Tuy người dưng nước lã, nhưng Ba Bướu và Năm Đầu Bạc tình thân hơn ruột thịt. Sở dĩ dùng chữ hơn là vì cô Lê Thị Trâm em gái Ba Bướu là vợ của Trần Văn Bảy mà Bảy là em ruột của Năm Đầu Bạc. Vậy thì cũng thường, có chi lạ mà hơn?
Là do đẹp lắm, nõn nường lắm cô Trâm bồ bịch yêu đương cũng lắm. Đến tay anh Bảy cô cũng qua mươi cuộc tình lớn nhỏ. Tư cách vậy làm sao mà Năm Đầu Bạc chấp nhận dù gia cảnh Đầu Bạc cũng chả ra ôn dịch gì. Tuy nhiên cả trấn ai cũng xầm xì con đó thế nầy thế nọ nghe cũng đau chớ. Đúng không? Nghe em mình đòi trăm năm với Trâm Võ Hậu là Đầu Bạc cực lực phản đối. Khốn thay, Trâm nói với Bảy rằng đứa nhỏ trong bụng là con anh, tuỳ anh định liệu. Bảy cha mẹ mất sớm ở với chị dâu ác hơn bà Tào Thị nên anh nói kệ anh tui muốn lấy ai kệ tui. Bảy tuy đẹp trai nhưng biếng lười là một, ăn nhậu là hai nên vớ được Trâm là may lắm. Cũng chỉ vì ông anh chồng coi không ra chi nên Trâm hận. Đặc biệt là sau khi sanh Trâm không tiền nên thằng chồng chán, nó nghe lời anh chị thoi cô. Bực bội cô ẳm con bỏ xứ ra đi, thằng chồng ở với anh và Tào thị được thời gian chịu cũng không xiết nên chạy theo ôm con cho vợ đi làm
Trâm giao con cho chồng còn mình đi kiếm ăn trong bãi vàng Suối Nho. Hôm đó đang đào đào móc móc ông trời gọi đúng tên Trâm. Cô nhận được một cục. Sau khi gia công cô được một mớ vàng. Bỏ bãi cô về xứ rừng làm mây tre lá. Độc quyền khai thác nên cô lên như diều. Dưới trướng có cả vài trăm công nhân, xe cộ để giao nhận hàng trên chục chiếc. Người làm thì dư nhưng người tin để giao những việc hệ trọng lại không có, vậy nên cô Trâm liền hú anh Ba Bướu và giao cho việc thu chi tài chánh, nói văn vẻ là thư ký kiêm kế toán. Bảy về thăm quê thấy anh khổ quá mới xin cô Trâm bỏ qua chuyện ngày ấy mà cho Đầu Bạc một cửa sống. Vì thiếu thợ máy để trông coi xe cộ nên cô Trâm vừa gật vừa bỉu môi vừa đe “- Liệu đó, thất thoát một cái bù long là đừng có trách đa nghe”.
Được cân đo đong đếm đồng bạc nên Ba Bướu luôn có xèng rủng rẻng. Đầu Bạc thì hẻo lắm, ba cái bù long con tán thì nuốt sao vô? Xe hư cái gì ghi ra giấy đã có người đi mua, muốn bỏ túi riêng vài đồng lẻ uống cà phê vặt còn không có. Đầu Bạc chỉ trông vô lương. Mà lương thì xưa nay mấy bà nội tướng nghèo thu sạch bách.
Ba Bướu đặc biệt mến Đầu Bạc. Cha mẹ mất sớm có một con em mà nó hư thôi là hư. Trai gái cả huyện chờn mặt, nay có người bốc đi không quý sao đặng? Em gái theo chồng Bướu trút được gánh ngàn cân. Thiếu cái chắp tay mà lạy cả họ nhà Năm Đầu Bạc. Nghe em nên và ra Bướu mừng lắm, đã vậy còn giúp mình có việc nhàn thân tiền nhiều. Thấy Đầu Bạc cơ khổ vì bị em gái đì, Bướu mới đem tình thương mến thương quy đổi thành tiền giúp bạn bè. Không có anh lời đàm tiếu của ba quân về đạo đức nếp nhà tui rửa sao cho sạch? Mà cũng chẳng nhiều nhặn chi. Điểm tâm sáng kèm nửa lít ba xi đế, trưa mua cho Đầu Bạc hộp cơm, đôi khi còn dúi vào tay bạn đôi đồng uống trà đá. Có một chuyện mà Đầu Bạc mang ơn lắm. Số là thằng con lớn đang đêm đau bụng không tiền đưa đi viện. Đầu Bạc chạy lên nhờ Bảy nhưng thằng em đã bị thần Lưu Linh rủ đi từ hồi đầu hôm. Mà có tỉnh cũng không nhờ chi được với cái thứ đàn ông bám chéo áo đàn bà. Không có chi viện của Bướu chắc thằng con chết vì viêm ruột thừa cấp. Vậy nên Đầu Bạc hứa ra miệng rằng:
– Tui mà trúng số sẽ chia ông một nửa. – Chả là sáng nào Bạc cũng một hai tờ cầu may.
Bướu nói:
– Ông ăn một mình đi. Tui không ham chi số với siếc.
Rồi sương sương bởi rượu:
– Hề hề hề… Vô độc đắc là chừng này triệu, mười phần trăm thuế thu nhập cá nhân còn nhiêu đây triệu. Cho thằng bán vé số và từ thiện hết một mớ triệu. Còn lại rất nhiều triệu tui cưa đôi với ông. Nói sai một tiếng cho sét đánh đen thùi lùi đi.
Cứ thế ngày này qua ngày nọ tháng nọ kế tháng kia. Mộng ước vô lô độc đắc của Đầu Bạc vời vợi ơi là vời vợi. Có người ghẹo rằng:
– Có trúng tui xin nhậu một bữa cho đã nghe chú ba.
– Yên tâm.
– Tui nữa nghe ông Ba?
– Yên tâm luôn.
Có câu đi đêm có ngày gặp ma, mua vé số thì phải trúng số không lẽ trúng gió hoài. Năm giờ chiều hôm ấy cả khu vực Bướu Bạc thường nhậu dậy sóng ba đào. Thằng cu bán vé số chạy hết tốc lực đến hào hển rằng:
– Chú Ba Bướu ơi ông Đầu Bạc vô rồi.
– Lô mấy – Bướu điềm tĩnh.
– Dạ vô độc đắc. Hai tờ luôn chú ơi.
– Chắc không?
– Như bắp luôn. Con tới báo cho ổng biết mong kiếm tí như lời ổng hứa.
Nhưng có tiếng ầm ỉ. Ba Bướu cùng thằng cu chưa kịp ngạc nhiên thì cả tốp từ phía nhà Năm Đầu Bạc chạy tán loạn. Bướu hỏi rằng:
– Gì vậy mấy đứa?
– Năm Đầu Bạc đang phá nhà.
– Sao phá?
– Ổng nói hai tờ vé số để trong túi áo mới mua hồi sáng không cánh mà bay. Vợ chồng con cái đang ì xèo về chuyện ai lấy cắp. Hề hề hề… thiệt là xạo quá chú Ba ơi. Bình thường không mất, nay vô độc đắc lại mất.
Tiếng la tiếc của lồng lộng trong trời chiều. Tiếc chứ, Cả một gia tài ai chẳng tiếc?
Cả bọn tuôn đi sau rất nhiều cái lắc đầu để Bướu lại một mình. Nhưng Bướu biết Đầu Bạc mất thật. Sáng nay sau khi sương sương thêm một xị Đầu Bạc về và bỏ quên hai tấm vé số trên bàn nhậu.
Bướu tính là trưa sẽ trả lại cho bạn già khi ăn cơm.
Nhưng trưa nay chả hiểu sao Đầu Bạc không đến.
***
Diễn biến kế tiếp của sự kiện lớn và nhanh đến độ cư dân tại và các ấp kề bên chấn động như khi nghe tin Ôsama Binlađen đánh sập tháp đôi. Người ta bu lại nhà Năm Đầu Bạc để xem, để nghe tiếng gào rú đến điên khùng của một kẻ mất của. Đầu bạc văng tục chửi thề với vợ và thằng con. Già rồi, vậy mà khi điên lên người ta cũng thô lỗ hết biết:
– Chỉ có mày – Bạc nói với vợ – ba con tứ sắc ám mày. Nợ nần quá nên mới lấy của tao. Trời ơi, hai tờ là cả một gia tài. Mày nhả ra đi. Tiền đó tao cũng đưa cho mày chớ tao giữ làm chi. Tao sẽ cho nhà mày một ít để thoát nghèo chớ tao ăn đâu có hết. Mày nhã ra đi con quỷ cái. Con quỷ truyền kiếp của đời tao….
Vợ Đầu Bạc sướt mướt khóc, hai đứa con gái cùng bù lu theo mẹ:
– Tui thề cho xe cán, sét đánh không toàn thây nếu tui lấy hai tờ vé số của ông. Trời ơi là trời tui lấy làm chi tui số tiền lớn vậy?
– Không mày thì thằng Tâm. Tâm – Đầu Bạc hét lớn – Chỉ có mày với con mẹ mày chớ không ai vô. Bây phá của tao nhiều quá rồi. Bây giờ là quá tay. Không nhả hai tờ vé số ra, bây đừng hòng yên ổn trong nhà nầy với tao.
Tâm – con trai lớn của Đầu Bạc – cái thằng bị ruột thừa. Nó có hơi hư hao một chút. Rượu chè là một, số đề là hai, lâu lâu có ghé vô sòng bạc binh bài hoặc tiến lên tí chút, thường thua chứ ít thắng. Nó cũng thường chà đồ nhôm ba cái vặt vảnh để phục vụ bản thân khi đi o mèo. Đầu Bạc vẫn thường than thở với bạn về thằng con ham chơi hơn ham làm. Tâm cãi lại khi cha gán tội cho mình:
– Ông – con mà kêu cha bằng ông kể cũng lỗi đạo – nhưng cũng nên thông cảm cho, nghèo quá, làm thuê làm mướn từ đời cha cho chí đời con đâu có học hành chi mà biết lễ – đừng có mà vu khống cho tui. Tui lấy số tiền lớn vậy làm chi? Tui thề với ông đó ông ba ơi.
– Vậy ai vô đây? Không mày với mẹ mày thì ai vô?
Thiên hạ bu quanh. Những kẻ nghi ngờ Đầu Bạc dấu để khỏi chung khỏi chi như lời hứa cũng thay đổi thái độ:
– Dám mất thiệt lắm à
– Dám gì nữa, thiệt chắc luôn, không thiệt thì ai mà sĩ nhục vợ con mình giữa ba quân thiên hạ như vầy ông ơi.
Một tha nhân vấn kế:
– Đi coi thầy là lòi ra hết chú Năm ơi.
– Đúng rồi, vô ông Sáu Trúc ở Ngã Ba Gái Tắc đi.
– Đúng rồi. Ông Sáu hay lắm.
Rồi người ta kể cho nhau về một mầu nhiệm rất hay ho của một quý ông Sáu Trúc. Ông nầy học đạo ở Núi Bà Đen hay Tà Lơn gì đó có tài sai khiến âm binh bắt ma trừ quỷ. Có một thằng bỏ vợ con theo gái, chỉ một đạo bùa mà kẻ bạc tình quay lại. Đại khái là hay lắm. Lắm lắm. Vô Sáu Trúc đi chú Năm ơi.
Vậy là hông đa ôm chạy đến để đưa Đầu Bạc đến thầy. Xe chạy qua chỗ Bướu và Bạc thường nhậu. Bạc xuống xe ôm lấy bạn hiền mà rằng:
– Tui thề với ông. Tui gian dối nửa lời cho bà bắt tui chết thảm. Mất thiệt anh Ba ơi, anh đừng nghĩ tui trúng rồi bây giờ tiếc của.
Ba Bướu vỗ vai bạn sui gia:
– Tui cũng có nói gì ông đâu. Mà có dzô thiệt không?
– Cả hai tấm vô độc đắc. Tui nhét trong túi áo treo trên vách nhà mà biến mất rồi anh Ba ơi. Mất là tôi hộc máu mà chết mất anh ơi.
Rồi như một gã điên Năm Đầu Bạc mếu máo leo lên xe để tầm sư truy căn kẻ trộm. Thiên hạ vô quán nhậu bàn chuyện thế thái. Chủ quán cứ cà phê đá nước đóng chai mà hầu. Ba vụ nầy thầy bàn thôi thì vô thiên vô lũng:
– Ê cha Sáu Trúc hay lắm nghe. Có biết vụ thằng Cường chôm cái khâu hai chỉ của con gái Ba Nhựt không?
– Có nghe nhưng không rõ. Đầu đuôi sao kể nghe chơi.
– Thằng Cường làm công trong tiệm uốn tóc của con Hằng con gái Ba Nhựt. Lúc gội đầu cho khách con Hằng tháo cái khâu để trên bàn. Con Hằng đi toilet ra thì cái khâu biến mất. Vậy là ầm ỉ lên cả tiệm. Ba Nhựt đích thân khám xét bọn đực rựa trong quán, con Hằng khám mấy con bươm bướm. Cuối cùng cấm tất cả ra khỏi tiệm Hằng phi vô Sáu Trúc. Nửa tiếng sau con Hằng về, nó đổ cái thùng rác tóc là lòi ra cái khâu.
– Mẹ ơi… biết thằng lấy không?
– Con Hằng nói thằng Cường.
– Sao khẳng định vậy?
– Con Hằng kể ông Sáu nói kẻ cắp chưa ra khỏi nhà. Cứ lục trong thùng rác là có. Và hể ai than đau bụng là người đó lấy. Quả nhiên sau khi tìm được cái khâu thì thằng Cường than đau bụng. Mày thấy linh không?
– Dữ vậy sao?
– Sáu Trúc hay lắm mày ơi. Ổng có âm binh theo phù trợ đó.
– Vậy là Năm Đầu Bạc có cơ hội tìm lại cái đã mất.
Ba Bướu kêu thêm xị rượu và lấy tay lau mồ hôi trán. Một thằng khác tiếp tục:
– Hay với linh cái con khẹc. Vụ đó hỏi tao nè. Con Hằng vô cha Trúc, nhưng mà có ngu cũng suy diễn ra chớ đừng nói gian manh như cái thằng chuyên sống bằng sự nhẹ dạ của kẻ khác như thằng Sáu. Tao hỏi mày. Ba Nhựt cấm tất cả không cho ai ra khỏi quán vậy thằng Sáu Trúc phải đoán vàng còn trong tiệm. Trong người không có thì kẻ cắp dấu vô thùng rác chớ vô đâu. Còn thằng Cường đau bụng là từ lúc sáng rồi. Tao chơi thân với nó nên tao biết. Thằng Sáu Trúc ăn ốc nói mò hên cho nó mà xui cho thằng Cường. Thằng Cường mang tiếng chôm cái khâu chớ thiệt ra biết ai lấy trong cái nhà cả chục mạng. Tao nghi là con Hằng ghét thằng Cường nên dàn cảnh để có cớ mà đuổi. Biết không? Thằng Sáu mà đoán ra ai chôm hai tờ vé số là tao đi đầu dưới đất cho mày coi.
Những tám giờ tối hông-đa ôm mới đưa Đầu Bạc về. Xe chạy qua quán nhậu mà không ghé. Cả bọn kêu chủ quán chế mì gói vừa ăn vừa lắng tai nghe. May quá thằng hông-đa trờ tới và chuyện gặp thầy bùa được tường thuật:
– Thầy Sáu thắp nhang, đầu quấn khăn đỏ múa may quay cuồng, hú hét một hồi. Ông nhập về ớn chết bà nội tao luôn.
– Ông nào?
– Ngài Quan Bình.
– Quan Bình là ông nào?
– Ai biết, biết chết liền.
– Ngài phán sao? Mày có nghe không?
– Nghe sao không mậy. Tao ngồi đó mà. Ngài nói hai tờ vé số hiện đang ở trong túi một người đàn ông, thân lắm.
– Rồi sao nữa.
– Hết.
– Hết lãng vậy?-
-Xí quên chung hai trăm tiền tổ nữa mới hết. Mà đzậy là quá rõ rồi. Người đàn ông mà thân lắm thì chỉ có thằng Tâm chớ ai vô. Mà ông Đầu Bạc nói với tao ổng nghi thằng Tâm trăm phần trăm. Giờ cha con ổng đang ỳ xèo ở nhà kìa… đó… đó… nghe không?
Cả bọn vểnh tai lên. Tiếng than trời trách đất dậy dậy lên. Rồi tiếng xô ghế, tiếng chân chạy rầm rập đi xem. Bên kia sông tay lái đò được một bữa kiếm tiền. Nghe thằng bán vé số kể đuôi đầu sự kiện người ta xúm nhau đi coi cho biết vậy mà. Chủ quán la bài hãi ê ê trả tiền mì gói nè mấy thằng ông cố nội.
Nghe động lớn quá công an và và xã đội cũng nhập cuộc để trị an. Ba cái linh tinh nầy không để mắt là lũ trời ơi làm bậy liền. Và trước mặt ba quân hình ảnh Năm Đầu Bạc tay cầm một bó nhang đỏ rừng rực, tay quơ làm loáng loáng màu lửa trong không gian đêm:
– Mày thề đi. Mày thề là không lấy cắp hai tấm vé số của tao đi. Mày thề trời đánh mày đi thằng quỷ dịch.
– Trời ơi là trời – Bà xã Đầu Bạc kêu lên – sao mà đau khổ quá ông trời ơi. Ông giết chết con đi ông ơi. Sao mà nhục nhã như vầy…
– Mày câm miệng lại. Tao giết mày chết bây giờ.
Nói xong Đầu Bạc chạy đến bên bà vợ cung tay lên như muốn cho cú đấm. Bà Năm sợ quá đâm đầu bỏ chạy, thằng Tâm rượt theo. Đúng là trẻ có khác, nó nhanh như sóc. Ngay lập tức bắt kịp và giữ cha lại. Nó kéo hơi mạnh tay nên hai cha con ngã sóng soài ra lộ. Tâm lồm cồm ngồi dậy. Nó đưa mắt nhìn cha và trời ạ – dưới ánh đèn đường – ba quân thấy máu hộc ra từ miệng Năm Đầu Bạc.
Rất vội vàng cả tốp bu lại đỡ Đầu Bạc lên. Mùi hèm và mùi máu hoà vào nhau nghe ra một vị khác thường. Thằng Tâm đứng như trời trồng. Mẹ ơi, cha nó mà chết thì nó phải chịu trách nhiệm à. Đúng lúc đó có tiếng la từ phía bờ sông. Tiếng của thằng Hưởng đò đạp:
– Bà Năm nhảy sông nè, lẹ lên, bà Năm nhảy sông nè các người ơi.
Thiên hạ lại quay đầu chạy, họ bỏ Năm Đầu Bạc lại cho toán cán bộ xã. Tâm dợm chân chạy theo nhưng Công an giữ lại:
– Mày ở đó không đi đâu hết.
Cũng đúng thôi. Nhỡ Đầu bạc chết nó trốn luôn thì sao? Còn bên ngoài sông thì có người ngoài đó lo. Nhưng ở bến sông không có điện. Thằng Hưởng kể nó đang ngồi trên đò thì thấy bà Năm nhảy xuống ùm một cái:
– Nước như vầy hà bá còn chết nói chi người.
Ở chỗ quán nhậu Ba Bướu vẫn ngồi tì tì rượu. Thằng Tâm bị điệu ra xã Bướu vẫn tì tì rượu. Lúc thằng em rể chồng cô Trâm đi ngang nói anh ba ơi anh Năm em chết rồi. Bướu nhìn nó rồi nâng ly làm một cái đầu gật gật. Nửa đêm bọn vớt xác bò lên quán làm mấy ly cho ấm người kể lại chuyện vớt xác:
– Chưa tới tám tiếng đồng hồ, từ lúc năm giờ chiều đến mười hai giờ đêm mà hai người chết một thằng có nguy cơ ngồi tù chỉ vì hai tờ vé số. Bà nội mẹ nó… thiệt là khó nghĩ hết sức à. Ai lấy hai tờ vé số của ổng vậy ta? Nếu là thằng Tâm thì chuyến nầy nó hỏng ăn rồi. Tạm giam một tháng là vé số hết giá trị. Mà tao nghĩ nó không lấy đâu?
– Nó không lấy. Tao cũng nghĩ vậy. Nhưng mà ai? Bà Năm thì tuyệt không rồi, lúc vớt xác bả lên hai con mắt trừng trừng tao sợ quá mày ơi. Là bả hận lắm đó. Thằng nào thó hai tấm vé số cũng không yên với bả đâu.
Quay sang Ba Bướu thằng vớt xác cất giọng đùa:
– Đúng là của nặng hơn người hả chú Ba?
Ba Bướu nhìn nhìn nhưng không trả lời. Rồi chả hiểu sao Bướu ư ử ừ ư
– Ba mươi tết ứ ư tết lại ba mươi ứ ư. Vợ chàng Ngô ứ ừ ư đốt tiền cho chú khách ứ ừ ư. Một tay em cầm cái dù rách ứ ư một tay em cầm cái chăn bông ứ ư… Một tay em cầm đồng tiền vàng ứ ư một tay em cầm thằng bù nhìn em ném xuống sông. Ứ ừ ư… tiền vàng nặng thì tiền vàng chìm, bù nhìn nhẹ thì bù nhìn nổi ứ ừ ư… ối ai ơi của nặng hơn người…
Cả bọn trố mắt nhìn Ba Bướu. Lúc đầu tưởng Bướu say, nhưng một lát Bướu cứ như bị ma nhập ư ừ ư suốt, rồi cười… cười… ha ha ha cười suốt. Cả bọn phải chạy lên cô Trâm:
– Anh Ba. Anh sao vậy?
Cô Trâm nhờ bọn vớt xác dìu Ba Bướu về nhà mình. Lúc để Bướu nằm lên giường cô lấy cái bóp trong tay Bướu cất đi. Tò mò cô mở ra xem thử. Trong đó ngoại trừ giấy tờ tuỳ thân còn có hai tờ vé số.
***
Nửa tháng sau thằng Tâm về, Nó chả có tội lệ gì trong cái chết của Năm Đầu Bạc. Huyết áp cao mà nốc rượu quá nên Năm bị tai biến vậy thôi. Thằng Tâm thân chinh đến nhà cô Trâm mà tạ ơn. Tôi nghiệp cô quá, đám ma ba má nó cô bỏ tiền ra lo chu toàn từ a đến â. Cô xây mã cho ba má nó đẹp tuyệt luôn. Cô tử tế đến vậy thì ơn nầy biết chừng nào trả cho xong? Cô nói với Tâm:
– Con lên đây làm việc với thím. Cứ cho hai đứa em mày đi học. Thím hứa sẽ lo cho em mày ăn học đến nơi đến chốn. Mày cần gì nói thím cho. Nghe không?
Tâm cảm động suýt khóc. Nó ra nhà sau nhìn Ba Bướu. Cô Trâm nhốt ông trong một cái củi. Bướu nằm và ư ừ ư ối ai ơi của nặng hơn người.
Người tử tế vậy mà bổng nhiên điên, tội quá thì thôi. – Thằng Tâm nghĩ thầm.
Nguyễn Trí
Category Archives: Nguyễn Trí
Những hành trình đơn độc
Đường. Hai mươi sáu tuổi. Đẹp trai. Luôn gọn gàng lịch sự kể cả khi ngồi trên dàn giáo để xây tô dán gạch chạy chỉ. Làm cái nghề tiếp xúc với vôi vữa mà Đường sạch bong. Đi làm cũng mặc áo trắng. Đường cũng trắng mới là kỳ. Đó là khi đi làm. Còn chiều về, Đường trên Honda ung dung ra quán ăn. Độc thân phải công nhận là sướng thiệt.
Chiếc 67 của Đường phải nói là dân chơi toàn quốc phải trầm trồ. Nó đẹp, bóng loáng và êm như mơ. Đang chạy bóp côn tay rồi nẹt, tiếng của nó nghe như tay ca sĩ nào đó đang nổi hét rằng xin lỗi em ngàn lần xin lỗi em. Dân chơi so sánh vậy chứ Đường thì không hề khoe xe ngon đâu nghe. Có dân chơi con nhà giàu xin mua lại chiếc xe những bốn cây vàng nhưng chỉ nhận được cái ánh mắt hững hờ của thợ hồ Đường. Nhiều em xinh xinh phụ hồ thích anh chở em đi chơi lắm, đi nhà nghỉ không chừng các em chịu luôn. Đường có lắm cái để các nàng xin kết trăm năm. Ngon lành nhất là công thợ, người ta ngày hai trăm rưởi Đường những ba trăm, chả ai dám so bì vì Đường quá giỏi trong lĩnh vực xây dựng. Người vậy không mê thì mê ai? Nhưng Đường vẫn lạnh như tiền.
Đường lại không bù khú nhậu nhẹt. Mười giờ đêm đã pho pho trên võng. Bốn giờ sáng ghé cà phê cóc làm li đen không đường đấu láo cùng chủ quán là Tư Thâu. Tư Thâu cũng độc thân. Nhưng độc của Tư khác với độc của Đường. Thâu vui tính, cười cười nói nói suốt, bà con gọi Tư Ba Lơn. Đường, ngược lại cả ngày không ra được mươi câu. Lại không rượu nên phục cho vô vài ly mà moi bí mật là dân chơi bó tay. Đường là dân tha phương theo công ty xây dựng đi từ Lạng Sơn đến Cà Mau. Rày đây mai đó nên ở xứ này mày muốn hay không nói cũng mặc kệ mày đi con. Uống cà phê quán tao là được rồi:
– Phẻ mậy? – Tư Thâu hỏi.
– Dạ phẻ chú.
– Đen hả?
– Dà… cho cái đen.
– Bữa nay chủ nhật không làm hả?
– Dà…
– Tao thấy tụi nó tăng ca cho kịp tiến độ. Mày chủ chốt lương cao không làm Thầu nó không cự à?
– Con xưa nay không làm ngày chủ nhật.
– Ngày của Chúa hả?
– Con đạo Phật.
– Tao hơi nhiều chuyện tí. Nói mày đừng buồn nghe.
– Chú nói đi. Con không dám buồn đâu.
Tư Thâu không cà phê. Rót cho mình một ly xây chừng rượu đế dầm chuối hột đen thui trước khi hỏi:
– Khààà…. quá đã rồi quy ơi… Tao nghe bọn thợ nói mày đêm nào cũng đi cà phê đèn mờ. Chủ nhật nào cũng ghé quán ôm. Tuần mày thu triệu tám xài vậy sao đủ con trai?
– Bọn nó biết gì chú Tư ơi. Con có chừng có mực lắm.
– Đêm nào cũng đi sức đâu chịu cho xiết mậy?
– Uống có chai nước thì mất mát chi chú?
– Mày làm như tao không biết ôm iếc với mát xa mát xiếc là chi. Chú mày đây rành lắm a con.
– Chú khác con khác. Con vô quán kêu chai c2, cho đào chai nữa ba chục ngàn là hết phép
– Mày tới ôm iếc mà vậy ai tiếp mầy lần hai?
– Ai biểu đến lần hai.
– Vậy mày đến chỉ để uống xê 2 thôi hả? Vậy uống ở đây cho tao nhờ. Mày nói tao nghe không lọt tai. Nói lại đi con.
– Chú không tin thì thôi.
Thôi thì thôi. Vậy rồi mạnh ai nấy uống cái mình thích. Nhưng Tư Thâu đã nói là ba lơn lắm. Yên lặng là không chịu được lại hỏi tiếp:
– Mày tính chừng nào lấy vợ?
– Chưa biết. Chừng nào xong việc rồi tính.
– Làm hồ biết chừng nào mới xong. Mà theo tao khỏi lấy vợ chi cho mệt mày ơi. Gái gú khối cha gì. Thích thì ăn bánh trả tiền cho nó phẻ.
– Cho hỏi chú một câu được không?
– Cứ tự nhiên.
– Sao ông không vợ con chi hết vậy?
– Làm nửa ly rồi tao kể chuyện vợ tao cho nghe. Chuyện tao không có tí men nghe không bốc đâu. Rượu của tao là nếp cái dầm chuối hột uống bổ lắm đa con.
Đường nâng cái xây chừng làm nửa ly. Cũng sành điệu lắm chứ không phải lơ mơ, chứng tỏ rằng với rượu ta đây không hề lạ, chẳng qua không uống mà thôi. Nhận cái ly Tư Thâu bước lại bên bình rượu múc đầy, nốc sạch rồi múc thêm ly khác đặt trước mặt bạn trẻ:
– Tao tù về ghé vô một rượu đế ôm, gặp một em ba mấy xuân. Em khóc lóc thở than về đời đen bạc. Nào yêu bị bồ đá. Bị cù rủ đi bán cà phê. Bị bán vô nhà chứa vân vân. Hết duyên ghé xứ ruộng bán cà phê ôm. Già quá bọn trẻ chê đành phải vô đế ôm bán cái xuân tình cho bọn già goá vợ… Thấy nàng khóc tao cám cảnh nên lôi về đây làm vợ. Tao phụ hồ nàng bán cà phê cóc. Chắc là nàng thấy tao hẻo quá nên lại bỏ ra đi. Buồn tình tao ở vậy nuôi thân. Mà mụ nội cha nó cái cuộc đời, tao vầy ai muốn bá vô mà trăm năm hả mày? Thôi thì rượu chuối hột muôn năm. Còn mày? Làm thêm ly nữa đi. Mày theo công ty nầy qua mấy tỉnh rồi?
– Chừng chục tỉnh chú ơi. Nhưng nước mình là tui có mặt khắp rồi đó nghe. Chiếc 67 nầy theo tui đi cùng hết. Tui đang kiếm mớ tiền phi qua Thái lan cho biết. Ba cái đèn mờ bên biên giới Trung tui cũng đến rồi nghe.
– Mày qua mấy xứ đó để tế ông tế bà tao à?
Đường làm cạn ly rồi thở dài:
– Tui đi kiếm người chú Tư ơi.
– Kiếm ai? Vợ bỏ theo trai hả?
– Tui kiếm con em gái.
***
Em gái Đường tên Đi. Người quê họ đặt tên con vậy cho dễ nuôi. Nhà có hai anh em nên cha má yêu lắm, nhất là cô con gái. Đường vẻ ngoài trông hiền nhưng quậy lắm. Lợi dụng gia đình nghèo khó, lớp năm tự nghỉ học. Mười tuổi phụ cha mẹ trong tất cả mọi việc kiếm tiền cho Đi học hành. Mười lăm tuổi Đi vào lớp mười. Năm đó Đường hai mươi tuổi và có một bề dày trong nghiệp làm hồ những bảy năm. Sỡ dĩ cho đến hôm nay Đường là thợ chiến đấu là nhờ biết cầm cái bay xây tô từ năm mười bốn tuổi. Một mình Đường đủ nuôi cả nhà ăn ngon mặc đẹp. Ông cha bà má lại chịu thương chịu khó nên tuy không ruộng đất nhưng vẫn cấy hái thuê. Đi đến trường chả thua chị kém em một lai nào. Cô lại có cái nhan sắc hơn tất cả.
Một hôm kia Đi không về.
Đường đang trên dàn giáo phải tuột xuống và suốt cả tuần sau đó là một cuộc truy tìm cô gái nhỏ. Đường và cha má đích thân lên tận huyện báo về vụ mất tích nầy. Nhà trường cũng báo rằng hôm ấy Đi có đến lớp và cùng bè bạn ra về sau tiết cuối. Đi đâu? Làm chi ngoài cổng trường làm sao nhà trường quản lý được? Công an bảo gia đình bình tĩnh, yên tâm. Tất cả đang làm hết chức năng của họ để truy cho ra cô gái. Nhưng. Cô bé vẫn bặt tăm.
Đúng một tháng bà má tội nghiệp đổ bệnh. Và rồi buồn quá. Làm sao mà không buồn, không âu lo, không cháy bỏng ruột gan khi đứa con gái bé bỏng mẹ yêu như trái tim mẹ nay không thấy bóng hình. Bà má kêu gào thảm thiết Đi ơi con đâu? Con đâu rồi? Làm sao má sống được con ơi. Bà cứ kêu suốt và chẳng ăn uống chi. Một tháng như vậy và bà chết. Kế tiếp là ông cha. Con gái mất. Vợ chết tức tưởi. Buồn quá ông nâng chai thuốc trừ sâu và đi luôn. Đường về nghe mùi thuốc nồng nặc khắp nhà. Cái nhà đang hạnh phúc đề huề bổng tan tành theo kiểu thê lương nhất:
– Trời ơi – Tư Thâu kêu lên – Bi thiết vậy sao? Không ai biết con nhỏ đi đâu à?
Đường lau nước mắt:
– Con đau khổ suốt sáu năm nay rồi chú. Con phải tìm cho ra con nhỏ. Truy cho ra căn nguyên con mới chịu. Một con bé mười lăm tuổi cả đời ở quê, lại ngoan hiền, học giỏi. Nếu có chết thì phải có xác chớ. Đúng không? Vậy là con tìm đến nhà thằng Bảy Tài.
– Bảy Tài là thằng nào?
– Thằng nầy kiếm tiền bằng cách mối giới gái quê lấy chồng ngoại.
– Nó bảo sao?
– Nó nói tao môi giới chứ bắt cóc thì cả tấn vàng cũng không dám. Vậy là con tìm đến nhà bà Chín Bông…
Chín Bông là em gái Tư Lài. Tư Lài là vợ của cựu phó chủ tịch huyện về vườn vì tiêu cực chi đó. Chín Bông bốn mươi tuy không chồng con nhưng bồ bịch qua cũng dăm bảy xác đàn ông. Lúc nào cũng là lượt thơm phức mùi nước hoa và móng tay mỗi ngày một màu sơn. Chín Bông sống bằng cho vay và cũng có môi giới hôn nhân như Bảy Tài:
– Em mày hả? – Chín Bông cong môi – làm sao tao biết? Mày hỏi tao là ý gì vậy?
Bực quá Đường gằn giọng:
– Em tôi mất tích, ba má tôi chết. Hỏi vậy có sao không?
Vậy là mồm loa mép giải Bông lô loa lên kiểu cả vú lấp miệng em. Nào ý mày là tao bắt cóc chớ gì? Ê nói phải có bằng chứng à. Không là tao xé mặt à. Đừng có ghẹo tao nghe con vân vân… Đang lúc đủ thứ bực Đường điểm mặt cái loa phóng thanh:
– Nếu em tao không chết sẽ có ngày tao truy ra nó. Đến lúc đó bây đừng trách tao.
– Tao thách mày đó. Cứ truy đi. Có chị mới sợ em ơi.
Vậy rồi gom góp hết tất cả có trong nhà Đường mua chiếc Honda 67. Anh bắt đầu một cuộc rong ruỗi đầy bắt trắc và hiểm nguy để truy tìm cô gái tên Đi. Đường xin vô công ty xây dựng nầy để nhờ vào tính luôn luôn di chuyển của nó. Ở bất cứ nơi nào Đường cũng tìm đến những quán đèn mờ, những khu vực mát xa thư giản. Đó là lý do đến xứ nầy đêm nào, chủ nhật nào Đường cũng đi như một thằng biến thái. Anh kêu chai nước, cho một cô bất kỳ chai nữa. Đến mát xa anh chung tiền vé phòng. Cho phục vụ tiền xoa bóp thông thường còn đặc biệt thì không. Có hao tốn một tí nhưng Đường chịu được nếu tính toán kỹ. Chỉ duy một mục đích tìm em gái:
– Sáu năm rồi chú Tư. Con đi từ Bắc vô Trung vô Nam qua cả K cả Lào mà đến nay vẫn bóng chim tăm cá chú ơi.
– Hay là nó chết đâu đó rồi?
– Nếu là vậy con đỡ đau khổ hơn. Tưởng tượng một con bé mười lăm tuổi bị bắt làm nô lệ tình dục là con đứt từng đoạn ruột chú ơi.
– Mày cứ xem như nó đã chết cho lòng yên ổn hơn.
– Nhưng con biết em con chưa chết.
– Sao mày biết?
– Con linh cảm vậy. Và linh cảm em con đang bị đày đoạ.
Tư Thâu chép miệng:
– Mày cứ tưởng tượng cho cố vô rồi tự khổ với cái tưởng của mình. Chú Tư của mày đây rành đời lắm con. Chú mày biết rất nhiều nhỏ cũng bị sa vô bùn nhưng rồi bình thường hết con ơi. Mày qua nhiều xứ có thể rành hơn tao. Cái gì rồi cũng quen hết con à… Tao hỏi nè. Nếu gặp lại em gái mày sẽ làm sao?
– Chắc chắc con sẽ đem nó về để làm lại cuộc đời.
– Tao mong mày gặp lại em gái. Thành thật mong… Mà thôi… làm ly nữa đi con.
Hai tháng sau Đường từ giã Tư Thâu dù công trình chưa hoàn tất. Anh đi vì tất cả những quán đèn mờ và mát xa ở khu vực lân cận đã sành. Đường dễ thương và sành điệu nên khi đi cũng có vài tiếng thở dài của đủ thứ tình đưa tiễn. Tiếng thở của Tư Thâu dài nhất.
***
Và sáng hôm nay cả quán cà phê cóc Tư Thâu dậy sóng ba đào. Nguyên nhân của cơn sóng bắt đầu từ bản tin của một tờ báo. Mà không. Cái hình in báo mới làm cư dân trố mắt ngạc nhiên. Cái mặt của kẻ thủ ác Nguyễn Văn Đường chình ình trên trang nhất. Nếu không có cái hình nầy chắc dân đây cũng chẳng biết chi. Xưa nay báo chí xứ ruộng nầy người ta mua ký về làm công chuyện chứ ai hơi sức đâu mà đọc. Tờ báo được chuyền tay. Mẹ ơi – ai cũng chép miệng – cái thằng ngó hiền hiền vậy mà giết một lúc cả hai mạng người. Ghê quá trời đất ơi. Dã man nhất là kẻ thủ ác đã dùng dao Thái đâm người đàn bà tên Bông nhũng mười một nhát. Bài báo không nói chi tiết. Nhưng kẻ thủ ác bị bắt tại trận. Con em gái nó khóc như mưa.
Tư Thâu rúng động toàn thân. Già tội nghiệp vội đóng của quán gom ba đồng bạc vụn leo lên xe buýt. Qua xe đò, qua phà, qua luôn cầu dây văng mò đến cái tỉnh nơi có cái ấp kẻ thủ ác sinh sống để tìm hiểu ngọn ngành. Nhưng mà tội trạng lớn quá người thân còn không được thăm gặp nói chi người dưng nước lã. May quá. Người ta chỉ cho Tư Thâu cô gái tên Đi em ruột của Đường. Cô gái ngụ trong ngôi nhà te tua xơ mướp. Ngoài nhìn thấu trong và cả nghìn bóng nắng hình hột vịt lỗ chổ khắp nhà. Tuy nhiên nó được quét dọn rất sạch:
– Con là Đi đây hả? – Tư Thâu hỏi.
– Dạ. Chú ngồi chơi.
– Chú thân với anh con lắm. Anh con có tâm sự với chú về con, về ba má con cho chú nghe. Anh con nói đi tìm con cả bảy năm rồi. Thằng Đường gặp con ở đâu?
Cô gái nói cô được giải thoát khỏi bàn tay bọn buôn người xuyên biên giới. Cô được đưa về nhà và gặp anh trai và hay rằng cha mẹ đã mất. Cô dại dột tâm sự với anh trai rằng cô bị Chín Bông cù rủ ra thị xã rửa chén cho quán ăn kiếm tiền cho niên học mới. Ai ngờ cô bị đưa đến nhà anh rể của mụ. Thằng già dịch biến thái đã phá hoại đời con gáí của cô. Cô bị làm nô lệ tình cho hắn suốt một tháng. Sau đó mụ Bông đẩy cô ra biên giới và từ đây cô bắt đầu đời lưu lạc.
Đường nghe xong và chuyện đã xẩy ra. Cô gái thút thít:
– Con muốn chết quá chú ơi. Sao mà con dại dột quá. Anh con liệu có bị tử hình không chú?
– Chú không biết.
Và trong căn nhà vắng lặng một già một trẻ cùng nhau khóc. Trời ơi – Tư Thâu rấm rứt – Có ai ngờ sáu năm vất vả ngược xuôi để có được một phút gặp gỡ rồi lại phải thế này sao hỡi trời cao?
Nhưng trời cao ngất.
Nguyễn Trí
Thiên Đường Ảo Vọng
Để trả lời cho câu hỏi nơi nào con người ta tập trung đông nhất trên thế giới? Câu trả lời chắc chắc là phố lớn, sân ga, bến tàu, bến xe hoặc chợ. Vâng, chắc chắn thế. Nhưng chỉ đông thôi, còn nhất thì không đâu. Đông nhất ư? Xin thưa với cả thế giới rằng chỉ có trên những bãi vàng.
Nhưng đông nhất thì không một bãi nào qua nỗi bãi Suối Bến Tỷ. Giang hồ các nơi đua nhau về đã tuyên bố thẳng thừng như vậy. Hiếu Râu, tay chơi sừng sỏ bãi Tà Inh có trong tay vài ba mươi em út đã khề khà trong một tiệc nhậu cùng vài đàn anh khác rằng:
– Sư bố nó, tao chưa thấy bãi nào đông và bẩn thỉu như bãi nầy. Tà Inh không nghĩa địa gì.
Mặt lạnh như tiền, tay chân gân guốc, và là một võ sĩ chính hiệu, đàn anh bãi Êzimbar với tên gọi rất Tây – Kaxim – Cũng góp chuyện:
– Nguyên cả huyện Chuprông gộp lại chắc bằng một nửa ở đây.
Và các tay chơi khác như Năm Phúc ở Khâm Đức. Chấm Ba Ke ở Lí Lịch. Phú Râu trùm bãi Suối Ty. Nói chung các yêng hùng của tất cả bãi vàng có tên và không tên trên đất nước nầy đều hội tụ tại Bến Tỷ, và đều ngỡ ngàng trước cái bạo liệt. Bạo liệt đến mức không tưởng tượng được.
Có đến Suối Bến Tỷ người ta mới biết thế nào là mãnh lực của lời đồn đại. Bộ lục tài tử không thể ngờ, câu lành đồn xa, dữ đồn xa, tiếng dữ đồn năm ba ngày đường, chả bì được với đồn đoán của ma lực vàng. Một tuần sau khi Hiền Què có mặt, khu vực quanh Một Chặng đã có trên trăm người ở các vùng lân cận chiếm cứ. Nhưng sau đó thì như sóng thần, không hiểu từ đâu con người ùa vô đông đến thế. Mọi sinh hoạt thường nhật của Ấp Suối Bến Tỷ bị đình trệ. Người ta vất rẫy ruộng sang một bên. Đầu đội mâm, vai vác máng, lưng đeo ba lô, thẳng tiến. Từ một chặng đến bảy chặng con suối bị chia cắt, được đắp lại để dành chỗ đãi. Bấy giờ là tháng tư âm lịch. Mùa mưa chỉ mới chớm, nước đang lừ đừ trôi bởi hạn bà chằng, bị tắt giòng bởi sự xâu xé của con người.
Con người khác loài thú ở chỗ có suy luận. Ai cũng biết nước dưới đất chớ đâu. Vậy là xà beng cuốc xẻng họ âm sâu xuống lòng con suối. Không quá mười ngày dòng Bảy Chặng đã hóa hầm hố suốt một chiều dài tròm trèm cây số. Hầm chứa nước sát nhau hơn cả vợ chồng trên giường ngủ, và tiếng máy nổ của tất cả các loại mô tơ đưa nước tập trung vào một hầm cố định cho bộ sậu trong băng của mình xổ và đãi.
Xin kêu lên hai tiếng trời ạ cho hầm ở Bến Tỷ. Với diện tích trên dưới hai mươi vuông. Mỗi hầm chí ít là ba, bốn nhân mạng. Không đâu trên thế giới, kể cả trong những phim cao bồi Mỹ mật độ hầm vàng dày như bãi Bến Tỷ. Hầm nầy sát hầm kia bởi một ranh hai mươi phân. Cái đặc biệt của bãi nầy không giống bất kỳ đâu. Qua khỏi lớp đất mầu là đụng lớp sạn cốm có sa khoáng vàng. Lớp nầy chỉ dày chừng khoảng hai mươi phân. Và với diện tích chừng ấy, cho bốn năm người làm thì rất nhanh chóng phải di dời để đi khui hầm mới. Rất nhanh chóng, mảnh đất vốn hoang hóa, nay hoang tàn, như vừa đi qua một trận cày xéo của bom đạn rãi thảm trong chiến tranh. Thiên hạ đổ xô vào những khu đất lân cận, vào trong những cánh rừng. Chủ đất đành bó tay trước lượng người đông như kiến cỏ. Chủ rừng cũng bó tay chịu trói. Súng ư? Đại bác – nếu có – cũng không hề làm chi được với người là người.
Vô vàn những dịch vụ mua bán phát sinh. Vài nghìn người trên một diện tích chục rưởi hecta. Mọi cái sinh hoạt đều vin vô giòng Bảy Chặng. Suối tắt nước, cả cái súc miệng còn là vấn đề nói chi nấu ăn. Vậy là bầy đoàn thiếu nhi, trên xe đạp từ chợ Bến Tỷ a la xô vào suối Rua Tà, con suối nầy cách Bảy Chặng chừng hai cây số. Dộng đầy can năm lít rồi phi vô bãi. Mỗi can được bán với giá cắt cổ bằng dao lụt, bị cứa đau cỡ nào cũng phải mua mà nốc. Đói thì còn nhịn được, còn khát thì em xin thua. Nhưng mà nước hay vàng mà đắt giữ mấy em? Trời, làm vàng mà sợ gì anh hai? Bãi nầy vàng cục anh bắt sống một em là lên liền, ba cái nước non nầy nghĩa địa gì anh ơi.
Hai từ bắt sống cũng từ đây mà ra. Đang đào, một viên vàng chóe rơi ra. Không phải một mà một chục em đã được vậy. Có em được cả thỏi hai cây vàng. Hiền Què là một trong những em đã được trời ban mưa móc. Nhưng Hiền cũng không so được với cha con Chín Mập. Chín được một thỏi to bằng bàn tay, cả mấy chục cây vàng, không tin cứ trực tiếp hỏi thằng Thanh chủ tiệm vàng Ngọc Chưởng là rành.
Lạ quá. Không hiểu vì sao dưới cái nắng như thiêu đốt. Nếu ở một môi trường làm việc khác chả ai điên mà phơi thây. Nhưng ở bãi, bầy người như một lũ điên. Mũ phớt, nón cối, nón lá, đầu trần, đầu trọc… họ chăm chỉ vô công việc của mình không thể mẫn cán hơn. Chủ hầm nào tích trữ được nước thì đãi. Kẻ không có thì dùng búa và đe cứ từng viên sạn cốm một họ ghè. Viên nào vỡ là đá, viên nào bẹp là vàng…Ô! vô rồi, tớ vô rồi. Tau cũng vô. Viên ni của tau được năm phân…. Đủ thứ Nam Trung Bắc hò reo hớn hở. Và cả nghìn âm thanh cùng một lúc phát tiết. Bãi ồn ào suốt cả ngày lẫn đêm. Tiếng động vang xa nhất, dữ dội nhất là tiếng pháo (1)
Tiếng đẹt đẹt đùng, đẹt đẹt đùng, tỏ rằng hầm của ai đi đó đang vô mánh. Mánh lớn pháo, nhỏ cũng pháo luôn. Pháo nổ suốt từ mờ sáng đến mờ sáng không lúc nào ngơi nghĩ. Bãi đông vui, đảm bảo không hội hè nào trên thế giới vui bằng. Cả đấu bò Tây Ban Nha cũng xin thua bãi vàng Suối Bến Tỷ.
Giang hồ kháo nhau:
– Băng Năm Phúc vô ba chục cây bên khu vực Đám Đậu, nó cho thằng chủ đất hai cây. Cho anh em một chầu linh đình toàn bia lên cơn (2), say quắc cần câu đại luôn. Hĩa tăng bo cho tao một tháng lương ăn, không có hĩa chắc bọn tao về nước sớm quá. Công nhận Năm Phúc chơi được.
– Mày mo hả Kaxim?
– Ừ… Đù má chưa thấy bãi nào khắc nghiệt như Bến Tỷ nầy. Thằng nào vô là tỷ phú, thằng nào mo là ăn mày còn khinh. Mẹ nó, tao đi từ Phú Bổn xuống đây phải xin tăng bo, nhục không chịu nổi. Còn mày sao, Phú Râu?
– Tao hơn chó gì mày, có bao nhiêu bên Lý Lịch anh em tao nuôi lại dân đây hết rồi. Tao đang tính quay lại Lí Lịch, Nhưng đi ngang đám đất của thằng Bá Điệp, tao tính nói tụi nó cho xin tí đất khui hầm. Mày theo tao cho có khí thế được không?
– Tao cũng kết lô đất đó. Được. Chơi thì chơi, tao sợ gì ai. Nếu cần tao biến về Êzimbar .
Ủa? Sao kì vậy? Sao lại mo? Sao phải đi xin lương ăn? Chớ ai trúng? Thì con người chớ ai. Kẻ trúng đó, người mo cũng đó luôn. Không thấy bên bộ lục đó sao? Một trăm mâm mới có một mâm được. Nghĩa là sác xuất một trên một trăm và cái mâm có vàng rất nhiều khi chỉ một chấm. Còn kẻ trúng lớn là ai? Năm Phúc, Chín Mập. Ai nữa? Thêm khoảng vài mươi em trong đôi ba nghìn người. Một loại người trúng lớn kế tiếp là đàn bà con nít dân sở tại. Họ tha hồ gồng gánh vào bãi bán đủ thứ cái ăn chơi.. Thứ chi vào bãi cũng sạch bách. Dân đãi vàng không chuyên nghe đồn rằng tương lai chỉ trong một mâm, liều một chuyến, và hầu hết là như trẻ chơi diều nhưng dây bị đứt.
Tuy nhiên đến lúc ấy, bộ lục tài tử vẫn còn giữ được năm hec ta đất của mình.
***
Thứ nhất. Sáu em nhưng bốn đã là dân sở tại. Chỉ có Bình Võ và Lâm Quân Sư là tạm trú. Thấy Tùng Hí, Cường Linh lúc nào cũng ngà ngà men, tay quơ rựa ngọn bọn tha phương từ bụi đến không bụi nhìn qua là ớn, làm chi dám mè nheo hay sách nhiễu. Cả thằng chủ đất, ghé qua xin cho bọn em một miếng bốn vuông, nếu có, ít nhiều gì chúng em xin dâng các anh một nửa. Không. – Bá Diệp gằn giọng – Tao làm rẫy không làm vàng, thằng nào ghé vô tao đâm chết mẹ thằng đó liền. Miệng nặc mùi hèm, tay rựa ai chẳng ngán.
Ngán nhất là mấy anh Công an cùng lực lượng cơ động phối hợp với kiểm lâm tuần tra suốt ngày đêm. Loa phóng thanh yêu cầu tất cả trật tự, cấm người vào rừng khai thác bất hợp pháp… Nhưng, tình thiệt mà nói, có mở hết công suất loa vẫn không qua tiếng ồn ào của người và tiếng pháo. Dù sao những chiếc áo xanh mầu ô liu vẫn cứ làm tha phương e dè. May cho bộ lục là họ thường đến chòi của cả bọn để đấu láo. Điệp đắc ý :
– May mà có mấy thằng bạn tao, bằng không mình cũng chết.
– Chưa đâu – Lâm lắc đầu – Sẽ đến lúc cả chính quyền cũng bó tay chịu trói.
Bình lên giọng:
– Đứa nào lì là tao cho direct thẳng vô mặt, mày yên tâm đi.
– Mày từng trên bãi vàng mà ngây thơ quá, rồi mày xem. Khi dân bụi đời ra tay mày đâu có đủ trăm tay để đánh trăm thằng. Ngay bây giờ mà chức năng của công quyền, chỉ một việc là ngăn không cho dân vào còn không được, thì đuổi họ ra là không thể. Rồi họ tràn vô đất mình là tất yếu.
– Nếu như vậy thì ta làm sao?
– Đành chiụ thôi, giữ được lúc nào hay lúc đó, nếu trường hợp xấu nhất xẩy ra thì cứ mỗi thằng dành lấy một diện tích, đến lúc đó tao e là cũng mạnh ai nấy làm.
Nhưng sự việc lại diễn biến theo một hướng phức tạp hơn. Nguyên nhân là do vợ của Cường Linh. Nghe em trai Hiền Què kể chồng mình ngu như bò, là vong ân bội nghĩa… Khổ như con chó được gia đình vợ cưu mang từ Trung vào, nay nghe lời bọn du thủ du thực, có miếng đất trong bãi vàng mà không cho em vợ lấy một mâm mà đãi… Nghe qua Ngọc điên gan, tháp tùng với bà mẹ vào tận bãi và bà mẹ mồm loa mép giải đã mắng con rể, không một từ chợ búa nào mà bà chả văng.
Mà cũng phải cảm thông cho họ. Trong khi thiên hạ trúng rần rần. Ngay cả Công an làm nhiệm vụ trật tự cũng trúng cả hàng trăm cây…Mà vụ nầy là có thật một trăm phần trăm à. Nó làm chấn động toàn bãi Bến Tỷ, đến trơ như đá cỡ Lâm còn đến để mục kích một vụ trúng vàng vô tiền khoáng hậu, và sau đó ngay cái nơi không ai ngờ tới có tên đồi Công An đã bị dân tha phương băm nát đến từng viên sạn một.
Chuyện đơn giãn là đào lỗ cột dựng chòi, cái lỗ nhỏ xíu đã cho một thỏi ba chỉ. Mấy anh biết nơi đóng quân có vàng nên vội ra tay. Với diện tích không quá mười vuông. Vì địa điểm nơi mấy anh đóng chốt là đồi hoang, giang hồ không ai nghĩ có vàng, nên mới ra cái hầm lớn ngần ấy. Vậy là bổi đào lên nhưng đổ thành một đống. Một máy cày có rờ mooc hiệu Jhon-deer, kéo ra suối Rua Tà mới có nước để xổ và đãi.
Hai rơ-mooc đất thu hút hiếu kì lại xem chơi. Và một cuộc đấu giá cũng không kém phần hấp dẫn được bày ra ngay tại suối. Ba Sơn. Một xì thẩu nổi tiếng về đất đai tại Bến Tỷ. Thanh, chủ tiệm vàng, và thêm vài anh mà mức độ giầu tiền cũng lừng lẩy đều hội lại và định giá đống đất. Ba Sơn xướng:
– Một chiếc máy cày Kubota.
Ái chà chà. Vậy là tương đương bốn cây vàng. Ngon quá. Nếu mo thì Ba Sơn có mà khóc hận. Không phải vì tài sản mất, với Sơn chiếc máy cày chả nghĩa địa gì. Nhưng lỡ mo ta bà sẽ cười chê rằng giàu mà còn ham, cho đáng kiếp. Nhưng cái gan của Ba Sơn, không qua Út Hiền. Hiền là chủ của chiếc Jhon-deer chở thuê. Mộng làm giàu của Hiền hơi lớn, tuyên bố rằng:
– Tao đổi chiếc Jhon-deer.
Toán Công an giật mình tức khắc. Họ đưa mắt nhìn nhau. Và giá được Thanh, chủ tiệm vàng Ngọc Chưởng đẩy lên:
– Mười cây.
– Mười lăm cây. – Quang tạp hóa ra giá
Kinh khủng quá. Một đống đất cả một gia tài.
Nhưng toán Công An lắc đầu. Được ăn cả ngã về không. Đồng ý mười lăm cây quá lớn, như lỡ nó hơn thì sao? Một hai cây còn đứt ruột nói chi năm hoặc mười cây. Vậy là họ từ chối cái giá và đem máy Kohle 4, cùng ống bốn mươi, loại ống tưới cà phê, xịt nước thẳng vào đống đất, và vàng lóe lên dưới ánh mặt trời.
Một tay bán hàng rong có sáng kiến đặt ra giữa nơi xổ, một cân đồng hồ hiệu Nhơn Hòa. Và cứ có viên nào toán Công an bỏ vào cân viên đó. Đống đất trôi đi, vàng đọng lại. Cuối cùng chiếc kim trên cái cân nhích qua con số tám. Tám kí lô. Là bao nhiêu cây vàng hỡi trời cao? Đừng hỏi trời, vụ nầy con người ta rành rẽ. Mỗi kí lô hai mươi sáu cây hơn. Nhân lên cho tám. Cả Bến Tỷ rùng rùng dậy sóng. Lạnh lẽo cỡ như Lâm mà còn bừng bừng phấn khích:
– Có lẽ từ đây đến lúc chết không còn cái gì làm tao ngạc nhiên được nữa.
Vậy nên bà má vợ cho thằng con rể là ngu đần cũng phải. Ỷ thế có tuổi, bà già chửi cái lũ rủ rê con bà đến tắt bếp, và kết luận yêu cầu chia đất ra cho gia đình bà. Đúng là chí có lớn đến bao nhiêu cũng không qua cái váy đàn bà. Thôi thì năm mẫu sáu thằng, bọn tao chia cho mày một mẫu đó Cường Linh. Cứ ra đo mà rọc ranh. Một bề một trăm mét rồi cố mà giữ nghe, có chuyện gì xin đừng kêu bọn tao, có vàng cứ giàu một mình. Nói thiệt nghe, không vì anh em mày bãi không bể ra sớm như vầy.
Cường Linh lủi thủi đi.
Đến phiên Tùng Hí và bầu đoàn bên vợ. Thôi cho mày một mẫu luôn đó. Mày thì chơi được nên có gì chia bọn tao tí rượu uống vui chơi. Bộ lục còn lại bốn, mỏng cánh chuồn nay rách te tua. Đã vậy thiên hạ trúng vàng trên diện tích nhỏ xíu, còn mình mo trắng mới chết cha. Bên bàn rượu, anh em chia nhau cơn buồn:
– Thật là buồn cho thằng Cường – Bá Điệp than thở – Nó quá sợ vợ.
Lâm:
– Ai cũng vậy thôi. Bốn phương tám hướng gì rồi cũng về với vợ con… Ê mày đốt lửa làm gì vậy Ngọc Sún?
– Em đốt phong long. Xui quá nên em xả.
– Xã cái mụ nội mày. Muốn xả thì đi ra Điểm Hẹn kìa. Bày đặt mê tín.
– Toàn bò bướu ở Điểm Hẹn, lơ mơ không dám vô đâu anh ơi.
Điệp văng tục :
– Mẹ nó… Thăng Năm Phúc mạnh hơn cả đại bác.
Ồ, nói chi dân thứ thiệt. Từ Khâm Đức tuốt ngoài Quảng Nam, Năm ta lôi vào cả ba mươi em, mặt đen ngòm có ngầu. Vừa mới tra cuốc vô khui hầm Năm vô mánh lớn cả ba mươi cây. Đúng là khi có tiền, nói câu nào nghe cũng linh. Kẻ theo cung phụng Năm toàn dân có máu mặt. Vậy là Năm lệnh cho dưới trướng dựng ngay trên mảnh đất mình trúng vàng, một căn ngang bẩy, dài hai mươi mét. Và trở thành chủ nhân của Điểm Hẹn. Một quán đặc thù kiểu Mỹ với rượu trà cà phê thuốc lá, có Bia Lên Cơn tục gọi của loại thức uống có cồn có ga, tên Vitamen. Trên hết là gái gú phục vụ dân chơi xa nhà. Tất nhiên phải có vàng mới có thể vào Điểm Hẹn. Giá cả các thứ gấp năm lần ở chợ Bên Tỷ. Nhưng có vàng thì dân chơi nào có sợ chi. Và đêm cũng như ngày, không lúc nào quán không đầy ặp khách. Họ đến để nghe tiếng đú đớn của em gái thân yêu.
Bãi Bến Tỷ không sâu, xa và cao như nhưng bãi khác. Từ khu vực dân cư đến bãi không quá năm cây số. Lết bộ chỉ một tiếng là tới. Nhờ vậy nên gái gú ở các quán không tàn như những bãi khác. Em nào cũng xinh mơ, thơm ơi là thơm. Anh là thằng đó đây bốn phương tám hướng, là dân đãi vàng, làm trầm, làm đá quý. Tiền trong tay anh là giấy. Em uống với anh vài li để giải cơn buồn. Và ai cũng biết rằng khi uống rượu mà có người đẹp rót hầu thì hạnh phúc nào hơn? Hạnh phúc mà mua được bằng tiền thì có đắt một tí cũng chả sao. Có câu nhất chơi tiên, nhì giỡn tiền, quá xá đúng… Nhưng đừng có bày đặt phê lên mà quậy quọ à. Đừng có đùa với anh Năm, để có cái danh Năm Phúc không dễ đâu mấy em. Ngoại trừ lính tráng có số má, anh Năm còn biết chơi với công quyền nữa đó.
Và để phục vụ cho cả nghìn người, một Điểm Hẹn là không thể. Những cái tương tự mọc lên, tên gọi cũng đẹp nào Gợi Nhớ với Thương Hoài. Máy phát điện chạy xăng hiệu Honda cũng cho ra lập lòe xanh đỏ tím vàng. Người đẹp dưới ánh đèn blacklight đẹp như thiên tiên giáng thế. Biết sao bây giờ? Nơi nào có mật mỡ ắt là ruồi bu đến. Và ruồi. Trời ơi ruồi.
*****
Đố một câu nghe chơi. Ở đâu ruồi nhiều nhất ?
Bãi rác chớ đâu. Sai rồi. Ai cũng nghĩ thế, chắc chắn thế. Nghĩ và mục sở thị là hoàn toàn khác xa nhau, ở bãi rác người ta luôn có hóa chất diệt ruồi, nên dù có cũng không nhiều đến độ kinh hoàng như ở bãi vàng, và bãi Suối Bến Tỷ là đệ nhất ruồi.
Ở tất cả các bãi vàng có hai thứ khó đuổi nhất là con người và ruồi. Con người thì khỏi nói rồi. Khi truy quét, lực lượng công an với súng ống đạn dược đầy đủ. Họ vào bãi và mâm máng được thu gom lại để tiêu hủy. Con người được lùa ra khỏi nơi khai thác. Nhưng công quyền vừa khuất bóng là họ lại lục tục trong rừng bò ra làm tiếp. Vài hôm sau bãi lại đầy đặc như… Ruồi.
Cũng đừng có ngu mà hỏi ruồi ở đâu nhiều vậy? Hãy nhìn đi, trên một diện tích bé tẹo mà người là người. Họ ăn đó, ngủ đó, tiêu tiểu cũng đó luôn. Cái hầm hai mươi mét vuông, trú ngụ bốn người. Buồn ngoài có muốn đi cũng chả biết đi đâu. Thôi thì cứ tại chỗ mà xã rồi lấp đất lại. Cả đàn bà con gái còn vậy nói chi đàn ông con trai. Đó là ban ngày, còn ban đêm? Kệ mẹ chúng mày, bạ đâu ông đi đó. Còn bà? Bà xã trong túi nilon rồi ném vô tội vạ về bất cứ đâu. Vâng. Có sống trong không khí khắc nghiệt của bãi mới biết sức gan lì chịu đựng của con người. Cái mùi đặc trưng của phân người phơi khô và nước tiểu sực lên khắp bãi. Và đó là môi trường để ruồi sinh sôi nẩy nở nhanh nhất thế gian. Muốn biết nhiều thế nào hãy ghé một cà phê dã chiến vào buổi sáng là biết ngay.
Quán dã chiến nhiều vô thiên lũng. Chủ quán đều là dân sở tại. Lời nhiều nên họ ham lắm. Với lại từ khi bể bãi cả con nít Bến Tỷ cũng vắng nói chi người lớn, phố như chùa Bà Đanh. Vào bãi mỡ quán thôi. Loại quán nầy là nơi tập trung giang hồ thất cơ lỡ vận. Những kẻ không biết trúng là chi. Ở bãi họ lang thang đến các hầm đang trúng xin một mâm cứu đói. May, vô dăm ba phân một chỉ có cái mà hy vọng vào ngày mai. Loại này không có cửa để vào Điểm Hẹn. Ăn uống khổ như tù. Sáng ghé quán cóc làm cà phê đen đấu láo và đuổi ruồi. Lưng áo ai cũng dày ruồi như đậu đen. Loại sinh vật nầy khoái mồ hôi dân bãi lắm. Hãy tưởng tượng một phu bãi, ngày lăn lê bò toài trên đất, chiều về tắm nước sình là may mắn, có thằng không thèm tắm luôn. Cái mùi đó ruồi không bu để hưởng sái thì bu vô đâu? Nghe mà kinh hoàng. Vậy mà… Vâng, vậy mà với cái thân như vậy, chẳng may hôm ấy anh trai vô mánh tí tiền còm ghé vào Điểm Hẹn, thiên tiên vẫn cứ ôm anh mà hít hà. Than ôi ở bất kì đâu trên thế giới nầy giá trị của tiền vẫn cứ độc tôn. Và dân ăn trên vàng, ngủ trên vàng, bước đi trên vàng. Một viên nhỏ tí là một cọc tiền. Tiền trong tay anh sẽ là Hoàng Đế, dù hôi rình và ghẻ chóc. Bẩn thỉu vậy xin chỉ thử một anh không mắc chứng hoa nở về đêm.
Cái phát sinh sau ruồi đố cả thiên hạ biết là cái chi? Ai biết cho người đó chỉ vàng ngay tức khắc. Muỗi hả? Sai bét. Không khí hừng hực mùi người lấy đâu ra muỗi, các bãi khác thì có nhưng Bến Tỷ tuyệt không. Vậy thì cái gì nói đi, ai biết đâu mà đoán. Xin thưa đó là Chí. Cánh phía Bắc gọi con Chấy.
Để diễn tả cái tận cùng của loài kí sinh nầy, phải nhắc tới một đàn anh thường gọi Chấm Ba Ke. Từ Lý Lịch sang Chấm na theo chục tay em. Thằng nào cũng dạng đội trời đạp đất. Đen thay cho hảo hớn, cả hội bị mo dài hạn. May mà khi còn trùm Lí Lịch, Chấm từng cưu mang những đàn anh như Kaxim, Hiếu Râu và cả Năm Phúc. Nên tuy mo, băng Chấm Ba Ke vẫn có cái ăn không đến độ đói rách. Tối, nguyên băng treo võng ngụ tại cà phê cóc của một em có tên Loan Răng Khểnh.
Loan xinh xắn dễ thương, cười duyên lắm nhờ cái răng. Em lại là con cái nhà, dân cố cựu Bến Tỷ. Cái duyên dáng của em làm say anh Ngọc Sún. Ngọc galant bằng cách ra công dựng quán cho em. Chấp nhận phục vụ không công cho người đẹp. Tội nghiệp Sún lắm. Nội cái công lo nước non cho em tắm mỗi chiều, rồi nước chứa đầy can hai mươi lít để em có cái rửa li… Bấy nhiêu thôi là Ngọc ăn điểm rồi. Nhưng than ôi, người đẹp luôn luôn thiếu, bu theo em có cả vài thằng đúng điệu dân chơi.
Một tay em của Chấm hơn cả tài tử. Nó đến và quyến rũ em bằng ngón đàn điêu luyện. Tóc dài chấm vai, bồng bềnh rất chi văn nghệ. Thằng nầy tên Tân. Em răng khểnh cũng có vẽ mết anh lắm, bằng chứng là em cho anh mượn gối để ngủ trên cái bàn dã chiến của em. Ngọc Sún ngu vì tình, sáng nào cũng thức sớm nhen lửa, nấu nước pha bình thủy cho em. Ngọc lấy lòng vậy thôi, chứ theo Lâm Quân Sư thì vô vọng lắm tình anh. Lâm còn bảo mày không sún em còn chê nói chi sún.
Sáng ấy Tân trả gối cho em. Em mang gối cất vô buồng rồi cùng Ngọc pha cà phê cho khách. Đang bưng bê bổng Ngọc ta thấy trên tay áo em chí đang bò lổm ngổm.
Em cũng thấy, thẹn thì ít mà kinh thì nhiều, cả chục con chí đang bò thì kinh lắm. Thực ra, không gian ấy, không khí ấy, anh hoặc em có sạch cỡ nào cũng có vài ba em chí để có cái tướt trứng cho vui. Còn lổm ngổm thì…? Em vào buồng, Ngọc cũng vào theo và cả hai phát giác ra trên cái gối có cả vài chục chú chí đực đen thui đang hành quân. Ngay lập tức Loan ụa. Ngọc chạy vội ra quán, cu cậu săm soi mái tóc cuả nghệ sĩ và kêu lên:
– Trời ơi… Nhìn nè.
Cả bọn cũng nhìn vào mái tóc nghệ sĩ. Ngay lập tức tránh như tránh hủi. Đàn anh Ba Ke cũng nhã vội ngụm cà phê vì ghê tởm. Thật vậy. Dám chắc với cả thiên hạ nầy, ai không kinh khiếp và rùng rợn đến nổi da gà khi mục kích một mái tóc đầy chí. Vậy tại sao lại không ngứa ngáy hỡi trời? Xin trả lời ngay. Quen thôi. Đảm bảo là khi sống trong môi trường bẩn thỉu cũng cứ quen như thường. Ba Ke thẩy cho Tân cái lược, chỉ một đường chải là chí đen cả tờ giấy của quyển sổ ghi nợ. Đàn ông còn ói nói chi em Răng Khểnh. Chấm Ba Ke phải tốc hành mua một hộp lưỡi lam lôi đàn em ra cạo trọc. Ba quân đứng xem. Bị động ổ bầy chí gôm về đỉnh đầu. Cái mãng tóc cuối cùng những chí là chí. Cả tuần kế tiếp Ba Ke bưng chén lên ăn là buông đũa, về sau phải tọng cho say trước khi xơi cơm. Em răng khểnh hết dám tơ tưởng anh văn nghệ chí đực. Lâm nói :
– Có lẽ đến lúc chết chả có cái gì còn làm tao kinh khủng được nữa.
– Mẹ nó – Điệp nói – khủng khiếp không xiết kể.
Việc toán Công An vô mánh lớn kích thích dân các nơi đổ về cao hơn bao giờ hết. Lợi dụng mấy anh vui chiến công có hơi lơ là tí chút, bọn đàn anh tha phương dỡ cái thói mạnh được yếu thua, và vua cũng thua liều. Chúng nhắm mảnh đất của Cường Linh và tự nhiên đổ quân đóng chòi. Đàn anh Kaxim trực tiếp chỉ huy. Dân vàng chuyên nghiệp, rành lắm cái chịu đấm ăn xôi. Cả hội ùa vô ngang nhiên tra cuốc chim khui hầm.
Đâu có được với Hiền Què. Tha phương dám vô đất của sở tại là ăn thoi à, Hiên lê cái chân xi cà que điểm mặt một cô hồn :
– Bước ra ngay tức khắc.
Thằng kia trơ như đá, nó cứ cuốc. Bạn nó xúc đất thịt đổ sang một bên làm ranh hầm. Điên gan Hiền ta cho thằng lì cú đấm, thằng xúc đất cú đá luôn. Giỡn với địa phương là sưng mặt chứ chơi sao? Nhưng đúng là đầu trâu mặt ngựa, chúng cứ lì lì làm tới. Cường Linh và bà phù thủy cũng nhào ra inh ỏi. Nhưng ở bãi vàng vài ba cú đấm và chửi bới đâu có làm ai sợ. Thấy bọn chúng khui hầm một vài toán giang hồ mo khác cũng nhảy vô khui đại. Ngay tức khắc mẫu đất của Cường bị lục lâm chiếm cứ. Năm cái chòi mọc lên nhanh như sao xẹt. Đàn anh Kaxim đích thân đến hội kiến với Cường gọi là chút tình tri ngộ. Đến nước nầy thì trăm Cường cũng chết. Một tiệc nhậu được bày ra, và giang hồ bốn phương kết nghĩa cùng đàn anh địa phương, hứa hẹn rằng hãy nương nhau mà sống. Kaxim long trọng tuyên bố rằng :
– Anh Cường yên tâm. Có em không một giang hồ nào dám xâm canh đất anh.
Rồi Kaxim bá vai anh Cường ra Điểm Hẹn, giới thiệu cùng đàn anh Năm Phúc, anh Phú Râu và các anh khác. Cường lớn lên trong nghèo khó, chưa ra đời đã lấy vợ và dính tù tội, đâu có biết chi hương sắc cuộc đời. Giang hồ thứ thiệt nhìn qua là rành, liền cho xinh mơ ma nữ dẫn anh vô tâm sự. Vậy là Cường cũng đàn anh.
Và Tùng Hí nữa, nó cũng là nạn nhân kế tiếp. Lần nầy em út của anh Phú Râu ngang nhiên xâm nhập. Anh em bè bạn Tùng cũng trơ mắt ngó. Bọn tha phương mình mẩy vằn vện vết xâm, tóc dài quá vai, có thằng thẹo mặt, nhìn qua ai không lạnh? Thôi thì chia nhau tí đất, dù sao cũng chẳng phải của mình. Anh Phú Râu cũng dẫn Tùng đi hội cùng các anh ở các quán. Sư bố nó, thằng đàn ông hể cứ thấy của lạ là ham, và cứ nghe người ta tâng bốc lại nhầm mình thật là yếu nhân quan trọng. Các anh tụ lại và giúp nhau qua thì khốn để cùng giàu. Thanh thế của Tùng Hí mạnh hơn lên khi có cả đại ca Hiếu Râu góp mặt. Hiếu cho em út âm sâu một hầm để bao nhiêu nước dồn vào một chỗ trong lòng suối Một Chặng. Máy hút lên hầm chứa. Thằng nào muốn đãi phải bỏ tiền ra mua chỗ. Vậy là mấy anh có mo trắng đi nữa cũng phải chung cho dịch vụ nầy. Bọn cô hồn tha phương quá khôn ngoan khi bắt tay với mặt ngầu địa phương. Thanh thế vươn cao không khác sóng thần, mà ai cũng biết sóng thường đập xuống còn sợ nói chi thần.
Quân sư Lâm lắc đầu :
– Bọn mình cũng thế thôi.
Khỏi nói Bá Điệp, Bình Võ và Ngọc Sún cũng biết rồi sự thể sẽ đến. Nhưng biết làm sao? Thường dân cấp phó còn viện cớ đây là rẫy không cho vô. Nhưng giang hồ lì lắm, chúng sẵn sàng đưa thân ra cho đấm, thứ đó đấm chả ăn thua gì. Kẻ đấm bị đau tay thì có. Cuối cùng là thua. Kiện cáo ai trong bãi? Và đất phá lâm bất hợp pháp với mảnh giấy viết tay thì ăn ai? Chịu thôi. Và sáng ấy một hội đầu bò có bướu đến.
Ủa, Bá Điệp quen biết với anh em chức quyền nhiều lắm, sao không nhờ họ một tiếng? Có người tới chơi tay cầm khẩu Ép-tay hoặc Ak cũng linh vậy. Xin thưa rằng. Có Công an cũng thua, họ đến và đâu có cướp bóc hoặc đánh lộn gấy mất trật tự. Họ chỉ thấy đất trống thì khui một hầm đãi thử. Vậy thôi. Đuổi thì đi. Và Công an chưa đến hai chục mạng trong cái biển người thì làm gì nhau? Sự thể là vậy.
Kẻ rắp tâm chia phần trên đất của bộ tứ là Năm Phúc. Dân thứ thiệt lại được trời ban cho mánh lớn. Giang hồ dạy Năm chớ có ti tiện với những kẻ thất cơ. Đặc biệt khi thất cơ là tay có sừng có mỏ. Ba đồng bạc mọn bỏ ra nuôi cơ nhỡ ắt phải có lúc dùng. Và áo bỏ trong thùng, Năm cùng Chấm Ba Ke ung dung vòng tay đứng xem em út khui hầm. Kế bên hai anh là một thằng đánh trần, khoe bộ ngực xâm một con rồng bằng bàn tay tuyệt đẹp và cái đầu trọc lóc.
Bá Điệp lớn tiếng :
– Ê, đất tao ai cho tụi mày khui hầm?
– Cho em xin mấy mét anh hai. – Một thằng xướng.
– Cho cái con đĩ mẹ mày, biến liền. Nếu không tao cho ăn cù loi à.
Ôi dà. Tưởng gì chứ em đây sẵn sàng đưa mặt cho anh loi đã luôn. Ba cú đấm bọn em ăn quen rồi. Loi xong anh cho em khui một hầm là được… Mấy ông con đâu coi chủ đất ra khỉ gì, vậy là hai anh trai Bá Điệp và Bình Võ lừ đừ bước đến. Bình xốc cổ áo một thằng và tương thẳng vào mặt nó một cú direct như trời giáng. Ông con lăn ra đất, mặt mũi đầy máu. Bình điểm mặt ba thằng còn lại :
– Ai sai bọn mày chơi trò nầy?
Rồi ngước mặt lên, Bình nói với Năm Phúc:
– Ê, Năm. Kêu lính mày về đi, đừng có ghẹo bọn tao.
Năm ra hiệu cho thằng trọc đầu. Trọc ta bước vào đối diện với Bình Võ. Thấy sự lạ ta bà bãi vàng liền tụ lại coi chơi. Nam phụ lão ấu đủ mặt. Coi chơi là một chuyện, hể chủ đất thua thì ta cũng ào vô kiếm tí cái vận may. Đầu trọc lớn lối :
– Đù má. Mày có nghề lại chơi thằng trói gà không chặt. Ngon chơi với tao nè.
– Mày cỡ nào tao cũng chơi.
– Được thằng Beo Đen nầy chưa sợ ai.
Nói xong thằng người tự xưng Beo Đen đưa tay lên be mặt, ra cái điệu cũng võ nghệ như ai. Đúng lúc đó Lâm bước ra, trong tay là lưỡi rựa ngọn. Mặt lạnh như tiền, Lâm đưa đôi mắt mí lót quan sát một lượt, từ trên đường đến vị trí đang xẩy ra tranh chấp.
Beo Đen có vẻ rành tất cả người của bộ tứ ;
– Tao thách mày chém đó quân sư. Ai chớ tao thì đưa đầu cho mày chém liền.
Lâm xô Bình Võ qua một bên rồi bất thần nhắm Beo Đen chém liền một nhát. Chao ôi. Ai đâu có mà ngờ sự thể lại dữ dội đến nhường nầy. Ta bà vội vàng đâm đầu bỏ chạy làm dậy dậy cả một vùng. Vì xuất kì bất ý nên Beo Đen lảnh một rựa vô vai. Máu tuôn ồng ộc dù một tay Beo đã vít chặt vết thương. Mấy thằng em hốt hoảng cởi áo bó như bó giò cho anh. Lâm chỉ rựa vô Năm Phúc và Chấm Ba Ke ;
– Xét cần tao lấy đầu cả hai thằng mày.
Mặt tái như chàm đổ hai anh vội vã rút.
Chết chóc hoặc xung đột ở bãi là chuyện rất thường. Chết vì tai nạn hoặc bệnh tật chả mấy ai quan tâm vì không quan trọng. Xung đột nhiều lắm đi đến đánh nhau là hết phép. Còn đâm chém ư? Xin thưa chuyện ấy hiếm hoi lắm. Vì sao? Vì đa số dân đến bãi tìm vận may đâu phải côn đồ. Cả đàn anh cũng muốn lắm yên bình mà khai thác kiếm sống. Kết bè với nhau chẳng qua để khỏi bị ăn hiếp mà thôi. Những anh lớn bám bãi sống dài ngày, dùng tiền mua tha phương về dưới trướng để phô phang thanh thế. Khi có thế rồi anh sẽ lấy lại tiền bằng cách cho em út đi chiếm đất đai. Có thể anh bán, hoặc ăn chia cho kẻ muốn khui hầm. Anh chỉ đến thế là hết phép. Thiên hạ sợ chẳng qua cái vía, cái đồn đại, chứ thấy máu anh cũng run, nói chi chém.
Bá Điệp nhìn Lâm Lạnh mà hãi. Ngọc Sún và Bình Võ thì hoang mang tợn. Nói tiếng từng ở bãi nhưng Bình ta chỉ tép riu. Nhiều lắm có tí danh đánh đài, vung dao ra còn chưa dám. Một lần trên xe đò Bình đã sợ, nay mục kích thằng bạn khi hiền như đất, âm thầm ít nói, khi dữ dội sư tử, chém cũng chả nói. Thật là không lường được. Cũng cùng lao cải về mà Cường khác Lâm một trời một vực.
Cả ba lôi Lâm vô chòi, yên vị trên võng. Từ khi có tí vàng, bao bố tời đã thay bằng võng loại một. Mặt lạnh như tiền Lâm ro ro kéo thuốc lào. Giọng Bá Điệp đầy âu lo :
– Mày phải trốn thôi Lâm ơi.
– Đúng rồi – Bình và Ngọc cũng đồng thanh.
Lâm ngã người ra võng :
– Tôi làm gì mà phải trốn ?
– Thằng Năm Phúc quen biết lớn với Công An coi khu vực nầy, nó không bỏ qua đâu.
– Tôi có làm gì thằng Năm đâu ?
– Mày chém em nó. Không lí nó bỏ qua ?
– Nói thật với anh em, tôi chẳng sợ cái đếch gì? Không phải tôi liều mà có cơ sở hẳn hoi. Beo Đen với Năm Phúc là anh em bắn bốn phát B40 mới tới. Nó quê đâu chưa chắc thằng Năm biết. Năm có là đại ngu mới đi tố cáo tôi chém người. Vì sao? Vì nó có cơ ngơi, ngu sao đụng vô tứ cố vô thân. Nó phải biết Công an chưa kịp đọc lệnh bắt là tôi đã cho nó chầu tổ rồi. Vậy nó sợ tôi hơn là tôi sợ nó. Tôi nói vậy đúng không?
Hợn nữa – Lâm tiếp tục – Vì sao bọn thằng Năm, thằng Chấm ngang nhiên lộng hành bãi nầy? Vì sao nó dám mở động mãi dâm ở đây? Tại sao nó biết anh quen biết không nhỏ, và là dân địa phương mà dám tới cướp đất? Anh hiểu tại sao không? Vì nó đã dùng tiền để che mắt tất cả rồi. Nó biết mấy thằng bạn quyền chức của anh không ghé qua đây khi nó hành sự. Khi nó đã đóng chốt thì ta cũng như Cường Linh hay Tùng Hí mà thôi… Nó biết chắc ta sẽ không dám làm gì ngoại trừ cái xuôi tay. Việc tôi chém Beo Đen tôi còn không ngờ nói chi nó. Vậy nên tôi tin chắc chẳng ai thèm sờ gáy tôi, vì không ai tố cáo, mà có tố cũng không bằng chứng, ai dám đứng ra chứng chiếc vụ nầy ? Anh, thằng Bình hay thằng Ngọc? Còn Năm Phúc và Chấm Ba Ke đâu có điên. Bây giờ nó phải lo cho Beo Đen đi bệnh viện, không chăm kĩ, Beo về là mười Phúc cũng chết nói chi năm. Và không hôm nay thì mai, hai thằng nầy sẽ đến tận đây xin gặp tôi. Anh tin đi.
Quả là quân sư luận việc như thần. Chiều hôm ấy. Năm Phúc và Chấm Ba Ke tháp tùng cùng Ba Mập. Ba Mập cũng có tí tí quyền hành trên bãi. Cả ba vào khu đất của bộ tứ. Tất nhiên là được chủ đất Bá Điệp tiếp đãi rất ân cần. Hai thằng em Bình Võ và Ngọc Sún đem rượu thịt bày mâm. Chỉ riêng Lâm nằm trên võng ra cái vẻ không màng chi thế sự. Ba Mập mở đầu :
– Ngồi chơi Lâm, sao buồn vậy? Nghe nói hồi sáng có thằng nào quậy ở đây hả ?
– Chuyện nhỏ mà anh Ba – Điệp trả lời – Làm vài ly với bọn em cho vui. Dạo nầy thấy ông bận dữ hả… Anh tới chơi hay có gì vậy Năm Phúc?
– Anh Ba Mập rủ đi chơi cho biết anh em, cũng chẳng có gì.
Lâm lên tiếng :
– Muốn gì mày nói mẹ ra đi, đâu ra đó rõ nét. Khách sáo thì ăn cái củ cải gì ?
– Tôi muốn nói là hồi sáng bọn Beo Đen đến đây quậy không có dính líu chi tới bọn tôi.
– Mày và Chấm Ba Ke chỉ có cái hư danh. Làm mà không dám chịu trách nhiệm chuyện mình làm. Ai chớ tao dám làm là dám chịu. Anh Ba Mập à, sáng nay Beo Đen đổ quân xuống khai thác đất của anh em tôi mà không xin một tiếng. Anh em tôi sẽ cho, nếu anh em biết xin. Anh Ba và hai thằng bây phải biết cái tội xâm nhập gia cư bất hợp pháp là gia chủ có quyền trị theo mức độ có thể, trước khi công quyền đến. Tao mới lao cải về mua lầm miếng đất nầy. Có bất hợp pháp đi chăng nữa thì đó cũng là việc của tao và nhà nước. Bây chiếm cứ là tao trị. Chuyện tao cho Beo Đen ăn dao cùng lắm ở tù lại. Nằm ấp lần nữa với tao chẳng nghĩa địa gì.
Nói xong Lâm ta lại tiếp tục ro ro kéo thuốc lào. Má ơi. Ba đồng đội nghe mà ớn lạnh. Lâm nói chả nể nang chi anh Ba. Mà anh cũng tệ thiệt anh Ba, dù gì chăng nữa anh em mình cũng cùng ở Bến Tỷ, ra vô gặp nhau, vậy mà bọn khốn đến uy hiếp đất em anh biến đâu mất. Không chừng thằng Lâm nói vậy mà đúng, tụi nó lấy tiền che mắt, nên chi khi nó đến anh lặn mất tăm. Nhưng mà mày nói vậy không sợ anh Ba buồn sao Lâm? Cái câu từng lao cải nay tù thêm cũng không sợ, là mệt lắm đó.
Vậy mà anh Ba không giận mới đúng là bản lãnh. Chớ sao. Giữa đám đông bò bướu, động nhẹ là nó lẫn vô biển người, kề biển là rừng xanh. Anh manh động là không có lợi tí nào hết, nhưng mà kể ra nó nói có lí. Ai biểu tới nhà người ta ăn cướp? Nó đập cho cũng phải, không lý để yên cho cướp à? Không khí của buổi gặp gỡ ra chiều căng thẳng. Đúng lúc đó Ngọc Sún buồn tay gảy nhẹ cây đàn và âm thanh vang ra. Xưa nay nghệ thuật luôn là cứu cánh. Và Ba Mập kêu lên :
– Cha, có đờn hả ? Chơi mấy bản nghe coi, có rượu có nhạc là hết ý à.
Vậy là quân sư Lâm trở dậy ôm đàn. Thoạt tiên Ba Mập hát cổ nhạc. Dân miền Tây đờn ca tài tử là số dách. Và Lâm chơi cổ nhạc trên cây đàn tân mới gọi kì tài. Chao ôi, ở bãi Suối Bến Tỷ tiếng động suốt cả ngày lẫn đêm. Tiếng pháo nổ, tiếng la hét của bợm nhậu, tiếng chửi thề của bọn cờ bạc dọc đường be và trong các quán. Có thể nói, về đêm bãi nhiều hương sắc hơn ban ngày rất nhiều. Tiếng guitar tuy lọt thỏm nhưng cũng len qua được chòi của Cường Linh và Tùng Hí. Vậy là cả hội ùa vô. Căn chòi nhỏ tí trở thành nơi tụ các anh cộm của các bãi. Hiếu Râu, Phú Râu cũng có mặt. Chúng ca hát, chúng uống rượu để kết tình anh em. Ai cũng thích anh Lâm. Anh Lâm đúng là gồ hơn cả Jingor trong phim Tay Súng Bá Vàng.
Cuối buổi tiệc kết tình, Lâm nói với Năm Phúc :
– Tao rất rành Beo Đen, đệ tử của mày.
– Mày biết nó à?
– Tao chắc trăm phần trăm Beo từ Tây ninh xuống, tao không thể nào quên giọng nói của nó. Chính Beo Đen và đồng bon đã giết chết đời tao.
– ?
– Thực ra khi sáng tao muốn băm vô đầu nó rồi ra sao thì ra, nhưng khi vung rựa lên là tao sợ. Thật đó. Để chém một con người hoàn toàn không dễ như trong ba cái phim ảnh. Có thể người ta chém, nhưng lén lút. Đằng nầy giữa thanh thiên bạch nhật và đối diện nhau, khó lắm. Nhưng tao dám không phải vì mảnh đất vàng đất bạc nầy đâu, mà vì Beo Đen là thằng sơn tặc, hiếp dâm và giết người. Con bồ tao đã bị nó và đồng bọn hiếp đến chết trong chuyến vượt biên. Mày nói với nó, đừng để tao gặp mặt, có thể lần sau tao sẽ không tha cho nó đâu.
Rồi thuận miệng Lâm ta kể lại cho đầu trâu mặt ngựa nghe chuyến vượt biển không thành. Gì chớ vụ nầy thì Bá Điệp rành rồi. Nhưng mà kể làm chi với lũ nầy? Ngẩm ngợi một hồi Bá Điệp mới hiểu ra cái thằng nầy muốn dằn mặt rằng nó đang không thiết sống, đừng có ghẹo nó và anh em, bằng không thì đừng trách. Điệp hỏi :
– Làm sao mày chắc chắc Beo Đen là thủ phạm ?
– Tôi không quên giọng nói và tiếng cười của từng thằng một. Anh tin đi, Năm Phúc nói cho nó biết, nó sẽ biến khỏi bãi nầy ngay tức khắc.
Điều Lâm nói có lẽ đúng. Về sau chả ai thấy Beo Đen ở Bến Tỷ nữa. Khoái nhất là Năm Phúc, vậy là chẳng phải lo chi cho một thằng dưới trướng đã vì mình mà suýt mạng vong. Riêng Lâm, cả bãi sợ lắm. Chả còn ai dám động đến mảnh đất bộ tứ đang ngự trị. Chỉ có đêm đêm mấy tay giang hồ vặt âm thầm đến chôm chỉa đôi mâm. Ở cái bãi mà sự ăn thua có chỉ số một trên năm trăm, chả ai màng đến vài ba mâm vặt vảnh. Chủ hầm như Cường, Tùng Hí, ngay cả bộ Tứ cũng dài dài những ngày mo trắng. Trúng lớn là hú họa chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Thiên hạ vào nhiều bao nhiêu thì ê chề ra bãi cũng bấy nhiêu. Tội nghiệp lắm những kẻ một đời ruộng nương vì lời đồn đã làm một chuyến phiêu lưu thử vận. Bị bãi chặt chém cho te tua đến không có lấy đồng bạc về xe. Phải bán mâm máng, tư trang, cả đi xin mới có tiền về. Kẻ thề xin bái biệt nghề vàng. Kẻ mới vào thì hăm hở cho một tương lai ngời sáng. Hốt bạc vẫn cứ là quán. Tục gọi quán xá. Đã vào thì phải xá mà ra.
Chuyện vỡ ra đến tận tai Bá Phượng. Cô nghe mà nóng cả ruột gan. Đời nó vậy. Khi yêu trai cũng như gái, ai cũng đăm đắm vô tình. Xưa. Em dám cởi áo cho, còn dối trá qua cầu gió bay. Thời nay yêu đã tiến một bước dài thật dài. Em vào bãi thăm anh đâu có chi lạ. Bá Phượng mặt đẹp như tranh, mắt đầy lo lắng. Vậy mà kẻ được nàng ban cho ân điển lại lạnh như tiền, cả đáp lễ câu chào cũng chỉ là cái gật. Phải chi mà hắn bảnh một tí cũng chả nói làm chi, đằng nầy Lâm xấu ỉnh. Đẹp trai là Bình lại võ nghệ sao nàng không ngó, lại ngó cái thằng dám vung dao chém xuống. Kì cục không? Vậy mới là tình yêu là nghịch lý muôn đời.
Nàng ra tay vun vén sạch sẽ chòi của anh trai. Nấu cơm cho bè bạn của anh. Cả bọn nháy nhau rút để nàng có cơ hội nói chuyện cùng Lâm. Bình cũng tính rút dù lòng đau như cắt. Nhưng chưa kịp dời chân thì Lâm đã bỏ ra cà phê của em Răng Khểnh. Từ đó cho đến lúc em về chả thấy anh đâu. Bả Phượng ủ dột như Chúc Anh Đài giã từ Lương Sơn Bá. Bình theo chân tiễn em ra cho hết Một Chặng.
Hai kẻ cùng yêu và không được yêu chung nhau trên một con đường, và hai lòng cùng vụn vỡ như nhau. Vậy. Khi thất vọng ai chả nghe mình tan nát. Nhưng mà gì gì chăng nữa, nỗi buồn của cả hai so với nỗi đau của Lâm là vụn vặt. Nhưng đem Lâm so với thiên hạ trong bãi có nghĩa gì không nhỉ? Chắc chắn không. Vì sao? Vì cả nghìn nhân mạng đang mạng nặng niềm đau lớn nhất thế giới. Chúa ơi. Nói gì nghe đao to búa lớn quá vậy? Đau chi mà lớn nhất thế giới nói nghe coi? Chính xác. Và đó là lòng tham vô độ của con người.
Nghèo vào bãi là chuyện tất yếu, vì tôi phải tìm tí để xua đói. Còn anh? Chủ tiệm vàng. Chủ hàng đôi ba chục mẫu đất. Không phải một mà cả chục tiệm vàng dã chiến mọc lên để thu mua. Những ông bự vào để làm chi vậy? Và cũng mâm, cũng máng cũng phơi thân ra gió ra sương để kiếm vàng. Không tham là chi hỡi nhân gian ? Và tham chính là cái cần thiết phải hủy diệt đầu tiên trong kinh điển của tất cả tôn giáo trên thế giới nầy. Nó chính là căn bệnh trầm kha. Tuyệt không chữa được.
Tham lam kéo theo sân hận và si cuồng. Không đâu trên ta bà tham sân si như ở bãi vàng. Có tất cả các thứ trên các bãi. Cái gì ở phố lớn có thể khó kiếm, nhưng ở bãi cứ vô tư kêu. Dân chơi vô mánh kêu em út vô Điểm Hẹn, Gợi Nhớ, Thương Hoài. Muốn cái gì là có ngay tức khắc. Có vàng, tiền nào có nghĩa chi. Và kẻ có tiền nào lại không thấy mình quan trọng, nhất là xung quanh luôn phủ đến ặp ụa lời xưng tụng nâng mình lên tận đỉnh cao xanh. Và cùng với tham sân si bệnh Tưởng phát sinh.
Bọn tứ chiếng quá sành đời phiêu bạt, họ qua rồi cái đần ngu của Tưởng, nhưng lại biết làm cho kẻ khác mắc chứng nầy. Những kẻ khác đó là đàn anh địa phương. Họ có đất đai, đất họ chắc chắn có vàng. Em út theo anh, nâng anh lên, sẵn sàng làm tất cả các cái cho anh. Anh cứ nhậu với anh hai anh ba còn vụ đãi để em lo. Đang nhậu em vào đưa cho anh cục hai chỉ, cục năm chỉ. Trời ơi đời đẹp quá. Phấn khích lên anh lệnh :
– Chiều nay nghỉ sớm ra ủng hộ Năm Phúc nghe. Mọi việc anh hai tụi mày lo. Bây giờ là chia phần cho tụi bây hôm nay.
Đàn anh là phải chơi đẹp. Chia xong cái dư còn lại trong ngón tay anh dẫn em út đi hưởng mọi lạc thú. Và danh anh nổi lên nào Cường Linh, Tùng Hí vân vân. Cả Ngọc Sún cũng bị hút vào ma lực ái tình. Ngọc lại nằm trong chòi của Lâm Lạnh – giang hồ gọi vậy – chả một anh nào dám cà khịa em Răng Khểnh. Ai cũng gọi anh Ngọc chứ chơi sao.
Cả Bến Tỷ kháo rằng vậy là anh Cường vô mánh lớn. Nhìn anh với Jean hộp, em út theo cả bầy hộ tống thấy mà thèm. Ai cũng nói anh giàu lắm. Vậy mà vợ và con anh vẫn cóc cách bún riêu. Hỏi, Ngọc thưa rằng :
– Nó lo cho thân nó chớ có cho tui được phân nào.
Ai mà tin. Chắc là họ dấu thôi. Ngu sao khoe mình trúng vàng để cho ăn cướp nó viếng. Cho đến một hôm bà má tội nghiệp của Hiền Què đích thân vào bãi, chửi con một nhưng chửi rể mười lần hơn :
– Thằng chó đẻ. Có vàng thì đem về mà lo cho vợ con mày chớ. Mày bỏ nó vậy mà không động lòng sao? Mày còn tệ hơn con gái mẹ mày.
Có vậy Cường mới dúi vào tay mẹ cái năm phân về cho vợ. Đừng cho Cường là tệ mà tội nghiệp. Đồn đãi và thực tế khác nhau lắm. Nghe nói vô một cây, nhưng một chục anh em. Chia cho một đứa năm phân, còn lại dành cho cơm ăn nước uống và cả chục ngày sau mo trắng. Biết làm sao? Thêm cái quyến rũ về đêm của bãi. Nào nhậu nhẹt, gái gú, cờ bạc…Bọn em út còn chơi, mình đàn anh đâu thể bần tiện. Đâu có ngu dại như thằng Lâm Lạnh, cây đàn mà ôm cứ như đang trong phòng trà ca nhạc. Cở Bá Điệp và Bình Võ còn vô Điểm Hẹn và đêm đêm vẫn ra sòng xóc đĩa và tài xỉu kìa.
**************
1 Thời điểm ấy chưa cấm đốt pháo.
2 Vitamen, còn gọi bia lên cơn. Loại thức uống có ga.
NGUYỄN TRÍ
Ngộ sị páo chù
Tiến là bạn của Danh, thân lắm. Nói về gia cảnh nhà Tiến thì ai cũng cám. Cha chết, mẹ lấy chồng khác. Anh chồng nầy không dám ở với anh em nhà Tiến. Ba thằng, mặt mũi bặm trợn, lầm lầm lì lì. Thằng Thanh, anh lớn tham gia trộm cáp điện bị kêu năm năm tù giam. Thằng kế tên Tú lấy vợ được hai đứa con, thằng nầy lười có tiếng, con vợ đi làm công ty lẹo tẹo với tổ trưởng sao đó bị bể ổ. Tú chưa rõ đầu cua tai nheo gì liền xáng bạt tai và đuổi con lăng loàn đi. Con vợ chắc cũng bị thằng kia ngọt nhạt nên bỏ chồng con cuốn gói theo. Ai ngờ thằng tổ trưởng họ Sở, nó quất ngựa dông mất. Con nhỏ ôm gói về má ruột. Ở nhà hai đứa con nhớ mẹ khóc như ri, đổ bịnh cùng một lúc, bà ngoại nghe vậy liền lên bệnh viện thăm cháu. Má vợ rủ rỉ rù rì sao đó Tú đồng ý cho vợ về lại, xem như gương vỡ lại lành, trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa.
Trở lại chuyện Tiến bị tù. Là vầy… Ông Cưng là cha của Danh. Cha nội nầy trên dưới sáu mươi rồi nhưng hư hao lắm. Tục truyền rằng, thuở trẻ Ba Cưng lẫy lừng lên tuổi khoản quậy quọ và rượu trà gái gú. Hôm đó gã bị bắt về tội nhậu xong phá quán. Ngay trụ sở Ủy ban mới tiếp thu từ chính quyền triều cũ có một cái Conex. Cái hộp sắt nầy trước đó quý ông cảnh sát dùng để nhốt du côn và trốn lính. Ba Cưng bị nhốt vô hộp chung với một mớ hàng buôn lậu bị tịch thu. Nào rượu, nào thuốc lá cùng các thứ linh tinh. Nói chung là các món nhậu đủ mặt. Cưng bị tống vô lúc năm giờ chiều. Sáng hôm sau người nhà lên thăm, du kích đập Cưng dậy nhưng say quá Cưng không mở mắt nổi, đến lúc tỉnh thì can rượu năm lít bị tịch thu vơi hết một phần ba. Tội đè tội, Cưng bị phạt hành chánh kha khá tiền. Nhưng tao đâu có tiền – Cưng kể vậy.
– Rồi làm sao qua?
– Con bồ tao nó cho tiền nộp phạt.
– Ông cũng có số được đàn bà nuôi há?
– Khà khà… tao đẹp trai mà mậy. Nhưng mà tao không nộp.
Sau đó Ba Cưng bị lôi cổ đi lao động công ích hết mười ngày vì tội ngoan cố. Cưng kể:
– Con bồ cho tao mười đồng, tao dấu vô lai áo hai đồng. Lên xã tao xin bớt hai đóng tám nhưng xã buộc phải đúng mười. Về, tao vô quán nhậu uống beng hết tiền trong lai áo. Hôm sau tao lên xin đóng sáu đồng… Năm bữa sạch bách… vậy là ôm gói đi công ích.
Đó là thành tích bốn chục năm trước, chả hay ho chi nhưng Cưng kể hoài ra vẻ đây chả sợ ai. Vụ thằng Tú cho con vợ về, chả biết nghĩ sao Cưng xách một chai ba xị ghé Tú lai rai đỡ buồn. Tú không nhà nên Tiến tiếp khách. Thoạt tiên Tiến dạ dạ vâng vâng lễ phép lắm. Nói chung là ba của bạn thân ta phải lịch, hơn nữa khách mang rượu mang mồi đến ta phải kính chớ. Kẹt cái rượu vào nó mau huề đồng lắm. Anh anh tôi tôi rồi mày tao liền một khi. Già Cưng ra cái cha chú bày đặt khuyên răn nầy nọ, Tiến điên lắm nhưng nhịn, đến lúc Cưng lôi chuyện cu Tú bị cặm sừng ra bàn. Cưng nói vầy:
– Cái dòng họ nhà mày ăn cái quần một ống hay sao mà ngu vậy. Thằng cha mày trên bàn thờ che sao cho hết cái nhục cắm sừng? Anh em mày bao nhiêu cái ngu dành hết không chừa cho ai chút nào.
Cái nầy chẳng qua có rượu Cưng nói bậy và Tiến không bị ma men hành thì đâu nên nổi. Điên quá Tiến xách cái chai phang vô trán Ba Cưng một phát. Người ta xách mé nhà mình vậy mà nhịn là phật chớ đâu phải người. Tuy nhiên, đánh người gây thương tích đến chuyển viện thì anh cũng bị chuyển lên tuyến… huyện. Vô nhà đá ngon lành hơn nhà lá nhiều. Tuy thương tích của Cưng chỉ mười mũi khâu, nhưng Tiến bị án là do tiền sự hơi nhiều. Tiến bị kêu đúng một cuốn lịch và bồi thường cho Ba Cưng hết một mớ cơm thuốc nhưng Tiến có chi ngoài cái tút đạn. Toà xử xong Ba Cưng nói với Tú:
– Mày phải lo đền cơm thuốc cho tao à
Tú văng đủ thứ không đáng văng chỗ toà án:
– Có cái củ thìu biu. Ông chờ nó trả cho, mắc mớ chi đến tui.
Danh can thiệp:
– Thôi bỏ đi ba ơi, chuyện nhỏ mà.
– Nhỏ cái bà nội mẹ mày. Tao bị bạn mày đánh cho mẻ trán mà mày còn theo phe nó hả mậy?
– Ai biểu ba nhậu với con nít làm chi?
– Câm họng lại. Mầy là thằng khốn nạn…
Ba Cưng hăm he tao làm đơn xin thi hành án thử coi trả không cho biết. Tú rằng ê già dịch ông làm như thằng Tiến vị thành niên mà gia đình phải chịu dân sự cho nó. Nó hai mốt rồi chờ đến tết cônggô đi há, có về thằng Tiến cũng không trả đâu. Nó cho ông thêm cái chai nữa thì có.
Nói vậy chớ ngày tháng vùn vụt trôi. Nháng cái, Tiến về. Về nhưng Ba Cưng bỏ qua chuyện đền bồi. Không phải sợ chi ai, đơn giãn là nhà Cưng đã đánh sập được cái nghèo. Hên quá, toàn bộ đất đai nhà ở nằm trong giải toả trắng làm cao tốc. Cưng được đền bù hơn tỉ bạc, được cấp một lô tái định cư. Cưng cất cái nhà bề thế hết ba trăm mét vuông đất, có cổng có rào. Vợ Cưng xưa nay buôn bán rau củ quả. Nay có vốn liền ra luôn cái đại lý bỏ mối cho các nơi. Nghiệp nầy phải có cái xe mới mau lên. Vậy là Danh ta ôm vô lăng lên chủ cái xe tải năm tấn.
Ăn nên làm ra nên Ba Cưng quên mất triệu bạc đền bồi toà phán. Tiền tỷ trong tay thì ba cái lẻ tẻ sá gì. Chỉ có một cái mà nếu quên luôn được thì hay quá, nghiệt ngã thay cái nầy càng có tiền càng lâm luỵ. Đó là con ma tên Men, Cưng chuyển tông từ rượu đế sang bia. Cái tủ đá lúc nào cũng chục lon ken ướp lạnh, hể lon nầy bật nắp thì lon kia thế chân. Kệ đi, làm ra không xài thì chết có mang theo được đâu. Có tiền nên Cưng ra vẻ lắm, sáng sáng mang giày đi bộ vòng quanh khu dân cư, hai con chó cảnh cũng lủn củn chạy theo chủ. Đời vậy là đẹp hết thế.
Dãy dân cư nơi nhà Cưng ngự trị áng chừng năm mươi lô thổ, nhưng mới mười căn lộ diện với đời nên hơi thưa thớt. Có một căn sống bằng tạp phẩm. Chủ nhân của nó không phải dân bị giải toả mà là dân có tiền, thấy khu dân cư đẹp nên hắn mua ở cho vui. Tay nầy cũng bảnh. Sáng nào cũng thể thao. Lâu lâu còn na thêm máy ảnh. Ba Cưng ghét tay tạp phẩm nầy lắm, hắn không biết sống. Tha phương gặp người cố cựu mà không chào. Gặp nhau trên đường gã tho lỏ mắt, mặt lạnh tanh. Cưng nói với vợ:
– Nhìn cái mặt thằng đó muốn xịt chó cắn.
– Ông đừng có nhiều chuyện quá ông Cưng à. Thằng Tiến nó nện cho cái chai ông chưa hoảng sao?
Tưởng vậy là thôi. Ngờ đâu chuyện xẩy ra nó kỳ cục một cái hết biết luôn. Sáng đó Cưng dẫn chó đi dạo. Trên đường, dân xe đạp, chạy bộ xôm tụ lắm. Ưng lên một con cún của Cưng lao theo một xe đạp, cái dòng chó cảnh bố láo táp vô gã xe đạp một phát. Gã xe đạp bị dính đòn liền dừng xe, đúng lúc tạp phẩm đi bộ cũng vừa tới. Ba Cưng biết chó mình cắn người, lý ra đứng lại giải quyết sự cố nhưng đi luôn. Xe đạp hỏi nên tạp phẩm trả lời rằng con chó của cha nội đang đi đó. Xe đạp liền gọi:
– Ê… ông già…. Con chó của ông cắn tui nè…. Đứng lại nói chuyện cái coi.
Ba Cưng quay lại. Lý ra cũng nên xoa dịu kẻ bị chó táp đôi câu ngòn ngọt lấy lòng, ở khu dân cư, nói chung, ai cũng kha khá, đâu ai buộc anh đền bồi chi, đằng này Cưng ta gọn lỏn:
– Không sao, chó tui không dại đâu mà sợ.
Kiểu nói của Cưng thằng khùng còn bực nói chi tỉnh. Xe đạp gằn giọng:
– Ai biết dại hay không ông?
– Thì ông cứ chích ngừa, bao nhiêu tiền tui lo cho.
– Ai cần đồng bạc của ông… cà chớn tui đập con chó chết à.
– Mày ngon đập tao coi.
Điên gan xe đạp chạy theo con chó, nhưng con quỷ con nầy nhanh như sóc. Thấy vậy tạp phẩm liền lên tiếng:
– Chó anh cắn người anh nên xin lỗi một tiếng…
Cưng cướp lời:
– Mắc mớ gì tới mày? Đồ nhiều chuyện…
Đến đây thì tạp phẩm rút êm. Mặc kệ đôi bên muốn sao đó thì muốn. Chuyện tưởng qua ai ngờ nó chuyển hướng theo một kiểu xấu xí nhất trần đời.
Đêm ấy, đang mơ màng trong giấc, bổng nhiên cả nhà Cưng đồng loạt thức giấc vì có mùi lạ mà quen. Quen nhưng chả ai dám vơ vào nhận họ. Cái mùi thối um của chất thải loại một, nhà cửa kiếng kín bưng mà nó len vô đến khứu giác từng thành viên thì tưởng tượng nó gớm ghê đến cỡ nào? Vùng dậy. Điện được bật từ trong ra ngoài. Mẹ cha ơi, thằng khốn kiếp nào phang vô ngay cổng rào một chai thuỷ tinh, dấu tích còn vương lại là miểng văng tứ tán. Có thể hiểu là ôn dịch đã cho một chai đầy phân người và nước tiểu tục goi bom bẩn thân ái tặng nhà Ba Cưng. Chuyến nầy chết chắc.
Sân nhà Ba Cưng đầy rau củ quả mà chiều trước đó vừa mới đưa từ Đà lạt về nguyên một tải năm tấn. Nào su hào, súp lơ, cà rốt, khoai tây, cà chua, bắp cải… có cả hoa nữa mới chết. Mùi ăm mô ni ắc vương khắp nơi, đâu cũng nghe. Sự cố được cả nhà Ba Cưng giải quyết bằng cách chửi đổng. Có bao nhiêu từ bụi đời tục tỉu không có trong từ điển được lôi ra mà phang cho nhau nghe. Hàng xóm tuy xa, nhưng nhờ khuya vắng nên lộng theo không khí mà tới. Được một lát dân thể dục chạy ngang, vậy là mớ hàng lê ghim nhà Cưng có nước đổ xuống sông, có cho cũng không ai thèm cái đồ dính “kít”. Kẹt cái xứ này không có sông. Mang đi đâu mà đổ hả trời cao?
***
Cả nhà xúm vô đổ tội lên đầu Ba Cưng. Mấy chục triệu bạc đem quăng thử hỏi ai không tức? Thời buổi kiếm ra đồng bạc chua như chanh… Trời ơi tức quá:
– Cũng tại ông – bà xã lớn tiếng – bày đặt dục với thao, đêm nào cũng rượu bia thì thao dục làm gì… Bữa nay đừng hòng có ken với tai gơ cho ông nghe… tai tai tai vô cái mặt ông.
Cái nầy phải thông cảm cho bà Cưng. Dân chợ búa tất nhiên điên lên trời còn chửi nói chi chồng. Đằng nầy chồng hư quá mà. Chó cắn người ta mà còn nói giọng giàu, nó quăng cứt vô nhà là phải quá. Bầy con cũng bực bội, nhứt là thằng Danh:
– Ba sao mà đủ chuyện hết ba ơi. Ông bỏ nhậu cho tui nhờ được không?
Bà xã còn nhịn chứ con cái mà mè nheo là đâu có cửa với cha. Cưng chửi inh sình trời đất. Chửi lây cả mấy thằng khốn dám chơi ông? Bà mẹ nó thằng nào, thù nầy ông quyết trả? Ai? Thằng bị chó cắn ư? Cũng có thể… nhưng mà… không phải nó đâu. Hôm qua mình đã xin nó cho qua rồi mà. Hay là anh em thằng Tiến Ròm, Thanh Bụi mời tù về? Dám lắm. Dám thằng Tiến trả thù vụ mười hai tháng tù lắm à. Nhưng mà hôm kia thằng Tiến, thằng Thanh với thằng Danh nhậu ngoài quán cầy tơ đây mà. Bạn bè ai chơi dơ vậy? Đúng không? Không phải hai thằng nầy vậy thì ai vô? Ai? Và trong đầu Ba Cưng xuất hiện thằng tạp phẩm lắm mồm nhiều chuyện. Đúng rồi. Hôm qua mình có mắng vô mặt nó. Nó ghét nên chơi trò bẩn. Nó chứ không ai vô… Được rồi… tao sẽ trả thù. Ba Cưng hét lớn bằng tiếng tàu Ngộ Sị Páo Chù… Đang rối bầy con và bà xã tưởng Ba Cưng nổi cơn khùng nên im thít.
Được rồi – bên lon ken ướp lạnh – Cưng trầm tư tính kế. Mày chơi tao sao tao chơi lại vậy cho mày biết lễ độ. Oán lên tận đỉnh và dồn dập bởi cái mùi khốn kiếp nó không chịu hoai. Dù đã bơm, đã xịt cả ty tỷ tấn nước cũng chịu sầu. Vậy rồi làm sao mà ăn uống hả thằng khốn? Mày ác vừa thôi… chơi như vầy thì đừng trách tao nghe… Hãy đợi đấy. Tao sẽ cho mày nếm cái chính mày cho tao xơi.
Kể cũng khá là công phu khi chế tạo bom bẩn. Khu dân cư đời mới kiếm ra cái chất thải loại một ở bụi bờ là không có à. Thiệt đó, Cưng đi cả buổi mà đành phải về và tự mình cho mình cái mình cần. Nói gọn cho nhanh là cho vô tô cả nước lẫn cái, quậy cho đều rồi trút vô chai. Phải gan. Phải can đảm. Phải chó lắm mới mới cho ra một chai ba xị đầy. Và một ngày đâu có đủ, phải hai ngày cơ bạn ạ. Đầy rồi, đủ rồi mới tính đến phương án là quăng bom vào lúc nào. Một hai hay ba giờ sáng. Ba Cưng là dân nhậu, ngủ ít lắm nên biết giờ nào thiên hạ chết trong mơ. Hai giờ, vâng, lúc nầy là lúc giấc say nhất… Nhưng mà khu dân cư điện đường sáng suốt đêm… cha… Cũng hơi ớn à. Đang quăng mà nó bật cửa nhào ra bắt tại trận thì… thì sao hỡi trời?
Ba Cưng lọ mọ thăm dò. Từ nhà Cưng đến tạp phẩm chừng năm trăm mét. Lần thứ nhất tất cả đều yên ắng. Lần thứ hai cũng yên ắng luôn. Lần cuối, thu hết can đảm Cưng xách trái bom vung tay ném mạnh vào cánh cửa sắt rồi quay đầu bỏ chạy. Hồi hộp vì sợ và chạy nước rút nên đến nhà là Cưng hào hển thở. Vừa thở vừa cười, chết mẹ mày nghe thằng khốn, chuyến nầy mày chung với ông một xuồng đi con. Chơi ông thì ông chơi lại. Cưng thú vị khùng khục cười không hay bà xã đang nhìn:
– Ông đi đâu mà sớm vậy.
– Mệt bà quá… thể dục chớ đâu.
– Ông có điên không mà thể dục vào giờ nầy?
Nhưng bà Cưng hết thắc mắc ngay tức khắc vì ồn ào từ nhà tạp phẩm. Bà xã tạp phẩm đang chu chéo lên và tất nhiên là chả ai ngủ nghê gì được. Vợ chồng Ba Cưng cũng lên coi thử chuyện gì vậy kìa? Lại bom bẩn, thiệt là khốn nạn. Bà Cưng nói:
– Thằng nào ác vầy trời không tru đất cũng diệt nó thôi.
Bà con cô bác cũng kẻ đôi câu người nửa chuyện góp vô mà nguyền rủa thằng ác độc, cả Ba Cưng cũng góp luôn:
– Mẹ nó… mới nhà tui bây giờ là nhà nầy… thằng nầy tui mà bắt được tui chặt tay.
Tạp phẩm nói với vợ:
– Em yên tâm, qua bên chị Hai đỡ vài hôm để anh lo xong rồi em về.
– Làm sao mà dọn cho sạch đây anh? Bao nhiêu hàng hoá là xem như xong rồi. Đổ bỏ chứ bán buôn chi được nữa hả anh?
– Anh đã nói là yên tâm. Thằng ném trái bom nầy phải đến dọn cho mình, nó phải dọn sạch, làm cho thơm anh mới chịu, bằng không nó chết chuyến nầy.
Nghe lạ. Một khách quan hỏi:
– Bộ anh biết thằng quăng bom hả nhiếp ảnh gia?
– Lúc hai giờ là tui đang ở bên khóm hoa Quỳnh chờ nở để chốp pô ảnh. Thấy thằng khốn đi qua, tôi nghi nên ém mình xem thử nó làm gì. Nó thăm dò hai lần, đến lần thứ ba thì quăng bom. Tôi chộp được ảnh nó rồi. Nó mà không giải quyết là nó chết.
Ba Cưng nghe qua mà lạnh toàn thân.
***
Chao là gian nan, là khốn đốn cho cả nhà Ba Cưng. Nói chi cho hết đoạn trường hỡi trần gian ơi? Nhục nhã hả? Muốn nhục anh cứ tha hồ nhục. Nhưng phải đền bù thiệt hại cho tạp phẩm quán. Chả có cái món gì mà rửa xong mà không còn mùi. Cái mùi mầy nó ám vô óc chớ đâu phải thường mà gió thổi bay. Cứ thế ghi vô sổ mà quy ra tiền. Rồi lau chùi cho sạch… Bà nội mẹ nó cả thiên hạ. Chúng cứ bu vô mà chỉ trỏ mà bàn tán mà hỉ hả cười.
Và Ba Cưng đúng là một ông chồng một người cha vô trách nhiệm, một thằng hèn không hơn không kém. Thứ gì bày ra rồi phủi tay. Cưng giao vụ dọn dẹp và đền bồi cho vợ con, hắn ở nhà lặn sâu trong buồng, cửa kín mít và điện đóm tắt ráo. Bà Cưng phần nhà mình chưa yên thêm nhà người vây hãm, ngày cật lực lau chùi, cái mùi ám ảnh suốt cả đêm. Có ai bình tĩnh được không? Ai dám nói có tui nè cho người đó triệu bạc xài chơi liền. Bà Cưng hết khóc là quay qua chửi. Ba Cưng nín khe. Âm thầm trong bóng tối Cưng nốc rượu. Thiên hạ chê cười nhục thì chớ, con cái có coi ra chi đâu. Không nhục Cưng đâu có náu mình trong bóng tối. Nhục và đau đớn nữa.
Nhưng mà ai? Thằng nào đã thả bom bẩn vô nhà tao? Thằng tạp phẩm, thàng chó cắn hay anh em thằng Tiến? Thằng nào, ra mặt đi. Dám nhận là tao chơi thằng đó tàn đời liền. Có rượu vô Ba Cưng cứ lẩm bẩm một mình. Bà xã và con cái thôi thì kệ ổng đi bây ơi.
Tất nhiên là cái gì cũng qua. Mùi chi cũng phải bay hết. Mọi sinh hoạt trở lại bình thường. Có một kẻ không thường được, đó là Ba Cưng. Cưng cứ ngồi bên cái bàn đá và chai ba xi đế mà nhảm. Cứ nhảm miệt mài, lâu lâu vỗ bàn hét lên bằng tiếng tàu rằng Ngộ Sị Páo Chù.
Lũ con nít đi ngang nghe la hỏi:
– Ê… ổng la gì vậy ta?
– Tao đách biết, để tao hỏi anh Thanh Bụi coi.
Thanh Bụi cười mà rằng:
– Ngộ sị páo chù là tao sẽ trả thù… thù cái cù loi tao. Khùng mà thù với oán.
Nguyễn Trí
Cô giáo Sao Mai.
Cơ ngơi của Sao Mai, giáo viên tiếng anh trường trung học X, không một giáo viên nào không ao ước.
Mấy giáo viên tập sự thích nhất cái sân nhà cô tổ trưởng bộ môn. Đủ cho tất cả các loài hoa. Hồng, thược dược, phong lan. Trong năm mươi mét vuông nối sân và nhà ở là hai mươi bộ bàn ghế, gian nầy mới là nơi thật sự làm ra của cải, và lấy đi của cô nhiều nước miếng nhất trong sự nghiệp giáo dục. Mười năm trong nghề, nhưng thực ra cô dậy ở nhà gấp ba thời gian ở trường. Một đến ba giờ một ca, ba đến năm ca nữa, bẩy đến chín là ca cuối trong ngày. Anh văn sáu bảy tám chín cô nhai mười năm nhân ba, nhuyễn như cháo cúng thí.
Sao Mai tinh thông bộ môn lên hàng thượng thượng. Cái chứng nhận giáo viên dạy giỏi cấp huyện là một minh chứng rõ nét. Và để có được nó, cô đã phải tham dự những ba năm. Vô lí mà một lô một lốc giỏi cấp trường mà khuyết cái huyện sao? Tất nhiên rồi, cứ một bài mà hát đi hát lại không ngưng nghỉ buộc phải tinh, mà tinh luôn đi với vinh như ông bà dạy. Đâu khơi khơi mà có, Sao Mai đã phải chiến đấu dữ lắm mới tồn tại, lơ mơ và không thông chữ Biết, theo ý nghĩa khôn chết dại chết biết sống dễ mà ra hôm nay.
Hồi mới vô xứ nầy với tấm bằng cao đẳng khoa tiếng anh. Nó chỉ không ngon lành ở cái hệ. Khi đi xin trường để tham gia giảng dạy, ba từ hệ tại chức nên mấy trường ở thị trấn, hoặc mấy xã trên lộ nhựa, đều khéo léo:
– Cô thông cảm, trường đủ giáo viên bộ môn rồi.
Gần hết hè mà vẫn không tìm đâu ra nơi để không ăn nhờ. Cậu e hèm:
– Mi vào trong sông tau giới thiệu cho, Hiệu Trưởng trong nớ là bạn tau. Xem như dạy tạm niên khóa ni, qua năm rồi tính tiếp.
Sao Mai phải khăn gói vô sâu xa. Đường sá nhìn là khỏi nhớ quê hương xứ sở. Cả thầy bà cũng đen nhẻm đen nhèm, trường lớp thì như câu đối của thầy Cao nhà trống ba gian một thầy, một cô, một chó cái. Học trò dăm đứa, nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi. Muốn qua sông phải đi đò, Sao Mai tưởng vào Nam ngon lắm, ai ngờ vẫn khói lam chiều dàn mướp lá lên xanh, đành ngâm câu một duyên hai nợ âu đành phận. Trước mắt là vậy rồi sau tính tiếp.
Là cái trường nầy đây. Lúc ấy phôi thai lắm, một lớp chín, hai lớp tám, ba lớp bảy, bốn lớp sáu. Sao Mai được nhận vì, một là, mười lớp mà chỉ có hai ông già dạy tiếng anh với tư cách hợp đồng. Hai là, cô có cái bằng còn hai ông kia không một mảnh lận lưng. Tuy bằng cấp, nhưng học kiểu nghe qua phát thanh, tương đối khâu ngữ pháp nhưng phát âm cô chệch choạc, chẩu chàng lắm. Hai tay già hỏi vài câu xã giao, có câu cô không luận nổi để trả lời. Tuy nhiên họ không chấp mà chậc:
– Nay không giỏi, mai giỏi. Nay không hiểu, mai hiểu, nghề dạy nghề lo gì.
Anh văn có ba người nên ra một tổ. Tấn, nguời già nhất được phân làm trưởng nhưng ông lắc đầu, ông trẻ hơn tên Tùng cũng lắc, nói:
– Cứ để cô Sao Mai làm tổ trưởng anh văn, dù gì cô ấy cũng có cái bằng.
Vậy là cô ra tổ trưởng.
Cô đến khổ với hai cha nội già nầy. Vì họ giỏi. Cả hai đàm luận với nhau bằng tiếng anh như hành vân lưu thủy. Sợ nhất tiết dự giờ để đánh giá tiết dạy. Họ thông cảm vì cô chưa qua sư phạm, chưa có kinh nghiệm đứng lớp, nhưng họ chê thẳng cánh khâu phát âm của cô. Không tiết nào cô được đánh giá khá, chỉ trung bình là hết mức. Chán quá, cuối niên khóa cô lại tiếp tục đi ra phố kiếm chỗ dung. Buồn thay. Có lẽ cô có duyên với sâu xa.
Hai tay già thì kiếm thêm tí chút khoản kèm cặp. Sao Mai nẩy ra ý định dậy thêm (vì không ai thuê kèm). Họp giáo viên toàn trường Tùng nói:
– Tôi nghĩ là thầy Hiệu Trưởng nên đình chỉ việc dạy thêm của các thầy cô trong trường vì dạy thêm dứt khoát sẽ phát sinh tiêu cực.
– Thế thầy và thầy Tấn dạy kèm thì sao? – Một giáo viên Toán hỏi.
– Kèm và thêm hoàn toàn khá xa nhau.. Chúng tôi kèm cho những người cần tiếng anh cho một mục đích khác. Thầy dạy thêm là thêm cái gì, xin phân tích cho tôi nghe.
– Thầy không thấy có những học sinh…
– Tôi thấy hết và thấy rõ nữa là khác, nhưng thầy cứ dạy cho hết bài trong tiết, đừng dạy làng nhàng rồi dùng áp lực bắt học trò học thêm chỉ vì tiền.
– Thầy nhầm rồi, tôi dạy thêm cho học trò yếu và không nhận thù lao.
– Đó là thầy nói, còn tôi và cả thiên hạ không ai có công mà không cần lộc. Dạy thêm đã và sẽ bị học trò coi thường. Khi một thầy cô giáo bất kì nào nhận tiền từ tay học trò, đã mặc nhiên xem như bán chữ, trong một chừng mực nào đó, trò đã hóa thành chủ. Và người nhận tiền, tuy không tớ nhưng suy ra cũng bằng. Tôi mong các vị hiểu cho?
Các thầy cô đang cải thiện đời sống bằng cách thêm bực lắm. Nghề giáo biết làm chi với tay trái? Xã hội luôn nhìn với đôi mắt kính nể. Không thể đưa vai và lưng để làm việc bình dân. Đồng ý không có nghề chi xấu, nhưng mà… Hiệu trưởng lên tiếng:
– Lương ngành của chúng ta nói chung là thấp, rất thấp. Trường ngơ cho các thầy cô kiếm thêm. Tôi mong các thầy cô hãy để yên việc nầy, tương lai chắc chắn sẽ có quyết định tối hậu của cấp cao. Theo tôi thì việc dạy thêm cũng không có gì xấu, nó giúp cho học sinh tiến bộ hơn.
Tấn cười nhạt:
– Tôi đồng ý rằng thêm không xấu, nếu thầy cô đó trong sáng, và phải thêm một cách có lương tâm. Tôi chắc thầy Hiệu Trưởng cũng có nghe tới một vài thầy cô dùng thủ đoạn như mắng mỏ, ai không học thêm là sẽ có vấn đề, đến nổi đã có lời ong tiếng ve từ phía phụ huynh và cả học sinh nghe đau lòng lắm. Và đau lòng là chuyện nhỏ, học trò sẽ mất niềm tin vào thầy cô mới là vấn đề lớn.
Cuộc họp có phần căng thẳng. Tất cả yêu cầu Tấn nêu đích danh kẻ tiêu cực, nếu không Tấn là kẻ đầu têu phá hoại tính đoàn kết nội bộ. Tấn cười:
– Tôi có đủ chứng cứ để đích danh những kẻ tiêu cực trong vụ thêm thắt nầy. Nhưng lúc ấy các vị sẽ đòi tôi cung cấp những phụ huynh, học sinh nào đã phản ảnh, và chắc chắn sẽ có hậu quả cho học sinh đó, vì vậy, tôi xin từ chối đích danh ai. Tôi chỉ khuyên các bạn là đừng làm mất niềm tin của học trò bởi ba đồng bạc mọn, phải hiểu rằng, điều đó tai hại lắm. Nhân đây tôi cũng thông báo cho ban giám hiệu là tôi xin ngưng hợp đồng. Bắt đầu từ hôm nay.
Một tháng sau Tấn nghỉ. Niên khóa kế Tùng cũng theo chân. Một bằng C anh văn khác xin hợp đồng, phòng giáo dục điều về hai giáo viên khác. Đương nhiên Sao Mai trở thành lão làng của bộ môn.
Ai cũng biết rõ, rất rõ, năm nầy đến năm khác, cả ty tỷ lời ong tiếng ve cho thêm thắt, có cả cấm luôn. Thoạt tiên Sao Mai cũng sợ. Nghĩ dùm đi, lương hiện tại, sâu xa nên thêm phụ cấp đất đỏ tổng bốn triệu. Trong khi đó, mỗi lớp cô dạy thêm ba mươi em, mỗi em hai trăm nghìn một tháng (tuần hai buổi) là sáu triệu. Cô có sáu lớp thêm như vậy, là bao nhiêu? Không cho dạy, lương có thêm mười triệu một tháng cô cũng không ham. May quá, nói cấm nhưng làm sao cấm. Cấm là giáo viên bỏ lớp liền.
Ủa mà sao cô có nhiều lớp dạy thêm vậy? Thì đó, cô dạy hai lớp sáu và hai lớp chín. Mấy cô giáo kia nếu muốn thêm như cô phải giới thiệu học trò qua, bằng không, dạng mới về trường dù anh chị có tốt nghiệp cỡ nào, muốn biên chế, phải hợp đồng trước đã, và trong thời gian ấy, phải thật sự giỏi mới được tổ trưởng bộ môn đề nghị. Muốn giỏi ư? Phải biết. Khôn cũng chết mà dại thì phải chết.
Thấy Sao Mai không? Chỉ có cái tại chức. Vậy mà cô bình như vại suốt từ bấy nay, vì cô biết. Cô biết vợ thầy Hiệu Trưởng cần chi, nhà cô Hiệu Phó chuyên môn thiếu tiện nghi gì. Trên tất cả cô biết ai cũng thích nghe lời nói nịnh. Quan trọng là phải biết nói làm sao để lọt đến xương cùng.
Vậy mới nên nhà nên cửa, nên nhiều thứ lắm. Thậm chí đến chồng, tuy chỉ bảo vệ trường, nhưng học trò vẫn gọi thầy nầy thầy nọ.
Nhưng Sao Mai không vui. Cô buồn. Rất buồn. Sợ. Rất sợ và hằn học nữa.
********
Nhà cửa, tiền tài, địa vị, thiếu cái chi mà tâm trạng thế?
Sao Mai hối không kịp khi lấy một nát rượu làm chồng. Thực ra thì chồng cô mới bê tha đây thôi. Trước, Minh cũng đàng hoàng lắm. Sao Mai thuận là vợ Minh đồng nghiệp lắm kẻ bỉu môi. Họ chê gì nhỉ? Có gì đâu, cái thói đạo đức giả đâu cũng có, ai cũng cho rằng không nghiệp chi xấu trừ bán trôn nuôi miệng, nhưng chả thần tiên nào thích bằng hữu với ma quỷ. Trí thức ít ai hạ mình chơi với ít chữ. Bảo vệ trường sánh duyên cùng cô giáo ư? Chính Sao Mai còn có cảm giác hạ mình nói chi ai.
Thực ra Sao Mai cũng thích lắm một bờ vai để tựa, khốn nổi, nhan sắc cô dạng tầm tầm, không động đậy một trái tim si nào. Minh thất nghiệp, tán tỉnh trăng gió cho vui. Ngờ đâu duyên bén quá nên đá vàng trọn kiếp. Sao Mai hết cái cô đơn ngồi đếm tiền một mình. Lấy nhau rồi cô xin chân bảo vệ cho chồng. Bảo vệ ư? Nhàn lắm. Đánh trống chào cờ, trống vào lớp, trống tiết, trống ra chơi, đi loanh quanh và đời không mỏi mệt. Nhàn nên Minh lai rai đôi sợi. Chuyện nhỏ thôi mà, đôi khi thầy giáo còn có mùi hèm nói chi bảo vệ. Tuy nhiên người ta rượu lễ rượu nghĩa, còn Minh luôn hò ra tới Huế.
Và nếu chỉ chừng đó thì Sao mai cũng có thể cho qua, vì đời ai chả có một cái gì đó để mê. Nhưng Minh cũng như bao kẻ vì rượu khác trên đời. Tự ái lắm khi bè bạn nói mày được vợ nuôi. Trước, họ xa xôi về những cái không hay không phải của những thầy cô dạy thêm. Sau, chắc là do rượu, họ bảo con vợ mày cũng chẳng tốt lành gì. Nhà tao chạy gạo chết mẹ mà không học thêm con vợ mày, tức cô Sao Mai ghẻ lạnh, thậm chí sỉ nhục con tao trên lớp. Minh nghe mà chả chống chế chi được. Anh ta văng tục, chửi thề. Cô nhịn, Minh lấn tới. Bức bối Sao Mai cự lại, hắn bạt tai vô mặt vợ. Đỉnh điểm, cô vất ra cái giấy li hôn yêu cầu Minh kí. Giáo viên mà đi đến quyết định như thế là cực đoạn lắm, nhưng cả thiên thần cũng bó tay nếu bay trong hỏa ngục.
Nhưng rồi cô phải tự tay xé tờ li hôn dù phải viết lại những ba lần. Lần thứ nhất, Minh xé bỏ kèm ỉ ôi năn nỉ. Lần thứ hai, lần thứ ba. Nhưng đến lần thứ tư Minh kí. Anh ta cười khẩy:
– Mày – Minh gọi vợ bằng mày – tưởng tao hèn lắm sao? Sống với mày vinh lắm chắc?
– Không lẽ nhục?
– Chính xác là rất nhục. Mày tự đóng khung vào trong cái vó trí thức rỡm, đâu có biết bên ngoài kia, thiên hạ nói gì về bản thân mày.
– Anh đi nghe thiên hạ, thì lấy của thiên hạ mà nhậu.
– Tao sẽ nhậu bằng cái của tao làm ra, hơn là ăn cái của mày.
– Của tôi thì sao?
– Của cô ấy à? Cô có nghe thiên hạ nói sao không? Họ bảo cô là con đĩa rút máu học trò. Đứa nào không học thêm cô đì bằng cách mắng mỏ ngay tại lớp vì dốt, cô dạy thêm bằng cách dạy trước cái sẽ học, người ta bảo cô không có lương tâm. Làm giáo viên mà bị đánh giá không có tâm cô nghĩ sao?
– Anh biết gì về Tâm mà lớn giọng? Tâm của anh là ba giọt rựợu và cái vũ phu kìa.
– Tôi không nói tôi mà tôi đang lập lại lời thiên hạ nói về cô và những thầy cô giáo dạy thêm khác. Họ và cô không xứng để học trò noi theo.
– Chúng tôi dạy thêm không bất hợp pháp, thiên hạ ghen ăn tức ở, mặc kệ họ.
– Những ông thầy bà cô dạy thêm kia thì không nói, riêng cô thì khác đấy.
– Tôi thì sao?
– Vì bằng cấp của cô là bằng mua…
– Cái cao đẳng của tôi mà mua à? Anh nghe ai nói thế?
– Tôi không nói cái cao đẳng, tôi nói cái bằng sư phạm của cô, cô qua sư phạm lúc nào mà có để vô biên chế? Bà Vân hiệu trưởng cũ tuy hưu, nhưng chưa chắc đã yên đâu. Cô liệu hồn đấy.
Sao Mai rúng động. Nhưng cô tự trấn an mình, dễ gì người ta biết để truy. Mà nếu có truy thì sẽ bể ra từng cụm dây mơ rễ má, họ sẽ bưng lại cho kín. Không sao, trong ngành dễ gì họ giết nhau, ừ dễ gì…
Cô bâng khuâng nghĩ tiếp. Lỡ bể ra thì sao nhỉ? Rõ cái bằng của cô không biết từ đâu mà hiệu trưởng cũ có để giúp cô. Hiệu trưỏng có thể không sao, vì đã hưu rồi. Nhưng còn cô? Chuyện truy căn đâu có khó. Cô bị đuổi khỏi ngành là cái chắc.
Sao Mai sợ. Ai cấm đựợc gã say bên chén rượu huỵch tẹt chuyện nầy. Nó sẽ lọt tai mấy kẻ đố kị trong trường, một lá đơn có chữ kí của vài giáo viên đề nghị xem lại tất cả các cái về cô là sạch.
Cô xé bỏ tờ đơn li hôn mà khó khăn lắm gã chồng mới kí. Đành thôi vậy. Nhịn một tí cũng chẳng chết. Không lí là chồng mà nó đi khai chuyện không phải để sụp đổ sự nghiệp của vợ sao? Cô giận dữ chửi thầm :
– Đồ súc sinh.
Nhưng súc sinh không chịu, gã viết lại tờ đơn li hôn. Sao Mai thật sự ngạc nhiên. Cô hỏi:
– Anh muốn gì?
– Tôi muốn cô bỏ cái vụ thêm bớt đi, bằng không chúng ta chia tay nhau.
NGUYỄN TRÍ
Chả biết Thư đi đâu
Cái món cóc ổi xoài chấm mắm ruốc Huế và muối ớt Tây ninh của Năm Mập quyến rũ lắm. Dân ba xi đế mê đã đành, bầy học trò cũng tít thò lò luôn. Đừng nói đến dân ăn mặn, cả chay trường như chị em Thảo Hiếu và bé Thư cũng hít hà sau những buổi tan trường là rất chi thường tình.
Xin đừng trách Thảo Hiếu Thư. Cả ba cùng một hoàn cảnh cha mẹ chia tay. Cha có vợ khác, mẹ cũng vậy nên chị em Thảo Hiếu ở với bà nội. Cô ba ở chùa từ nhỏ nên đưa hai chị em vào chùa tu cái tâm. Ở chùa đương nhiên là chay trường và tóc phải xuống. Nói vậy chứ ngày nào cũng rau củ quả tàu hủ nước tương, lớn còn thèm thịt cá nói chi nhỏ. Không phải là kiểng chùa nơi Thảo Hiếu Thư nương nhờ cũng dọn bữa có cá thịt đùi gà cánh gà bằng tàu hủ ky đó sao? Ở đó mà không vọng.
Thiệt tình, mắm ruốc và muối ớt đã quá trời ạ. Năm Mập lôi kéo bầy học trò về quán của bà khiến ngữ bán hàng rong trước cổng trường không ai dám tranh, ế liền nếu dám ti toe. Người ta cũng chế chiếc mọi cách cho ra cái cay mặn ngọt trứ danh nầy, nhưng cuối cùng phải chào thua. Lại đánh Năm Mập bằng đòn ê muối và mắm ruốc của bả có bỏ xì ke khi chế biến, bây ăn riết ghiền xì ke luôn cho coi. Lão Năm nghe qua cười khì khì:
– Có thì tao đi buôn xì ke luôn cho mau giàu, ngu sao pha vô muối mắm.
Tan trường là bầy trẻ ùa vô. Ba nhóc nhỏ tu vì hoàn cảnh về muộn nhất vì ngại bạn bè nói nâu sồng mà cũng mắm ruốc. Với lại vợ chồng Năm Mập thương nhứt ba đứa nầy, nghĩ đi, có cha có mẹ mà phải nương nhờ cửa Phật thì tủi nào hơn. Được cái bầy trẻ tiền nhiều, muốn chi có nấy. Riêng Thảo Hiếu nhận trợ cấp từ hai phía. Cha lâu lâu ghé chùa dúi một ít, mẹ cũng vậy. Nói chung cha mẹ nào chẳng thương con, ai chẳng xót lòng khi đẻ ra mà tống cho nội ngoại, rồi từ nội ngoại mà thẩy lên chùa thì trời ơi xót lắm. Nhưng biết làm sao? Thảo Hiếu nghe nói ở với cha hay mẹ ghẻ là lắc đầu. Tại sao lại ghẻ chóc khi ta có nội? Thôi thì bù cái vật chất để chúng yên tâm học hành, ba bữa lớn rồi ba má tính cho.
Thảo Hiếu thì dù sao cũng còn cô ở chùa ngó mắt nhìn qua. Còn Thư? Thư có khác hơn một tí. Một tí thôi nhưng lại rất đau lòng. Mười ba tuổi dáng dấp ra chiều lắm. Ốm nhưng không mòn, dáng nầy mà lớn tí là người mẫu chắc như bắp. Thư bảnh nhứt sóc, xài máy tính bảng, miệng nhai cóc ổi chắm mắm ruốc tai nghe nhạc sành điệu như dân phố. Ba dượng của Thư là thầu xây dựng nên tiền vô thiên lũng. Còn ba ruột? Thảo kể với bà Năm Mập:
– Nó nói tưởng ba là ruột ai ngờ không phải Năm ơi.
– Là sao?
– Năm nói nó kể cho nghe, con không biết kể làm sao nữa.
Là chúa tò mò chuyện thiên hạ nên bà Năm kể với chồng rằng. Nó nói đâu ngờ ba má là rổ rá cạp lại, nó tưởng con ruột của ba, cho tới một hôm:
– Lúc đó con mười tuổi rồi Năm, con đón em đi học về nghe cha chửi má là lăng loan, là đĩ thoả… Cha la lên. Mày còn tơ tưởng đến cha con Thư thì theo nó mà sống… Rồi sau đó là li dị ba dẫn em con đi mất. Con ở với má.
– Rồi sao mày vô chùa? Rồi ba ruột của mày đâu?
– Má nói ba ruột con chết rồi.
– Chết? Mà sao chết? Rồi má mày sao mà gặp ổng? … Mày nói Năm không hiểu chi hết trơn.
– Dạ… má kể ba ruột bị ung thư gan, tại ổng uống rượu dữ lắm. Bữa đó ổng gặp má giữa đường xin tiền bị ba con gặp. Ba hiểu lầm nên bỏ má con. Sau đó ba ruột con chết… là má kể vậy nên con biết vậy.
Bà Năm chép miệng xoa cái đầu trọc và vuốt cái chỏm tóc con bé ra chiều thương cảm
Riêng chuyện vì sao vô chùa thì Thư không nói. Nhưng bà Năm vẫn biết vì Thảo kể:
– Nó nói bị ông dượng thầu khoán mò Năm ơi.
– Trời đất ơi… có chuyện đó sao con?
Mấy tay khoán khuyết nầy cũng ma bùn lắm. Chiều nào cũng lai rai với anh em thợ đến mút cà tha. Thầu mà, ăn nhậu và huê tình ghê lắm. Cũng phải cảm thông cho họ. Làm ăn lơn lớn, tiếp xúc với dân cầm bay chặt gạch thầu không đẹp là vong liền. Dăm ba khung bia vào chiều thứ bảy nào có chi lớn. Lớn là mấy anh bên trên. Tỷ như xây dãy trọ cho một trung gia nào đó, tuy giấy phép đủ nhưng ân tình đâu thể ta lơ, đúng không? Xây dựng phải biết sống biết chơi mới bền. Mấy cái nhà mọc lên từ một lô nông nghiệp nào đó còn lâu mới phép tắc. Thầu mà không quen biết lớn dễ chi thông. Mà mấy anh ni đâu phải như bọn thợ nhậu xong rồi vui vẻ về với vợ. Dũng Thầu – cha ghẻ của Thư – phải đưa quý anh đi mát xa chân, mát xa đá. Dũng cũng mát.
Chuyện làm ăn phải vậy. Thầu cầm bạc vạn trong tay đâu sướng ích chi. Nhất là các chị em phụ hồ bưng gạch. Nhiều em đẹp như tiên, duyên tình sao đó mà dang dỡ nên Dũng Thầu cám cảnh lắm. Anh cám em thì em cám lại. Thấy cảnh anh bị vợ bỏ em thương liền. Mà thiệt là Dũng và vợ chia tay. Không chia sao được khi chồng cứ ngoài đường mà lượn. Tháng mò qua nhà một lần thì đường ai nấy đi cho rồi. Mấy em ni thì thiệt mà nói đâu có tình chi với anh. Em thương và đi nhà nghỉ với anh chả qua anh cho tiền. Tàn cuộc là xong. Vậy nên mới ra chuyện Dũng Thầu ráp vô một nhà với má Thư.
Sau li dị má được hưởng căn nhà. Dũng Thầu đưa lính đến gia công cái bếp nhà Thư. Cùng cảnh cô đơn nên cả hai ráp lạị mà nên chồng vợ. Má đẻ cho dượng một thằng cu. Trời ơi. Dượng mừng thiếu điều sập nhà. Thư yên lành ngày cắp sách đến trường, tan học về ru em phụ má. Đời nếu vậy mà tới luôn cho tới chết thì hay quá. Nào ngờ một tối kia, mẹ cha ơi. Má mà không mắc đi ngoài thì chết chắc. Đi ngang phòng Thư má thấy thằng dượng ghẻ khốn kiếp đang ở trong mùng con nhỏ mười ba tuổi, tay nó đang sờ soạng trên ngực… Má lạnh gáy, lạnh toàn thân… trời ơi con nhỏ vú vê như vú chó mà ham hố chi hả trời? Má liền lôi thằng khốn về phòng:
– Trời ơi – dượng phân trần – tui say. Tui đi lộn phòng, tui tưởng bà…
Má hỏi Thư:
– Ổng có làm chi con không? Mấy lần rồi?
Má nghe nói những ba lần tuy chỉ sờ mó chút đỉnh thôi nhưng má hoảng lên. Thánh cũng hoảng chứ nói chi ai. Vội vàng đưa Thư gửi cho chùa.
Nghe qua Già Năm điên gan:
– Đù má… thằng ghẻ chóc khốn nạn. Mà sao con nhỏ không cho má nó hay?
– Ông không thấy nó lớn bộn rồi sao? Thời buổi giờ khó nói lắm ông ơi…
Ừ – già Năm ngẫm nghĩ – Khó nói thiệt. Thời mà ngay cả các gia đình cha mẹ đình huỳnh ăn nên làm ra còn dụng tiền để mua hạnh phúc ảo. Không phải cứ tiền và đưa rước đến tận cổng trường là bậc cha mẹ đã có quyền tự hào rằng ta đã tròn trách nhiệm đó sao?. Chả ai có thời gian để biết rằng khi cổng trường đóng lại, thầy cô giáo đã xong trách nhiệm truyền đạt kiến thức là bầy trẻ con nhào vô quán cóc ổi mắt dán vô máy tính bảng chơi game, nghe nhạc, xem phim… Chúng dậy thì sớm là tất nhiên. Những đứa có cả một mái ấm hạnh phúc cha mẹ anh chị đủ đầy còn không quản nổi lọ chi cha đông mẹ tây như Thảo Hiếu Thư. Ai ngó ngàng đến chúng. Chùa ư?
Đúng rồi. Chùa phải lo chứ sao. Đừng có tưởng từ bi hay không không sắc sắc rồi chùa cũng sắc không cái vụ tiền nghe. Có tu cũng phải ăn, ông Phật còn phải khoác áo rách đi khất thực nói chi sư sãi. Có gửi con em đến chùa xin chút từ tâm cũng phải gửi cái cho chúng ăn và cắp sách đến trường. Mọi cái được quy ra tiền. Một tháng là… Còn thí chủ muốn cúng thêm bao nhiêu cho chùa thì tuỳ tâm… Vậy thì khi quý ngài đã nhận tiền thì phải có trách nhiệm về nhân thân của người đó đúng không? Chuyện đó tất nhiên là không ai cãi hết. Nhưng qúy sư thầy, quý chư ni cả một đời chay lạt tụng kinh gõ mỏ, họ biết cái chi ngoài ta bà không nhỉ? Biết chứ. Biết nhiều, rất nhiều. Nhưng thông không? Các vị ấy có con mắt giữa trán như Dương Tiển cũng không nhìn ra cái chi ẩn dấu trong những tâm hồn rất trẻ đang bị lạc. Thảo Hiếu và Thư có đường nào để bước đâu mà mà không lạc.
Già Năm nghĩ mà ngậm ngùi cho bầy trẻ quá. Nhất là con Thư. Mà vợ chồng Năm Mập nầy cũng đa ngôn đa thế sự dữ, chuyện thiên hạ nhúng mũi vô làm chi cho nhọc. Cóc ổi mắm ruốc không lo ở đó mà lo đời. Thiệt mà nói, vợ chồng Năm Mập tội nghiệp lắm, nghèo của thì chớ, nghèo luôn cả con. Tròm trèm sáu chục mà chỉ hai vợ chồng ra vô ngó mặt nhau. Nghe đâu hồi trẻ cả hai cũng một thời ngang dọc, dân đội trời đạp đất. Cỡ bà Năm rành mắm ruốc Huế thì chớ còn sành điệu cả muối ớt Tây ninh. Cha Năm mới ghê, ngồi nghe chả kể chuyện bốn phương rồi có ba giọt vô chả ôm đàn hát bài trên bốn vùng chiến thuật là dân chơi lé xẹ nguyên cả cặp mắt liền. Nhớ cái bữa bầy học trò méc mấy người bán rong nói muối mắm ông Năm có trộn xì ke ông Năm ơi. Già Năm liền thân chinh đến từng thằng cha, từng con mẹ điểm mặt:
– Muốn bán ở đây để kiếm sống không? Tao quậy là bây vong à.
Đơn độc nên bà Năm thương lắm bé Thư. Có máu du côn nên Năm già dằn cha thầu khoán – thằng dượng ghẻ chóc – nhân một hôm hắn ghé trường rước nhỏ Thư.
Xưa nay mấy tay thầu xây dựng có cái ngoài bảnh lắm. Tay ga đời mới áo bỏ vô thùng kính mát Rayban. Nhìn qua là thiên hạ kính lắm chứ không chơi. Năm già cũng kính, kéo ghế mời ngồi, rót trà đưa tận tay:
– Ông là cha con Thư hả? Chà… bảnh dữ ha… Ông thầu khoán hả? Làm tách trà chơi. Nhỏ Thư sao mà phải gửi lên chùa vậy ông? Hề hề hề… nó ghé đây nhai cóc ổi mắm ruốc hoài hề hề hề…
Nghe cái giọng cười là biết ngay tay già bố láo nầy có ý xách mé rồi. Thằng ngu còn biết nói chi già đời như Dũng Thầu. Và Dũng chứ đâu phải con gà rù mà trêu? Mẹ nó… thầu nào dưới trướng không có vài thằng em đâm cha chém thiên hạ, và dưới mấy thằng nầy là một lũ cô hồn sống. Không có bè lũ nầy dễ gì có công trình mà xây tô dán gạch? Dũng cũng xách mé:
– Ông anh sít tốp lại cho em nhờ tí được không? Cóc ổi lo cóc ổi đi há, đừng đâm lao vô chuyện người khác được không ông anh?
– Hề hề hề… cái tính tui nó chó vậy bạn ơi… tui xía vô là vì tui coi con Thư như con cái trong nhà. Nó có kể cho bà nhà tui cái sự vụ vì sao má nó gửi vô chùa… thì ra là do ông anh đây mà ra cả.
Thầu ta văng tục liền. Thầu mà không dữ dằn dễ gì trị được thợ:
– Ông im cái miệng thúi lại… muốn cái quán nầy banh chành không?
– Ông nhắm lại tui không? – Bà Năm xía vô.
Dũng phắt dậy móc di động alô … tao đây… rảnh hông nhờ tí coi. Tao đang ở… bà má nó tự dưng có một thằng già đòi xử tao… ờ… xuống lẹ đi. Tao chờ…
Mười phút sau cuộc gọi hai chiếc cũng phân khối lớn nẹt ga bốc đầu thắng cái réc. Bốn thằng xâm mình rằn ri, tháo nón bảo hiểm là lòi ra bốn trái dừa khô, mặt mũi trông sát khí đằng đằng. Vừa vào quán lập tức một thằng la lên:
– Trời đất… tưởng ai. Ông ở đây hả ông Năm?
Nó nắm tay già lựu đạn lắc lia lịa ra cái rất thân tình. Năm già lại hề hề:
– Tao chớ ai mậy? Mầy làm cái khỉ mẹ gì đây?
Thằng xâm mình lôi Dũng Thầu ngồi lại ghế. Thầu ta ngơ ngác nghe giới thiệu chương trình:
– Ê… Dũng Thầu, giới thiệu với ông đây là Năm Lì, ông thầy của tui. Bộ ông ghẹo ổng hả?
– Đâu có mày ơi – Già Năm trả lời hộ – Có mấy thằng đi ngang đây xin thằng Dũng vài đồng, nhưng tao quyết xong rồi. Ai dám ghẹo tao mậy?
Vậy là cả bọn nhào vô làm vài xị với cóc ổi mắm ruốc cùng muối ớt. Dũng Thầu ngồi tì tì không dám uống nhiều, rượu vào lời ra hố hàng là chết. Tàn cuộc rượu Năm Lì nói với thầu biến thái khi bọn đầu trọc đã rồ ga lên đường:
– Đời tao cũng khá súc vật, nhưng kiểu như mày thì không? Cỡ mày tao búng một cái là vô tăm tích… Về nói với vợ mày đem con Thư về. Không nên gửi nó vô chùa. Nó đâu có tâm tu mà buộc nó chay lạt. Tao nói mày hiểu không?
Cuối năm học Thư rời chùa về nhà. Má nó tậu cho chiếc xe điện. Chiều chiều Thư nhấn ga vi vu lên chùa thăm Thảo Hiếu, nó lại ghé ngang vợ chồng Năm Mập ăn cóc ổi xoài. Mười bốn tuổi nó lớn phổng và xinh ơi là xinh.
***
Nhưng một tuần trước năm học mới, không thấy Thư có mặt như mọi hôm. Năm già chưa kịp hỏi thì má nhỏ Thư tốp xe, vẻ tất bật:
– Có con Thư đây không chú Năm?
– Không. Sáng giờ nó không có mặt đây… Sao cô không gọi điện cho nó?
– Không hiểu sao nó không bắt máy chú Năm ơi… cha ơi… không biết nó đi đâu vậy kìa?
– Không chừng nó lên chùa chơi với con Thảo với thằng Hiếu…
– Con lên rồi… không có nó ở trển chú ơi.
Nói rồi bà mẹ tội nghiệp phóng xe đi. Năm Già nhìn theo gật gật đầu ra chiều nghĩ ngợi. Giả nghĩ gì vậy kìa? Được một lát Năm ta cũng lấy xe:
– Ông đi đâu vậy? – Bà Năm hỏi.
– Tui tìm thằng thầu khoán coi sao.
Lúc về chồng kể với vợ rằng thằng thầu cũng không biết con nhỏ đi đâu. Thầu thề với Năm lựu đạn rằng nó có chi bậy bạ thì Năm cứ thiến nó… Chà… vậy thì con nhỏ đi đâu? Một đêm trôi qua, thêm một ngày nữa cũng bặt tin tức. Không điện thoại, không bóng dáng chị chàng. Bà má tội nghiệp phần con trai còn nhỏ, phần đang bầu bì, cứ thút tha thút thít suốt… nóng ruột quá mà chả biết làm sao. Làm sao đây trời hỡi?
Năm lại chạy lên chùa. Lúc về, bà xã hỏi;
– Sao rồi ông?
Rất lâu. Lâu thiệt lâu. Năm nhấm nhẳn:
– Tui lên chùa xin gặp trụ trì nhưng mấy sư cô nói…
– Nói sao?
– Thầy cũng đi đâu hai ngày nay rồi, chắc đi họp bên giáo hội tỉnh…
Năm, mười, mười lăm ngày rồi một tháng trôi qua. Thư bặt vô âm tín. Thầy trụ trì cũng âm tín bặt luôn. Nhưng sau nghe nói thầy được chuyển đi đâu đó. Giáo hội đưa một thầy khác về quản chùa. Còn Thư? Có ai biết Thư đi đâu không?
Năm lựu đạn còn không biết nói chi ai.
Nguyễn Trí
Nhí Đen và chuyện không thể tin
Nhí. Đen nhẻm nên thiên hạ gọi Nhí Đen. Cũng thiên hạ với cái đa sự lắm lời:
– Bà mẹ nó, cha trắng, mẹ như bông bưởi, bà cô cũng không đen vậy mà nó đen thui.
Rồi cũng chính thiên hạ:
– Nó phơi nắng hồi còn nhỏ, không đen mới lạ à.
Tội nghiệp Nhí lắm. Nó rớt vô một cái gia đình bị quỷ ám. Cha nó tệ một cái hết biết luôn, đàn ông đàn ang gì mà sáng xỉn chiều say, giao việc kiếm tiền cho vợ. Mà phải chi già cả thì còn có thể cho qua, đằng nầy trẻ trung phơi phới. Mới sáng, Đỏ – cha Nhí – làm hai xị với tô bánh canh. Tiền bạc đã có má Nhí lo. Phê phê là về nhà văng tục chửi thề, vợ mà mè nheo là cho ăn cù loi, chị ruột nhằn nhò thì:
– Dẹp mẹ bà đi, nhà của tui, xét cần tui cho bà biến à.
Gặp trúng chồng như vậy, quả tình nếu không vì Nhí bà má tội nghiệp bỏ từ khuya. Cũng đã đôi lần má ẳm Nhí định làm một cuộc tháo chạy, kẹt cái bà chị chồng canh cháu hơn cú canh nhà bịnh. Chả là Nhí trong tay cô từ lúc lọt lòng. Cô không chồng vì vô duyên và xấu ình nên lấy Nhí làm vui sống. Lúc đầu má cũng mừng vì có người chăn con để mình đi kiếm cái ăn, cả cái nhậu cho chồng. Đàn bà con gái lam lũ trên cạn dưới sâu, trưa về vắt sữa nóng rồi mới cho con bú, tối đến lại bên con bên chồng nó vất lắm. Đến lúc quá chán thằng xỉn say, muốn ẳm con ra đi thì cũng mệt với cô:
– Mày muốn đi đâu đó kệ mày, con Nhí để đó tao.
Sợ dĩ bà cô nói vậy là do má Nhí đi phụ hồ có quen một anh thợ xây. Anh thấy má mắt đăm chiêu xa vắng. Đàn bà con gái dù mặt không xinh có mắt nầy dễ làm đàn ông động lòng lắm, huống chi má Nhí đẹp luôn nói chi xinh. Vậy nên anh thợ hỏi han, rằng sao buồn dzậy em? Rồi anh mua nước mời mắt buồn uống, trưa lại dọn cơm ăn chung. Má Nhí bị ngọt ngào làm rúng động, tóc tai môi má tươi trở lại. Và không qua được mắt bà cô già xấu vô duyên.
Một hôm kia má biến mất. Nhí cũng không khóc vì từ khi bỏ bú Nhí ngủ với cô. Cô dẫn cháu đi làng trên xóm dưới mĩa mai, trách móc về một cô em dâu táng tận lương tâm nỡ theo tình bỏ con thơ dại. Nhưng thiên hạ biết lắm cái hộ nầy nên nói rằng:
– Vậy là bà phải cám ơn. Thằng thợ hồ mà chịu để má con Nhí dẫn con theo là bà hết có cái hú hí để vui lúc về già đâu bà nội ơi. Với lại ở với chồng như em bà thì thà chết cho xong.
Vậy là bốn tuổi Nhí mất mẹ. Mất luôn, vì từ đó má không về thăm Nhí dù chỉ một lần. Sau đó ông cha nghiện rượu cũng mất. Rượu và sự lạm dụng đến thái quá khiến cha Nhí bị mất trí. Anh ta đi dọc theo lộ lượm rác bỏ vô bao, cứ vậy ngày nầy qua tháng nọ. Cho đến một hôm chả ai thấy tăm dạng ba hồn đâu nữa. Thiên hạ luận rằng có lẽ chết vì trúng gió hay xe tô chết đâu đó rồi. Với Nhí điều đó chả có chi lớn, cha là chi Nhí có biết hay cảm nhận được đâu? Lâu lâu nhớ về mẹ, có hỏi cô má sao không về, cái miệng Nhí nhỏ nhỏ xinh xinh, hỏi han nghe thương lắm, vậy là cô ôm cháu vào lòng thương thôi thì khỏi nói.
Bao nhiêu yêu thương và tiền cô lo cho cháu tất. Cô cặm cụi làm thuê, Nhí ở nhà vui cùng chúng bạn, hết lê la nghịch bẩn rồi dang nắng phơi mưa nên đen thùi. Nhí Đen dữ dằn lắm, có lẽ cái con lăn quăn của cha khi đặt vào bụng mẹ bị xỉn rượu chăng? Hay cái trứng của mẹ có mầm phản kháng? Dám cả hai lắm à. Vậy nên lũ bạn cùng trang lứa, đứa nào cà chớn là bị Nhí cho rơi nước mắt. May mà bà cô cũng mồm loa mép giãi, bênh cháu chằm chằm mên mấy mụ mắng vốn phải chắp tay chào thua.
Chuyện đi học của Nhí cũng nhiêu khê. Cha mẹ gì đâu mà đẻ ra chẳng chịu làm khai sanh cho con. Cô lên xã xin làm khai sanh cho cháu bị tay hộ tịch đòi phạt nầy nọ, năn nỉ không chuyển được với cái luật lệ chi đó mà tay hộ tịch trình bày, cáu lên:
– Chú mà không cấp khai sanh cho cháu tui, nó dốt là chú phải chịu à.
– Chị phải nột phạt vì trể hạn, đó là luật.
– Nhưng chú thấy đó. Tui không tiền chú hiểu không?
– Tui hiểu bà rồi ai hiếu cho tui?
Đến đây thì bà cô chu chéo lên. Ông Chủ tịch đang làm việc ở phòng bên nghe ồn vội ra nghe ngóng, sau đó ông chỉ đạo cho tay hộ tịch cho qua cái vụ việc nầy. Phải uyển chuyển và tùy đối tượng, ông bảo vậy. Bà cô thắng lợi dẫn cháu lên trường, đi đâu bà cũng nói tụi nó chớ mà làm khó được tui. Nhí cũng vậy, ở trường bầy bạn học kể cả con trai cũng đừng ai hiếp được Nhí. Đúng là không cha, không cả mẹ, thêm một bà cô mà ông bà đã đe thành câu con hư tại mẹ cháu hư tại bà…
Mười hai tuổi Nhí nghỉ học, được cái lớp năm. Bà cô khóc hết nước mắt mà Nhí vẫn không chịu học nữa. Thứ nhất là lớn ầm và cao nghệu mà vẫn ngồi với mấy nhóc Nhí khó chịu lắm, thứ hai là có chuyện với nhỏ Linh bạn cùng lớp, ngồi chung bàn. Cô giáo xếp cho Nhí ngồi bàn cuối, nhưng nghịch quá, đầu têu cho mọi phá phách nên cô chuyển lên cạnh nhỏ Linh. Linh con nhà tương đối, đi học có cha đưa đi mẹ đón về. Cha lại là hội trưởng hội phụ huynh. Nhí học kém, lại quậy phá nên Linh không ưa. Cái thái độ khinh khỉnh( Nhí bảo vậy) làm Nhí chướng con mắt. Hôm đó kiểm tra bài tập toán Linh đứng dậy mách cô:
– Thưa cô bạn Nhí cóppy bài em.
Cô giáo lại chuyển Nhí xuống bàn cuối. Ra về Nhí chận Linh lại và xáng cho con bé hai bạt tai. Con bé lu loa lên, đúng lúc cha nó đến rước. Ông hội trưởng nóng mũi kiểu no mất ngon, sau khi bạt lại cho đã nư ông lôi Nhí vào văn phòng nhà trường yêu cầu giải quyết. Tất nhiên lỗi thuộc về Nhí. Cô giáo buộc phải xin lỗi bạn. Nhưng Nhí không xin, nó hỏi tại sao?
– Tại vì em đánh bạn. Em có lỗi. – Cô giáo chủ nhiệm nói.
Nhí lí sự:
– Vậy ổng đánh em, ổng có lỗi không?
Cả văn phòng chưa kịp trả lời câu hỏi thì Nhí đã ôm cặp bỏ về sau khi thòng một câu:
– Ổng còn chửi em là đồ mồ côi, là mất dạy…
***
Mười hai, mười ba rồi mười bốn Nhí theo cô kiếm tiền. Cô phụ hồ trong mấy công trình. Nhí đi theo và ăn cắp phế liệu. Ba cái sắt vụn, đầu thừa đuôi thẹo sau khi gia công giúp Nhí với cái nhanh nhẹn kèm láu lĩnh cũng xủng xoẽng tiền, thậm chí còn nhiều hơn bà cô đầu tắt mặt tối. Nhí làm ra bao nhiêu tự giữ lấy, bà cô cũng mừng vì không phải lo cho một con nhỏ bắt đầu dậy thì với lắm điều cần thiết. Nhí tụ tập cùng chúng bạn. Cũng lũ bạn mà hoàn cảnh có đứa còn bi hơn Nhí. Như nhỏ Thảo, cha mẹ chia tay, cha lấy vợ mẹ có chồng. Sau khi chia của Thảo ở với mẹ, mẹ gửi Thảo vô chùa. Hỏi,Thảo nói:
– Ông dượng ghét tao.
– Sao mày không ở với ba?
– Bà má ghẻ ghét tao luôn.
Nhỏ Như cũng y khuông như Thảo. Được cái, hai nhỏ nhận trợ cấp từ hai nơi nên tiền bạc muốn xài chi có nấy. Thảo, Như có cả ai pắc ai phôn, ba cái nghe nói, quay phim chụp ảnh là đồ bỏ… Tuy ở chùa nhưng Như, Thảo khoái xoài với mắm ruốc lắm, cả thịt chó cũng không từ. Nhí thì cái gì cũng thông. Nó còn hơn bạn khoản bập phà thuốc lá và đôi khi có uống vài li rượu đế.
Trời đất ơi. Có vụ đó à?
Có chi đâu mà đất trời hay thiên địa. Thời nào chả vậy, khi mà con người ta bị đẩy vô thế vô bến vô bờ, sống kiểu hoang dã thì chỉ có thuồng luồng chứ làm chi có giao long. Bạn của Nhí cả gái lẫn trai tuy nhí nhố bé hạt tiêu nhưng tâm hồn khô cháy lắm. Lũ trai uống rượu nói ê Nhí làm hớp mậy, dân chơi mà sợ mưa rơi à? Vậy là Nhí làm một hớp, nhận điếu thuốc Nhí cũng kéo một hơi. Riết rồi quen. Nhìn Nhí cầm điếu thuốc sành điệu như thứ thiệt bà cô hoảng hồn, nhưng khi bà biết thì quá muộn. Nếu biết sớm hơn thì làm gì được nhau nào? Cấm được không? Thôi thì kệ.
Mười sáu tuổi Nhí làm một chuyện lớn đến chấn động một cõi ta bà. Hôm đó có tí men trong người, đang trong hẽm đi ra thì tình cờ gặp nhỏ Linh đang đạp xe đi học về. Mới lên lớp mười Linh rất xinh trong áo dài trắng. Nhìn Linh, Nhí nhớ đến chuyện cũ, nó chận đầu xe Linh lại rồi gằn giọng:
– Xuống xe tao biểu mày.
Nhỏ Linh cũng không vừa, thời nầy chả ai vừa hết:
– Thả xe ra, cà chớn hả? Đồ bụi đời, vô học.
Điên lên Nhí nhào vô. Thôi thì đàn bà con gái đánh nhau, ai cũng toe xơ mướp và tóc tai rũ rượi, nắm đầu nhau mà không rũ mới lạ à. Thiên hạ được một dịp coi đã rồi nhảy vô can. Mạnh hơn, lớn hơn nên Nhí có phần thắng, Còn Linh áo dài bị xé toạc hai tà, Cô phải túm hai bên nách mà chạy về nhà, Ngay lập tức ông cha cô có mặt. May mà Nhí đã bị di lí về xã còn không không biết chuyện chi xẩy ra. Lần nầy bà cô không còn nước mắt nữa mà rơi. Cha Linh tuyên bố xã mà không đưa Nhí đi giáo dưỡng là ông kiện lên tận huyện. Thứ như Nhí là cần phải loại ra cộng đồng xã hội.
Nhưng mà chuyện đánh nhau là đôi bên cùng có lỗi. Nhí được thả về và phải chịu bồi thường cơm thuốc, thêm cái tài sản nhỏ Linh bị mất gồm một dây chuyền hai chỉ và cái áo dài. Giận dữ vì không xử đúng như ý mình, ông cha đến tận nhà văng tục:
– Tao không cho qua chuyện nầy đâu, mày không đi giáo dưỡng tao không làm người.
Nhí mất dạy hết phép:
– Tao thách mày đó thằng già. Mày từng nói tao là mồ côi mất dạy, con mày bảo tao là vô học. Tao đi giáo dưỡng về xin hứa sẽ cho con Linh một ca acid vô mặt. Mày tin đi, tao nói là tao làm. Mày có phải là người không khi buộc tao đền hai chỉ vàng? Đồ tham lam.
Bà cô nghe cháu nói mà táng đởm.
Còn cha Linh cũng kinh tâm. Ông rút về và không nhắc đến vụ vàng vọt hay áo dài nữa.
Có lẽ ông ta nghĩ tránh voi chả xấu mặt nào.
***
Nhưng rồi Nhí cũng không thoát lưới pháp luật. Sau vụ xung đột Nhí có vẻ bất cần bạt mạng hơn, bà cô đành chịu thua con bé. Nhí cũng lớn rồi, tuy đen nhưng xinh lắm. Bạn trai bám theo cũng kha khá, loại nhà giàu đua đòi cũng có luôn, nhưng cái thứ ruộng rẫy mới lên đời ăn chơi hẻo lắm. Lâu lâu thằng nào vô mánh dăm ba trăm làm thùng bia là xem như bảnh, bằng không chúng cũng lấy ba xi đế làm chủ cuộc chơi. Nhí thì bia hay rượu cũng xong. Nhìn cô nheo mắt đưa cay, miệng phì phèo thuốc lá cứ như mấy cô đóng vai bán bông trong phim vĩa hè vậy.
Rất nhiều khi Nhí không ngủ nhà. Phê phê là cô đi kiếm nhà nghĩ, về bà cô mè nheo nhức óc lắm. Đêm bẩy mươi nghìn có nệm ngủ êm lưng hơn. Lại có nhà tắm lịch sự không như cái phi nước hôi phèn ở nhà. Tất nhiên là cô ngủ một mình. Nhí chỉ hơi bùi bụi tí thôi, cô đâu đã xã láng sáng về sớm như thiên hạ vẫn nghĩ. Thật vậy, thiên hạ ai chả cho rằng con nhỏ đó tiêu rồi, lại chửi rằng đồ ngu như bò, chơi bời hoang phế với lũ trời ơi chết ráng chịu. Ai nói kệ họ Nhí biết mình.
Ai mà có ngờ chuyện lớn như động đất xẩy ra. Đêm ấy Nhí về nhà nghĩ, ba thằng bạn nhậu cũng nổi ưng đi kiếm trọ qua đêm, vậy là chúng về nơi Nhí thường trọ thuê phòng. Hai phòng hẳn hoi, trai gái đâu ra đó rõ nét. Xứ ruộng lên đời nhà trọ ế ẩm lắm, có khách vô là như bắt được vàng, ba thằng vai u vô một phòng, trước khi ngủ chúng ghé phòng Nhí đấu láo cho vui. Nhân tiện còn chai rượu cả bọn bày ra uống hết ngủ cho ngon. Nhí cũng uống và than ôi, cô say.
Tỉnh dậy Nhí thấy mình đà tiêu tùng vì ba thằng bạn. Trong cơn giận dữ đến điên cuồng, Nhí lấy lưỡi dao Thái, ngọn dao nầy cả bọn dùng để gọt xoài đưa cay. Nhí vung tay cho mỗi thằng một nhát vào bụng. Đang ngủ ba thằng ôn dịch tỉnh dậy ôm bụng la như giặc dậy làm chấn động một vùng. Chủ nhà trọ cùng gác dan ùa đến… mẹ cha ơi cả ba thằng cùng lúc và máu vương vãi khắp nơi. Nhí trong tay đang là lưỡi dao và mắt rực ánh căm thù. Nhìn qua ai cũng biết chuyện chi vì cô đang trong trang phục của bà Ê va. Ta bà bốn phương nghe la cũng chạy đến xem sao, trong đó có cả bà cô của Nhí và tay hội trưởng hội phụ huynh. Ông ta có vẻ hả hê với sự kiện, nhưng khi thấy Nhí quắc mắt nhìn mình liền lơ đi hướng khác.
Mười tháng sau tòa tuyên án Nhí hai mươi bốn tháng tù, còn ba thằng ôn dịch mỗi thằng tám cuốn lịch vì tội hiếp dâm trẻ vị thành niên.
Nhí thụ án ở X.
***
Tội nghiệp bà cô lắm. Nhìn đi, bà vừa đi vừa khóc tay lủ khủ đồ thăm nuôi. Hồi còn tạm giam ở Huyện cứ tháng hai lần những cơm áo gạo tiền cho cháu. Sau khi kêu án Nhí đi X. Từ nhà đến X cả mấy trăm cây số đường, đâu có dễ mà thăm. Vậy mà đến nơi, khi làm thủ tục cán bộ trả lời làm bà rụng thiếu điều hết cả hàm răng:
– Thím về đi. Phạm nhân nầy vi phạm kĩ luật trại nên không cho thăm nuôi.
Cô vừa khóc vừa hỏi sao vậy chú ơi. Rồi than rằng tôi xa xôi lắm, lại nghèo nên nó ra trại nhưng ba tháng mới có mà đi thăm. Chú làm ơn giúp dùm tui cắn cỏ cắn rơm vái chú. Cán bộ lắc đầu ra cái vẻ có cắn vàng cũng xin thua. Phán rằng thím về đi lần tới rồi thăm.
Nửa tháng sau cô cháu được gặp. Cô hỏi:
– Chớ con làm cái gì mà bị kĩ luật?
Nhí kể rằng, cô đi lao động được một trại viên nam cho điếu thuốc. Cô hút thì bị một đồng đội nữ phát hiện. Nhí nói:
– Con quỷ cái nó báo cáo để tâng công. Con bị phạt viết kiểm điểm. Điên lên, đang bữa ăn con cho nó một trận nên bị kĩ luật.
– Ủa – cô ngạc nhiên- cấm mà lấy đâu ra thuốc mà hút mà cho?
– Càng cấm càng có cô ơi
Cô lại thút tha thút thít rằng tu tâm dưỡng tánh mà làm lại cuộc đời con ơi. Con vậy cô đau khổ lắm. Cha mày bỏ xác đâu đó vậy mà sướng hơn cô. Nhí ra vẻ người lớn vổ vai cô vỗ về rằng cứ yên tâm, đừng thăm nuôi chi cho mệt, để tiền đó mà lo cho bản thân, còn con hả? Đời có cái gì hay ho đâu mà làm lại với không làm lại hả cô? Nhí nói như một kẻ từng trải lắm rồi vậy. Gì nữa mà không từng, mới mười sáu tuổi cô đã bị bạn bè phục thuốc mê vào rượu làm hoang phế đời con gái. Cô còn cái chi mà lại?
Cô nghèo, chữ nghĩa đâu có. Cô chỉ biết khóc, khóc xong lại về để tiếp tục hành trình kiếm tiền thăm nuôi cháu yêu quý và khốn nạn. Lần thứ hai cô gặp một thằng trẻ cũng thăm nuôi Nhí Đen. Thằng nầy mập ú nu:
– Con chào cô, con tên Minh, bạn của Nhí.
Bà cô thực sự ngơ ngác:
– Bạn hả? Bạn làm sao?
Nhí ra gặp mặt, cô ồ lên:
– Ủa… ông cũng thăm tui hả Minh Heo?
Sau đó bà cô mới biết Minh Heo cũng vừa mới xong án. Nó quen với Nhí ở trạm xá trại. Minh ta con nhà giàu, ăn chơi, phá của hết phép luôn. Minh hít ma túy xong lên xe rồ hết ga gây tai nạn. Minh bị kêu hết bảy năm sau khi gia đình bỏ ra cả trăm triệu bạc đền bù thiệt hại. Minh Heo ở tù gia đình mừng lắm, cho nó nếm khổ ải để thấm đời, chứ ở nhà phá quá chịu hết xiết. Tù của Minh là tù cha, gia đình thăm nuôi tháng một lần, không cha thì là gì?
Tình cờ gặp ở trạm xá, chả hiểu sao Minh Heo thích Nhí.
Nhờ có tí uy vì lâu năm trong trại nên Minh la cà qua bên nữ khi đi lao động. Chỉ có Minh Heo thôi đó nghe chớ anh trai khác thì đừng hòng. Mỗi lần vậy Minh cứ rề rề bên Nhí cà rỡn rỡn:
– Ra trại mình lấy nhau nghe Nhí.
– Cám ơn… Lấy xì ke như ông để chết hả?
– Bỏ lâu rồi cưng ơi.
– Ở đây thì bỏ chứ về đời thì bỏ hít qua chính luôn đó cu.
– Em mà yêu anh thì cái gì anh cũng bỏ.
Bè bạn nói với Nhí:
– Ê , Nhí. Minh heo mê mày dữ à.
– Thằng heo mặt ngu thấy bà.
Nói vậy chứ Nhí cũng thấy thinh thích. Tưởng về Minh Heo có em ngoài đời sạch sẽ thơm tho xin gá nghĩa, ai ngờ lại đi thăm gái hư.
– Ráng lên – Minh nói – anh chờ em về.
– Thôi – chờ làm chi anh. Em đáng gì.
– Bậy nà. Em là ngôi sao của anh đó nghe.
Tù tội mà yêu nhau nghe cũng mùi chớ hả?
Chưa hết đâu nghe. Lần kế tiếp thăm Nhí, Minh dẫn theo cả bà má và cô chị. Cả hai than với Nhí rằng Minh vậy vậy và vậy vậy. Đại khái là chúa của hư hao:
– Nó thích con – Bà má nói – Từ ngày về đến giờ nó hiền lắm con. Nó nói với thím là muốn lấy con làm vợ. Xưa giờ nó không coi gái ra gì hết, nó yêu con. Con mà lấy nó chắc gia đình thím hết khổ con ơi….
Ngó vậy mà Nhí bảnh thiệt đó nghe.
Cô về và ngay lập tức thành vợ của Minh Heo. Chả cưới hỏi gì sất.
*
Gia đình Minh Heo giàu có và con cái đình huỳnh lắm. Được hai con trai thì hư cả hai. Trường, anh trai Minh ngủm củ tỏi vì tham gia đua xe. Minh cũng y khuông, nếu không dính án e Minh cũng chung xuồng xuống cửu tuyền lâu rồi. Bà má và hai cô chị ngày đêm khấn nguyện cùng trời cao và hằng ha sa số phật cho thằng con còn lại thoát kiếp nàn ma túy. Thấy nó yêu và chừng như đã biết thế nào là lễ độ sau bảy năm tù tội. Gia đình cũng mừng mừng. Nghĩa là mừng có chừng, không trọn vẹn lắm. Vì rằng cái con ma tên Túy nầy ghê rợn vô song, nó quay lại rủ rê không mấy lăm hồi. Vậy nên họ o bế Nhí, biết rằng chính tình yêu với Nhí là động lực cho Minh sống và thấy đời đẹp.
Tuy con hư nhưng gia đình chồng Nhí loại danh gia chứ không là thứ xổi thì lên đời sau đến bù giải tỏa. Họ giàu nòi nên bè bạn toàn đàn ông áo bỏ vô thùng, đàn bà áo dài tha thướt và miệng nói ra toàn lời đạo đức thiệt. Cái việc Nhí phì phèo thuốc lá làm họ hơi buồn, phải chi cô không hút thì hay quá, nhưng biết làm sao? Chị hai của Minh Heo dân có chữ hẳn hoi, đọc sách thôi thì khỏi chê, cô phân tích cho em dâu biết về tác hại của thuốc lá, nó sẽ làm cho hậu duệ của Nhí đủ thứ tật bệnh về tim mạch. Chị hai nhỏ nhẹ khuyên lơn:
– Bỏ đi cưng, chị mua Bimin cho em ngậm. Hút nhiều quá không tốt cho sức khỏe đâu.
Kẹt cái, thuốc chứ đâu phải vợ hay chồng mà nói bỏ là bỏ. Nhí vừa ngậm Bimin vừa phì phèo, cả gia đình đành phải bó tay chấm o rờ gờ. Kệ đi, miễn sao nó yêu và lái thằng hư hỏng vô đường thẳng là được rồi. May cha cho cả nhà là chả hiếu làm sao Minh Heo lại sợ Nhí một phép. Cô mà bất định tâm trừng mắt một phát là Minh ta riu ríu như mèo bị cắt tai. Lũ bạn một thời hư hao, từng cùng Minh chết trong sa đọa đến nhà là gặp ngay bà la sát Nhí Đen:
– Đi đâu? – Nhí hỏi chồng – Đi thi đi luôn đừng về nữa à, tao cũng về cô tao ở.
Vậy là mấy thằng sa đọa rút êm. Chúng không hiểu sao Minh ta lại sợ vợ dường ấy, chúng tuy dân chơi nhưng đâu hiểu được bấy lăm cuộc đời. Cũng chưa từng gặp những kẻ có uy, chưa từng bắt gặp những đôi mắt chỉ nhìn thôi đã khiến người khác phục tùng. Với Minh Heo thì đôi mắt Nhí là mệnh lệnh. Trong cái mênh mang và sâu thẳm của tình yêu, Minh đích thị là gã nô lệ:
– Kệ tao – Minh nói khi bè bạn trêu – Vợ tao tao sợ chứ mày là tao thoi vô mặt à.
Vậy là tình yêu đã cứu vãn tất cả. Minh Heo ôm vô lăng xe hai tấn rưởi đi bỏ hàng tạp hóa cho mẹ, Nhí theo chồng thu tiền. Bà má và hai cô chị mua cho Nhí một a-ti-là để lâu lâu về nhà cho bà cô vài đồng lẻ xài chơi mà an hưởng tuổi già. Bà má cũng cho cậu con chiếc trăm hai lăm cc. Kẹt cái muốn đi đâu chồng phải xin phép vợ.
Và Nhí lớn bụng.
Cả gia đình danh gia mừng ơi là mừng. Riêng Minh Heo thì điếng cả người. Mẹ ơi cứ tưởng ma túy đã làm nó tuyệt đường con cái. Ai ngờ sau hai năm vợ chồng, ái ân tưởng chỉ em và anh hay làm sao khi ra cái hậu duệ. Ố là la thật trên cả tuyệt vời.
Cả gia đình xúm vô khấn nguyện cùng trời cao cho họ xin một thằng cu. Nếu có cu họ sẽ tạ kiểng chùa kề nhà một xe bốn bánh mười hai chỗ. Chớ sao? Nhà giàu có không cháu trai thì của nả để cho ai? Chả phải nhờ ơn trên phù hộ mà con trai của họ gặp Nhí đấy sao? Vậy nếu cầu được ước thấy thêm lần nữa thì cái xe có nghĩa địa chi? Được dăm tháng chồng dẫn vợ đi siêu âm màu ở ba cái bệnh viện tư nhân, giấy báo là thai nữ. Hơi buồn tí, nhưng bà má chồng vẫn tạ chùa một cổ xe. Nhí hỏi chồng:
– Buồn không Heo?
Thông cảm cho Nhí, dân tù tội xưng hô nó có hơi bụi tí, giận lên cô còn mày tao với chồng nữa kìa. Nghe vợ gọi mình vậy Minh cũng chả tự ái chi:
– Gái trai gì không vậy, mắc chi buồn.
– Heo thích con trai lắm mà. Lần sau tui không đi siêu âm nữa đâu. Biết trước chả ai vui… ông buồn mà, đúng không? Nhìn mặt ông tui biết liền.
– Thì có… nhưng không phải vụ gái hay trai.
– Chớ buồn cái gì?
– Phải chi mà…
– Mà sao?
– Em bỏ được thuốc lá thì hay quá
Nhí phì phèo điếu con mèo:
– Ông bỏ thử tui coi, ông bỏ được là tui bỏ liền.
– Anh sẽ bỏ cho em coi.
– Sẽ là chừng nào?
– Hút hết gói nầy là bỏ à.
Nhưng nói thì dễ còn bắt tay vô vụ bỏ thuốc thì khó lắm ai ơi. Nếu bỏ được thì ba cái công ty sản xuất thuốc lá đóng cửa hết rồi. Thử hỏi một thói quen ăn sâu vào đời sống hơn cả cơm ăn và nước uống làm sao bỏ? Thôi, kệ bà đi, tới đâu thì tới. Nhí cũng biết là thuốc lá có hại lắm cho con cô, nhưng không thể rứt ra được. Mẹ và chị chồng đành phải mua ba cái thuốc có tẩm hương bạc hà cho cô thỏa cơn ghiền. Khổ cái, kẻ từng hút thuốc lào khi ở tù như Nhí ba cái thuốc bạc hà nhẹ hìu nào có nghĩa chi. Cô hết điều nầy đến điếu khác thấy mà kinh.
Cô ngăm ngăm đau bụng là gia đình tốc hành đưa đi bệnh viện huyện. Thằng chồng bỏ việc chạy theo má và chị trông coi. Chớ sao, đàn bà đi biển phải có cái vai của đàn ông mà bá chớ. Nhìn con vợ vắn dài nước mắt than đau, mặt chồng cũng nhăn như cái giẻ rách… Hú hồn… rồi cũng mẹ trong con vuông.
Nằm ôm con trên giường Nhí nở nụ cười.
Lạ là nghe mùi thuốc lá cô không chịu nổi. Kì không?
Thiên hạ bảo rằng có chi đâu kì. Chuyện của đàn bà có cả triệu triệu điều bí ẩn khoa học không giải thích được đâu. Có người trong kì thai nghén thèm ăn đất, họ ăn đất sét như người ta bánh in. Có người thèm nhai thuốc lá… đẻ xong là họ hết thèm, con Nhí cũng một giuộc vậy. Có người cãi rằng, đó là nghén, đằng nầy con Nhí hút thuốc ghiền. Ghiền khác quý ông quý bà ơi. Khác đâu không biết chỉ rõ ràng và chắc như đinh đóng cột là sau sanh Nhí ta không hút thuốc.
Gia đình chồng Nhí thở một hơi dài nhẹ nhỏm. Chỉ tội nghiệp cho Minh Heo, mỗi khi muốn vào ôm con hun hít cho đã thèm, nhân tiện hun vợ một cái là phải đánh răng súc miệng bằng lít-tơ-rin, vậy mà vẫn bị mắng vô mặt, đe rằng không bỏ thuốc là miễn hun luôn à.
Bị đe, bị mắng vậy mà con bé thủy Tiên được hai tuổi thì mẹ nó lại tắt đèn đỏ.
Yêu mà, cái chết còn vượt qua nói chi mùi hôi của thuốc lá.
*
Cả nhà lại một phen mừng tuốt tận trời. Họ lại đồ lề lên chùa cầu ơn trên giáng cho thằng cu. Họ phân trần với ba quân rằng không phải là trong nam khinh nữ chi, nhưng mà nếp tẻ phải đủ thì mới gọi là hài hòa. Dân nghèo nơi cư ngụ được hưởng ân huệ từ đây. Họ làm phước thôi thì khỏi chê cái vụ vật chất, chỉ năm tháng mang cái bụng đi lên đi xuống Nhí cũng đến mệt khi bà má và cô chị chồng tổ chức phát chẩn những hai lần, mỗi lần cả tấn gạo chưa kể ba cái linh tinh. Riêng Nhí, cô dứt khoát miễn cái vụ siêu âm hay khám thai định kì. Gia đình nói cỡ nào cô cũng không là không. Đã nói Nhí khét tiếng lì mà. Thôi thì tất cả ráng chờ cái ngày nở nhụy khai hoa. Lúc ấy buồn hay vui cũng không muộn. Bà má o bế con dâu đủ mọi thứ ngon và lạ trên đời. Đúng vào thời điểm nầy ai lạ mà tình cờ gặp Nhí chắc chả hiểu vì sao cô bị gọi Nhí Đen.
Ở tháng thứ sáu, bụng Nhí đã vun cao lắm rồi. Cô có vẻ mệt hơn lần đầu. Đêm ấy, cả nhà bị giật dậy bởi giọng hốt hoảng của Minh Heo. Tất cả bu quanh cô con dâu. Trời ạ, chả hiểu ra làm sao, cái gì mà Nhí bị băng huyết. Máu trong người cô tuôn xối xả làm mọi người tối mặt. Con bé Thủy Tiên thấy mẹ vậy liền òa lên khóc, cả nhà sực tỉnh và ngay lập tức họ gọi taxi tốc hành đi viện.
Ngay lập tức người ta đưa Nhí vào cấp cứu ở phòng đặc biệt. Chả hiểu ra làm sao mà dân trong xóm lại biết sự cố mà lục tục kéo đến làm cả khoảng sân trước cổng bệnh viện tụ lại cả chục mạng. Mười hết sáu là dân nghèo từng đưa tay nhận hàng từ thiện nên nghe có biến là bỏ cả ngủ chạy lên chia tí chút buồn phiền. Họ bàn ra tán vào chủ yếu trấn an đừng có lo chi, xưa nay kẻ thi ân bố đức không khi nào bị ông trời cho ăn hồi mã thương đâu mà lo. Riêng Minh Heo chắp hai trước ngực vừa đi vừa lâm thâm trong miệng cứ như bị mắc đường dưới. Nhìn cái bóng nó đổ dài dưới ánh đèn điện, thấy mà tội nghiệp quá chừng chừng, và may quá bà bác sĩ xuất hiện sau cả tiếng đồng hồ trong phòng cấp cứu. Khỏi cần hỏi vì người thân có mặt ngay tức khắc:
– Vợ con em có sao không bác sĩ?
– Con nào?
– ….
– Gia đình sao bất cẩn quá vậy? Nè… vợ anh không có thai mà là bướu. Tại sao thấy lớn bụng mà không đi khám sức khỏe định kì? Bây giờ tình hình rất nghiêm trọng, phải đưa lên tuyến trên cấp cứu?
Là sao? Tất cả đều ngơ ngác. Sao lại có bướu biếc dính vô đây, mà lành hay ác tính? Cha mẹ ơi thật là chí nguy à. Bác sĩ lại phải giải thích rằng, lành hay ác chưa kết luận được, tuyến trên sẽ trả lời cụ thể vấn đề nầy. Còn đây là một khối u trong dạ con sản phụ, nếu khám định kì và phát hiện từ sớm thì không có sự cố như hôm nay…. Nhưng cả nhà yên tâm có lẽ là không sao.
Bà bác sĩ cho chuyển lên tuyến tỉnh, nhưng Minh Heo xin lên hẳn phố lớn, Dù sao bệnh viện cấp thành phố cũng đủ tiện nghi cho chuyện đối phó với bất trắc. Tiền có hơi nhiều một tí , nhưng mà giờ phút nầy tiền bạc có nghĩa lí chi.
Nhí ra xe trên chiếc băng ca. Dưới ánh điện mặt cô xanh xao và vàng vọt. Tay phải cô được chuyền một đơn vị máu, tay trái là một chai nước biển. Mắt cô khép hờ trông tàn tạ và héo úa. Mình Heo ràn rụa nước mắt. Mấy người đến chia hoạn nạn cũng giọt giọt châu sa.
Tôi đến bệnh viện thăm một người bạn và tình cờ gặp ca cấp cứu nầy. Thấy tụ tập đông và bàn tán liền ghé lại nghe chơi.
Và cũng cầu xin cho cô ấy qua.
Không lý bắt cô ấy đi sao thưa các đấng tối cao?
Nguyễn Trí
Những nhà thơ bự.
Đỏ. Dân phụ hồ. Đẹp trai, chịu khó nên lọt mắt ông Chỉnh. Ông nầy có đứa con gái dậy thì năm mười ba, biết yêu năm mười bốn. Đến năm mười tám cô lấy chồng. Ta bà lắm chuyện kháo rằng:
– Cha Chỉnh không lấp cái lổ bằng tiền thì con Chinh chớ có hòng là vợ thằng Đỏ.
Đỏ được ông via vợ ưu ái cho một căn nhà. Thêm bộ đồ nghề xây dựng đủ để lên thầu. Ai nhà xây nóc thái, cả biệt thự kiểu pháp Đỏ nhận tất. Dưới trướng thợ, thầy. Đủ. Học hành không bao nhiêu nhưng xưa nay cái chi muốn đều mua được bằng tiền. Cácvizít của Đỏ được in “ Kỹ sư Trần Đỏ chuyên…”
Nhờ vôi vữa sắt thép Đỏ tậu được xế hộp. Thợ thầy không bao giờ hết việc. Muốn nhận đồng lương của Đỏ phải giỏi. Nhờ họ công ty xây dựng Trần Đỏ vang rền, và nhờ Đỏ tiếng khè của họ sau ly rượu cuối tuần luôn đậm mùi phấn khởi.
Xin đừng tưởng vôi vữa làm xơ cứng tâm hồn. Tâm tư Đỏ hỉ nộ ái ố chả thua thằng đếch nào. Và những điều ấy anh trang trải lên giấy. Học ít nhưng thừa biết, ngoại trừ vần điệu còn có thơ tự do. Đỏ viết và gom lại cả trăm bài đủ thể loại. Chuyện xây tô, dán gạch, dựng cột đều hoá thành lục bát hoặc tứ tuyệt. Thời in ấn dễ ẹc, anh bấm nút và cho bầy thợ thầy dưới trướng đọc cho vui. Mẹ cha ơi, chúng xoe mắt không ngờ anh cho vôi vữa và sắt thép chắp cánh bay cao. Trong cái mở hổ lốn tả pín lù cũng có thằng nằm trong hội thơ ca cấp ấp, tục gọi câu lạc bộ thơ liền rủ rê Đỏ gia nhập. Còn nói vào hội anh mới phát huy được tài mình. Đỏ ok liền.
Cái câu lạc bộ thơ ca nầy hẻo lắm. Nam phụ lão và mấy em mười tám đôi mươi tụ lại bên chén rượu mà bình thơ. Được chừng mười ngoe. Tuy nhiên tài năng có thừa, thơ cứ theo rượu tuôn lai láng. Đỏ xưa nay bia là chính nên ra mắt bằng hai thùng Ken và mươi bài thơ mà anh cho rằng hay nhất trong sự nghiệp thi ca của mình. Ngài tộc trưởng thơ gật gù:
– Thơ anh có hồn lắm, tôi sẽ giới thiệu anh với một nhà thơ cấp tỉnh xem sao.
Thơ được khen là quá quý, lại được hứa sẽ giới thiệu lên trên là không tưởng. Đỏ xưa nay vốn múng manh là chính, nghĩ rằng muốn công cho sập thành không chi hơn tiền. Nên chi mỗi lần họp hội là anh chủ xị chung chi bữa nhậu. Vậy là các thành viên phong anh lên hàm chủ tịch, tuy miệng nhưng giá trị gấp trăm lần văn bản có dấu đỏ.
Một nhà thơ nghe rằng cấp tỉnh được mời xuống tham dự buổi họp mặt cho vui. Người thơ được long trọng mời ngồi ghế danh dự. Thôi thì bia bọt và thơ tha hồ đọc. Nhà thơ cấp tỉnh hạ cố nói với Đỏ:
– Anh có đọc qua thơ em, nhiều bài rất có hồn, xin chúc mừng.
Nói xong nhà thơ nâng lon tu một hơi, ợ một phát rõ dài. Đỏ hỏi:
– Theo anh bài nào có hồn nhất ạ?
Nhà nói sau khi tu thêm một hơi bia:
– Đó là bài hạnh phúc.
Bằng một giọng diễn cảm ngài đọc:
Vôi vữa và sắt thép
Anh tạo nên tầm cao
Bên trong cao và rộng
Là tình yêu đôi ta
Hạnh phúc.
Đọc xong nhà thơ vỗ đùi đánh đét khen đã đời rồi nhưng một phát:
– Thơ em hay, có hồn nhưng khuyết điểm là trực diện, phải làm sao không cho ý tứ lộ ra, người đọc phải tìm tòi suy nghĩ, thì ta và thơ ta mới yên vị trong lòng họ. Hiểu không?
Đỏ ngơ như bò đội nón, nhà nói tiếp:
– Em hãy nghe bài thơ nầy của anh:
Con cá bói chim
Nằm dưới đáy ao sâu
Chờ con én liệng
Đớp.
Nhà thơ hỏi:
– Em thấy gì, hiểu gì, nghe ra gì trong bài nầy?
Đỏ yên lặng. Biết là anh chết tức khắc. Nhà thơ đắc ý:
– Thơ phải bí ẩn, Phải tạo được suy tư cho độc giả. Như thơ của Bà huyện Thanh Quan vậy, tục mà thanh thanh mà tục. Em biết bà chúa thơ nôm không?
– Dạ thưa anh không ạ.
Nhà thơ cấp cao liền đọc cho Đỏ nghe bài thân em như quả mít trên cây rồi bài chàng với thiếp đêm khuya bất ý vân vân. Và kết luận:
– Em phải dấu ý mình đi, hiểu không?
Đỏ nể nang nhà thơ bự lắm. Đỏ mong thơ mình in trên một tờ báo chi đó xiết bao. Muốn vậy phải thơ phải có ý ẩn, sao cho nhà thơ không nhận ra là đạt. Đỏ vắt ác moi tim. Uống cả chục thùng hê-nê-ken, thêm chai uýt ky mới ra được một bài. Anh nhờ một bạn thơ cấp ấp đưa anh đến hội kiến nhà thơ tại tư gia của người.
Nhà thơ bự nằm còng queo như con tôm luộc trên nền nhà. Khách đến lồm cồm ngồi dậy, mắt ghèn, khoé mép còn vương nước dãi, mặt mày ngu tợn, bình dân gọi say ke. Sau khi vệ sinh nhà thơ tiếp khách.
Khách mang đến một Votka thứ thiệt. Mồi màng đủ. Ngà men, Đỏ đưa bài thơ cho người thơ xin ngài đánh cho một giá. Đọc xong nhà thơ thần người nghĩ ngợi. Lâu lắc mới phán rằng:
– Tâm sự chú mày giống tâm sự đời anh.
Rồi người ôm Đỏ ra chiều tri kỷ. Sau đó đọc bài thơ:
đêm huyền diệu
trong lụa là gấm vóc
đôi ta
vai kề vai, má kề má trong tay nhau cùng vui trên điện ngọc
nhưng
tan tành huyễn mộng
ta nghe đổ vỡ đến tận cùng
hận nầy biết tỏ cùng ai?
Nhà thơ cấp ấp đọc xong không hiểu cái chi mô, nhưng cũng khen tưới hạt sen. Rồi nhân lúc Đỏ đi ngoài thơ cấp ấp hỏi cấp bự:
– Em không hiểu ý tứ bài nầy anh ạ.
– Chú mày chả biết đếch gì. Là con vợ nó mất trinh trước khi lấy nó mầy hiểu không?
NguyễnTrí
ĐỜI QUÁ PHÙ DU
Ba Nghinh.
Nghe cái tên thôi đã thấy buồn cười. Mà cũng đừng nói buồn cười hay buồn không cười nổi về vụ tên người ở cái xứ này. Tên thường gọi nghe chói tai không chịu được. Trong khai sanh người ta cũng Mộng Hường, Diễm Thúy, Mạnh Bảo, Hoàng Huy hẳn hoi. Vậy mà, nghe tên con của Ba Nghinh nè, hai đứa con gái đầu là Hai Lụm, Ba Mót. Hai thằng trai kề là Bốn Nghĩnh, Năm Ngãng. Ở đó mà nghĩnh ngãng, nó khôn trời thần đất lỡ luôn… Hai đứa út, áp út gọi Sáu Thôi và Út Nhen.
Cái vụ thôi, nhen nầy là tự hiểu à. Nghèo, đẻ cho cố rồi túng thiếu là phải quá. Xì tốp vậy là quá trễ. Không thấy thiên hạ sao? Một hoặc hai là đã mướt mồ hôi. Người ta giàu gần nứt đố đổ vách còn hạn chế tối đa vụ sanh đẻ, Ba Nghinh thì đúng là nghèo mà ham vui.
Cũng thông cảm dùm. Thuở Ba Nghinh trẻ là cái thuở xứ ta còn lạc hậu lắm. Ba cái kế hoạch sinh đẻ tuyên truyền chiếu lệ cho có phong trào. Dân chưa kịp hiểu cán bộ đã thông qua, còn thêm chuyện đồn miệng là thằng đó mát mát là do thắt cái ống chi chi đó, còn vợ thằng kia phải đi viện vì đặt vòng gây phản ứng phụ… Vậy là thôi, mặc kệ em. Con em đẻ em nuôi chẳng cầu ai nuôi giúp.
Phải toát cả máu chớ hổng phải toát mồ hôi, vợ chồng mới dìu bầy trẻ qua nổi cái ải cơm áo gạo tiền. Học hành hả? Có nghe câu giặc đói giặc dốt và giặc xâm lăng không? Vậy thì qua cái đói là hết thời đi học. Bầy trẻ phải đêm đêm đi lớp xóa mù. May quá, cũng biết đọc biết viết, cộng trừ nhân chia, đi làm thuê không đến nổi bị người ta ăn gian.
Nhà ba Nghinh nghèo như tám phần mười dân ấp Một, vậy nên dễ gần gũi nhau. Lúc tối lửa tắt đèn không gì bằng dân nghèo. Hôm nay bữa cơm có món gì hàng xóm còn biết huống chi tài sản. Ba Nghinh có hai sào ruộng, đất cất nhà ba trăm vuông chẵn.
Sáu đứa con hai vợ chồng túm tụm trong một căn bảy mươi mét vuông mái lá dừa, cột, đòn tay, kèo xiên gì gì cũng bạch đàn tất. Vì vườn toàn loại cây nầy. Từ ngày rừng đi vân du không hẹn ngày trở lại, chỉ còn bạch đàn là cực kỳ hữu dụng cho tám phần mười dân ấp Một.
Đất đai vậy rồi con cái lớn lên tính sao cho công bình đây? Thời nào cũng vậy, trai gái gì cũng phải đồng đều. Để anh chị em trong nhà mích lòng không nhìn nhau là nhục lắm chớ chẳng chơi. May quá. Hai Lụm lấy chồng tuy rớt mồng tơi thiệt nhưng dù sao cũng có đất để mồng tơi có chổ mà rớt. Ba Mót cũng y khuôn. Bốn Nghĩnh lấy vợ trước. Cha nói với con:
– Hai vợ chồng mày ra riêng cho tự do. Tao cho làm rẻ một sào ruộng, tới mùa đong lúa để tao nuôi em mày. Chừng nào tao chết rồi tính tiếp.
Tới phiên Năm Ngãng lấy vợ cũng bổn cũ soạn lại. Thiên hạ hiểu Ba Nghinh ngầm chia ruộng cho hai thằng trai, đất làm nhà mỗi thằng trăm mét. Cha nói với hai đứa áp và út:
– Vậy đi. Tới vụ nó đong lúa cho cha con mình, khỏi gặt đập chi cho mệt.
Không còn ruộng để làm, tới mùa được ba hột lúa, tuy chật vật một chút, nhưng nghèo quen rồi, kiểu nào cũng chịu được. Hai đứa gái út cấy hái thuê cũng giúp cha mẹ qua thì túng bấn. Dân mình cứ dựa vô câu cái dòng con gái ngoại tông mà xử kể cũng tội quá. Nhưng biết sao, nghèo thì nước đến đâu vuốt mặt đến đó, đúng hông?
Sáu Thôi nên gia thất chẳng có gì đáng nói. Nhưng Út Nhen lấy chồng làm Ba nghinh tức ói máu. Bà nội cha nó. Trong bốn đứa gái, Út Nhen đẹp nhứt. Cằm chẻ, môi trái tim, mũi dọc dừa, cười má lúm đồng tiền lại thêm răng khểnh duyên ơi là duyên. Bao nhiêu thằng chạy theo xin xách dép.
Nó mà ừ thằng Đại là cứ ở nhà đếm tiền. Con chưa lấy vợ mà cha của thẳng đã cho một dãy mười cái phòng trọ trong khu công nghiệp. Thằng Tư Hơn chủ lò bành mì bỏ mối cho cả nửa cõi xã nhà, mê Út Nhen đến độ xem nhà Ba Nghinh như nhà mình, tới là không muốn về.
Còn nhiều nhiều nữa các anh chàng con nhà giàu có, vậy mà con nhỏ chê ỏng chê eo. Đùng một cái, thiên hạ đồn rằng, nó đi chơi với thằng Sạch Nhách, cháu nội bà Bốn Hoa.
Ai cũng được, nhưng làm ơn dang xa cái thằng Sạch Nhách. Nghe tên cũng thấy trên răng dưới một rổ củ từ rồi. Cả cái ấp Một và ấp Hai chẳng ai không rành gia cảnh bà cháu Bốn Hoa. Chớ cha mẹ đâu mà Sạch Nhách ở với bà nội? Nghe hoàn cảnh mà goảnh càng luôn.
Bệnh viện huyện đưa má nó lên Từ Dũ cấp cứu vì bị băng huyết. Sanh thằng nhỏ ra là thảy luôn vô tủ kính thở ô-xy. Mẹ chết trẻ, được xác định là do quá thờ ơ trong khi thai nghén.
Cha nó kể hồi ăn ở với nhau, kỳ nào vợ cũng hành kinh cả nửa tháng. Thấy cũng chẳng sao, lại thêm túng bấn nên cứ cho qua. Tới khi sanh thì đã quá trễ.
Nhà có sào ruộng cha nó bán đi, không đủ cho tiền thuê xe và mua một đơn vị máu, nên má nó đành ra nghĩa địa. Sạch Nhách sống sót, được bà nội nuôi, cho bú bình.
Cha nó quá buồn, lấy rượu giải khuây. Bạn bè cũng xúm vô nâng ly an ủi. Số phận mà, biết sao giờ? Say… Say lướt khướt trở về, đi qua cầu Hưu. Thuở đó cây cầu nầy còn gát bằng mấy cây tre, có tay vịn như cầu khỉ. Tay vịn gãy, cha nó rớt xuống sông. Tuy cha nó bơi giỏi nhưng dưới sông lại có cái cọc tre đâm xuyên kẻ xấu số.
Sáng hôm sau cả thiên hạ chống xuồng ra, lôi lên. Bà nội nó khóc hết nước mắt. May còn có thằng cháu hủ hỉ. Thiên hạ thương quá, cho đủ thứ. Sạch Nhách được uống cả sữa SMA, sữa Meiji, còn sữa bò lúc nào cũng đầy cả giỏ cần xé. Bá tánh và tình thương đã cho Sạch cái dáng vạm vỡ, cao ráo, đẹp trai khi lớn. Học đến lớp chín, Sạch bỏ học đi kiếm tiền.
Mười tám tuổi, khi bà nội đã năm lăm, Sạch đâu thể cứ ăn học tiếp khi bà đã rên rẩm nhức tay mỏi chân. Nó đi phụ hồ. Thông minh và siêng sắn nên chủ thầu dìu lần cho lên thợ. Hai mươi tuổi, nó cầm bay gõ vào máng hò hơi khi Út Nhen đi ngang: Hỡi cô đi đường cái quan. Dừng chân đứng lại anh than đôi lời… Vậy mà Út Nhen lại thích mới lạ chớ.
Yêu cái khỉ mẹ gì, Ba Nghinh la lớn. Ai cũng được, nhưng thằng đó thì không? Mày không thấy dòng nó chết yểu sao? Cha nó mới hai mấy, má nó cũng vậy luôn, ông nội nó thì không quá ba mươi. Mày lấy nó rồi cạp đất mà ăn hả? Không. Ba Nghinh hét lớn.
Tiếng hét dịu lại khi thấy mồ hôi mướt trên trán bà xã. Ba Nghinh gặng vợ. Vợ thưa rằng nó lớn bụng rồi. Thấy ông bà ông vải chưa? Ở đó mà ngăn với cấm. May sao Sạch Nhách đồng ý cưới.
Bà mẹ nó. Ba Nghinh tổ chức đúng là từ A đến Z. May là anh em bà con cô bác được mời đều đủ mặt, nếu lỗ thì có mà vác bị đi ăn mày.
Vậy nên trong bốn thằng rể, ba Nghinh ghét nhất thằng rể út.
Út cũng chẳng ưa chi ông già vợ. Mấy thằng mồ côi mồ cút thiệt tình mà nói, đều khôn trời sợ. Ai nói chi nói, nó cứ tẩm ngẩm mà đấm chết voi. Nghèo thì nghèo nhưng nó thương vợ thiếu điều đội vợ lên đầu. Con vợ lớn bụng thèm ăn chi nó đều phục vụ tới bến.
Nó cũng thương bà nội không thua. Vợ với bà nội mà không thương thì thương ai nữa trong cái nhà chỉ có ba nhân mạng? Nhưng không phải vì vậy mà nó sinh nợ nần, lại nợ ngay ông già vợ. Nguyên do là bà nội Sạch Nhách bỗng dưng giật tay giật chân ngã cái rầm vào một đêm khuya khoắt kia.
Tuổi già cao huyết áp là chuyện không tránh được. Nhưng quê mùa ai biết chuyện máu cao máu thấp mà phòng bị. Ba nội té, đầu đập vô vách gỗ cao su, máu me đầm đìa, Sạch sợ quá, lấy chiếc xe 78 càng lên ga càng chạy chậm chở bà nội lên bệnh viện huyện.
Bao nhiêu tiền dành dụm tích cóp tính để lo cho vợ đổ ra cái một. Chẳng còn phương, chồng năn nỉ vợ về má xin viện trợ sau này sẽ hoàn lại. Mất đứt của Ba Nghinh hai chỉ bốn số chín bà nội Sạch mới hồi hương.
Hẹn trong hai tháng sẽ trả, nhưng lấy đâu ra mà trả. Bà nội sau tai biến đi đứng khó khăn, vợ trong kỳ thai nghén, ngửi mùi cơm sôi là ói cả mật xanh mật vàng. Làm thợ hồ tháng mưa bữa đực bữa cái. Đành nằm nhà lai rai ba sợi chớ biết làm chi.
Đúng hạn không trả nợ, ông già vợ lúc đầu còn càm ràm với người nhà, hai thằng anh nhắc nhở:
– Hai đứa bây lo trả cho ổng. Ngày nào cũng nghe ổng càm ràm bọn tao nhức đầu quá. Mà mày cũng bớt nhậu lại. Mấy đứa thấy mầy nhậu nó về méc với ổng…
– Ai mà đa sự vậy anh Tư?
– Thì mấy thằng trước theo con Nhen không được chớ ai vô nữa.
Chờ không được, Ba Nghinh đích thân gặp thằng rể. Cha vợ mà nói oan con rể còn phải chịu, huống hồ nói trúng. Nào bê tha, vợ sắp sanh mà lúc nào cũng rượu chè, nào nhà dột, nợ lút đầu mà không biết lo, rồi kết luận:
– Vậy mày tính chừng nào mới trả cho tao?
– Dạ tại mưa quá không đi làm được, ba thông cảm. Hết mưa con đi làm, trả liền.
– Sau mưa là tới bão. Mày đợi bão tan luôn hả mậy?
Thiệt tình. Thằng Sạch tiếng học tới lớp chín nhưng mồ côi cha mẹ, bà nội quý nó như cục vàng. Thế gian có câu có thể có nguời cha không thương con, nhưng không thể có người ông không thương cháu, huống chi đây là bà.
Nó chẳng biết trời cao đất thấp. Trên đời nầy nó chỉ sợ làm bà buồn. Còn vợ ư? Cũng thương dữ lắm nhưng đừng có giỡn. Thêm cái nghề đội nắng đội gió, hễ mở miệng ra là văng đủ thứ.
Hôm đó đang có rượu, nó cãi lại cha già chút chút. Ba Nghinh sẵn thành kiến từ lâu, chửi nó đồ này đồ nọ. Ba Nghinh cũng trùm rượu, bữa cơm nào không có một hai xị đưa cay. Rượu vô, đố thằng nào không văng tục, kể chi già hay trẻ.
Thấy con rể cự lại, già Nghinh nóng lên, văng tục. Bạn bè can, biểu thôi về đi Sạch Nhách, ở lại là có chuyện à. Sạch nghe lời bạn đi ra đường, sau khi “mè” một tiếng. Vậy mà Ba Nghinh bắt bẻ nầy nọ, sao mày dám đù tao. Rồi dài giọng chửi đồ thứ con không cha, đồ thứ mồ côi vô học. Con gái tao nó nhắm đui con mắt mới lấy mầy… Đồ khốn nạn, không kiếm hai chỉ vàng trả tao là không yên với tao. Có chết tao cũng về đòi. Mày ăn không ngon ngủ không yên với tao đâu…
Sạch Nhách tức tối ra về. Không dám nói to sợ bà nội nghe, thủ thỉ với vợ:
– Ba ổng khinh tui nghèo. Nói thiệt với em tui mà trả được hai chỉ vàng cho ổng, lần sau có chết tui cũng không mượn ổng. Mà ổng cũng đừng hòng nhờ được gì tui.
– Thôi mà anh, vợ nói, ba già rồi, lại có rượu nữa, anh cự ổng làm chi.
Bà nội thính tai lắm, hỏi ngay:
– Gì đó Sạch Nhách?
Cái thằng đúng là có hiếu, nó đánh trống lãng ngay. Nó cứ sợ bà buồn rồi bịnh:
– Dạ không có chi nội ơi. Vợ chồng con nói chuyện chơi thôi.
– Có gì nói với tao, không được giấu à.
– Dà…
Nửa đêm đang ngon giấc, cái di động đập đá của Sạch Nhách réo liên hồi. Ú ớ ù ờ một hồi, nó mới vực vợ dậy.
– Gì vậy anh? Vợ hỏi.
– Ba…
– Ba sao?
– Ổng mất rồi.
Cả hai vợ chồng bỗng tỉnh như sáo, nhất là chồng. Chuyện cự cãi với ông già vợ hồi chiều hiện rõ mồn một. Mắt Sạch thoáng âu lo, cả sờ sợ. Chuyện thiếu nợ ông già chưa trả, thêm cái lời nguyền còn mới rợi chưa tan.
Đầu óc Sạch nghĩ đến mấy thằng bạn. Mỗi thằng năm bảy trăm một triệu, sao cho ra hai chỉ vàng mà trả gấp. Từ đây đến lúc liệm phải có. Mẹ ơi, ổng đã nguyền thì gay rồi. Mà lũ bạn ở ấp Một này chẳng thằng nào có cái xe cho ra hồn, đâu ra tiền dư sẵn mà cho mượn?
– Giờ anh chở em về nhà, còn anh chạy mượn tiền mua vàng trả cho ba.
– Chạy ở đâu, anh?
– Không biết, nhưng phải chạy.
Vợ chồng lúi húi dắt xe ra. Bà nội hỏi đi đâu. Cháu dâu vừa khóc vừa nói ba con chết. Nghe vậy nhưng bà nội đâu có đi được. Thôi nội ở nhà, muốn đi mai con chở nội đi.
Xe chạy. Đến trước nhà đã nghe thiên hạ lao xao về vụ hai cha con cự cãi nhau lúc chiều. Bàn nào cũng nói quả báo nhỡn tiền luân hồi nghiệp chướng. Ai đó còn nói thằng Sạch Nhách lo mà trả lại cho ổng. Ổng dành dụm cả đời, thương Út Nhen lắm ổng mới đưa cho đó. Ổng hăm rồi mà không trả ổng về kéo cẳng là thấy bà luôn…
Sạch ta thả vợ xuống rồi phóng 78 đi tìm lũ bạn. Toàn bạn thân chớ đâu phải sơ. Nhưng đâu có ai dư tiền mà mượn. Mấy tay nhà gạch có tiền thì làm từ thiện để hy vọng một chỗ ở Nát Bàn, còn dân nhà lá thì có cái củ từ.
Đến sáng. Sạch về nhà. Nghe đích tôn cứ thở dài bà hỏi:
– Gì mà thở dài hả con?
Quá buồn, Sạch phải than với nội về vụ thiếu nợ. Bà hỏi:
– Mày làm gì mà thiếu nợ ổng?
Sạch nói luôn:
– Hồi nội bị tai biến, con mượn của ổng để lo thuốc. Lâu quá chưa trả, nay ổng mất…
– Sao con không nói với nội.
Nói xong, bà già lê chân về chỗ đặt lu gạo, nhấc lu ra rồi moi đất lên, lòi ra một keo chao. Bà mở nắp keo, trút ra tay hai cái khâu óng ánh vàng.
– Con đem trả cho ba đi. Tại mày không nói nên nội đâu có biết. Nội để dành phòng khi có chuyện. Nay đúng là chuyện đó con.
Sạch há hốc miệng nhìn bà. Mô Phật. Bả dành dụm từ khi nào hay vậy ta?
Mừng quýnh, Sạch phóng xe lên nhà ông già vợ. May quá, vẫn chưa đến giờ liệm.
Sạch vào thắp nhang rồi lại chỗ người chết đang nằm. Trên bụng ông có để một lưỡi dao phay. Hai bàn tay được xếp úp trên ngực.
Sạch nắm tay người chết, định ngửa ra để bỏ vàng vào lòng tay, nhưng bàn tay đã giá lạnh, cứng quèo, không duỗi được nữa.
Ai đó đưa cho Sạch cái dĩa, biểu bỏ vàng vào rồi đặt bên dưới con dao. Sạch lầm thầm, ba ơi con trả hai chỉ vàng cho ba, con có gì không phải ba bỏ qua cho, tội nghiệp con…
Cả thiên hạ ấp Một nhìn con dao và cái dĩa đựng vàng. Họ bỗng nhận ra là giờ đây chủ nhân của nó không thể xài gì được nữa. Cầm còn không xong thì làm sao xài nổi…
Và bỗng chốc, ai cũng ngộ ra câu Đời phu du có nghĩa chi, những lợi danh sẽ tan thành tro…
NGUYỄN TRÍ
NHỮNG NGƯỜI TỐI SUỐT
Chẳng ai trên thế giới nầy thích chiến tranh. Lính ư? Ai đó than ” nghề binh là nghiệp dĩ”. Nhà thơ, nhà văn từ Eric Maria Remarque đến Bảo Ninh – đọc họ – thấy một chuỗi dài những bất hạnh và cay đắng. Dạ Ngân với truyện ngắn Vợ Lính, xem xong là chao ôi một tiếng vọng tới bốn phương, thấm đẩm nổi buồn chiến tranh liền.
Ai muốn chiến tranh? Ai muốn máu chảy, thịt rơi, người chết? Ai muốn hát bài ” Xuân nầy con không về”? Hoặc ” Ngày mai đi nhận xác chồng. Quay đi để thấy mình không là mình.Ngày mai đi nhận xác anh, Hồn linh thuở ấy hiển linh bây giờ”. Chẳng một ai. Đúng không?
Vậy mà có người – nhiều người – thích chiến tranh đấy.
À… Lái súng chớ gì?
Không, con buôn chiến tranh nói làm chi, dân thôi.
Dân mà khoái chiến tranh. Kì cục vậy?
Thật đấy. Thậm chí hòa bình rồi, lắm kẻ còn chép miệng tiếc cái thời đánh nhau :”- Hồi đó sướng qúa chừng luôn, ăn chơi không…” À, hiểu rồi, hiểu nhiều luôn. Mấy tay lính ma lính kiểng thời chế độ cũ chớ gì? Không, ma kiểnOg nói làm chi, loại lính đó tốn nhiều tiền lắm mới mua được… Ở đây là lính tráng hắn hoi, họ đã từng đi dọc chiều dài đất nước từ Bến hải đến Cà mau, lên Đà Lạt sương mù, Tây nguyên kiêu hảnh. Sau thống nhất ai cũng ôm một lốc hai mươi năm binh nghiệp. Gia đình nào ngoại trừ cha, ít cũng một con trai là lính, cá biệt có nhà đôi ba anh em ôm ép tay (m16) cứ Giao Thừa mà nả, đỏ lừ cả bầu trời
Chả có nhà nào mà ” hai con để nuôi dạy cho tốt”. Ai cũng chục ngoài. Đẻ bao nhiêu đã có ông nhà nước lo tất, từ sơ sinh đến mười tám. Sau mười tám con gái- nếu thích- thì vào nữ quân nhân, không thì lấy chồng, Con trai? Nếu không vào đại học thì lính tiếp, Thiên hạ sao ta vậy, Bình thường thôi.
Những ba Nghịnh, năm Ngò, mười Niệm và nhiều nhiều nữa tiếc lắm thời chiến tranh. Hai Dậu chẳng hạn,
Đời lính của Dậu như một cuốc du lịch dài hơi. Xa xa ấy, bác là lí trưởng, ngày chơi với Pháp, tối làm việc cho Việt-minh, sao sao đó bị cách mạng xử tử hình. Dậu lang thang ra Đồng Hới bị Pháp bắt sung vào lính Khố Xanh, đóng quân ở Mang Cá Huế. Vợ cũng bỏ Quãng Bình ắm con theo. Từ Huế, Dậu được đưa lên Đà lạt làm Ngự Lâm phò ông hoàng Bảo Đại. Cựu hoàng đi chơi và thế là quyền hành lọt tay triều đình họ Ngô. Toàn đơn vị ngự lâm vào Sư khinh chiến 14. Dậu cũng tham gia đánh sập Kim Chung Đại thế giới của Bẩy Viễn và Ba Cụt… Khinh Chiến 14 đổi thành sư 22 bộ binh. Từ Sài Gòn những đoàn công voa, theo lệnh Ngô Tổng Thống lên Tây nguyên, án ngữ Tân Cảnh Đaktô bảo vệ khu dinh điền… Cứ đơn vị đến đâu, bầu đơàn thê tử của lính tráng theo đến đó.
Sướng lắm. Doanh trại quân đội mọc lên, khu gia binh mọc kèm. Một gia đình một căn mái tôn vách ván. Cứ thế mà hạnh phúc với gạo Thái lan do mĩ viện trợ, Đường sửa nước mắm dầu ôliu, thuốc lá ở quân tiếp vụ và tới tháng lảnh lương… Còn học hành? Cũng có luôn. Trường lớp hẳn hoi. Thầy giáo là mấy tay rớt tú tài anh đi trung sĩ. Tiểu học mà lớp đệ nhị dạy thì quá tốt rồi. Quan trọng là có học không, khi mà xung quanh…
Xung quanh sao?
Mấy bà vợ lính – đang nói chuyện lính nghe – tức là hạ sĩ quan và binh sĩ. Tất nhiên là có người nầy người nọ, nhưng hầu hết. Kẻ, chồng đi hành quân đâu đó ở Phú bổn, Uông bí. Người, chồng đang ở hậu cứ tiểu đoàn. Ở nhà rảnh rổi làm gì ta? Ngồi lê đôi mách nói xấu nhau cũng chán, ta xòe tứ sắc đánh chơi vui. Mẹ bài, mấy nhóc tan học xong cũng đánh đáo, thẩy lô, đập tường, chơi đánh trận, bên việt cộng bên lính um sùm trời đất. Bật lên là Minh Hai và thằng em Ba Gà con hai Dậu, cùng với những Suông , Sông – con lính người Khmer bị băt ở Trà Vinh, Sóc Trăng – vào rừng Kon Tum bắt trộm ngựa của người dân tộc để đua
Nhà Ngô sập. Đến Nguyễn Khánh rồi mít Thiệu. Ai thây kệ ai. Cứ thuyên chuyển là đi. Từ Tân Cảnh xuống Kon Tum, Pleiku…. Đồng minh Mỹ đến và những chiếc trực thăng HU1B vần vũ trên bầu trời khu Võ Lâm lập căn cứ. Vậy là ra cái nghiệp ăn cắp đồ Mỹ. Khét tiếng là Ba gà, nó không thèm đến lớp nũa. Mà học hành gì ở cái thời đạn bay súng nổ, ăn và đi chơi không sướng sao? Minh Hai đậu không nổi Đệ thất để vào công lập phải học trường tư. Mấy trường tư thục cũng mang tiếng bởi học trò buổi học buổi ok xe Mỹ, không cho lên lớp thì sợ lính mang ép tay đến trường nói chuyện phải quấy, còn lên lớp thì… xấu hổ cho trường . Mấy thằng con ông cháu cha, làm đất làm trời, đe :”- đù má, tao đi lính về bắn thấy… mẹ tụi bây hết”
Hai Dậu nói với vợ:
– Bà coi mấy đứa nhỏ, người ta nói với tôi thằng hai, thằng ba tụ tập với tụi con ông Cho, ông Nghịnh trộm cắp…
Vợ hai Dậu nạt chồng:
– Ăn cắp cái gì? Trực thăng nó thả đồ hộp đầy ra đó, đứa nào không lấy, riêng chi thằng hai thằng ba
– Thôi đi – Hai Dậu gằn – Thằng ba còn trèo lên trực thăng ăn cắp máy chụp hình, bà liệu mà dạy tụi nó.
– Ông ở nhà mà dạy. – Bà hai cũng gằn –
Hai Dậu vốn sợ vợ. Thôi vậy. Cho yên nhà.
Vậy là Ba Gà cứ hoang dã mà theo. Từ đồ Mĩ, buồn tay Ba chơi luôn của cải bà con cô bác trong khu gia binh, thứ gì có thể qui đổi ra tiền, Ba tia sạch. Nó còn đột kích vào khu nhà ở dành cho vợ con Sĩ Quan. Tường xây táp lô, cửa hai lần khóa vẫn không thoát, chắc chắn là những đài các ấy không hề cánh giác… Người ta cầm tay Ba, cả tang vật đến mắng vốn. Bà hai Dậu trở giọng sặc mùi tứ sắc:
– Có của phải biết giữ. Làm chi nó thì làm, đây không biết.
Rồi sa sả chửi… Ai đâu mà phân xử hả trời? Toàn vợ con lính hết. Mấy tay ban 2 An Ninh quát
– Dẹp hết đi… Đừng có mà láo.
Cứ thế đời chạy như Công Voa chạy. Từ cao nguyên lại về duyên hải. Sư 22 rãi dọc theo lộ một. Án ngữ đỉnh Cù Mông đến đỉnh Bình Đê. Hai Dậu đưa vợ con về ngụ thị thấn Phú Thạnh… Đang buồn tẻo, Phú Thạnh hóa thị tứ. Đủ thứ ngành nghề theo thời cuộc mọc lên. Đông luôn vui, những thú vui phát triển theo cấp số nhân, snack- bar, cờ bạc… đủ. Không ngụ khu gia binh nữa. Hai Dậu tấp ván thùng đạn ra một căn nhà mái tole như ai. Trong căn nhà nầy bà xã nẩy ra sáng kiến chứa Thổ và đổ Hồ. Lính tráng cả bụi đời đến để tìm vui… Một xinh xinh nhỏ nhỏ lọt mắt Minh hai. Đang đệ tam tư thục, Minh bỏ ngang tuyên bố nhỏ xinh là vợ. Còn Ba gà? Thì đấy ” ăn cắp quen tay, ngủ ngày quen mắt” cử thế Ba tới… Kinh nhất thời điểm Ba dính vào ma túy. Cả thì trấn phải cảnh giác, ai cũng:
– Đù má… Diệu Thủ Thư Sinh đến kìa…
Đi lính và làm vợ con lính vậy cũng sướng. Đâu có dính vô hòn tên mũi đạn. No đủ và cờ bạc…khoái quá. Đúng hông?
Vậy mà ra cái ba mươi tháng tư bảy lăm.
Sau chiến tranh đố quốc gia nào không lâm vào khó khăn. Cái gì xây dựng lại mà không có những phát sinh ngoài ý. Dạng như Hai Dậu tiếc lắm thời đã qua. Tiếc cở nào cũng phải dựng lại người và dựng lại nhà. Nào – Lên đường – kinh tế mới đón chào. Phải làm mới cuộc đời. Kiếp ăn xổi ở thì không bao giờ quay lại. Nên nhớ cho rằng phong kiến, thực dân, quân phiệt và đế quốc không thể nào chịu nổi khí thế cách mạng. Đừng có mà mơ mộng hảo. Tất cả đang ở phía trước, chân cẳng đâu? Tiến lên…
Riêng Ba Gà thì không. Ba bỏ kinh tế mới đu đeo theo thành tàu chợ, tàu thống nhất ra nghiệp ăn bay.
Một ngày kia, không chịu nổi thiên hạ đàm tiếu. Minh Hai đích thân vào ga Long Khánh lôi thằng em về. Sao đó không biết, Ba Gà lê lết ăn xin với đôi chân bị liệt.
00000000000000000000000000000000000
Đói nghèo vẫn thường hóa hồn người bẩn chật và tăm tối. Thuở ăn bo bo độn mì lòng ai cũng khoai lang củ sắn. Lục cục lòn hòn với nhau, chẵng nghĩa nhân gì sất, Khốn cùng tình mới biết nhau. Một chục chỉ dăm ba tích lũy được tí đỉnh từ thời mù xa, khuyên nhau :”- Rồi sẽ qua”. Còn lại cha đay nghiến con, vợ nhiếc chồng.. Nhỏ xinh của Minh Hai cũng rời chồng một đi không trở lại. Hai Dậu chịu không xiết với bệnh tật, thiếu thốn, một ngày kia tay bắt chuồn chuồn bái biệt trần gian.
Ảm đạm vậy. Ba Gà ra sao? Chao! Là tội. Lê lết đến chai mông trên tấm ván, Tha nhân tội nghiệp thẩy cho cặp nạng, nhưng đâu có điểm tựa mà dùng? Một thời ngang dọc, tiền bạc đầy tay và sơn hào hải vị… Giờ đây Ba thê lương ngồi nhớ lại ngày xưa trong nhưng nhức những khát thèm. Ừ, thèm lắm những đường, sửa, cà phê, bánh mì súc… Thèm lắm một bữa no cơm trắng hột vịt luộc xì dầu… Trong giấc còng queo tôm luộc, nửa đêm về sáng Ba hận xiết bao gia đình nầy.
Đay nghiến mẹ, chửi bới anh, kể lễ với bầy em:
– Tui chôm chỉa không mang về cho bà sao? Còn mày – Ba gọi Minh Hai bằng mày – Không có tiền tao ăn cắp mày lấy gì ôm sách đến trường… Cả tụi bây nữa, đồ vong ân bội nghĩa…
Bầy em cự lại:
– Thôi câm đi, ông đừng có nhiều chuyện…
Về sau, về sau nữa. Và nhiều năm sau đổi mới. Kinh tế khởi sắc hơn một tí, ai đó bên thương binh xã hội tặng Ba một xe lăn. Họ còn bảo với bà Hai rằng, nếu làm đơn xin cho Ba nhập khẩu lại – Ba bỏ đi bất minh nên bị xóa tên khỏi sổ bộ đời – họ sẽ giúp Ba một sổ gì gì đó, sẽ được phụ cấp mỗi tháng vài đồng để…uống rượu. Khỏi phải chực chờ vào lòng thương hại của bất kì.
Không may cho Ba. Vòng xoay đời lên xuống, xuống lên buồn cười tợn. Nghèo giàu ẩn hiện như ma trơi. Khu kinh tế đang lây lất cơm áo gạo tiền, bổng sát nhập vào phố. Cái thung lũng đang yên ắng, thoắt cái thành điểm nóng công nghiệp. Thiên hạ năm châu bốn biển ồ ạt đầu tư, bất động sản tăng vù vù. Gia đình Hai Dậu dưới sự chủ trì của trưởng nam Minh Hai, chụp cái giá vào thời điểm sốt cao… Ôm một phát cả trăm cây SJC, đổi đời cái rụp.
Phú sinh lễ. Còn đạo tặc? Đôi khi không do bần, người ta trộm cắp vì thích hoặc quen tay. Có khi do… truyền thống. Anh em Minh Hai là một điễn hình. Mười một trai gái, cũng thanh cũng tú đấy, nhưng ai cũng có tí đạo tặc trong hồn. Sau khi bán đất, tất cả quây quần dưới bàn thờ cha để luận công ban thưởng :”- Phải đều ra..” “- Ừ, đều ra..” Bầy vịt trời lên tiếng. “- Đều cái gì?” Đệ Tam tư thục Minh Hai hắng giọng đọc:” – Cái dòng con gái ngoại tông, thờ cha kính mẹ bên chồng mà thôi Bầy đực nghe mà hởi lòng hởi dạ :”- Tất nhiên rồi, của đâu mà cho mấy thằng anh em rễ, không làm ăn chỉ lo nhậu…”. Vịt trời nháo nhác kêu :”- Đừng có mà hòng, không chia cho tao, không yên với tao đâu, tao kiện ra tận …Hà Nam Ninh”
Minh Hai lừ mắt:
– Không yên cái gì? Cứ kiện đi. Tụi mày còn dính líu gì trong cái nhà nầy, tên tuổi đã cắt từ khi lấy chồng…
Bà Hai:
– Im ngay. Tao còn đây, đừng có loạn lên.
Giọng điệu một thời chứa thổ đổ hồ, bén như dao cạo và đang là chủ nhân một đống vàng mới bình định được bầy con “- Xét cần là chơi tất… không cần giầy”.
Lạnh tanh, bà Hai phán:
– Tao cho bao nhiêu đó, không lấy thì thôi.
Tuy xế chiều, nhưng bà vẫn thừa minh mẫn, gửi tất cả vào ngân hàng. Nhà cửa được xây mới khang trang, để tiếp khách và bầy con, từ dâu đến rễ, ngày nào cũng quà cáp, nườm nượp vào ra… Chao! Lễ nghĩa phục hồi.
Hết bĩ rồi thời lại thái nhé. Qua rồi thời gian khó. Tay ga vù vù chạy… và ai cũng ghẻ lạnh nhìn phế nhân Ba Gà. Cả cái hộ khẩu bà Hai cũng chẳng buồn nhập cho con. Tên tuổi làm gì với tàn phế? Phải vậy không? Hay sợ có tuổi tên rồi Ba đòi chia của nả? Ừ, dám lắm…Thôi lơ đi cho chắc.
Buồn lắm. Ba lăn xe từ quán nầy sang quán khác, ké li rượu thừa của máy thằng lành lặn. Cay đắng nên phân trần và kể lễ:
– Đù má…. thằng Hai đừng đạo đức giả… Nó nói tao làm nhục gia đình. Trộm cắp và xì ke ma túy. Nó đẹp lắm, hay lắm sao? Đù má… không có tao…
Thiên hạ mà… họ đểu lắm, cứ chuốc cho Ba Gà dăm chén để nghe chuyện đại gia Minh Hai, một thời “đạo chích” ở Tây nguyên… Chân liệt nên miệng Ba phát triển theo hướng ” mất nầy được kia”. Lê xe về nhà Ba xỉa xói mẹ:
– Bà đừng phủi sạch công tui. Bà dùng tiền ăn cắp của tui để ngồi sòng. Tui đâu ăn một mình… Bà không phải mẹ, đứa nào bà cũng coi là con, chỉ có tui bà coi không bằng một con chó…
Với bầy em, Ba lôi ra từng đứa một. Đứa nào cũng tày đình những tội là tội… Cứ thế rượu vào là Ba chửi. Thời nầy rượu rẽ mạt, chỉ cần hai xị là bá tánh đã nghe được một dọc từ Bến Hải đến Cà Mau….Quan trọng là nghe được tiếng sụp đổ của câu Phú quí sinh lễ nghĩa mà Minh Hai cố dựng lên từ lúc có tiền.
Ngày nào cũng nghe chửi, họa có thánh mới nuốt được cục tức vào lòng. Anh em Minh Hai nuốt sao trôi. Chuyện nhà cứ lôi cho ba quân cười vỗ mặt. Bà Hai có lúc còn đấm ngực kêu lên:
– Trời ơi, cho hắn một búa, hắn chết đi cho rồi.
– Thì bà cứ giết tôi đi – Ba gà đốp chát lại –
– Mày muốn chết thì tao cho chết – Thằng em tên Thành cầm cây lao đến đập vào chiếc xe lăn. Hôm đó chắc uống nhiều nên Ba chửi ầm ỉ . Nghe ồn ào, đang bia bọt cùng bạn bè Minh Hai về. Năm thằng vai u thịt bắp mồ hôi dầu, thằng nào cũng đỏ ké vì men. cái máu xem trời bằng nửa hạt tiêu bừng dậy, lao vào đấm đã gã tàn phế Ba Gà. Thiên hạ đứng coi chơi, chả ai can, mà can cũng không được. Lỡ suông đòn ai chịu?
Và rồi cả năm anh em phải chịu trách nhiệm trước cái chết ba Gà. Chớ sao. Với luật pháp con người là vốn quý, mọi hành vi xúc phạm nhân thân người khác đều phải chịu trách nhiệm hình sự.
Còn bà hai Dậu? Sau khi năm đứa con lần lượt tra tay vào còng, bà ngơ ngơ ngẫn ngẫn. Có khi đang ngồi bà đâm đầu bỏ chạy.
Nga – Đứa con gái không chồng rượt theo:
– Mạ..đừng chạy… mạ ơi…
NGUYỄN TRÍ
