LỄ CÁC ĐẲNG LINH HỒN 2/11


CÁC QUỐC GIA ĐÓN NGÀY LỄ CÁC ĐẲNG LINH HỒN 02-11 NHƯ THẾ NÀO?


Ngày “Các Đẳng Linh hồn” 02-11 được dành để tưởng nhớ và cầu nguyện cho tất cả những người đã qua đời, đặc biệt là các linh hồn còn trong luyện ngục.Mỗi quốc gia trên thế giới có các phong tục truyền thống riêng của họ để tưởng nhớ những người đã khuất. Các lễ hội thường bắt đầu vào Ngày Lễ vọng các Thánh 31-10 (tức Halloween) cho đến hết Ngày “Các đẳng Linh hồn” 02-11. Từ việc thắp sáng các nghĩa trang với hàng nghìn ngọn nến ở Ba Lan cho đến việc dùng bữa tại các khu mộ ở Peru, những truyền thống văn hóa này đều có những nét độc đáo theo cách riêng
1. BA LAN
Ngày “Lễ các Đẳng linh hồn” ở Ba Lan được cử hành những người Slav. Và không giống như những lễ kỷ niệm sôi động ở Mexico, đây là khoảng thời gian tĩnh lặng để suy niệm và chiêm niệm. Nhiều đường phố trong thành phố ngừng hoạt động và những chiếc xe bus đưa đón những đám đông thinh lặng, trang nghiêm từ các trung tâm thành phố đến nghĩa trang khi họ tưởng nhớ và cầu nguyện những người đã khuất.
2. BANGLADESH

Nữ tu Dòng Thừa sai Bác ái cầu nguyện giữa các ngôi mộ trong nghĩa trang của Nhà thờ Thánh Mân Côi ở Dhaka, Bangladesh vào ngày “Lễ Các Đẳng linh hồn”.Ở Bangladesh, ngày này được đánh dấu bằng lời cầu nguyện thầm lặng cho linh hồn những người thân và bạn bè đã khuất trong luyện ngục.
3. PERU
Người Peru bắt đầu ngày “Lễ Các Đẳng linh hồn” với gia đình và bạn bè, bằng bữa ăn truyền thống gọi là lechon (thịt lợn quay) với bánh ngô tamales. Từ xa xưa, họ đã duy trì mối liên hệ sâu sắc với người chết và không có gì lạ khi người còn sống dùng bữa trong nghĩa trang, chơi nhạc và tặng những món quà như hoa và tượng nhỏ đầy màu sắc cho những ngôi mộ.Theo phong tục, người ta thường tiêu thụ hoặc cung cấp một loại bánh mì gọi là t’anta wawa – một loại bánh ngọt cuộn ngọt được tạo hình và trang trí giống một đứa bé. Bánh mì này được dùng như một vật phẩm bày tỏ lòng thành kính và sự tôn trọng đối với những người đã khuất.
4. MEXICO
Ngày “Lễ Các Đẳng linh hồn” ở Mexico kéo dài nhiều ngày để tưởng nhớ những người đã khuất và cầu nguyện cho những người trong luyện ngục. Các lễ hội bao gồm nhiều đồ ăn và thức uống, đám rước trên đường phố (desfiles), và các hoạt động khác dành cho những người đã khuất như bàn thờ được dựng để trưng bày ảnh của những người thân đã qua đời, đầu lâu trang trí hoa văn và hoa tươi.
5. PHILIPPINES
Ngày “Lễ Các Đẳng linh hồn” ở Philippines. Hầu hết các trường học đều đóng cửa nên đây là thời điểm lý tưởng để họp mặt gia đình. Đối với nhiều người thì ngày lễ bắt đầu vào “All Hallows Eve” (Halloween) và kéo dài trong ba ngày. Các hoạt động bao gồm tuần lễ cầu nguyện và trang trí phần mộ của người thân, và hát một bài ca truyền thống nói về sự cứu rỗi các linh hồn trong luyện ngục.Nhiều người Philippines đến thăm các nghĩa trang, nơi họ dành cả ngày hoặc thậm chí cả đêm để tưởng nhớ những người đã khuất. Họ cầu nguyện, đi picnic cùng gia đình, thắp nến và dâng hoa. Không có gì lạ khi các linh mục đến ban phước cho các ngôi mộ bằng Nước Thánh và tham gia cầu nguyện với các gia đình.
6. HUNGARY
Hầu hết người Công giáo Hungary hoàn toàn bỏ qua Halloween và nhằm hướng tới trọng tâm là ngày “Lễ Các Thánh” (ngày lễ Quốc gia) và Ngày “Các Đẳng Linh hồn” tưởng nhớ những người đã khuất. Vào “Ngày Tất cả các linh hồn”, người Công giáo cầu nguyện cho các linh hồn được giải thoát từ luyện ngục lên thiên đàng. Nhiều người sẽ đến thăm các nhà thờ, cũng như nơi thánh thiêng, để tưởng nhớ và cầu nguyện cho linh hồn của những người thân.Hoa được xếp ngay ngắn trên bia mộ và nến được thắp sáng khi hàng ngàn người tham gia vào buổi cầu nguyện trang nghiêm. Nhiều gia đình cũng sẽ để đèn sáng trong nhà vào ban đêm cùng với thức ăn.
7.ĐỨC
Không giống như lễ hội đầy màu sắc ở Mexico, bạn sẽ không thấy bộ xương hoặc đầu lâu ở Đức vào Ngày “Tất cả các đẳng linh hồn”. Tuy nhiên, vào ngày tưởng niệm thinh lặng này, bạn sẽ thấy rất nhiều khu mộ và nghĩa trang được trang trí đầy hoa tươi, vòng hoa và những ngọn nến đặc biệt cháy suốt đêm.Theo truyền thống những ổ bánh mì được cung cấp gọi là “Seelen”, có nghĩa là “linh hồn”, như một lễ vật vào “Ngày Lễ Các Đẳng linh hồn”.
8. VATICAN
Mỗi năm, Đức Giáo Hoàng chọn một cách đặc biệt để cử hành ngày “Lễ Các Đẳng linh hồn”. Năm 2017, Giáo hoàng Phanxicô đã vinh danh tất cả các binh sĩ Hoa Kỳ đã hy sinh trong Thế chiến II tại Nghĩa trang Sicily-Rome. Năm 2016, Đức Phanxicô đã cử hành Thánh lễ tại Nghĩa trang Prima Porta ở ngoại ô phía Bắc Rome.Năm nay, Đức Giáo hoàng sẽ cử hành Thánh lễ cầu nguyện cho những người đã khuất tại nghĩa trang Laurentino ở phía Nam Rome.

NGUYỄN NGỌC NAM PHONG
(Theo Aleteia)

Truyền thống và ý nghĩa Lễ Tạ Ơn Thanksgiving

Thanksgiving được coi là dịp để bày tỏ lòng biết ơn nhau và nhất là Tạ Ơn Chúa đã ban cho vụ mùa màng đưọc sinh hoa kết trái, lương thực đồi dào và tất cả các ơn lành khác ta nhận được trong cuộc sống. Lễ Tạ ơn thường được tổ chức với gia đình và bạn bè gặp gỡ, cùng chia sẻ niềm vui, và nhất là một bữa tiệc buổi tối, gia đình sum họp ăn uống vui vẻ. Đây là một ngày quan trọng cho đời sống gia đình, nên dù ở xa, con cháu thường về với gia đình.

Tại Mỹ, ngày lễ này được tổ chức vào thứ 5, tuần lễ thứ 4 trong tháng 11 hằng năm. Người ta thường được nghỉ 4 ngày cuối tuần cho ngày lễ này tại Hoa Kỳ: họ được nghỉ làm hay học vào ngày thứ Năm và thứ Sáu của tuần Lễ Tạ ơn. Lễ Tạ ơn thường được tổ chức tại nhà, khác với ngày Lễ Độc lập Hoa Kỳ hay Giáng Sinh, những ngày lễ mà có nhiều tổ chức công cộng (như đốt pháo hoa hay đi hát dạo).

Nguồn gốc Lễ Thanksgiving đầu tiên:

Chuyện kể rằng những người di dân hầu hết là thuộc Thanh giáo, họ rời Anh quốc vào tháng 9 năm 1620 trên chuyến tàu Mayflower, một thuyền buồm trọng tải 180 tấn. Đầu tiên, họ đến Leyde thuộc Hòa Lan, nhưng cuộc sống ở đây làm họ thất vọng. Do đó nhóm người này quyết định đi tìm một chân trời mới tại Tân thế giới, họ muốn tạo dựng một “một thành Jérusalem mới” ở Hoa Kỳ.

Trên chuyến đi sang Tân thế giới, họ đã trải qua bao gian lao, thử thách, lo sợ và nguy khốn… Nước đá lạnh tràn vô tàu khiến mọi người sợ hãi, Sàn tầu bằng gỗ, có lần đốt lửa xẩy ra tai nạn, nên sau đó họ phải ăn thức ăn lạnh. Nhiều người ngã bệnh. Cuộc hành trình này có 1 thủy thủ và 1 hành khách chết. Trong khi còn trên biển, bà Elizabeth Hopkins sinh một con trai mà bà đặt tên là Oceanus (có nghĩa là “Đại Dương”).

Sau 65 ngày trên biển lạnh, vào ngày 21 tháng 11 năm 1620, tàu đến Cape Cod, sau cuộc hành trình dài 2750 hải lý (1 mile = 1,852 km). Cap Cod là một bờ biển chưa ai đặt chân tới (sau này là Massachusetts). Và sau khi tàu cập bến tại hải cảng Provincetown, thì Susanna White cũng cho ra đời một bé trai, đặt tên là Pelégrine (nghĩa là “người hành hương”). Tuy biết là đã đi sai đường, nhưng họ phải xuống tàu, và ký ngay ngày hôm đó một hiệp ước sống hòa hợp với dân bản xứ (Narranganset và Wampanoag). Đó là Maryflower Compact Act, trong đó ghi những gì phải làm khi định cư.

Họ tới Plymouth Rock, Massachusetts, ngày 11 tháng 12 năm 1620. Có nhiều cuộc chạm trán nho nhỏ, nhưng không quan trọng lắm. Họ phải đi tìm chỗ ở khá hơn bởi vì lúc đó là mùa đông đầu tiên của họ, một mùa đông đầu tiên vô cùng khác nghiệt và quá lạnh lẽo.

Sau 6 tháng lên đất liền, thời tiết khắc khe và thiếu thốn, Ngay từ cuối thu, vì bệnh dịch và lạnh lẽo, họ đã mất đi 46 người trong số 102 người khởi hành trên tầu Mayflower, Trong số người chết có 14 người vợ (trong số 18 người cả thảy), 13 người chồng (trong số 24 người). Những người sống sót nhờ ăn thịt gà tây hoang và bắp do người dân da đỏ cung cấp.

Nhưng mùa gặt của năm 1621 lại là một mùa tốt đẹp. Những người còn sống sót quyết định làm tiệc ăn mừng có sự tham gia của 91 thổ dân da đỏ – những người đã giúp họ sống sót trong năm đầu vì đã cung cấp lương thực và dạy họ trồng bắp và săn thú rừng.. Đoàn di dân tin rằng họ không thể tồn tại được nếu không có người da đỏ giúp đỡ. Buổi tiệc được tiến hành theo phong tục cổ truyền mừng mùa màng của Anh chứ không đơn thuần chỉ là “tạ ơn” và kéo dài suốt 3 ngày.

Lúc đó, người đứng đầu cai quản vùng đất này – Thống đốc William Bradford đã cử 4 người vào rừng để săn chim, gà và ngỗng cho buổi tiệc. Không biết rõ gà rừng có phải là một phần chính cho bữa tiệc hay không nhưng chắc chắn là họ dùng thịt của một loài lông vũ. Danh từ “turkey” từ đó được những người di dân dùng cho những giống chim rừng.

Sang năm tiếp theo, 1662, Lễ Tạ ơn không được tổ chức. Nhưng vào năm 1623 sau nhiều lần hạn hán những người di dân của các thuộc địa cùng nhau tụ tập lại cầu nguyện cho mưa xuống. Sau khi mưa liên tiếp trút xuống mấy ngày, Thống Đốc Bradford tuyên bố một ngày Tạ ơn nữa, và họ lại mời những người bạn da đỏ.

Những Lễ Thanksgiving tiếp theo sau…

Trong thời kỳ diễn ra cuộc chiến tranh giành độc lập của Mỹ, Hội đồng các thuộc địa đã định ra thêm một vài ngày Tạ ơn trong năm (trừ năm 1777).

George Washington với tư cách là chỉ huy lực lượng giải phóng đã tuyên bố ngày Tạ ơn trong tháng 12/1777 là ngày lễ mừng chiến thắng lính Anh tại Saratoga. Hội đồng thuộc địa công bố ngày lễ Tạ ơn vào tháng 12 từ năm 1777 đến 1783 (trừ năm 1782).

Sau khi trở thành Tổng thống, George Washington đã tuyên bố ngày lễ Tạ ơn quốc gia năm 1789 và 1795 dù gặp phải vài sự phản đối. Tổng thống John Adams tuyên bố ngày Tạ ơn vào năm 1798 và 1799. Tổng thống Madison cũng dành ra một ngày gọi là để Tạ ơn vào cuối cuộc chiến năm 1812.

Sau đó, nhờ Sarah Josepha Hale, chủ bút của một tờ báo cố gắng thuyết phục mọi người công nhận lễ Tạ ơn bằng những bài viết của bà trên tờ Boston Ladies’ Magazine và Godey’s Lady’s Book kèm theo thư từ cho các thống đốc và các tổng thống, cuối cùng vào năm 1863, Tổng thống Lincoln tuyên bố ngày Thứ Năm cuối cùng của tháng 11 là ngày lễ Tạ ơn và là ngày nghỉ hàng năm. Các đời Tổng thống kế tiếp cũng làm theo tiền lệ này.

Năm 1939, Tổng thống Franklin Delano Roosevelt tuyên bố lễ Tạ ơn sẽ diễn ra vào ngày thứ Năm của tuần lễ thứ 3 trong tháng 11, tạo điều kiện giúp giới kinh doanh thuận lợi trong việc bán hàng trước lễ Giáng sinh. Song tuyên bố của ông Roosevelt không có hiệu lực vì bị nhiều bang phản đối.

Đến năm 1941, Quốc hội Mỹ đã đạt được sự đồng thuận và định ra ngày thứ Năm của tuần lễ thứ 4 trong tháng 11 sẽ là ngày Tạ ơn trên toàn quốc. Ngày 26/11/1941, Tổng thống Roosevelt chính thức ký thông qua đạo luật này.

Bữa tối mừng lễ Tạ ơn

Món chủ đạo trong bữa Tạ ơn tại Mỹ và Canada là thịt gà tây nướng. Vì gà tây là món ăn phổ biến nhất trong bữa tối mừng Lễ Tạ ơn, nên đôi khi ngày Tạ ơn còn được gọi là Ngày Gà Tây. Tổ chức USDA từng thống kê năm 2006 có trên 300 triệu con gà tây được nuôi và khoảng 1/6 trong số này dành phục vụ lễ Tạ ơn.

Thời kỳ đầu, lễ Tạ ơn kéo dài ba ngày. Tuy nhiên họ không thực sự chỉ ăn gà tây (turkey, dindon) bởi vì chữ “turkey” lúc bấy giờ dùng để chỉ gà tây, gà, chim cút, chim trĩ… Cho dù những người di dân đầu tiên có ăn gà tây hay không vào dịp lễ Thanksgiving đầu tiên, thịt gà tây luôn luôn được gắn liền với lễ này.

Cùng với gà tây là món Bí đỏ(pumpkin) truyền thống, đây là loại thức ăn đã cứu sống những người hành hương trong mùa lạnh kinh khủng đầu tiên ấy, đã trở thành món ăn quan trọng gần như thịt gà tây. Món ăn bí đỏ luộc, và làm bánh chiên bằng bột ngô. Một số thực phẩm khác cũng xuất hiện trên bàn tiệc như: nước sốt chanh, nước sốt thịt, khoai tây nghiền, khoai lang ướp đường, đậu xanh. Lúc đó trên bàn cũng không có sữa, nước táo, khoai tây hay bơ như sau này, vì họ chưa nuôi được bò để có sữa. Nhưng bữa tiệc cũng thêm phần thịnh soạn vì có thêm cá, trái dâu, rau cải soong, tôm hùm, thịt chim rừng, trái cây khô và trái mận tươi.

Các món tráng miệng cũng được bổ sung trên bàn ăn, bao gồm một số loại bánh nướng nhất là bánh bí ngô, bánh nướng nhân dâu tây, bánh nhân hồ đào.

Ngày nay, trong dịp lễ này gia đình đoàn tụ, khách có thể mang theo món ăn, nhưng không mang theo quà cáp.

Những hoạt động trong ngày Tạ ơn tại Hoa Kỳ:

Một hoạt động không thể thiếu vào dịp Tạ ơn là mua sắm. Ngày thứ Sáu sau ngày Lễ Tạ ơn là ngày mua sắm đông nhất trong năm tại Hoa Kỳ. Bắt đầu từ những năm 1930, mùa mua sắm nhân dịp Giáng sinh bắt đầu khi lễ Tạ ơn kết thúc.

Tại thành phố New York, cuộc diễn hành nhân ngày Tạ ơn của Tập đoàn Macy’s được tổ chức hàng năm tại khu trung tâm Manhattan. Cuộc tuần hành được tổ chức theo các chủ đề đặc biệt nào đó, hoặc mô phỏng các cảnh trong những vở kịch trên sân khấu Broadway kèm theo những chùm bóng lớn vẽ nhiều nhân vật hoạt hình hoặc diễn viên truyền hình nổi tiếng. Diễu hành nhân dịp Tạ ơn cũng diễn ra ở một số thành phố khác như Plymouth, Los Angeles, Houston, Philadelphia và Detroit…

Một hoạt động chính khác trong dịp lễ Tạ ơn tại Mỹ là đá bóng (American football). Nó được coi là một phần quan trọng trong ngày Lễ Tạ ơn. Theo truyền thống, hai đội chuyên nghiệp sẽ giao đấu vào ngày Tạ ơn, song đến gần đây, các trận bóng được tổ chức vào ngày trong tuần, không phải vào Chúa Nhật. Các đội chuyên nghiệp thường đấu nhau trong ngày này để khán giả có thể xem trên truyền hình. Thêm vào đó, nhiều đội banh trung học hay đại học cũng đấu nhau vào cuối tuần đó, thường với các đối thủ lâu năm.

Riêng tại Canada, lễ Tạ ơn diễn ra trong 3 ngày cuối tuần và không được coi trọng như ở Mỹ. Vào dịp này, các gia đình Canada khó có thể tụ họp với nhau, thay vì thế họ coi ngày Noel là dịp để thành viên trong gia đình đoàn tụ. Thêm vào đó, lễ Tạ ơn tại Canada lại rơi vào ngày thứ 2, tuần lễ thứ 2 trong tháng 10, nên người Canada có thể ăn bữa tối Tạ ơn vào bất kỳ ngày nào trong số 3 ngày cuối tuần trước đó. Điều này có nghĩa, họ sẽ ăn tối cùng một nhóm họ hàng trong 1 ngày và một bữa khác với nhóm khác vào ngày hôm sau.

VietCatholic

LABOR DAY- LỄ LAO ĐỘNG CỦA HOA KỲ

Tại Hoa Kỳ, Labor Day được mừng hàng năm vào ngày Thứ Hai đầu tiên của Tháng 9, như một ngày lễ của phong trào lao động, để vinh danh những thành quả về kinh tế và xã hội của công nhân Hoa Kỳ.

Ý tưởng lập một ngày lễ Labor Day là do Matthew Maguire (một người thợ máy) hoặc do Peter J. McGuire (đồng sáng lập Liên đoàn Lao động Hoa Kỳ). Peter McGuire là người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan, một chuyên viên về nghiệp đoàn, muốn các công dân “đã lao động” cả năm phải được tuyên dương và có một ngày nghỉ xả hơi. Ông đã chứng kiến lễ hội lao động hàng năm tại Canada (khởi sự từ Toronto năm 1872) nên đề nghị một ngày lễ tương tự tại Mỹ.



Matthew-Maguire

Cuộc diễn hành Labor Day đầu tiên tại Hoa Kỳ được Nghiệp đoàn Lao động Trung ương (Central Labor Union) tổ chức ngày Thứ Ba 5 tháng 9 năm 1882 với khoảng 10 ngàn thợ thuyền ở New York tham dự. Họ phải nghỉ việc không lương ngày hôm đó. Cuộc diễn hành bắt đầu từ Tòa Thị Chính, qua Union Square rồi đi lên đường 42, kết thúc tại công viên Wendel’s Elm Park, nơi gặp của đường 92 và đại lộ số 9. Tại công viên có một cuộc picnic, các bài diễn văn và một buổi hòa nhạc.

Cuối những năm 1800, khi Labor Day trở thành ngày nghỉ lễ tại HK, đa số công nhân Mỹ còn phải làm 12 giờ một ngày, 7 ngày một tuần lễ. Chính trong đỉnh cao của cuộc Cách mạng Kỹ nghệ mà công nhân phải làm việc nhiều giờ như vậy mới đủ sống. Vào thời gian đó, tuy nhiều tiểu bang đã ra giới hạn về tuổi của công nhân, nhưng một số tiểu bang khác vẫn còn những em nhỏ từ 5 đến 6 tuổi phải làm việc trong các hầm mỏ, xưởng thợ hoặc nhà máy xay. Trẻ em, người già, người nghèo và di dân thường phải làm việc trong những điều kiện không an toàn và lương bổng thấp. Ngày 3 tháng 9 năm 1916, đạo luật Adamson được thông qua, quy định ngày làm việc 8 giờ. Đây là đạo luật liên bang đầu tiên quy định giờ làm việc tại các công ty tư nhân.

Năm 1887, 5 năm sau ngày diễn hành đầu tiên, Tiểu bang thứ nhất tuyên bố Labor Day là một ngày nghỉ lễ là Oregon. Tiếp sau là Colorado, New York, Massachusetts và New Jersey.

Quyết định chọn tuần lễ đầu của tháng 9 để làm Labor Day là vì đây là thời gian giữa ngày Lễ Độc lập 4 tháng 7 và Lễ Tạ ơn.

Ngày 28 tháng 6 năm 1894 Quốc hội thông qua đạo luật chọn ngày Thứ Hai đầu tiên trong tháng 9 hàng năm làm ngày nghỉ lễ chính thức cho District of Columbia và các lãnh địa (territories). Cũng năm này TT Grover Cleveland ký một đạo luật quy định Labor Day được chính thức công nhận là ngày nghỉ lễ toàn quốc.

Tuy ngày Labor Day là để vinh danh công nhân Hoa Kỳ, nhưng nhiều người còn dùng ngày này để ghi dấu sự chấm dứt của mùa hè. Vì thế có truyền thống không mặc quần áo trắng hoặc có sọc sau ngày này. Labor Day còn đánh dấu mùa tựu trường và mùa football bắt đầu (NFL thường chơi trận banh đầu mùa chính thức vào ngày Thứ Năm sau Labor Day). Nhiều cơ sở thương mại dùng Labor Day như ngày buôn bán lớn vì có nhiều người được nghỉ lễ để tự do đi mua sắm. Đây là ngày các tiệm “sale” nhiều hàng hóa chỉ thua ngày Black Friday (ngày Thứ Sáu sau lễ Thanksgiving).

Labor Day được mừng tại Canada và Hoa Kỳ nhưng có nhiều nước kỹ nghệ hóa trên thế giới cũng mừng Labor Day vào thời gian khác nhau. Nhiều nước chọn ngày 1 tháng 5 hàng năm (May Day).

Phương Nghi

TRUNG QUỐC TẨY NÃO NGƯỜI DÂN BẰNG AN NINH MẠNG NHƯ THẾ NÀO?

Với kiến thức hạn hẹp của mình, tui chỉ viết lại qua trải nghiệm thực tế của hai lần sang Trung quốc với mục đích du lịch, nên có thể không hiểu hết, hoặc không biết hết, chỉ share lại để có thể mập mờ đoán về một tương lai an ninh mạng ở VN.
Lần đầu sang TQ tui đi Thượng Hải, Bắc Kinh, Hàn Châu, Tô Châu. Lần sang TQ gần nhất, tui đi qua Đại Lý, Côn Minh, Lệ Giang, Lugu, Shangri-La. Vì chưa tìm hiểu trước, nên khi vừa bay đến Côn Minh đã vô cùng hoảng hốt vì không thể truy cập được facebook, google, instagram, google play, google map, Apple Store, Viber, youtube…… Chỉ duy nhất 1 thứ vào được trong điện thoại là Zalo.
May trong nhóm 3 đứa tui có 1 đứa gốc Hoa, tụi tui đi hỏi vòng quanh sân bay, những người làm dịch vụ, là những người tiếp xúc thường xuyên với du khách quốc tế nhất, nhưng tụi tui hoảng hốt hơn là tất cả đều hỏi:” facebook, google là cái gì vậy?”
Đường phố hay tất cả các hàng quán đều sử dụng duy nhất chữ viết tiếng Hoa và không có chữ cái Latinh, mặc dù lúc book phòng khách sạn ở VN thì tui vẫn thấy ghi tên KS bằng chữ Latinh, hay trước đây vẫn dò đường bằng google map…. thì qua đây tui như người câm, điếc, và mù.
Ở đây họ xài Baidu thay google, Wechat thay Facebook,…. không chỗ nào chấp nhận thẻ visa thanh toán tiền, tóm lại tất cả những ứng dụng cả thế giới đều sử dụng, thì người TQ không phải không xài mà là KHÔNG BIẾT TỚI.
Nhờ sự hỗ trợ từ bạn bè qua Zalo, sau gần 2 ngày trời sống tách biệt với nhân loại, cuối cùng chỉ duy nhất 1 cái dt Iphone của bạn tui đã có thể tải được ứng dụng bẻ khóa VPN để vào facebook. Khi mở app facebook, sau vài chục giây như hàng chục thế kỷ chờ đợi, 1 tiếng ” ting ” thông báo quen thuộc vang lên, 3 đứa tui ôm nhau gào khóc ngoài sân bay như 3 con điên. (Đang chuẩn bị bay sang Lệ Giang). Sau đó 3 đứa tui phải thay nhau sử dụng bằng 1 chiếc dt đó suốt chục ngày trời.
Tất cả những thông tin trong nước và quốc tế đều phải qua bàn tay nhào nặn từ chính phủ. Search 1 số sự kiện thì ra thế này:
_Thảm sát Thiên An Môn 10.000 người chết: thì bên này chỉ có hình ảnh người dân đang đi dạo
_ Các từ khóa : Lục Tứ, chiến tranh biên giới Liên Xô-TQ, sự kiện 709 (là sự kiện chính quyền Trung Quốc bắt và sách nhiễu ít nhất 319 người đấu tranh nhân quyền vào tháng 7/2015), hay những từ khóa cơ bản như :dân chủ, nhân quyền, lưu vong, ĐCSTQ, Độc lập Tân Cương, độc lập Tây Tạng, Đạt lai Lạt ma, Đàn áp ở Tây Tạng… tất cả đều 0 kết quả.
_ Và những sự tẩy não khủng khiếp như truyền thông Trung Quốc đã liên tục đưa ra các tin tức giả mạo để phỉ báng môn tu luyện Pháp Luận Công, khiến người dân ác cảm và thậm chí cả thù hận. Người dân chỉ biết tin và nghe theo những gì được tuyên truyền mà không hề hay biết rằng đằng sau đó những người tập Pháp Luân Công đã bị bắt giam, tra tấn, khiến hàng triệu người mất tích hoặc chết một cách bí ẩn vì bị mổ nội tạng.
… Khi tui đến Shangri-La nhận phòng hostel, 1 đám thanh niên chủ hostel ngồi ăn nhậu, 1 người ra check in, xem passport xong thì hỏi:
_ Mày người Thái Lan à?
_ Không, passport ghi Việt Nam mà.
_ Vậy hả, nhưng có phải mày là người Thái Lan không?
_ Không, Việt Nam, là Việt Nam.
_ À, mày là người Việt Thái à?
Sau 1 hồi giải thích nó mới chịu là người VN, nhưng vấn đề, không phải nó không biết, mà NÓ BIẾT. Ngay sau đó nó kêu cho xem 1 tờ tiền VN, bạn tui móc ra tờ 100k. Nó nhìn xong nói:” Tiền nước mày hình như có in hẳn mấy tờ mệnh giá 1 triệu, 5 triệu, 10 triệu luôn hả, hay mỗi lần mua đồ mày phải xách theo 1 bao tiền?”. Xong cả đám đó lăn ra cười hô hố.
Lúc đó tui ko hiểu sao chúng nó cười, lúc lên phòng, bạn tui dịch lại tui mới cảm thấy điên máu, kêu con nhỏ bạn tui cùng đi xuống đó chửi vào mặt nó 1 trận, nhưng bạn tui ko chịu.
Chứng tỏ rằng, nó hoàn toàn biết, và ý của nó là tờ tiền VN không có giá trị.
Tui nhớ đến năm 2015, ở TQ có cho ra 1 bộ phim hoạt hình gọi dân VN là 1 lũ khỉ. Nên thông tin ở TQ nói về VN như thế nào, về thế giới như thế nào, bẻ cong sự thật, tẩy não người dân thế nào? Thì chỉ họ mới biết. Nhưng qua cái đám người cười hô hố vào đồng tiền VN đó, tui có thể hiểu họ bị gieo rắc vào đầu những thứ chẳng mấy tốt đẹp.
Ngày cuối cùng bay về VN, cả cái sân bay bự chà bá với hàng ngàn người xí xa xí xồ chen lấn xô đẩy, tất cả đều là người TQ, tuyệt nhiên cả cái sân bay, 3 đứa tui là 3 khách ngoại quốc duy nhất, cả chuyến bay của tui cũng vậy.
Đứng xếp hàng ngay ngắn ở cửa ra máy bay để nhân viên soát vé, thì 1 đám hàng chục bô lão TQ kéo tới chen lấn đẩy tụi tui tuốt ra phía dưới, đẩy tui té ngã, sau đó 1 tốp TQ khác kéo tới chen lấn hỗn loạn như cái chợ. Nhân viên soát vé bình thản như chuyện thường ngày ở huyện. Tụi tui thầm nghĩ ” What the fuck !”
Ngay lúc đó, tui đã post lên FB 1 câu ” Tui thề không bao giờ trở lại TQ nữa, vì hệ thống nhà vệ sinh đầy cứt đái vương vãi, không nước không cửa không bàn cầu, chỉ là 1 cái rãnh, họ có thể vừa ỉa vừa nhìn nhau cười nói huyên thuyên với đủ thứ bài tiết hầm bà lằng xung quanh, không chỉ nhà VS công cộng, mà ngay cả nhà hàng cũng tương tự, và vì tui quá sợ hãi bởi sự bưng bít thông tin, bẻ cong sự thật của chính phủ, và vì người dân TQ họ chả biết con mẹ gì ở thế giới ngoài kia, họ tin mình là bá chủ thiên hạ, họ tin TQ là đất nước hùng mạnh nhất thế giới??? Họ chả cần học tiếng nước ngoài, họ tin vào những điều truyền thông TQ tuyên truyền, vì thưc ra họ chả có cái gì để so sánh, họ cứ ngang nhiên chen lấn, khạc nhổ, mỉa mai người khác như cái cách mà cả thế giới đang nhìn về họ. Nhưng, họ không biết, không ý thức, họ ngồi trong cái giếng quá lâu mà họ vẫn hãnh diện với điều đó.
Tui chỉ cảm thấy rợn gai óc về sự khủng khiếp của việc tẩy não thông qua an ninh mạng. Rồi tương lai con cháu của chúng ta sau này, sẽ như thế.
– Quan điểm cá nhân trên trải nghiệm ngắn ngủi cá nhân, về những gì đã trải nghiệm, về những thứ đã thấy, về những con người đã gặp, dĩ nhiên đa số tui toàn gặp người tốt, nhưng đây không phải là 1 bài review du lịch, nên tui chỉ nói những thứ cần nói. Ai tin thì tin. Ai không tin coi như đọc truyện hài, chứ tui ko cần giải thích –

Nguyễn Lan Uyên

TỰ DO KIỂU TRUNG QUỐC

Mấy năm trước, một tay kỳ cựu trong giới công nghệ nói với tôi: Có lẽ thế hệ sau 90, 95 sẽ không còn biết Google là cái gì. Khi ấy tôi nghĩ đây là chuyện hài hước nhất trên đời. Google, công cụ tìm kiếm hữu ích và mạnh mẽ nhất trên Internet, thế hệ người TQ mới, những người sống không thể thiếu Internet, làm sao có thể không biết đến Google?

Nhưng đến hôm nay, tôi buộc phải nín cười. Bởi vì cái điều tôi tin rằng không bao giờ có thể xảy ra ấy, dần trở thành sự thật.

Không còn ai ở TQ quan tâm đến Google nữa, người ta bằng lòng với cái gọi là baidu.com. Không có nó cũng chẳng chết ai. Mọi người vẫn vui vẻ lướt Weibo, Wechat, nghe nhạc, xem chương trình giải trí. Đối với những người chưa bao giờ sử dụng Google, thiếu công cụ tìm kiếm này cũng chẳng ảnh hưởng gì đến cuộc sống của họ.

Nhiều năm trước, ở TQ chúng ta vẫn có thể đăng nhập Facebook. Thực ra Facebook cũng nhàm chán như mạng xã hội xiaonei.com của chúng ta vậy. Nhưng ở đó, chúng ta biết được cuộc sống của người nước ngoài ra sao, có thể dễ dàng thăm hỏi bạn bè ở cách xa hàng vạn km. Có thể đọc rất nhiều trang mạng thú vị mà nếu lên Xiaonei bạn hầu như không bao giờ đọc được. Bạn viết bình luận bằng tiếng Trung, những người comment ngay dưới dòng comment của bạn có thể là một anh chàng người Đài, hoặc người HongKong lạ hoắc nào đó. Bạn viết bình luận bằng tiếng Anh, chưa biết chừng một anh chàng người Bắc Âu, tiếng Anh dở tệ nào đó sẽ nhảy vào bắt chuyện với bạn. Bạn có cảm giác thế giới rộng lớn bỗng nhiên thu nhỏ lại, thành cái làng mà bạn đang sống, bạn chưa kịp thò chân ra khỏi cửa, thì hàng xóm đã đẩy cửa bước vào nhà bạn.

Rồi, ở TQ không còn Facebook nữa. Lúc đầu, sự mất tích của mạng xã hội này khiến vô số người bất bình. Nhưng sau đó, tiếng nói bất bình phẫn nộ dần tan biến.

Nhiều năm trước, người TQ cũng có thể đăng nhập Twitter. Thực ra Twitter cũng na ná Weibo của chúng ta, nơi mà những dòng tin tức chảy trôi không ngừng, ngồi cả ngày chưa chắc đọc được tin tức gì hay ho hữu dụng. Nhưng chí ít ngay lập tức bạn có thể có được tin tức nóng hổi mà bạn muốn biết. Bạn nhanh chóng biết được điều gì đang “hot” trên thế giới, mà không cần thao tác mấy thứ phức tạp như: copy nội dung, dịch nghĩa, forward, chia đoạn, lấy ý chính, loạn hết cả. Bạn sẽ được biết sự thật, sự thật 100%, chưa qua “gia công” tô hồng bôi đen một cách hoặc vô tình hoặc cố ý như trên Weibo.

Sau đó, Twitter không còn nữa. Đầu tiên là phiên bản chính, rồi đến các phiên bản mô phỏng, rồi mô phỏng của mô phỏng. Bây giờ chỉ còn lại cái bắt chước của cái bắt chước của cái bắt chước, chính là cái mà giờ đây, mỗi ngày bạn chỉ toàn nhìn thấy vô số quảng cáo trên đó.

Nhiều năm trước, chúng ta cũng có thể lên Youtube. Có người cho rằng Youtube là Youku quy mô lớn. Năm ấy, có người mạnh miệng tuyên bố: Không có Youtube cũng không sao, TQ sẽ nhanh chóng phát triển Youku vượt xa Youtube. Thế mà bao năm trôi qua, mạng Youku vẫn lag dữ dội như vậy, nội dung vẫn rác rưởi như vậy, bản quyền bị ăn cắp, nhạc bị đạo, video clip vẫn nghèo nàn tẻ nhạt đáng thương như vậy. Trên youtube bạn sẽ được xem những nghệ sỹ tài hoa nhất thế giới trình diễn, những clip hài hước nhất, những sáng tạo đỉnh cao, những bản nhạc lay động, những khoảnh khắc tuyệt vời. Còn trên Youku, bạn muốn xem 1 phút clip thì trước tiên phải xem nửa phút quảng cáo.

Và, đúng rồi, còn Instagram. Nhiều người cho rằng Instagram na ná QQ. Nhưng ở đó, tôi follow hơn 600 nghệ sỹ nhiếp ảnh, họ đều là những nhà nhiếp ảnh, ký giả xuất sắc nhất thế giới. Mỗi ngày chiêm ngưỡng tác phẩm của họ, mỗi ngày tôi cảm thấy hạnh phúc vô bờ. Cảm giác hạnh phúc lâng lâng của người được đi du lịch tại chỗ. Ở đó tôi kết bạn với một anh chàng người Nhật điển trai rất thích selfie, một bác người Hàn hay uống rượu, một ông cụ người Mỹ 10 năm trước từng đến Trung Quốc và nhiệt tình bấm like, viết comment trên mỗi bức ảnh chụp Tử Cấm Thành mà tôi post trên Instagram, một cô bạn người Nga xinh đẹp tuyệt trần. Tôi hầu như không trao đổi nhiều được với họ, vì những trở ngại về ngôn ngữ. Nhưng chỉ cần một vài câu chữ đơn giản, chúng tôi hiểu được thiện ý của nhau, thiện cảm dành cho nhau. Cảm giác ấy, đôi khi còn hưng phấn hơn cả niềm vui gặp mặt những người bạn lâu năm. Bởi vì đó là quá trình giao lưu hoàn toàn tự do của con người thuộc các dân tộc khác nhau trên toàn thế giới. Quá trình ấy thật sự thần kỳ, vô cùng kỳ diệu.

Nhưng giờ đây, nó không còn nữa bởi vì, bạn gõ một từ đặc biệt nào đó trong một thời điểm đặc biệt nào đó, bạn sẽ chỉ tìm thấy những bức ảnh mặc định. Mặc dù những người tìm kiếm kiểu này không nhiều, mặc dù dẫu có nhận ra điều gì khác lạ nhưng nhiều người chẳng bận tâm, họ không như tôi, cảm thấy trời đất tối sầm, rồi chợt lóe sáng, rồi trời sập. Chúng đã thật sự biến mất.

Instagram đã biến mất như thế, Google đã biến mất như thế, Twitter cũng biến mất như thế, Facebook cũng vậy. Không biết người nào, ở đâu, đã nói gì, và ra nghị quyết thế nào, khiến cho hàng tỷ người giống tôi đây lâm vào tình cảnh hệt như “Gotham trên đảo hoang”, chứng kiến từng cây cầu bị bom phá, bị bom phá, lại bị bom phá. Sau rốt, không còn gì nữa cả.

Tôi thường cảm thấy rất bi ai, vô cùng bi ai. Một người tôi không quen, không biết, có thể là một nhóm nào đó đang không ngừng tước đoạt mọi thứ xung quanh tôi, mà tôi thì hoàn toàn bất lực. Tôi oán trách, nhưng họ không nghe thấy, không ai nghe thấy. Tôi tức tối gào lên, phần lớn những người xung quanh tôi đều nhìn tôi như nhìn một kẻ điên. Tôi đau đớn thét lên, tiếng thét của tôi bị chắn bởi bức tường dày cộm, đen đúa. Tiếng kêu thét của tôi trở nên yếu ớt, chẳng truyền đi được bao xa, rồi nó biến mất hệt như những thứ mà tôi bị tước đoạt, bị đánh cắp. Tôi không thấy nó nữa, như thể nó chưa từng tồn tại.

Ai thèm quan tâm đến những thứ vốn chưa từng tồn tại? Những kẻ hậu sinh làm sao thấu hiểu nỗi bi ai của những người từng có được, rồi bị tước đoạt trắng trợn. Tôi từng có tất cả, tôi từng có cả thế giới. Tôi từng được hít hà bầu không khí tự do và uống dòng nước tự do mát lành trên mảnh đất này. Nhưng rồi trong dòng đời dằng dặc bất tận, sinh mệnh tự do của tôi bị giết chết từng chút một, bị khai tử một cách bất thình lình. Nhưng tôi vẫn có cảm giác chúng đang thoi thóp, như thể chúng đang chết dần chết mòn.
Rồi thì cuối cùng chúng cũng chết thật. Và, cùng với cái chết của chúng, ngày càng nhiều chuyện xảy ra, chậm rãi thôi, lặng lẽ thôi, hầu như không ai phát giác ra. Nhưng đúng là chúng đang diễn ra.
Không có Google thì dùng Baidu, có sao đâu? Nhưng một vài kết quả tìm kiếm càng ngày càng bị đẩy lùi về những trang sau, càng ngày càng lùi về sau, và rồi biến mất. Như thể kết quả đó vốn dĩ không hề được tìm thấy vậy.

Không có Facebook thì dùng Xiaonei, có sao đâu? Nhưng những bài viết mà bạn chỉ có thể post trên Facebook sẽ nhanh chóng biến mất trên Xiaonei. Tiếp theo đó, trang xiaonei.com biến thành trang renren.com, chủ đề trên trang này trở thành những chủ đề đại chúng. Mọi người tranh nhau xem bói, tìm hiểu đời tư của người nổi tiếng, chuyện phiếm, nghe nhạc. Không ai bận tâm thứ gì đó đã biến mất, bởi dù sao thì sự tồn tại của thứ đó vốn dĩ rất mờ nhạt.

Không có Youtube thì dùng Youku, có sao đâu? Nhưng lên Youku, bạn thường “được” xem những clip đạo rẻ tiền, và người ăn cắp thì dương dương tự đắc, tự cho mình là tài ba, như thể cái ý tưởng ấy vốn dĩ là của anh ta vậy. Bạn xem và bạn không khỏi giật mình kinh ngạc, sao anh ta có thể làm được như thế nhỉ! Ăn cắp sáng tạo quá! Nhưng bạn đâu biết rằng, bạn có suy nghĩ như thế là vì bạn không hề biết trên đời còn có một trang mạng tên Youtube.

Không có Twitter thì dùng Weibo, có sao đâu? Nhưng khi bạn muốn biết chuyện gì đang xảy ra gần đây, bạn miệt mài tìm kiếm, nhưng càng tìm thì kết quả sau đây hiện ra càng rõ nét: “Theo quy định của pháp luật, kết quả tìm kiếm không được phép hiển thị”. Lâu dần, bạn nghĩ, dù sao biết được tin tức ấy cũng chẳng để làm gì, thôi thì chẳng tìm nữa, chẳng cần nữa.

Và thế là, từng cánh cửa cứ lần lượt bị đóng sập lại. Hôm nay, ở Trung Quốc bạn mở trang http://www.worldjournal.com, bạn không thấy nó đâu. Ngày mai, trang web mà kiến trúc sư số một thế giới chia sẻ với bạn đọc cũng biến mất. Đầu tiên là tốc độ load rất chậm, rất rùa, sau đó thì hoàn toàn mất hút. Vài hôm nữa, trang tin tức mà trước đó bạn vẫn vào đọc một số bài viết đều đặn mỗi ngày bỗng mất tăm. Những trang viết độc đáo, xuất sắc đó chỉ hiển thị mấy dòng chữ: Không thể hiển thị. Vài tháng nữa, mạng đại học bị đóng cửa, website nhiếp ảnh bị đóng cửa, thậm chí trang tìm kiếm bằng tiếng Nhật của Baidu cũng không còn.

Tiếp đó, trang truyện tranh biến mất, tiếp đó, trang phim hoạt hình không còn. Tiếp đó, trang phim Mỹ đóng cửa, ngay cả trang download phim Mỹ cũng cũng cũng cũng… hoàn toàn biến mất. Tôn trọng bản gốc, bảo vệ bản quyền ư. Thôi được, vậy thì vì sao, ngay cả trang web chia sẻ sub cũng không còn ???

Từng ngọn đèn bị dập tắt. Nguồn sáng chiếu rọi từ bốn phương biến mất. Thế giới đa sắc màu, tươi đẹp rực rỡ của chúng ta bỗng chốc biến thành một màu đen thê thảm.

Trời tối rồi à, thế thì đi ngủ thôi. Cầu cho cơn say này kéo dài mãi mãi, khỏi phải tỉnh lại.

“Vương triều từ đây vững chắc
Giang sơn từ đây thái bình.”

.

© Dịch từ một bài viết của một tác giả nickname là Tiểu Hải, người Trung Quốc. Bạn không tìm thấy bài viết này ở bất cứ trang mạng nào ở Trung Quốc nữa vì nó đã bị gỡ bỏ triệt để, chỉ tồn tại thấp thoáng trong một vài diễn đàn.

CẢM ƠN NGƯỜI LÀM NÊN LỊCH SỬ… .

cảm ơn anh
một ngày
cho sống lại
triệu nhịp tim dòng máu đỏ da vàng
triệu lời tim uất ức buổi tuôn tràn
thề phương bắc giặc nghìn đời quyết đuổi

**
lũ bán nước tưởng hờn ta đã nguội
cảm ơn em
cho sống lại
thù này
đất quê hương vẹn giữ để mai rày
sáng ngời thế hệ sau làm rạng rỡ

**
cảm ơn chị
đã không hề
lo sợ
thân liễu mềm lá chắn thú dàn ngang
nắm tay gầy hô lớn tiếng vang vang
cút khỏi đất tao ngay bầy xâm lược

**
giày mả tổ bàn chân voi ai rước
để bây giờ
tạ ơn má
má ơi
đứng bên con nước mắt má khôn vơi
nước mắt má rơi lòng đau con xé

**
tạ ơn cha
trời nam
không bán rẻ
dẫu gánh đời chưa một phút bình yên
thẳng lưng người đây sông núi hùng thiêng
tổ quốc lâm nguy muôn lòng như một

**
tổ quốc lâm nguy toàn dân thành một
ý đồng tâm thuận núi cũng san bằng
biển mênh mông hồn sóng thuở bạch đằng
nửa tấc ư
không
thề con nguyện giữ

**
tạ ơn những hy sinh vì bất tử
sống lại rồi
dòng máu chảy
VIỆT NAM… .

VIẾT CHO NGÀY LỊCH SỬ

TRỞ MÙA… .

những ngày tháng
suối trơ
dòng khô cạn
lạnh heo may bão lá trút nghiêng vàng
nắng hanh hao đổ xuống bóng điêu tàn
đường nổi gió mịt mùng bàn chân ngả

**
thèm lối cũ nhà xưa thơm hương rạ
võng đong đưa kẽo kẹt chái hiên buồn
má ngân câu vọng cổ cánh mỏng chuồn (*)
phận chỉ thế (*)
nghe lòng
rầu bắt chết

**
phận chỉ thế
bữa cơm chiều
giống hệt
ăn rau đi cá nhiễm độc cả rồi
ăn rau đi má chống đũa mâm ngồi
đôi mắt ngó rưng rưng vườn hạ cháy

**
má chống đũa hang sầu run dế gáy
giọng mồng tơi má biểu chẳng chi còn
bọn tham lam vơ vét nước non mòn
sẽ như má
bấc tàn dầu
ngọn tắt

**
trời sẫm rũ màn đêm con cúi mặt
tiếng má đều kinh nguyện khóc hồn đau
thuở ba mày sống nghĩ tới mai sau
dè đâu nỗi
nhà tan tành
cửa nát

**
dè đâu nỗi
con đi đây
nặng hạt
mặn mưa bờ sóng dậy buổi triều lên
có thể nào tổ quốc lúc gọi tên
lại bỏ mặc gia đình cơn ly tán

**
dẫu khổ mấy chẳng bao giờ con bán
mất mẹ rồi
vất vưởng
một quê hương… .

VIẾT CHO NGÀY LỊCH SỬ 08/06/2018

đêm không ngủ âm âm lồng ngực nén
nỗi quê hương khổ nạn đã bao đời
nỗi quê hương tấc đất quyết không rời
dù máu chảy
quê hương
tràn máu chảy

**
đêm không ngủ nghe tình yêu thức dậy
dải non sông hình chữ s vô cùng
dậy vang tim nhịp trống thúc hào hùng
hội nghị diên hồng
toàn dân
nguy biến

**
những tiếng thét vỡ tung lòng quyết chiến
những mái đầu năm tháng bạc phơ phơ
những tinh khôi giấy trắng các em thơ
ngẩng cao mặt
khinh
dùi cui roi sắt

**
sẽ thấy rõ hờn căm trong ánh mắt
dòng máu đang sôi huyết quản muôn người
thấy ước mơ giành lấy đóa môi cười
lấp lóa sáng
bình minh
màu kiêu hãnh

**
việt nam ơi đổ về đây triệu nhánh
cuồn cuộn sông biển sóng lớn tung bờ
đất mẹ ta từng phút đợi giây chờ
thời khắc chuyển
rợp xanh
trời chim én

**
tổ quốc quyết sinh con lập thề giữ vẹn
quyết tử này
dâng kính mẹ
VIỆT NAM… .

BÍ ẨN VỀ CUỘC ĐỜI DANH TƯỚNG TÂY SƠN VŨ VĂN DŨNG

Chiêu Viễn Đại tướng quân Vũ Văn Dũng là danh tướng của triều Tây Sơn, cũng như nhiều danh tướng Tây Sơn khác, hiện nay quê hương gốc tích của ông ở đâu còn là vấn đề tranh cãi. Người thì cho rằng quê ông ở Bình Định, người lại nói quê ông ở Hải Dương. Vậy rốt cuộc quê ông ở đâu? Bài viết này chỉ mong đóng góp một phần nhỏ trong việc tìm hiểu quê hương gốc tích của Vũ Văn Dũng.

1. Vũ Văn Dũng quê ở Hải Dương.
Tài liệu quan trọng cho biết rõ quê Vũ Văn Dũng ở Hải Dương, đó là gia phả họ Vũ do Vũ Vĩnh Thứ, cháu ba đời của Vũ Văn Dũng soạn vào năm Tự Đức thứ 22 (1870), trong đó đoạn chép: “Vào ngày Rằm tháng 4 năm Quang Trung thứ 4 (1791) , nhà vua có phái người đi từ Phượng Hoàng trung đô ở Nghệ An đem sắc lệnh sau đây ra cho Đại Đô đốc Vũ Quốc công đang nghỉ giả hạn ở nhà: “
Sắc sai Chiêu Viễn Đại Đô đốc Đại tướng quân Dực vận công thần Vũ quốc công Vũ Văn Dũng được tiến phong làm chức Chánh sứ đi qua Tàu, kiêm toàn quyền trong việc tâu thưa xin lại hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây để dò ý và cầu hôn một vị công chúa để chọc giận. Cẩn thận đấy! Hình thể dụng binh đều do nơi chuyến đi này cả.. Một ngày kia người đi tiên phong chính là khanh đó. Kính thay lời sắc sai này.
Ngày Rằm tháng 4, năm Quang Trung thứ 4 (1791)
Tài liệu này được Hoa Bằng dẫn lại trong cuốn sách nghiên cứu về Quang Trung của ông, cuốn Quang Trung anh hung dân tộc (Hoa Tiên tái bản, Sài Gòn 1974). Sau này nhiều người cũng trích dẫn tài liệu này và cho rằng, đây là căn cứ duy nhất nói rằng Vũ Văn Dũng quê ở Hải Dương. Trong cuốn sách Nguyễn Huệ- Phú Xuân (Nhiều tác giả, Nxb Thuận Hóa, 1986) tác giả Phan Thuận An, sau khi trích dẫn tài liệu này cũng cho rằng “Trên đây là nguồn tài liệu thứ nhất và cũng là tư liệu duy nhất cho rằng, Vũ Văn Dũng là người tỉnh Hải Dương” (Sdd, tr.153)
Trước hết, theo chúng tôi, đây là một tài liệu rất quý (nhưng không phải là duy nhất) cho ta biết gốc tích của Vũ Văn Dũng. Điều đặc biệt là, tư liệu này rất phù hợp với những nội dung ghi chép của Hoàng Lê nhất thống chí (HLNTC), về sự kiện VVD được cử làm chánh sứ qua Tàu: “Lại nói, vua Quang Trung sau khi quyết định việc đánh Trung Quốc, bèn sai bề tôi là Chiêu Viễn Vũ Văn Dũng sang nhà Thanh, dâng biểu cầu hôn và đòi lại đất hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây. Điều đó không phải là bản tâm của vua Quang Trung , chẳng qua muốn thử xem ý nhà Thanh ra sao mà thôi. Nhưng vừa lúc ấy thì vua Quang Trung mất, việc cầu hôn và việc đòi đất không thấu đến triều đình Trung Quốc, nên vua Thanh cũng không biết” (HLNTC)
Việc ghi chép thống nhất giữa hai nguồn tư liệu như thế, cho phép chúng ta tin rằng, gia phả họ Vũ ở Hải Dương do Vũ Vinh Thứ chép là đáng tin cậy. Tuy nhiên, đây không phải là “căn cứ duy nhất” như một số nhà nghiên cứu nhận định. Còn một số sử sách đương thời ghi chép về gốc tích VVD , và đều cho rằng ông quê ở Hải Dương. Trong tác phẩm Lê Triều dã sử (Khuyết danh, do Nguyễn Huy Thức và Lê Văn Bảy dịch, Nxb Văn hóa- Thông tin, 2006) cũng có một đoạn ghi về sự kiện đi sứ này , và cũng nói rõ, VVD quê ở Thanh Miện, Hải Dương. Sách viết: “Trước đó, Quang Trung sai Dũng Phái Chiêu Viễn Đại Tướng quân người làng Thanh Miện sang sứ Càn Long , trong đó trình bày ba việc: Một là cầu hôn công chúa, hai là đòi trả lại đất Lưỡng Quang, ba là xin thả Chiêu Thống về nước. (Sdd, tr.121)
Trong tác phẩm Lịch triều tạp kỷ của Ngô Cao Lãng (tập 3, Nxb Khoa học Xã hội, 1995) có ghi: “Bọn lưu giữ Thăng Long là Phan Văn Lân và Nguyễn Văn Danh vâng lệnh chọn cử bọn võ quan trong thành là Chiêu Viễn Đại tướng quân Vũ Hữu Dũng, người Hải Dương, văn quan là Ngự sử Phan Huy Ích lên cửa quan Lạng Sơn chờ nghênh tiếp các Đại viên công quán của Thiên triều” (sdd, tr.628). Ở đây sách ghi là Vũ Hữu Dũng chứ không phải Vũ Văn Dũng , nhưng với tước danh và chức vụ Chiêu Viễn Đại tướng quân, thì người được nhắc đến ở đây là Vũ Văn Dũng chứ không phải ai khác.
Nhưng có lẽ tư liệu sau đây mới là đáng tin cậy nhất. Đó là tác phẩm Lê quý kỷ sự của Nguyễn Thu (do Hoa Bằng dịch, Nxb Khoa học Xã hội, 1974). Sách viết: “Nguyễn Huệ sai Chiêu Viễn Đại tướng quân tên là Dũng ở lại đóng quân ở Bố Chính ngoại châu, còn Huệ kéo quân qua sông về Nam. Dũng người Hải Dương, ngày trước theo Đại tướng quân Quận Tạo (tức Phạm Ngô Cầu) vào lưu thủ ở Thuận Hóa. Quận Tạo sai Dũng đi Quy Nhơn để dụ Nguyễn Hữu Chỉnh quay về với cố quốc nhưng Dũng lại tiết lộ tình hình quân sự với giặc. Việc bị phát giác, Dũng bị quận Tạo bỏ tù. Khi thành Phú Xuân bị phá, Huệ thả Dũng ra khỏi nhà lao, dung làm Chiêu Viễn Đại tướng quân. Đến đây, Huệ sai Dũng ở lại Bố Chính ngoại châu, trưng mộ quân lính trong châu, đóng đồn ở Phổ Ngõa, còn Huệ, kéo hết quân qua La Hà về Nam” (Sdd, tr.53). Đây là tài liệu rõ rang nhất, cụ thể nhất cho ta biết gốc tích của Vũ Văn Dũng cũng như giải thích lý do vì sao ông là tướng nhà Lê Trịnh mà lại theo nhà Tây Sơn. Tài liệu này cũng giải thích cho ta biết vì sao ông lại có tước danh Chiêu Viễn (Mời gọi từ xa) mà Nguyễn Huệ phong tặng cho ông. Tài liệu này cũng cho ta biết cụ thể thời điểm mà VVD theo nhà Tây Sơn, đó là khi Nguyễn Huệ giải phóng thành Phú Xuân (5.1786) .
Điều chắc chắn là cả 4 tài liệu trên đây đều ghi rất chính xác cả chức vụ và tước danh của ông : Chiêu Viễn Đại tướng quân. Đó là chức vụ và tước danh của Vũ Văn Dũng chứ không phải của ai khác.. Tác giả Tạ Chí Đại Trường trong tác phẩm Việt Nam thời Tây Sơn, lịch sử cuộc nội chiến (Nxb Công an Nhân dân, 2007) có đưa ra nhận định tương đối chính xác : “Lại cũng là chuyện bình thường của thời thế, nhóm quan quân đầu hang, tù binh kia của Trịnh đi qua phía Nguyễn Ánh , vẫn còn một bộ phận ở lại phía Tây Sơn, trong đó hẳn có Vũ Văn Dũng” (sdd, tr.474). Gần đúng như thế. Chỉ có điều Vũ Văn Dũng không phải là tù binh mà ông đã tự nguyện cộng tác với nhà Tây Sơn từ những ngày Tây Sơn còn giữ quan hệ “ngoại giao” với triều đình Lê- Trịnh.(Chính Nguyễn Nhạc đã từng nhận chức tước của triều đình Lê- Trịnh làm Tráng Tiết tướng quân Tây Sơn trưởng hiệu và đã nhiều lần cử sứ giả đến Phú Xuân giao thiệp với Hoàng Ngũ Phúc, Phạm Ngô Cầu (Theo Đại Việt sử ký tục biên)
2.Võ Văn Dũng quê ở Bình Định
Có một điều cần nhấn mạnh trước là, những tài liệu nói Võ Văn Dũng quê ở Bình Định đều ghi ông họ Võ (Võ, chứ không phải Vũ, mặc dù Võ hay Vũ cách viết chữ Hán cũng như nhau)
Có một số nguồn tài liệu nói rằng, Võ Văn Dũng quê ở Bình Định, cụ thể là ở thôn Phú Mỹ, xã Bình Phú, huyện Bình Khê. Trong Tây Sơn – Nguyễn Huệ, kỷ yếu Hội nghị nghiên cứu phong trào Tây Sơn và anh hùng Nguyễn Huệ (Ty VHTT Nghĩa Bình, 1978) cho biết: Dòng họ Võ còn nhà thờ ở thôn Phú Mỹ với bức biển “Võ từ đường” khảm trai và bài vị Võ Văn Dũng. Gia phả họ Võ mới biên soạn gần đây trên cơ sở giấy tờ cũ, ghi rõ các thế hệ, trong đó Võ Văn Dũng đời thứ 4 (sdd, tr.53)
Trong tác phẩm Nhà Tây Sơn (Quách Tấn, Quách Giao, Sở VHTT Nghĩa Bình, 1988) cũng cho biết Võ Văn Dũng quê ở Bình Định. Là người cùng quê với anh em Tây Sơn, nên ông tham gia phong trào ngay từ đầu, là một trong “Tây Sơn thất hổ tướng (Bảy hổ tướng nhà Tây Sơn: Võ Văn Dũng, Võ Đình Tú, Trần Quang Diệu, Lý Văn Bưu, Nguyễn Văn Tuyết, Lê Văn Hưng, Nguyễn Văn Lộc).Đặc biệt, tác phẩm này còn cho ta biết, Võ Văn Dũng không chết dưới lưỡi gươm trả thù của vua Gia Long mà sau khi bị bắt, ông đã trốn được về quê nhà, rồi lên Núi Xanh ở ẩn, đổi tên là Võ Văn Độ. Ông sống trên 90 tuổi và mất dưới đời vua Thiệu Trị. Mãi đến năm Đồng Khánh, Thành Thái (1885- 1907), con cháu mới đem hài cốt của ông về quê nhà!
Về các tài liệu nói Võ Văn Dũng quê ở Bình Định, chúng tôi nhận thấy:
Một là, đây là những tài liệu mới được ghi chép gần đây. Gia phả họ Võ cũng mới được biên soạn trên cơ sở “giấy tờ cũ”. Giấy tờ cũ ở đây là giấy tờ gì, tài liệu không cho biết. Như vậy, mức độ tin cậy của cuốn gia phả đó là rất thấp.
Hai là, trong gia phả họ Võ cũng như trong tác phẩm Nhà Tây Sơn của Quách Tấn, Quách Giao các tác giả không hề ghi được tước danh của Võ Văn Dũng là Chiêu Viễn, một điều rất quan trọng để chứng tỏ ông là Vũ Văn Dũng chứ không phải là một người nào khác trùng tên.
Ba là, Vũ Văn Dũng là một nhân vật quan trọng số hai sau Trần Quang Diệu. Hẳn là việc giam giữ và dẫn giải đối với người tù này sẽ được áp dụng với một chế độ đặc biệt. Trong hoàn cảnh đó, làm sao VVD có thể vượt ngục và trốn thoát được? Và nếu ông trốn thoát được thì sẽ bị truy nã đến cùng (để đề phòng hậu họa). Vì vậy nói rằng ông trốn thoát được rồi lên núi sống đến 90 tuổi là không thể tin được.
Mặt khác, việc VVD bị bắt ở Thanh Hóa và bị nhà Nguyễn “xử trị hết phép” trong lễ “Hiến phù” diễn ra vào thang11 (1802) đã được sử nhà Nguyễn ghi chép lại đầy đủ: “Còn bọn đồ đảng là Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng đều bị xử trị hết phép, bêu đầu cho mọi người đều biết” . Trong chiếu Bố cáo thiên hạ về việc này cũng nói rất cụ thể: “Ngày mồng 6 tháng này (tức tháng 11) tế cáo trời đất. Ngày mồng 7 yết tế Thái miếu, làm lễ Hiến phù, bọn Nguyễn Quang Toản và ngụy Thái tể Quang Duy, Nguyên súy Quang Thiệu, Đốc trấn Quang Bàn, Thiếu phó Trần Quang Diệu, Tư đồ Vũ Văn Dũng , Tư mã Nguyễn Văn Tứ, Đổng lý Nguyễn Văn Thận, Đô ngu Nguyễn Văn Giáp, Thống tướng Lê Văn Hưng cùng với bè lũ đầu sỏ đều đã bắt giam, đều đem giết cả, bêu đầu bảo cho dân chúng” (Đại Nam thực lục, Nxb Giáo dục, tập 1, tr.532, 533)
Xem thế thì thấy rằng, chuyện VVD bị bắt rồi vượt ngục, trốn lên núi Xanh, sống đến ngoài 90 tuổi chỉ là chuyện hoang đường.Nhưng sự kiện có một tướng Tây Sơn tên là Võ Văn Dũng (Độ), trốn thoát rồi lên núi Xanh sống ẩn dật lại có thể là có thật. (vì có chuyện con cháu chuyển hài cốt). Chúng tôi cho rằng có một ông Võ Văn Dũng trùng tên quê ở Bình Định. Vì cùng quê với anh em Tây Sơn nên ông tham gia phong trào từ rất sớm. Tuy nhiên, vai trò của ông đối với nhà Tây Sơn không lớn lắm. Sau khi nhà Tây Sơn mất, vì là tướng nhỏ, không có vai trò gì đặc biệt vua quan nhà Nguyễn không chú tâm lắm nên ông đã trốn thoát được và sống cho đến già trên núi Xanh, như tài liệu của các ông Quách Tấn, Quách Giao đã cho biết. Còn danh tướng Tây Sơn Chiêu Viễn Vũ Văn Dũng thì đã bị bắt, bị hành hình vào tháng11 năm 1802. Ông quê ở Thanh Miện, Hải Dương như nhiều tài liệu, sử sách cùng thời, đáng tin cậy đã cho biết.
Có một điều đáng lưu ý là : Trong tác phẩm Nhà Tây Sơn, hai ông Quách Tấn, Quách Giao đã đề cập đến rất nhiều vị tướng lĩnh tài ba, nổi tiếng, có vai trò rất quan trọng đối với nhà Tây Sơn như Võ Đình Tú, Đặng Xuân Phong, Lê Sỹ Hoàng, Đặng Cần Chánh, Nguyễn Quang Huy… chúng tôi đã tìm nhiều tài liệu ghi chép cùng thời nhưng không tìm thấy tên tuổi của những vị tướng này. Có lẽ đây là những nhân vật sưu tầm được trong dân gian ở một địa phương, được dân gian vùng Bình Định đồn thổi lên , có thể không có thật hoặc có một phần nhỏ sự thật. Trường hợp tướng Võ Văn Dũng (Độ) đề cập trong cuốn sách này cũng nằm trong số đó.
Có một điều thú vị là, ngày trước mỗi một vị tướng đều sở trường về một loại vũ khí. Theo các tác giả Nhà Tây Sơn cho biết thì tướng Võ Văn Dũng (Độ) sở trường về trường kiếm và đoản đao.. Tuy nhiên theo tập Hồi ký Biên niên sự vụ do Nguyễn Đức Xuyên, tướng nhà Nguyễn, đã từng gặp gỡ và đấu võ với tướng Vũ Văn Dũng cho biết thì ông lại sở trường về CÔN. (Theo Nghiên cứu Huế, tập 1-5, Trung tâm nghiên cứu Huế 1998 – 2003, do Trần Đại Vinh dịch và chú giải). Điều đó cho ta củng cố them nhận định, đây là hai nhân vật khác nhau.

Phan Duy Kha

(Bài đã đăng trên Tạp chí Huế Xưa và Nay, số 84/2007)

LỊCH SỬ NGÀY LỄ TẠ ƠN

 

Khi những chiếc lá vàng cuối cùng rơi và khí trời càng trở lạnh cũng là lúc cả đất nước Hoa Kỳ đang chuẩn bị bước vào những ngày lễ trọng đại và thiêng liêng. Một trong những ngày lễ quan trọng đó là Lễ Tạ Ơn .Lễ Tạ Ơn như đem những người sống trên đất nước Hoa Kỳ trở về với những ngày đầu của tổ tiên họ… Vào ngày 6 tháng 9, 1620, có 102 người, vừa đàn ông, đàn bà, trẻ con cùng một số vật dụng bước lên con tàu Mayflower rời Anh Quốc, vượt đại dương để tiến về Tân-thế-giới. Họ ra đi và mang trong lòng một nỗi khao khát: tìm tự do tôn giáo (seeking religious freedom). Họ được gọi bằng tên mới “Những người hành hương” (Pilgrims). Một vài nhà sử học coi đây là Lễ Tạ Ơn đầu tiên mặc dầu không có tiệc tùng, ăn uống, vui chơi…

Mùa đông đầu tiên quá lạnh, thật vô cùng khắc nghiệt, đến với họ.
Thực phẩm lại thiếu thốn trầm trọng. Tháng 12 năm ấy có sáu người qua đời, qua tháng Giêng có tám người, tháng Hai tăng lên 17 người, và 13 người qua đời trong tháng Ba. Những người này đã âm thầm chôn cất những thi hài trong đêm tối vì sợ Thổ Dân (Native Indians) biết được có thể tấn công họ chăng! May mắn thay, không có một xung đột nào đáng kể giữa Người Da Đỏ và Người Hành Hương như họ dự đoán. Trái lại Thổ Dân rất thân thiện và tận tình giúp đỡ những Người Hành Hương trong cuộc sống mới về việc dạy cách trồng tỉa, săn bắn, nấu nướng các thứ hoa quả lạ…

Tháng Tư họ cùng nhau trồng bắp dưới sự chỉ dẫn của một Người Da Đỏ tên là Squanto. Những luống bắp nầy quyết định sự sống còn của họ trong mùa Đông sắp tới. Họ vui mừng vì mùa Xuân và mùa Hè năm 1621 thật quá tuyệt đẹp! Bắp lên tươi tốt hứa hẹn một vụ mùa no nê như lòng họ mơ ước. Mùa Đông lại về, nhưng bây giờ không còn là một đe dọa nữa. Mùa màng đã gặt hái xong, họ có dư thực phẩm để sống qua những ngày đông giá rét. Cũng không còn sợ lạnh vì đã làm được 11 cái nhà vững chắc đủ chỗ để quây quần sum họp. Họ quyết định tổ chức một Hội Ngày Mùa (Harvest Festival) để tạ ơn Thượng Đế cho họ sống sót qua mùa đông đầu tiên. Đó là lễ Tạ Ơn đầu tiên trên đất Mỹ. Ngày tháng chính thức của “First Thanksgiving” nầy không được chép lại, chỉ biết đầu tháng 11 năm 1621.

Thực phẩm chính trong Lễ Tạ Ơn nầy gồm: Bắp, bí đỏ, chim, vịt, ngỗng và gà tây. Họ cũng mời khách là các Thổ Dân. Tù trưởng Massasoit dẫn 90 dũng sĩ đến dự “party” và cũng đem biếu Thống Đốc của nhóm Người Hành Hương lúc bấy giờ là Bradford năm con nai nhân ngày Lễ Tạ Ơn đó. Họ ăn uống vui chơi suốt một tuần lễ.

Lịch sử ngày Lễ Tạ Ơn của người Mỹ cũng thăng trầm, trôi nổi theo vận  nước của họ. Các tiểu bang thuộc địa đầu tiên không thống nhất được ý kiến chung về một ngày Lễ Tạ Ơn. Họ giữ ngày lễ tùy ý mà họ cho là thích hợp. Khi cuộc cách mạng giành độc lập từ tay Người Anh thành công họ mới nghĩ đến một Lễ Tạ Ơn chung cho 13 tiểu bang. Tổng Thống đầu tiên của nước Mỹ, George Washington, kêu gọi dân chúng giữ ngày thứ năm 26 tháng 11 năm 1789 làm ngày lễ Tạ Ơn đầu tiên cho toàn quốc (First National Thanksgiving). Nhưng sau đó lễ tạ ơn cũng không được mọi người công nhận theo một ngày tháng nhất định. Dầu vậy, càng ngày càng có nhiều người đưa ra ý kiến nên có một ngày nhất định, đưa lễ Tạ Ơn thành quốc lễ (National Holiday) và đưa quyền quyết định cho chính phủ Liên-Bang.

Một trong những người có công trong việc thúc đẩy việc thành hình ngày Lễ Tạ Ơn là bà Sarah Josepha Hale. Vào năm 1837 bà Sarah trở thành chủ bút của một tạp chí phụ nữ nổi tiếng có tên “Godey’s Lady’s Book”. Bà đã viết hàng trăm lá thư gởi đến các nghị sĩ Quốc Hội và những người có thế lực lúc bấy giờ hầu vận động đưa ngày Thanksgiving vào quốc lễ. Trong thời kỳ nội chiến (Civil War) năm 1861, bà viết một tâm thư kêu gọi hai phe buông súng một ngày để giữ Lễ Tạ Ơn, nhưng không phe nào chịu nghe cả. Bà thất vọng!

Mãi đến năm 1863, Tổng thống Abraham Lincoln nhận thấy chiến tranh đã đến hồi kết thúc nên chỉ định ngày thứ năm cuối cùng của tháng 11 làm ngày Lễ Tạ Ơn cho toàn quốc. Chẳng may ông bị ám sát, Andrew Johnson lên làm Tổng Thống, tiếp tục truyền thống cũ, nhưng đổi lại ngày thứ năm tuần lễ thứ 4 của tháng 11 làm Lễ Tạ Ơn. Rồi trong khoảng thời gian từ năm 1939 đến 1941, Tổng Thống Franklin Roosevelt chỉ định ngày thứ năm của tuần lễ thứ ba trong tháng 11 làm lễ Tạ Ơn thay vì thứ năm trong của tuần lễ thứ 4. Nhưng lần nầy Roosevelt bị các thương gia và các đảng viên Đảng Cộng Hòa chống đối dữ dội, cho rằng Tổng Thống đã đi ngược lại truyền thống cũ. Hai năm sau Tổng Thống Roosevelt rút lại quyết định và đặt ngày thứ năm tuần lễ thứ 4 của tháng 11 làm ngày Lễ Tạ Ơn cho toàn quốc mãi cho đến ngày hôm nay.

Lễ Tạ Ơn là dịp để chúng ta đếm các ơn lành Trời ban. Nhìn lại những ngày tháng tại quê nhà, cuộc hành trình tị nạn đầy gian nan vừa qua và những thành quả mà Người Mỹ Gốc Việt đạt được ngày hôm nay để chúng ta dâng lên Thượng Đế lời Tạ Ơn sâu xa nhất. Tạ ơn Trời vì Ngài đã ban cho ta sự sống, hơi thở, sức khoẻ và bao nhiêu là ân huệ. Chúng ta cũng nên cảm ơn nhau. Cảm ơn thân quyến, bạn bè, những người thân quen và ngay cả những người chưa từng biết về sự chan hòa của họ trong cuộc sống của mỗi chúng ta trong cộng đồng nhân loại.

Kính chúc mọi người, mọi nhà một kỳ Lễ Tạ Ơn tràn đầy ý nghĩa!

(Nguồn NHU LIỆU THÁNH KINH)

Dạ Khúc: Năm Câu Chuyện Về Âm Nhạc Và Đêm Buông ( chương 2)

FILE PHOTO: Author Kazuo Ishiguro photographed during an interview with Reuters in New York, U.S. April 20, 2005. REUTERS/Mike Segar/File Photo

 

Khi tôi tới gặp ông Gardner thì đường phố đã khá tối và vắng vẻ. Hồi ấy tôi vẫn còn lạc đường mỗi lần đi xa quảng trường San Marco, thế nên dù đã khởi hành sớm, dù đã biết vị trí cây cầu nơi ông Gardner hẹn, tôi vẫn đến muộn vài phút.

Ông đứng ngay dưới ngọn đèn đường, mặc bộ com lê nhăm nhúm, áo sơ mi mở ba hay bốn nút, có thể nhìn thấy cả lông trên ngực. Khi tôi tạ lỗi đến muộn, ông bảo:

“Vài phút thì có hề gì? Lindy và tôi lấy nhau đã hai mươi bảy năm. Vài phút thì có hề gì?”

Ông không bực tức, nhưng có vẻ nghiêm trọng và âu sầu – không có gì là lãng mạn. Đằng sau ông là chiếc gondola dập dềnh nhẹ nhàng trên sóng, và tôi thấy người đứng thuyền là Vittorio, một người tôi không mấy ưa. Trước mặt tôi, Vittorio lúc nào cũng xởi lởi, nhưng tôi biết – ngay từ hồi ấy – anh ta đi khắp nơi nói đủ thứ chuyện tồi tệ, toàn chuyện đặt điều, về những kẻ như tôi, những kẻ anh ta gọi là “bọn ngoại quốc từ các nước mới nứt mắt”. Thế nên hôm ấy khi anh ta chào tôi hồ hởi như anh em ruột, tôi chỉ đáp lại bằng cái gật đầu, và im lặng đợi anh ta đỡ ông Gardner vào thuyền. Rồi tôi đưa anh ta cầm cây đàn – tôi mang theo cây Tây Ban Cầm, để cây có lỗ ô van ở nhà – và cũng trèo vào theo.

Ông Gardner liên tục xoay trở ở đằng mũi, có một lần còn ngồi phịch xuống đến nỗi suýt làm lật thuyền. Nhưng có vẻ ông không để ý thấy, và khi thuyền rời bờ, ông cứ nhìn đăm đăm xuống nước.

Mất vài phút chúng tôi lướt đi lặng lẽ giữa hai dãy nhà tối đen, chốc chốc lọt qua bên dưới những cây cầu thấp. Rồi ông bứt khỏi những ý nghĩ đăm chiêu mà nói:

“Nghe này, anh bạn. Tôi biết là chúng ta đã thỏa thuận xong các tiết mục tối nay. Nhưng tôi vừa nghĩ nãy giờ. Lindy rất thích bài ‘By the time I get to Phoenix’. Tôi có ghi âm bài đó một lần lâu lắm rồi.”

“Vâng, thưa ông Gardner. Mẹ tôi lúc nào cũng nói bài đó ông hát hay hơn cả Sinatra. Hơn cả cái bản nổi tiếng do Glenn Campbell hát nữa.”

Ông Gardner gật đầu, rồi một lúc lâu tôi không nhìn rõ mặt ông. Vittorio cất tiếng hô báo hiệu vang dội các bức tường trước khi cho thuyền ngoặt qua chỗ rẽ.

“Tôi đã hát cho bà ấy nghe bài này rất nhiều lần,” ông Gardner nói. “Anh hiểu không, tôi nghĩ bà ấy sẽ thích được nghe bài ấy tối nay. Anh có thuộc nhạc chứ?”

Lúc này cây đàn đã ra khỏi bao, nên tôi chơi vài khúc.

“Lên chút nữa,” ông nói. “Lên đến mi giáng. Hồi thu đĩa tôi hát thế mà.”

Thế nên tôi chơi lại đoạn nhạc theo tông mới, và khi đã hết có lẽ cả một đời, ông Gardner cất tiếng hát, rất khẽ khàng, ghìm nhịp thở, như là không nhớ rõ lời. Nhưng giọng ông vọng lại rất rõ trong lòng kênh yên tĩnh. Quả thật là nghe rất tuyệt. Và trong một lúc hình như tôi trở lại làm đứa bé con, ở trong căn hộ, nằm ườn trên thảm trong lúc mẹ ngồi trên xô pha, mệt lử, hoặc có khi sầu não, còn đĩa Tony Gardner thì quay trong góc phòng.

Ông Gardner đột ngột ngưng hát và nói: “Được rồi. Chúng ta sẽ chơi ‘Phoenix’ cung mi giáng. Rồi có thể là ‘I fall in love too easily’, như chúng ta đã bàn. Và kết thúc bằng ‘One for my baby’. Thế là đủ. Bà ấy sẽ không nghe nhiều hơn đâu.”

Sau đó ông lại chìm vào suy tưởng, và chúng tôi cứ thế trôi qua bóng tối trong tiếng khỏa nước nhè nhẹ của Vittorio.

“Ông Gardner ạ”, rốt cuộc tôi nói, “mong ông thứ lỗi câu hỏi của tôi. Nhưng bà Gardner có biết trước cuộc trình diễn này không? Hay đây là một bất ngờ thú vị?”

Ông thở dài nặng nhọc, rồi nói: “Tôi nghĩ chắc là phải xếp vào mục bất ngờ thú vị.” Rồi nói thêm: “Có Chúa biết bà ấy sẽ phản ứng thế nào. Có thể chúng ta sẽ không tới được tận ‘One for my baby’.”

Vittorio cho thuyền ngoặt qua một khúc kênh nữa, và đột ngột nghe vang lên tiếng cười và tiếng nhạc, chúng tôi trôi qua một nhà hàng lớn, đèn đuốc sang trưng. Bàn nào hình như cũng kín khách, các anh bồi lăng xăng hối hả, thực khách đều có vẻ sung sướng, dù ở bên kênh đào vào mùa này trong năm chắc cũng không ấm mấy. Sau cảnh tĩnh mịch và bóng tối chúng tôi vừa đi qua, nhà hàng này gây cho tôi cảm giác bất an. Có vẻ như chúng tôi mới là người đứng yên, đứng trên bến tàu mà ngắm, trong lúc con tàu dạ tiệc lấp lánh ấy trôi qua. Tôi nhìn thấy vài khuôn mặt ngoảnh ra phía mình, nhưng không ai để ý nhiều đến chúng tôi. Rồi nhà hàng đã nằm lại đằng sau, và tôi nói:

“Kể cũng buồn cười. Ông có tưởng tượng được đám khách du lịch ấy sẽ làm gì nếu họ vỡ lẽ là có chiếc thuyền chở Tony Gardner huyền thoại vừa đi qua không?”

Vittorio, dù không khá tiếng Anh lắm, cũng hiểu được đại ý và cười một tiếng nho nhỏ. Nhưng một hồi lâu ông Gardner không đáp lại. Chúng tôi vừa trở lại trong bóng tối, trên một khúc kênh hẹp giữa những cửa ra vào sáng nhờ nhờ, thì ông bảo:

“Anh bạn, anh đã sống tại một nước cộng sản. Chính vì thế anh không nhận ra ở đây thế giới vận hành thế nào.”

“Ông Gardner,” tôi nói, “giờ nước tôi không còn là cộng sản nữa. Giờ chúng tôi là một dân tộc tự do.”

“Tôi xin lỗi. Tôi không có ý khinh thường tổ quốc anh. Các anh là một dân tộc anh dũng. Tôi mong cho các anh chóng được hòa bình và thịnh vượng. Nhưng tôi định nói với anh là, anh bạn, tôi có ý là vì anh sinh trưởng ở quê hương anh cho nên điều tự nhiên là có nhiều chuyện anh chưa hiểu hết. Cũng như sẽ có nhiều điều tôi không hiểu về đất nước anh.”

“Tôi nghĩ là ông nói đúng, thưa ông Gardner.”

“Những người chúng ta vừa đi qua. Nếu anh đến chỗ họ mà bảo, ‘Này, các anh có ai còn nhớ Tony Gardner không?’ thì có thể một vài người trong đó, phần lớn cũng nên, sẽ bảo có. Ai biết được? Nhưng đi thuyền qua như chúng ta vừa rồi, ngay cả nếu họ có nhận ra tôi, liệu họ có phấn khích không? Tôi nghĩ là không. Họ sẽ không buông nĩa, sẽ không ngắt quãng câu chuyện tâm tình bên ánh nến đâu. Việc gì phải thế? Chẳng qua là một gã hát tình ca của một thời xưa cũ mà thôi.”

“Cái này thì tôi không tin được, thưa ông Gardner. Ông là một giọng hát kinh điển. Ông cũng ngang với Sinatra hay Dean Martin. Những nhân vật kinh điển, họ không bao giờ lỗi mốt. Không phải như đám nhạc pop bây giờ.”

“Anh nói thế là tử tế lắm, anh bạn. Tôi biết anh có thiện ý. Nhưng một đêm như đêm nay, đây không phải là lúc để phỉnh nịnh tôi.”

Tôi đã muốn phản đối, nhưng có gì đó trong dáng vẻ ông khiến tôi không muốn tiếp tục đề tàu này. Thế nên chúng tôi đi tiếp, không nói câu nào. Thành thực mà nói, lúc này tôi bắt đầu nghĩ xem mình đã rơi vào chuyện gì, cái trò hát bên cửa sổ này là sao. Và những người này là người Mỹ nữa chứ. Làm sao tôi dám chắc rằng khi ông Gardner bắt đầu hát bà Gardner sẽ không đến bên cửa chĩa súng nã đạn vào chúng tôi.

Có lẽ Vittorio cũng đang nghĩ tương tự trong đầu, bởi khi chúng tôi lướt qua gần một cây đèn gắn trên tường, anh ta ném cho tôi một cái nhìn như muốn nói: “Chúng ta vớ được một gã gàn dở, phải không, amico?” Nhưng tôi không đáp lại. Tôi không định về phe với loại người như anh ta chống lại ông Gardner. Theo lời Vittorio, những kẻ nhập cư như tôi chỉ có đi lột tiền của khách du lịch, xả rác xuống kênh, và nói chung là hủy hoại cả thành phố. Có những ngày, nếu đang gặp cơn khó chịu, anh ta sẵn sàng kết tội chúng tôi là bọn xin đểu – dâm tặc nữa không chừng. Tôi đã có lần hỏi thẳng mặt có đúng là anh ta nói vậy về chúng tôi không, và anh ta thề thốt đấy chỉ toàn là bịa đặt. Làm sao anh ta mà lại hận thù chủng tộc được, trong khi có một bà dì người Do Thái mà anh ta tôn thờ như mẹ? Nhưng một buổi chiều nọ tôi đang tiêu khiển giữa hai suất diễn, tựa mình trên cây cầu ở Dorsoduro thì thấy một chiếc gondola trôi quabên dưới. Trên đó có ba du khách đang ngồi, và Vittorio đứng dựa cây chèo, làm một bài diễn văn cho cả thế giới cùng nghe, miệng tuôn ra đúng những lời lẽ ấy. Cho nên anh ta cứ việc tìm mắt tôi tùy thích, nhưng đừng có hòng tranh thủ tình đồng đội của tôi.

“Tôi sẽ cho anh biết một bí mật nhỏ,” ông Gardner thình lình nói. “Một bí mật nhỏ về nghề diễn. Trao đổi kinh nghiệm nhà nghề. Cũng đơn giản thôi. Anh phải biết một điều gì đó, điều gì cũng được, anh phải biết một điều gì đó về khán giả của anh. Một điều gì đó đủ cho anh có thể ngầm phân biệt được khán giả này với những người anh vừa hát cho nghe đêm hôm trước. Ta lấy ví dụ anh đang ở Milwaukee. Anh phải tự hỏi mình, có gì khác, có gì đặc biệt ở khán giả Milwaukee? Có gì khiến họ khác với khán giả Madison? Nếu không nghĩ ra được gì, anh cứ phải nghĩ tiếp đến lúc tìm được. Milwaukee, Milwaukee. Ở Milwaukee có món sườn lợn rất ngon. Chỉ thế là đủ, đấy là cái sẽ giúp anh khi bước ra sân khấu. Anh không cần phải nói ra với họ, chỉ cần giữ trong đầu khi anh hát cho họ nghe. Những người ở trước mặt anh đây, họ là những người vẫn hay ăn sườn hảo hạng. Họ có đòi hỏi rất cao đối với món sườn. Anh hiểu tôi nói gì không? Như thế khán giả trở thành một người mà anh hiểu, một người anh có thể biểu diễn cho nghe. Đấy, bí mật của tôi là thế. Trao đổi kinh nghiệm nhà nghề.”

“Vâng, cám ơn, thưa ông Gardner. Tôi chưa bao giờ nghĩ theo cách đó. Chỉ bảo của một người như ông, tôi sẽ không bao giờ quên.”

“Thế nên,” ông nói tiếp, “tối nay chúng ta đang biểu diễn cho Lindy. Lindy là khán giả. Thế nên tôi sẽ nói với anh gì đó về Lindy. Anh có muốn nghe về Lindy không?”

“Có chứ, thưa ông Gardner,” tôi nói. “Tôi hết sức muốn nghe về bà ấy.”