Mùa xuân của Xuyến

nguyentri

Năm hết. Dãy trọ mười bốn phòng, trên dưới năm mươi nhân mạng ai cũng chuẩn bị cho ngày trở về, không năm nào vui bằng năm nay.
Cô A anh B chị C ai cũng nói về nơi mình làm việc bằng một giọng phẩn khởi. Nào tháng này tao hơn một trăm tiếng tăng ca. Mà tăng ca là nhân với một chấm năm đó nghe. Người khoe năm nay công ty tui cho công nhân phần quà cả ba trăm ngàn luôn đó. Một tháng lương thưởng mới là trên cả tuyệt vời à nha. Lại thêm xe đưa về tận nhà. Nghệ An thì chung tuyến với Hà Tĩnh. Châu Đốc thì về cùng Đồng Tháp. Đại khái là ai cũng vui như hội.
Vậy thôi, tha phương một năm chỉ mong về để hát quê hương là chùm khế ngọt. Vậy là tốt quá rồi, chả bù với năm ngoái – một người nói – tao nằm trong trọ khóc hết nước mắt nhớ ông bà già lủi thủi sau vườn. Tui cũng vậy chớ hơn gì ông – người khác thêm-. Năm nay chủ trọ cho mỗi người một phần quà tết gọi là. Không vui mới thiệt là lạ à.
Chỉ riêng Xuyến lại buồn. Buồn muốn chết.
Chớ sao vậy kìa? Làm ăn thất bát hay bị mất của?
Không phải đâu. Xuyến buồn bởi vì Thành – người Xuyến gọi là chồng – không thương hoa tiếc ngọc chi ráo. Thành phủ vào mặt Xuyến bằng bạt tai, che thì anh ta cho cú đấm vô lưng. Bạt đến cú cả chục phát và Xuyến la như giặc. Vậy mà cả dãy trọ chả ai ghé đến để can ngăn. Bà chủ thì lâu lâu mới tạt qua coi sóc. Cũng một lần bà chủ đến bởi được a lô, nhưng thằng chồng nạt rằng vợ tui hư tui trị mắc mớ chi đến chị? Xét cần tui dọn đi chỗ khác, chị lấy quyền gì xen vô gia đình tui? Chủ trọ không quý khách trọ thì quý ai? Vậy nên đèn nhà ai nấy tỏ. Gần dãy trọ có một tạp phẩm chuyên mua bán hành tiêu ớt tỏi muối đường vân vân, chủ nhân có tuổi lại bán thiếu tới kỳ lương thanh toán nên khách trọ cũng nể chút chút. Chủ quán can riết rồi cũng kệ cha tui bây tao mệt quá.
Nhưng tệ quá thì thôi. Đánh nhau thì ta phải can ra mới là đạo lý chớ, lỡ suông đòn thì sao? Đằng nầy cả mấy chục nhân mạng mà lơ. Thiệt là… Cả mấy đứa chung sở làm với Xuyến cũng vậy luôn. Bốn năm sáu bảy tám đứa đóng cửa phòng điềm nhiên chặt hẻo. Xuyến la làng kệ Xuyến, thiệt là tàn nhẫn quá thôi. Có đứa còn nói:
“Kệ mẹ nó. Ngu ráng chịu.”
Ái chà. Có kệ mẹ, có ngu ráng chịu là chuyện không hề thường đâu nghe. Đàn bà con gái mà xướng kệ mẹ thì cũng gớm ghê à. Ồ! Chuyện nhỏ thôi, thời buổi nầy văng tục chửi thề trong miệng các mặt hoa da phấn có chi đâu lớn. Nghe nè:
“Đ… má. Đồ mê trai. Cho chết mẹ nó đi.”
Xin chớ có ngạc nhiên khi người đẹp bổ báng người ơi. Nghề nghiệp nó khiến con người ta phải thế. Nguyên dãy trọ nầy các cô là khách víp. Bà chủ quý lắm. Không như các công nhân của công ty, tiền trọ bê trể là thường. Các cô thì tuyệt. Một đêm thu nhập dăm bảy trăm một triệu là thường. Tiếp viên nhà hàng nó vậy. Lương lậu không bao nhiêu nhưng đã là nhà hàng thì khách phải xịn, mà xịn thì bo biếc là chuyện vặt. Làm nghề nầy trước tiên phải đẹp, thứ đến phải dịu dàng, thứ nữa phải biết uống bia. Và phải biết chấp nhận. Đôi khi có men, hay lợi dụng men khách sàm sở tí tí em cũng cười. Cười là liệu pháp tinh thần tuyệt vời. Nếu khách bị mê hoặc bởi nụ cười mà mời đi chơi sau giờ làm việc, tức sau mười hai giờ đêm, thì tuỳ, bởi nửa đêm ngủ hay thức tùy em quyết định.
Em đẹp. Đóng vai hiền cả diễn viên hô-li-út còn chắp tay chào thua. Nhưng đó là diễn, còn thực tế thì Bà La Sát phải kêu em là chúa. Vậy mà để cho chồng nó đập thì ngu là phải quá.
Bà Ba chủ quán nói với ông Ba rằng:
“Chồng gì mà chồng. Chồng hổng chồng hông thì có. Để tui kể ông nghe. Con Thắm nói…”
“Chuyện của thiên hạ kệ thiên hạ. Mắt thấy tai nghe còn không ra ôn dịch gì. Ở đó mà kể lại. Mà con Thắm nói với bà sao?”
“Ủa, Bà ba bỉu môi, nói vậy mà sao hỏi?”
“Thì nghe nhưng đừng có tin. Như mình vậy.”
Như mình vậy là ông Ba nói gia cảnh chính mình. Ông Ba có thằng con. Mụ nội cha nó. Ăn chung ngủ chung đi làm chung, vậy mà lúc công an ập vô nhà mới biết thằng con, chẳng những chích mà còn tàng trữ và mua bán chất cấm. Thử hỏi còn ai trên đời nầy để tin nữa không hả trời đất? Cũng may là ông nhà nước cho uống mêthađôn và ông con chịu uống bằng không là vác bị đi ăn mày hết kiếp. Nên chi ông Ba không tin chuyện kể lại cũng đúng. Nhưng mà nghe cho vui:
“Con Thắm một quê với thằng Thành và con Xuyến. Nó kể rằng…”
Thành có vợ và có một con trai. Vợ con Thành đang ở với ông bà nội ở quê. Con Xuyến yêu đương với một thằng họ Sở. Sau khi ngâm xong câu con ong đã tỏ đường đi lối về nó dông tuốt. Đang buồn Xuyến gặp Thành. Biết người ta có vợ con mà vẫn đâm đầu vô cặp kè là quá xá ngu. Lại thêm con vợ thằng Thành chận đường xáng mũ bảo hiểm vô đầu mắng vô mặt là đồ giựt chồng nữa đó. Cha má anh chị em lôi Xuyến về. Anh trai điểm mặt Thành mà rằng:
“Mày có tin là tao cho mày một dao không?”
Vậy rồi cả hai tạm biệt sông nước đi xây tổ uyên ương. Thời nầy tổ ở đâu cũng có. Một tổ mười sáu mét vuông thêm gác lửng quá đẹp cho một đôi. Chàng đi làm công ty, nàng tiếp viên nhà hàng. Lương chàng không bao nhiêu. Năm triệu cả tăng ca thì tết công gô mới sắm được xe, đằng nầy chàng còn phải gửi tiền về cho con trai ăn học. May mà Xuyến làm ra tiền. Tiếp viên mà, lương chả bao nhiêu nhưng bo biếc là chủ yếu. Xuyến tậu được tay ga xịn loại bốn chục triệu một chiếc. Sáng chàng thức sớm rồ ga ra chợ mua đồ ăn sáng về cho nàng. Sau đó chàng lên đàng đến công ty. Nàng ở nhà vùi đầu ngủ mãi mê. Tỉnh dậy là cùng bạn chung sở làm thi nhau chặt hẻo. Vợ chồng Ba chủ quán khoái lắm bởi các cô xài sang lắm – A lô năm cà phê sữa đá, năm tô mỳ có trứng nghe chú Ba với lại một cây bài cào. Công an sở tại còn khuya mới bắt được các cô đánh bài, vừa xuất hiện là bà Ba đã a lô…Kiểu vậy nên bà Ba mới xác định rằng:
“Thằng Thành lợi dụng sự nhẹ dạ của con Xuyến để ăn tiền con nhỏ ông hiểu không? Nó là thứ đàn ông bám chéo áo đàn bà. Thứ đó trời không đánh thánh cũng đâm.”
“Thôi, cho tui xin. Bà không thấy có rất nhiều điểm vô lý dồn vô một chỗ không?”
“Vô lý sao?”
“Bà nói thằng Thành có vợ con rồi?”
“Ừ.”
“Con vợ thằng Thành từng xáng mũ bảo hiểm vô đầu con Xuyến?”
“Ừ.”
“Vậy mà con Xuyến vẫn đâm đầu đi theo là nó bị điên. Bà nghĩ đúng không? Chả có ai trên thế gian nầy biết người khác có vợ có con mà còn đắm đuối. Nếu là con gái mới lớn thì còn có thể, đằng nầy con Xuyến đã hai mươi mấy, yêu đương rồi, bị phụ tình rồi. Nó khôn nẻ võ, tui với bà cố cựu xứ nầy, bầy con bốn đứa làm hộc gạch được chiếc Wave an-pha là hết, nó mới mấy tháng là tay ga chạy vù vù, nó thua cây bài bằng tui làm hai ngày công thợ. Nó đâu có điên bà hiểu không?”
– “Nhưng mà…”
– “Tui biết thằng Thành vợ con rồi. Tui biết con Xuyến bị đánh ghen luôn. Cả chuyện thằng Thành đem tiền về cho con nó tui cũng biết. Nhưng chuyện mấy đứa ở đây bảo thằng Thành bám chéo áo đàn bà là không đúng. Chuyện thằng con mình thoi thằng Thành lúc tui không có nhà là trật chìa bả hiểu không?”
“Thứ đàn ông mà đánh đàn bà bị con mình đập là phải.”
“Thằng Thành sai nhưng mình chỉ can thôi. Đánh người là không đúng.”
“Tui không hiểu ông nghĩ sao mà đi binh thằng Thành.”
“Để tui nói bà nghe. Thằng Thành tâm sự vầy nè…”

Thành là con nhà có tí chút của nả. Sống bằng nghề mua lúa bán gạo. Đại khái đậu ghe lớn ngoài sông cái rồi dong thuyền nhỏ vô mấy chòi lúa trong tắc, trong ráng, trong bưng. Một kiểu lấy công làm lời. Thành con một nên cha má thương lắm. Lấy vợ xong cha má cho con dâu một nơi bán gạo trong chợ. Mua tận gốc bán tận ngọn kiểu nầy thì lên nhà lầu không chóng thì chầy. Vợ Thành đúng số đẻ bọc điều khi hạ sinh một hoàng nam, cha mẹ chồng nâng như trứng mỏng. Có câu già sinh tật đất sinh cỏ sướng quá ắt hư. Vợ Thành hư thiệt. Nó ngoại tình.
Nghĩ cũng đúng thôi. Sống trong đủ đầy con người ta cần phải có sự trung hoà. Thặng dư là phát phì. Không nở bề ngang nó sẽ tràn qua bề dọc. Chính xác là vậy. Thành nổi trôi thương hồ ghé đâu là dập dìu tài tử giai nhân đến đó để vợ nhà trơ cái hồng nhan với nước non nên ra cớ sự. Phải chi cái thằng nhơn tình đừng có ăn vô cái hàng gạo thì không đến nổi. Cha má Thanh thấy gạo hụt ngọn nên sinh nghi. Một hôm kia Thanh quả tang trai trên gái dưới ngay trên giường của mình.
Thành kể với ông Ba vậy và ông già có ý kiến:
“Khi đàn bà ngoại tình thì lỗi trước hết về thằng đàn ông. Mày không êm thấm vụ giường chiếu thì nó phát sinh là tất yếu. Thằng đàn ông mình vốn ích kỷ chỉ biết mình mà không biết người. Thằng nào cũng nghĩ người đàn bà khi đã cho ai họ cho bằng trái tim, bằng tâm hồn. Mình cho qua có ngày sẽ làm con ma cụt đầu. Mày chia tay phải rồi.”
Nhưng con nhỏ không chịu ly thân hay ly hôn chi ráo. Nó cứ trơ mặt ở cái nhà mà cha má Thành đã cho. Thằng nhân tình thì quất ngưa phi mất, có còn chi nữa mà nó bám? Cái nhục lớn quá nên cô không đi thì tui đi. Thành trả ghe máy cho cha má còn mình nhét túi vài đồng lang thang mấy quán cóc, và cu cậu ghé quán em Xuyến làm đôi xị lai rai. Xuyến cũng bắt mắt, ăn nói mượt mà dễ thương. Rất nhanh chóng hai tâm hồn đơn độc và bị đả thương như nhau ra một cặp. Thằng kể chuyện bị vợ cặm sừng cho em Xuyến nghe, Xuyến cũng kể bị tình phụ cho anh Thành nghe. Đã thiệt tình thì tình thiệt. Và trăng gió lâu ngày là ra đá vàng. Con vợ đang cố lấy điểm trong vai hiền phụ mong một ngày chồng chuyển ý nghe tin liền ra máu Hoạn Thư. Nó đánh Xuyến là có thiệt.
Thiên hạ nói đúng hết nhưng mà sai. Rằng Thành không dụ dỗ ai hết, Thành không hề bám chéo áo đàn bà khờ dại. Cà rá dây chuyền Thành có là Xuyến mua, Xuyến đưa tiền cho Thành về thăm con. Nhưng tất cả là do Xuyến tự nguyện. Thanh tâm sự vậy với già Ba:
“Nhưng sao mày đánh nó? Còn trói nó lại nữa. Con Thắm chụp cái hình con Xuyến bị trói đưa tao xem. Mày liệu hồn, con Thắm hăm sẽ gửi cái ảnh về Mail của anh con Xuyến, mày liệu mà xử lý.”
“Không phải con muốn vậy đâu chú Ba. Con không trói lại dám nó ở tù vị tội giết người.”
Thành về quê thăm con. Hẹn một ngày sẽ lên, nhưng thằng con bị sốt ác tính. Ở bệnh viện Thành thoại cho Xuyến nhưng máy hết pin. Xuyến gọi nhưng máy ò í e thuê bao quý khách… Nghĩ rằng chàng đã tình cũ không rủ cũng tới nên Xuyến cũng Hoạn Thư. Thành vừa lên Xuyến đã mè nheo khóc lóc, đang bực Thành có nặng một đôi câu. Xuyến chửi thề, xin thông cảm nghề tiếp viên nhà hàng nó vậy. Và không có chi nhanh quen cho bằng chửi thề. Giận quá Thành cho Xuyến bạt tai, vậy là cô xách dao lụi thiệt luôn. Nếu không trói lại Thành chết chắc. Nhưng sau đó Thành ỉ ôi năn nỉ. Đàn bà con gái mười cô hết một chục nghe tình òn ỉ là xuôi liền. Kẹt cái nhỏ Thắm nghe Xuyến kêu cứu khi bị trói nên chạy qua, và từ cửa sổ nó chộp lẹ một pô Xuyến bị trói dấu trong ai-pát của nó. Thắm đem thắng lợi nầy khoe với bà Ba lại hăm rằng Thành mà thượng cẳng tay với Xuyến là bức ảnh sẽ bay về nhà của Xuyến.
“Vậy sao đêm qua mày còn đánh nó? – Ông Ba gằn giọng – Con Thắm gửi tấm hình về dưới rồi, mày lo mà trốn đi. Anh con Xuyến mà lên là mày chết đó. Nhưng tại sao ra vụ đánh nhau mày nói tao nghe?”
….
“Sao mày khóc?”
“Buồn quá chú Ba. Đêm qua con tăng ca, nhưng đau bụng nên về lúc hai giờ sáng. Đến lúc đó mà Xuyến chưa về. Chú biết cô ấy đi đâu không?”
“Tiếp viên nhà hàng là vậy đó.”
“Không. Xuyến nói với con, hứa với con chỉ đơn thuần làm tiếp viên. Mọi chuyện sau mười hai giờ đêm cô ấy không bao giờ bước chân vào. Vậy mà…”
“Mày phải chấp nhận. Nó trẻ và đẹp. Kẻ có tiền thích cũng đâu có gì lạ? Còn nếu không muốn bị dối trá qua mặt thì xin cho nó đi làm công nhân.”
“Hoàn toàn không được chú Ba à.”
“Tại sao không?”
“Chú biết không Xuyến phải gửi tiền về cho cha má, và thậm chí anh em cô ấy dưới quê. Cha cô ấy rượu và mẹ nghiện bài. Anh em cũng bê tha lắm chú.”
“Trời đất ơi…”
“Dạ… ở dưới con chuyện nầy thường lắm. Chú đọc báo chắc biết nhiều gia đình có con gái chỉ chực chờ gã cho nước ngoài. Dạo nầy nhiều cô dâu xứ mình oan mạng nên họ có chùng lại. Dịch vụ bây giờ là kéo nhau đi làm tiếp viên. Chú thấy đó uống với khách, chiều chuộng một tí. Nghề nầy có đêm ngoài triệu bạc đó chú…”
Ông Ba thở dài:
“Tao cũng chả biết nói sao. Sống kiểu nầy làm sao trăm năm được hả Thành? Mày lo vụ tấm hình, đừng để…”
“Không có gì đâu chú. Chẳng ai thèm lên xứ nầy đâu. Họ cũng không đưa Xuyến về đâu. Cô ấy mà về thì tiền đâu để họ…”
Vậy nên Xuyến buồn. Buồn muốn chết.
Năm hết nhưng mùa xuân không đến với cô. Và cả Thành.
Nguyễn Trí

CON LUỐC

nguyentri

Mãi cho đến bây giờ, dân khai thác mây tre lá của chủ thầu Sáu Yến, những người còn lại, chọn bến phà lẻ bảy làm quê hương vẫn còn nhắc đến con chó Luốc của đại uý Thuận.
Tiếng đại uý chứ Thuận chả lính tráng chi. Thời chiến tranh là tài xế. Sau chiến tranh xe cộ bị sung công, chủ xe tơi như cái mền rách thì tài xế như Thuận có mà ăn cám hấp. May thay lúc phùng thời Thuận được bà Bảy Bầu Cua chọn làm con rể. Bà Bảy là cai của chủ thầu Sáu Yến. Thuận theo mẹ vợ vào rừng khai thác mây tre lá kiếm cơm. Thuận uống ngày lít rượu nên được anh em thợ phong đại uý. Thường gọi Đại Uý Thuận. Sáng Thuận làm hai xị gọi là súc miệng rồi cùng vợ kéo câu liêm vô rừng khai thác lồ ô. Ngày hai vợ chồng kiếm trăm cây là chuyện nhỏ. Chiều về trong lúc vợ nấu cơm Thuận lôi rượu ra làm tiếp. Có lẽ mê rượu hơn mê vợ nên, không phải một mà vài người trong bãi, cũng thức dậy sớm nấu cơm thấy Xuyến – vợ Thuận – từ chòi của Dũng Nhí rón rén mò về. Đêm hôm khuya khoắt mà thiếu phụ vô chòi trai là có vấn đề. Dân rừng thậm thụt lời ra tiếng vào. Và cả ta bà vô cùng lễ độ khi một hôm kia Dũng và Xuyến biến khỏi bãi.
Đại Uý ôm con chó Luốc khóc ròng. Thiếu tá Tư Đô La mới khuyên bằng âm nhạc rằng:
– Ôi đàn bà là những niềm đau… đàn bà là ngọc ngà… chông gai làm tim rĩ máu…
Thời cũ Nguyễn Tư chỉ binh đơ cán cuốc nhưng anh em phong thiếu tá cũng do rượu mà ra. Tư uống thua Thuận xa lắc nhưng cấp bậc hơn là vì tạp uống. Trong bãi có một bụi đời tên Hùng Tàn. Dân Bình định tha phương có tí đỉnh võ vẽ. Hùng có một chai rượu thuốc dùng để xoa bóp. Anh em thợ bị trặc tay bong gân cây đập là Hùng ra tay cứu giúp. Anh em khen thuốc hay quá. Hùng nói:
– Tao pha mã tiền với mật gấu nên tốt lắm.
Rượu vậy mà một hôm kia cai thầu Bảy Bầu Cua chưa tăng bo kịp lương thực vì xe cộ trục trặc, thèm quá, trong khi anh em đi làm Tư ở nhà chôm chai rượu của Hùng Tàn làm một ly. Chỉ một ly mà Tư sùi bọt mép. May mà trong cái đám con nít vào rừng cùng cha mẹ có thằng Bảy Xoáy – con trai Hai Trụi – thằng cu nầy có cái đầu kỳ dị nhất thế giới, tóc tai sừng lên như bờm ngựa. Ông Sáu Hải chồng bà chủ Sáu Yến nhìn nó nói:
– Mẹ ơi… thằng nầy ba bữa là kinh hồn giáo chủ chứ không chơi.
Bảy Xoáy phi một hơi lên chỗ làm thông báo tình hình. Mới một phần ba đường thì Hùng Tàn cùng anh em tuôn về, dẫn đầu là con Luốc. Hùng Tàn banh cái họng kẻ tham uống ra, đặt lên đó một cái phểu rồi cho nước suối vào. Đầy bụng là đè xuống cho ọc ra. Vậy mà Tư còn bị đi kiết hết tuần. Thiên hạ phong thiếu tá liền một khi. Hùng Tàn nói:
– Không nhờ con Luốc là ông chết chắc.
Thiếu tá ôm con Luốc vỗ về:
– Cám ơn mày Luốc ơi. Tao thương mày lắm.
Con chó liếm lên mặt lên râu Tư Đô La thân tình như với chủ. Toàn thể thợ rừng của vợ chồng ông bà Hải Yến không ai không yêu Luốc.
Nó khôn ngoan cực kỳ. Hùng Tàn nói khi có chén rượu trên tay:
– Tao đó đây cũng dữ mà chưa thấy đứa loài người nào khôn hơn và nghĩa tình như nó.
Chả ai cãi Hùng hết. Vì thật như vậy.
***
Luốc rất thân với Hùng Tàn.
Từ khi Xuyến bỏ theo tình Thuận buồn rầu nên rượu suốt. Cũng chả biết nên mừng hay không cho hoàn cảnh của Thuận. Không một hậu duệ nào để an ủi nên Thuận xem Luốc như con. Bắt đầu cuộc rượu Thuận vỗ về Luốc còn hơn Hai Trụi thương thằng Bảy Xoáy. Chả là Bảy Xoáy mồ côi mẹ. Phê phê Thuận chửi con đàn bà lăng loàn sau đó quay qua trách Luốc đã không giữ vợ cho mình. Nó gian dâm với Dũng Nhí mày biết phải không Luốc? Vậy sao mày không cho tao hay? Say lên Thuận đuổi:
– Mày đi theo con lăng loàn đó đi. Đi đi…
Những lúc đó Luốc bò qua chòi Hùng Tàn, Tàn ôm con Luốc bắt ve bắt vắt cho nó. Ở rừng, ve vắt là chuyện thường lắm. Tàn nói với Luốc:
– Chủ mày say khướt. Nó mần ăn ngay mũi còn không biết. Ở đó mà kêu với ca. Đừng buồn nghe Luốc, mấy thằng say mày chấp làm chi.
Luốc ư ư ra cái vẻ tui hiểu mà.
Thiên hạ chả hiểu sao luôn la đà trong rượu, Thuận đâu có dạy biểu gì mà cái nết ăn của con Luốc thật đáng để loài người nể phục. Sáng, Thuận bày bữa ra. Cá một nồi, thịt một nồi, cơm banh nắp. Ăn xong Thuận đi làm không cất dọn gì sất. Luốc nằm yên trông chừng, nó không nhúng mõm vô bất cứ thứ gì. Trong mớ thợ của bà Bảy có thằng Dũng Heo chuyên trộm thức ăn của anh em thợ. Nửa đêm canh giấc ngủ say Dũng đột kích vào chòi bạn dùng tay hốt mớ thịt, bốc vài con cá là chuyện thường. Ai cũng đôi lần bị Dũng chôm thức ăn mà đành chịu vì không quả tang. Nhưng biết là vì Dũng rất ít tốn tiền thực phẩm. Vậy nên có tên Dũng Heo. Cỡ vậy mà Dũng đừng hòng chôm được thức ăn của Đại uý. Con Luốc xù lông gáy nhe răng là Bảy Xoáy còn ớn lạnh nói chi ai. Luốc không ăn vụng. Cũng không ăn trong chén mẻ muỗng dừa. Tô ăn của Luốc phải lành lặn và sạch sẽ. Đại uý bê tha quá nên Hùng Tàn rửa luôn tô của Luốc. Ngoan trong ăn uống của Luốc là nhỏ. Cái tự ái của Luốc là cả ba quân phải kinh ngạc.
Lúc phùng thời quân của bà Sáu Yến trên ba trăm nhân mạng. Ba trăm nầy dưới sự điều hành của sáu cai thầu. Năm mươi quân một cụm. Cụm cách cụm vài cây số đường chim bay. Cõi nào cai ấy khai thác. Thợ làm cho cai Út Bình đừng mơ qua bãi Năm Hồng chơi bời hay uống rượu. Nghe nói hai ba cây số tưởng gần nhưng vòng vèo cả buổi chưa chắc đến. Nhưng Luốc thì có mặt ở tất cả các bãi. Thiên hạ rất ngạc nhiên khi Luốc chỉ là một con chó bình thường, mang từ đồng bằng lên, cha nó ở phố, mẹ là cẩu tiểu thư thì có dính chi tới rừng. Vậy mà Luốc sành rừng như sói vậy. Hôm đó nó qua chơi bên bãi của cai Châu Đèo.
Dưới trướng Châu có một cặp. Chồng tên Trọng vợ tên Thắm. Cặp nầy người dân tộc Tày. Trọng to cao, trắng trẻo đẹp trai. Cô vợ thì, nói thiệt, nhìn sơ mấy thằng có máu băm lăm mê nước da bông bưởi của em là nhỏ, nhan sắc của em mới thiệt là hết ý. Đẹp nên ai cũng ghẹo tí chút cho vui. Châu Đèo tuy vợ con nhưng ma bùn lắm. Miệng nói tay quơ nên dễ gây hiểu lầm. Trọng là thằng cả ghen. Thấy đàn ông ghẹo vợ bằng tay điên lắm nhưng nhát nên nhịn. Hắn ngồi lầm bầm như bị mắc đường dưới. Một lúc Trọng ngước lên thì thấy Luốc đang ngồi trong chòi. Vậy là giận cá chém thớt, gã văng tục chửi thề đuổi Luốc ra khỏi chòi.
Kể từ đó Luốc không xem Trọng là bạn.
Bằng chứng là sau giã từ Châu Đèo, làm với thằng nầy nghi bị mất vợ quá. Trọng qua đầu quân cho Bảy Bầu Cua. Là người mới Trọng đến chòi đại uý chào thân mật thì hết hồn khi thấy Luốc xù lông gáy nhe nanh trắng ởn sấn tới như muốn táp. Trọng hãi quá thối lui. Đại uý nói:
– Tao nghe thằng Đại nói mày chửi, đuổi nó ra khỏi chòi nên vậy đó.
Ở bãi hể gặp Trọng là Luốc gừ. Trọng sợ quá nên đem thịt heo thịt bò đến dụ nhưng Luốc không màng. Thân thiết như Hùng Tàn khuyên thôi bỏ đi Luốc ơi, Luốc vẫn không cho qua. Làm được một đợt Trọng xin Sáu Yến qua chỗ khác, ở lại không biết Luốc phập lúc nào. Ở tất cả các bãi chả thợ hoặc cai nào dám làm Luốc tự ái. Nó giúp đỡ cho nhiều người. Thiệt đó, không đùa một tí nào đâu.
Luốc khá thân với Thạch Giựt. Thằng Giựt nầy có một hoàn cảnh rất thảm thiết. Theo lời Sáu Râu – anh của Thạch – thì nó là con nuôi của cha má Râu. Chả biết ai đang tâm vứt con trước nhà, cha Sáu ôm về nuôi. Năm mười tuổi Thạch bị một cây sốt ác tính. Không chết nhưng từ đó bị giựt. Chả hiểu làm sao hể cứ giựt lên là Thạch toạc cái suy nghĩ của mình ra miệng. Mười sáu tuổi Thạch mê Thảo, con gái út cai Chín Nà. Gặp Thảo không kìm được Thạch giựt rằng yêu… yêu… yêu Thảo….muốn… muốn… muốn… hun… hun… Thảo… thảo quá… Vợ Dũng Giỏi mặc áo hở ngực cả gang, lộ cặp bưởi to sụ Thạch giựt rằng dzú… dzú… dzú… bự… bự… bự… quá… Một lần trên xe từ rừng về nhà. Bọn đi đười ươi lậu dấu cả chục bao dưới lồ ô. Lúc xe qua trạm bảo vệ rừng lên kiểm tra. Thạch giựt rằng ươi… ươi… ươi dấu… dấu… dấu ươi… vậy là sạch bách.
Vào rừng Thạch kiếm thịt bằng cách đặt bẫy cò ke. Những cheo, chồn, gà rừng Thạch có đến dư để bán cho anh em thợ. Tất cả nhờ vào Luốc. Thạch nói khi bắt đầu vót bẫy:
– Mày… mày… mày… coi chỗ… chỗ… nào thú… thú… nhiều dẫn tao đi đặt nghe Luốc… luốc… luốc…. Yên… yên… yên tâm đi, tao không lấy tiền đại… đại… đại… uý… đâu…
Con Luốc quả có một cái mũi tinh đời. Thạch cứ thế mà kiếm thêm. Chỉ một mình Thạch mà thôi, những tay khác dụ dỗ cách mấy cũng không được. Cơ hồ như Luốc biết ai là kẻ cần giúp vậy. Có một lần nó giúp Hùng Tàn bắt được một con Trút.
Đợt đó Hùng sống như vợ chồng với một nàng tên Thuỷ. Cha má nàng đúng khéo đặt tên. Nàng mềm và ẻo lả như nước vậy. Hùng giới thiệu vợ. Cô vợ nầy vào rừng để hái hoa là chính. Ở trong rừng được ba tháng, chơi không mà Thuỷ bị sốt mới chết. Công chúa Thuỷ xanh xao vàng vọt thấy tội lắm. Trời mưa tháng giá ai cũng khuyên Hùng ơi cho vợ mày về đi. Hùng nói với Luốc rằng:
– Phải chi bây giờ trời cho tao con Trút thì hay biết mấy há Luốc?
Nữa đêm hôm đó con Luốc sủa inh trời đất ngay trước chòi. Hùng bật đèn Pin thì phát giác ra một con Trút đang đeo trên gốc lồ ô. Hùng ôm chiến lợi phẩm bỏ vô bao. Nói với vợ Thuỷ:
– Mai em theo xe ra phà nhờ ai đó bán giúp. Ở đó chơi vài ngày, hết bệnh rồi vào nghe cưng.
– Dạ.
– Lúc vô em mua cho con Luốc hai lạng thịt bò nghe.
– Dạ.
Luốc ư ử rên.
Nhưng cả năm ngày sau không thấy Thuỷ vào. Hùng vác ba lô ra phà. Hôm sau vào tay xách can rượu mười lít. Trong giỏ có thịt bò cho Luốc như đã hứa. Lúc múc thịt ra tô cho Luốc, Hùng cũng bày phần của mình ra mâm. Nhưng con Luốc không màng mà ngước nhìn Hùng. Hùng uống hết một cái xây chừng;
– Ăn đi con. Thuỷ không vào nữa đâu. Cô ấy về với gia đình rồi.
Mày biết không Luốc – Hùng nói bằng một giọng buồn rầu – tao và cô ấy yêu nhau nhưng cha má cô ấy không chịu. Tao nghèo quá. Tương lai mờ mịt. Làm cái nghề nầy thì qua được ngày chứ không qua tháng. Chừng ấy thời gian sống với nhau chắc cô ấy thấy được rồi Luốc à. Tao buồn. Buồn quá Luốc. Mày ăn đi. Ăn một miếng cho tao vui. Đừng có nhìn tao như vậy. Đời tan hợp là chuyện bình thường. Giầu nghèo cũng vậy. Xưa kia tao là con quan đó Luốc. Giờ tàn vầy buồn lắm Luốc. Ăn đi. Tao làm một cốc cho quên sầu nhân thế. Rồi Hùng hát:
– Thà rót cho ta trăm nghìn chung rượu độc. Đừng một lời nào mai mĩa cho nhau. Cho ta đi, đi sâu vào cơn lốc… cho ta say đến tột đỉnh sầu…
Con Luốc không ăn mà đăm đắm nhìn Hùng. Về sau Hùng kể anh ta thấy có khói trong mắt Luốc. Thợ rừng cười kha khả mà rằng:
– Khói cái đầu mày. Mày có rượu nên thấy vậy.
***
Chuyện Luốc và cha con Hai Trụi Bảy Xoáy mới thiệt ly kỳ
Bảy Xoáy dốt đặc cán cuốc. Khi Hai Trụi náu mình dưới trướng Sáu Hải thì Bảy Xoáy mới lên sáu. Trụi đưa con trai vô rừng đóng đô dài hạn luôn. Chả là cái thời cơm đói áo rách, nghèo đến độ không có nhà như Trụi thì vô thiên lũng. Có nhà hẳn hoi mà còn vô rừng kiếm sống nữa kìa. Cả chục cặp vợ chồng chơi kiểu như Trụi. Vâỵ thì chuyện học hành xin hẹn chừng nào có rồi tính. Nếu cần xin hẹn lại kiếp sau luôn cũng chả chết thằng tây nào. Bảy Xoáy tủi thân nhất trong lũ con nít ở rừng bởi cu không có mẹ. Vụ không mẹ nầy được Trụi kể với bạn nghề nghiệp khi tưng tưng bởi rượu như vầy:
– Đàn bà lắm kẻ bạc tình bạn hiền ơi. Thằng Bảy Xoáy được một tuổi, nghèo quá nàng bỏ mình bỏ con một đi không trở lại. Quê mình đất cày lên sỏi đá, mùa đông thiếu áo mùa hè thiếu cơm nên tình nó cũng vá chằng vá đụp vậy đó.
– Tình gì mà vá víu thảm thê vậy bạn?
– Thì mình gặp cổ ở bên đường. Mình mua cô ấy bán. Cám cảnh nhau nên về với nhau. Ai ngờ… – Trụi thở dài não nuột – những kẻ quen đưa người cửa trước rước người cửa sau không chấp nhận khó nghèo nên thằng Bảy Xoáy không mẹ.
Nói xong Trụi nâng ly trút một hơi vô họng cho tan cái chán chường. Bạn bè thấy vậy liền khuyên vài câu chiếu lệ. Khuyên xong mới hỏi:
– Đàn bà khối mẹ gì sao không kiếm em khác?
– Tao chán đời quá, với lại nghèo đến đôi dép không có mà mang. Mày nghĩ có ai ngu mà bá vô để chết chùm?
Mà tình thiệt lúc mới vô rừng Trụi không có lấy đôi giày. Anh em tội nghiệp quá mới bố thí một đôi, tuy rách nhưng xài được. Trụi không thèm. Anh ta giơ hai bàn chân lên và ai nấy thất kinh. Da chân dày cộp, chai ngắt như da trâu. Đặc biệt chỗ gang bàn chân phải lõm vô sâu hoáy. Trụi nói:
– Hồi ở quê, tao đi buôn than bằng xe đạp, xuống dốc là thắng bằng cách thọc bàn chân vô bánh sau.
Không giày vậy mà Trụi không thua một anh em thợ nào mới là chì. Mùa mưa thiên hạ chẳng những giày, họ còn bó thân thể như bó giò để phòng ba con vắt. Trụi thì không. Vắt muốn bao nhiêu máu cứ hút tự nhiên. Vậy nên cuối mùa mưa Trụi bị một cây sốt tưởng đi đứt. Cám cảnh nên Sáu Hải mới cho tiền đi viện. Lúc này Bảy Xoáy mới thể hiện cái thông minh của nó. Cu lân la với tất cả các bệnh nhân và thân nhân của họ, cái đầu bảy xoáy là một, cái láu lĩnh khác người là hai. Ai nhờ vả, sai bảo cu không từ chối. Là vì sai bảo xong là người ta cho tiền. Hết sốt rét cha con trở lại thì Sáu Hải bàn với Trụi đại khái là không nên để Bảy Xoáy vào rừng nữa. Chả là một người quen thiết của chủ Sáu giàu có nhưng hiếm muộn. Trụi nên để con ở với người ta để được ăn học. Sáu nói rằng con nít không thiếu nhưng bảy cái xoáy quyến rũ bạn Sáu lắm. Học hành đến nơi đến chốn thằng nầy không này cũng kia. Nói chung người ta sẽ cho Trụi một khoản kha khá. Trụi nghe cũng có lý. Để con trong rừng tức là giỡn mặt tử thần. Vậy là Bảy Xoáy đi cùng Sáu Hải. Còn Trụi mua được cái nhà nho nhỏ để chui ra chui vô nhờ tiền tạm gọi là bán Bảy Xoáy.
Được một tuần thì bạn thiết của Sáu Hải thông báo rằng thằng bảy xoáy bị bắt cóc. Bà nội ơi. Thời buổi cơm không đủ ăn bắt cóc mà tế hay sao vậy kìa? Bạn của Sáu quen biết lớn lắm nên nhờ công quyền vào cuộc. Nhưng mà lạ chưa, bọn bắt cóc không thông báo chuộc chiếc chi ráo. Im luôn. Vậy nó bắt để làm cái gì? Chuyến nầy mới mệt với ông cha tên Trụi. Phải làm sao để cho ổng biết mà không nổi cơn khùng lên đây? Đang rối như canh hẹ thì một thợ rừng ra giải lao nói với Sáu:
– Tui thấy thằng Bảy Xoáy đang ở với cha Trụi trong rừng.
Thì ra ông con đã trốn khỏi nơi đã mua mà về với cha. Sáu Hải cùng bạn thiết vô rừng lôi cu về. Nhưng con Luốc có mặt đúng lúc. Nó xù gáy nhe nanh trông dữ như sói rừng. Vậy là kẻ mua coi như mất đứt cả tiền lẫn người. Trụi mua nhà mất rồi còn tiền đâu mà đòi. Thôi từ từ để nó làm có rồi nó trả.
Thiên hạ được một trận cười no. Và càng quý Luốc hơn.
Nhưng ở rừng cao và sâu luôn có nhiểu bí hiểm. Nó không đơn thuần heo rừng nai cheo chồn mển gà rừng. Ở gần rừng cấm thì chuyện ông ba mươi đi dạo đêm kiếm mồi là thường.
Đêm hôm đó bổng nhiên con Luốc rít lên đầy hãi sợ.
Nó rúc vô chòi Hùng Tàn.
Lúc đó con Hương vợ thằng Thành có bầu tháng thứ năm.
Nghe đồn ông bảy thích đàn bà tuổi hợi mang bầu lắm.
Má ơi. Con Hương tuổi Hợi mới là chết cha.
Phải không không biết nhưng phòng bị vẫn hơn. Toàn bộ các chòi vùng dậy cứ đủa gõ vào nắp xoong, thùng đựng nước can đựng rượu vỗ binh binh suốt cho đến sáng.
Sáng cả bọn túa ra đường be thì phát giác ra dấu chân hổ.
Rõ ràng con Luốc đánh ra được mùi ông Bảy. Đại uý ôm nó vào lòng hôn lên mũi nó khen:
– Mày mà không phát giác ra dám có đứa ở đây theo ông bảy quá.
Hùng vuốt đầu Luốc nói đùa:
– Bữa nào kiếm con nai nghe Luốc.
Vậy mà có nai mới là thần diệu.
***
Hôm ấy chừng khoảng mười giờ sáng. Hùng đang vác lồ ô tập trung thì Luốc phóng vô chân rít lên mừng cứ như đã lâu mới gặp bạn. Nó cắn ống quần Hùng lôi nhã chạy làm riết. Biết có chuyện Hùng gọi Thạch Giựt và Bảy Xoáy:
– Ê, chắc có thịt nên con Luốc kêu nè.
Không phải cả ba mà cả tốp thợ cùng chạy theo Luốc. Dân làm lồ ô vui kiểu ham vậy đó. Nghe động là xúm vô liền. Luốc dẫn đầu băng rừng, lôị suối, qua truông. Nó bốn chân nên lẹ lắm. May mà rừng nguyên sinh nên mát chứ mười giờ trưa mà chạy kiểu nầy có mà chết. Nơi đến là một trảng tranh rộng ngút ngàn. Thời chiến cụm rừng nầy bị trắng hoá bởi thuốc khai quang. Có một con nai nằm ngoài rìa đám cỏ tranh. Nó đã chết.
Cả bọn ồ lên mừng rỡ. Vậy là có thịt ăn rồi. Tất cả cùng la lên. Nhưng tiếng của thiếu tá Tư Đô La mới là chất lượng:
– Có nhung nè Hùng Tàn ơi.
Lúc nầy Bảy Bầu Cua và đại uý Thuận cũng kịp có mặt. Bà Bảy hào hển:
– Cha … cả tạ thịt à. Làm sao xẻ ra đây tụi bây? Hùng Tàn nghe nói mày trước có mổ bò hả? Biết thì ra thịt chia đều cho bà con coi.
Hùng buông con Luốc đứng lên:
– Đâu có đồ nghề mà ra hả má Bảy. Chỉ có rựa thì cứ ra đại cho mỗi người một miếng. Riêng cái đầu và bốn cái chân phải để lại cúng thần rừng.
– Còn cặp nhung bỏ hả mậy?
– Con nói vậy thôi. Công con Luốc là anh Thuận hưởng ảnh muốn làm gì thì làm.
– Rồi – Đại uý nói – để cái đầu cho tao, còn thịt bây chia sao đó mặc kệ, tao lấy một miếng đùi nhậu được rồi.
Thợ rừng Phú vung rựa lên và cái đầu lìa khỏi thân chú nai tội nghiệp. Hùng đứng yên chả biết vì sao con nai lại chết kỳ quặc thế. Nhưng câu trả lời có chỉ sau mười lăm phút.
Một tốp thợ săn người Tày xuất hiện với súng kíp trên tay. Ở vùng Lẻ Bảy nầy dân di cư tự do nhiều lắm. Người Nùng, người Hán-jìn, Thổ, Tày có đủ. Quen băng rừng sống đời săn thú nên họ xuất hiện không có chi là lạ. Một người lên tiếng:
– Con nai nầy của chúng tôi hầy. Tôi bắn trúng nó một phát súng kíp khi đang ăn tranh non ở bên kia đồi hầy… Mấy anh trả lại cho chúng tôi hầy…
Phú vung dao lên văng tục:
– Trả cho mày cái con… Nó chết ở đây, bọn tao thấy trước là của bọn tao.
– Ờ. Của bọn tao – Đám đông hùa theo.
– Mấy anh lấy thịt như còn cặp nhung trả cho chúng tôi… Chúng tôi rình con nầy cả tuần nay rồi. Chúng tôi cần cặp nhung để bồi dưỡng cho cha tôi…
Đại uý Thuận:
– Cần thì mua mà xài. Con Luốc tao dẫn đến đây, vậy cặp nhung là của tao.
Toán thợ săn biết không cự lại đám đông nên rút sau khi kết một câu:
– Người kinh mấy anh tham quá.
Có lẽ vì câu nầy nên Hùng Tàn bỏ về mà không lấy thịt chăng?

***
Năm ngày sau đó Luốc ở quyết bên chòi Hùng Tàn. Đại uý không quan tâm vì xưa nay vốn vậy. Thêm nữa, đại uý có tình mới. Một em cũng tha phương nghe Lẻ bảy làm ăn được nên ghé coi chơi. Con Đen vợ Dũng Heo đang bầu bì không phụ chồng được nên Dũng dẫn vào làm thuê công nhựt. Chả biết Dũng có xơ múi gì không mà Đen nổi máu hoạn thư đòi móc mắt nhỏ làm thuê. Dám có lắm. Vậy là Thuận mời em qua chòi mình võng ai nấy ngủ. Chả biết ngủ làm sao mà cả hai cùng rớt xuống sạp lồ ô mà ra một cặp. Thuận lấy cặp nhung ngâm rượu, đại uý cứ như trai tơ từ khi nốc rượu nầy. Thiếu tá Tư nói:
– Uống nhiều coi chừng bứt mạch máu Thuận ơi.
Thuận đang đắm tình. Con Luốc còn không màng nói chi lời khuyên ba láp. Luốc quẩn bên võng Hùng. Cả bốn ngày vật vờ bởi sốt Hùng chỉ còn Luốc là bạn. Một mình tội quá. Chiều, Thạch Giựt nấu cho nồi cháo, sáng hâm lại giúp cho. Ăn không được thì chết ráng chịu chứ ai mà lo được cho ai? Tha phương cầu thực bị phụ tình khổ lắm người hỡi. Đi làm Thạch nói:
– Mày… mày ở… ở ở ở… nhà ông Hùng có có có gì kêu tao nghe Luốc.
Luốc ư ư buồn thảm.
Vậy rồi sáng của ngày thứ tư Hùng trở mình ngồi dậy. Anh xoa đầu con Luốc. Nó cũng liếm tay anh ra chiều thương cảm. Anh múc cho nó miếng cháo nhưng con Luốc chỉ nhìn. Nó chạy qua đại uý vòng quanh các chòi rồi ra đường.
Cả ngày Hùng trông mãi mà không thấy Luốc. Đến chiều cũng không.
Và đó là một sự kiện đặc biệt. Xưa nay con luốc không bao giờ qua đêm bất kỳ đâu. Nó luôn ở cùng đại uý. Đêm ấy cả bọn những mười hai giờ mà không ai ngủ, ai cũng có ý chờ. Thằng Thạch cứ Luốc … luốc… luốc.. về… về…
Ngày hôm sau và hôm sau nữa Luốc vẫn bặt vô âm tín.
Mấy thằng vai u thịt bắp mồ hôi dầu không lòng dạ nào đi làm. Chia nhau qua các bãi hỏi thăm. Hùng Tàn bò qua Châu Đèo. Phú qua bãi Chín Nà, mỗi tay mỗi bãi hẹn chiều gặp lại. Nhưng Luốc không có mặt ở bãi nào hết.
Nó đi đâu?
Hôm sau Hùng khoác ba lô lên vai:
– Mày đâu đó Hùng? – Thiếu tá hỏi.
– Tôi ra phà. Nghe nói Dũng Nhí với con Xuyến về rồi, Không chừng con Luốc đi thăm con Xuyến.
– Tao đi với mày. – Đại uý nói.
– Mày đi làm gì vậy Thuận – Vợ mới của Thuận lên tiếng – Con nhân ngãi nầy lên chức bà từ khi được làm vợ. Nó hổn trời sợ – Có con chó mà này làm như mẹ mày không bằng. Tao biểu mày không đi đâu hết.
Bà con trong bãi nhìn Thuận mà tội nghiệp. Xưa nay con quỷ cái mày tao mà Thuận có dám nói chi. Thuận sợ Xuyến một, sợ vợ mới mười. Thiên hạ tưởng Thuận co vòi ai ngờ hắn nhào tới vung tay đấm một phát vô con mắt vợ mới. Trong khi nàng tối tăm mặt mũi thì đại uý phang tiếp từ bạt tai cú đấm cả đá bổng nữa mới ghê. Ngài văng cả một núi tục:
– Biến ngay khỏi bãi nầy. Mày biết con Luốc với tao như thế nào không mà láo. Con Luốc mà mất thì mày không có cửa ở trong chòi với tao đâu.
Và con Luốc biến mất.
Ngày nay ở bến phà Lẻ bảy còn được vài người biết con chó Luốc nầy. Nó mất rồi đại uý cũng chết theo. Rượu nhung nai nguyên chất mà Thuận uống như hủ chìm thì sống đặng sao? Có người nói con Luốc bị chết bởi súng kíp của mất tay thợ săn người Tày. Hùng Tàn không tin vậy. Tàn nói người thợ săn không bao giờ giết chó.
Vậy thì con Luốc đi đâu?
Rất tình cờ quen Hùng Tàn ở phố. Lôi hắn lên xe đến Đinh Bộ Lĩnh ghé cầy tơ Nam Định làm đĩa lòng tô rựa mận chai đế gò đen gọi chút tình tri âm. Tàn uống suông mà không ăn mồi. Hỏi. Tàn kể chuyện con Luốc. Nghe qua cũng chả muốn gắp. Tàn nói:
– Mày biết không? Chả ai có thể bắt được con Luốc nếu nó không tự nguyện. Dũng Nhí kể rằng Luốc về thăm đúng lúc con Xuyến hư thai bị băng huyết. Nó không có lấy một đồng đi xe đưa vợ lên bệnh viện huyện…
– Không mượn được à?
– Cái thứ đàn bà bỏ chồng đàn ông lấy vợ người khác thiên hạ bến phà không ngó, nói gì cho.
– Rồi sao?
– Con Luốc để yên cho Nhí trói đưa đi lò mổ…
– Trời ơi… thực vậy sao?
– Đời sống của chúng ta có lắm súc sinh đội lốt người. Nhưng con Luốc người lắm bạn ạ
– Bây giờ Dũng Nhí ra làm sao?
– Xuyến bán vé số dạo rồi sau đó đột ngột ra đi sau một giấc ngủ. Từ đó Dũng Nhí trở thành Độc Cô Cầu Bại xin một lần thất bại không ai cho. Sáng. Banh mắt ra là rượu, cày được xu nào cũng xào vào rượu. Uống cho đến chèm bẹp rồi bò lăn ra ngủ một mình. Tắm rữa với nó…chỉ còn là kỷ niệm! Những lời khuyên với nó chỉ là tiếng Ả rập! Trời khiến. Nó vẫn sống, ca hát nghêu ngao rồi lảm nhảm một mình! Dân bến

NGUYỄN TRÍ

MÁ ƠI!

nguyentri

Tám tuổi và sau hai năm lớp một Thơ đã nghỉ học. Bà cô giáo không bằng cấp và lương lậu. Bà dạy chẳng qua giúp cho bầy trẻ không lê la quán chợ đầu đình. Cha mẹ chúng cho đồng bạc hay ký lúa thì tốt, không có cũng không sao. Nghèo phải chịu vậy. Vậy rồi sau hai năm rời lớp tình thương Thơ không đánh vần cũng như không viết được. Ngay khi ôm vở con bé còn không lần ra mặt chữ thì lấy cái gì để nhớ nhiếc mà viết với đọc? Đó là Thơ còn có cái để khoe là con học lớp hai rồi, còn em Nghĩa thì khỏi học luôn. Nếu má không bỏ đi có lẽ Thơ vẫn còn học và cu Nghĩa cũng được đến trường. Thơ nghe cô Tư – chị của ba – nói:
– Mày cũng cho thằng Nghĩa đi học chớ Hậu, cứ để nó dang nắng hoài sao?
Ba lè nhè. Lúc nào ba cùng nhè:
– Kệ đi chị Tư. Tui với chị mấy học? Cả nhà mình có ai đọc được tờ báo mà cũng sống chớ có chết đâu mà lo.
– Tao với mày khác Hậu ơi. Thời kiếm không ra cái ăn qua lâu rồi em à.
– Mệt bà quá. Kệ tui.
– Con Thi ở được với mày kể cũng lạ. Trước sau gì nó cũng bỏ mày cho coi.
– Tui đố đó.
Vậy rồi một sáng nào đó Thơ không nhớ nữa. Chị em Thơ thức dậy và không thấy má. Tưởng má theo cô Tư đi làm. Trưa về ba hỏi:
– Má đâu Thơ?
– Ủa… Má đi làm với cô Tư mà.
– Mày chạy qua cô Tư kêu má về. – Ba lầm bầm – thứ đàn bà chuyện nhiều, giờ nầy mà không cơm nước gì hết trơn.
Bên cô Tư không có. Thơ chạy đi khắp xóm nhưng:
– Tao nói mà mày đâu có nghe – cô Tư thở dài – Nó đi luôn cho mày coi.
– Thơ – cha biểu – mày chạy quá quán bà Tám mua tao chai rượu. Bà mẹ… nó đi đâu vậy kìa?
– Mày uống vừa thôi Hậu…
– Kệ tui … tui uống tiền tui chớ tiền của bà à?
Bình chân được hai ngày ba Hậu bắt đầu đôn đáo, nhưng biết kiếm má ở đâu? Bà con cô bác kẻ nói đông người nói tây. Phán khơi khơi rằng coi chừng vợ mày bị tụi chơi bùa yêu dẫn đi rồi Hậu ơi. Ba đi coi thầy. Thầy nói có con ma dấu má rồi. Muốn về phải đem cho thầy cái áo để thầy làm phép. Ba đem cả áo cả quần đến. Tiền cúng cho âm hồn cũng bồn bộn. Ba có bớt uống và ra sức nhờ hết thầy đến cô. Một tuần rồi một tháng trôi qua. Má không tăm dạng. Thầy cả cô đổ thừa thiếu cái món tóc rối nên bùa không linh. Hết tiền ba bần thần ngồi. Em Nghĩa cứ má ơi má hỡi ơ hời như nhà có đám ma vậy. Thơ nhìn cha rồi quay qua dỗ em. Má đâu rồi má ơi? Trời ơi Thơ buồn quá đi.
Cô Tư nói với Ba:
– Mày dẹp ba cái vụ thầy bà cô cậu dùm tao Hậu ơi. Có bao nhiêu đem quăng kiểu đó là con mày đi ăn mày à. Mày bỏ rụ là con Thi nó về cho mày coi.
Nhưng ba không còn cơ hội để thầy bà vì dượng Tư đưa công nhân đi Tây Ninh thi công theo yêu cầu của chủ thầu. Ba phải đi và tất nhiên chị em Thơ Nghĩa phải theo, cái cơ hội đến trường là biệt tăm nếu không có cuộc du hành từ Tây Ninh xuống Đồng Nai. Đời công nhân xây dựng như vậy đó. Nay tỉnh nầy mai tỉnh khác là chuyện hết sức thường. Đến đâu phòng trọ đến đó. Ở nơi mới cô Tư thuê nguyên một dãy trọ mới thi công xong. Toàn bộ thợ thầy của cô dượng ngụ lại một chỗ. Vui không thể tả vì gần chợ và quán tiệm kề bên. Buổi sáng cà phê cóc nổi nhạc ì ì. Buổi chiều thợ thầy cũng ì ì nhậu nhẹt. Hai chị em Thơ Nghĩa luôn có tiền mấy chú thợ cho khi họ nhờ đi mua rượu. Ông chủ tiệm hỏi cô Tư:
– Cháu bà hả?
– Dà… cháu kêu tui bằng cô đó anh.
– Vợ chồng bà ít gì cũng cai thầu. Nghĩ sao mà dẫn con cháu theo không cho học hành? Má nó đâu tui hổng thấy?
– Anh Hai à – Cô Tư kéo Nghĩa vào lòng rồi ca cẩm – cha nó hư hao lắm anh. Rượu suốt, có bao nhiêu là đổ hết vô ma men. Má nó chịu không xiết nên bỏ đi.
Chủ tiệm nói:
– Hai đứa con xinh xắn như vầy chắc không đến nỗi bỏ luôn đâu bà ơi. Cổ đi đâu đó thời gian rồi cũng về thôi mà. Cho nó đi học đi chớ…
– Tui còn có cả bầy cháu nội lóc nhóc anh ơi.
– Cháu nội thì mắc chi vợ chồng bà? Cha mẹ nó đâu? Bà phải biết bổn phận của ông bà là chỉ có thương cháu thôi, còn cha mẹ nó lo, bộ bà lo luôn phần của cha mẹ nó hả?
– Thấy tui thương cháu quá nên cha mẹ nó ỷ anh à…
– Nè – chủ tiệm nói với ba – Sao không cho thằng nhỏ đi học? Để nó lông bông vậy ngó được sao? Không cho đi học ba bữa lớn lên nó hư cho ông coi.
– Tui tuốt dưới ít-y-zét làm sao đi học được anh hai?
– Ở đây cũng có trường. Bên họ đạo người ta mở lớp dạy chữ cho con em công nhân các tỉnh. Từ sáu giờ sáng tới sáu giờ chiều. Miễn có tiền, mà ông thì ngày công ba trăm ngàn. Tiếc làm chi mà không cho con đi học?
– Không có khai sanh làm sao xin học anh Hai?
– Làm sao mà không khai sanh?
– Có nhưng ở dưới quê rồi.
– Để tui cho mượn cái khai sanh của thằng cháu nội.
– Được không? Lỡ nhà trường họ biết thì làm sao?
– Cháu tui lớp một bên trường chính rồi. Bên họ đạo tui quen hết nên có thể nói họ thông cảm.
– Học hành vậy một tháng bao nhiêu anh Hai?
– Đã cho đi học thì đừng tiếc tiền. Cái gì mua được bằng tiền đều rẻ hết ông biết không?
Vậy là Nghĩa được đi học. Còn Thơ? Mười tuổi đâu thể vô mầm chồi lá được. Muốn đến trường thì phải học bạ. Thôi thì được đứa nào hay đứa đó. Chủ tiệm bảo vậy. Rồi thêm rằng:
– Mày ở nhà lo nấu cơm cho cha, thằng Nghĩa đi học về là kèm thêm cho nó. Cái gì không biết tao chỉ cho. Nhân tiện mày cũng ôn lại để sau mà đọc báo với người ta.
Nhưng Thơ không nấu cơm nước chi ráo. Buổi sáng ba xách xe chạy ra chợ mua ba hộp cơm. Trưa cũng cơm hộp. Chiều không hộp nhưng mà tiệm. Sữa hộp cho cu Nghĩa đi học, ba cho Thơ mười ngàn muốn xài chi đó thì xài. Lại dặn ông chủ tiệm:
– Ở nhà con Thơ mua gì anh cứ bán rồi chiều tui tính cho nghe anh Hai.
Khi thợ thầy lên đường thì dãy trọ hiu hắt liền. Thơ lẩn quẩn bên tiệm của ông Hai. Con nhỏ cũng dễ thương, nó phụ bà Hai tráng lại ba cái ly, cái phin cà phê. Đúng là chưa mọc lông ống mà đã muốn ra ràng nên cũng biết lấy lòng người. Quán tiệm cũng vắng. Lâu lâu mới có người dừng xe mua gói thuốc hay ly cà phê mang đi. Cũng có người a lô biểu bưng đến đó kia cho họ ly chi đó là Thơ giúp bà Hai liền. Sau đó là rảnh. Rảnh lắm. Rảnh nên bà chủ tiệm mới hỏi sau khi cho Thơ cái kẹo mút loại hai ngàn đồng một que:
– Sao má bỏ đi vậy con?
– Tại ba đánh má. Say là ba đánh…
– Có khi nào má về thăm hai chị em con không?
– Dạ có. Hồi còn ở dưới quê má về thăm hoài và cho tiền hai chị em con nữa.
– Sao con không đi với má?
– Dạ… bữa ba đánh má. Má dắt con đi bị ba lấy rựa đòi chém. Ba nói…
– Nói sao hả con?
– Mày mà dẫn con Thơ đi là tao chém thằng Nghĩa cho mày hay. Tao nói là tao làm à.
– Ba nói vậy chớ làm gì dám.
– Nhưng mà ba có chém một người rồi đó bà Hai. Ở tù sáu tháng luôn đó.
Chủ tiệm gật gật ra chiều đã hiểu, sau đó cho con bé ly xi rô đá bào:
– Trưa ăn cơm với vợ chồng bà Hai nghe.
Nghĩa đi học từ thứ hai đến thứ sáu. Thứ bảy, chủ nhật cu cậu ở nhà. Sáu tuổi nên Nghĩa nghịch như giặc. Nó lọ mọ lôi đủ thứ từ vỏ xe đạp đến ba que củi, nó rủ con Thơ chơi lăn xe và đánh kiếm. Bực bội quá chủ tiệm ra lịnh:
– Thơ. Mày lấy tập vở ra cho nó ôn bài dùm tao cái.
Sáu tuổi mà mới bắt đầu a ă â bờ cờ thì tội quá đi thôi. Con Thơ dạy:
– Đây là chữ bê.
– Đâu phải. Đây đâu phải chữ bê. Cô tao dạy chữ bờ.
Thơ cốc lên đầu Nghĩa:
– Tao nói chữ bê. Chữ nầy tao học rồi.
Chủ tiệm cũng ngớ người, chả biết phải nói sao cho cả hai chị em hiểu rằng bê hay bờ là một. Thiệt là rắc rối. Lại lịnh:
– Mày dọn cái bàn cà phê dùm, còn chuyện dạy nó học để cho tao.
Chủ tiệm lấy một cuốn vở. Viết một trang chữ A bằng bút chì rồi kêu Nghĩa đồ lại. Thằng cu đánh vật với cây viết thấy mà tội. Chiều về Thơ đem ra khoe với cô Tư. Nó không khoe với ba Hậu vì ba đang bên bàn rượu với bạn. Thợ xây dựng thì chiều sương sương đôi xị là chuyện thường. Và khi đang đánh bạn với ma men mấy ai quan tâm đến chữ nghĩa. Thơ méc cô:
– Chữ nầy cô con dạy là chữ bê mà cô thằng Nghĩa và ông Hai đọc là bờ. Vậy là con sai hả cô Tư?
– Không sai đâu con bê với bờ cũng vậy. Dưới quê mình đọc là bê lên đây người ta đọc bờ.
Rồi Thơ nghe cô phân trần với ông Hai rằng do bà cô dưới quê dạy theo kiểu cũ nên nó vậy đó anh Hai. Sao mà rắc rối ba cái đánh vần này quá anh há? Ông chủ quán nói tui bó vụ nầy như bó tay với cha của hai đứa nhỏ vậy. Ông Hậu uống kiểu đó chắc trước sau gì cũng chết vì xơ gan cổ trướng. Nay mai hai đứa nầy biết ra sao hả bà? Mẹ nó phải về mà lo cho con, kiểu nầy hai đứa nhỏ hư mất. Chắc cha Hậu đứt bóng bả mới về quá?
Cô Tư nói:
– Nó không về đâu anh ơi.
– Nói vậy chớ con cái đứt ruột đẻ ra không ai bỏ được đâu chị.
Vậy rồi thôi. Nghĩa đi học, chiều về hai chị em mang tập ra đọc và viết theo chỉ huy của ông Hai. Nhờ vậy Thơ rành a bê xê tức a bờ cờ, dê đê e từ dờ đờ e. Thơ cũng tập tọng viết được. Đang ngon lành thì sáng ấy ba không đưa Nghĩa đến nhà trẻ nữa. Ông Hai hỏi:
– Sao không chở thằng Nghĩa đi học hả anh Hậu?
– Thôi nghỉ luôn ông ơi. Tháng bảy trăm ngàn bạc mà thấy không ra ôn gì tui cho ở nhà luôn.
– Trời ơi là trời – ông Hai kêu lên – chữ nghĩa chớ đâu phải cái bay cái máng mà sáng làm chiều thu hoạch ông nội ơi. Con ông dốt mà ông chịu được sao?
– Kệ tui đi ông Hai. Ông cho tui xị rụ súc miệng cái coi. Còn học hành thì đèn nhà ai nấy sáng trán của ai nấy xỉ ông Hai há?
Ở nhà hai chị em sướng lắm. Buổi sáng sau điểm tâm khi cơm khi cháo lúc bún riêu ba cho thêm hai chị em đứa mười ngàn. Thơ thấy ông Hai lắc đầu vì ba vẫn tiếp tục uống rượu khi bạn thợ ai về phòng nấy sau vài ly sương sương gọi là giải mỏi:
– Hậu à – ông Hai nói – ông uống mà không ăn kiểu đó thì chết nay mai chớ không lâu đâu. Ông cứ vầy rồi hai đứa con ông làm sao nên người hả ông?
– Khì khì… sống chết có số anh Hai ơi. Còn con tui hả? Ông không nghe câu đời cua cua máy, đời cáy cáy đào sao?
– Chả có cái số nào dính dấp vô cái bê tha và liều mạng của ông.
– Mà mắc chi đến anh? Tui uống kệ tui, con tui cũng ngày ba bữa, tắm rửa cũng ba lần thua chi con ao. Thằng Hậu nầy không dễ chết anh Hai?
Chủ quán lắc đầu. Vợ chủ quán cũng xen:
– Kệ người ta. Ông sao mà đa sự quá, lo cho cháu nội của ông kìa.
Và ông Hai thực là đa sự. Ông không cho chị em Thơ lê la nghịch bẩn và phá phách. Khi mọi chuyện của quán xá tạm gọi là yên ắng, ông bắt hai chị em lôi sách vở ra tập đọc và viết. Buổi chiều mới đặc biệt. Đúng hai giờ ông lôi thằng cháu nội đang học lớp một ngồi vô bàn và buộc phải viết một trang luyện chữ. Thơ và Nghĩa cũng phải đúng một trang:
– Có như vầy – ông nói với bà – cháu mình mới cố để hơn bạn.
Bà Hai nói:
– Cháu mình đã tủi nhìn hai đứa nầy còn tủi hơn
Nhưng rồi chuyện học ở nhà cũng không xong. Tất cả tốp lại vì ba Hậu bệnh. Thấy Ba ôm bụng rên siết hai chị em Thơ Nghĩa khóc như ri. Cô Tư mặt xám ngoét và đôi mắt đầy âu lo. Cô chạy ra hiệu thuốc tây và đem về cả chục túi nilon đựng đầy thuốc. Ông Hai lắc đầu:
– Chị đưa ổng đi bệnh viện, kiểu nầy là bị sưng gan chứ không thường đâu.
Cô Tư kêu Taxi rồi lôi cả hai chị em lên bệnh viện huyện chăm ba. Cô còn phải hợp sức với dượng cái khoản chỉ huy công nhân thi công công trình. Lơ một chút là chết với thợ thầy liền. Không có chủ họ cầm bay cầm búa đứng chơi thì lỗ sặc gạch. Cô phải chạy đi chạy về giữa công trình và bệnh viện. Em út mà không lý bỏ nó sao? Nhưng dượng Tư thì không vậy. Cả nửa tháng ròng chân viện chân công trình, bê trễ đủ thứ chuyện thánh còn cáu nói chi ông Tư vai u thịt bắp. Nghe cô nói bệnh viện đề nghị chuyển lên tuyến trên là ông bực mình:
– Lên tuyến trên cũng chết với bệnh ung thư gan. Mà ai nuôi nó trên tỉnh? Bà hả?
Trời ơi. Bệnh hiểm vầy thì chỉ có vợ mới lo được. Mà vợ thì đâu nữa mà lo. Cuối cùng cô Tư phải nghe theo kế sách của ông Hai là đem ba về rồi uống thuốc nam từ thiện của chùa:
– Anh Tư nói đúng đó chị Tư. Ung thư gan có đem qua Mỹ cũng chết. Chị cứ đem về đây rồi lấy thuốc chùa cho ổng uống. Chị không có tiền tỷ để lo cho em chị đâu.
Nghe tin sẽ đưa kẻ bệnh ngặt, nguy cơ chết mười mươi về phòng, ngay lập tức chủ trọ phản ứng:
– Tui là tui không đồng ý đưa ổng về đây đâu. Ổng mà chết trong phòng là cả dãy trọ nầy tui khỏi cho thuê luôn.
Mà thiệt vậy. Ai đâu muốn có người chết trong chỗ làm ăn của mình? Thà không biết hoặc ai đó bị bất đắc thì không nói, đằng nầy sờ sờ ra đó. Ai lại rước ma vô? Ừ, tui vậy đó – chủ trọ nói – Mấy người thuê được thì thuê không thì trả phòng lại cho tui. Đang rối như canh hẹ thì điện thoai của bà Tư có cuộc gọi tới. Mặt đang xám sơ sơ bổng ngoét lại và đôi lông mày nhíu gần sát luôn. Nghe dà dà liên tục chả ai hiểu chi. Xong cuộc gọi, người ta thấy nước mắt chạy dọc xuống má bà Tư:
– Sao? Cái gì mà khóc? – Ông Tư hỏi.
– Nó chết rồi.
– Nhanh dữ vậy?
– Mà sao chết?
– Trời ơi là trời – bà Tư kêu lớn – bịnh cỡ đó mà nó còn mò ra quán trước cổng bệnh viện mua rượu. Nghe đâu làm có mấy hớp mà ói máu chết ngay tại quán của người ta… Bây giờ tính sao hả anh Hai? Anh giúp với chớ tui rối quá rồi.
Hai chủ tiệm thở ra:
– Bây giờ cả tui cả chị không cần phải lo nữa. Dịch vụ tang ma lo hết chị ơi.
Xe của dịch vụ mai táng vô tận nhà chung sự của bệnh viện. Hai chị em Thơ Nghĩa lên xe cùng cái băng ca đựng xác cha. Hai đứa được đưa về tận trại hàng. Cô Tư và ông Hai đi hết dãy hàng nầy đến dãy hàng khác để chọn. Và rồi đạo tỳ bê một cỗ áo quan lên xe. Cỗ áo đẹp lắm, nó được sơn son có cả hình con rồng óng ánh như vàng thiệt vậy. Thằng Nghĩa nói:
– Đẹp ghê há chị Hai.
Chiếc xe đưa hai chị em và cha về lại phòng trọ. Thiệt là lẹ. Người ta đã dựng xong một mái hiên di động. Bàn ghế được xếp sẵn như ngày nào chưa xa lắm cô Tư làm đầy tháng cho cháu nội. Người ta bê ra hai chiếc ghế dài đặt dọc theo mái hiên. Cỗ áo quan được đặt trên hai chiếc ghế ấy. Thơ thấy một ông thầy áo nâu đang bấm bấm ngón tay, phán rằng:
– Tuổi nầy, giờ nầy liệm được rồi.
Cha được đưa vô quan tài. Và tiếng tụng kinh gõ mõ vang lên.
Đám ma ở xứ nầy công nhận thiệt là vui. Nửa đêm người ta xúm vô rượu chè la hét và ca hát. Có mấy ông eo éo như con gái còn múa nữa. Một ông cầm mi cờ rô ngâm thơ. Thơ thích bài nầy vì nó nhắc đến mẹ Quê hương là gì hở mẹ/ mà cô giáo dạy phải yêu/ quê hương là gì hở mẹ/ mà con phải nhớ suốt đời? Rồi ông đó hát quê hương là chùm khế ngọt cho con trèo hái mỗi ngày… Thơ sa nước mắt. Nó nhớ ở quê, nhà nó cũng có cây khế. Má nó vẫn thường hái khế giả muối ớt rồi ba má con cùng nhau hít hà. Má ơi – Thơ gọi thầm – Ba chết rồi về đi má ơi.
***
Một tuần sau cô chi đó đẹp thiệt đẹp, má phấn và môi son có mặt trong lễ cúng bảy ngày của cha. Cô Tư cùng ông Hai kéo Thơ và Nghĩa lại ngồi với cô đẹp. Cô đến không phải để chia vui sẻ buồn mà đến vì chuyện cổ áo quan:
– Cô Hồng Hà à – cô Tư nói – chi phí lễ lạt và hàng họ hết bao nhiêu vậy cô.
Cô đẹp đưa cái hoá đơn. Cô Tư nheo con mắt rồi đọc lớn:
– Cái hàng mười một triệu, tiền thầy tụng ba triệu. Mái hiên di động và bàn ghế ba triệu cho ba ngày… cô có thể bớt cho chút đỉnh được không cô?
– Dà… vậy là bớt hết ga xăng rồi đó chị. Em cũng biết chị tha phương theo công trình… Thôi thì em cho chị triệu nữa. Tính mười lăm cho nó gọn. Là em thương lắm hai đứa nhỏ nầy. Tội quá, mẹ bỏ đi, cha chết… rồi đây biết làm sao hả con?
Nhìn theo cô Hồng Hà ông Hai lắc đầu:
– Thiệt tình là thời mạt pháp. Mười lăm triệu bạc lạh họ nuốt của thân nhân người chết đúng phân nửa.
Cô Tư chép miệng:
– Ở xứ tui đâu có mà dữ dội vậy anh Hai ơi. Chuyến nầy chắc tui chết thiệt ở đây rồi. Tiền phúng chưa tới chục triệu. Giờ còn phải lo vụ đất mai táng. Thâm tiền nhà đậm như vầy tui cũng không yên với ông Tư.
– Vụ đất mai táng chị làm cái đơn kể hoàn cảnh may ra xã họ giảm cho chút ít. Xã nầy tui cũng có quen biết vài người. Tui năn nĩ giúp cho một tiếng.
– Thiệt cám ơn anh quá.
– Ơn nghĩa chi. Cũng coi như tui tích cái đức cho thằng cháu nội.
– Anh tốt quá. Nhìn hai đứa nhỏ tui đứt ruột quá anh.
Ông Hai chắt lưỡi:
– Tui cũng đứt chớ hơn chi chị. Nhưng mà chị nên hy sinh vài trăm mỗi tháng cho thằng Nghĩa tiếp tục học hành. Để nó lông bông ba bữa lớn lên là nó hư chắc. Lúc đó giả dụ bà có giàu chín xe mười vàng cũng không ngon lành gì.
– Dăm bảy trăm ngàn thì không lớn, nhưng hết công trình bọn tui lại ra đi. Lúc đó biết tính làm sao hả anh?
– Nó còn mẹ, bà lo làm chi.
– Nó đi theo tiếng gọi thì còn trông mong chi nữa anh?
– Sao chị biết má hai đứa nhỏ đi theo tiếng gọi?
– Thì tui nghe người ta nói vậy. Có người thấy nó đi với một ông có vẻ giàu lắm.
– Hơi sức đâu mà nghe chuyện thiên lôi. Mắt thấy tai nghe mà còn chưa chắc đúng nói chi lời đồn. Người ta có thể bỏ chồng nhưng con không ai bỏ đâu chị ơi. Chị tin tui đi.
– Nếu không sao mấy tháng nay nó không điện thoại về thăm hỏi?
– Biết đâu bị mất điện thoại. Thêm cái không nhớ số thì làm sao gọi? Tui nói vậy chị nghĩ đúng không? Má nó sẽ về. Tui nói là linh lắm.
– Lỡ nó không về thì làm sao anh
– Tới đâu tính tới đó. Cứ để hai chị em nó ở đây đi học. Chị đi theo công trình cứ tới tháng quay lại chung tiền ăn tiền học cho tụi nó… Tiền học thôi, còn tiền ăn tui cho cũng được mà.
Quay sang bà vợ ông Hai hỏi:
– Tui tính vậy được không bà nội cu Phong?
Bà già chép miệng:
– Ông tính sao đó thì tính. Kệ, mình làm phước tích cái đức cho con cháu về sau
Đúng lúc đó điện thoại trong túi cô Tư tít tè cuộc gọi đến:
– A lô… Ai vậy? Trời đất ơi… mày hả Thi? Cái bà nội mày… Bỏ chồng bỏ con đi đâu mấy tháng nay mậy? Mất điện thoại hả? Vợ chồng con Tám nói cho mày biết vụ thằng Hậu rồi hả? Ờ… nó chết rồi… Tao với anh Tư mày chôn trên này luôn. Mày theo con Tám lên đây đi…. Con Thơ nè mày nói chuyện với nó…
Thơ cầm điện thoại. Nó nói trong tiếng nấc:
– Má ơi…
Nguyễn Trí

Gió mùa thu anh ru em ngủ

nguyentri

Trước đám hỏi và sau đám cưới, thời gian áng chừng ba tháng, cho đến lúc cô Thu đẻ cư dân xóm Cây Me, bất kể, rảnh hay không, đụng mặt là cứ chuyện cô Thu mà loạn bình.
Thiên hạ chả hiểu cô Thu ôm cái ngàn vàng trong trèm những bốn mươi xuân, tại sao không chiếc bóng luôn cho rồi để chết làm con ma trinh nữ, lấy chồng chi cho khổ không biết nữa. Mà khổ, khổ thiệt chứ không hề giả.
Cô Thu bảnh lắm. Cha mẹ chết sớm để lại cho cô một cậu em trai và một mảnh vườn. Tuấn – tên cậu em -chuyên gia làm rau củ quả nên ngon lành ra phết. Cô Thu lĩnh lương giáo viên và thêm cái kèm cặp thì để sắm vàng. Tình thiệt mà nói phụ huynh thấy cô dạy giỏi là một , mẫu mực là hai, đẹp và hiền như cô tiên là ba nên năn nĩ lắm cô mới nhận kèm, cũng với điều kiện là học sinh kém còn trung bình đổ lên thì gia đình tự quyết lấy. Nhà cô dư ăn dư để, kèm lấy tiếng chứ không phải vì tiền đâu nghe.
Từ khi còn là nữ sinh áo dài trắng tha thướt cho đến tốt nghiệp ra trường ít cũng năm mươi anh theo cô. Con nhà giàu đẹp trai học dỡ cho đến nghèo vượt khó học giỏi, cả mấy tay đàn anh đàn ang cũng bám theo Thu. Có lẽ là anh hào đông quá nên Thu không biết chọn ai chăng? Vậy rồi các anh thấy không ăn thua chi với trái tim băng giá nên lấy vợ sạch bách. Chỉ còn lại một thằng, thằng nầy, sáng xỉn xỉn chiều xỉn thiệt. Sư bố nó, đồ ngu như bò – thiên hạ chửi đổng – Chửi cũng phải, người ta không yêu mình thì thôi, thất tình rồi dụng rượu giải khuây là đồ nhu nhược không bản lĩnh. Riêng cô Thu thì thơm và đẹp như tài tử cô còn lơ nói chi mùi hèm.
Thiên hạ mới hỏi thất tình tên Được rằng:
– Chừng nào lấy vợ mậy?
Được cười:
– Chừng nào Thu có chồng thì tui lấy vợ.
Mẹc xà lù – Vậy mà linh ghê nghe. Cô Thu có chồng thì đúng một năm rưởi tức mười tám tháng sau Được có vợ.
Vợ của Được đã có một con và chồng chết.
Mà khoan, để nói chuyện cô Thu trước cái đã.
***
Hai mươi tuổi Tuấn bồ bịch yêu đương với một cô thường đến nhà lấy rau củ quả. Cô gái mười tám tuổi tuy nghèo nhưng lễ phép và xinh xắn lắm. Năm đó Thu ba mươi tám xuân tình. Để kể cho nghe vì sao mà chị em chinh nhau chừng đó tuổi.
Số là bà má tội nghiệp của Thu đẻ duy nhất một mình cô, ở chơi với cô được mười bảy năm rồi cưỡi hạc về cõi trên. Cha Thu vốn nông dân chân chỉ hạt bột, ở vậy nuôi con thề không bước thêm bước nào nữa. Hai mươi tuổi Thu đẹp như tiên sa, ta nói… trai theo nườm nượp. Thu mà lấy chồng chắc ông cha héo rũ mà chết vì buồn. Vậy nên cô nói với cha như vầy:
– Ba lấy vợ rồi con mới lấy chồng. Con đi rồi ba ở với ai?
Tình thiệt mà nói. Trên đời nầy người ta có thể thiếu đủ thứ nhưng thiếu tình dục thì, xin thưa, thầy tu còn phá giới nói chi người phàm. Cha của Thu cũng người, mà đã là người thì chánh tà lẫn lộn. Chả phải trong chùa còn có ông thiện ông ác đó sao? Vậy nên trên đường đi cà phê với bạn chủ yếu đấu láo cho vui. Một hôm kia lời đồn lọt đến tai Thu có một sương phụ nửa chừng xuân lớn bụng với cha. Thu mừng lắm. Vì sao? Vì cô thèm lắm một đứa em. Một mình trong ngôi nhà thênh thang lắm nỗi cô đơn mà cô gậm nhấm. Sương phụ về nhà và cu Tuấn ra đời. Lan – tên bà mẹ kế – ở với chị em và cha cô được ba năm thì qua đời vì bạo bệnh. Buồn quá, ông cha tội nghiệp cũng ra đi một năm sau đó. May cho Thu là Tuấn còn nhỏ, mới bốn tuổi nên không đau lòng lắm khi cha mẹ ra đi, với lại năm hai tuổi Tuấn đã được cha gửi đi nhà trẻ trong giáo xứ nên ngoan lắm.
Cô giáo Thu nuôi em ăn học ngon lành. Kẹt cái Tuấn không đại học cao đẳng chi ráo. Tốt nghiệp mười hai xong cu cậu ở nhà làm vườn. Tốt chán. Số phận đã định cho mỗi người một căn phần, đâu phải muốn là được. Học không ra gì mà đòi đại học lấy đâu ra? Mà có ra chăng nữa thì cũng làm sao lớn khi đi không đúng hướng. Tuấn chăm chỉ với rau củ quả và bông hoa nên chả thua ai trong việc kiếm ra đồng bạc. Người vậy mà không yêu thì yêu ai hỡi các nữ lưu từ quyền quý đến quyền không quý? Tuấn yêu và quý chị hai lắm. Chị nói sao Tuấn nghe vậy. Chị kêu người đến cưa mấy cây mít, đào gốc lên dọn một nền để cất cho em trai cái nhà trước khi lấy vợ. Cô muốn đôi trẻ có không gian riêng muốn yêu đương hay làm chi đó tuỳ thích.
Và một trung niên bốn mươi lăm tuổi, vai u thịt bắp bởi sống bằng lao động tay chân đến nhận đào mấy gốc mít lên. Anh lấp cái thiếu, san bằng cái dư cho ra một nền nhà. Mười lăm ngày, vâng chỉ chừng ấy thời gian chả hiểu làm sao mà anh làm trái tim Thu bừng bừng dậy sóng.
Nhận thiếp mời đám cưới của người mộng. Được buồn như chấu cắn.
***
Càng buồn hơn khi sau một chuỗi những ngày đóng vai hiền, gã vai u thịt bắp lộ diện là một thằng không những vũ phu mà còn đào mỏ. Chao ôi cô giáo ngây thơ và hiền diệu đâu ngờ mình sa vô bẫy tình do giang hồ gộc giăng sẵn. Nó tạm trú tại xứ cô. Nó tán tỉnh cô bằng chiêu ít nói và đăm chiêu. Nó huýt sáo nhạc buồn nghe hay khôn tả. Chỉ vì cái ngón huýt sáo nầy mà cô Thu đắm đuối vô tình. Cái tình yêu thuở con gái do kiêu hảnh là một, do bổn phần là hai bị nén lại nay có dịp bung ra. Nó khiến cô thấy đời đẹp quá, xinh tươi quá. Nó xinh cho đến độ mà chỉ sau hai tháng quen biết cô đã lo tổ chức đám cưới gấp. Đám ra mắt cũng do cô tự biên tự diễn bởi người tình của cô chỉ có cái các tút. Không làm cho lẹ cái bụng nó đội áo thì danh dự một cô giáo quăng vô đâu? Thiên hạ nói khôn ba năm dại một giờ. Nói vậy là sai. Yêu thì khôn dại biết ngõ nào mà lần. Đúng không?
Ở đó mà đúng với sai. Ngay lập tức kẻ gian manh hiện nguyên hình. Rất nhanh chóng dây chuyền cà rá trên cổ trên tay cô gái lỡ thì ngây thơ bốc hơi. Kẻ lậm tình thì mù con mắt chứ người ngoài cuộc thì đâu có đui. Chuyện gã chồng nướng tiền vô sòng bạc và đề đóm nhanh chóng đến tai cô Thu. Khi cô hỏi chiếc xe tay ga cô sắm cho đâu rồi? Nó liền xáng bạt tai vô mặt kẻ bụng mang dạ chửa không thương hoa tiếc ngọc chi ráo. Vậy là cậu em tên Tuấn nổi điên lên và anh em ra xung đột. Thằng giang hồ mạnh hơn, kinh nghiệm chiến đấu nhiều hơn, lý lẽ hơn. Nó gối lên chỏ xuống sao đó mà Tuấn bị trặc tay phải đi bó thuốc nam. Thằng khốn lí luận rằng vợ tao tao tao dạy không mắc chi tới mày. Yến – vợ Tuấn – na cái bụng lặc lè như chị chồng – lôi chồng về nhà mình. Chả là hai chi em kẻ lấy chồng người lấy vợ chinh nhau có một tháng – Tức ói mật nhưng mà biết làm sao?
Tội nghiệp cho gã si tình tên Được. Gã chép miệng khi thấy cô gái thường xuyên không mắt trái thì mắt phải bị bầm. Nhân danh bằng hữu Được hỏi thì cô nói bị té va vô cạnh bếp mà ra vậy. Cái chép của si tình nghe buồn gấp chục lần con thạch sùng. Thạch sùng chỉ tiếc của mà thôi còn Được tiếc cái tình mình ban ra mà không hề thu lại. Buồn cũng là phải lắm. Chao ôi người Được yêu biết khổ rồi. Cô con một nên sướng như tiên sa. Thậm chí nuôi em lúc mới bốn tuổi, cho em ăn học tuy vất nhưng lúc ấy cô đã là cô giáo. Với lại Tuấn còn có bà ngoại chăm sóc đỡ đần. Bây giờ tươi vui đã mất trong mắt cô. Thu đi ngang qua Được mà đăm đắm về trước như không thấy gã. Buồn ơi buồn. Và buồn nên Được mua xị rượu ngồi nhâm nhi. Đúng là đồ nhu nhược.
Nhưng chuyện đâu chỉ ngừng ở đó. Một hôm kia đang nhâm nhi Được nghe có tiếng ầm ỉ bên nhà người mộng. Thấy ta bà hiếu kỳ xúm xít. Được chạy lại thì thấy thằng vũ phụ nằm úp sấp xuống nền gạch. Trong tay Tuấn đang là một cây cuốc. Được chạy đến bên gã vũ phu, lật người lại thì gã chết rồi.
Láng giềng kể rằng:
– Ổng đánh cô Thu. Ừ… tui thấy rõ ràng ràng… Anh Tuấn chạy vô can ổng đánh luôn anh Tuấn, rồi chửi thề inh ỏi, tui nghe ổng nói mày không đưa là tao cho mày chết bữa nay. Ý là ổng đòi tiền đi đánh bài, cô Thu không đưa là ổng chửi. Vụ này diễn hoài nên tui rành… Tui đứng bên bờ rào thấy anh Tuấn chạy, ổng rượt theo. Anh Tuấn chụp được cái cuốc nên đánh lại…
Đơn giản vậy mà gã vũ phu chết. Tuấn bị bắt.
Thiên hạ bàn tán xôn xao. Ai cũng thương cho hoàn cảnh của hai bà bầu. Vợ Tuấn thì còn có cha có mẹ có anh em. Họ đưa con về nhà chờ đợi. Còn Thu? Người ta thương là thương vậy thôi chứ ai đâu mà gánh chuyện bao đồng?
Vậy là thằng si tình tên Được nhân danh bằng giúp cho hữu đi qua thì nguy biến. Thiệt là quý hoá. Bè bạn giúp nhau lúc nầy chứ lúc nào nữa? Vậy mà thiên hạ lại nói thằng si tình Được là đại ngu. Người ta ăn ốc còn mình đi đỗ võ. Đúng là miệng thế không biết đâu mà lần.
Ai nói chi nói Được cứ làm cái mình thích.
***
Trời ạ! Không phải gì thích cũng thú vị đâu nghe. Cô Thu héo queo như tàu chuối khô. Khóc mà chẳng biết khóc cho ai. Cho mình, cho em trai hay cho thằng vũ phu khốn kiếp. Khóc kiểu nầy hại cho thai nhi lắm Thu ơi. Được khuyên nhủ cô giáo như vậy. Chuyện dạy học xem như bỏ rồi chứ còn chi nữa. Gã si tình ngoại trừ an ủi vỗ về còn phải chịu đựng cái trái người dỡ tính của kẻ lần đầu vượt biển. Cô Thu ói mữa, thèm chua. Vừa ăn chua cô vừa khóc. Lâu lâu cô lau nước mắt nhìn Được sụt sùi mà rằng:
– Em cám ơn anh không biết sao cho xiết anh Được ơi. Không có anh chắc em chết. Mẹ con em qua thì nầy là đội ơn anh kiếp nầy thêm kiếp nữa anh ơi.
Chưa hết đâu nghe. Cô Thu vượt biển thành công cho ra đời một bé gái xinh như mẹ vậy. Ô hô… thiên hạ bò ra cười. kháo rằng thằng Được nó nựng con nhỏ như con nó mấy cha ơi. Thiệt là… là sao? Là cái gì? Thì nó chăm từ khi trong bụng con nó cũng được chớ có sao. Đúng không? Đây rồi hai đứa nó vô một cặp cho mấy ông coi. Nói vậy chứ vô công rỗi nghề, nhất là những kẻ trước đây có thời thất vọng vì Thu cong môi mà mỉa mai, chê tao hả? cho đáng đời. Rồi ngồi bên bàn tửu hậu trà dư chúng hát ru rằng gió mùa thu anh ru em ngủ, em ngủ rồi anh cạy tủ anh đi í i đánh bài. Thằng khác tiếp thu đi để lại lá vàng, anh đi để lại cho nàng đứa con.
Được nghe hết. Nhưng anh yên lặng. Cả những lời mai mỉa dành cho mình Được cũng chẳng quan tâm. Anh có quá nhiều việc phải cáng đáng. Nào ru con bé cho Thu ngủ, nấu cơm cho sản phụ ăn. Còn phải giặt tả và áo quần cho sản phụ nữa. Anh không làm thì ai vô để giúp Thu đây? Thậm chí ngồi nhâm nhi chén rượu cho tiêu sầu cũng không có thời gian. Hơi sức đâu mà nghe lời thiên hạ. Được còn phải tiếp một tay với gia đình của Yến, năn nĩ kẻ làm chứng duy nhất ra toà nói thiệt đuôi đầu để – sao cho – Tuấn chỉ ngộ chứ không hề cố sát. Bận lắm, lắm lắm.
Nhưng mà Được là ai vậy kìa? Động cơ nào khiến gã đàn ông bốn mươi lăm tuổi nầy lao vô chuyện bao đồng? Yêu chăng? Tất nhiên rồi. Xứ nầy ai chả biết Được yêu Thu và thất vọng những chừng ấy năm trường. Nhưng bây giờ sự thật rất chi cay đắng và nặng trịch. Cô ây đang ôm con của cô mà khóc. Phải chi ôm mày thì còn có thể…. Mày ngu quá xá Được ơi. Thiên hạ nói vậy. Lại thêm rằng:
– Ê… tui nói cho mấy ông nghe nè. Vụ nầy bây giờ tuy bất thường nhưng còn thở được chứ hai mươi năm nũa là nghẹt thở cho mấy ông coi.
– Sao?
– Hai chục năm nữa con con Thu sẽ biết cha nó bị cậu nó cho một cuốc mà chết. Lúc đó sẽ có hài kịch Dương Quá vung chưởng đánh vợ chồng Quách Tỉnh như trong phim Thần điêu đại hiệp cho mấy ông coi.
– Ừ há… có lý đa.
Nhưng ở đời có kẻ ghét ganh đố kỵ thì cũng có người thương:
– Ừ há với có lý cái con khỉ. Thằng Dương Quá được ông Kim Dung diễn tả ra giang hồ từ tấm bé, nó chơi với Âu Dương Phong và học Hàm mô công với ác ma nầy khi chưa sạch cứt mũi. Vậy nên hoang dã và rú rừng. Còn cô Thu là cô giáo. Mấy ông còn gửi con mình cho cổ kèm. Chả phải là cả xứ nầy ai cũng khen con mình ngoan hơn khi học với cổ sao? Vậy thì liệu con người ta có ác khi được nuôi dạy trong môi trường nhân ái? Tui nói vậy mấy ông nghe kịp không?
– Ờ… thì… nhưng mà… cũng tội nghiệp cho thằng Được quá…
– Có gì mà tội với chả chả nghiệp? Xứ nầy ai cũng biết nó yêu đến mụ người. Yêu thì đỡ cho người mình yêu có chi đâu lạ? Đúng không? Mấy ông tin đi. Rồi đây nó và cô Thu sẽ ra một cặp cho mà coi.
Quả là nhân bảo như thần bảo. Bây giờ thì Được có con luôn rồi nói chi vợ.
Chỉ mười tám tháng sau khi Thu lấy chồng Được cưới vợ.
Vợ của Được có một con riêng.
Nguyễn Trí

Đừng đùa với sự chết

nguyentri

Đinh Tính. Cao mét sáu lăm và nặng năm mươi hai ký. Chiều cao và cân nặng ấy cho Tính một thể hình đẹp. Trước khi vào lính Tính đến võ đường học được một năm võ thuật. Rời quân ngũ, tóc ba phân, uy phong lẫm liệt, Tính ngon lành lắm trong mắt các cô cùng xóm. Cô nào cũng thích anh. Anh lại khỏe như Hạng… vâm. Vâm thôi, không Vũ, bì với Vũ e cường điệu. Ra bến xe làm bốc xếp Tính được tôn làm anh.

Đừng đùa với sự chết – Truyện ngắn của Nguyễn Trí
Tính là gương cho mọi người noi theo. Đàng hoàng một phép, đừng tưởng bốc xếp là tầm thường. Cái thời mà bọn du côn tựa bến xe bằng chiêu mạnh được yếu thua đã qua rồi. Dưới trướng của Tính khách hàng không còn bị câu kéo, đòi thêm tiền như xưa nữa. Ngay cả ăn nhậu cũng chừng mực, thằng nào có rượu khi làm việc là Tính cho nghỉ ngay tắp lự, tái diễn là ra khỏi đội. Tính nói được làm được, anh em nể vì miệng nói tay làm không có trò chỉ tay ra lệnh.

Tính rượu và thuốc lá cho vui chứ không bét nhè. Bao nhiêu tiền làm ra đều đem hết cho mẹ. Gia cảnh khó mà được vậy quả là tiên cảnh trần gian. Mấy em trong xóm nhỏ mỗi chiều đều tựa cửa ngắm anh về. Áo vắt trên vai, nước da rám một màu nhiệt đới. Em nào cũng muốn anh Tính là của mình. Và rồi cả bọn tiếc ngẩn ngơ khi hay tin anh sẽ là chồng của Hoa thịt heo.

Hoa xinh không thua ai, sở dĩ tên kèm cái hậu không nhã này là do cô có một quầy thịt heo. Cái quầy này muốn có phải cây vàng chưa kể thuế. Ngày Hoa bán ngoài tạ thịt, cả nhà cô ai cũng có cửa hiệu trong chợ. Xóm nhỏ Hoa oách nhất. Lúc đầu ai cũng nói Tính theo Hoa là bởi cô giàu, nói vậy là tầm bậy, Tính đâu phải kẻ tham tiền, anh đến với cô là vì trong tất cả, xinh nhất vẫn là Hoa. Nếu Hoa không õng ẹo, liếc mắt đưa tình và ong ve đưa đẩy, có cho vàng Tính cũng không dám mơ.

Gái tuy không thiếu, nhưng người đẹp hiếm lắm, đẹp lại có tiền thì hiếm hơn. Vậy là liền tay cưới. Cưới xong Tính rời bốc xếp, ngày ngày mang thịt ra chợ cho vợ. Sáng nào vợ cũng dúi vào tay anh dăm bảy chục một trăm để anh cà phê cà pháo với bạn bè. Đời bình yên trôi trôi. Hai đứa nhóc ra đời, không biết có phải vì vậy mà vợ chồng thường gây gổ? Cũng dám lắm. Đâu ai son mãi được, với lại sống chung phải có xung xung, đột đột một tí gọi là gia vị cho mặn tình. Nước hồ còn có sóng nói chi chồng vợ.

Nhưng không hiểu sao Tính đi một hơi vô tuốt miền Đông thăm anh rể. Khi đi có cả mẹ ruột mới thật là kỳ.

Anh rể của Tính là Vũ Tân. Tân có hai con trai là Uy và Hậu. Hai thằng cháu tuổi xêm xêm Tính. Uy, Hậu kiếm tiền bằng nghiệp phá sơn lâm. Dân rừng, có rượu vô là coi trời bằng vung. Uy và Hậu thân thiết với anh em Xung và Trận. Cả bốn nổi tiếng chợ Suối Nho về nghệ thuật ẩm thực, đặc biệt khoản không say không về.

Tân rù rì chuyện ông cậu với hai con. Hai ông con rù rì lại với bạn thân:

– Ê – Uy nói – Thằng cậu tao vào đây để cai…

– Cai gì? Đang nói sao yên vậy?

– Phải bí mật, và tao cần anh em mày giúp một tay.

– OK, hai tay hai chân luôn.

– Thằng cậu tao bị nghiện ma túy, bà ngoại đưa vô đây để cai và cách ly với bọn dân chơi ngoài kia.

Xung và Trận ngạc nhiên. Ủa… ngó cao ráo đẹp trai vậy mà dính vô quỷ ma này? Hỏi:

– Thằng cậu mày ăn cái gì mà ngu quá vậy? Cả đứa con nít còn biết dính vô ma túy là con người bị vùi xuống bùn, không còn chi danh dự và nhân cách, lại là gánh nặng cho toàn xã hội… Bà mẹ nó… nghiện thứ này khó cai lắm đó nghe.

– Vậy mới nhờ anh em động viên cho nó qua cơn.

– Bọn mình biết khỉ mẹ gì mà cai với cung. Kêu nó lại đây tìm hiểu để biết mà giúp.

Đinh Tính được triệu đến bàn nhậu. Đã nói cả bọn này đi làm thì thôi, ở nhà là bày sòng, cả Vũ Tân còn uống như hũ chìm. Cha con và bạn con cùng tạc thù như bạn hiền. Làm vài hớp, họ Lâm tên Trận, thằng này mười tuổi nghỉ học, mười lăm tuổi đã bắt đầu nhậu. Mười lăm năm lâm tặc, một vợ hai con. Nó với thằng anh Lâm Xung từng tuyên bố riêng tiền rượu sau chừng ấy năm, anh em nó dư sức cất một căn hai tấm. Danh anh em Xung Trận dân rừng phải chào thua:

– Mày chơi lâu chưa?

– Bảy năm rồi, từ ngày vợ tao có đứa con đầu.

– Mày biết thứ đó giết người mà sao vẫn cứ đâm đầu vô?

Vẻ ân hận, Tính khai với anh em là do cái tự tin thái quá. Một thằng bạn bị lâm chước cám dỗ, thấy nó bị ma túy hành mà tội nghiệp. Tính đang sống một đời nhàn nhã, rượu sớm trà khuya, muốn chi cũng có. Thấy bạn vậy Tính liền vỗ bàn:

– Có gì mà bỏ không được, nó làm chủ mày à?

– Chủ tớ con mẹ gì ở đây, mày bị dính cũng như tao thôi.

– Tao không nhu nhược như mày, chơi được là bỏ được.

– Mày thử bỏ rượu một tuần tao coi thử?

– Tao sẽ không uống một giọt đúng tháng luôn cho mày coi.

Nói xong Tính nghỉ chơi với rượu, tất cả các loại đám không ai mời được một ly, anh em nể lắm. Tính nói:

– Chủ yếu do mình, ba cái ăn chơi mà để sa là không bản lĩnh.

– Mày ngon bỏ thuốc một tuần tao kêu mày bằng ông nội.

Tính trầm ngâm. Gì chứ thuốc hơi khó… Nghĩ một lát Tính quyết định:

– Tao sẽ không hút theo ý mày.

Thật khó chịu. Bấy nay, ăn xong hít một điếu, cà phê không thuốc lá thì chả có chi là thú, đi tiêu không bập phà đúng cực hình… Cố gắng đến hết lực Tính qua một tuần. Bạn nói:

– Mày giỏi thật, nhưng ma túy một nghìn lần hơn.

– Dẹp đi. Một thói quen mà tao còn dứt được thì ma túy là không thể.

– Mày cứ thử rồi biết.

– Tao chơi và sẽ bỏ cho mày thấy.

– Mày bị vợ bỏ thì có.

Nhún vai. Tự tin ma túy không thể giết nổi mình, Tính liền thử một lần cho biết. Nhưng thử làm sao? Tính được thằng nghiện lấy ra một tép. Gã nghiện trút từ trong ống hút ra một viên màu trắng nhỏ như hạt đậu xanh. Gã đưa tất cả vô xi lanh rồi rút nước cất vào, xịt một phần ba thứ nước ấy vào một điếu Jet đưa cho Tính:

– Đợi khô một chút rồi hút, vậy thôi.

Rất tự nhiên, Tính thử. Kéo được mấy hơi lập tức đầu óc đảo lộn như say sóng, muốn ói. Và ói. Màu đen của ly cà phê chưa kịp tiêu hóa vội tuôn ra. Sau đó Tính ngồi ụa khan, dáng vẻ như một gã nghiện thiếu thuốc làm đám bạn trong quán phá ra cười, chúng dìu Tính về. Tính nằm liệt đúng một ngày. Hôm sau:

– Mẹ… có cho vàng tao cũng chả chơi thứ này.

– Lần đầu thôi mày ơi, thêm hai lần nữa mày mà dứt được đem đầu tao chặt đi.

Lần thứ hai Tính lại ói, nói chung cái gọi là ma túy chả cho anh một cảm giác gì ngoại trừ mệt. Nếu ngừng lại và đừng vỗ ngực thì Tính đã không vô cửa tử. Anh dại dột hít cái quái quỷ ấy lần thứ ba, và lần này quỷ vương đưa anh đi gặp thiên đường.

Một mùi thơm của nhãn chín ngào ngạt trong mũi. Mọi thứ trong đầu như đang bay, một cái gì đó lâng lâng đến vô cùng. Tính là dân ăn nhậu. Khi tạm đủ, men rượu cũng cho cảm giác, khi ấy đời thật đẹp, chỉ nói thôi đã vô cùng lưu loát… nhưng so với làn khói trắng này thì rượu không nghĩa chi… Tính tựa người vô ghế, yên lặng nghe và ngắm nhìn hạnh phúc dịu êm lan tỏa trong hồn… Tính về nhà. Vợ rất trẻ, rất đẹp, rất dịu dàng… và trong cái ma mị còn sót lại của ma dược, Tính ôm lấy cô. Trẻ trung và nóng bỏng… Lần đầu tiên kể từ khi cưới, cô gái trẻ biết được thể nào là đỉnh điểm của hoan lạc. Cô không hề biết có được hạnh phúc ấy là nhờ sự phụ trợ của ma túy.

Riêng Tính thì biết vì sao, và anh nghĩ, nếu ma túy tạo được hạnh phúc thì tốt quá.

***

Làn khói ấy cứ vướng vất mãi trong Tính. Xong công việc, và như mọi ngày vợ lại dúi vào tay trăm bạc. Năm mươi nghìn cho một tép, và một tép làm ba lần chơi. Nếu là vậy và chỉ vậy thì cuộc đời làm chi có bi kịch. Vợ Tính thừa hưởng một tài sản rất lớn, nếu chỉ trăm nghìn bạc cho một ngày, cô có thể cho anh chơi hết hai cuộc đời. Nó chỉ bằng một phần mười tiền lãi từ lò heo và quầy thịt của cô mà thôi. Và nếu tác dụng của ma túy cứ mãi đưa cô đến đỉnh của vu sơn trong mỗi lần ân ái thì chả có chi để phàn nàn. Nhưng hoàn toàn không phải vậy.

Một tép làm ba, rồi làm hai đến mỗi lần một, và mỗi ngày ba lần. Kế tiếp Tính phải đốt trên giấy bạc để đưa khói vào mũi rồi hít trực tiếp. Cuối cùng để đạt được mục đích anh phải tiêm. Và Tính biết mình không gỡ ra được. Tính lơ mơ suốt ngày, vật vạ ngủ… Cái bản năng cơ bản thoạt tiên còn bừng bừng, rồi bỗng nhiên anh không thiết tha với nó nữa. Tất nhiên người đàn bà bên anh ngạc nhiên. Cô tìm hiểu và phát giác nhiều ống hút trong sọt rác, cả kim tiêm. Lần đầu bắt gặp, người vợ rụng rời tay chân. Lặng người. Cô hỏi nhưng anh chối biến, bảo mình bị tiểu đường nên phải tiêm insulin. Nhưng ma túy là cái khó giấu nhất. Cô thấy anh tiêm vào tĩnh mạch và vậy là nổ ra gây gổ. Cô không đưa tiền cho Tính nữa.

Tính vẫn có tiền và chơi đều đều. Rất sộp với bạn nhậu và bạn nghiện. Bà xã phải nhờ người phụ trong lò heo đưa thịt ra chợ. Một hôm kia lơ mơ dậy giấc hai giờ sáng, Tính thấy vợ và gã đồ tể đang làm chuyện vợ chồng. Việc này xin tha nhân đừng trách người đàn bà… Và cũng rất hốt hoảng khi bị chồng bắt quả tang, người vợ vội chạy vào phòng, xếp tư trang định về nhà mẹ cho qua cái sắc lạnh. Nhưng khi mở tủ thì phát giác sổ hồng của miếng đất đã không còn nữa:

– Giấy chủ quyền đâu rồi? Ông trả lời không xong là ly dị.

Khi biết chồng đã bán miếng đất, cô cương quyết chia tay vì không ngờ chỉ trong bảy tháng anh ta đã tiêu hết ba trăm triệu bạc.

– Mày làm gì mà tiêu hết chừng đó tiền trong bảy tháng? – Lâm Trận hỏi – Đừng có nói là hút chích hết đó nghe.

– Hai phần ba số tiền ấy tao đã nướng vô ma túy, còn lại là tiêu xài…

– Làm thế đếch gì mà chích hai trăm triệu trong vòng bảy tháng? Tao không tin.

– Tao không ngờ lại bị đuối vô ma túy đến như vậy, có ít chơi ít, có nhiều chơi nhiều. Hễ có tiền trong tay là tao nghĩ đến ma dược. Có ngày tao chơi cả hai triệu bạc cho cá nhân, chưa kể bao anh em nghiện…

– Hai triệu cho thời điểm này là hai mươi tép. Xạo, quá liều là mày xanh cỏ liền.

– Tao đâu có chơi quá liều, một lần một tép, nhưng hễ có trong tay là cứ mỗi nửa tiếng là chơi lại, hễ hết mùi trong miệng là nó bắt chơi, như nghiện rượu vậy, hết mùi men là uống tiếp, nhưng ma túy gấp một trăm lần hơn. Mày hiểu không?

– Hiểu rồi, bảy tháng là hai trăm lẻ mười ngày, ngày chơi một triệu hết là phải. Vợ mày nó ly dị là phải quá. Giờ ly dị chưa?

– Chưa. Tao thương hai đứa con quá…

– Có tiền sao không đi cai?

– Đi rồi, nhưng về là dính lại. Hễ cứ gặp lại bạn cũ là nhớ quay quắt cái đó. Nó xui khiến con người ta dữ dội lắm.

– Trong trại họ cai làm sao?

– Họ cho Sen. Uống xong lăn ra ngủ, bảy ngày là hết cơn. Nhưng ngoài đời không có thứ thuốc đó.

– Không có Sen thì mày dộng rượu cho say thì cũng được vậy.

– Vô đây tao tính cai dần dần.

– Là sao?

– Nghĩa là tao sẽ giảm từ ba xuống hai, từ hai còn một…

– Vậy mày có mang theo thứ quỷ đó vào đây?

– Tao có mang theo năm phân.

Nói xong Tính trút trong túi ni lông ra một lượng mẫu ống hút đã được hàn hai đầu. Tổng cộng hai mươi cái. Lâm Xung tò mò, nó dùng kéo cắt và trút ra tay, một chất bột trắng tinh như hoa bưởi hiện diện. Nhìn một hồi, Xung trút xuống đất, nó quơ sạch mười chín tép còn lại rồi trút vô cái bếp than rừng rực lửa dùng để nướng khô đuối và các loại khô phục vụ cho bữa nhậu. Xung nhanh như tép làm cả bọn trở tay không kịp. Quá bất ngờ, Tính kêu lên:

– Trời ơi… mày giết tao rồi Xung ơi.

– Vợ lấy trai – Xung gằn giọng – con không nuôi, mày nên chết đi là vừa. Đã bỏ là dứt khoát. Để tao lo cho.

Nói xong Xung chơi nguyên ly xây chừng vô miệng, trong khi Tính vò đầu rên rỉ chết tao rồi, chuyến này tao chết thiệt ở đây.

***

Là dân chơi lâu năm, bảy năm ròng, thêm bảy tháng kiểu ông hoàng nên ác quỷ rất nhanh kéo đến hành hạ Tính. Cả bọn gồm Vũ Tân, Vũ Uy, Vũ Hậu, anh em Lâm Xung, Lâm Trận nhìn Tính bị giày vò bởi thiếu thuốc. Thoạt tiên anh ta ngáp liên tục thiếu điều sái quai hàm. Nước mắt, nước mũi ròng ròng chảy, rồi ói mửa… chả còn gì kể cả nước mà Tính cứ ụa khan, anh ta ôm bụng quặn lên từng hồi và hào hển thở. Cả bọn tái mặt, cứ thế này thì Tính chết mất. Cả bọn lôi vào nhà đặt anh ta lên cái chõng tre. Tính nằm rên hừ hừ, co quắp như con tôm vì lạnh. Tay chân và cả người run lên cầm cập. Ba cái vụ sốt rét thì dân rừng quá rành. Xung nói:

– Không chết đâu, qua cơn lạnh là yên.

Đang nằm Tính bật dậy đòi đi tiêu, Uy và Hậu phải kè anh ta ra cuối miếng đất. Chỗ đi ngoài nhà Vũ Tân là một cái hố gác bởi hai khúc gỗ. Thông cảm cho, dân rừng chỉ vậy thôi. Hai anh em bịt mũi đè chặt vai ông cậu, để rơi xuống cái hố đầy dòi bọ thì chỉ có chết. Nhưng vừa ngồi xuống Tính đã phắt dậy vì cơn đau bụng đã tiêu tan:

– Sao vậy?

– Nóng quá, cho tao tắm.

Lôi ra giếng, nhà Vũ Tân tuy nghèo nhưng giếng cũng có thềm xi măng để giặt áo quần. Hai thằng cháu múc nước bằng gàu phục vụ cho cậu. Tính xối nước ào ào, đang xối bỗng mắc cầu lại phải dìu ra hố, vừa ngồi xuống lại bật dậy… Thật kỳ dị. Uy, Hậu và Xung, Trận chả hiểu ra làm sao cái sự này. Nó làm khổ cho cả bọn… Đi tiêu, tắm, ói mửa… liên tục. Cuối cùng vợ Vũ Tân phải chạy đi mua cái bô để sẵn trong buồng, đi kiểu đó khỏe còn chết nói chi người nghiện. Mệt quá Tính nằm như chết trên chõng sau hai tiếng bị hành hạ… Tưởng yên, ai ngờ cái lạ khác ập đến, Tính rên như heo bị thọc tiết. Vũ Tân hỏi:

– Bây giờ cậu thấy sao?

– Trời ơi – Tính thều thào – Dòi, dòi… anh Tân ơi.

– Dòi ở đâu? Cậu mê rồi.

– Không, cả ngàn con dòi đang đục trong xương em… Trời ơi… bây giờ mà có một tép là hết liền… Anh mua giúp em một tép, em lạy anh, thà chết cho rồi, như vầy khổ quá anh ơi…

– Cậu phải ráng lên, ở đây không có thứ này.

– Có, em đảm bảo với anh là có, anh cứ vô chợ thấy thằng nào môi thâm, mắt lim dim là nó… Anh giúp em… em lạy anh…

Lâm Xung cáu kỉnh:

– Tao đá vô mặt mày bây giờ… Hai chục ngàn lít rượu là bọn tao xót ruột rồi, bỏ ra trăm ngàn là không thể, có tao cũng không cho mày chơi… Rượu nè, tu đi, say là qua cơn liền.

Nhưng mùi rượu làm Tính ụa. Vậy là cái liên khúc ụa, đi tiêu, tắm, dòi bò tái diễn không một lúc nào ngơi nghỉ. Cứ thế suốt một ngày, cả ngày ấy chả ai ăn uống được gì. Người dưng như Xung, Trận còn nghe xót ruột gan nói chi người nhà, nhất là bà mẹ ruột của Tính. Thấy con oằn oại như một con giun bà cũng ròng rã khóc theo.

Nhưng đêm đến mới là cực hình cho cả nhà Vũ Tân. Thằng ma túy không ngừng rền rĩ, la hét. Ai chưa thấy con heo bị khè lúc bị thọc dao vô họng, chỉ cần nghe tiếng rền của Tính là thông tình đạt lý, ai chưa từng nghe con bò thét lên não nùng khi bị đập dái để thiến cứ đến nghe con ma túy trong người Tính lên giọng. Rền rĩ suốt đêm, đứng lên, ngồi xuống, đi ra, đi vô, tiêu, tiểu, ụa mửa, dòi bò… cứ thế cứ thế… làm cả bọn xây xẩm mặt mày. Tiếng động ấy vọng đến tận nhà Sok Xanh.

Sok Xanh trang lứa với Vũ Tân. Dân Khơ Me ở Châu Đốc, thời cũ bị bắt đi lính trong quân đội cộng hòa. Sa chân vô ma túy, nghiện cũng tương đối nặng. Sau thống nhất bỏ được là vì chả có thuốc đâu nữa mà hút chích. Sok Xanh nghe đuôi đầu vì sao có một thằng thảm thê như con chó ghẻ đang bò lê bò toài giữa nhà. Còn cả nhà thì mặt tái như chàm đổ:

– Vậy rồi có sao không anh Xanh?

– Không chết đâu. Cai như vầy chỉ mất sức, nhưng nếu chịu được là khả năng bỏ ma túy rất cao. Trước kia tao từng bị hành hạ như vầy.

– Chú cũng biết ma dược này à? – Lâm Trận hỏi.

– Hồi chiến tranh sợ quá, chán nản quá bao nhiêu lương lĩnh ra tao nướng sạch vô cái trò này… Bữa nay là còn đỡ, ngày mai nó hành mới ghê gớm hơn.

– Là sao?

– Thì cứ y như vậy cho đến hết hai ngày nữa mới qua.

Vậy là có thêm một đồng minh từng cai ma túy đến phụ trợ. Đúng như Sok Xanh nói, ngày thứ hai con quỷ hành hạ Đinh Tính dữ dội hơn, anh ta quặn thắt những cơn đau. Đau bụng chẳng hạn, Tính rên siết tưởng như ruột đang đứt từng đoạn, hết đau bụng lại chuyển qua đau lưng… có như thế này mới biết sức chịu đựng của con người thật ghê gớm, tuyệt không một cái gì vô bụng Tính trong ba ngày. Đến chiều ngày thứ ba thì anh ta nằm thoi thóp như một cái xác sắp chết. Tóc tai rũ rượi, mắt thâm quầng và sâu hoắm. Sok Xanh nói:

– Vậy là con quỷ túy đi rồi. Qua khỏi cái tầng cuối của địa ngục này ít có thằng nào dám chơi lại lắm. Nhưng mà cũng không chắc đâu, tốt nhất là thằng này nên ở đây vài tháng, quay lại chốn cũ là ma quỷ bắt nhớ liền.

Đến ngày thứ tư. Tính đã tự động ngồi dậy, anh ta nghe đói bụng và thèm ăn:

– Thời điểm này – Xanh nói – nó thèm ác liệt lắm, nhưng giờ nếu chơi vô là sốc có thể chết tức khắc. Hồi sau giải phóng ba cái tệ nạn bị quét sạch. Mấy thằng nghiện hút như tụi tao vật vã như thằng Tính mấy hôm nay vậy.

– Bây giờ thằng này tính sao chú Xanh?

– Thời điểm này nó thèm ma túy gấp một trăm lần mình thèm rượu sau ba ngày không uống. Trước mắt là không cho nó vô chợ Suối Nho, vô đó gặp mấy thằng đang chơi là dính lại liền.

– Nó quen biết ai ở đây mà có hàng để chơi ông?

– Mày lầm rồi đa con. Ma túy nhận người thân nhanh lắm. Cỡ thằng Tính đây vô chợ đi chưa hết nửa vòng là biết thằng nào chơi liền. Một cái nháy mắt là kéo nhau vô hẻm kết tình huynh đệ.

Nghe Sok Xanh nói cả nhà Vũ Tân canh Tính còn hơn canh tù. Nhờ canh ke kỹ lưỡng, thêm tích cực bồi dưỡng sau những ngày khốn đốn Tính hoàn dần lại hồn.

Tính ở Suối Nho thêm sáu tháng. Ma túy không còn ám ảnh, tự tin mình đã chiến thắng thần chết, tự tin mình sẽ lấy lại nhân cách, danh dự sau chừng ấy năm vùi xuống bùn đen, Tính từ giã anh rể, chị ruột, từ biệt bạn bè. Nhảy lên xe bay một hơi về quê. Khi chiếc đò khuất bóng, Vũ Tân hỏi Sok Xanh:

– Ông nghĩ nó lâm lụy lại không?

– Có thể. Ông biết không, tôi có thằng bạn, sau giải phóng, cai xong nó liền đi kinh tế mới ở Đắk Mil. Được cấp đất làm cà phê, trồng tiêu bề thế lắm, lại là đoàn viên gương mẫu. Sau đó về Sài Gòn công tác, gặp lại bạn cũ vậy là lâm trở lại. Đơn vị phải cho người xuống bắt, cai sống một lần nữa mới được… Thằng em rể ông mới sáu tháng thì tái nghiện rất cao. Nhưng hy vọng hai đứa con là động lực để nó từ bỏ mà làm người…

***

Như lời Sok Xanh nói, di động báo vào Tính tái nghiện. Bên bàn rượu, Lâm Xung thở dài:

– Cứ tái đã đời đi, vào đây cai sống rồi cho định cư ở đây luôn.

– Mày nói tao nghe có lý à – Sok Xanh biểu đồng tình – Cho nó nếm mùi đau khổ thêm lần nữa.

Nhưng bước kế tiếp không cho ai nụ cười. Đinh Tính bị bắt về tội giết người. Kẻ bị giết là vợ của con nghiện. Chuyện lớn đến độ báo chí phải đưa tin. Giết người mà không lớn thì cái chi lớn? Bên bàn rượu cả bọn trầm ngâm:

– Anh Tân và mấy đứa bây không rành ma lực của ma túy đâu, nó là chúa của loài quỷ. Một con người dù dễ thương đến bao nhiêu, nghị lực kiên cường đến chừng nào cũng bị nó đánh đến chết. Khi có ta dễ thương lắm, linh hoạt lắm, nhưng khi thiếu thì nó khiến chúng ta hóa thành quỷ, sẵn sàng làm mọi thứ kể cả tội ác, ba cái ăn cắp vặt, ăn cướp chỉ là nhỏ lẻ… Thằng Tính mới thật sự là thằng đáng tội nghiệp.

– Tội nghiệp chi nữa chú – Lâm Trận nói – Nó ích kỷ, chỉ biết hưởng lạc cho riêng mình, con cái còn không nghĩ đến, thứ đó đem xử bắn là vừa.

– Nói đến đam mê, sa đọa thì mày thua chi nó. Rượu cũng làm mày ích kỷ vậy. Chỉ riêng rượu tao và mày còn không hạn chế được. Tao nói tội ở đây là bình thường thằng Tính rất dễ thương, rất có tình, biết yêu thương con cái và thương vợ có chồng bị nghiện ngập. Giờ đây trong bóng tối của trại giam, không còn bị ma túy hành hạ, con vật đã biến mất, chất người trỗi dậy lục vấn. Nó sẽ khóc và hối hận trong âm thầm bóng tối. Hiểu không?

NGUYỄN TRÍ

Đời cứ thế trôi

nguyentri

Chín Hội người Bạc Liêu, con út trong một gia đình có ba anh trai một chị gái. Cha Chín Hội rất công bình, trai cũng như gái. Khi chia đất, ông cho mỗi đứa mười công. Hội là út được mười bốn công và căn nhà, bù lại ông bà ở cùng Chín.
Anh em Chín Hội nông dân từ khi mới lọt lòng, chăm chỉ lắm, nhờ thế họ ăn nên làm ra. Mỗi lần về thăm ba má, đề tài muôn thuở của họ là Chín Hội, nghệ sĩ nửa mùa.
Chưa xong tiểu học, Chín Hội chia tay bút mực. Miền Tây sông nước với đàn ca tài tử lại thêm cha mẹ cưng chiều, lôi kéo Chín Hội ra đi. Anh chị em Chín Hội ruộng nương là chính. Không như Chín, họ tự tay làm ăn. Chín Hội thì đem đất đai cho mướn, còn mình mang cái trắng trẻo đẹp trai đi đàn ca hát xướng.
Anh chị em lo cho cái lông bông của Chín. Ai cũng nói “Làm ăn kiểu này ba bữa nữa lấy vợ tiền đâu mà lo”. Đúng quá, họ nặng nhẹ là phải, cha mẹ ngày càng già mà Chín Hội ăn chơi kiểu công tử thì sạt nghiệp là cái chắc.
“Nay mai đừng có kêu tao à”, họ dằn dỗi. Chín Hội thì cười nhẹ tưng “Khỏi lo cho tui, mấy ông bà đừng có đa sự”. “Ừ nhớ đó, lúc lấy vợ đừng có qua tao mà mượn”. “Yên tâm đi”.

Quả thật, Chín Hội chẳng cần mượn ai.
Đẹp trai, tiếng đàn lả lướt giọng ca mùi mẫn, đôi mắt mơ màng, bấy nhiêu đó thừa xô ngã lăn quay những trái tim mê ca hát, lắm người đẹp hết nước mắt vì Chín. Chín Hội ôm đàn giữa một vườn hoa đủ mọi hương thơm. Hoa nào cũng như hoa nào, đóa nào Chín cũng nâng niu thưởng thức hương thơm rồi sau đó sang đóa khác.
Thế rồi đóa hoa Bạch Ngọc tầm cỡ đổ quán xiêu đình đã xô ngã trái tim Chín Hội. Nàng theo Chín Hội về nhà chẳng cần cưới hỏi gì ráo. Thứ nhất, nàng sợ lũ yêu nữ vây quanh chàng nghệ sĩ hớt tay trên mất chàng. Thứ hai, vì trong một đêm trên ghe đầy tràn tiếng ca lời hát ngọt ngào, nàng đã cùng chàng lắc lư tới bến.
Việc lấy vợ của Chín khiến anh em trong nhà vừa thở dài vừa thở phào nhẹ nhõm.

***

Lấy nhau, vợ chồng Chín Hội về thị xã thuê nhà ở. Bạch Ngọc vốn con nhà khá giả sướng từ trong trứng, nấu cơm Bạch Ngọc cũng không biết. Má Chín Hội bĩu môi kể khi đi thăm con về: “Đàn bà con gái gì mà không biết nấu cơm. Ai đời vợ mà để chồng vô bếp”. Ai nấy đều ngạc nhiên: “Trời đất! Giỡn chơi má?”.
Chín Hội xăng xái vô bếp hầu vợ trẻ được mấy tháng, tới khi cái bụng của vợ tròn hẳn lên thì anh ta lại xuống ghe đi đàn ca tài tử tiếp. Ngày cha mất, anh em phải nhắn nhe qua hàng chục cái ghe mới tìm ra Chín Hội. Tang ma xong, Chín Hội lại đi.
Riết rồi Bạch Ngọc cũng hết buồn, hết khóc. Không có chồng nấu cơm cho nên bây giờ cô đã tự nấu cơm được rồi. Và tự làm nhiều thứ khác nữa.
Tài sản của Chín Hội bị bán dần từng công đất một. Người bán chính là bà mẹ đã lậm vô đề đóm. Người mua cũng không ai ngoài anh em trong nhà. Khi Chín Hội tỉnh mộng đàn ca, đất còn lại có bốn công.
Bạch Ngọc cho ra đời ba gái một trai. Chín nói với mẹ bằng cái giọng của kẻ nhuốm mùi thất bại: “Tui cấm bà bán nữa à”. Rồi chửi thề: “Thằng nào dụ dỗ bà già mua rẻ đất đai, tao chém hết!”. Anh em cự lại: “Mày đòi chém ai? Bả bán tao mua. Đừng có nói chuyện kiểu cô hồn nghe mậy!”. “Mấy ông cứ lợi dụng vợ chồng tôi lơ là. Từ nay đừng hòng qua đây!”. “Ai thèm qua lại với vợ chồng mày. Đừng có mơ!”.
Vậy là nước tràn chén.
Còn Bạch Ngọc hết chán rồi hận. Cô hận đã không nghe lời cha mẹ, hận thằng chồng chỉ biết bản thân mình. Vậy mà còn sòn sòn cho ra tới bốn đứa con.
Bạch Ngọc bỗng trở thành Bạch Cốt Tinh.

***

Ba đứa con gái của vợ chồng Chín Hội đẹp như tiên sa, giống hệt mẹ cái thuở chưa là Bạch Cốt Tinh. Lê Kiều Thảo, Lê Kiều Nhi, Lê Kiều Hạnh.
Nối gót mẹ, Kiều Thảo lấy chồng cũng không cho ai uống được một giọt rượu vu quy. Đã vậy, khi vợ có bầu thằng chồng đem gửi cho mẹ vợ, nói lý do phải đi làm ăn, đến lúc vợ đau bụng đẻ không có lấy một đồng. Bà Chín trực chiến ở trạm xá trong khi con rể ở nhà uống rượu đờn ca với cha vợ. Thằng rể khen cha vợ: “Ngón đờn của ba nhuyễn thiệt”.
“Khỏi khen mày. Dzô đi. Mà giọng ca của mày cũng mùi thiệt”. Thằng rể cười hì hì: “Không mùi dễ gì đánh đổ con gái ba”.
Còn hai đứa Kiều Hạnh, Kiều Nhi bà Chín lo lắm. Lỡ nó đi theo tiếng gọi như con chị có nước bà tự tử cho xong đời. Hai đứa con gái, nhìn cha đã chán, nhìn anh rể còn chán hơn. Quanh đi quẩn lại toàn đờn ca tài tử rượu vào lời ra. Muốn con gái tránh xa cái đám này thì bà Chín phải cho tụi nó đi làm khu công nghiệp.

***

Khu công nghiệp là đất lành cho vô số những cánh chim muốn thoát cảnh nghèo. Đó là ý kiến của Tám Lập, chủ của hai mươi phòng trọ, mỗi phòng mười sáu mét vuông, thêm một gác lửng. Bầu đoàn thê tử của Chín Hội ngự trị trong một phòng như vậy.
Kiều Hạnh, Kiều Nhi làm ở công ty thuộc da Weitai. Vợ chồng Chín Hội luân chuyển theo cai thầu khắp các công trình xây dựng, chồng cầm bay chính, vợ phụ hồ. Thằng con trai út mười tuổi, trước khi đi làm Chín Hội khóa cửa nhốt trong phòng. Có người hỏi sao ác vậy, Chín trả lời: “Cho nó khỏi đi chơi”. Hỏi tiếp: “Lỡ cháy nhà sao cha nội?”. “Chủ phòng trọ lo chuyện đó trước mình”. Hỏi nữa: “Sao không cho thằng nhỏ đi học, ở đây cũng có lớp tình thương”. “Thương cái bao tử của mình trước đã”.
Chỉ năm tháng sau khi đến đất lành, sự khởi sắc nhìn thấy rõ ở sợi dây chuyền vàng lấp lánh trên cổ bà Chín. Thêm hai đứa con gái cực kỳ nhan sắc đã kéo lô lốc anh hùng hào kiệt đến nhà, mong lọt vào mắt hai Kiều.
Tính tình phóng khoáng nghệ sĩ, Chín Hội chào đón tất cả. Chủ nhật nào tiếng đàn cũng vang lên, rượu bày ra. Chín Hội mượn rượu tung hô bà Chín lên tận mây xanh. Nhưng Bạch Cốt Tinh vẫn nhìn thấu tim đen bọn này.
Cũng có những gã không rượu, ngọt nhạt gọi bà Chín bằng má. Bà Chín tỉ tê với hai Kiều: “Thằng Bảo quê Tiền Giang, bây mà xuống đó là trôi ra biển luôn à”, với Duy, bà phán: “Thằng đó cả một bầy em. Tao đây chỉ một mẹ chồng còn chịu không thấu”.
Cuộc đời đã dạy bà Chín quá nhiều những bài học, nay bà lôi ra áp dụng cho hai con gái: “Cái thằng đó, trên răng dưới một rổ củ từ, bây lấy nó để đi ăn mày à?”.
Theo đuổi hai Kiều từ phụ hồ cho tới cai thầu, từ Wave Tàu cho tới Dream Thái… Nhưng tất cả đều phải nhường đường cho xế hộp.
Họ rất đàng hoàng, đĩnh đạc và lịch sự. Hai Kiều giới thiệu: “Đây là anh A Huy, đây là A Pẩu”. Bà Chín mời: “Ngồi chơi”. Hai gã Đài Loan xí xa xí xồ. Chín Hội nói với vợ: “Tao bó tay với hai thằng nầy. Nó có chửi mình cũng không biết”. Bà Chín chợt nhớ ra: “Thì ông kêu ông Minh coi”. À lên mừng rỡ, Chín thò tay vào túi móc điện thoại di động.

***

Trong những người yêu thích tiếng đàn của Chín Hội, bà Chín kính trọng Năm Minh. Ông không thuốc lá, không rượu, lại trí thức, nói tiếng Anh như gió. Nếu con trai ông Minh không sa đọa, chắc chắn bà đã gả Kiều Hạnh cho nó rồi. Bà Chín vẫn nói với chồng: “Tội nghiệp! Cha vậy mà con lại hư”.
Năm Minh tới, thông dịch: “A Huy là quản lý, A Pẩu là thu mua của công ty”. Hai gã Đài móc từ trong cái xách tay to đùng, nào rượu hộp, khô mực, nào thuốc lá ngoại, bánh kẹo, sôcôla… Nhìn cái đống tặng phẩm mà Năm Minh dịch là “chút quà nhỏ”, Chín Hội hết hồn.
Rồi hai gã bắt tay chào tạm biệt. Các người đẹp thân ái vẫy tay. Xế hộp lao đi, cán nát cả chục trái tim si tình.
Chín Hội hỏi:
– Ông nghĩ sao?
Năm Minh trả lời:
– Thời buổi này vàng thau lẫn lộn, vợ chồng ông cẩn thận là hơn. Với lại… – Năm Minh ngâm nga – Con gái mà lấy chồng gần, có tô canh cần nó cũng mang cho.
Chín Hội ngúc ngắc cổ:
– Đây chẳng cần canh cần canh khổ qua nhồi thịt gì ráo. Nó lấy chồng ngoại, lâu lâu gửi cho vài trăm đô xài được rồi.
Bà Chín nạt:
– Ông dẹp đi! Chỉ biết cái thân mình.
Nói vậy chớ lòng bà Chín cũng bâng khuâng. Bà khổ quá rồi, nào đàn ca tài tử, rượu, cái nghèo, cùng với sự vô tâm đã đày đọa cả đời bà. Bà nhất quyết chọn đúng mặt để gửi vàng. Dù gì thì đám này cũng hơn mấy thằng sáng say chiều xỉn tối chửi vợ khuya mắng con, tới khi nhà có công việc thì biến đâu mất.

***

Bà Chín chán ghét sự bê tha, thích sự mẫu mực. Thì đó, mẫu mực.
Người ta theo đuổi con gái bà và cố gắng học tiếng Việt. Chỉ ba tháng, hai gã Đài đã chào bà đúng kiểu Việt Nam. Đã thế chúng còn nói với Kiều Hạnh: “Phòng trọ hẹp quá, để anh mướn một căn nhà cho gia đình sinh hoạt thoải mái hơn”.
Dọn tới nhà mới, hai Đài đã thanh toán trước một năm tiền nhà. Rồi tủ lạnh, máy giặt, dàn karaoke. Hai Kiều thì đến trung tâm học tiếng Anh, tiếng Hoa để mưu cầu cho một tương lai xán lạn. Hai chiếc Wave Alpha được tậu về đủ nói lên chân tình của Huy và Pẩu.
Chín Hội khoe với Năm Minh: “Tụi nó mua cho hai đứa nhỏ hai cái di động đời mới. Hai cái thằng này được ghê!”. Năm Minh ngày nào cũng đọc báo An ninh, cảnh giác: “Ba cái quà biếu đó với tụi nó là đồ bỏ. Ông liệu hồn, dặn con ông cho kỹ, đừng dại dột có ngày ôm hận. Ông về kiểm tra kỹ hai cái di động, xem thử tụi nó có cài sẵn ba cái phim đồi trụy vô không”.
Chín Hội nghe lời kiểm tra liền. Thì y như rằng. Chín Hội chửi: “Tụi mầy coi ba thứ này, tao giết hết! Đồ gái hư!”. Bà Chín Hội nhìn mấy cái hình hiện ra trên điện thoại, cỡ Bạch Cốt Tinh mà cũng phải cấm khẩu.
Đến khi Bạch Cốt Tinh tỉnh trí, lồng lộn chửi, thì chuyện đã xong rồi.

***

Nếu nói hai Kiều tự bước qua lễ giáo là buộc tội khe khắt quá. Thử hỏi tất cả người đẹp trên thế gian này ai có thể từ chối trước sự chân thành, hào hoa. Đã thế họ còn được sự biểu đồng tình của cả gia đình. Mỗi lần họ đến là niềm tin sáng lên trong mắt mọi thành viên trong nhà. Bà Chín kỹ tính lắm, không cho đi chơi đâu hết: “Tụi mầy có muốn thì cưới hỏi đàng hoàng rồi dẫn đi Phi châu cũng được”.
Vậy thì hai gã Đài xử tại nhà.
Kiều Hạnh vừa ụa mửa vừa khóc kể: “Bữa đó hai ổng tới chơi… Cái bữa mà ba mượn xe tay ga chở má đi Vũng Tàu đó…”.
Đưa rắn vào nhà mà bảo giữ là giữ làm sao?! Bà Chín Hội đấm ngực. Ông Chín đứng ngoài cửa buồng nghe đầu đuôi câu chuyện, đầu óc quay cuồng, ra phòng khách xách chai rượu lên tu cho quên sầu nhân thế.
Bà con dòng tộc ở Bạc Liêu nói “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước”. Họ kể lại vô số những cuộc tình của Chín Hội thời trai trẻ.
Bà Chín than thở với Năm Minh: “Cái số em sao nó khổ quá anh Năm ơi. Cha mẹ đã không học hành, con cái cũng thất học thất hành…”. Chín Hội nổi cáu: “Năm Minh học hành, tiếng Anh nói như gió mà con của ổng cũng ma túy chớ hơn gì ai?”.

***

Rồi chuyện cũng qua.
Bà Chín mua một cái áo tràng, rằm mùng một nào bà cũng lên chùa lễ Phật, sám hối cái tội chủ mưu sát hại cái thai.
Chín Hội càng rượu nhiều hơn.
Duy hai Kiều thì vẫn còn đẹp lắm.

Nguyễn Trí

Chả thua chi cổ tích

nguyentri

Khi một kẻ bị mất của mắt họ tối lại. Màu tối ấy sẽ hằn lên nét căm hận khi bị gài độ phải chuộc. Nếu ta trả lại thì ngay lập tức ta hưởng được ánh reo vui trong mắt họ. Đố mày lúc đó thằng được trả lại cái bị mất và thằng trả cái lượm được ai sướng?

Quá nửa đêm Dũng mới về đến nhà. Nghe động, bà chị xuống giường, bước qua cái thân thể bèo nhèo bởi ma men hành của ông chồng ra mở cổng cho em trai. Không phải Hạnh – vợ của ông bèo nhèo – giận hay ghét chồng chi cho cam, uống đến độ không tắm, lăn ra gạch men ngủ luôn thì đáng để đánh đòn chứ giận vẫn còn nhẹ lắm.

Nhưng cuối tháng, lương mới lĩnh anh em rủ rê không tới bến e mang tiếng sợ vợ. Chẳng qua bèo nhèo nặng quá, những sáu mươi lăm ký lô, làm sao mà cô lôi lên giường cho được? Thứ nữa, mấy đức ông chồng cứ lợi dụng cái gọi là giao tiếp với đối tác, lúc nào cũng mút chỉ cà tha, không say không về.

Kẻ say. Dù là say bia, hương hublon khi bật nắp thì thơm lắm, nhưng vào bụng rồi tỏa ra mồm thì hôi hoắc không ai chịu nổi. Ngủ dưới sàn kể cũng tốt.

Hạnh vừa ló đầu đã thấy cô em dâu – vợ Dũng – đang ở cửa phòng riêng:

– An ngủ đi để chị mở cho.

Cô gái tên An cười cầu tài, lí nhí cảm ơn rồi xoa cái bụng đã lum lum nhìn chị chồng làm thao tác mở cửa. Rờ mốt cho cửa cuốn chạy lên, lại rờ mốt cho cửa kéo chạy vào không một tiếng động. Ở cái thời mà Đạo Chích nếu sống lại phải gọi trộm làng nhàng xứ ta bằng thầy thì hai lớp cửa e chả ăn thua. An trở lại phòng còn Hạnh thẳng ra sân mở cổng cho em trai:

– Mày – Hạnh nói khi tra chìa vô ổ khóa – Vợ thì bầu bì, nhậu đến giờ này mới về là sao? Lương tâm mày bị chuột cắn rồi hả?

– Thông cảm chị Hai. Bữa nay sếp đãi từ chối không xong.

– Nói với con An hai chữ thông cảm chớ tao thì thông không nổi. Anh rể mày nằm một đống như chết giờ tới phiên mày. Trộm vô nhà này là trúng mánh lớn.

Dũng cho xe vào nhà. Kể cũng bảnh. Bốn người những bốn SH. Với những người tốt nghiệp sự học ở dạng khá giỏi, làm đúng ngay công việc mình thích tại các công ty lớn thì đi xe đẹp ở nhà tiện nghi là tất yếu. Và những ngày lĩnh lương anh em có hò ra tới Huế âu cũng là sự thường. Nhưng mấy bà vợ trẻ, chưa con như Hạnh, bầu bì như An thì đừng có mơ chuyện xỉn đến quắc là thường.

– Ngủ rồi hả em? – Dũng hỏi.

An quay mặt vô vách cứ như cô say lắm giấc điệp. Chồng thò tay lên vai vợ nhưng bị hất ra. Sau đó An kéo chăn lên tận đầu. Men bia nhiều quá nên Dũng cũng thiếp đi.

Sáng ra Dũng lấy lòng bà chị và cô vợ trẻ bằng cách phóng xe lên chợ thị trấn, mua đủ thứ trên trời dưới đất để có bữa thịnh soạn cho ngày chủ nhật. Mua tờ báo, ghé quán cà phê làm ly đen đá.

Lúc về Dũng bị cảnh sát giao thông chỉ gậy tấp vô lề. Anh chạy quá tốc độ cho phép trong khu dân cư.

Thò tay vào túi quần anh phát giác ra cái bóp đã không tại cái chỗ mà nó phải yên vị. Mở cốp xe, cũng không. Không một mảnh giấy, kể cả tùy thân. Đương nhiên xe bị tạm giữ.

Việc đầu tiên Dũng có thể làm được là gọi điện cho An. Anh hỏi nhưng biết là cái bóp không hề có ở nhà. Hỏi hú họa vậy thôi. Vì khi mua tờ báo anh đã móc bóp trả tiền. Anh để chỗ tiền dư vào túi trên. Không. Là câu trả lời của An. Ông anh rể hỏi qua điện thoại:

– Mày đang ở đâu?

– Em đang ở ngã ba Lộc. Anh đón em về với, xe bị tạm giữ rồi.

Anh chồng vẫn bèo nhèo bởi áo quần chưa thay đưa em vợ về. Lạy thánh Ala, đến lúc này hắn mới vệ sinh răng miệng. Đợi bèo nhèo xong công đoạn này cũng nửa tiếng. Nhưng chả ai còn bụng dạ nào để ăn với chả uống. Tuy nhiên Hạnh cũng pha cho hai gã đàn ông cà phê đen nóng, hai cái sữa nóng cho hai chị em:

– Làm sao mất?

– Chắc bị móc túi thôi – Dũng trả lời.

– Chắc với lép – bèo nhèo nhấm nhẳn – mày bị mấy thằng xì ke chợ thị trấn dàn cảnh rồi. Mất cái gì trong đó.

– Hai cái bằng lái của em với An, hai cà vẹt, hai thẻ ATM, một ít tiền.

– Sư bố cái bọn xì ke – bèo nhèo chửi thề – Bây giờ cái xe bị tạm giữ cho đến khi làm lại giấy tờ là mục luôn trong nhà giữ xe của công an huyện. Chưa nói tới xe xịn là tụi giữ xe cho người vô làm thịt nguyên con.

– Em nghe nói tụi cò có thể lấy xe ra được miễn chung đậm một tí.

– Với điều kiện phải có giấy tờ xe… Để tao hỏi thằng bạn bên hình sự huyện coi sao.

Ngay lập tức bằng hữu cũ thuở đi học có mặt ngay tắp lự. Nói chung là chủ nhật nên ai cũng rảnh rỗi. Gặp nhau đấu láo kể cũng vui. Giúp bạn tí chút còn vui hơn. Hình sự huyện là trung úy chứ không ít. Anh rất tinh thông vụ mất giấy tờ xe:

– Để tôi phôn cô em gái đang bên đài phát thanh huyện thông báo mất và xin chuộc lại. Chú em mày báo cáo cho cụ thể để phát thanh. Bọn ma túy chuyên sống bằng móc túi không bỏ mấy vụ hời này đâu. Nội trong chiều nay, trễ lắm là sáng mai chúng sẽ điện cho chuộc. Yên tâm. Cho nó năm trăm là xong hết. Còn cái xe, hiệu gì? Biển số bao nhiêu để tôi nói với mấy anh em bên giao thông thả ra.

Điện thoại gọi cho cô em bên phát thanh. Chắc em phải xinh lắm vì giọng nói sao mà mượt và ngọt như mía lùi. Rằng tôi tên… có đánh rơi… Ai nhặt được xin liên hệ… Xin cảm ơn và hậu tạ. Trong khi chờ đợi ta làm ly đen cho tỉnh táo mà đi nhận xe và giấy tờ về. Vui lên, chả có mất đi đâu mà tính đường làm lại. Mà muốn làm lại cũng nhiêu khê lắm. Mà sao giấy tờ của bà xã lại gộp chung một ví?

– Dạ. Bà xã có bầu nên đi làm em đèo luôn cho chắc. Hôm nọ thấy để giấy tờ trong cốp nên em cất luôn – Dũng văng tục – Thiệt tình mấy thằng móc túi này hay thật. Nó lấy lúc nào em không biết gì luôn.

– Móc mà cho mày biết thì lấy gì có thầy có vua.

Anh hình sự trấn an cô vợ trẻ rằng bọn xì ke không vất giấy tờ xuống cống đâu em ơi. Đâu có ai ngu mà vất của, với lại trên đời này chả ai khôn qua tụi nó. Bộ mặt đang héo và rủ như lá chuối khô của cô vợ bầu tươi lại khi điện thoại từ bên giao thông báo với anh hình sự cho người đến lấy xe về. Anh hình sự Ok sẽ cho lính tới liền. Thật là chả chi hơn thân và thế. Quen biết với người có tí quyền kể cũng hay.

Bèo nhèo mở tủ lấy ra chai uýt-ky bờ-lắc-goai (Black and White). Gì cũng là bạn từ hồi đi học làm mấy ly cho sảng khoái. Ba cái rượu Mỹ không uống nhiều được đâu nghe. Say chết luôn đó. Bèo nhèo nói:

– Năm trăm như ông nói liệu tụi nó chịu không?

– Năm trăm là nhiều rồi.

– Lỡ tụi nó đòi thêm thì sao anh? – cô Hạnh hỏi.

– Để anh nói cho em nghe. Đương nhiên là tụi nó chê năm trăm rồi. Giấy tờ cả hai chiếc tay ga SH thêm đủ thứ trời ơi. Nó sẽ đòi thêm. Anh cũng mong nó đòi để có cớ lôi về hình sự huyện cho ra luôn cái vụ móc túi.

– Không hiểu à? Anh nhặt được, tôi biếu anh năm trăm uống nước là quá tốt rồi, anh lấy cớ gì để đòi thêm? Nó mà mở miệng thêm là có hành vi tống tiền em hiểu không? Nhưng anh chắc chắn bọn này sẽ đòi. Xưa nay luôn vậy. Tâm lý người bị mất ngại làm lại vì tốn nhiều thời gian, thêm triệu bạc vẫn rẻ và nhanh hơn nhiều lần.

Hình sự nói tiếp sau khi chiêu một ngụm uýt-ky:

– Vụ này để tôi giải quyết cho. Mong nó khó dễ là tôi có cớ lôi về nhận diện toàn bộ dân hai ngón của thị trấn này.

Hình sự kết luận cứ như là đã có hẹn với đối tác rồi:

– Thằng Dũng ngồi một bàn. Tôi và anh kiếm cái góc nào đó trong quán theo dõi. Du côn mà mè nheo thì mày khoát tay ra hiệu nghe.

– Em đi với – cô Hạnh nói.

– Em cũng đi – cô bầu cũng xin theo.

– Ok. Đi hết cho vui.

Đúng lúc đó điện thoại trong tay Dũng báo cuộc gọi đến. Một số máy không có trong danh bạ.

– Mở loa ngoài cho tất cả cùng nghe. Bọn nó chứ không ai đâu. Tôi đã nói mà…

Một giọng ồ ề vang lên:

– Alô… Tui vừa nghe phát thanh báo anh bị mất giấy tờ. Tui lụm được nè. Anh ở đâu? Đến nhà tui cho xin lại.

Hình sự chủ động:

– Cám ơn anh lắm. Nhà anh ở đâu? Hay là mình có thể gặp nhau ở một quán cà phê nào đó được không anh?

– Cũng được. Quán nào đó tùy anh chọn, nhưng mà xà quần trong thị trấn này thôi nghe.

– Vâng. Anh đến quán Dạ Thảo ở ngã tư…

– Rồi. Tui biết quán đó. Mấy giờ?

– Hai giờ chiều nay được không anh?

– Ok.

Lính của hình sự chạy tay ga của Dũng đến tận nhà sau cú phôn lệnh của anh. Hai chồng chở hai vợ. Hình sự rề Future-Neo dẫn đầu chạy đến trà đình Dạ Thảo lúc một giờ ba mươi. Vợ chồng Dũng một bàn. Vợ chồng bèo nhèo và hình sự một bàn khác. Nguy cho xì ke móc túi quá con ơi. Không khéo là tạm giam hai bốn tiếng về tội tống tiền. Ít thì cảnh cáo nhiều là truy tố. Mà cái ngữ móc túi cũng nên nhốt đi cho rồi. Đúng không?

Đồng hồ treo tường của trà đình kém năm phút đến số hai thì ngoài quán trờ đến một Wave Tàu không thể cà là mèng hơn. Nó cũng nham nhở như chủ nó vậy. Một trung niên xám xám, áo quần xộc xệch. Mặt mày đen đúa và râu ria. Cái mặt này không nghiện hút thì đem đầu hình sự chặt đi – hình sự nói nhỏ vào tai bèo nhèo vậy.

Bèo nhèo gật gật. Cả cô Hạnh cũng rùn vai chun mũi, mắt ra chiều kinh dị. Kinh nhất là cái bêrê nâu hắn đội đầu. Tóc tai xù ra bởi cái mũ trùm không kín. Nhìn du côn không tưởng được.

Xì ke móc túi ngồi xuống bàn. Hắn giở bêrê ra lau… mặt. Tóc tai chừng đã lâu không hớt được dịp bung ra. Bà bầu trồ mắt nhìn, trời ạ, ghê chết đi được bọn bụi đời dưới đáy. Chả đợi sẹc via hay tiếp tân, xì ke móc túi gọi:

– Một cái đen nóng nghe chủ quán, bình trà nóng luôn.

Vậy rồi hắn hoa tay múa chân miệng nói vô hồi kỳ trận. Tất nhiên chỉ có hai vợ chồng Dũng An nghe. Ba tay còn lại xa quá nên chả hiểu mô tê gì. Ba đôi mắt chỉ thật sự căng ra khi bụi đời thò tay vô túi áo móc cái ví thả xuống bàn. Sau đó vừa tợp cà phê vừa chiêu trà hắn lại luyên thuyên. Cả ba kẻ ém quân đợi thời cơ chả hiểu vì sao hai vợ chồng trẻ không nói chi. Hình sự quyết định:

– Để tôi qua xem thử ra sao.

Đúng lúc ấy Dũng ngoắc tay.

– Ai đây? – Xì ke móc túi hỏi khi cả bọn đã yên vị. Dũng trả lời:

– Dạ… đây là anh và chị của cháu.

Hình sự hỏi, mắt lườm lườm nhìn móc túi:

– Sao rồi?

Móc túi trả lời:

– Thằng này gặp tao chớ gặp thằng khác là thúi goắc rồi. Tao ghé quầy báo thấy cái bóp nằm một đống. Lý ra tao đưa cho bà bán báo trả giúp, ngặt cái lúc đó bả đi ăn sáng, mấy đứa đệ tử thì tình thiệt là xin thưa em hổng dám tin. Biết thế nào bây cũng nhờ phát thanh nên nghe là tao liên lạc liền. Mày kiểm tra lại đi.

Hình sự móc bóp:

– Con gửi chú năm trăm uống nước…

– Bà mẹ nó… Hai trăm đôla Mỹ với hai tờ năm trăm trong bóp tao còn không thèm. Chú em mày biết không? Tao từng bị cái vụ này nên hiểu lắm tâm trạng kẻ bị mất. Đã mất tiền còn phải chuộc tốn thêm lời cảm ơn nó đau hơn hoạn. Chỉ có bọn xì cọc lâm vô thế cùng mới táng tận lương tâm. Chú em mày có bao giờ nhìn thấy được niềm vui trong mắt kẻ khác chưa? Chắc cũng có nhưng không ấn tượng lắm đâu.

Khi một kẻ bị mất của mắt họ tối lại. Màu tối ấy sẽ hằn lên nét căm hận khi bị gài độ phải chuộc. Nếu ta trả lại thì ngay lập tức ta hưởng được ánh reo vui trong mắt họ. Đố mày lúc đó thằng được trả lại cái bị mất và thằng trả cái lượm được ai sướng?

Hình sự ngớ người:

– Dạ…

– Khì khì khì… cả hai thằng đều sướng. Nhưng nếu không nhận một thù lao nào cho mình thì hơn cả sướng, thằng trả lại ngập tràn trong hạnh phúc. Tao nói chắc tụi bây không hiểu đâu. Vì phải kinh qua mới hiểu được. Mà thôi tao đi đây. Tụi bây trả giúp tao ly đen nghe. Tạm biệt.

Cả năm nhìn theo bụi đời bêrê nâu.

Nguyễn Trí

Nguỵ tín

nguyentri

Chàng tên Quốc Đỉnh. Từng là con nhà giàu. Ngoại trừ tên đẹp và cái gọi từng con nhà giàu chàng chả có chi sất. Chiều cao, dáng dấp, vẻ mặt đều trung bình. Đỉnh như cả triệu thằng người tầm thường khác có mặt trên trần gian. Mà khoan, kể cũng có tí tài vặt như chơi đàn guitar tàm tạm được. Bằng chứng là trong đội văn nghệ thị trấn X Đỉnh ôm đàn dìu các cô các cậu hát cho vững nhịp hoặc không “ọt” tông. Còn là nhạc công chơi trống của đội. Tuy tầm thường nhưng múa may quay cuồng trên dàn trống trông cũng có nét.
Tài vậy đúng là vặt rồi. Bởi, trong tuyển văn nghệ tuyền trai đẹp và gái xinh. Một thằng nhạc công dìu đàn cho em hát thì ra cái ôn dịch gì? Nam ranh ca Hương Gà Đá – tên Hương chuyên gia đá gà độ nên gọi vậy – Vừa đẹp trai vừa hát hay ơi là hay, hoặc Châu Mắm Mòi- tuy ốm nhách nhưng ca cổ nhạc là Giang Châu phải bái làm sư phụ cái khoản hơi dài… các em trong đội văn nghệ khoái hai anh nầy lắm. Em nào cũng ao ước hát cặp với hai anh mỗi khi có trình diễn. Kẹt cái trong tất cả xinh mơ ấy hai anh cùng thích một em tên Thanh. Tên thiệt thọ của nàng là Trương Thanh Thanh, nghệ danh Thanh Thanh. Em gái nàng trong ban múa tên gọi Trương Phối Phối. Thanh Thanh và Phối Phối là con của hạ sĩ cộng hoà bại trận tên Pháp.
Ông Pháp mũi cao da trắng, đẹp cứ như là hậu duệ của viễn chinh Pháp rơi rớt trên Việt nam. Bà xã người Tam Quan Bình Định. Cả nước đảm bảo không ai không biết câu ca dao công đâu công uổng công thừa, công đâu gánh nước tưới dừa Tam Quan. Con gái xứ nầy ăn cơm dừa ngủ dưới dừa tắm nước dừa cô nào cô nấy trắng như bông bưởi và đẹp ôi thôi đẹp. Đẹp mê. Thanh Thanh và Phối Phối đẹp là phải rồi. Đừng nói đến hai anh ca sĩ vườn đắm đuối, ngay cả trưởng đoàn còn chết mệt. Nói chung, cả đoàn, trừ bọn giống cái chuyên ganh ghét. Còn lại, cả bảo vệ, nếu cần chết vì hai em cũng đặng.
Mà sao hai nàng một mười bảy một mới lên mười nầy có cái tên bay bướm vậy kìa? Để kể cho nghe. Là do xưa kia cha mẹ nàng mê lắm cái phim võ hiệp kỳ tình hồng công. Có hai nữ minh tinh rất nổi tiếng thời đó là Trương Thanh Thanh và Trịnh Phối Phối, cha nội Trương Văn Pháp mê quá nên đặt tên cho con gái luôn, còn có thằng út tên Trương Vương Vũ mới là ác văn liệt kìa. Tên đẹp, người đẹp, chả biết làm sao để diễn tả nhan sắc hai nàng, bọn si tình bắt chước ông vua kiếm hiệp Kim Dung gọi hai nàng là vưu vật hiếm có của võ lâm. Cả bọn đeo theo hai nàng dài cả cây số. Thời mới thống nhất, ông Pháp sống nhờ vào rẫy nương, bọn dại gái nhào vô cuốc đất trồng mì nhổ củ mì giúp dùm đến cái độ ông Pháp… thất nghiệp.
Than ôi nàng rất đẹp Thanh Thanh chả yêu ai trong các anh. Nàng yêu Quốc Đỉnh.
Thế có kỳ cục không?
***
Có gì đâu mà kỳ cục? Chuyện tình yêu xưa nay vốn vậy, một người đẹp yêu một thằng khố rách xấu ình hay một anh đẹp con nhà thế gia bá một nàng Thị Nở có chi đâu lạ. Có câu nó xấu nhưng kết cấu nó đẹp. Vụ kết cấu cấu kết nầy đa dạng lắm ai muốn hiểu sao thì hiểu. Việc Thanh Thanh yêu Quốc Đỉnh bọn thất vọng vì tình kháo rằng:
– Yêu đương cái con khẹc gì – Nam ranh ca Hương Gà Đá cay cú – thằng đó làm sao xứng với ẻm. Chả qua nhà thằng Đỉnh có của chìm.
Châu Mắm Mòi cú theo một kiểu khác:
– Chìm nổi gì mày ơi. Nhà nó cũng cơm hấp mì độn khoai lang chết mẹ chớ hơn chó gì bọn mình – Chả là sau thống nhất nhà nào cũng thèm cơm trắng hột vịt chiên lắm -. Nếu nói em yêu thằng Đỉnh vì tiền thì khối cha gì thằng có của bám theo mà em không duyệt.
– Chớ theo mày thì vì cái củ cải gì?
Hai thằng nầy trước tưởng giết nhau vì Thanh Thanh nay hoá một hội thân lắm.
– Mày tin đi. Thằng Đỉnh có bùa Yêu. Trước giải phóng nó xì ke chúa mà nay bỏ cái rụp là nhờ nó chơi ba mươi sáu chư vị bùa lỗ ban.
– Khặc khặc khặc… bây giờ tao biết vì sao con Thanh không thèm mày.
– Sao?
– Vì mày ngu quá… Mà nè, trước nó xì cọc hả?
– Chắc trăm phần luôn… Trước tao với nó học chung khối lớp mười ở trung học Tăng Bạt Hổ. Bữa đó nó chơi quá liều hay sao đó tao không rành, chỉ nghe tụi bạn nói nó đang phê. Ông con té ngay cổng trường, bọn tao phải khênh vô phòng tổng giám thị… Cả trường ai chả biết nó xì ke. Con nhà giàu mà. Mày hiểu không? Nhà nó lúc đó bảnh lắm. Giàu nhứt thị trấn nầy như chủ tiệm vàng Ngọc Tuệ chả ra cà ram gì so với nhà nó.
– Vậy tao nói em Thanh yêu nó vì tiền có gì sai đâu?
– Mày ngu quá. Tao đã nói nếu vì tiền khối cha chi thằng đẹp.
Không riêng hai thằng ca sĩ cấp xã nầy mà trăm khối tình si khác cũng não nùng buông kiếm, ngồi bên suối không thèm mài luôn nói gì múa may. Chúng cũng luận không thua chi hai anh. Thực ra thế nhân bàn về Đỉnh thì mười trúng hết chín. Nhà giàu. Đúng. Chơi xì ke. Đúng luôn. Thời chế độ cũ hạ sĩ quan tiếp tế như cha Đỉnh ai chả giàu. Nói mà chả sợ một ai cho là cường điệu thì mười ông quan của lính cộng hoà chí ít cũng tám ông tham nhũng. Hạ sĩ quan mà tiếp tế hay tiếp liệu ăn còn dễ hơn cả quan. Ông nào chả nhà cao của rộng vợ đẹp con ngoan. Chỉ ông Đạc cha Đỉnh không nhà cao là có cái nguyên cớ của nó.
Ông Đạc dân bên kia vĩ tuyến mười bảy. Một tay chống cộng nòi. Khi quyền lực chuyển từ tay thực dân sang đế quốc ông tin rằng còn khuya việt cộng mới tại vị trên đất nước nầy. Nhất là cái đận Việt nam hoá chiến tranh. Miền nam với một triệu binh lính và sĩ quan trang bị đến tận răng. Tin vậy nên ông chờ một ngày cộng hoà sẽ bình định đất Bắc lúc đó về quê mua nhà cũng không hề muộn. Bao nhiêu tiền ông gửi vào ngân khố quốc gia. Ngờ đâu sự thể là cộng hoà thua cháy. Thua rạt gáo. Của tích luỹ sau hai mươi năm chiến tranh sạch bách. Thời may là bà Đạc còn ít tư trang nên mới có tí chút mà sắm căn nhà ở thị trấn. Với cái trung sĩ và thằng con cán cuốc binh đơ. Hai cha con đi cải tạo chỉ ba tháng là trở thành công dân. Tình thiệt mà nói nhà ông Đạc sạch sẽ rồi, Nhưng sau thống nhất mà có tiền mua nhà và có tí chút mua đám rẫy vài sào trên núi thì cũng bảnh. Vì thế cho nên thiên hạ hiểu nhầm nhà Đỉnh có của chìm cũng có lý.
Nhưng nói ẹm Thanh Thanh yêu chàng vì của chìm là ba láp.
Nàng yêu anh rất thật thà thiếu nữ. Anh tuy không đẹp trai như các anh khác nhưng anh có ưu điểm là không bô lô ba la ra cái vẻ dưới gầm trời nầy mình là số một. Anh Hương Gà Đá có giọng ca giống Duy Khánh thì vênh mặt lên cứ như mình là sư phụ của danh ca. Anh Châu Mắm Mòi khoe khoang mình từng uống rượu với Giang Châu – sư bố nó – thiên hạ chửi đổng – dân thị trấn, một năm lên thị xã được ba lần mà biết Giang Châu. Xạo không chừa chỗ cho ai ký tên hết. Tán tỉnh Thanh mà hai anh huyên thuyên về mình hết buổi. Anh Đỉnh thì khác. Anh êm trầm và ít nói. Chỉ cười. Anh rất ân cần khi dìu đàn cho Thanh hát. Một đôi khi lỗi nhịp anh hát cho Thanh theo. Trời ạ. Giọng ca anh nghe trữ tình làm sao. Dịu dàng và êm như mơ. Thời mới thống nhất ai cũng nhạc đỏ mà hát. Đỉnh lại một mình ri rĩ tình ca. Anh lại chả màng chi đến Thanh. Cứ như trong mắt anh Thanh chỉ là một sinh vật giống cái không hơn không kém. Cô gái mười bảy tuổi, học đến mười một rồi chứ không ít. Cô đọc tiểu thuyết cũng hơi nhiều nhiều. Thời của cô những Nguyễn Thị Hoàng với Vòng tay học trò. Tuý Hồng với Biển Điên. Nhã Ca với Cổng trường vôi tím cả cái bà Quỳnh Dao của một Mùa thu lá bay là thần tượng. Yêu một anh giai phong trần như Đỉnh kể cũng đáng. Bằng chứng là cha má cô chả la rầy chi khi cô giả vờ đến nhà Đỉnh chơi với em gái Đỉnh, tình thật là đến để nghe anh hát bài Đưa em tìm động hoa vàng và bài Ngày xưa Hoàng thị. Đỉnh vừa đàn vừa hát con ki ki còn ư ử rên nói chi Thanh Thanh.
Vưu vật đến tận nhà mà Đỉnh lơ là sao? Có lý do hết. Chả là mấy thằng từng dính vô xì ke luôn mang trong máu cái tâm trạng âu lo và mất mát. Luôn cảm thấy một mối bất an toả ngập tâm hồn. Ngập đến hốt hoảng, và để lấy lại thăng bằng người chơi phải sử dụng, ma tuý khiến kẻ nghiện bằng an lại tâm hồn. Khi là con nhà giàu Đỉnh vô tư chơi. Ông Đạc có của nên kệ mẹ mày muốn chết ông cho chết. Đồ vô dụng, đồ đua đòi… Khi tất cả tiêu tan vì cuộc chiến. Đỉnh đâu có thuốc mà phục vụ cho bản thân. Hú hồn. Không có cuộc giải phóng Đỉnh vong mạng là cái chắc. Có điều Đỉnh nhớ lắm. Cũng phải thôi, một người tình trong mộng đeo suốt hai năm. Nàng cho Đỉnh tuyệt thống khoái và tận khổ đau. Không nhớ làm sao được? Những ngày mà mít tờ Thiệu gọi là rút lui chiến lược chiến thuật khỉ mẹ gì đó, rồi mít giao cái tổng thống lại cho già gân Hương gãi háng(1). Ông Đạc và cả nhà cũng chạy. Không chạy để cộng quân họ bêu đầu như lời đồn hay sao? Với lại chạy theo vì tiền trong ngân khố Việt nam cộng hoà không bỏ được. Đỉnh không chạy vì vật vã bởi thiếu thuốc. Cả nhà cũng kệ mày luôn. Cho mày ăn học để xì ke thì ráng chịu. Đỉnh ở lại nhà tàn tệ như con dòi. Mười ngày sau ông Đạc về lại thì Đỉnh cũng qua cơn.
Mất sạch của cải ông Đạc sinh ra bất đắc. Ông cùng bầy con – ngoại trừ Đỉnh – lên rừng kiếm cái ăn. Xì ke Đỉnh sau cai nghiện bất đắc dĩ yếu như sên làm chi được. Ăn bám nên ngày nào cũng bị ông bất đắc chửi. Tổ cha mày, tao già vầy mà phải nuôi một thanh niên, mày ngó được không vân vân và vân vân. Buồn và nhớ nên Đỉnh mới êm trầm ít nói, chứ có xì ke cho chàng độp một mũi là nói như sáo sậu liền.
Xì ke vậy mà ông Pháp còn bắc thang cho khỉ leo mà ngó được sao? Thằng Mắm Mòi đến nhà mong gọi ông là bố vợ chả kể cho ông nghe vụ Đỉnh phê xì ke đến té ngoài cổng trường à? Thì có, nhưng ông Pháp đâu có tin, chẳng qua bọn mê gái chơi trò tiểu nhân triệt tình địch đây chớ chi. Mà giả dụ nó có xì cọc thì nay cũng sạch bách rồi. Các đoàn thể từ thanh niên, nông dân, phụ nữ, thiếu nhi mọc lên, đố thằng tiêu cực nào lọt sổ. Nhưng khối cha chi thằng ngon lành vừa đẹp trai vừa tài tuấn lại con cái thế gia không chọn lại chọn nó là sao vậy ông Pháp?
Ông Pháp rành lắm. Lũ thế gia kia ở cái thời mới nầy không luận được đâu là bến bờ. Bọn con nhà tư sản lẫn tư sản mại bản đâu có thuộc câu lao động là vinh quang. Ngoài miệng chúng nheo nhẽo đoàn kết tốt lao động tốt nhưng trong thâm tâm chúng mong ông cộng hoà quay lại. Họp hành thì chúng đồng ca bài Bác cùng chúng cháu hành quân, về nhà chúng giờ nầy anh ở đâu? Giặc tan trên đất hạ lào… Anh ở đâu ớ ơ ờ anh ở đâu? Lũ nầy còn khuya mới phục ông cách mạng. Ông Pháp sống theo quan điểm gió chiều nào ngã chiều đó. Cho con gái quen với bọn nầy hiu lắm, nói chi đến gã bán. Với lại chúng có nhiệt tình khỉ mẹ gì. Dân quen ăn chơi, nay thấy hoa đẹp chúng lượn lờ nhắm bẻ được thì bẻ, không thì thôi đâu có ý lâu dài chi cho cam. Thấy con gái rượu thích Đỉnh ông cũng thích.
Là vì xưa kia ông là lính dưới quyền ông Đạc. Không có ông Đạc dìu vô trường ông chết mất xác ngoài chiến trận lâu rồi. Thuở ông Đạc là hạ sĩ quan tiếp tế, chuyên cấp phát lương thực và thực phẩm phụ trội cho vợ con lính. Ai cầm cái bông có chữ ký của trung sĩ nhất Đạc là Pháp xuất kho. Người lớn hai mươi mốt ký gạo cho một tháng, trẻ em mười lăm ký. Cái ca sắt bọc ngoài bình tong nhôm dùng để đong gạo. Cài bình chỉ một lít, vậy cái ca bọc ngoài đầy gạo bảy trăm cà ram là tối đa, vậy mà trung sĩ nhất Đạc lệnh cho Pháp tính một ký. Một đại đội một trăm hai mươi chú lính thì số thặng dư là kếch văn xù. Ông Đạc cho về nhà và bà Đạc đem ra đại lý. Lính đào ngũ ông Đạc có nhiệm vụ báo cáo. Nhưng ba tháng sau ông mới báo, và ba tháng ấy lương của những thằng đào ngũ ông chia đôi với Đại đội trưởng. Ông Đạc giàu cỡ nào ông Pháp rành lắm, nên nghe nói bữa cơm nhà Đỉnh toàn khoai lang củ mì. Pháp cười:
– Nhưng mà đêm đến nhà thằng Đỉnh ăn gà luộc chấm muối tiêu chanh.
Con gái ông làm dâu ông bà Đạc là hết sức có lý. E là nó không để mắt tới mới là đáng ngại. Chả phải nó không ghé nhà ông đó sao? Vậy nên cô Thanh xinh đẹp đến nhà Đỉnh ông không can. Ông mong hai đứa nó vô một cặp thì hay ho lắm lắm.
Nhưng mà ông không phải lo, cu Đỉnh là người chứ đâu phải cây củi mà không động lòng trước nhan sắc. Sau ba tháng chia tay Cô Ba ma tuý. Sự hoảng loạn, trống vắng dần lui vào bóng tối. Đỉnh nghe cô đơn lụi dần khi nhìn đôi mắt của Thanh Thanh. Đỉnh ôm đàn và hát: Kìa đôi mắt sáng mắt đen người thiếu nữ. Toả sáng như ánh sao, đen láy hơn đêm đông. Hỡi người thiếu nữ có đôi màu mắt đen, ta trao cô nàng nhé trái tim và linh hồn…
Nghe hát Thanh Thanh ngã đầu vào vai anh cái rụp.
Đầu tháng bảy năm thống nhất đất nước Quốc Đỉnh Thanh Thanh nên một cặp.
Cuối tháng chín họ chia tay.
Một cuộc tình nhanh hơn sao đổi ngôi gấp tám lần, và nó ly kỳ không tưởng được.
***
Hai mươi tháng chín năm một chín bẩy lăm một cái lệnh đưa ra làm choáng váng một số kẻ trong đó có gia đình ông Đạc. Một số khác trong từ “kẻ” vỗ bụng cười.
Lệnh đơn giản lắm. Rằng thì là đồng bạc của chế độ cộng hoà đang lưu hành sẽ được đổi đồng tiền mới. Mỗi hộ gia đình được đổi một trăm nghìn, với mệnh giá năm trăm cộng hoà đổi lấy một đồng giải phóng, nghĩa là một trăm nghìn đổi được hai trăm đồng. Rất giản đơn như ta đang giỡn vậy. Ai có hơn một triệu chỉ được đổi một triệu mà thôi, nhưng nhận tiền mặt hai trăm đồng còn bao nhiêu phải gửi vào ngân hàng. Ai bất tuân hay làm trái sẽ đủ thứ chi chi đó với pháp luật. Thật là choáng váng. Uy lực của lệnh cực kỳ ghê gớm. Trước đổi tiền một ngày, đồng bạc cộng hoà trong tay đã hoàn toàn vô giá trị. Chỉ những ai sống vào thời ấy mới biết được uy vũ của lệnh. Và biết được sự vô nghĩa của bạc tiền trước lệnh.
Hầu hết dân thị trấn nơi Đỉnh cư ngụ đều khố rách áo ôm. Năm tháng sau thống nhất, nạn thất nghiệp cực trầm trọng. Người người rừng, nhà nhà rừng. Ai cũng búa rựa trên vai kiếm ăn trên non cao. Cái ăn kiếm đến chảy máu mắt lấy đâu ra tiền mà đổi. Bọn tư bản, tư sản, tư sản mại bản chạy như gà mắc tóc. Dân nghèo thị trấn được dịp làm ăn. Họ đổi dùm tiền cho nhà giàu với tỷ lệ bốn sáu. Kẻ có của sáu, người đổi bốn.
Bây giờ mới ra mặt chuột. Nhà ông Đạc nhờ chín hộ khác đổi giúp. Mẹ cha ơi ngày nay ta nghe nói một triệu bạc nó chả là cái ôn gì. Hai tờ năm trăm ngàn nhẹ hẩng. Năm tờ hai trăm, mười tờ một trăm hay hai mươi tờ năm chục đếm cái xoẹt là hết. Một triệu của bốn mươi năm về trước nó kinh lắm. Mệnh giá cao nhất là tờ một ngàn đồng có hình con voi. Tờ năm trăm thì hình con cọp. Mười tờ một nghìn thì chỉ mới mười nghìn. Một xấp trăm nghìn phải một trăm tờ. Giấy năm trăm phải hai trăm tờ mới ra trăm nghìn. Đằng nầy va ly tiền của ông Đạc còn có giấy hai trăm và một trăm nữa. Cha con chồng vợ tha hồ đếm và tha hồ cột giây thun. Ông Đạc nhờ hai gã bạn thân đổi giúp hai xuất. Bằng – anh trai Đỉnh – nhờ bạn bè giúp bốn xuất, bà Đạc nhờ bạn hai xuất. Vị chi tám, nhà một xuất là chín. Còn lại một.
Cả nhà chưa biết nhờ ai thì Thanh Thanh đến. Và nhân danh tình yêu Đỉnh nhờ nàng đem về nói bố mẹ đổi giúp. Nàng nói với tình rằng chuyện nhỏ.
Và như ông Nguyễn Bỉnh Khiêm đã dạy trong Thói đời rằng: Thế gian biến cải vũng nên đồi.
Một trong hai ông bạn già cùng quê cùng kiểng của ông Đạc đánh bài lờ. Ông còn lại tứ lục rất đàng hoàng nhưng tứ thuộc về ông Đạc. Bốn thằng bạn của Bằng thì đỡ hơn chúng giao năm năm. Thôi thì của đổ mà hốt được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Ông Đạc thở dài mà nói vậy. Riêng bà Đạc thì đúng là bạn của bà rất tốt. Họ trả đủ theo tinh thần ăn chia.
Còn duy nhất Thanh Thanh.
Những hai ngày sau không tăm dạng ba hồn của nàng nên Đỉnh phải đích thân đến nhà. Cô gái không có nhà mà tiếp Đỉnh là má nàng. Bà trả lại Đỉnh đúng một trăm ngàn tiền cộng hoà. Hai trăm tờ năm trăm đồng có hình con cọp đỏ chói. Bà ta nói trên uỷ ban không cho đổi bởi đăng ký trể.
Đỉnh choáng váng.
Vì rằng. Sau đổi tiền ba cái giấy lộn ấy bọn nhà giàu vất chớ để làm chi. Và chắc chắn là cha má của Thanh Thanh đã trở bàn tay với Đỉnh. Họ đã lấy cái bỏ đi ấy mà trả lại cho chàng. Đỉnh bây giờ không chẩu chàng cũng là chàng ràng chứ không là đại từ rất chi lãng mạn kia nữa. Anh Bằng của Đỉnh đã đích thân hỏi mấy người gọi là bạn trong ban bệ thu đổi tiền, và họ xác nhận cha của Thanh có đổi một trăm ngàn.
Trời ạ. Sao mà tệ rứa Thanh Thanh ơi? Đỉnh hoang mang. Cậu chàng chả biết phải trách ai. Muốn gặp Thanh để hỏi vì sao? Nhưng nàng trốn biệt. Cha má Đỉnh, cả anh Bằng và cô em gái thiếu cái bỉu môi. Trong đôi mắt của tất cả hiện lên câu ca dao bắc thang lên hỏi ông trời…
Đùng một cái như sấm động. Cái tin Thanh Thanh được đưa lên trạm xá thị trấn vì tự tử làm Đỉnh choáng tợn. Đỉnh tin rằng nàng không bội phản. Không bao giờ nàng vì trăm ngàn bạc ấy, chẳng qua cha má nàng mà thôi. Nghĩ vậy nên Đỉnh ba chân bốn cẳng chạy ù lên trạm xá. Trạm xá báo đã chuyển lên tuyến trên tức là bệnh viện huyện rồi. Nguy quá, sao em dại dột thế Thanh Thanh ơi. Anh nào có trách chi em.
Một thằng bạn xách xe đạp chở Đỉnh chạy hộc xì dầu lên huyện.
Ở huyện mọi chuyện đã xong rồi. Kẻ ngu dại được cứu sống.
Ở phòng chờ Đỉnh nghe hai tay bờ lu trắng nói chuyện với nhau:
– Sư cha con quỷ cái. Tự tử bằng Xuyên tâm liên(2) thì có uống cả tạ cũng bằng nhau với không uống.
Tình yêu Đỉnh vỡ cái bụp. Một cuộc chia tay toàn tiếng chửi thề.

NGUYỄN TRÍ

1. Hương gãi háng. Thời trước 75 ông Trần văn Hương giữ chuyên mục gãi háng trên báo Con Ong. Câu chủ của mục là ngồi buồn gãi háng dái lăn tăn
2. Xuyên tâm liên: Một loại thuốc bổ dưỡng tăng lực.

Nỗi buồn trong đôi mắt sâu

nguyentri

Nó chết là quá xá đúng!
Người chết tên Minh, ghê gớm lắm nên dân chơi gọi đại ca. Trong bốn đứa con của vợ chồng Hai Phở thì Minh là út. Nhà giàu nên Minh hư từ bé. Bé bé con con cha mẹ anh chị thương quá mà hư hao chút đỉnh là chuyện thường, xứ ta được mấy nhà vừa giàu vừa có trí tuệ đi kèm để con em không ỷ? Đi học Minh hoang đàng chi địa không trường nào chịu xiết. Cuối cùng bị đuổi khỏi trung tâm giáo dục thường xuyên về tội đánh thầy giáo ngay trong giờ học. Nó la cà với chúng bạn ở vỉa hè xóm chợ. Biết uống rượu năm mười ba tuổi và dính vô ma tuý năm mười bảy. Hai mươi hai tuổi Minh có năm năm vừa cai nghiện vừa tù tội. Với bề dày thành tích cộng thêm được bà mẹ thương kiểu mù mắt nên Minh hoá quỷ.
Vợ chồng Hai Phở đau khổ vì thằng con nầy lắm. Nó phá trời còn chắp tay mà bái. Mười bảy bước qua mười tám, Minh và con ma tuý đã phá của Hai Phở gần nửa gia sản, là ông Hai nói vậy. Không xiết với thằng phá gia, nó lấy của nhà phục vụ cho chính mình nói làm chi, ma tuý mà nó dám đãi bạn bè chơi cho vui thì tiền nào chịu nổi? Mà Minh thì bạn nhiều lắm, trai gái có đủ, đứa nào cũng hít choác ngày đôi ba cử chứ không ít. Ông Hai Phở phải đưa con trai đi cai. Tiền đưa vô trung tâm sáu tháng chục triệu ngoài là nhỏ, tiền thăm nuôi mới lớn, tuần một lần thì giàu cỡ nào cũng đuối. Thôi thì có con phải khổ vì con. Bà Hai nói vậy, nhưng ông Hai văng tục:
– Nó chết là tôi cúng một cặp heo quay chứ một con còn ít lắm.
Vừa ra khỏi trại Minh chơi ma tuý lại ngay. Ở cái nơi nó cai cũng không thiếu. Anh chị em trong nhà bất mãn lắm. Vậy là đứa nào cũng xin ra, có gia đình rồi thì riêng chứ chung chạ làm chi cho rách việc? Lò phở thì con làm với tư cách công nhân cho ba má. Nếu ba má không đồng ý con đi thuê phòng trọ đi làm công ty kiếm sống, người làm kẻ phá như thế nầy chịu sao xiết hả má? Má cưng nó cũng vừa thôi. Cứ cái đà nầy nay mai bọn con cũng cuốn gói đi ăn mày. Vậy là vợ chồng Hai Phở cắt đất ra chia, cho tiền con cất nhà. Tất nhiên cái nhà đang có cái lò sản xuất phở là của Minh. Của Minh, Minh có quyền xài, đúng không?
Anh lấy vợ, hai con chị lấy chồng. Đứa nào có cơ ngơi nấy, lò phở và cái nhà không của Minh thì của ông trời à? Vậy là nhóm bạn bụi đời tôn Minh lên làm anh. Kính cẩn nghiêng mình khi đại ca sai phái. Sau năm năm lấy trại làm nhà, Minh trở về và ông bà Hai có vẻ tin Minh đã bỏ cuộc chơi làm lại đời khi dẫn về nhà một cô gái tên Anh. Cô Anh là con gái của Ba Đạo.
Vợ mất để lại cho Ba Đạo hai đứa con một trái một gái. Thuê mướn suốt một đời Đạo chăm chút cho con. Vậy mà chả hiểu làm sao mới lớp chín thằng Đức bỏ học. Ông cha nghèo khổ có nói cách mấy nó cũng chẳng nghe theo. Thoạt đầu nó đi mua hồ sơ giả xin vô công ty làm công nhân. Ba Đạo đành phải chấp nhận, dù sao nó cũng tự kiếm ra tiền khi chưa đến tuổi thành niên. Khổ cái, ông con làm ra bao nhiêu xài bấy nhiêu nên hư hao sớm, bọn lơn lớn tuổi trong công ty mười hết chín cứ cuối tuần là nhậu nhẹt. Cu Đức cũng ra vẻ dân chơi anh nhậu tui cũng nhậu, anh thuốc lá tui cũng thuốc lá chả sợ thằng pháp nào. Thêm một lần Ba Đạo tự an ủi đàn ông thì tránh sao được.
Nhưng con Anh mới là một nỗi đau tận trái tim ông cha khốn khổ. Mẹ mất nên ông thương nó lắm. Đi học nó chẳng thua một đứa bạn nào, vậy mà mới mười lăm tuổi, Anh đàn đúm theo bè bạn trốn học đi chơi. Nó xinh xắn nên lũ bạn trai o bế lên tận trời. Mới một dúm tuổi nó cặp một thằng. Ngoài đường ngoài sá, giữa ban ngày mà chúng ôm eo ếch như chỗ không người. Là ông Ba chứng kiến tận mắt chứ chẳng ai lê mách gì. Ông lệnh cho Anh về nhà, cha con giằng nhau và con bé bị toạc vai áo. Ba Đạo choáng váng khi mục kích trên vai con gái là một hình xâm xanh đỏ. Giận quá ông cho con gái bạt tai. Nhưng chuyện trốn học và xâm mình là vặt. Ông ghé cái quán xi rô đá bào bên hông trường mới biết thêm vài chuyện:
– Con Anh hả? – Chủ quán nói – nó mà học hành gì ông anh ơi, tôi cũng chả hiểu cha mẹ đâu mà không để ý đến con cái. Nó trốn học thường xuyên, sáng nào cũng ghé đây cùng với một con bạn làm chai xì tinh và hai cái tẩy đá. Lúc đầu tôi tưởng nó hiền, ngờ đâu nó pha rượu vô xì tinh uống cho bốc. Cứ một chai là nửa xị rượu. Nó còn hút thuốc nữa đó ông.
Chủ quán nói đến đâu Ba Đạo rụng rời đến đó. Ông về gác tay lên trán, tìm kế sách sửa sai con gái. Nhưng e chừng giận cha vì một bạt tai ngoài đường chiều ấy nó không về. Đêm cũng biệt tăm. Ông cha nói với con trai chuyện con em uống rượu. Thằng con cười:
– Thời buổi giờ đàn bà con gái đứa nào không uống? Ông làm như thời xưa chỉ đàn ông mới rượu.
Ba Đạo chưa hết hốt hoảng thì cô giáo chủ nhiệm của Anh tìm đến nhà. Trời ơi – ông ôm đầu rên rĩ cùng cô giáo – Cô ơi từ khi nó ra đời má nó ốm đau suốt. Nó bú sữa ngoài nên tôi thương lắm cô ơi. Con Anh năm tuổi bà xã mất tôi ôm hai đứa con khóc thâu ngày thâu đêm…
Cô giáo nghe mà đứt ruột cho ông cha. Nuôi con từ thuở lọt lòng mà nay nó hư hao vậy ai chả buồn? Mà vì sao vậy cô giáo ơi? Ba Đạo hỏi. Nhưng cô giáo biết đâu mà trả lời? Không gian và thời gian của cô là bên trong cổng trường. Còn bên ngoài? Cô cũng có nghe đến những tệ nạn đang rủ rê học trò cô vào tăm tối. Vũ khí của cô chỉ là lời khuyên. Ở cái thời mà người ta nói chuyện với nhau bằng lưỡi dao và mã tấu thì lời khuyên liệu có ích chi?
Một tuần sau con Anh về. Nhìn nó Ba Đạo muốn khóc quá. Nó xơ xác, héo úa lắm. Ông nhìn lên bàn thờ vợ mà chả biết phải làm sao. Đu đưa trên võng suốt đêm trường Ba Đạo nhớ đến những ngày con gái còn thơ dại, nó lẩm đẩm chạy theo cha, nó khóc nó cười nó ốm đau rồi khoẻ mạnh, một mình ông lo toan. Và thế là trong tịch mịch đêm dài nước mắt người cha khốn khổ chảy. Con Anh ngủ vùi cả ngày, tỉnh dậy nó lục cơm ăn rồi đi tiếp. Ba Đạo tím môi nâng chén để quên buồn. Cả hai đứa con chả đứa nào ngó ngàng chi đến cha già. Chúng bay ngoài đường không cho cha một lần gặp để hơn thiệt đúng sai, năm thì mười hoạ chúng có nghe cha nói, nhưng phớt lờ kiểu ông già rồi lẩm cẩm quá thôi.
Ba Đạo thét lên với tối cao cả một càn khôn cay đắng. Ông quỳ xuống xin dâng mình đời đời cho hoả ngục nếu có thể đưa đứa con gái tội nghiệp về lại tay ông. Nhưng Chúa, Phật cả đấng tôi cao đã bỏ ông. May mà có ba giọt rượu nên cũng vơi bớt nỗi sầu khi say. Cứ như vậy ba nhân mạng trong cùng một căn nhà mà là cả ba thế giới tách biệt. Mạnh yếu tự ai nấy biết. Ba Đạo biết con gái tệ lắm trong việc kiếm ra tiền để phục cho chính mình, nó tuy chưa đến cái đận để bị đánh giá là cặn bả nhưng nào có khác chi. Con gái mà nay cặp thằng nầy, mai thằng khác vào nhà nghỉ thì là cái chi trời hỡi?
Một đêm khuya khoắt kia con Anh về. Ba Đạo đang đu đưa trên võng, có tí hơi men vào buổi chiều nên cha già cáu kỉnh:
– Mày vẫn còn nhớ đây là nhà của mày à?
– Chớ tui làm cái gì mà ông khó với tui vậy?
– Mày làm cái gì thì tự biết lấy. Con gái mà nay thằng nầy mai thằng khác, lấy nhà nghỉ làm nhà mình là cái giống gì mày nói tao nghe?
– Ông đừng lo cho tui, ông lo cho thằng Đức kìa.
Thật là hết nước mắt để khóc, con cái ông tui với cha, kêu anh bằng thằng. Ba Đạo thở một hơi não nuột buồn:
– Ít nhiều cha cũng cho con đi học mà ông tui với cha con ngó được sao con? Mày nói tao lo cho thằng Đức là lo làm sao?
– Nó bỏ công ty cả tháng nay rồi ba biết không?
– Sao vậy?
– Ba kêu nó về mà hỏi. Quan trọng là bây giờ nó làm lính cho thằng Minh.
– Minh nào?
– Út Minh con Hai Phở.
– Đi làm mướn trong lò phở hả?
– Được vậy là may. Thằng Minh chơi xì ke, ba nghĩ coi ông Đức nhà mình theo nó thì ra làm sao?
Ba Đạo nghe mà điếng người, tỉnh rượu ngay tức khắc. Cả thế giới nầy ai chả biết đến hiểm hoạ của ma tuý. Cái xứ mà Ba Đạo đang sống bọn nghiện làm đủ thứ trời ơi từ trộm cắp đến cướp của giết người. Thằng Đức ăn trúng cái giống gì mà đần ngu vậy kìa? Nhưng may cho Ba Đạo, một may mắn đầy đau đớn. Vài ngày sau cả cái ổ của Minh bị công an bài trừ tệ nạn hốt, trong đó có thằng Đức. Vậy là thằng con bị bắt đi trung tâm hai mươi bốn tháng.
Trong hai mươi bốn tháng ấy Ba Đạo đi thăm được hai lần. Già rồi, sức khoẻ kém. Đạo làm nuôi thân còn tàm tạm, con Anh đâu có làm chi nên phải gánh luôn. Nếu chỉ cơm ăn và nước uống thì chả nói làm gì, đằng nầy con bé còn rượu và thuốc lá. Nhìn đứa con gái chếnh choáng hơi men miệng phì phèo thuốc lá Ba Đạo muốn tự sát. Ông đưa mắt nhìn về nơi thằng con đang cai nghiện thêm một lần muốn chết cho rồi. Nhưng giật mình khi nghĩ đến cha chết rồi các con sẽ ra sao? Sau hai năm thằng Đức về, nó có vẻ biết hối cải. Thế giới của cai nghiện tất nhiên đâu có ấm bằng gia đình. Nó ghé vào làm thuê cho cơ sở gia công cửa sắt. Mười hai tháng sau Đức thành thợ thì Minh cũng mãn hạn tù về tội tham gia cướp.
Ba Đạo nghe con gái cặp kè với Minh là rùng mình. Ngay tức khắc kêu con trai đến để bàn chuyện. Đức thân chinh đến gặp Minh. Chả hiểu làm sao mà sau đó Đức bỏ luôn thợ cửa sắt theo Minh làm long tong. Ông Đạo hỏi con trai bằng cái giọng não nùng tuyệt vọng:
– Con không làm lại cuộc đời sao Đức? Thằng Minh con nhà giàu mày theo sao kịp? Rồi tương lai mày và con Anh ra làm sao?
– Ba yên tâm đi – Đức nói đầy tự tin – Nếu đã chơi con chơi lại lâu rồi. Con còn phải lấy vợ có con nũa chớ ba. Con làm mướn trong lò phở có ăn hơn bên cửa sắt. Thằng Minh bây giờ cũng làm lại rồi ba ơi. Không tin con đi test về cho ba coi.
Ba Đạo bán tín bán nghi. Vì nghi nên phải tìm hiểu cho ra ngọn ra ngành. Quả là thằng Minh đàng hoàng thiệt chứ không chơi. Nó đến nhà ra mắt cứ như rể thiệt thọ. Đem rượu đến tạc thù cùng ông, con Anh làm mồi nhậu lâu lâu cũng ghé làm một ly. Minh không có biểu hiện của kẻ nghiện. Nó ngồi cho đến tàn cuộc nhậu rồi lăn ra ngủ. Ngủ cho đến chiều rồi về. Tỉnh queo. Người nghiện thì không vậy, thằng Đức một thời gian nghiện ngập nên Ba Đạo quá xá rành. Ông khấp khởi mừng. Nhưng khấp khởi hoá khấp khểnh ngay tức khắc.
Mọi chuyện đổ vỡ ra khi hôm ấy ông Đạo bỏ dỡ buổi làm đột ngột trở về vì bị cảm sốt. Ông mục kích cả ba Minh, Anh và Đức đang ngồi bên một bộ đồ chơi trông giống như một điếu bát thuốc lào nhưng toàn bằng thuỷ tinh. Con Anh đang ngậm cái dọc tẩu và ra sức kéo. Lúc đầu ông Đạo cứ tưởng chúng kéo thuốc lào cho vui, ngờ đâu cả bọn đang chơi đá.
Sau một năm tù Minh ranh như một con ma. Đúng là nó không chích choác nữa mà chìm vào đập đá. Thoạt tiên ba Đạo không biết đá là cái chi nhưng sau đó con ông đã đưa Minh về nhà, chúng che buồng thật kín đáo rồi phân hàng để bán lại cho tay chơi. Minh vừa bán đá vừa bán cả đồ nghề để sử dụng. Nó nằm trong phòng riêng nghe điện thoại. Đức và Anh có bổn phận giao hàng cho Minh. Chúng ở nhà ông một tuần rồi di chuyển đi nơi khác, rồi từ phòng trọ nầy chúng đến nhà trọ khác. Ba Đạo hiểu chúng luôn di dộng để tránh tai mắt của bài trừ tệ nạn.
Ông cha tội nghiệp hỏi con trai:
– Mày không sợ bị bắt đi trại lần nữa sao con?
– Ông đừng lo cho tui, con lâu tui mới bị đi lần nữa.
– Mày là thánh hả?
– Ba cái hàng nầy chỉ hít chớ đâu có choác. Mà không choác thì đâu có trong máu mà test cho ra. Máu không có ma tuý thì ai dám bắt? Ông yên tâm đi. Mà ông tưởng tui có tiền để chơi thứ nầy hả? Nó đắt gấp bốn lần ma tuý ba ơi. Riêng cái ống thuỷ tinh dùng để kéo là cả trăm ngàn chứ không ít, mà nó bể liên tục.
– ….
– Tui đang cố theo thằng Minh để học thổi cho ra ống hít. Cái ống đó chỉ hai ngàn bạc, nhưng nếu thổi cho ra thành phẩm là trăm ngàn.
Đức nói như một thằng say. Mà đúng là nó đang say khói của đá:
– Dùng đèn khò xài gaz đốt cái ống thuỷ tinh cho mềm rồi thổi cho ra một cái bầu bằng ngón tay cái, quan trọng là cái bầu đó phải có một cái lỗ để tiêm đá vào đó. Kỹ thuật nầy ở xứ nầy chỉ duy nhất thằng Minh làm được, nó đang truyền nghề cho tui. Ông nghĩ coi một bình ga tám ngàn ống thuỷ tinh thô hai ngàn là mười. một bình gaz ông có thể thổi ra chục cái ống hít. Lời khẳm chế độ luôn.
– ???
– Ba biết sao mà nó luôn bị bể không? Khà khà …khi hít xong là phải lấy ống ra khỏi bình cất kỹ dành cho lần hít sau, nhưng lúc đó phê quá nên cầm đâu có chắc, hơ hỏng rớt một cái là tong liền, ông ba hiểu không? Tui mà thành cái vụ thổi nầy là không lo đá cho cả con Anh luôn.
– Trời ơi là trời – Ba Đạo than – Sao mầy nở để em mầy sa địa ngục vậy Đức?
– Ông quan trọng hoá vấn đề quá đó ông ba, thứ nầy có thì chơi cho vui, không có thì thôi chớ đâu có vã như ken mà ông lo.
Khi say thì chả bí mật nào không được phơi ra:
– Có ba loại. Ba mươi, bảy mươi và kim cương. Ba mươi rẻ nhất thì bốn trăm ngàn một chỉ. Bảy mươi thì một triệu. Kim cương thì đại gia mới chơi nổi.
Ba Đạo đưa mắt nhìn thằng con thao thao bất tuyệt:
– Ba mươi là đá xô pha trộn đủ thứ ba láp chỉ có ba mươi phần trăm thuốc. Ông phê thì nó lâu tới đỉnh và mau hoai. Còn bảy mươi thì kéo một cái là tới chỉ liền. Để tui nói ông nghe. Ma tuý không phê bằng mà lại mau hoai lắm. Đá kéo dài sự mê đắm gấp năm lần hơn. Tất nhiên là đắt lắm. Ba bốn thằng hùn vô lấy một chỉ rồi chia đều ra kéo. Nó sướng gấp ba lần hàng trắng và phê lâu hơn cũng chừng đó lần. Ông ba biết không mua bán thứ nầy lời ác liệt lắm. Tui thí dụ mấy thằng mới chơi lần đầu đâu biết khỉ mẹ gì, hàng ba mươi thằng Minh chặt giá bảy mươi. Gặp mấy thằng nhà giàu, một nửa bảy mươi trộn với nửa kim cương là ngon ăn nhứt. Tui mà có tiền tui chơi như thằng Minh là lên luôn ông ba ơi.
Ba Đạo nghe mà thở dài cho đứa con đã bị ma tuý ám cho hết cả hồn người. Ông nhìn thấy thần chết đang réo gọi tên con mà không biết phải làm sao để cứu. Cuối cùng ông theo hạ sách là đến thẳng phòng bài trừ tệ nạn huyện để báo về hành vi của hai đứa con. Làm cha mà đi tố cáo con mình thì cũng bất nhẫn, có thể chúng sẽ hận ông, nhưng Ba Đạo còn lối nào để bước? Ông phải cứu hai đứa con thoát khỏi cái chết được báo trước, bằng không ông ăn làm làm sao nói làm sao với bà vợ đã chết? Nghe đâu người ta sẽ gặp lại nhau ở thế giới bên kia.
***
Ông trình bày hết lẽ. Nhưng:
– Chú biết không – Cán bộ nói – chúng tôi biết hết mọi điều thằng Minh làm. Nhưng ông nghĩ coi, nó lên xe buýt rồi dạo chơi ở Sài gòn cho đến nửa đêm mới đến chỗ lấy hàng. Nó giao tiền và bọn giao hàng sẽ giao cho nó ở xứ mình đây. Mỗi lần giao tụi nó đi cả vài chiếc phân khối lớn, trong năm chiếc chỉ một chiếc có hàng. Ta biết chắc chiếc có hàng cũng không bắt được vì bọn đi theo ngáng đường cho đồng bọn tẩu thoát. Ở đây thằng Minh phân hàng trong nghĩa địa, mỗi một bộ hạ của nó chỉ được nhận lần năm phân, nửa chỉ để giao cho khách, hàng trong lòng tay, có động nó quăng mất lần sao cho ra mà quả tang hả chú?
Người nghiện – chú biết đó – khi thiếu thuốc chúng có thể làm mọi việc, kể cả tội ác chỉ để phục vụ cho cơn đói nhất thời. Hành vi như thằng Minh là có tội, vì nó mê hoặc mấy đứa mới lớn sa vô cám dỗ để phục vụ cho lợi ích của nó. Con chú cũng là một nạn nhân. Sau năm năm hết cai nghiện rồi tù tội thằng Minh rút ra rất nhiều kinh nghiệm để đối phó. Phải có quả tang mới bắt được chú à, còn kêu nó lên test máu để xác định thì đập đá chỉ đưa khói vào não, huỷ diệt não chứ trong máu đâu có để làm hồ sơ đưa đi cai hả chú? Và biết là nó có tội, tội nặng luôn nhưng chỉ có thể đưa đi chữa bệnh như là một nạn nhân chứ đâu phải tội phạm mà đưa ra toà kết án. Chú cứ về đi, tất cả đều đã vào tầm ngắm của bài trừ tệ nạn, đâu thể để bọn nầy ung dung làm hại xã hội được chú.
Hai ngày sau Minh và Anh bị truy đuổi. Trên chiếc “ẹc” 125 phân khối Minh chạy như điên. Nhưng nó bị chận lại từ bốn phía, cùng đường Minh dừng xe bỏ chạy vào nghĩa địa. Nó để con Anh lại hiện trường. Trong xách tay đeo trên vai Anh khai nửa ký ma tuý đá là của Minh. Minh bốc hơi mất dạng, ông bà Hai Phở cũng không biết đâu mà lần. Anh bị tạm giam ở điều tra xét hỏi huyện. Nguyên cái ổ của Minh xáo xác như gà mất mẹ. Thằng Đức không có đá để đập nên làm một tép hê rô in cho thoả cơn ghiền.
Nó tiêm một phát vô tĩnh mạch. Chỉ một mình trong nghĩa địa lại chơi trúng hàng bị pha chế nên sốc.
Mà sốc thì phải chết.

***
Sáng ấy Minh ghé nhà Ba Đạo. Cả xóm nầy ai cũng xem Minh là kẻ cần loại ra khỏi cộng đồng xã hội. Vì sao? Vì hầu hết bọn mới lớn đứa nào cũng bị Minh cho vào tròng sa đoạ, ba trên mười hộ đều có con em là nạn nhân của Minh. Bảy hộ còn lại sợ một ngày nào đó sẽ đến lượt nên vừa thấy Minh xuất hiện là họ mở ngay di động.
Nhưng khi cơ động đến thì Minh đã chết. Ba Đạo đã thọc một ngọn dao thái vào ngay ngực trái thằng khốn. Minh ôm ngực lảo đảo ngã xuống còn Ba Đạo thì tiếp tục ngồi xuống võng. Mắt vô hồn nhìn vào khoảng trống của hư vô. Thiên hạ bu vòng quanh để xem kẻ giết và người chết. Vợ chồng Hai Phở và anh chị em của Minh cũng có mặt nhưng chả ai có một giọt sầu bi cho nó. Có lẽ họ quá mệt mỏi về thằng con hư hỏng. Ngay cả bà mẹ rứt ruột đẻ ra mà mặt cũng trơ như đá tảng.
Minh đúng có tội. Lớn tội chứ không đùa. Ai cũng cho rằng chết là đáng lắm. Nhưng anh là ai? Là cái gì mà dám phản xử người khác? Thằng Minh đâu phải là kẻ cướp, nó đâu có đánh người gây thương tích trầm trọng. Nó chỉ là nạn nhân của ma tuý, nó bán để kiếm dư mà lo cho bản thân mình. Những thằng theo đuôi gọi nó là anh, giao hàng cho nó là tự nguyện hay bị buộc? Ai nói nó dụ dỗ bầy trẻ vào sa đoạ? Bằng chứng đâu cứ trưng ra? Và cuối cùng chuyện phán xử và trừng phạt một con người không phải của các anh. Nó thuộc về pháp luật.
Tất cả đều tiếc cho Ba Đạo. Rồi đây ông cha tội nghiệp sẽ phải tù vì tội giết người. Đúng rồi. Giết người là vi phạm pháp luật, anh sẽ bị cách ly khỏi cộng đồng xã hội, sẽ bị trừng phạt để làm gương cho kẻ khác.
Thiên hạ đứng bên lề nhìn Ba Đạo bị bắt lên đặc chủng. Xúm xít khi Minh được đưa lên hồng thập tự về bệnh viện để khám nghiệm tử thi. Khi quay lại nhìn nhà mình lần cuối đôi mắt Ba Đạo trìu trịu một nổi buồn sâu thẳm.
Nguyễn Trí

Lương tâm hay lương tháng tao cũng cóc cần

nguyentri

Tên của nàng là Thuý, tuổi con mèo. Đặc biệt yêu màu đen. Từ áo quần giày dép mũ nón bao tay tuốt tuồn tuột một mầu huyền hoặc. Giang hồ gọi Hắc Thuý Miêu. Thuý đẹp lắm. Đẹp từ tóc tai môi má đến dáng người và ăn nói cực kỳ duyên. Theo đuổi Thuý toàn con nhà danh gia vọng tộc. Vậy mà tiên sư bố cái ông tơ bà nguyệt, sư cha cái tình yêu vô bổ. Nàng lại say đắm một anh đã không đẹp thì chớ còn làm việc trong trại hòm Ngũ Hành với chức năng thợ mộc. Giang hồ nghe qua mà tiếc hùi hụi. Chả hiểu thằng thợ mộc kia có ngón chi mà đạp đổ được một nhan sắc tầm cỡ thành trì. Bố mẹ anh chị em nhà nàng cực lực phản đối. Chả nói chả rằng Hắc Thuý Miêu cuốn áo cuốn quần đến trại hòm anh làm việc ở luôn mới gọi là tình yêu đích thực. Anh khố rách đến độ nhà chỉ là cái cấp bốn không tô kề bên trại hòm. Thêm một lần thiên hạ chửi sư bố cái tình yêu.
Ai cũng tưởng – nhất là gia đình Thuý – đời cô xem như thúi hẻo và bao nhiêu hy vọng về một nhan sắc có thể kéo cái gia đình nghèo tú mú tù mù ra khỏi kiếp khoai lang củ mì là kết thúc. Có ai ngờ chỉ sau một năm Cô Thuý xinh đẹp đập cái nhà cấp bốn không tô của chồng để lên một căn bề thế không kém ai trên ta bà hẻm nhỏ. Gia đình ruột của cô cũng hưởng sái cực ngon lành. Anh em trai nhà Hắc Thuý Miêu gọi Lãm- chồng Thuý – là sự phụ trong nghề cưa đục bào xẻ. Họ tham gia thi công làm hòm và ai cũng có chân trong ban đạo tỳ của trại. Đại khái là, nếu có đám tang thì họ cùng nhau o í e đờn ca sáo thổi, không đám thì nhào vô đóng hòm. Không có rể làm thuê của trại hòm thì dễ chi nhà cô thoát đói.
Cũng tình thiệt mà nói không có cô Thuý e là trại hòm Ngũ Hành bán xới mà kiếm nghiệp khác làm ăn. Chả là ông bà chủ Ngũ Hành tranh không lại đồng nghiệp. Bên trại Bát Quái những ba xe rồng ngày nào cũng đưa ra nghĩa địa hai ba nhân mạng về đất mẹ. Thân nhân người chết không phải thích Bát Quái ở chỗ đạo tỳ chơi nhạc lã lướt, thầy tụng ê a rất mê ly âm phủ, hay hòm hiếc ở Bát Quái tốt hơn Ngũ Hành. Ở xứ sở nầy rừng đâu có mà ra gỗ quý, tựu trung cũng chỉ ba cây bạch đàn hoặc tràm bông vàng là hết phép. Gỗ lạt thì xẻ ra mặt hai mươi là lớn, muốn năm mươi thì thợ mộc ra tay. Cái hòm nào cũng nhờ sự bóng loáng của vẹc ni để lừa nhân thế. Tất cả đều bằng nhau mà Bát Quái làm ăn được hơn Ngũ Hành là nhờ vào kiểu làm ăn đầu trâu mặt ngựa.
Có trong nghiệp nầy mới biết nghe, lơ mơ là bó tay chấm com. Bất kỳ một cái chết nào từ chết đường chết chợ chết xe cán chết bệnh vân vân và vân vân miễn cái chết ấy có thân nhân là không lọt tay Bát Quái. Người của Bát Quái đến ngay chỗ người chết và xem như cái chết ấy phải nằm trong hòm của họ. Thân nhân người chết phải nhất nhất nghe theo bọn ôn dịch nầy, không nghe nó quậy cho người sống điêu đứng luôn. Chúng còn dám mò đến tận nhà xác để dành nữa đó. Kỳ đó một người quen với Ngũ Hành có người thân bị chết ở bệnh viện. Ngũ Hành nói chỉ cần đưa cái xác về là Ngũ Hành kính tặng một cổ áo. Vậy mà cũng không được với Bát Quái. Người của quái nói rằng có cho thì quy ra tiền mà cho, còn cái xác nầy là của họ. Nghe mà tức ói mật ói gan. Nhưng ở cái thời quỷ lộng hành, ma quái lên làm cha, dân lương thiện phải im mẹ cho rồi. Kiện cáo lôi thôi đang đêm nó cho một cây vô đầu, chết chả nói làm chi, lỡ man man ai chịu? Mà với chính quyền thì có đơn kiện mới thụ lý, không nói thì ai biết đâu mà lần? Vậy nên Bát Quái ngày một lớn mạnh. Nghe đâu trong cái mớ chuyên đi lùng người chết để báo cho Bát Quái kiếm tiền xài vặt có thằng ghiền xi ke bị nhiễm hát có ết. Lơ mơ nó cho một mũi kim thì đời mình đi đứt. Thôi thì chết thì phải chôn, mà ai chôn thì cũng vậy.
Vậy mà tất cả xếp giáo trước Hắc Thuý Miêu thì quả là thần khấp quỷ khấp. Cứ Bát Quái làm sao thì chị Thuý làm vậy, có điều chị ra tay mạnh hơn. Với đôi mắt tinh đời và trí lự hơn người, nhìn qua Thuý biết bọn Bát Quái là một lũ bá đạo. Một cái hòm thành phẩm năm triệu là hết phép, vậy mà chúng tính hai chục chưa kể đạo tỳ, thầy tụng và xe rồng đưa đón. Hai mươi triệu là loại hàng chót bẹt dành cho nhà nghèo, còn dân có của thì ba chục triệu đi lên. Lời quá xá nên bất kỳ ai phôn cho Bát Quái một cái chết ở bất kỳ đâu là kẻ đó có trăm ngàn xài chơi đỡ buồn. Sau đó có ba anh thứ thiệt xì kè phi phân khối lớn đến canh cái xác. Đến nước đó thì ông cố nội ai dám vô tranh. Cả người nhà cũng chịu sầu. Dây với hủi còn có tình hơn dây với xì cọc hỡi người ơi.
Nhưng chị Thuý bản lĩnh lắm. Vì yêu chị dám bỏ cha bỏ mẹ bỏ anh em cuốn gói theo tình thì vừa chi? Chị suy tư và chờ cơ hội. Và cơ hội đến. Hôm đó một bà dì trong xóm ra đi ở bệnh viện. Nhà cũng hẻo nên họ sợ Bát Quái chặt đẹp. Hắc Thuý Miêu liền thân chinh đi đem xác về, tất nhiên bọn Bát Quái đã có mặt tại nhà xác. Chỉ cần người nhà đến là chúng sẽ thực thi nhiệm vụ. Nhìn Thuý Miêu đẹp, cằm chẻ môi trái tim má lúm đồng tiền thì ai cũng tin em hiền như ma sơ. Tóc dài ngang vai nữa mới là nên thơ. Một thằng ghẹo:
– Em đẹp quá em gái.
– Em cái bà nội mày. Cà chớn tao cho ăn guốc vô đầu bây giờ.
Văng tục liền:
– Cái con này… hổn mậy?
Trên tay Hắc Thuý Miêu xuất hiện chiếc guốc gót nhọn và gõ một cái cóc vô đầu thằng du côn. Mô Phật, nói láo cho bà bắn, máu xịt có vòi chứ chảy thì còn nhẹ lắm. Chị cầm chiếc guốc ngạo nghể nhìn hai thằng còn lại;
– Người chết là bà con của tao thằng nào dám lấy xác tao cho thằng đó ăn dao.
Ngay lập tức tay chị lo le thêm lưỡi dao Thái:
– Mày không yên với tao đâu. – Một trong hai thằng doạ.- Tao sẽ đến nhà mày xin miếng thịt làm mồi nhậu. Tao ăn luôn thịt người đó con đĩ.
– Khỏi. Tao đi với mày ngay bây giờ.
Sau đó chị lịnh cho người nhà vô nhận xác. Còn chị phi chiếc 78 cà là mèng đến trạm xăng mua một bình hai lít. Mười phút sau chị có mặt tại trại hòm Bát Quái:
– Ông Quới bà Bát đâu ra nói chuyện tí coi.
Thì ra chủ trại nầy chồng tên Quới vợ tên Bát nên ra Bát Quái chứ chẳng tàu phù chi:
– Có chuyện gì không cô?
– Thằng lính ông đòi làm thịt tôi thì chớ còn gọi tôi là con đĩ. Ông không biểu nó xin lỗi tôi đốt cái trại của ông ngay hôm nay. Con này nói là làm. Cùng lắm tù chục năm về tội đốt nhà là cùng. Sau tù là cả ba họ nhà ông tui cũng trảm.
Chủ trại xuống nước. Đời có câu tránh voi chả xấu mặt nào, cương lên nó quê độ đốt thiệt là chết ông bà cố tổ mình luôn:
– Thôi thì cô cho tôi xin lỗi…
– Ông đáng cha tôi, có lỗi gì mà xin? Thằng kêu tôi là đĩ phải xin lỗi.
Bị lâm thế triệt buộc giang hồ trại hòm phải cúi mặt. Nhận xin lỗi xong chị phán:
– Bắt đầu từ bữa nay thấy mặt tao là tụi mày biến gấp. Cà chớn có thứ thiệt xử tụi mày.
Lần đầu tiên giang hồ tuy vặt nhưng mặt cũng có máu gặp một nữ lưu không biết chết là chi, chúng vờ hèn cho qua chuyện. Âm mưu sẽ cho chị biết tay khi có cơ hội, nhưng chị luận việc nhanh như thần. Kết thân ngay với một thằng từng vào tù về tội chém người. Thằng này tự nguyện làm vệ sĩ không lương cho chị. Lý do nó là đệ tử ruột của anh chồng thợ mộc. Thì ra chồng chị cũng một thứ thiên lôi đả không chết. Dưới trướng thằng đệ nầy có mười ôn dịch dạng xem trời chỉ một phần tư hạt tiêu. Chúng nói với chị rằng thích xử ai cứ nói. Chiêu thức nầy làm rung động trại Bát Quái. Ông Quới phải đích thân đến gặp trại chủ Ngũ Hành thương lượng địa bàn hoạt động. Từ a đến m là của Bát Quái, từ n đến z là của Ngũ Hành. Ông bà Ngũ kêu con vợ thằng thợ mộc lên nói chuyện phải quấy, bởi ông bà thật thà như đếm… lộn, nào có biết chi.
Hắc Thuý Miêu thi triển tinh thần vô độc bất trượng phu. Ông bà chủ Ngũ Hành giao cho chị toàn quyền định giá với khách hàng. Ông bà chỉ lấy như vậy, dôi ra Thuý hưởng. Chỉ hai năm sau ngày lấy chồng Thuý chạy mẹc xê đì màu đen vi vu trên mọi nẻo đường. Cô qua mặt Bát Quái khoản quen biết lớn. Có một ông kia con bị đưa vô nhà xác lúc mười giờ đêm. Vì bị giết nên phải chờ pháp y đến khám nghiệm tử thi mới được đem xác về. Hắc Thuý Miêu phôn một cú. Uy đến độ mà hai giờ sáng pháp y tỉnh phải đánh xe vào. Xong việc ông kia phải è cổ ra trả riêng cái hòm cho con là hai chục triệu, ba cái nhạc nhẽo và tụng tiếc chục ngoài nữa. Ông cha bất hạnh và nghèo túng văng tục:
– Tao nói thiệt con quỷ cái nầy ác hơn cả Tào Thị, nó còn gấp hai lần bọn bên Bát Quái. Trời không dung nó đâu.
Nhưng làm chi có trời. Bằng chứng là chị Thuý cũng như cha má chị lên như diều. Tha nhân chửi đến đá còn chảy nước mắt nếu có trời ổng đã phạt nặng chị rồi. Đó mới là phần của hàng họ hòm hiếc, vụ làm mả chị kiếm cũng bộn. Con ai đó bị xe đụng chết, sau khi nằm yên dưới đất chị môi giới luôn vụ mả, từ hoa cương đến gạch men. Mấy thằng làm dịch vụ nầy muốn có đơn hàng phải nhờ chị. Chao ơi khi thời vịn tiền sao mà vô như nước. Hắc Linh Miêu như một bà hoàng xứ cà ry cay vậy. Lòng tham của con người quả vô độ. Không cái chi trong chết chóc Thuý không ra tay. Giàu nghèo sang hèn chị không cần biết, vì trước cái chết mọi người đều bình đẳng. Có thật là vậy không?
Chắc là không, vì những người giầu va vô tay chị thì còn cho qua chứ nghèo thì hận lắm. Vì nghèo nên thấp cổ bé họng, kêu đâu cũng không đến. Kêu còn bị nó cho ăn cù loi nữa kìa. Nên tức thì tức vậy chứ dám làm chi. Và Thuý khoái nhất ăn của bọn nghèo. Nghèo luôn sợ quyền lực của chính phái lẫn tà đạo. Mấy thằng có tí chữ nghĩa còn dám cãi chính phái chứ sợ tà đạo hơn cọp. Nói bi nhiêu chúng chi bí nhiêu. Bọn giàu thì luôn đi chơi với quan quyền. Ăn của chúng đâu có ngon, chúng méc với anh hai anh ba chi đó thì mình cũng mệt. Nên chi Hắc Thuý Miêu nghe nói thằng tàn hoặc con tạ con nhà ông khố rách kia hay bà áo ôm nọ là chị có mặt trên từng cây số liền.
Vậy mà một hôm kia Hắc Linh Miêu ngoảnh mặt với một cái chết vì giao thông.
Bên Bát Quái cũng vậy.
***
Người chết ở khu nghĩa địa. Nghèo đến hẻo luôn. Với người khác thì Hắc Linh Miêu không bỏ qua. Nhưng dân nghĩa địa rành sáu câu và ba mươi hai bản nhỏ giá cả từ hàng họ đến tụng tiếc thì nuốt của chúng không vô. Mà đã ăn không vô thì giao cho hội Bảo thọ của xã muốn làm chi thì làm. Những cái chết bị xe tô phải hay trái không cần biết, nhà xe phải lo chôn cất cho mồ yên mả đẹp mới mong bên bị nạn làm cho cái bãi nại mà bớt được chút đỉnh trước toà. Mấy vụ nầy chủ trại hòm muốn hét giá bao nhiêu cũng qua. Khốn thay cho kẻ thọ nạn. Nửa đêm đi nhậu băng qua đường xe tô một phát nó chạy luôn. Chả có ai chứng kiến để biết là hai hay bốn bánh nữa mới là bí mật. Thân nhân người bị nạn khóc hết nước mắt đành lôi về lo hậu sự. Hội bảo thọ cho cái hàng cây da sơn màu đỏ. Trù trì Bảo Long Cổ Tự cùng tăng ni đến tụng từ thiện cho hương hồn người chết về tây phương Phật. Nói cho ngay cả hai Ngũ hành và Bát Quái cũng cho người đến thắp nén hương và cúng mỗi bên một phong bao một trăm ngàn.
Thiên hạ lắc đầu cho cái vô cảm của con người.
Ngày thứ tư sau lễ mở cửa mả. Cả nhà người chết chả biết moi đâu ra tiền để làm cái lễ thất nhật cho vong linh người chết đỡ tủi thì đùng một cái như sấm động. Người thân kẻ gây tai nạn mò đến xóm nghĩa địa và hỏi thăm nhà người chết.
Mẹ của tài xế kể rằng tô xong anh ta bỏ chạy luôn. Và vô cùng mừng rỡ khi chả ai biết gì về cú đâm xe định mệnh ấy. Nhưng khốn thay suốt cả ba hôm nay anh ta bất an. Gia đình và bè bạn nói kiểu gì cũng không nguôi nổi ám ảnh và tiếng động của xe khi va vô người. Cái xác của kẻ bị nạn phủ ngập tâm hồn khiến anh ta không ngủ được. Sáng nay tài xế quyết định ra đầu thú và yêu cầu gia đình đến để giải quyết hậu hoạn.
Nhưng có cái gì đâu mà giải quyết. Hàng họ thì của cho. Đám thì ba cái bánh ngọt vài can rượu đế chả đáng là bao. Thân nhân người gây tai nạn ngõ ý muốn xây một ngôi mộ có mái vòm yên ủi người chết để người gây tai nạn bớt cắn rứt lương tâm.
Bầy em của Hắc Thuý Miêu đánh hơi ra vị tiền liền thoại cho chị.
Hắc Thuý Miêu chốt giá một ngôi mộ đá hoa cương có mái vòm là năm mươi triệu.
Ta bà nói thẳng:
– Bà sống có lương tâm chút coi bà Thuý.
Hắc Linh Miêu hát một câu trong tuồng cải lương:
– Lương tâm hay lương tháng, tao cũng cóc cần…
Nguyễn Trí