Có biết từ khi nào một người trở thành thi sĩ? Câu trả lời lãng mạn và dễ dãi: Từ khi người ấy đưa mắt lên nhìn trời sao, tay gãi cằm và trong trái tim phát ra một điệu nhạc dịu dàng. Hoặc giận dữ. Hoặc nhỏ nước mắt buồn bã, đau thương. Cô quạnh, bùi ngùi. Bất cứ lúc nào nào điệu nhạc ấy, những cảm xúc ấy làm rung động bên trong, vùng vẫy truyền ra bên ngoài, trong khoảnh khắc, anh ta trở thành thi sĩ.
Còn một câu trả lời khác – khó khăn hơn, nghiêm khắc hơn – cho một thi sĩ trọn vẹn, đích thực hơn. Ðó là: Từ khi người ấy dám kết hôn với thơ. Chỉ với thơ thôi, không với ai khác. Dẫu cho thế giới chung quanh tràn ngập những người đàn bà đẹp (có cái cẳng dài, đôi mắt chớp chớp đầy mộng mơ), hắn cũng chỉ yêu thơ hơn hết thẩy. Mà thôi.
Thế thơ gì? Cũng là một người đàn bà đẹp chăng? Ðúng vậy. Cũng có thể là một người đàn ông đẹp. Cái đẹp ấy, dĩ nhiên nó chủ quan. Có nhiều người đắm đuối yêu một người như tôi hay như anh. Ðiều ấy đã chết ai?
Hình thức của thơ có thể xếp theo hình quả trám, hình vuông, bực thang hay vòng tròn. Có thể ầm ầm như nhạc Rock hay cò ke như cái đàn gáo. Có thể hững hờ suối chảy mây bay. Quan trọng là cái gì trong trái tim mà điệu nhạc đã phát ra kìa Tiếp tục đọc →
Mấy năm nay rời Cali sang sống ở Bắc Âu, tôi thường làm video clip thay vì viết. Nói cho cùng, video clip cũng là những bài thơ bằng hình và nhạc. Tuy những bản nhạc là vần điệu của các nghệ sĩ khác, nhưng đúng giây phút thích hợp, vẫn thường gây nhiều rung động trong tôi.
Bây giờ giữa tháng Mười.
Mùa thu ở đây ướt, lạnh, im lìm.
Đêm, ngồi trước laptop, nhìn hình ảnh bạn hữu ở xa, nghe những vần điệu nẩy trong tâm trí. Mà bài thơ vẫn là trang giấy trắng.
Bèn ném lên màn hình một số hình ảnh cũ mới, phần lớn là ảnh những người bạn văn nghệ quen biết, gần gũi. Mà bài thơ phải có nhan đề. Bèn tạm gọi là “Ngồi Buồn Xem Ảnh Linh Tinh”. Không thứ tự. Không sắp xếp theo một cốt chuyện nào Tiếp tục đọc →
WOLF LEHMANN (Phó Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam)
“Đây điện văn cuối cùng của toà Đại Sứ Mỹ ở Sàigòn”
Cuối năm 1974 sau vụ thất thủ Phước Long, toà Đại sứ Mỹ mỗi lúc một thêm lo ngại: Có những dấu hiệu và tin tình báo cho thấy Bắc Việt sẽ mở cuộc tấn công lớn vào đầu năm 1975. Quả nhiên chuyện đó xảy ra.
Một trong những dấu hiệu báo trước là việc phái bộ quân sự Liên Sô viếng thăm Hà Nội. Phái bộ đông đảo này cầm đầu bởi tướng Victor Kulikov, phụ tá Tổng trưởng quốc phòng (sau là Tư lệnh lực lượng Sô Viết ở Âu Châu thuộc khối thoả ước phòng thủ Warsaw). Họ đến Hà Nội khoảng mười ngày trước Lễ Giáng Sinh 1974, ở lại một tuần lễ, lý do bề ngoài là để tham dự ngày Quân Đội Việt Nam. Dù các tin tình báo không đồng nhất, người ta vẫn có thể thấy rõ mục đích chính của phái bộ này đến để hoàn tất những sắp đặt giữa Hà Nội và Mạc Tư Khoa về việc tăng cường súng, đạn và chiến xa. Lúc ấy Trung Hoa đã co lại, nhưng chưa đến mức trầm trọng như sau này Tiếp tục đọc →
Chúng tôi vừa có dịp viếng thăm Seoul, thủ đô Nam Hàn, từ ngày 19 đến ngày 26 tháng Tám, 2013.
Tại một vùng đất từng tan nát vì chiến tranh và chia cắt, chẳng khác gì Việt Nam, chúng tôi đã nhìn thấy phồn thịnh đang vươn lên trong nghèo đói, kỹ thuật hiện đại phát triển mà không mất đi vẻ đẹp truyền thống, và chúng tôi cũng cảm nhận được nỗi khao khát của một dân tộc đang mong mỏi thống nhất trong hòa bình.
Nhớ lại buổi khai mạc Thế Vận Hội năm 2000 ở Sydney, cảnh tượng hai phái đoàn lực sĩ Nam Bắc Hàn hân hoan nắm tay diễn hành dưới một lá cờ thống nhất, là một cảnh tượng làm cho thế giới cảm động. Lá cờ này không có mầu máu: Mầu trắng, chính giữa có hình bán đảo Triều Tiên mầu xanh, bao gồm đảo Jeju-do bên phía tây nam, những hòn đảo Liancourt mà tiếng Hàn gọi là Dokdo hay Tokto bên phía đông.
Sau một tuần lễ viếng thăm ngắn ngủi, với những hình ảnh ghi nhận thoáng qua trên đường phố Hán Thành, tôi đúc kết vào một video clip sau đây, với nhạc nền là bản Arirang do dàn nhạc giao hưởng của Jang Yun-Sung trình tấu.
Arirang là dân ca truyền thống của bán đảo Triều Tiên, tất cả mọi người dân Nam Bắc Hàn đều thông thuộc và yêu thích, thường được coi là bản quốc ca không chính thức của toàn thể dân tộc này. Arirang đã được nhiều ca sĩ nước ngoài, như Nat King Cole (Mỹ), Inger Marie Gundersen (Na Uy) trình bầy. Dàn nhạc New York Philharmonic cũng từng trình tấu bản này ngay tại Bình Nhưỡng, thủ đô Bắc Hàn, trong năm 2008.
Arirang có khả năng diễn tả cả niềm vui lẫn nỗi buồn, niềm hy vọng của dân tộc Triều Tiên trong những tình thế thường là hỗn loạn và phức tạp của nhân loại.
Khi Ban Mê Thuột thất thủ, cuộc triệt thoái cao nguyên bắt đầu, tôi đi với thông tín viên Peter Collins để thu hình “Đoàn xe nước mắt” từ Pleiku đổ xuống theo con lộ 7B. Cả một đoàn quân tương đương với ba sư đoàn rút khỏi cao nguyên mà không nổ một phát súng. Lúc ấy, một người bạn bên sở Tình báo điện thoại cho tôi, anh ta nói: “Này Mike, cậu biết cao nguyên mất rồi chứ?”. Tôi bảo “Hả, Đ.M. không!” Anh ta bảo: “Nghe đây, tôi có một chuyến bay” – đó là chiếc Air America hai động cơ – “Tôi sẽ cho bay lên trên ấy đón người của tôi trước khi họ bị bắt. Nếu cậu đi với bọn tôi, sẽ bảo đảm cho cậu một ghế trở về. Sẽ có một trực thăng của Trung ương Tình báo đưa cậu đến khu vực quay phim. Đang có hàng ngàn, hàng ngàn người tháo chạy. Tôi sẽ cho cậu một máy vô tuyến, bỏ cậu xuống khoảng trước đoàn xe. Cậu có thể đợi đoàn xe đến mà thu hình, sau đó tránh khỏi đoàn xe, ra phía ngoài đồng, dùng vô tuyến gọi trực thăng đến. Chúng tôi sẽ tới bốc cậu.”
Thế là chúng tôi đổ đến khoảng giữa vùng cao nguyên. Ở đúng vào một chỗ chẳng đâu ra đâu, đột nhiên vào một tầm xa mà mắt có thể trông thấy, bỗng xuất hiện hàng trăm ngàn con người khốn khổ, lính tráng, xe tăng, thiết vận xa, hướng lại phía chúng tôi. Tôi thu hình tất cả, rồi chúng tôi rời đi Tiếp tục đọc →
LÝ NGỌC THUÝ “Ông có hiểu chuyện bị hãm hiếp nghĩa là thế nào không?”
Tôi sinh ngày mùng 5 tháng Năm năm 1967, đến Hoa Kỳ năm 1981. Gia đình tôi gồm tất cả sáu anh chị em. Cha tôi lúc ở việt Nam là người buôn bán. Nói cho ngay, dưới chế độ Cộng sản, gia đình chúng tôi ở tại một tỉnh lỵ nhỏ gần Qui Nhơn vẫn làm ăn khá giả. Gia đình tôi bán máy thâu băng và băng nhạc. Chúng tôi vẫn còn làm nghề ấy dưới chế độ Cộng sản, nhưng trước khi chúng tôi đi, họ bảo vì có vài người trong gia đình tôi đã đi Mỹ, nên họ không cho phép chúng tôi làm ăn buôn bán nữa.
Bây giờ tôi còn nhớ lúc mẹ tôi bảo tôi phải sửa soạn đi. Tôi khóc. Tôi không muốn đi, nhưng mẹ tôi bảo mẹ tôi sẽ thu xếp đi sau. Tôi không sung sướng gì về việc ra đi vì sẽ phải bỏ các bạn bè và mẹ tôi lại nhà. Tôi cứ cảm thấy sợ hãi, như linh tính đã báo trước rồi sẽ có nhiều chuyện không hay xảy ra.
Chúng tôi lên tàu lúc nửa đêm. Chuyến vượt biên đầu tiên vì thời tiết xấu, phải quay về. Lần thứ nhì cũng không xong. Lần này vì tôi có bảo với vài người bạn là tôi đi Mỹ, họ đi nói với các người khác, nên chúng tôi phải hủy chuyến đi, nhiều người biết quá. Cha mẹ tôi rất giận về việc tôi nói cho người ta biết, đáng lẽ phải giấu là đi thăm bà cô.
Chuyến tiếp theo gồm tất cả 48 người trên tàu. Ngay ngày đầu tiên đã hết nước ngọt. Vì thế sau ngày đầu, chúng tôi đã phải uống nước biển, ai nấy ốm la liệt. Tôi phát đau, tháo mửa.
Thế rồi bọn hải tặc Thái Lan đến chặn tàu chúng tôi. Vì hết sạch đồ ăn nước uống, chúng tôi dùng vải trắng ra hiệu cấp cứu, không ngờ chúng lại là hải tặc. Chúng hãm hiếp một người đàn bà trên tàu. Lần thứ nhất thì không hề gì, chúng chỉ đòi vàng. Nhưng rồi bọn hải tặc lại chặn tàu chúng tôi vào ngày thứ hai và ngày thứ ba. Chúng đưa tất cả chúng tôi ra khỏi tàu, chỉ chừa một người đàn bà. Chúng lên tàu, tất cả bọn thay phiên hãm hiếp người đàn bà ấy Tiếp tục đọc →