Nước Mắt Trước Cơn Mưa, Nguyễn Sơn

Sai-gon-sau-30-4-1975 (9)

NGUYỄN SƠN

(Lính Miền Bắc)

“Khi cùng thì phải cố”

Năm mười chín tuổi tôi xâm lên cánh tay mấy chữ: “Sinh Bắc Tử Nam”. Lúc ấy tôi đang đi học. Xâm tay rồi, lại đổi ý, chẳng muốn chết ở miền Nam nữa. Đến lúc phải nhập ngũ, tôi tìm đủ cách để lẩn trốn. Tôi kéo dài cho đến khi chiến trận miền Nam đã xong. Đến 1977 mới phải nhập ngũ. Cuối cùng vào bộ đội là vì bắt buộc thôi.

Khi xâm tay thì tôi ở Hà Nội, năm 1972 , đang học lớp 10. Năm ấy chiến tranh căng thẳng hơn, nhà trường đã sơ tán ra ngoại ô Hà Nội. Tôi ở lại Hà Nội, không đi theo nhà trường. Tôi đã ở Hà Nội suốt thời gian Hà Nội bị đánh bom vào mùa Giáng Sinh 1972.

Cứ như tôi nhớ, tàu bay đã bỏ bom từ 15 đến 27 tháng Chạp. Trước ngày 15 khắp chung quanh ngoại ô Hà Nội đã bị bom, rồi từ 15 đến 27, chính Hà Nội cũng đã bị born đánh xuống.

Đầu tiên họ đánh Đài phát thanh. Sau khi Đài phát thanh trúng, họ dội khắp nơi, cả nội lẫn ngoại thành Hà Nội. Khu An Dương là khu đầu tiên bị nặng nhất. Trên căn bản, họ chỉ đánh bom Hà Nội ban đêm, cho nên ban đêm tôi chả thấy gì ngoài lửa chớp. Nhưng nhớ cũng có lần vào sáng sớm, tôi đã thấy tận mắt tàu bay dội bom. Một lần nữa vào đêm 24 tảng sáng 25, tôi thấy một chiếc B-52 đánh xuống khu Khâm Thiên. Một bệnh viện trúng bom, đấy là bệnh viện Bạch Mai.

Chúng tôi chẳng sợ nếu nhỡ bị Mỹ giết. Tôi nghĩ “Số chết thì phải chết”, nhưng tất nhiên chúng tôi tránh xa các mục tiêu quan hệ, nhiều người đã sơ tán khỏi thành phố. Thế mà cũng khối người đã chết.

Ông cần phải biết lúc ban đầu, trong năm 1964 dân miền Bắc rất sợ chiến tranh, sợ tàu bay Mỹ. Nhưng chiến tranh cứ tiếp diễn mãi thì người ta phải dầy dạn hơn. Họ hết sợ bom, họ không rụt rè nữa. Thay vì sợ sệt, ho muốn chấm dứt bọn bỏ bom.

– Chúng tôi không hề được chính phủ giải thích gì về chuyện bỏ bom cả.

– Tôi chả suy nghĩ sâu xa gì về chuyện bỏ bom. Tôi có thấy mấy phi công Mỹ được điệu đi diễn hành quanh Hà Nội, nhưng đấy là năm 1967 chứ không phải sau này. Nhà tôi gần nhà máy điện, vì nhà máy điện cung cấp điện cho cả thành phố Hà Nội, đã hóa thành mục tiêu trọng điểm trong các vụ đánh bom, nên tôi có thấy phi công Mỹ bị hạ, bị bắt làm tù binh, bị đưa đi diễn hành. Dân không được phép đến gần nói chuyện với tù binh. Tôi chỉ nhìn họ từ xa. Tôi chả biết gì về họ, nhưng tôi cũng tự hỏi tại sao lại dội bom chúng tôi Tiếp tục đọc

Nước Mắt Trước Cơn Mưa, Nguyễn Ngọc Bích

VTT-ZZJAN13.-23-NNBICH

NGUYỄN NGỌC BÍCH

(Quyền Viện Trưởng Đại Học Cửu Long)

“Khủng khiếp hơn địa ngục”

Bấy giờ tôi là quyền Viện Trưởng Đại học Cửu Long, Sài Gòn. Viện Đại học này mới được ba tuổi, có khoảng sáu trăm sinh viên.

Mọi người bấy giờ đều tin tưởng vào sự hỗ trợ của Mỹ đối với việt Nam. Người ta tin sự hiện diện của Mỹ là một sự hiện diện bền bỉ lâu dài. Không ai có thể nghĩ đến việc một ngày kia người Mỹ rũ áo ra đi.

Câu chuyện của tôi có chút đỉnh đóng góp ở đây bởi vì tôi là người đã ở trong những phái đoàn cuối cùng đến Hoa Kỳ. Chỉ có hai chúng tôi lúc ấy là Gregory Hưng và tôi biết tình thế đã đến hồi tuyệt vọng. Bấy giờ 19 tháng Tư, lúc chung cuộc, chúng tôi là phái đoàn cuối cùng đến Hoa Kỳ. Chúng tôi biết miền Nam đang ở trong tình trạng bất thuận lợi với Quốc hội Mỹ, họ sẽ không chấp nhận cấp ngân khoản viện trợ cho chúng tôi. Nhưng chúng tôi cảm thấy vẫn còn trong tay một vài lá bài then chốt. Một trong những lá bài đó, là lời hứa từ lâu của Lý Quang Diệu ở Tân Gia Ba. Ông Lý chủ trương phương thức duy nhất để đánh bại Cộng sản chính là cải tiến an sinh xã hội. Ông từng hứa giúp chúng tôi ngân khoản nửa tỷ Mỹ kim để thực hiện một chương trình gia cư.

Tổng thống Thiệu bèn gửi Hoàng Đức Nhã đi Tân Gia Ba thăm dò xem họ Lý có ứng cho chúng tôi vay số tiền đó để mua vũ khí và mua xăng, thay vì sử dụng vào mục tiêu gia cư không. Ông Nhã đã đi Tân Gia Ba. Còn ông Hưng và tôi đến Hoa Kỳ cố gắng tìm cách thuyết phục Quốc Hội Mỹ giữ im lặng, đừng công khai hóa việc họ không giúp chúng tôi. Công khai hóa việc ấy sẽ có tác dụng sút giảm tinh thần Tiếp tục đọc

Nước Mắt Trước Cơn Mưa, Susan McDonald

SUSAN McDONALD

580244_10151992920081953_576839680_n

Susan McDonald

(Nữ Y Tá Cô Nhi Viện)

“Chỉ là những tấm hình của lũ trẻ con.”

Tôi là nữ y tá, tốt nghiệp đại học Coretto Heights ở Denver năm 1970, sau đó làm việc ở Kentucky khoảng ba năm. Bấy giờ mỗi đêm truyền hình đều chiếu về chiến tranh Việt Nam. Tôi theo dõi thường thấy cảnh trẻ con bị bắn. Vì quan tâm đến việc săn sóc trẻ, tôi bắt đầu nghĩ đến chuyện xin sang Việt Nam làm việc.

Tôi viết thư cho một số địa chỉ để tìm tin tức việc làm tại Việt Nam. Bấy giờ một trong những người tôi viết thư hỏi là Rosemary Taylor, một phụ nữ người Úc làm việc tại Việt Nam từ 1968. Rosemary chú ý đến việc săn sóc trẻ vô thừa nhận và tìm các gia đình nhận nuôi những đứa trẻ này. Bà đã phục vụ tại một viện nuôi trẻ vô gia cư ở Phù Mỹ. Sau bà tự lập nên những trung tâm riêng để săn sóc trẻ mồ côi và trẻ vô thừa nhận. Bà hoạt động qua các cơ quan Việt Nam, qua Toà Đại sứ các nước để tìm các gia đình nhận nuôi những đứa trẻ này. Rosemary trả lời thư, nói rằng có lẽ tôi sẽ hữu ích trong việc làm với trẻ mồ côi. Hãng Air France cấp cho tôi một vé máy bay đi Việt Nam, đổi lại tôi thỏa thuận là ngày trở về sẽ đi kèm với năm đứa trẻ rời Việt Nam. Ngày trở về được để trống.

Tôi chưa đến Á châu bao giờ. Thật ra, tôi chưa rời Hoa Kỳ bao giờ. Lần này đi New York, rồi bay sang Paris. Tôi ở lại Paris vài ngày với mấy người bạn, rồi sang Sài Gòn Tiếp tục đọc

Nước Mắt Trước Cơn Mưa, Dương Quang Sơn

1768114

CHƯƠNG 17

TRẺ EM

Dương Quang Sơn

“Nước Mắt Trước Cơn Mưa”

.

Đêm nào tôi cũng khóc cho Việt Nam. Tôi nhớ và tôi khóc. Trong bóng đêm đen, trí nhớ biến thành nước mắt. Những giọt nước mắt cho bố, cho mẹ, cho các anh chị em tôi, cho tất cả những người đã bỏ đất nước ra đi, cho cả những người không ra đi được. Tôi không muốn ký ức của tôi mất đi như nước mắt trong mưa. Nên tôi xin kể cho ông nghe câu chuyện của tôi để ông kể lại cho những người khác, nhờ thế có thể có nhiều người sẽ biết đến những gì xảy ra ở Việt Nam. Nhờ thế ký ức của tôi không uổng phí. Nhờ thế ký ức của tôi sẽ là những giọt nước mắt trước cơn mưa. Vậy xin lắng nghe. Những gì tôi kể rất quan trọng. Những gì tôi nhớ. Những gì xảy ra cho tôi. Những gì tôi nói đây chính là những giọt nước mắt trước cơn mưa lũ.

Bố tôi tên Trần Phong. Ông theo Phật giáo, sinh trưởng ở Hải Phòng, Bắc Việt. Ông đã đi kháng chiến chống Pháp, nhưng khi Cộng sản chiếm miền Bắc năm 1954, ông di cư vào Nam, định cư ở Sài Gòn. Bố tôi ghét Cộng sản. Bố tôi yêu Tự Do. Chỉ vì muốn một đời sống Tự Do mà năm 1954 ông đã phải trở thành người di cư.

Ông rất buồn vì đất nước chia đôi, nhưng ông lại muốn tránh xa Cộng sản. Mẹ tôi cũng sinh trưởng ở miền Bắc. Cũng di cư vào Nam với bố tôi năm 1954. Bà ngoại tôi, các anh chị em của mẹ tôi đều ở lại ngoài Bắc cả.

Cuộc sống chúng tôi tại Sài Gòn rất tốt đẹp. Bố tôi kiếm được khá tiền nhờ nghề sửa tàu biển. Trong gia đình, tôi là đứa con bé nhất, nên bố tôi gọi là thằng “Út”, tiếng Việt nghiã là “đứa con nhỏ nhất”. Tôi có một người anh, hai người chị. Cô tôi cũng ở chung với gia đình tôi trong một căn nhà rộng rãi tại Quận Nhứt, Sài Gòn. Tôi học Trung học Công lập, anh tôi đã học Đại học. Mùa xuân năm 1975, tôi vừa được mười sáu tuổi. Lúc này bọn học trò đều chộn rộn về chuyện Cộng sản xâm chiếm. Có đứa bàn tán cả chuyện bỏ nước ra đi. Nhiều hôm trên đường tan trường về, tôi thấy người ta đứng xếp hàng dài để xin giấy tờ hoặc đổi tiền ra khỏi nước Tiếp tục đọc

Nước Mắt Trước Cơn Mưa, Mike Marito

MIKE MARITO

(Chuyên Viên Quay Phim)

“Ngập cứt?”

.

Tôi là chuyên viên thu hình của chuyến bay cuối cùng ra Đà Nẵng hôm ấy. Bruce Dunning, Mai văn Đức và tôi đã xin được phép đi với Ed Daly. Khi chúng tôi hỏi để xin theo, ông ta bảo “Tất nhiên là được, càng đông càng vui.”

Khi chúng tôi sắp hạ xuống Đà Nẵng, hai hàng phi đạo dưới ấy hoàn toàn trống trải, không một bóng người. Không có gì trên đường bay hay đường vào bến cả. Hình như, cũng không có ai lai vãng ở các khoang chứa máy bay. Mọi sự có vẻ trái hẳn với các nguồn tin chúng tôi nghe nói là Đà Nẵng sắp sụp đổ.

Chúng tôi dự liệu gặp cảnh hỗn loạn và một đám động giận dữ, nhưng từ trên máy bay chúng tôi nhìn thấy Đà Nẵng và các con đường trong phố đều êm. Nên chúng tôi hạ cánh. Khi tàu bay từ phi đạo vưa quẹo vào đường bến thì đột nhiên người ta ùa ra từ các nhà chứa máy bay. Phi trường Đà Nẵng bấy giờ là một căn cứ không quân khổng lồ trong thời chiến, từ các nhà chứa máy bay của căn cứ khổng lồ ấy, chắc phải đến 20,000 con người chợt hiện ra và ùa tới máy bay chúng tôi. Họ ngồi trên xe jeep, xe gắn máy, thiết vận xa, họ dùng mọi thứ xe tư nhân – mọi phương tiện xe cộ mà loài người đang sử dụng – họ chạy đến chúng tôi. Chúng tôi dừng lại một lúc giữa hai phi đạo – Tôi cho máy thu hình chạy. Trước khi thấy đám người này, chúng tôi định ra khỏi phi cơ. Nhưng chợt tôi có cảm giác ruột gan quặn thắt – cái cảm giác của những người làm tin chiến trường. Tôi tự bảo “Đừng, đừng ra khỏi tàu bay.” Những người này đang hoảng hốt. Bất cứ người nào nhỏ con đến đâu nhưng khi hoảng hốt, họ mạnh hơn mình nhiều. Tôi đem máy quay phim ra phía cầu thang sau, đứng đấy thu hình. Trong lúc phi cơ còn di chuyển, người đã chạy ùa lên thang. Chắc có người đã leo qua bên hông cầu, bẻ cong lại, nên cầu thang không rút lên được nữa. Trong khi tôi đang quay, họ bắt đầu bắn lẫn nhau. Họ nổ súng loạn xạ từ phía sau để chen lại gần máy bay. Lúc đó, tôi ngoảnh lại bảo Bruce “Mẹ kiếp, bọn mình ngập cứt rồil”

Chúng tôi chạy rà quanh phi trường. Cuối cùng Daly quyết định ông ta nói: “’Bay mẹ nó khỏi đây đi.” Lúc ấy chúng tôi bắt đầu cất cánh từ ngay cuối đường bến. Chúng tôi đụng một cái xe khi bắt đầu bốc lên. Mấy bánh xe bên trái tông phải một cái xe jeep. Lúc đầu tôi tưởng là chiếc máy bay vẫn còn chạy rà rà vì tôi còn đứng trên thang tàu bay. Chợt nghe máy rú tôi mới nghĩ “Mẹ kiếp, mình hãy còn đứng trên thang.” Tôi không muốn bay khỏi mấy bực thang chút nào. Lúc ấy có năm người Việt Nam đứng ở những bực dưới. Khi mũi tàu chống lên, lực bay và vận tốc bắt đầu bung mấy người ra. Một người cố bám được một lát, nhưng khi tàu bay lên khoảng cao độ 600 feet, anh ta buông tay bay như lính dù. Tôi chứng kiến anh ta bắn vụt ra không trung. Không thể tin được!

Lúc ấy ý nghĩ chạy qua đầu tôi là: “Phải sống sót trong vụ này, phải thu tất cả hình ảnh vào phim. Đây là giây phút khởi đầu của sự sụp đổ một quốc gia. Quốc gia này đã cáo chung. Đây là lịch sử, ngay đây, bây giờ. Phải ghi lấy lịch sử này bất kể cá nhân tôi đang cảm thấy như thế nào.” Tôi rời cầu thang, thu hình qua cửa sổ máy bay. Suốt lúc bay về, tôi mang nỗi hoài nghi – một nỗi hoài nghi hết sức mạnh mẽ, tôi muốn nói: Không cách gì chúng tôi có thể hạ cánh được. Phi công của chúng tôi, Ken Healy không điều động được mấy cái bánh xe để hạ, họ bảo có một cái xác người vướng trên ổ bánh xe. Cánh máy bay và mấy cái vành xếp đã hỏng, xăng của chúng tôi tiếp tục cạn.

Tôi ngồi trong khu dọn ăn phía sau. Tôi không có ghế ngồi. Lính tráng trên phi cơ đều có súng M16, và súng lục 45. Tôi tính: dẫu máy bay không bị rơi, vẫn có thể xảy ra chuyện những người lính này cướp máy bay đòi sang nước khác. Chúng tôi thực lo ngại chuyện ấy suốt buổi. Nên sau, chúng tôi tìm cách nói với họ: “Này quý bạn, mấy thứ này có thể bất ngờ gây tai nạn – Quý bạn có thể giao cho chúng tôi chăng?” Đức và tôi đi quạnh nhặt nhạnh các vũ khí và những quả lựu đạn. Chúng tôi dùng băng keo quấn lựu đạn để giữ chặt kíp Iại, rồi bỏ ra phía sau phi cơ.

Chúng tôi hạ cánh xuống Sàigòn an toàn. Mỗi khi có trục trặc, cảnh sát luôn luôn tìm tụi quay phim – Nên chúng tôi một lần nữa, dự liệu trước việc này. Chúng tôi trao hết phim cho Bruce Dunning để ạnh ta giấu dưới áo khi chúng tôi ra khỏi phi cơ. Họ không biết là có một thông tín viên mạng phim thoát ra. Tụi tôi làm kiểu này hoài. Chúng tôi sẽ gây chú ý cho cảnh sát bằng những dàn máy móc quay phim để họ bu đến, rồi người thông tín viên chuồn đi. Quả nhiên cảnh sát Sàigòn giữ Đức và tôi một lúc – Nhưng Bruce đã lặng lẽ bước, như không biết gì đến chúng tôi. Anh ta mạng được mấy cuốn phim đi thoát.

Chúng tôi được hai giải thưởng với bộ phim ấy. Câu lạc bộ báo chí nước ngoài một giải, Hiệp hội nhiếp ảnh viên báo chí quốc gia một giải nữa. Đến bây giờ – Tôi vẫn không thực sự tưởng tượng nổi những chuyện ấy là một cơn ác mộng – nhưng cho đến bây giờ, mỗi khi nhìn thấy bất cứ cái gì nhắc nhở tới Việt Nam, lập tức tôi thấy hiện ra các hình ảnh trong hồi tưởng như một làn chớp. Bất cứ lúc nào thấy cái gì dính dáng đến Việt Nam tôi lại thấy làn chớp ấy. Nó trong suốt như pha lê trong trí tôi. Suốt đời, tôi sẽ không bao giờ có thể quên.

NMTCM/P1NM/C1/MM

Nước Mắt Trước Cơn Mưa, Joe Hrezo

Hrezo

JOE HREZO

(Trưởng Trạm Hàng không)

“Chỉ sung sướng vì còn sống sót.”

Tôi là quản lý trạm World Airways ở căn cứ không quân Clark, Phi Luật Tân vào năm 1975. Tôi thi hành bất cứ công tác đặc biệt nào mà xếp Ed Daly muốn. Vì vậy khi một chiếc 727 của chúng tôi ở Việt Nam bị đạn, tôi nhận cú điện thoại bảo phải liên lạc với chủ tịch Philippines Airlines, cố thuê chiếc phản lực cơ Sydney Hawker 125. Tôi đoán hẳn Ed Daly có quen biết lớn với ông chủ tịch. Daly muốn thuê cái phản lực nhỏ này để chở một bộ phận thay thế cho phi cơ 727 ở Sàigòn. Tôi điện thoại nói chuyện với mấy người bên sở điều hành.

Họ đồng ý chuyến bay. Tôi gặp người trong căn cứ Clark, lấy được phép cho chiếc phản lực 125 hạ cánh. Chiếc máy bay đến Clark lúc 11 giờ đêm. Rồi tôi và cái bộ phận nặng 25 cân Anh kia bay đi Sàigòn trên chiếc máy bay này, đến Sàigòn khoảng 2 giờ sáng.

Khi đến nơi, tôi đoán có lẽ họ đã bắt đầu xài mấy chiếc phi cơ 727 để tải người từ Đà Nẵng vào rồi. Vụ này cũng ổn thôi. Vì vậy có hôm tôi đã leo lên làm một chuyến. Không lộn xộn gì. Ngày kế, tôi lại đi, có cả hộ tống bên toà Đại sứ đi cùng. Lúc hạ xuống Đà Nẵng vừa đến trạm Air America thì đám người ngợm khốn khổ tràn đến. Chúng tôi cho tàu bay vòng Iại, thả cầu, hai gã hộ tống bự con bước xuống, bắt đầu cho người lên. Người ta xô đẩy chen lấn, khi tàu đã đầy ứ họ còn cứ cố chui vào. Lính hộ tống có lựu đạn cay, đem ra xài. Chỉ báo hại bọn tôi hơn là cho đám dân: gió thổi ngược. Nhưng rồi cũng xong, bốc được người là chúng tôi về.

Nhưng hôm ấy khi toà đại sứ nghe Daly nói ông ta sẽ đi nữa thì họ bắt đầu nạo ông ta Tiếp tục đọc

Nước Mắt Trước Cơn Mưa, Jan Wollett 2/2

Jan_Wollett JAN WOLLETT

Gã được bình yên suốt chuyến bay. Gã thật mạnh, không bị bất tỉnh lần nào. Tôi đi về phía sau lần nữa, thấy Val, Daly và Joe Hrezo đang cố kéo một người đàn ông mắc kẹt trong cầu thang sau. Cửa máy bay sau không đóng được. Người ấy bị kẹt trong thang, gẫy chân. Sau cùng họ lôi được người này ra, mang vào trong phi cơ. Val và tôi cố bó cái chân gẫy với một miếng gỗ – Lúc ấy Joe bảo tôi rằng thông tín viên người Anh không trở lại được. Anh ta bước ra phi đạo Đà Nẵng để thu hình đám đông, rồi vô phương trở vào phi cơ trong lúc rối loạn. Anh ta còn ở trong đài kiểm soát. Ken Healy hứa sẽ có một chiếc trực thăng Air America đến đón. Về sau, anh ta cũng đã trở vào được Cam Ranh. Val, Atsako và tôi tiếp tục cấp cứu cho mọi người trên tàu. Việc này chiếm hết thì giờ và tôi đoán là khi đã bay được một giờ đồng hồ thì chúng tôi mới bắt đầu nhìn đến các hành khách khác không bị thương. Tôi thấy vẻ kinh sợ trên mặt họ. Cuối cùng, họ nhận thức được họ đã làm những gì. Họ bắt đầu hỏi “Còn những chuyến bay khác nữa không?”

Chúng tôi trấn an bằng cách nói thác: “Còn chứ, còn nhiều chuyến nữa.” Những người này bây giờ đã hiểu ý nghĩa việc bắn giết đồng bào để leo vào chuyến bay. Bây giờ họ ân hận. Đành nói dối thôi, chứ chúng tôi cũng biết sẽ không còn chuyến nào ra Đà Nẵng nữa. Đây là chuyến chót. Những người đi sau không ra nữa. Ken Healy đã liên lạc với Don McDaniel của chuyến 727 kế, bảo anh ta đợi chúng tôi ở Phan Rang, và bảo anh ta điện cho Dave Wanio quay lại Sàigòn để sửa soạn việc hạ cánh khẩn cấp. Tàu chúng tôi hư hỏng nặng, Ken không dám chắc bánh xe buông xuống được khi chúng tôi xuống Sàigòn. Tôi hiểu điều đó có nghĩa gì Tiếp tục đọc

Nước Mắt Trước Cơn Mưa, Jan Wollett 1/2

Screen Shot 2013-04-13 at 5.54.57 PMJan_Wollett

CHUYẾN BAY CUỐI CÙNG TỪ ĐÀ NẴNG

JAN WOLLETT

(Nữ Trưởng Tiếp Viên Hàng Không)

“Tại sao họ bắn? Chúng tôi là những người bạn tốt”

Ngày 29/3/1975 đáng lẽ nhân viên khách sạn Sài Gòn phải đánh thức tôi dậy lúc 5 giờ sáng . Tôi là tiếp viên trưởng của một chuyến bay khứ hồi ra Đà Nẵng . Nhưng 5 giờ sáng hôm ấy không có ai đánh thức tôi dậy. Khoảng 6 giờ sáng mới có điện thoại của Val Witherspool, một nữ tiếp viên khác. Cô ấy bảo: “Chị xuống ngay phòng đợi khách sạn trong vòng 5 phút.” Khoác bộ đồng phục, tôi lập tức chạy xuống cầu thang. Ông Ed Daly và Val đang chờ tôi ở dưới nhà. Bruce Dunning, làm việc cho hãng tin CBS cũng đã có mặt. Tôi bảo Bruce: “Bọn này phải ra Đà Nẵng”. Anh ta nói: ’’Có tin thành phố này rơi vào tay Bắc Việt rồi” Tôi nói: “Nếu thành phố này đã mất thì chúng tôi đâu có đi” Bruce yêu cầu được đi theo chuyến bay. Ông Daly bảo: “Muốn đi thì đi. Có mặt ở phi trường Tân Sơn Nhất trong vòng một giờ đồng hồ nữa.”

Bruce tập họp Mike Marriotte, chuyên viên quay phim và Mai Văn Đức, chuyên viên âm thanh, rồi chở họ ra phi trường. Chúng tôi bước lên chiếc World Airway Boeing 727. Là tiếp viên trưởng, tôi được thông báo là sẽ có một hay hai tiếp viên người Việt đi thông dịch, sẽ có binh sĩ bảo vệ để đương đầu với đám đông. Hôm trước, chúng tôi đã gặp khó khăn ở Đà Nẵng, và chúng tôi cũng sẽ phải mang theo nước ngọt, nước cam, bánh mì săng-uých cho hành khách.

Vừa vào phi cơ, tôi nói với Val và Atsako Okuka, một nữ tiếp viên khác: “Các bạn hãy xem xét ngay mọi thứ.” Chúng tôi thấy không có đồ ăn thức uống. Đó là dấu hiệu đầu tiên cho biết một cái gì bất thường đang xẩy ra…Không nước ngọt, không nước  cam, không bánh mì, không đồ ăn thức uống trên phi cơ. Cũng không có tiếp viên người Việt, cũng chẳng có binh sĩ bảo vệ nào hết.

Chúng tôi thảo luận xem có nên bay ra hay không. Lúc ấy Daly và phi hành đoàn đã lên phi cơ rồi. Dunning và toán làm tin CBS cũng vậy. Hai nhân viên cơ quan  USAID leo lên. Họ trấn an chúng tôi là mọi việc ở Đà Nẵng cũng tốt thôi, không cần gì đến binh sĩ bảo vệ Tiếp tục đọc

Nước Mắt Trước Cơn Mưa 2

1768114

LỜI MỞ ĐẦU

(tiếp theo)

…Tuần lễ đầu của năm 1975, Bắc Việt chiếm Phước Long. Hạ thủ tỉnh này là một ý định trắc nghiệm. Bằng sự vi phạm Hiệp định một cách trắng trợn như vậy , miền Bắc muốn xem phản ứng của Mỹ ra sao. Nhưng không có phản ứng nào của Mỹ cả. Nói cho đúng, Mỹ có vẻ không quan tâm đến việc Bắc quân làm gì ở miền Nam nữa. Tháng sau đó, khi Phái đoàn Quốc Hội Mỹ đến viếng miền Nam. Bắc quân hoạt động rất ít. Phái đoàn này đến để lượng giá tình hình quân sự, tư vấn cho Quốc Hội và Tổng Thống Mỹ về việc tiếp tế Quân viện và viện trợ nhân đạo. Vài ngày sau khi phái đoàn Quốc hội Mỹ rời Việt Nam, Bắc quân đi nước cờ kế tiếp.

Ngày 10/3/1975 Bắc quân tung một trận tấn công mãnh liệt tối hậu. Họ đã biết chắc là Mỹ mất ý chí chiến đấu và cũng không muốn tài trợ cho sự độc lập của Nam Việt Nam nữa. Không còn e ngại Mỹ can thiệp, quân đội Bắc Việt khẳng định được rằng sau gần 30 năm dai dẳng. chiến thắng của họ và  cuộc thống nhất Việt Nam bằng vũ lực đã đến lúc hoàn tất.

Trên đường mòn Hồ Chí Minh, miền Bắc chuyển xuống 100.000 bộ đội mới mẻ khỏe khoắn. Con đường , trước chỉ là lối mòn len lỏi giữa rừng già Việt Miên Lào, giờ đây đã trở thành một xa lộ nhộn nhịp với cả một hệ thống ống dẫn dầu chạy kèm theo đến tận tâm điểm miền Nam Việt Nam. Con  đường này giờ đây không còn bị các trận bom của máy bay B 52 đe dọa nữa.

Ban Mê Thuộc, thành phố cao nguyên rơi vào tay Bắc quân giữa tháng 3 . Cuộc kháng cự của Nam quân bị đè bẹp Tiếp tục đọc

Nước Mắt Trước Cơn Mưa 1

NMTCMNBT1768114

Nước Mắt Trước Cơn Mưa

Tears Before the Rain, Nước Mắt Trước Cơn Mưa, là tựa một cuốn sách của Larry Engelmann, giáo sư khoa sử của đại học San Jose, California và được Nguyễn Bá Trạc, tác giả của Ngọn Cỏ Bồng dịch ra tiếng Việt.

Như trong một video clip phỏng vấn mình, tác giả Larry Engelmann cho biết mình không phải là nhà văn mà chỉ là người kể chuyện, storyteller, đến với sách vở chữ nghĩa chỉ là một sự tình cờ. Ông sinh năm 1941, lớn lên tại một thành phố nhỏ ở tiểu bang Minnesota. Ngay từ nhỏ ông đã say mê nghe người lớn, trong số đó là những người trở về từ Thế Chiến Thứ 2, kể chuyện. Ông say mê nghe người ta kể chuyện rồi từ nghe ông lại trở thành người kể chuyện. Nên không có gì lạ khi ông mê môn sử và chọn sử là ngành mình theo học khi lên bậc đại học, và học xong, ra trường lại đem chính cái tài kể chuyện của mình ra dạy môn sử tại đại học San Jose, California. Lương dạy học không đủ chi phí cho gia đình, ông mới viết và gửi bài cho một số báo để kiếm thêm tiền. Tài kể chuyện của ông khi đưa lên trang giấy lại gây lôi cuốn và xúc động cho người đọc, và ông thành nhà văn, không, ông thành nhà kể chuyện, storyteller, storyteller for money, người kể chuyện để kiếm tiền, như ông xác nhận mình là ai và vì sao viết.

Nước Mắt Trước Cơn Mưa xuất hiện cũng là sự tình cờ như vậy. Khởi đầu ông gửi cho một nhà xuất bản 38 trang đầu tiên ông mới viết nháp để thăm dò. Chỉ đọc xong 38 trang bản thảo, đúng 11 giờ khuya, nhà xuất bản gọi điện thoại cho ông, trước tiên cho ông biết, theo lẽ thường, những cú điện thoại của bác sĩ gọi 11 giờ đêm là tin xấu, còn của nhà xuất bản là những tin tốt lành. Nhà xuất bản đề nghị ký hợp đồng xuất bản cuốn sách, và vì cuốn sách chỉ mới có 38 trang, nên đưa ra thời hạn trong vòng 12 tháng, ông phải hoàn tất và giao bản thảo cho nhà xuất bản và nhà xuất bản ứng trước cho ông 175 ngàn đô.

Cú điện thoại 11 giờ khuya của nhà xuất bản với 38 trang đầu là như vậy, nên bạn sẽ không ngạc nhiên khi đọc Tears Before the Rain qua bản dịch của Nguyễn Bá Trạc mà Tương Tri được phép của dịch giả Nguyễn Bá Trạc sẽ đánh máy lại và đưa lên.  Xúc động, xúc động và xúc động như hai câu thơ đầy định mệnh:

Thùng thùng trống đánh ngũ liên
Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa

Tuongtri.com

8111_engelmann_larry

_________________________________________

L Ờ I   M Ở   Đ Ầ U

Cuối tháng giêng 1975, một đàn ong đông đảo bất thường chợt bay xuống Sài Gòn. Đàn ong đậu trên hai tòa cao ốc làm mọi người trong nhà sợ hãi chạy ra. Sau đó vài người bạo dạn quay lại tính xông khói đuổi ong đi Tiếp tục đọc