao lời của Chúa hơn hai ngàn năm vẫn là sự thật? Tôi có dịp may là đọc những lời trong Kinh thánh, nhất là phần Tân ước. Sao Chúa yêu thương con người đến vậy, trong khi con người nhân danh con người lại mạt sát, bắt bớ, cầm tù, đâm chém, hành hạ lẫn nhau? Sao Chúa bao dung đến vậy, trong khi con người vẫn nuôi thù hận triền miên? Sao Chúa lại chữa lành những vết thương của người bệnh, trong khi con người gieo rắt những mầm diệt chủng, diệt sự sống ở trần gian này? Chúa vì ai mà yêu thương, bao dung, chữa lành con người? Vì ai? Vì ai?…

Nghĩ đến Chúa, tôi lại nghĩ đến Darwin. Theo Darwin thì có thể thuỷ tổ của loài người là loài vượn – người. Nhưng mấy có ai, kể cả ông Darwin thờ vượn – người và gọi nó là ông tổ? Đã là thuyết thì mãi là thuyết! Có ai cho mình là giòng giống thấp hèn? Có ai cho mình là người dại? Có ai vẽ hình tượng vượn – người để thờ phụng đâu? Kiến thức của tôi có hạn, như cái sống có hạn của tôi ở cõi trần này, tôi không biết có tôn giáo nào, tín ngưỡng nào thờ vượn – người và tôn vinh nó không?

Và mỗi lần Noel đến, tôi như thuộc lòng câu “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho người thiện tâm” (có nơi cho là người thiện lương). Ngẫm đi ngẫm lại lời ca ấy sao thực tình, thực tế, gần gũi với con người đến vậy. Chỉ cần câu “Bình an dưới thế cho người thiện tâm” là thấy sướng cả bụng rồi! Cầu mong cuộc đời này, người thiện tâm được an bình là quý rồi. Nhưng cuộc đời này, chính con người đã gây ra bao tai hoạ, đã tự trút những cơn thịnh nộ của tham sân si thì làm gì có sự an bình cho chính mình và cho người khác. Thật là buồn! Buồn cho kiếp người không có bình an vì trót gây tội.

Nói đến tội, tôi cũng là kẻ có tội ở trần gian này. Thấy cha mẹ già yếu mà không được chăm nom, phụng dưỡng hằng ngày là có tội. Thấy anh em nghèo khó mà không giúp được, vì mình chưa giúp được mình xong, cũng là tội. Thấy mình vì tiền mà chèn ép học trò đi học thêm để mình tồn tại cũng là có tội. Thấy học trò không chăm học, không học giỏi, cũng thấy mình có tội. Thấy con cái khổ cực mà chẳng giúp được, thấy con cái lớn rồi mà chẳng có công ăn việc làm ổn định, cũng là tội. Thấy việc phải mà không dám làm vì hèn, vì sợ cũng là tội. Cái tội nó đeo đuổi mình suốt kiếp!

Biết bao cái tội của kiếp làm người. Nhiều lần, tôi làm điều gì sai trái, tôi cảm thấy mình cớ sao dại những một giờ như vậy? Cớ sao có lúc giận hờn? Cố chấp? Biết bao điều để tôi trở thành kẻ có tội ở thế gian này. Tôi lấy làm xấu hổ, ân hận vì những gì tôi gây nên tội. Bất chợt, trong tôi hiện lên bao gương mặt của những cô gái bán dâm nuôi miệng, đang lấy hai tay che mặt khi có người chụp ảnh, quay phim. Chắc các cô còn xấu hổ. Tôi cũng bất chợt thấy bao gương mặt của những kẻ có quyền, có thế khi gây nên tội vẫn nhơn nhơn cười đểu, lẻo mép chối tội như thách đố với người thiện tâm. Những việc ấy, những con người ấy, báo chí đăng trên những bản tin hằng ngày bên cạnh những tin tốt lành. Tin ác, tin dữ còn, tội đó do ai?

Và Noel đến, bên tai tôi vẳng lên khúc nhạc mừng Thiên Chúa xuống trần, làm người để chịu kiếp người ở thế gian. Tôi như thấy cái chết của Thiên Chúa trong thân phận người mới làm cho con người đến với ánh sáng, đến với sự bình an. Và khúc nhạc “Bình an dưới thế cho người thiện tâm” cứ vang lên trong lòng tôi, như vỗ về tôi, an ủi tôi những lúc tưởng như tôi bị sa ngã bởi bao ràng buộc ở cõi trần này.

Trong tôi cũng vẳng lên lời bài hát như tránh móc, dỗi hờn của Trịnh Công Sơn: Chúa đã bỏ loài người – Phật đã bỏ loài người… Thế nhưng, mỗi lần Noel đến, tôi nhẩm hát theo những ca khúc Giáng Sinh. Tôi hát mà tin rằng Chúa Phật chẳng bỏ loài người. Chúa Phật vì loài người mà đến với thế gian này, đến để người bình an, để người được làm người thiện tâm, an bình dưới thế.

Phan Trang Hy