TINH THẦN TRẦN VĂN BÁ ĐÃ MỞ ĐƯỜNG CHO TUỔI TRẺ VIỆT NAM

dinhlamthanh

 (Trích trong Tham Luận Chính Trị ‘Một Thời Xót Xa’, xuất bản tại Hoa Kỳ tháng 6 năm 2008)

 

‘Phải là một thanh niên phi thường với tấm lòng yêu nước nhiệt tình, Trần Văn Bá đã can đảm từ bỏ tất cả tương lai và sự nghiệp của mình để dấn thân trở lại quê hương, hoạt động chống kẻ thù ngay giữa lòng địch trong lúc cả triệu người Việt đang tìm đường vượt biên trốn chạy Cộng sản’.

Đúng vậy, sau ngày thân phụ là cựu dân biểu Trần Văn Văn bị ám sát, Trần Văn Bá đã tự túc qua Pháp tiếp tục chương trình trung học. Sau đó anh chọn khoa Chính Trị Kinh Doanh tại đại học Nanterre, nơi mà đa số giáo sư có khuynh hướng thân cộng. Dù gặp nhiều khó khăn tinh thần giữa quan niệm chính trị thầy trò nhưng anh đã tốt nghiệp và trở thành Phụ tá Giảng viên tại đây. Năm 1972, đắc cử chủ tịch Tổng Hội Sinh Viên Quốc Gia tại Pháp, anh đã hoạt động hăng say, dốc toàn sức xây dựng một lực lượng sinh viên hùng mạnh để đương đầu với các phong trào phản chiến tại Pháp và chương trình địch vận của Hà Nội trước bối cảnh đất nước trong cơn sốt chiến tranh với nhiều áp lực từ bên ngoài và những trận chiến khốc liệt do cộng sản đánh phá tại Miền Nam.

‘Phải là một thanh niên đầy nhiệt huyết trước cảnh nước mất nhà tan, Trần Văn Bá đã xả thân đứng lên kêu gọi sinh viên chống lại chế độ cộng sản ngay từ những ngày cuối tháng Tư năm 1975 và lãnh đạo tổng hội Sinh Viên Quốc Gia để đương đầu với thành phần côn đồ, đâm thuê chém mướn do sứ quán Hà Nội điều động, nhất là sau ngày cộng sản Việt Nam chính thức đặt liên hệ ngoại giao với chính phủ Pháp’.

Người Việt ở Paris trong thời gian nầy đều nhớ rõ những cuộc biểu tình bỏ túi, rải truyền đơn chống cộng cũng như những đụng độ xảy ra thường xuyên giữa hai nhóm Quốc Gia và cộng sản, từ khu chợ Tàu Paris 13, khu vực Việt cộng Mauber Paris 5, trên đường phố cho đến các trạm métro. Anh chị em thuộc tổng hội sinh viên Quốc Gia phối hợp với thanh niên tỵ nạn đêm ngày dán truyền đơn kể tội Hà Nội, đôi lúc phải xung đột với nhóm thanh niên sinh viên cộng sản, Việt kiều yêu nước và đám cô hồn do sứ quán Việt Nam trả tiền để chống việc làm của anh chị em sinh viên và người tỵ nạn mới qua. Một vết son cần phải nhắc lại, thời kỳ đó, Tổng Hội Sinh Viên Quốc Gia thường tổ chức một cách công khai tại rạp hát Maubert những chương trình văn nghệ mà chủ đề hướng về quê hương tổ quốc, vinh danh tự do của chế độ Cộng Hòa…Tinh thần Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ đã được Trần Văn Bá và Tổng Hội Sinh Viên Quốc Gia duy trì, phát động và làm sống lại kể từ ngày đó.

 

‘Phải là một thanh niên mang nặng tình người, Trần Văn Bá cùng Tổng Hội Sinh Viên Quốc Gia đã tổ chức tiếp đón, chăm sóc phục vụ cho người tỵ nạn trong những năm đầu tiên họ đặt chân đến Pháp.

Dù trong hoàn cảnh khó khăn về tinh thần lẫn vật chất nhưng Trần Văn Bá, Tổng Hội Sinh Viên Quốc Gia đã tận tình giúp đở những người trốn chạy cộng sản vừa chập chững đặt chân đến Pháp. Từ việc giúp đở phương diện hành chánh, học hành, kiếm người thân đến tổ chức các lớp học giúp người tỵ nạn sớm hội nhập vào xã hội mới. Cá nhân người viết bài nầy (ĐLT) đã được anh Trần Văn Bá và các anh chị em trong Tổng Hội Sinh Viên Quốc Gia mở rộng vòng tay ân cần đón tiếp trong dịp lễ Giáng Sinh đầu tiên của đời tỵ nạn, vào năm 1979 trong khuôn viên thánh đường thành phố Issy.

‘Phải là một thanh niên khí khái, bất khuất và liên sỉ,  Trần Văn Bá đã từ chối việc chống án và chấp nhận chết cho lý tưởng và tổ quốc. Thật là hành động phi thường của một người tranh đấu vì  tự do dân chủ, một gương sáng cho những người đang nối nghiệp hôm nay cũng như đối với  thế hệ trẻ sau nầy’.

Trần Văn Bá bị tòa án cộng sản Việt Nam tuyên án tử hình tại nhà Quốc Hội cũ ở đường Tự Do ngày 14.12.1984 cùng với hai đồng chí Hồ Thái Bạch và Lê Quốc Quân (Mai Văn Hạnh và Huỳnh Minh Sanh bị tù). Anh đã thẳng thắn từ chối việc chống án hoặc xin ân xá mà chấp nhận một cái chết thật oai hùng, thật xứng đáng của một thanh niên Miền Nam. Anh  chiến đấu vì dân tộc, vì quê hương tổ quốc và đã chết cho dân tộc, cho quê hương tổ quốc. Cộng sản xử bắn Anh trong khám Chí Hòa ngày 08.01.1985 cùng với hai đồng chí Hồ Thái Bạch và Lê Quốc Quân, sự hy sinh của anh đã trở thành tấm gương sáng chẳng những cho toàn thể nhân loại mà còn cho những ai đang tiếp nối con đường giải phóng dân tộc.

‘Phải là một thanh niên can đảm, không hèn nhác sợ sệt trước bạo quyền cộng sản. Khi bị bắt tại Việt Nam, Trần Văn Bá  không bào chữa chạy tội, không van xin, không cam kết hứa hẹn, không phản bội lý tưởng, phản bội đồng đội và tổ quốc mà chấp nhận ra tòa lãnh ántử hình’

Cần ghi vào lịch sử tranh đấu về tinh thần yêu nước và hành động phi thường của các anh hùng Trần Văn Bá, Hồ Thái Bạch và Lê Quốc Quân để tất cả cùng suy gẫm. Tôi muốn nhắc nhở những người, những tổ chức có mưu đồ bất chính, trở về Việt Nam thăm gia đình hoặc đầu cơ chính trị để ‘được bị bắt’ ! Trước mặt kẻ thù thì cúi đầu qụy lụy, chấp nhận tội lỗi và ăn năn sám hối rồi cam kết những điều kiện ngầm. Khi được cộng sản trả tự do, trở về gia đình họ không nhìn thấy vết chàm trên trán mà bắt đầu một chương trình quảng cáo đánh bóng cá nhân, đoàn thể…

 

Nhân ngày giỗ thứ 23 (2008) Anh Hùng Trần Văn Bá, tôi xin gởi một  vài ý tưởng thô sơ đến :

* Các bạn trẻ ở hải ngoại : 

Tôi không dám mơ ước các bạn sẽ lên đường dấn thân theo gương anh hùng Trần Văn Bá mà chỉ cầu xin một điều nhỏ : các bạn hãy hướng về quê hương, tổ quốc cũng như đồng bào ruột thịt đang đau khổ dưới ách thống trị của đảng cộng sản. Với một tinh thần yêu nước thương quê hương, với một bầu nhiệt huyết sôi sục trước quân thù, các bạn trẻ là động lực chính làm nên lịch sử. Xin hãy tập trung dưới một màu cờ Vàng Ba Sọc Đỏ với các cộng đồng người Việt hải ngoại để đẩy mạnh việc tranh đấu của chúng ta chóng đến ngày thành tựu. Đã là người tỵ nạn, chạy trốn chế độ độc tài cộng sản thì không thể chấp nhận lá cờ máu đỏ sao vàng, vì đây chính là cờ của đảng cộng sản. ‘đỏ sao vàng’ không phải biểu tượng của nước Việt Nam thân yêu của chúng ta mà là cờ của một tập đoàn cộng sản độc tài khát máu, của chiến tranh chết chóc, của nô lệ ngoại bang Tàu cộng do già Hồ Chí Minh mang về.

Cờ Máu là một biểu tượng nô lệ  bằng ngôi sao thứ năm trên cờ Trung Cộng. Tàu Cộng vừa thêm một ngôi sao trên cờ máu của chúng, (Cờ đã được treo lên tại Bắc Kinh gồm 5 sao vàng nhỏ vây quanh hầu 1 sao vàng lớn) có nghĩa là cộng sản Việt Nam đã chấp nhận trở thành tên nô lệ thứ năm nhưng vẫn bày trò mập mờ ra lệnh cho du sinh dùng ‘cờ máu’ biểu tình chống Tàu cộng ! Đây là trò bịp cố hữu hay một sai lầm trầm trọng khi cộng sản Việt nam ra lệnh cho du sinh cầm cờ ‘thuộc địa nô lệ’ đến các sứ quán Trung cộng chống lại ‘mẫu quốc đồng chí’ của mình !

 

Kể từ giờ phút nầy dân tộc Việt Nam, tổ quốc Việt Nam chỉ còn độc nhất Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, vì đỏ sao vàng của đảng Cộng sản đã trở thành cờ thuộc địa của Tàu Cộng.

Xin hãy suy nghĩ, các bạn là con cháu của một nước Việt Nam oai hùng, các bạn mang giòng máu bất khuất của tiền nhân anh dũng chống ngoại xâm phương Bắc trong hàng chục thế kỷ. Tại sao ngày nay các bạn lại cam tâm chấp nhận cúi đầu dưới cờ máu đỏ sao vàng để trở thành nô lệ của Trung cộng thêm một lần nữa ?

Các bạn thuộc thế hệ thứ hai, thứ ba…nghĩa là các bạn theo gia đình chạy trốn cộng sản lúc còn bé, hoặc được chào đời và trưởng thành ở hải ngoại, các bạn không biết hoặc chưa biết nhiều về cộng sản. Các bạn dễ bị dụ dỗ và mua chuộc bằng những hình thức kiều vận tinh vi dưới nhiều khía cạnh nhằm mục đích khơi động tinh thần yêu nước, lý tưởng tuổi trẻ và lòng nhiệt thành để lôi kéo các bạn đi vào con đường phục vụ chế độ độc tài độc đảng của chúng. Trái tim các bạn đầy nhiệt huyết, tình yêu các bạn bao la và chất xám các bạn phi thường…thì hãy cùng thế hệ chúng tôi góp công góp sức tranh đấu cho Đất Nước, cho Tự Do Dân Chủ, cho Ấm No Hạnh Phúc của tám chục triệu dân Việt Nam đang đau khổ dưới bạo quyền cộng sản. Đây chính là một hình thức đền ơn các bậc sinh thành đã hy sinh suốt cuộc đời để các bạn thành công ngày nay.Các danh vị tiến sĩ, bác sĩ, kỹ sư hoặc của cải tài sản mà các bạn có được ngày hôm nay là chính do trí thông minh và sự hiếu học của các bạn tạo thành. Nhưng xin đừng quên một điều quan trọng, đó cũng là mồ hôi, nước mắt của cha mẹ phải thức khuya dậy sớm bỏ báo, lượm lon, quét chợ, khiêng hàng, cắt cỏ, làm việc hai ba job…trong những ngày đầu vừa đặt chân đến vùng đất tự do để lo cho các bạn ăn học. Nói xa hơn nữa cũng phải tính đến xương máu của những người đã nằm xuống trong cuộc chiến cũng như chìm sâu dưới biển cả. Chính những hình ảnh nầy đã đánh thức lương tâm nhân loại và thúc đẩy khối tự do mở rộng vòng tay để các bạn có con đường sống, học hành và thành công. Uống nước phải nhớ nguồn, đừng nghe theo những lời đường mật của cộng sản để phản bội lại cha ông và những người đã nằm xuống để cho các bạn có cơ hội đứng dậy ! Vậy hãy tiếp tay với chúng tôi, tẩy chay cờ Đỏ Sao Vàng, xuống đường hỏi tội đảng Cộng sản bán nước hại dân.

* Các bạn trẻ tại quốc nội :

Với phương tiện và kỹ thuật truyền thông hiện đại, cộng sản Việt Nam không thể bưng bít tin tức và hình ảnh trên thế giới về các vấn đề nhân quyền, chính trị, kinh tế liên quan đến Việt Nam. Sau biến cố Hoàng Sa Trường Sa, gần như toàn dân Việt Nam đã sáng mắt sau hàng chục năm bị nhà cầm quyền cộng sản bưng bít, lừa gạt, tuyên truyền và nhồi sọ bằng những hình ảnh yêu nước (!!!) của Hồ Chí Minh cũng như cái bánh vẽ vĩ đại của đảng. Nay toàn dân đã  tĩnh thức và can đảm đối diện trước rào kẽm, súng đạn để hỏi tội đảng cộng sản mà trong đó, thanh niên sinh viên học sinh là thành phần tiên phong xuống đường và cũng là nòng cốt của các cuộc nổi dậy.

Lịch sử đã chứng minh, vai trò thanh niên sinh viên học sinh chính là ngòi nổ, là tiếng súng lệnh mở đầu cho công cuộc tranh đấu và cũng chính giới trẻ tại Việt Nam sẽ kết thúc cuộc cách mạng trong vinh quang để đem hạnh phúc no ấm, tự do dân chủ cho toàn dân. Như vậy chính tay các bạn sẽ làm  nên lịch sử thì hãy can đảm đứng lên theo tiếng gọi của khối óc, con tin và niềm tự hòa của tuổi trẻ Việt Nam.

Nếu các bạn thuộc thành phần hậu duệ của Việt Nam Cộng Hòa, chào đời và trưởng thành dưới chế độ cộng sản, chắc các bạn cũng biết tổ tiên và gia đình bạn đã bị phân loại làm thứ dân dưới chế độ mới, bị trù dập từ hàng chục năm qua, thì nay, chính các bạn phải lãnh nhiệm vụ vai trò đầu cầu, tích cực bên cạnh các bạn trẻ của chế độ mới, các tổ chức đòi nhân quyền, dân oan, giáo oan…để xuống đường đẩy cuộc cách mạng mau đến thành công.

Đối với các bạn là con cháu của chế độ mới, được sinh ra và lớn lên trong vòng tay của cha ông, sống nhờ ân huệ của đảng và nhà nước, thì dù sao bạn phải bảo vệ những gì đảng và nhà nước đã ban bố. Tuy nhiên chúng tôi có vài điều muốn đặt ra với trái tim và lương tâm của các bạn. Các bạn là người yêu quê hương tổ quốc, các bạn có học, thông minh, các bạn đã ra xứ ngoài nhiều dịp và chắc chắn đã có lần so sánh về hai chế độ Tự do và cộng sản hay nói một cách chính xác hơn, hình ảnh trái ngược giữa một nước Việt Nam cộng sản với một quốc gia Tây Phương Tự Do. Các bạn có đau lòng khi thấy đất nước đã 33 (2008) năm ngưng hẳn tiếng súng, hàng triệu khối óc thông minh, hàng chục triệu bàn tay lao động trong một xứ sở được thiên nhiên ưu đãi với những đồng ruộng có bay thẳng cánh, sông nước mênh mông, đất đai màu mỡ, tôm cá đầy đồng, tài nguyên trù phú…cộng với hàng trăm tỷ đóng góp từ nước ngoài, hàng chục tỷ ngoại tệ vay mượn, nhưng đảng cộng sản đã làm được gì cho quê hương, cho đất nước và dân tộc ? Các bạn là những người có kiến thức, biết nhận định, hãy thử làm những con tính để thấy cái dốt nát của nhóm lãnh đạo, cái vô trách nhiệm của giới cầm quyền cộng sản và lòng tham vô đáy của tập đoàn bán nước. Theo bảng thống kê quốc tế mới đây, mức thu nhập trung bình hằng năm của người Việt Nam được quốc tế xếp vào hạng áp chót. Thật xấu hổ khi cộng sản rêu rao rằng Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là chiếc nôi của nhân loại, đỉnh cao trí tuệ của loài người mà vẫn còn đứng sau những xứ quê mùa lạc hậu nhất ở Phi Châu. Nhưng khi đề cập đến nhân quyền, tự do, bóc lột, đàn áp…nạn đĩ điếm, nạn buôn người, tình trạng tội phạm, tình trạng tham nhũng thì Việt Nam lại dẫn đầu thế giới !

Các bạn có xấu hổ khi toàn thế giới nhìn vào những bộ mặt Việt Cộng đang ngồi trên ghế ủy viên không thường trực của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc ? Chiếm được ghế ngồi tại đây là một vinh dự cho đất nước, nhưng chúng ta không nên mừng, vì đảng cộng sản đã tự hủy vai trò cao quý đồng thời tự bôi tro trát bùn lên bộ mặt của chúng bằng những hành động đã và đang xảy ra dưới chế độ. Từ việc cai trị độc quyền sắt máu, lấy đất cướp của dân lành, đàn áp tự do dân chủ, bắt bớ tù đày đối lập, cướp bóc tham nhũng vô độ, xuất khẩu nô lệ ồ ạt, bán gái làm vợ năm châu, tổ chức mại dâm câu khách…đến hành động dâng đất hiến biển cho Tàu cộng, thì đối với người tự do hải ngoại, đây là một mối nhục của dân tộc Việt Nam. Vậy đối với các bạn trẻ trong nước, xin hãy dùng con tim và lý trí để phán xét sự việc, chúng tôi tin chắc các bạn sẽ tìm được lối thoát một khi tình cảm, lương tâm và tự ái trong con người các bạn tỉnh giấc và vùng dậy ?

Chúng tôi nói thật điều nầy, từ những người trong trung ương bộ chính trị đảng Cộng sản đến cha ông các bạn, cũng như chính bản thân các bạn hoàn toàn không còn tin tưởng vào sự sống còn của chế độ. Tất cả đều biết ngày tàn của đảng Cộng sản đã đến và chắc chắn các bạn đều biết, từ cán bộ trưng ương bộ chính trị xuống đến viên chức địa phương đang vội vàng tìm cách vơ vét thu góp tài sản chuyển ra ngoại quốc hầu tìm đường thoát thân. Tập đoàn lãnh đạo đảng đang tìm đường thoát thân, tìm cách chuyển tiền của đi trước, dĩ nhiên họ đã thấy trước ngày tàn của quyền lực thì tại sao các bạn lại níu kéo dài sự hiện diện của đảng cộng sản ?

Giờ đây đảng cộng sản Việt Nam chỉ là một xác chết đã rữa nát mà hồn thì đang đi tìm thiên đường tư bản để nương tựa. Một mai đổi đời, trong lúc đám cán bộ trong bộ chính trị trung ương đảng tiếp tục cuộc đời đế vương thì chính các bạn sẽ lãnh một gia tài rách nát, nợ nần. Quê hương tổ quốc là của các bạn, tương lai lãnh đạo và xây dựng đất nước đều nằm trong tay các bạn thì tại sao ngay từ giờ phút nầy không thừa cơ hội đạp đổ cái xác chết thối nát Cộng sản để lập lại thiên đường Tự Do cho một nước Việt Nam mới ?

Tôi nghĩ rằng, tinh thần Trần Văn Bá đã kịp thời khơi dậy lòng yêu nước của thế hệ các bạn trẻ. Các bạn không còn cô đơn, không phải sợ sệt vì từ hải ngoại đến quốc nội sẽ có hàng trăm hàng ngàn Trần Văn Bá cam đảm xuống đường tranh đấu chống bạo quyền cộng sản thối nát, giành lại tự do, nhân quyền, no ấm hạnh phúc cho toàn dân để chúng ta có đủ thực lực đứng lên chống Tàu cộng, đòi lại giang sơn gấm vóc đang năm trong tay quân ngoại xâm. 

Nhân ngày giỗ thứ 23, tôi chân thành cúi đầu trước vong linh anh hùng Trần Văn Bá, Lê Quốc Quân, Hồ Thái Bạch, những người đã hy sinh đời mình cho đại cuộc, cho lý tưởng tự do và hạnh phúc của toàn dân. Các Anh đã chết để cho hàng triệu người được sống, và các Anh sẽ sống mãi trong tâm hồn của hàng chục triệu người đang khao khát tự do hạnh phúc. Đó có lẽ là niềm mơ ước mà các Anh hằng ấp ủ trong suốt cuộc đời tranh đấu và cũng là hành trang của một người nằm xuống vì quê hương tổ quốc.

Cuối cùng, chúng tôi nhân cơ hội nầy, xin nghiêng mình trước tinh thần yêu nước của các bạn trẻ Việt Nam đã đồng thanh vùng dậy hỏi tội cộng sản về việc bán đất dâng biển cho quan thầy Tàu cộng.

 Đinh Lâm Thanh

Advertisement

Đọc “Ráng Chịu” của Trạch Gầm

dinhlamthanh

Đối với Trạch Gầm, chỉ có hai cái đáng quý và đáng nhớ trong đời anh: Bạn và Rượu. Hai lãnh vực nầy tuy xa nhưng mà gần, vì uống rượu thì phải có bạn mà gặp bạn thì cần phải có rượu ! Rượu và Bạn được Trạch Gầm trang trọng nhận làm hành trang kể từ lúc anh bước chân vào quân trường Thủ Đức, rồi theo chân anh trên khắp các nẻo đường đất nước. Và cho đến ngày nay, đối với anh, vẫn còn là một cái gì trang trọng và đáng quý nhất đời. Đọc “Vụn Vặt” những người yêu thơ Trạch Gầm sẽ cảm thông được thế nào là “tình huynh đệ” của những ai đã một thời chiến đấu bên nhau, cũng như để tưởng nhớ những chiến hữu đã an nghỉ trong lòng đất hay đang còn lây lất dưới chế độ cộng sản “Vụn Vặt” là những kỷ niệm tình người, được Trạch Gầm dệt thành thơ với lối gieo vần ân tình và giản dị.

Trạch Gầm dùng chữ “Vụn Vặt” làm tựa đề cho tập thơ đầu tay, có lẽ do bản tính khiêm tốn của anh, nhưng tôi cho đó những giòng thơ lớn và chân tình phát xuất từ con tim… vì nó bộc lộ tấm lòng bao la của anh đối với tình yêu quê hương, với bạn bè đồng đội, và cũng trong đó, chính là nỗi uất ức của một người lính đã tức tưởi bỏ súng giữa đường…
Hơn một năm sau anh cho xuất bản tập thơ thứ hai. Lần nầy Trạch Gầm mượn hai chữ “Ráng Chịu” để làm đề tài cho 85 bài thơ và 8 bản nhạc do Quang Lãng, Nguyễn Hữu Tân, Hoa Sông Kiên, Quốc Anh và Yên Ly phổ nhạc. Đặc biệt trong tập thơ nầy, nhiều bài anh viết từ năm 1966 (Tuổi Trẻ Bây Giờ Là Quê Hương), 1970 (Không Đề – Nói Với Người Tình Tuổi Dưới 20 – Viết Từ Lai Khê)… không ngoài mục đích ca ngợi quê hương đất nước, tình yêu thầm kín của tuổi thanh xuân đồng thời nói lên cái thân phận con người trước và sau một cuộc chiến tương tàn.
Ta có một ngày… một ngày ngồi khóc
Ta có một ngày gãy đổ ước mơ
Mười năm lính tưởng đâu là sỏi đá
Ai có ngờ lại ngồi khóc như mưa
… …
Thân lính trận, nhận lịnh gì không nhận
Nhận lịnh đầu hàng…rời rã tai ương
Hồn chinh chiến chỉ còn trơ thân xác
Thân xác không hồn…điếng ngắt cô đơn
… …
Thôi chia tay, mà về đâu đã chứ
Mất hết cả rồi…mất dễ như chơi
Lịch sử sang trang…sang trang lịch sử
Mất cả vinh quang, mất cả ngậm ngùi

Mỗi lần nhắc đến quá khứ anh đều đề cập đến rượu và những người bạn đã một thời cùng chia sẻ sống chết với nhau. Nhưng những ai quen biết đều thấy tội nghiệp cho Trạch Gầm: Rượu lúc nào vẫn còn đó nhưng anh chỉ được phép ngồi nhìn mà thôi :
Xin lỗi mầy, ừ tao xin lỗi
Một giọt bây giờ tao uống không vô
Cái gan tao đã thành gan phá lấu
Mầy không tin, cứ nhậu…ngon ơ !

Bốn câu thơ trên trong bài “Ngồi Nhìn Bạn Bè Uống Rượu’”mà Trạch Gầm đã đọc cho tôi nghe lúc anh vừa viết xong, trong một đêm, khi hai đứa nằm dài giữa salon tại nhà ở Anaheim. Nghe đọc, tôi không can đảm nhìn vào mắt anh, dù dưới ánh đèn đỏ trên bàn thờ Cụ Bà thân mẫu của anh, tôi vẫn thấy những giọt nước mắt cứ theo lời thơ tuông xuống. Tôi rùng mình và lòng bỗng dưng chùng lại. Những hình ảnh chia sẻ “ngụm rượu tình nghĩa” với đồng đội trong những lúc ngồi chờ giặc dưới giao thông hào đang hiện về trước mắt và làm tôi bật khóc…
Ngày xưa, mầy tới đâu, tao tới đó,
Nhắc lại à…mà nhắc lại làm chi
Mình rượt giặc, giặc rượt mình…tung tóe
Khi quay về lại chan chát…cụng ly

Ly mầy, ly tao, ly cho thằng chết
Thằng chết rồi mình uống thế được sao
Lính bọn mình toàn những tay hào kiệt
Xô lệch trời đất, xô lệch thương đau

Làm quan, nghèo, mình chơi bằng rượu đế
Lại cợt đùa uống nước mắt Quê Hương
Nước mắt Quê Hương, uống sao cho hết
Ngập núi, ngập rừng ngập cả gió sương

Đã chết rồi giờ tao lại muốn sống
Sống để nhìn chung cuộc một trò chơi
Mầy còn sức cứ mình ênh ngồi uống
Ly cuối, dành cho… thân phận ngậm ngùi.

Xong bài thơ, cả hai đều qua một đêm thức trắng trong tố ấm gà trống nuôi con. Chúng tôi không nói gì thêm, yên lặng và buồn cho vận nước, cho số phận con người cũng như cuộc đời nổi trôi của những kẻ tha phương không có ngày về. Rồi những lần gặp gỡ tiếp theo, anh không được phép uống nhưng ngồi nhìn bạn bè nâng ly, có thể cảnh nầy giúp anh sống lại một thời sống chết với bạn bè đồng đội :
Uống đi mầy cứ làm thêm vài chén
Nhớ đừng say, còn nghĩ đến anh em
Những thằng bạn của một thời chinh chiến
Đổi mạng mình… để lấy sự bình yên
… …

Mầy nhắc trước hay là tao kể trước
Mỗi dấu giày mình khép một mùa xuân
Bù Đăng, Phó Bình, Suối Ngô, Xóm Được
Mười ngón tay, cứ mất từng thằng
Rồi giữa đường gãy cánh, bạn bè thất lạc nhau, kẻ vô tù, người ra đi…
Súng trên tay bỏ xuống
Rõ ngu hơn người ngu
Rồi ôm nhau khóc lóc
Còn rủ nhau vô tù…
Hai chữ “Ráng Chịu”, có lẽ anh dùng để tự an ủi cái thân phận thiệt thòi của tuổi trẻ trước vận nước đảo điên, trước cuộc chiến khốc liệt hay để vỗ về những người bạn đã nằm xuống, chết gục trong tù, chìm sâu dưới biển hay dở sống dở chết nơi đất khách quê người…rồi hôm nay được gì hay chỉ còn lại những niềm đau bất tận :
Với Quê Hương, ta một đời ráng chịu
Người thương ta rồi…cũng ráng chịu theo
Lỡ yêu tính năm vài tuần…níu kéo
Chụp giựt không bằng mà vẫn cứ yêu
……
Ta vào lính, bài học đầu ráng chịu
Cứ thi hành, muốn khiếu nại, làm sau
Mỗi một mạng…đổi đuợc vài ba phút
Chiến trường đau, ngập lút, lút cả đầu
……
Cứ ráng chịu. Tin có ngày mai đẹp
Bỏ nụ cười người vào túi rong chơi
Ta xin cả những gì người thua thiệt
…đốt từng trang. Thắp sáng lại cuộc đời

Trang nhật ký người lại thêm nước mắt
Ráng chịu te tua, ráng chịu tận cùng
Bọn ta sống, sao Quê Hương lại mất
Xót xa nầy…còn ráng chịu nổi không
…..
Và “Ráng Chịu” cũng có thể là một nuối tiếc những gì mà con tim thời loạn hằng ước mơ nhưng phải buộc lòng giã vờ làm kẻ ngây-thơ-vô-tình để chấp nhận khoác lên vai món nợ núi sông ! Rồi quả đất tròn, ước mơ trở về nhưng cuộc đời đã rẽ làm đôi, đầu tóc đổi màu… thôi thì đành “ráng chịu” !
Hồi mới quen
Em bảo ta đừng bao giờ xin lỗi
Cắm đầu yêu thì làm gì nên tội…
Một trăm năm có rảnh phút nào đâu
Ta hẹn lung tung, hẹn lần hẹn lữa
Đời ta xuôi ta có lắm bạn bè
Những thằng bạn chia cả trời khói lửa
Chân đạp mòn cả vạn sơn khê…

Có lẽ vì thế mà anh đã vuột mất tình yêu…Cho đến một ngày :
Đêm ngồi nghe em hát
Rối bời sương Cali
Tóc thời gian bạc trắng
Em mang buồn…giấu đi
… …
Cứ hờn anh em nhé
Bằng gợi nhớ đau thương
Anh xa rời cuộc chiến
Như…một chuyện hoang đường

Rồi Trạch Gầm đành phải thú nhận :
Anh kể em nghe tháng ngày phiêu bạt
Đốt đuốc quạnh hiu, tìm kiếm mỏi mòn
Phân nửa mặn nồng lạc từ ký ức
Tặng cho cuộc đời…vượt suối trèo non

Cuộc sống nơi quê người và nguồn yêu thương duy nhất của anh, bây giờ chính là :
Sáng vào trường…
Con ăn hamburger, hot dog
Chiều về nhà…
Con ăn rau luộc chấm tương
Ngồi cùng cha, con ngồi tận Quê Hương
Việt Nam mình…
Một ngày bỏ đi, một đời thương nhớ
Đất Mỹ tư do, cửa đời rộng mở
Con muốn hụt hơi…
Chạy tìm kiếm tương lai
Con đủ khôn ngoan, ôm trọn tháng ngày
Như lòng con…
Vẽ vời trăm điều mơ ước
Rau luộc chấm tương
Cha mong con còn nhớ được
Con có một đoạn đời…
Rất nghiệt ngã, rất đau thương
Đầu óc chết khô
Lúc con đứng giữa thiên đường
Cái thiên đường tối thui của bọn người cộng sản
Con đủ kiến thức chưa,
Hãy soi gương thân phận
Đổi được màu da không đổi được tâm hồn
Cũng thời gian nầy, con cười
Nhưng tại Quê Hương,
Việt Nam mình, bằng tuổi con…
Có triệu người đang khóc
Cha không giải bày, nhưng con hiểu được
Ai bạn, ai thù, ai mở cửa lầm than
Tại sao cha con mình…
Thành những kẻ lưu vong

Xếp tập thơ lại vì cảm thấy đôi mắt hơi cay. Trước mắt tôi, Trạch Gầm với cái điếu cày mà giờ đây anh xem như bình rượu để an ủi trong những ngày còn lại. Đặt “Ráng Chịu” lên ngực và cố dỗ giấc ngủ nhưng những lời thơ của anh vẫn ám ảnh tôi như muôn ngàn tiếng thở dài của người lính bị buộc phải buông súng giữa đường một cách nhục nhã.

ĐINH LÂM THANH
(Paris)

NGHỀ ĐI TU

dinhlamthanh

Văn hóa truyền thống dạy cho người Việt chúng ta kính trọng các bậc tu hành, vì những vị tu hành là những người đã dứt khoát trần tục, từ bỏ giàu sang danh vọng phú quý để tìm con đường tu thân, và từ đó, dẫn dắt người đời đến một cuộc sống thánh thiện, chân thiện mỹ…Sở dĩ chúng ta trọng những người tu hành vì những vị nầy đã trở thành những kẻ hơn người. Họ đã từ bỏ được ba cái tầm thường ‘Tham Sân Si’ của giới phàm tục. Như vậy, những ai một khi quyết định xa gia đình, dứt bỏ phú quý danh vọng để tự nguyện trở thành kẻ phục vụ chúng sinh, lấy đức bác ái, tinh thần từ bi hỷ xả làm lý tưởng để lo cho đời sống tâm linh con người, đồng thời chấp nhận làm kẻ thấp hèn trong xã hội cũng như quên mình để hiến dâng cho lý tưởng, thì đều được xã hội quý trọng. Người Việt chúng ta rất sùng đạo, đó là vấn đề rất tốt phía tôn giáo. Nhưng hành động trọng cha, kính thầy một cách quá đáng, có thể nói rằng đi đến lố bịch của một số con chiên, Phật tử đã làm hư các thầy các cha, đồng thời biến các vị tu hành trở thành Phật, thành Chúa, là thần thánh oai nghiêm và quyền uy vô lượng chứ không còn là những kẻ tu hành hèn mọn mà những vị nầy đã tâm nguyện dâng hiến để trọn đời phục vụ Phật tử, tín đồ cũng như con chiên!

Những hình ảnh chấp tay cúi đầu ‘con lạy thầy, con lạy cha’ làm cho các nhà tu hành quên hẳn vai trò một người tu hành để rồi những vị nầy tự ban cho mình cái quyền linh thiêng, đại diện cỏi trên ban phát ân huệ cho chúng sanh và bắt người phàm tục phục dịch cho mình. Hình ảnh và thái độ của thầy cha ngày nay thường bị hư hỏng và đôi lúc trịch trượng bởi hai lý do. Trước hết là số người người sùng đạo có thái độ tôn trọng cha thầy một cách quá đáng: việc gì của thầy của cha làm đều tốt đều đẹp, lời thầy lời cha nói gì nghe cũng hay cũng phải. Thứ đến là một số tín đồ, giáo hữu cò mồi dựa vào tôn giáo để làm chính trị cũng như kinh doanh, họ bám vào thầy cha, nhà chùa, nhà thờ, theo sát thầy cha đánh trống thổi kèn, chấp tay lạy sống và khúm núm trình thưa như đang đứng trước mặt quan quyền vua chúa ngày xưa. Hành động nầy chẳng những đưa ‘cái tôi’ của thầy cha lên tận mây xanh, do đó, những cái tầm thường xấu xa trong lòng các vị tu hành đã không diệt được mà còn được thường xuyên bơm lên thì Tham Sân Si trong lòng các vị tu hành càng ngày càng lớn hơn những người phàm tục nữa! Như vậy tu hành đã không đạt được kết quả… mà một khi cái Tham Sân Si trong các vị tu hành thường xuyên bị dồn nén thì sẽ bộc phát dữ dội. Nên nhớ rằng, các nhà tu hành một khi đã đi lạc đường, thì cái Tham Sân Si sẽ quậy tới bến còn hơn những người phàm tục!!!

Cá nhân tôi là người trong cuộc và đã chứng kiến tận mắt hai trường hợp, từ đó lòng tôi mất đi rất nhiều kính trọng đối với một số vị tu hành:

1. Trong một cuộc biểu tình, tôi được giới thiệu với một vị linh mục còn trẻ hơn tôi. Sau câu chào hỏi thân mật xong thì vị linh mục quay mặt đi nơi khác, hình như có thái độ không muốn nói chuyện với tôi nữa vì tôi đã thẳng thắng kêu bằng cha và xưng tôi. Có lẽ chữ tôi trong cách xưng hô không thích hợp giữa một giáo dân với một vị linh mục nơi đông người đã làm giảm giá trị một vị tu hành nên vị nầy đã quay mặt đi giã vờ nói chuyện với những người chung quanh. Nếu tôi trịnh trọng gọi bằng cha thì phải xưng con như những người khác thì câu chuyện sẽ được tiếp tục trong tình thân mật! Tôi có thể gọi cha và xưng con trong nhà thờ, lúc xem lễ hay vào tòa xưng tội theo con người Kytô hữu của tôi. Nhưng ngoài đời, trong một buổi biểu tình chính trị, thì giữa hai người tu hành và giáo dân cũng đều là những người dân tỵ nạn Việt Nam. Tôi nghĩ rằng một người già trên 70 xưng con với một vị linh mục còn trẻ giữa nơi công cộng thì cũng khó nghe! Như vậy trong bộ áo màu đen quý trọng đang mặc trên linh mục nầy, cái sân si vẫn còn quá nặng mùi trần tục trong một vị tu hành.

2. Dịp cúng thất cho một người trong gia đình, nhằm buổi cơm chay, tôi có dịp phải đi ngang qua phòng ăn – nối liền từ chân cầu thang đến chánh điện – trong lúc các vị sư đang dùng bữa. Chuyện đập vào mắt tôi, vị trụ trì ngồi đầu bàn, sau khi ăn hết chén cơm vị nầy ngồi yên, không quay lại, đưa cái chén ra phía sau… thì một Phật tử chấp tay vái lạy ba cái, cúi mình xuống và đưa hai tay lên khỏi đầu đở lấy cái chén, lấy cơm xong lại cung kính dâng lên vị trụ trì như lúc đầu… trong lúc tô cơm đang nằm ngay trước mặt và trong tầm tay của vị trụ trì! Phía bên kia, một Phật tử cầm quạt đang phe phẩy để cho thầy dùng cơm mặc dù Paris lúc đó đang mát trời! Tôi thấy vị trụ trì nầy đã quên hẳn mình là kẻ tu hành mà có thái độ trịch trượng như một vị vua chúa ngày trước.

Trở về với đề tài, nhiều người hỏi tôi thời đại nầy làm nghề gì sướng nhất, tôi có thể trả lời tức khắc không cần đắn đo suy nghĩ rằng: ‘Nghề Đi Tu’! Một nghề không đòi hỏi vốn kiến thức, không cần đầu tư tài chánh mà chỉ cần thuộc vài ba kinh – như loại tu hành quốc doanh – là có thể hành nghề một cách dễ dàng. Khi hành đạo, không cần làm việc, nhưng tài sản đất đai, nhà cửa, xe cộ, tiền bạc do con chiên thiện nam tín nữ cung hiến cũng quá dư thừa cho phép những vị nầy ăn uống no say, vợ con đầy đủ và nếu muốn thì tình nhân cũng sẵn sàng có ngay! Nhà cửa được giảm hoặc miễn thuế, ăn khỏi tốn tiền, có người hầu hạ, có kẻ làm bếp dâng lên tận miệng. Có vị còn biến từ nhà ở cho đến nơi thờ phương thành cơ sở kinh doanh với giá bán cắt cổ từ cuốn sách cho đến gói thực phẩm. Tất cả hoạt động kinh tế đều theo hình thức chui và chỉ thu tiền mặt. Các lễ lộc phục vụ tôn giáo không có tình trạng miễn phí hoặc giảm giá cho nhà nghèo mà phải tuân theo theo từng bậc giá cả khác nhau. Cước phí xin lễ, cầu nguyện đối với các vị tu hành người nước ngoài hoàn toàn do tín hữu tự nguyện không bắt buộc theo một hình thức khuôn mẫu nào. Tôi chứng kiến một cha người Pháp từ đã chối số tiền lớn do một tín hữu người Việt Nam đến nhà thờ Tây xin lễ bình an cho gia đình. Chẳng những thế, nhà thờ còn làm hóa đơn chính thức để ghi vào sổ của nhà thờ. Nhưng trái lại, trong một dịp gặp một cha người Việt Nam để xin lễ, vị linh mục nầy cho giá đàng hoàng và tỏ vẻ không hài lòng khi tôi đề cập đến giá cả của nhà thờ !

Từ chỗ nầy người ta xem các vị tu hành từ trong nước ra đến hải ngoại hành nghề tôn giáo với giá cả cắt cổ tín hữu và Phật tử một cách vô tội vạ. Riêng việc việc tang chế, giá cả được ấn định bao nhiêu tiền cho cha thầy đến tư gia, đến nhà xác để tụng niệm. Bao nhiêu tiền để tổ chức theo hình thức lớn, trung bình, nhỏ đối với một lễ tiễn đưa người quá cố, bao nhiêu tiền để mang cốt tro về chùa, nhà thờ… và bao nhiêu tiền theo đẳng cấp giàu sang hay bình dân để thuê một cái hộc để đựng hủ cốt người chết! Tiền nhiều thì nhà chùa nhà thờ tổ chức lớn, với nhiều cha nhiều thầy làm lễ. Nhiều tiền thì tổ chức lễ riêng rẽ một cách trang trọng vào cuối tuần. Ít tiền thì tổ chức cầu siêu tập thể và vào những ngày giờ làm việc. Chính các thầy các cha đòi hỏi giá cả để tổ chức những buổi lễ đình đám cho hôn nhân, cầu siêu, án táng, đưa hài cốt về chùa, về nhà thờ. Những tiền lệ nầy đã tập cho tín đố Phật tử những tính xấu, xem thường việc linh thiêng tôn giáo đồng thời tạo cho những gia đình nghèo, thiếu phương tiện bị mặc cảm và đau lòng mỗi khi có người thân vừa nằm xuống.

Chắc tất cả mọi người đều công nhận rằng nghề đi tu chẳng những là một nghề ấm thân cho kẻ tu hành mà còn giúp họ trở thành triệu phú một sớm một chiều. Chẳng mất một giọt mồ hôi, suốt đời không đóng thuế, nhà cửa được giảm tiền điện nước lại còn hưởng trợ cấp đặc biệt của xã hội. Cuộc đời tu hành thật đáng giá ngàn vàng, chỉ một sáng một chiều trở thành triệu phú, trở nên kẻ ăn trên ngồi trước và được trọng vọng nhất trong thiên hạ: Nhà cao cửa rộng, đi Mercedec, BMW… có tài xế, ngày ăn no, đêm ngủ với vợ, ngày thì đệ tử tự nguyện (!), thời gian rổi rảnh thì đếm bạc giấy rồi đem cất vào tủ sắt… Như vậy nghề tu hành thời nay của người Việt quả thật là tuyệt hảo và độc nhất vô nhị của thế giới tính từ thập niên cuối cùng của thế kỷ 20 đến nay. Nhà thờ nhà chùa đã biến thành cái chợ và hơn nữa các nơi nầy còn cạnh tranh tổ chức văn nghệ mừng Xuân, ca hát ăn uống… thì chắc Chúa và Phật cũng phải quay mặt trước tình trạng tu hành thời nay. Bây giờ giới trẻ ai cũng muốn đi tu, một nghề ngồi mát ăn bát vàng mà được thiên hạ đội lên đầu, chắp tay vái lạy thì còn gì quý hơn khi phải phí cuộc đời gần hai chục năm trong các nhà trường để rồi vác bằng chạy đôn chạy đáo kiếm việc làm sau khi tốt nghiệp.

Cái thiên đường ‘đỉnh cao trí tuệ’ và ‘cái nôi nhân loại’ của chế độ cộng sản đã đẻ ra nhiều nghề quái gở: Từ nghề ăn xin, mai mối, bịp bợm, nô lệ… đã nổi tiếng trên thế giới và bây giờ còn thêm nghề đi tu thật độc đáo vô cùng ‘hoành tráng’ không có một quốc gia nào bắt kịp… Chính cộng sản đã dàn dựng lên hình thức tu hành trưởng giả nầy từ ngay từ trong nước để chứng tỏ với thế giới rằng Việt Nam hòan toàn có tự do tôn giáo. Thật vậy, cần phải ghi nhận, trong nước đi đến đâu cũng gặp đầy dẫy nhà thờ, nhà chùa… là những khu vực nguy nga to lớn bên cạnh những ngôi nhà của con chiên, Phật tử vẫn còn nghèo nàn đói rách. Các thầy các cha thì đua nhau xin tiền để sửa sang cơ sở tôn giáo của mình càng lớn càng đẹp để tranh với chùa, nhà thờ bên cạnh!!! Đi đâu các vị tu hành cũng hân hạnh khoe rằng, ông nầy bà nọ là Phật tử hoặc con chiên nằm trong khuôn hội hay họ đạo dưới quyền! Các vị tu hành đâu có hay rằng dưới mắt Chúa và Phật những ông bà nầy là những tay ăn hối lộ, cướp của, giật vợ cướp chồng người ta, buôn bán cần sa, rửa tiền dơ mà các vị tu hành cứ đội lên đầu những người núp bóng tôn giáo cho mưu đồ chính trị, xem họ như một vinh hạnh của nhà chùa, nhà thờ. Các vị tu hành cứ giành nhau ôm chân các ông bà nầy và ca tụng hết mình… thì thật tội nghiệp cho Chúa và Phật quá! Việc tu hành không màng nghĩ đến, kinh kệ hằng ngày không quan tâm mà thầy cha chỉ chú trọng đến các hình thức phô trương bên ngoài. Đó là cái nghiệp tham sân si đang lấn át các đức tính bình dị, liêm khiết, vị tha, bác ái trong con người các vị tu hành hiện nay. Tình trạng thầy cha mượn Phật-Chúa để phục vụ cho cái tham sân si vô đáy cá nhân đang thịnh hành đầy dẫy từ trong nước ra đến hải ngoại!

Cộng sản đố kỵ tôn giáo nhưng chúng lại xây dựng một số giáo hội gọi là quốc doanh nhằm thu nạp những vị tu hành mà tâm vẫn còn nặng nợ trần gian đồng thời cộng sản còn ‘sản xuất’ ra một số sư đỏ, cha đỏ để phân hóa các giáo hội chính thống, đồng thời chia đôi khối giáo dân cũng như Phật tử làm nhiều phe phái nhằm phá hoại tôn giáo. Âm mưu của cộng sản là chúng tạo ra một lớp tu hành gồm thầy cha quốc doanh với tất cả những cái xấu xa hơn những người trần tục, không ngoài mục đích để cho giáo dân, Phật tử nhìn thấy tư cách các vị lãnh đạo tinh thần để rồi từ đó họ sẽ xa dần Chúa và Phật…

Trong nước chính cộng sản bỏ tiền xây dựng chùa, nhà thờ để đưa vào đó những cha thầy quốc doanh với hai mục đích. Một là chứng minh với thế giới rằng Việt Nam là nơi mà các tôn giáo đều được phát triển tối đa; và hai là, chùa nhà thờ là những cái ổ trú ẩn của những tên cộng sản đội lốt tôn giáo. Tình hình ở hải ngoai cũng vậy, chùa và nhà thờ mọc lên như nấm, nguy nga đồ sộ, nhưng thử tìm hiểu tiền ở đâu để các thầy cha vừa mua đất vừa xây những cơ sở tôn giáo vượt quá khả năng? Đồng ý rằng tiền của do tín đồ Phật tử đóng góp, nhưng đó chỉ là số nhỏ nhằm che đậy bên ngoài, phần tài chính quan trọng là do cộng sản cung cấp để thành lập những động ổ an toàn cho bọn cộng sản mặc áo nâu, áo đen từ trong nước ra trú ẩn.

Trong nước thì giáo gian Huỳnh công Minh, tổng thư ký tòa Tổng Giám Mục Sàigòn và cũng là ‘tổng tư lệnh’ giáo hội công giáo quốc doanh. Giáo gian nầy đang tận tình ‘điều khiển’ ngài Hồng Y Tổng Giám Mục ‘dính chàm’ Phạm Minh Mẫn. Do đó tín đồ không lạ gì khi ngài Hồng Y thi hành lệnh một cách tích cực, từ vụ Cờ Vàng cho đến ‘tống khứ’ Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt đi Vatican chữa bệnh theo yêu cầu của cộng sản Hà Nội. Ngoài ra, linh mục nào muốn ăn ngon mặc đẹp, tiền bạc đầy túi, muốn được lấy vợ đẻ con chính thức công khai, muốn có nhà thờ to lớn và đông giáo dân (như Phan Khắc Từ) thì đến cúi mình trước mặt giáo gian Huỳnh Công Minh, ký giấy tờ cam kết rồi lãnh vài ba trăm triệu để xây nhà thờ và xây tổ ấm!

Trước năm 1957 tôi thường đến thăm và dùng cơm chay với nhiều vị Thượng Tọa trụ trì tại các chùa nhỏ (chùa nghèo) trong vùng Gia Định cũng như với những vị linh mục dòng Phanxicô hoặc dòng Vinh Sơn. Các vị nầy sống bình dị, mặc thô sơ, ăn uống thanh đạm. Khi tiếp xúc với những vị nầy tôi cảm nhận được Phật tính cũng như tinh thần Kytô thoát ra từ lời nói, cách cư xử đến cử chỉ và ánh mắt bao dung… Thâm tâm tôi lúc nào cũng quý trọng những vị chân tu nầy… Nhưng ngày nay, với chủ trương diệt tôn giáo, cộng sản đã sản xuất ra một số quốc doanh để mưu đồ phá hoại các tôn giáo chân chính và thành phần nầy hiện đang đầy dẫy từ trong nước ra đến hải ngoại. Các chất bổ béo trong cơ thể các vị tu hành ngày nay quá dư thừa, thân hình các vị tu hành phì nộn và đa số mang bệnh nhà giàu (tiểu đường, cao huyết áp…) vì các cha cai quản họ đạo được con chiên mời dùng bữa luân phiên từ nhà nầy qua nhà khác. Các thầy thì được Phật tử làm các món chay dưới dạng tôm rim, cá chiên, cua lột, thịt kho tàu… giúp cho các thầy tự đánh lừa cả thị, xúc, vị giác của mình để được ngon miệng. Như vậy cái si vẫn còn quá lớn, làm sao cho trọn kiếp tu!!!

Xin kết thúc bài viết: Chống cộng sản thì phải chú tâm đến vấn đề tôn giáo vận. Địch đã gài sẵn cha thầy quốc doanh vào nhà thờ, vào chùa… nếu chúng ta vô tình hay thiển cận, vẫn tôn vinh, nuôi dưỡng và đùm bọc thành phần nầy thì Phật tử con chiên đã tự chính mình ra tay diệt tôn giáo của mình.

ĐINH LÂM THANH

Cánh cửa đã khép

dinhlamthanh

Vân bật khóc khi hay tin Thu bình yên vào đến Bộ Tổng Tham Mưu khuya hôm qua. Gác máy điện thoại xuống, nàng ghi vội vài chữ để cho cho gia đình và hấp tấp ra bến xe mua vé đi Sàigòn. Thu vừa cho hay chàng chỉ có mặt tại đây một vài ngày và cần gặp Vân gấp trước khi nhận lệnh trình diện một đơn vị mới.
Trong thời gian qua, Vân nhiều đêm thức trắng khi hay tin Bộ tư lệnh quân đoàn II di tản từ Pleiku dọc theo quốc lộ 19 xuống Qui Nhơn, nàng đã mấy lần liên lạc với tiểu khu Khánh Hòa cũng như các đơn vị trực thuộc quân đoàn để thăm dò tin tức Thu, nhưng tất cả đều không biết gì hơn kể từ khi đoàn quân được lệnh rút xuống vùng biển. Đài BBC cũng như những nguồn tin khác cho biết trình trạng hỗn loạn của quân đội cũng như dân chúng trong lúc tháo chạy, những con số bị thương và tử vong trên suốt chặng đường quốc lộ càng làm cho Vân hốt hoảng. Mẹ Vân thông cảm tình trạng bất an của con, bà cho phép Vân ra Qui Nhơn để thăm dò tin tức Thu, nhưng ba Vân thì cẩn thận lo xa, sợ rằng thân gái dặm trường dễ xảy ra những chuyện bất trắc. Gia đình có người quen ở tại tỉnh lỵ nhưng ông không bằng lòng để Vân một mình và tá túc tại nhà người khác trong tình thế dầu sôi lửa bỏng.
Nhưng sáng nay chính Thu điện thoại ra báo tin cho Vân và mong gặp nàng tại Sàigòn để sau đó tất cả có thể an tâm bàn tính những chuyện sắp đến. Vân vẫn còn nhớ rõ, Thu nhắc đi nhắc lại nhiều lần, thế nào cuộc chiến cũng kéo vào tận Sàigòn. Tình hình ra sao thì chưa biết nhưng quốc lộ 1 sẽ bị cô lập. Có thể địch sẽ chiếm khu rừng lá làm bàn đạp tiến vào thủ đô, Vân phải thu xếp trước thế nào để phút chót nếu kẹt đường thì phải dùng ghe chạy vào Vũng Tàu. Thu cho biết, dù tình hình biến động ra sao chàng cũng không thể quay trở ra Nha Trang để đón gia đình Vân.
°°°
Sau khi tốt nghiệp Vân xin về dạy tại Nha Trang, thành phố biển nơi mà nàng đã trải qua bảy năm trung học ở đây. Vân quen Thu trong thời gian còn theo đại học sư phạm tại Sàigòn. Lúc bấy giờ Thu là một nhà văn mang cấp bậc trung úy, biên tập viên của đài phát thanh quân đội. Hai người gặp và yêu nhau, dự trù sau khi Vân ra trường yên ổn việc dạy học, họ sẽ thành hôn với nhau. Nhưng tình hình chiến sự bộc phát dữ dội tại cao nguyên vào mùa hè năm 1972, Thu tạm rời đài phát thanh, trở thành phóng viên chiến trường và chính cuộc chiến tại Cao nguyên đã giữ chân anh trong nhiệm vụ mới cho đến khi có lệnh di tản. Sau khi vào đến Sàigòn Thu được điều động xuống vùng IV và kẹt lại đây cho đến lúc phải buông súng đầu hàng. Là một đại úy ngành chiến tranh chính trị bị bắt tại chỗ khi giặc vừa kéo vào, Thu bị giam tại Cần Thơ cho đến lúc hai tay mang còng sắp hàng lên xe đi tù. Lần chót gặp mặt khi Thu vừa vào đến Sàigòn và kể từ ngày đó hai người mất luôn tin tức nhau.
Nhiều lần hỏi thăm gia đình Thu nhưng thân nhân không một ai hay biết gì hơn. Vân vẫn nặng tình, vẫn chờ đợi, mười ngày rồi một tháng, ba tháng đến sáu tháng, rồi một năm trôi qua…Chẳng những không có tin gì theo lời hứa của Cộng sản mà càng ngày càng nhiều tin đồn thất thiệt, chẳng biết tin vào đâu để có một quyết định dứt khoát. Đang hoang mang chưa biết tình trạng Thu sống chết thế nào thì bạn bè cho hay, các sĩ quan ngành chiến tranh chính trị chế độ cũ bị Cộng sản liệt vào dạng ác ôn côn đồ, có tội nặng với chế độ mới. Những sĩ quan thuộc dạng nầy chắc chắn sẽ bỏ thây trong các trại cải tạo hay ít ra cũng lãnh án tù tội suốt đời. Tất cả khuyên Vân đừng hy vọng ngày về của Thu. Cuối cùng Vân cùng cha mẹ và hai đứa em vượt biên theo một làng đánh cá dưới sự hướng dẫn của một vị linh mục. Sau gần một năm nằm tại trại tỵ nạn ở Mã Lai, Cha mẹ Vân được người thân bảo lãnh qua Mỹ và gia đình làm lại cuộc đời tại tiểu bang Virginia. Nàng xin theo học ngành thẩm mỹ và sau đó dời về California để phục vụ cộng đồng người Việt tại quận Cam.
Một người đàn bà trẻ đẹp, giàu có và nhất là còn độc thân là cái đích cho đàn ông thuộc mọi lứa tuổi mơ ước, trong đó đa số khoa bảng và có sự nghiệp vững đều nuôi hy vọng làm chủ trái tim cũng như gia tài của Vân, nhưng nàng vẫn thờ ơ trước những ân cần săn đón. Đã bốn năm trời nàng vẫn nghĩ đến Thu và ngày đêm hy vọng một phép lạ nào đó hai người sẽ được tái hợp. Từ mấy năm nay Vẫn vẫn thường xuyên liên lạc với Việt Nam và mới đây gia đinh Thu cho biết, chàng đã bị đày ra miền thượng du Bắc Việt, lao động khổ sai trong các trại tù ở miền núi, tình trạng sức khỏe quá yếu và ngày về thì chẳng biết đến bao giờ đối với một sĩ quan phóng viên chiến trường thuộc ngành chiến tranh chính trị ! Gia đình Vân thường nhắc chừng nàng việc hôn nhân, không lẽ ở giá để chờ một hình bóng vô vọng. Vân vẫn không xiêu lòng. Cho đến lúc chính cha mẹ Thu buồn bã khuyên Vân nên lập gia đình thì nàng mới bắt đầu nghĩ đến việc hôn nhân cho mình.
Vân kết hôn với một bác sĩ giải phẫu thẩm mỹ vừa ra truờng. Việc lựa chọn không quá khó khăn đối với Vân. Khải, một thanh niên trẻ đẹp khỏe mạnh và cũng là người trong ngành mà nàng cần để thay thế một bác sĩ đang làm việc với Vân bằng hợp đồng. Mấy lúc gần đây, ông bác sĩ nầy thường đưa ra nhiều yêu sách mục đích để buộc Vân nhượng lại một nửa cổ phần của trung tâm nhưng Vân không thể nào chấp thuận những đỏi hỏi quá đáng. Trường hợp ông ta ra đi sẽ gây khó khăn cho Vân vì bằng cấp của nàng chuyên về trang điểm, săn sóc thân mình, da mặt và những tiểu giải phẫu không quan trọng, Vân không đủ tiêu chuẩn để thực hiện những trường hợp giải phẫu thẩm mỹ chỉnh hình gương mặt và bộ ngực. Trong lúc phân vân tìm một bác sĩ chuyên ngành phụ trách kỹ thuật thì dịp may đưa Vân gặp Khải trong một buổi dạ hội và mối tình hai người chớm nở bắt đầu từ đêm đó. Việc cưới hỏi xảy ra nhanh chóng và cuộc sống lứa đôi đã làm cho Vân dần dần quên hẳn Thu.
°°°
Cô tiếp viên hàng không nhắc nhở Vân :
– Thưa bà, máy bay sắp đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất trong vòng vài phút, xin bà vui lòng ngồi lại ngay ngắn, cài giây an toàn…
Vừa giật mình thức dậy, Vân thấy cô tiếp viên đừng bên cạnh mỉm cười :
– Bà ngủ một giấc ngon lành, chúng tôi không dám đánh thức bà dùng bữa.
Vân ngạc nhiên :
– Tôi ngủ một ngon đến thế ?
– Vâng, thưa bà đúng như vậy.
Đây là lần đầu Vân trở lại Việt Nam sau ngày vượt biên vì nàng không còn thân nhân tại đây. Bỡ ngỡ trước nhiều thay đổi nhưng Vân vẫn hình dung được những gì quen thuộc ngày trước, từ dáng điệu, lối nói chuyện khuôn mặt hiền hòa của người miền Nam đang chen nhau trước hàng rào quan thuế. Chỉ một người bạn độc nhất ra đón, nhưng xa cách đã lâu không biết có nhận nhau dễ dàng không. Vân biết Thủy đang có mặt trong số người đến đón thân nhân nhưng chắc chắn Thủy không bao giờ nhận ra mình, vì nàng vẫn còn quá trẻ so với số tuổi đời. Hơn nữa, qua những lần giải phẫu, gương mặt nàng đã có nhiều thay đổi và hình dáng bên ngoài vẫn cân đối quyến rũ như thời con gái, chính vì nàng chịu khó giảm ăn và chăm sóc thể dục thẫm mỹ hằng ngày. Ngược lại, Vân biết bạn sẽ khó nhận ra nàng, qua những lần trao đổi điện thư, Thủy cho biết nàng đã trải qua nhiều gian lao cực khổ cả vật chất lẫn tinh thần. Con người Thủy trở nên bệ rạc, hốc hác vì cuộc sống thiếu thốn đủ mọi thứ, từ tinh thần đến vật chất. Trong thư điện tử gởi trước ngày lên đường, Vân đề nghị Thủy cầm một tấm bìa cứng đề tên nàng khi đón ở phi trường. Thủy có vẻ không bằng lòng và trả lời rằng, chắc chắn mình không quên Vân, mà chỉ sợ người nước ngoài không nhận ra người bạn nghèo khó ngày trước mà thôi ! Khi ngang qua hàng rào cảnh sát an ninh, Vân nhận ra một người đàn bà tay cầm tấm bìa cứng đề tên nàng đứa lên cao, dù chưa hình dung được người bạn cũ, nhưng Vân biết chắc là Thủy. Vân vẫn tiếp tục đi thẳng ra để xem phản ứng của bạn, thì đúng như nàng đoán, Thủy vẫn nhón người lên cao nhìn vào phía trong.
Vân vòng ra phía sau vỗ nhẹ vào vai, Thủy quay lại reo lên :
– Vân phải không ?
– Ừ, mình đây. Thôi chúng ta đi nhanh về nhà nói chuyện sau.
Vân trả lời nhanh gọn câu hỏi của Thủy để tránh những giây phút quá mủi lòng.
Hai người vội lui ra sau khi trao hai chiếc valise lớn cho anh tài xế taxi. Thủy vừa nắm tay Vân đi nhanh về phía xe, vừa căn dặn :
– Đừng để ý và cũng không nên trả lời bất cứ câu hỏi gì của mấy chàng thanh niên đi theo.
Sau khi đã vào hẳn trong xe, Vân lên tiếng hỏi :
– Sao phải trốn mấy thanh niên như chạy giặc vậy ?
– Bọn đĩ trai ma cô đó. Trả lời là mắc bẫy chúng sẽ đeo sát như đỉa và sẽ chết dưới tay chúng nó.
Vừa nói Thủy chỉ về hướng tay trái, một thanh niên đi xe hai bánh đời mới loại phân khối lớn đang phóng theo xe taxi. Khi vượt qua mặt anh chàng đưa tay chào một cách thân mật như đã quen biết nhau từ trước. Đến góc đường anh ta chạy chậm lại nhường cho taxi qua trước và tiếp tục bám sát sau lưng.
Vân ngạc nhiên chưa hiểu :
– Không hiểu sao, anh chàng khi nãy vẫn chạy theo, có quen biết với Thủy ?
– Bọn chúng đó đóng đô tại phi trường, thấy bất cứ đàn bà Việt kiều nào đi về một mình, ra vẻ có tiền và nhất là đẹp cỡ như Vân là không thoát được tay chúng nó.
– Làm gì được mình ?
– Dài dòng lắm để có dịp kể cho nghe. Đại khái là chúng đeo đuổi con mồi tới cùng, dùng đủ mọi mánh lới để dụ cho bằng được, cuối cùng rút hết tiền của đến trắng tay. Nếu đẹp như Vân thì mục tiêu càng có giá hơn. Thời gian Vân ở Sàigòn, đi đâu cũng phải có mình kèm bên cạnh, không thì trước sau gì cũng bị chúng tìm đủ mọi cách làm quen xong rồi sẽ lột hết không còn một thứ gì trên người.
Vân cười :
– Đâu có dễ dàng vậy.
– Đừng khinh thường, chúng nó có cả trăm chiêu ngàn kế, nhiều người đàn bà danh giá đạo đức, cao tay ấn, xem đàn ông chưa bằng nắm tay nhưng chỉ sơ suất chút đỉnh là lọt vào quỹ đạo của chúng hết đường thoát. Tại Sài gòn đã xảy ra ngàn lẻ một chuyện, giai thoại các bà Việt kiều một mình về thăm gia đình hay đi làm thương mãi, đã có biết bao người mất tiền mà còn bị quỵt tình nữa. Nhưng có mấy ai dám hé môi để gia đình tan nát đồng thời làm trò cười cho thiên hạ.
Vân vui vẻ :
– Được rồi, về đây đi đâu cũng phải có Thủy bên cạnh cho chắc ăn.
Chưa dứt chuyện xoay quanh những người đàn bà về Việt Nam một mình thì xe đã đến đầu hẻm. Nhà Thủy ở tận trong phải đi bộ chừng hơn cả trăm thước. Thủy lên tiếng trước :
– Nhà mình trong xó, bệ rạc thiếu phương tiện nhưng Vân phải ráng ở tại đây, an toàn cho thân gái dặm trường.
– Mua hay mướn ?
– Làm gì có tiền mua, mướn tạm mà cũng không trả nổi tiền hàng tháng.
Vân nhìn quanh nhà :
– Mấy đứa nhỏ ở gần đây không ?
– Gia đình chúng nó cũng quanh quẩn trong Sàigòn, đứa cháu đi học chưa về. May có nó trong nhà cũng đỡ vắng vẻ.
Vân hỏi sơ qua mấy đứa nhỏ nhưng không đề cập đến Thinh, người chồng đã để lại cho Thủy nhiều thương đau trong cuộc sống lứa đôi. Vân và Thủy, bạn thân cùng chung lớp sư phạm, ra trường Vân xin về Nha Trang, Thủy chọn Sàigòn. Cả hai đều dạy môn triết. Thời sinh viên họ quen hai người đàn ông, đến chừng mất nước Thu biệt tích, Thủy lấy Thinh. Tình thế thay trắng thành đen cuộc sống dân miền Nam và cũng đổi luôn lòng chung thủy của Thinh sau khi đã có với nàng hai đứa con. Thủy vẫn được đi dạy trở lại, nhưng đau khổ cho những người dạy môn triết. Với chế độ mới, nhà giáo các môn văn chương và lịch sử bắt buộc phải tẩy nảo để nói như con vẹt, rập theo những gì đã được bộ giáo dục và tuyên truyền cho phép. Sau ngày mất nước, chỉ có thuyết Mác-Lê, đường lối đảng Cộng sản Việt Nam và cá nhân ông Hồ là ưu việt, tiên tiến, hiện đại nhất địa cầu. Tư tưởng nào liên quan chế độ cũ hay tư bản đều phải được tẩy xóa tận gốc và thay vào đó những lập luận ngô nghê, láo khoét, phản tiến hóa được đẻ ra bởi những người chưa từng cắp sách đến trường. Nạn nhân chính và ưu tiên trong việc nhồi sọ đổi mới nầy là những người có trách nhiệm giáo dục giới trẻ. Từ giáo viên các trường mẫu giáo cho đến giáo sư đại học trong phạm vi văn hoá đều phải được tẩy sạch tư tưởng cũ để tiếp thu những bài học mới do Cộng sản soạn thảo rồi đọc thuộc lòng như cái máy trong lớp học.
Thủy không thi hành đứng đắn trong vai trò giảng dạy theo yêu cầu mới của chế độ, nhiều lần bị phê bình kiểm thảo. Thủy bị chuyển thành giáo viên chạy trường, đứng lớp nhiều môn học khác nhau. Nhiều lần bị ép vào dạy các môn toán, vật lý… Thủy phản ảnh lên thì được cán bộ lãnh đạo ngành giáo dục giải thích “Chúng tôi đâu cần phải học nhiều nhưng vẫn thành công, đạt chỉ tiêu, xuất sắc trong tất cả bộ môn giao phó. Chị theo bốn năm đại học sư phạm mà không đứng được lớp toán thì chắc bằng cấp của chị là bằng mua chứ gì” ! Rồi, vì chén cơm manh áo, Thủy đành đứng lớp lưu động, nghĩa là bất cứ môn gì cũng phải thông suốt theo yêu cầu.
Vân tức cười chen vào câu chuyện Thủy đang kể :
– Như vậy xin dạy môn toán chắc khỏi mệt trí ?
– Lớp lớn thì tạm láp nháp qua ngày nhưng gặp các lớp mẫu giáo hoặc tiểu học thì “đau đầu” lắm !
– Sao ?
– Cô bạn cùng xóm dạy tiểu học, toán đố không có gì hơn vài ba bài toán Cộng trừ mà thôi.
Vân ngắt ngang :
– Thì khỏe thân chứ kêu ca gì nữa.
Thủy cười chua chát :
– Các bài toán sau đây được đưa từ miền Bắc vào để dạy các em bé từ lớp nầy đến lớp khác như những bài tính khuôn vàng thước ngọc, xem có ‘đau’ không : Ví dụ bài toán trừ như sau : Có 3 chiếc máy bay Ngụy đến thả bom, chị nông dân dùng súng trường bắn rơi 2 chiếc, vậy còn lại bao nhiêu chiếc ! Hay bài tính nhân : Một quả cối do quân cách mạng bắn vào bọn ngụy trong thành phố chết hai chục người, vậy quân ta bắn vào mười quả đạn, địch chết bao nhiêu ? Thử hỏi mình có đau lòng khi phải lặp đi lặp lại cả chục cả trăm lần trong ngày hay không ?
Vân thắc mắc :
– Bây giờ tình hình có thay đổi hay vẫn… ?
– Cũng có đối với các trường học ở thành phố, nhưng trước sau vẫn còn những giọng điệu nhồi sọ, gây căm thù cho các trẻ em vừa cắp sách đến trường.
– Lương đủ sống không Thủy ?
– Mắm muối, bữa đói bữa no cũng qua ngày. Nghề giáo là nghề bạc bẽo nhất ở chế độ nầy. Mang danh công nhân viên nhà nước nhưng lương thì chết đói. Nghề giáo không vơ vét được cái gì đút túi, ngay cả cây viết, cuốn tập, cục phấn cũng phải xử dụng đúng theo tiêu chuẩn. Nếu là giáo sư cấp đại học may ra có thể xoay sở được phần nào bằng cách chạy hồ sơ vào các trường lớn, mánh mung đề thi, bán điểm, tráo chứng chỉ hay bán bằng tốt nghiệp. Còn giáo viên tiểu học hay giáo viên trung học cấp I thì chỉ có cách dụ học trò về nhà dạy thêm. Đứa nào đến học thì được điểm cao, đứa nào không tiền học thêm, dù giỏi cũng đành phải xếp vào hạng dưới. Biết làm sao bây giờ ! Không lý một lớp bốn năm chục em đứa nào cũng đạt 20 điểm và đều đứng hạng nhất đồng loạt ! Thành ra cô giáo bên nầy làm ngày làm đêm vẫn không đủ tiền gạo. Vân đừng ngạc nhiên, đôi khi cô giáo mệt mỏi đành đưa bài của em nầy cho em khác chấm điểm, đó là chuyện thường tình !
Vân muốn biết thêm đời sống của Thủy, nàng tiếp tục :
– Tình trạng dạy học của Thủy bây giờ thế nào ?
– Đổi lung tung, vì mình bị khiển trách nhiều lần, bây giờ không còn dạy một môn hay lớp nào nhất định. Gọi là giáo viên chạy lớp, thiếu đâu thì thế đó. Từ lớp nhỏ đến lớn, từ quốc văn, vật lý, sử địa qua toán…
– Làm sao dọn bài ?
– Học sinh bây giờ đâu có giỏi và ngoan như thời trước. Thật ra chẳng cần soạn bài hay chẳng có giờ để chuẩn bị. Học cho qua chuyện và dạy thì qua ngày. Học trò đến trường để khỏi bị rầy còn thầy giáo lên lớp để kiếm cơm. Chỉ có thế ! Đứa nào khôn thì ráng học năm ba chữ. Cuối năm không ai biết được kết quả mà thường thường là ngựa về ngược. Con ông cháu cha không cần đến trường, không cần học hành làm gì, cuối năm lãnh thưởng, lên lớp và được cấp bằng đã ghi sẵn họ tên. Bên nầy nhiều cô cậu đậu tú tài, cử nhân hay ngay cả tiến sĩ đôi khi chưa viết nổi một bức thư tình !
– Mình không hiểu.
– Thời buổi bây giờ em nào dở thì đứng đầu, đứa nào không đi học thì đậu cao…
– Cũng lạ nhỉ !
– Chuyện khoa bảng bên nầy cũng nên ghi vào sổ kỷ lục thế giới.
– Sao ?
– Thì đâu cần phải học hành gì. Cán bộ đảng viên cao cấp thì sai tài xế đi học hàm thụ khóa đêm. Con ông cháu cha không cần đến lớp, biết đọc biết viết là có thể mua đủ loại bằng…
Vân bây giờ mới vỡ lẽ ra :
– Hèn gì, nghe báo chí nói hoài : Xây cầu thì cầu sập, cất nhà thì nhà lún, ngăn đê thì đê vỡ…
– Đó là nguyên do phụ mà thôi.
– Thế lý do chính ?
– Rút ruột !
Vân ngớ ngẩn không hiểu.Thủy cười :
– Chuyện tại Việt Nam phải nghe cả năm trời chưa hết. Vân ráng ở chơi lâu sẽ rõ.
Vừa thay áo rửa mặt xong, Vân bắt đầu trả lời Thủy về đời sống của nàng sau nầy. Vân cho hay :
– Sau khi mất hẳn tin Thu, mình phải theo gia đình vượt biên bằng đường biển, may mắn đến được Mã Lai an toàn, sau đó một người thân bảo lãnh qua định cư tại Mỹ. Vốn anh văn đâu bao nhiêu để hy vọng tiếp tục nghề giáo, thôi đành kiếm một nghề khác. Nhưng sự lựa chọn hợp thời và đúng lúc đã đem lại thành quả tốt đẹp cho mình đến ngày hôm nay. Bước đầu nhờ sự giúp đỡ tận tình của gia đình người thân, mình vững tâm theo học ngành thẩm mỹ. Gần năm năm sau, kết hôn với một bác sĩ chuyên khoa cùng ngành, tưởng cuộc đời đã an bài cho mình một cuộc sống mới hoàn hảo, nhưng rồi giữa đường cũng gãy cánh, mình ở vậy nuôi hai con cho đến ngày chúng trưởng thành. Bây giờ thành công về tiền bạc nhưng tình đầu, tình thứ đều bỏ mình mà đi.
– Tại sao không đi thêm một bước, đối với Vân, việc lựa chọn quá dễ dàng trong tầm tay mình ?
– Thật ra thì…
– Thủy hiểu, còn nhớ đến Thu phải không ?
Rồi Thủy đùa :
– Như vậy chuyến nầy về để thăm mình hay để gặp lại Thu.
– Cả hai.
– Có ý định nối lại mối tình cũ ?
– Chưa hẳn.
– Sao ?
Vân cười lắc đầu không nói gì thêm. Nàng nảy ra ý định về Việt Nam sau khi Thủy cho biết đã bất ngờ gặp và chuyện trò với Thu trong dịp đi lễ tại nhà thờ dòng Chúa Cứu Thế. Như vậy động lực chính là Thu để nàng nghỉ việc ba tuần về Việt Nam, nhưng về để nối lại mối tình cũ thì cũng chưa đúng hẳn. Chính Vân cũng không hiểu nổi tâm trạng mình, khi được Thủy cho hay, nàng gọi điện thoại lấy ngay chuyến bay sớm nhất. Đến lúc cầm vé trong tay, Vân thấy mình vô lý và tự mâu thuẫn với chính mình khi gấp rút quyết định chuyến đi. Nhưng chuyện đã rồi, đàng nào chuyến bay đã có và lỡ tuyên bố với nhân viên rằng sẽ đi thăm người bạn tại Việt Nam ba tuần, Vân phải lên đường đúng ngày và điện thoại thông báo cho Thủy ngày giờ nàng đến Tân Sơn Nhất.
Thủy dẫn Vân đến gặp cha xứ họ đạo để tìm tông tích Thu, cả hai đều đoan chắc cha xứ có thể biết rõ về chàng.Nghe trình bày lý do, cha xứ ngần ngại trước yêu cầu của người lạ. Nhưng qua lời cầu khẩn của hai người đàn bà, sau một hồi đắn đo, ngài cho biết đại khái tình trạng gia đình Thu : Cải tạo gần mười năm, khi được thả về Thu lập gia đình, có ba đứa con hiện đang đi học. Thu là một con chiên ngoan đạo và hiện đang sống trong giáo xứ. Vân chỉ cần biết như vậy và sau đó một tuần, nhằm ngày Chủ nhật, Vân âm thầm một mình đến đây dò hỏi tin tức. Không ngờ vừa đặt câu hỏi, một cậu bé đã vui vẻ tình nguyện dẫn đường.
Sau lưng khu vực dòng Chúa Cứu Thế trên đường Kỳ Đồng Sàigòn, trước kia là lô đất sình và một hồ rau muống lớn chạy dọc theo con kinh, nay trở thành khu vực dành cho họ đạo. Nhà dòng cho con chiên xây nhà ở và dần dần khu sình trở thành mặt bằng với mấy trăm căn nhà bằng ván lợp tôn. Khu vực tập trung càng ngày khá đông dân, nhà cất lấn dần ra lộ, con đường chính dẫn vào xóm và các lối đi trong luồn trong xóm càng bị thu hẹp, gây trở ngại cho việc di chuyển xe hai bánh. Vân ăn mặc bình thường như người địa phương, áo bà ba đen đầu đội chiếc nón rộng vành, theo chân cậu bé hướng dẫn vào quán chú Sáu, nơi vừa bán tạp nhạp đủ thứ đồ như cửa hàng chạp phô, vừa café nước ngọt bánh kẹo bình dân. Ngồi ở đây Vân có thể quan sát rõ căn nhà đối diện, nơi Thu đang sống với gia đình vợ và mấy đứa con.
Vân làm ra vẻ tự nhiên bắt chuyện với chú Sáu :
– Quán chú nằm khuất trong xóm chắc cũng ít khách ?
– Toàn là khách quen đã trên chục năm nay. Bán liên tục không có ngày nghỉ,
đêm hôm ai muốn gì thì cứ gọi cửa.
– Tôi ngồi lâu một chút đợi người bạn có phiền không ?
Chú Sáu vui vẻ :
– Bà ngồi suốt ngày cũng không sao.
Vân bắt đầu vào đề :
– Nhà ai ở trước mặt có mấy gốc lan đẹp quá. Tôi mê lan rừng nhưng không có tay chơi hoa, cứ èo uột không ra bông như ở đây.
– À, nhà ông Thu, ông ta cưng lắm, chăm sóc mỗi ngày.
Tiến thêm một bước nữa, Vân giả vờ :
– Già rồi chọn thú chơi hoa thanh lịch nhất.
Chú Sáu cãi lại :
– Già gì, ông ta còn ngon lành lắm. Viết sách làm thơ và dạy kèm cho các học sinh thi tú tài đó.
– Dạy kèm ở nhà được bao nhiêu, sao không xin đi dạy trường nhà nước ?
– Ai cho mà xin. Tù cải tạo mười năm mới về không bị bứng đi kinh tế đã may mắn lắm rồi…
Được đà, Vân tiến tới :
– Sao không đi theo HO mà còn lẩn vẩn ở đây.
– À chuyện đó thì không biết, nhưng hình như ông ta không tiếc nuối vấn đề nầy.
Tôi thấy ông vui vẻ sống bình thản như không liên hệ gì đến chuyện quá khứ, phường khóm và ngay cả công an khu vực cũng thương, điều đó mới lạ !
Chú Sáu vui miệng tiếp :
– Được bà vợ hiền, đẹp, chịu khó… ba đứa nhỏ thông minh dễ thương, chúng vẫn còn đi học.
Vừa nghe qua, tim Vân tự nhiên đau nhói : Vợ đẹp, hiền, tháo vát đã có với Thu ba mặt con, như vậy cuộc đời chàng đã khép kín trong hạnh phúc. Vân là người đến trước trong cuộc đời chàng nhưng hoàn cảnh đã tách rời đôi lứa, bây giờ thành kẻ đến sau. Mỗi người một ngã trên hai chuyến tàu ngược chiều, có vẫy tay gọi nhau thì cũng khó lòng tái hợp ở cuối đường, vì ở đó Vân không thể nhẫn tâm níu kéo, tách Thu khỏi vòng tay người vợ hiền và ba đứa con nhỏ của chàng.
Đang suy nghĩ vẩn vơ thì giọng chú Sáu đưa Vân về thực tại :
– Ông Thu chiều nào cũng qua đây uống café chuyện trò, bà ngồi nán lại gì cũng gặp ông ấy.
Vân mất bình tĩnh :
– Không, tôi không có quan hệ gì với ông ta, có hẹn với người bạn nhưng nếu họ đến trễ thì chắc tôi xin phép từ giã chú.
Chưa dứt câu thì một người đàn ông từ nhà Thu bước ra và tiến về quán chú Sáu. Vân hốt hoảng :
– Chú làm ơn đừng nói gì với ông ta về tôi cả. Tôi van chú.
– Vâng, tôi hứa, bà đừng ngại.
Vân chưa kịp đứng dậy trong lúc Thu đã vào hẳn trong quán, nàng kéo chiếc mũ vải đội lên đầu xuống tận mắt, mặt hướng ra phía cửa. Thu kéo ghế ngồi ngay sau lưng Vân, nàng biết chắc chắn Thu không thể nào nhận ra mình.
Giọng Thu vẫn trầm ấm như xưa :
– Tối nay có trận đấu, tôi qua anh xem. Nhà tôi cái máy truyền hình tự nhiên chết tiếng mất hình sáng nay.
– Qua đây xem vui hơn, đá banh phải xem đông người, hò hét mới thú. Bà xã và mấy đứa nhỏ đâu ngày hôm nay không thấy ?
– Sáng nay xem lễ xong tất cả kéo qua nhà ngoại bên Gia Định. Cũng sắp về tới, còn phải cơm nước sớm để xem đá banh.
Vân tâm hồn bấn loạn, ngồi sát bên Thu nhưng không dám nhìn thẳng chàng. Vẫn giọng quyến rũ ngày xưa, tóc tuy đã bạc màu nhưng còn rất đẹp, tự nhiên, bồng bềnh và lãng mạn, dáng dấp một nghệ sĩ, gương mặt cương nghị, khí khái của một người đàn ông đúng nghĩa. Dù đã sáu mươi nhưng đúng là mẫu người lý tưởng của hai thế hệ đàn bà. Thu vui vẻ, hoạt bát và yêu đời, có lẽ nhờ bàn tay khối óc và trái tim của người vợ, Thu đã tình nguyện ở lại Việt Nam và chấp nhận đắng cay của một cuộc đổi đời. Áo tuy sờn vai, quần bạc màu nhưng tâm hồn và trí óc Thu vẫn còn nguyên vẹn, trong sáng. Chàng vẫn viết văn làm thơ nghĩa là tâm hồn chàng vẫn như cũ. Sống trong một nghịch cảnh mà tâm hồn còn thanh thản để sáng tạo thì bắt buộc phải có một trong hai động lực, lý tưởng cuộc sống mai sau hay tình yêu của một người đàn bà hiện tại. Thu trong sáng quá, con người chàng kết tinh bởi một tâm hồn cao quý trong một thể xác khỏe mạnh. Hoàn cảnh khó khăn của một cựu tù cải tạo, bị chế độ mới kiểm soát trông chừng và xếp loại chung với thành phần ăn bám, nhưng chàng không tầm thường như một số người sống bệ rạc bất mãn, than thân trách phận, bon chen vật chất. Nhưng toan tính và ước mơ nào đã giúp chàng vượt qua khó khăn trong quá khứ, chấp nhận đối đầu với thực tại và đặt tin tưởng vào ngày mai ? Đặt câu hỏi để rồi tự đánh giá mình không còn xứng đáng với Thu, Vân đã một lần dứt áo ra đi giữa lúc chàng đang trong vòng tù tội. Tình yêu giữa hai người chưa ràng buộc bằng lễ giáo, nhưng một khi bỏ Thu ra đi, ít ra Vân cũng mang tội phản bội trong tâm hồn, nhất là đối với một người như Vân, được giáo dục để trở thành cô giáo mẫu mực. Quyết định sai lầm ngày trước chưa được tha thứ thì hôm nay Vân không thể ích kỷ bước vào cuộc đời Thu một lần nữa để đưa gia đình chàng đi đến đổ vỡ.
Ngồi nghe hai người đàn ông trò chuyện đã hơn một giờ, như vậy cũng quá đủ, Vân không thể can đảm nán lại để nhìn mặt những người thân yêu của chàng khi nghe Thu nói với chú Sáu rằng vợ con sắp về đến nhà. Vân lấy tờ giấy bạc dằn dưới tách café, đứng dậy hấp tập từ giã chủ quán và bước nhanh ra ngõ. Khi ra đến đường Kỳ Đồng, Vân quay vào nhà thờ, đến trước hang đá, hướng mặt lên tượng Đức Mẹ, cầu xin cho nàng can đảm chọn đúng con đường phải đi. Cầu nguyện xong Vân ghé vào nhà khách họ đạo, bấm chuông xin gặp cha xứ.
– Chào bà, hôm nay trở lại chắc còn chuyện gì cần đến tôi ?
– Vâng thưa cha, đúng vậy, xin gặp cha chừng vài ba phút.
– Được, mời bà cứ tự nhiên.
Vân kể chi tiết rành mạch cuộc đời mình từ lúc gặp Thu trước năm 1975, yêu nhau rồi mỗi người đi một phương. Tái ngộ sau trên hai mươi lăm năm thì hoàn cảnh lại khắc nghiệt. Vân xin cha xứ một lời khuyên… Nhưng ngài tế nhị dành cho Vân mở đầu một quyết định, ngài ôn tồn :
– Xin bà vui lòng cho biết ý định của bà như thế nào.
– Thưa cha, con yêu Thu nhưng hoàn cảnh khó khăn, vì chàng đã có gia đình.
Cha xứ thở phào nhẹ nhỏm nắm lấy cơ hội :
– Bà nghĩ rất đúng và hợp với ý tôi. Xin hãy để gia đình Thu hạnh phúc là điều hợp tình hợp lý nhất. Tôi hoan nghinh ý nghĩ đầu tiên của bà. Bây giờ bà còn gì cần bổ túc thêm ?
– Dạ, mục đích nhờ cha một việc.
Cha xứ ngập ngừng :
– Tôi sẵn sàng nếu việc bà nhờ cậy không đi trái với nguyên tắc, pháp luật và đạo lý.
– Dạ, con chỉ xin cha đứng ra bao bọc cho gia đình con cái của Thu.
– Tôi không hiểu.
– Dạ để con nói tiếp, con hoàn toàn không ra mặt và nhờ cha chuyển tiền nuôi và săn sóc việc học hành cho ba đứa con của Thu đến nơi đến chốn. Con sẽ giúp cho gia đình Thu trọn đời, lo cho ba đứa nhỏ có phương tiện ăn học thành tài cũng như giúp cho Thu một ít phương tiện để sống.
– Việc bà đề nghị thật tốt, nhưng làm sao giải thích cho người nhận khi bà không muốn ra mặt ?
– Dễ lắm, con sẽ cho lệnh ngân hàng của con bên Mỹ, chuyển thường xuyên và liên tục hằng tam cá nguyện vào trương mục của nhà dòng một số tiền. Cha thông báo cho họ là qua nhà dòng, một cơ quan từ thiện quốc tế đã chấp thuận cấp học bổng cho ba cháu nhỏ có phương tiện học hành và giúp gia đình Thu thêm chút tiền để sống.
Vừa nghe qua, cha xứ suy nghĩ giây lát :
– Thưa bà, chuyện nầy chưa xảy ra bao giờ, không có gì mờ ám nhưng tôi phải thỉnh ý cha bề trên, không thể tự quyết định một mình. Nếu bà rỗi rảnh xin ngồi chờ tôi vài phút, tôi lên gặp cha bề trên.
Chừng vài phút sau, một linh mục khác đi vào với cha xứ, ngài vào đề :
– Cha xứ đã trình bày với tôi, nhưng xin bà cho biết rõ ràng hơn để xem có thể giúp được bà hay không.
Vân lặp lại những gì đã trình bày với cha xứ, nghe xong cha bề trên đặt câu hỏi :
– Xin lỗi bà cho tôi hỏi câu nầy. Nguồn gốc tiền bà gởi về để cho gia đình ông Thu. Tôi cần biết để trả lời cho nhà chức trách tại đây nếu họ thắc mắc.
– Thưa cha, con là giám đốc một bệnh viện giải phẫu thẩm mỹ ở tại Mỹ. Độc thân và các con đã lớn có gia đình ra riêng. Con dư khả năng để có thể mỗi tháng gởi về cho gia đình ông Thu một ngàn dollars. Số tiền nầy con chịu trách nhiệm trong việc chi tiêu của con, xin cha yên chí.
– Như vậy xin bà nên gởi về hàng thàng để tránh một số tiền lớn qua ngân hàng, sẽ gặp khó khăn với nhà nước. Hoặc mỗi năm bà về du lịch, cầm tiền mặt về thì tiện hơn và cũng là dịp để biết tin tức tại chỗ gia đình ông bà Thu.
– Dạ, thưa cha việc cho tiền con giữ nguyên quyết định suốt đời nhưng về Việt Nam để biết tin tức thì cho phép con tính lại sau.
°°°
Vân hoàn toàn giấu Thủy chuyện đã gặp Thu trong quán chú Sáu cũng như việc cam kết với cha xứ họ đạo trong việc giúp đỡ phương tiện để cho ba đứa con Thu đeo đuổi việc học. Trước ngày từ giã lên máy bay, Vân cứ phân vân không biết lựa lời bằng cách nào để ngỏ ý giúp Thủy một cuộc sống ổn định và đầy đủ như nàng đã lo cho ba đứa con của Thu. Giải quyết ẩn danh là một hình thức tốt đẹp đối với Thu, nhưng đối với bạn chắc gì Thủy sẽ nhận sự giúp đỡ từ bạn bè chứ đừng nói đến của một người vô danh. Thủy đã vượt qua những khó khăn sau hàng chục năm dưới chế độ mới nhưng Thủy vẫn là một nhà mô phạm đầy nghị lực, nề nếp và vẫn giữ được bản chất cao quý của nhà giáo ngày trước, chắc chắn Thủy sẽ từ chối thẳng thừng một sự giúp đỡ xem như một ân huệ của bạn bè, dù là thân thuộc.
Trong bữa cơm thân mật trước ngày chia tay, Vân đánh bạo dò dẫm :
– Tình trạng lương bổng đã thiếu trước hụt sau, mai kia về hưu làm sao sống ?
Thủy cười dòn :
– Ôi, hơi sức đâu nghĩ làm gì cho mệt trí, đâu chỉ có riêng mình, hàng chục triệu người miền Nan nầy còn tệ hơn trăm lần hoàn cảnh của mình nữa là đằng khác. Trời sinh voi sinh cỏ, đến đâu xoay sở đến đó.
– Mình hỏi vậy để dò ý, Thủy muốn đầu tư một chút ít gì để có phương tiện sống và yên tâm sau khi bị đuổi về vườn ?
Nghe đến mấy chữ ‘đầu tư’ Thủy lắc đầu cười mỉm :
– Đầu tư tại Việt Nam thì từ bị thương cho tới chết. Chỉ có người quyền thế trong chính phủ, bà con dòng họ, người ăn bám chế độ hay những Việt kiều đem hàng tỷ về mới nói chuyện đầu tư ở cái xứ độc đáo nầy chứ cò con thì trước sau ‘mèo vẫn hoàn mèo‘, hay ‘ôm đầu máu’ rồi nhảy lầu tự tử.
– Không, mình nói đầu tư ở nước ngoài kìa.
– Thủy không hiểu.
– Mình thực tình đề nghị Thủy, mình sẽ nhường lại một ít cổ phần trong bệnh viện giải phẫu thẩm mỹ cho Thủy.
Thủy đắn đo :
– Được Vân nghĩ đến, cám ơn nhiều, nhưng việc trước mình không có khả năng để mua lại một ít cổ phần. Hơn nữa, những người trong công ty tính sao ?
Vân cười :
– Giá tượng trưng do mình định đoạt cho có lệ, thật ra công ty cũng chẳng có ai lạ, mình nắm đa số, một ít cổ phần còn lại cũng nằm người trong gia đình cho đủ nhân số để thành lập công ty. Thủy đừng ngại, cổ phần mua chịu có hiệu lực ngay từ bây giờ, mỗi năm kết toán sổ sách trích ra một ít tiền lời điều chỉnh từ từ. Mà không sao đâu, mình bảo đảm tiền lời một hai tháng là trả hết nợ.
– Nghe sao dễ dàng quá vậy ?
– Yên chí đi, chẳng có gì để thắc mắc, chuyện của mình mà.
Vân vui vẻ chuẩn bị trở lại Mỹ sau khi giải quyết được nhiều vấn đề, quan trọng nhất là việc dứt khoát với Thu và đã tìm được những giải pháp tốt đẹp để giúp đỡ hai gia đình có liên hệ tình cảm với nàng tại Việt Nam.
°°°
Sau vài giờ yên giấc trên chuyến bay trở về Los, Vân thức dậy, thấy trong người khỏe hẳn và tinh thần tỉnh táo. Dùng xong ly café nóng, Vân lợi dụng giây phút yên tĩnh để ghi lại những gì đã xãy ra trong thời gian ba tuần qua. Lấy cuốn nhật ký từ xách tay để tự mình tâm sự với chính mình một cách trung thực, Vân bắt đầu :
Boeing 747, trên độ cao 12.000 cây số, ngày…
Thế là xong, những gì mong đợi sau chuyến đi đã được an bài và mình sẽ mình trở về trong cô đơn với những tháng ngày còn lại….
Thu ơi, anh vẫn ngự trị trong lòng em, những hình ảnh thơ mộng của đôi ta, những kỷ niệm yêu đương đã sống lại mãnh liệt sau gần ba mươi năm xa cách, em sẽ giữ mãi cho đến ngày nhắm mắt lìa đời. Trong quán chú Sáu, em phải tự kềm chế lòng mình để khỏi phải nhào đến siết chặt thân xác vào anh, để hôn lên tóc, lên mắt, lên môi, gục đầu lên vai anh và trút hết nước mắt mừng tủi như giây phút cuối chúng ta chia tay năm nào tại Sàigòn.
Còn gì đau khổ cho bằng, sau bao năm trời ước mơ một ngày tái ngộ, vượt hàng chục ngàn cây số tìm một hình bóng nhưng đến lúc gặp, em lại không dám ngước mặt nhìn anh. Ngồi cách nhau một cánh tay, khoảng không gian quá gần phải không anh ? Nhưng em phải ngồi yên bất động. Em thu nhỏ người lại, hai tay ôm lấy ngực, tim đập mạnh, mặt giấu dưới vành nón và nước mắt đang chảy… Em không thể hét to lên, ‘Thu ơi, Vân của anh ngày xưa đây, bằng xương bằng thịt đang ở sát bên anh’. Hoàn cảnh, số mệnh buộc em đã lên nhầm con tàu ngược chiều với anh, khi đến bến thì hai ta đã nghìn trùng xa cách. Em phải trả lại anh sự yên tĩnh của tâm hồn và hạnh phúc riêng tư vì con đường em chọn buộc phải xa anh vĩnh viễn. Trước khi chia tay, cho phép em thu hết giọng nói ngọt ngào của anh vào tâm khảm, mang theo hơi thở quen thuộc, ôm ấp trong lòng tất cả những gì của anh để làm hành trang cuộc đời. Rồi đây em sẽ giấu hình ảnh và kỷ niệm cũ của anh trong bốn bức tường khép kín. Như vậy anh sẽ vĩnh viễn bên cạnh, em có thể thở than trò chuyện, tưởng nhớ hằng đêm, nhìn ngắm mỗi ngày… Anh là của riêng em trong căn phòng mà cánh cửa đã khép, nghĩa là tình cảm hai chúng mình đã đặt đúng vị trí của nó, mỗi người một khung trời riêng biệt. Cánh cửa đặc biệt nầy chỉ dành riêng cho em, khép chứ không đóng hẳn, đứng bên ngoài em có thể nhìn lén anh qua kẽ hở mà ở trong anh hoàn toàn không hay biết. Thật vậy, tình yêu dành cho anh bây giờ là những kỷ niệm một chiều, em chấp nhận thiệt thòi của một người đàn bà để trả lại anh trọn vẹn cuộc sống bình yên với vợ hiền con ngoan. Rồi đây em còn lại một mình, đơn độc đi tìm nguồn nước trong sa mạc, nhưng hy vọng những kỷ niệm của anh sẽ giúp em can đảm và chịu đựng được những ray rứt tâm hồn cũng như thể xác trong những tháng ngày còn lại. Em chấp nhận thương đau một mình, xem như tự hành hạ để chuộc lấy phần lỗi ngày trước. Tiếng cô tiếp viên thông báo máy bay sắp hạ cánh nhắc nhở Vân quay về với thực tại, nàng nhắm mắt và ép sát cuốn nhật ký vào tim :
– Thu ơi, em đã nhốt anh trong nầy, anh có hình dung được nhịp tim và hơi thở dồn dập trước đây mà mỗi lần gặp nhau anh thường gục đầu vào ngực em ?
Paris, 31 tháng 5 năm 2006

Đinh Lâm Thanh

Thư ngỏ của ông Đinh Lâm Thanh gửi ĐỨC HỒNG Y Phạm Minh Mẫn

 E-mail PDF
   dinhlamthanh
Trọng kính Đức Hồng Y,
Sau Thánh Lễ ngày Chúa Nhật 15 tháng 6 năm 2008, giáo dân các cộng đoàn được phân phối báo Hiệp Thông số 276, cơ quan ngôn luận của cộng đồng công giáo Việt Nam tại Orange, California (USA). Trong phần tin tức, nổi bật nhất là thư ngỏ đề ngày 04.6.2008 của Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn gởi cho đức cha chủ tịch UBGM đặc trách mục vụ giới trẻ, đức cha đặc trách Giáo Lý Đức Tin và đức cha giám mục Lạng Sơn. Nội dung bức thư đã gây nên nhiều phản ứng trong cộng đồng giáo dân, nhất là đối với những con chiên thường quan tâm đến vấn đề Việt Nam.Con là một người Công Giáo thuộc thành phần cầm bút và cũng là một phần tử nhỏ bé hoạt động tranh đấu cho dân quyền dân chủ của cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại. Đọc xong bài báo con thấy ấm ức, đành mạo muội xin phép trình bày với Đức Hồng Y hai điểm quan trọng mà Ngài đã nhấn mạnh: Lá cờ biểu tượng và nền văn hóa dân tộc.1. Lá cờ biểu tượng.

Vấn đề thứ nhất, trong thư ngỏ Ngài đã đặt câu hỏi “Một lá cờ biểu tượng cho điều gì?”, rồi chính Ngài trả lời: “Có lúc lá cờ được coi là một biểu tượng cho một đất nước, lúc khác được coi là biểu tượng cho một chủ nghĩa, chủ nghĩa tư sản, chủ nghĩa Cộng Sản, chủ nghĩa Quốc Gia…có lúc chỉ biểu trưng cho thói đời mang tính đối kháng”.

Theo thiển ý của con, lá cờ nào cũng mang những màu sắc cũng như hình ảnh cá biệt bao gồm ý nghĩa địa phương, sắc tộc, bản chất, văn hóa, đường lối hoạt động, khuynh hướng chính trị của từng tổ chức, đoàn thể, đảng phái cũng như mỗi một quốc gia riêng biệt. Nếu Ngài cho rằng lá cờ có lúc chỉ biểu tượng cho thói đời mang tính đối kháng để ám chỉ Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ thì hình như đây chính là lời lẽ tuyên truyền mà chế độ Cộng Sản đã xử dụng để nhục mạ quốc kỳ Việt Nam Cộng Hòa ngày trước. Qua thư ngỏ, nếu Đức Hồng Y lặp lại nguyên văn câu nầy để miệt thị lá cờ thân yêu của nhân dân Việt Nam thì con thiết nghĩ rằng những hàng chữ trên không thể viết bởi một vị Hồng Y đáng kính. Trong phần mở đầu thư ngỏ, Ngài đã cho rằng lá cờ được coi là một biểu tượng cho một đất nước, một chủ nghĩa thì con cũng xin thưa với Ngài về hai lá cờ Đỏ Sao Vàng của đảng Cộng Sản và Vàng Ba Sọc Đỏ của Việt Nam Cộng Hòa:

– Đỏ Sao Vàng là cờ của đảng Cộng Sản Việt Nam, rập theo khuôn mẫu màu đỏ, búa liềm và sao vàng của hai quan thầy Cộng Sản Nga và Tàu, hoàn toàn không mang một biểu tượng đất nước cũng như tinh thần, bản chất, nòi giống của dân tộc Việt Nam. Màu đỏ tượng trưng cho đấu tranh giai cấp, cho hận thù sắt máu và một sao vàng chính là biểu tượng cho đảng Cộng Sản duy nhất của Việt Nam. Cờ Đỏ Sao Vàng xuất hiện ở đâu thì nghèo đói, khổ đau và tang thương chết chóc sẽ theo đến đó. Người dân Việt Nam không chấp nhận chế độ Cộng Sản, năm 1954 một triệu người đã rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn xuôi Nam tìm Tự Do và từ 30 tháng 4 năm 1975, hàng triệu dân quân miền Nam đã liều lĩnh đánh đổi mạng sống với biển cả để trốn chạy nanh vuốt Cộng Sản. Người Việt Quốc Gia hải ngoại không thể sống dưới chế độ mới thì dĩ nhiên không bao giờ chấp nhận cờ Đỏ Sao Vàng, vì đây chính là biểu tượng của đảng Cộng Sản, khi chúng đem búa liềm từ chủ nghĩa Mác-Lê về siết cổ bóp họng dân tộc Việt Nam. Con mạo muội xin hỏi Đức Hồng Y: Cờ Đỏ Sao Vàng biểu tượng cho ai? Cho độc đảng Cộng Sản sắt máu hay cho đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta?

– Người Việt Quốc Gia không chấp nhận chế độ Cộng Sản nhưng Tổ Quốc Quê Hương và đồng bào ruột thịt vẫn là nỗi trăn trở đêm ngày đối với những người đã bỏ xứ ra đi. Cờ Quốc Gia Vàng Ba Sọc Đỏ là tinh thần dân tộc, là tình người yêu thương, là kết hợp sức mạnh, là điểm tựa tranh đấu và là ước vọng ngày về… chứ không phải là biểu trưng một thói đời mang tính đối kháng như lời vàng ngọc của một vị Hồng Y giáo chủ. Người Việt Quốc Gia Hải Ngoại bảo vệ, nâng niu và tôn trọng lá cờ Quốc Gia vì đây chính là biểu tượng của một quốc gia Độc Lập Tự Do và của một dân tộc anh hùng đã được toàn thế giới tôn vinh. Màu Vàng là màu da của con Rồng cháu Tiên với một lịch sử oai hùng ngàn năm anh dũng chiến đấu chống ngoại xâm. Ba Sọc Đỏ là ba miền, ba giòng sông, ba giọng nói nhưng cùng chung một nguồn gốc, một giòng máu thì cờ Vàng Ba Sọc Đỏ là biểu tượng chính thức của một sự kết hợp tuyệt diệu giữa lịch sử, giòng giống, đất nước, tình cảm và lý tưởng của dân tộc Việt Nam.

2. Nền văn hoá dân tộc.

Trong thư ngỏ, Đức Hồng Y kêu gọi tình huynh đệ giữa đồng bào để phát huy trên cơ sở một sắc tộc và một nền văn hóa dân tộc. Con xin hỏi, Ngài kêu gọi chế độ Cộng Sản hay cộng đồng Người Việt Quốc Gia?

– Nếu lời kêu gọi nhắm vào chế độ Cộng Sản thì, theo thiển ý của con, có thể đúng một nửa. Nửa đúng, nếu kêu gọi nhắm vào nhà cầm quyền Hà Nội phải chấm dứt các thủ đoạn tráo trở, lập lờ hòa giải hòa hợp dân tộc và ngưng ngay các chương trình đánh phá cộng đồng người Việt hải ngoại, đồng thời phải sám hối ăn năn phần lỗi của mình để tiến tới giai đoạn có thể đối thoại với nhau. Nửa sai, là chế động Cộng Sản làm gì có nền văn hoá dân tộc cần để phát huy! Nhà cầm quyền Hà Nội đã đạp đổ, hủy diệt tận gốc nền văn hoá nhân bản để thay vào đó một nền văn hóa vô sản nhằm phục vụ riêng tư cho đảng Cộng Sản và chế độ hiện tại. Con nghĩ rằng chính Đức Hồng Y được đào tạo bởi nền văn hóa nhân bản tự do cũng như đã chứng kiến và hiểu được thế nào là một nền văn hóa vô sản sau khi Hà Nội xua quân vào chiếm miền Nam, thì xin Ngài đừng vô tình khuyên bảo con chiên theo chiều hướng tuyên truyền của Cộng Sản. Trên lãnh vực tôn giáo và bảo tồn văn hóa cổ truyền, con xin nhắc lại để Ngài nhớ, mới đây, Hà Nội đã ép buộc dân chúng quốc nội cũng như lừa bịp thế giới bằng cách đưa tượng Hồ Chí Minh vào chùa đặt ngồi ngang hàng với Đức Phật, tổ chức giỗ tổ Vua Hùng bằng hoa quả giả và thịt bánh thiu thối! Những hành động nầy có phải là thành tâm tôn trọng tín ngưỡng hay bôi bác truyền thống dân tộc? Nếu tình hình nầy vẫn tiếp tục, con xin hỏi Đức Hồng Y, với một giáo hội công giáo quốc doanh do Cộng Sản giật dây hiện nay, thì khi nào Hà Nội sẽ đem Hồ Chí Minh vào nhà thờ để cho con chiên đến quỳ lạy? Liệu Đức Hồng Y có đủ nghị lực, can đảm và sẵn sàng từ chối quyền lợi riêng tư để ngăn chận những việc làm đi ngược với tinh thần văn hóa nhân bản? Nếu bảo vệ văn hóa cổ truyền theo chiều hướng vô thần, đi theo con đường Cộng Sản vạch ra thì chính là hành động giết chết nền văn hóa dân tộc, thưa Đức Hồng Y đáng kính !

– Nếu lời kêu gọi tình huynh đệ nhắm vào cộng đồng người Việt hải ngoại, thì, kính thưa Đức Hồng Y, có lẽ Ngài đã sai vì người Quốc Gia không chống Tổ Quốc Quê Hương, không chống đồng bào ruột thịt mà luôn hướng về đất tổ, nghĩ đến anh em ở bên nhà đang khao khát nhân quyền, mong được dân chủ và ước mơ no ấm. Tình huynh đệ lúc nào cũng mặn nồng và người Việt nước ngoài sẵn sàng trở về đóng góp công sức với đồng bào quốc nội để xây dựng quê hương sau khi chế độ Cộng Sản sụp đổ. Ngoài ra nếu Đức Hồng Y lên tiếng kêu gọi người Việt Quốc Gia nước ngoài chú tâm đến việc bảo tồn văn hóa cổ truyền thì con nghĩ rằng Ngài không thấy hay cố ý không tìm hiểu những hoạt động của những người Việt nước ngoài. Kính thưa Đức Hồng Y, từ trên 33 năm nay, người Tị Nạn dù đã hội nhập vào xã hội mới nhưng lúc nào cũng ra sức bảo vệ và phát triển nền văn hóa cổ truyền Việt Nam mà Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ chính là động lực, là mục đích, là điểm tựa để người Việt Quốc Gia dù ở phương trời góc biển nào cũng hướng về một phía.

Kính thưa Đức Hồng Y, con là người phàm ít học, ngu si đần độn nhưng xin được phép hỏi Ngài: Thánh giá mà Thiên Chúa đặt lên vai Đức Hồng Y với trách nhiệm giáo chủ giáo hội Công Giáo dưới một chế độ Cộng Sản vô thần, Ngài để thánh giá ở đâu khi dùng lời tuyên truyền của Cộng Sản để răn dạy con chiên của Ngài tại hải ngoại, là một tập thể người Việt đang tranh đấu cho tự do nhân quyền, dân chủ và tự do tôn giáo tại quê nhà? Có lẽ thiên đường Xã Hội Chủ Nghĩa đã quyến rũ hết tất cả các vị lãnh đạo tôn giáo trong nước? Nếu vậy, người Công Giáo Việt Nam ngày nay không còn hy vọng tìm được những vị chủ chăn can đảm bảo vệ đức tin, sẵn sàng tử vì đạo như các bậc Thánh dưới triều nhà Nguyễn trước kia. Con nghĩ rằng, trong tình thế khó xử của một nhà lãnh đạo tôn giáo như Đức Hồng Y, bị chế độ Cộng Sản kềm kẹp ngày đêm, thì xin Ngài hãy giữ im lặng. Người Công Giáo hải ngoại sẽ hiểu và kính phục sức chịu đựng cũng như sự chống đối ngầm của Đức Hồng Y giáo chủ. Nhưng buồn thay, qua bức thư ngỏ, những lời vàng ngọc của Ngài chính là nguyên nhân tạo một cái hố ngăn cách giữa giáo hội trong nước với cộng đoàn người Công Giáo hải ngoại. Con nghĩ rằng có thể rồi đây con chiên chân chính sẽ tìm cách xa dần Giáo Hội. Ngoài ra các hành động cũng như những lời tuyên bố của các vị chủ chăn từ Việt Nam trong các dịp vừa qua làm con lo sợ một ngày nào đó, niềm tin của người Công Giáo sẽ hướng thẳng về với Thiên Chúa và không còn thông qua trung gian của các vị chủ chăn nữa !

Con kính mong Đức Hồng Y lấy lòng độ lượng tha thứ những lời phạm thượng của con như một hành động phi thường của Đức Thánh Cha Jean Paul II trước đây, Ngài đã vào tận khám đường để tha tội và chúc lành cho kẻ đã dùng súng ám sát Ngài.

Đinh Lâm Thanh

NGƯỜI LÍNH LÀM THƠ MANG BÚT HIỆU TRẠCH GẦM

dinhlamthanh

Tôi yêu Trạch Gầm cả Thơ lẫn con Người. Những gì anh viết, chính là niềm đau của một người lính phải tức tưởi buông súng đầu hàng, chính là uất hận của một kẻ phải bỏ nước ra đi sau những năm tháng tù đày và cũng chính là nỗi xót xa đối với đồng đội đã một thời gắn bó với anh. Tôi yêu con người, vì anh thật xứng đáng một cấp chỉ huy, tuy sống dưới chế độ tự do nhưng không bao giờ anh quên những người bạn sống chết với nhau đã nằm xuống hay còn kẹt lại ở quê nhà. Đời binh nghiệp của anh thật khiêm nhượng với vài ba ‘mai vàng’ dừng lại trên vai, nhưng trong lồng ngực của anh, mãi mãi là một trái tim vĩ đại mà anh đã trân trọng dành cho đồng đội đã hy sinh cho màu cờ tổ quốc và những phế nhân còn sống sót dưới chế độ cộng sản.

Anh xứng đáng ngửng mặt lên khi nhìn lại những cấp chỉ huy lớn, những ‘vì sao’ đã rụng xuống ‘boong’ tàu của hạm đội Mỹ trước giờ mất nước ! Rồi 34 năm nay họ đã làm được gì cho đồng đội, thương binh, cô nhi quả phụ cũng như cho quê hương và dân tộc ? Và cứ mỗi năm, vẫn áo mũ chỉnh tề nhắc lại chiến công một thời vang bóng. Nhưng có mấy vị nhớ đến thuộc cấp của mình là những người đã hy sinh xương máu để đem lại những huy chương hiển hách trước ngực cũng như những ngôi sao lấp lánh trên cổ áo !

Nhắc đến Trạch Gầm là nói đến con người của tình cảm, luôn nặng tình với quê hương, ray rứt cho cuộc chiến và ấm ức vì đầu hàng…tất cả những trăn trở đó đều chất chứa trong thơ của anh. Đọc thơ Trạch Gầm độc giả nhận ra ngay trong con người anh là một khối tình gắn bó thiết tha với đồng đội, là ân sâu nghĩa nặng đối với bạn bè, là những người đã nằm xuống hay bị lãng quên dưới chế độ cộng sản.

Cách đây hai năm, tôi gặp Trạch Gầm trong một ngày nắng ấm tại quán café Tip-Top trên đường Westminster, Sàigòn nhỏ, Cali. Anh đọc cho nghe bài thơ ‘Lời Trước Nghĩa Trang’. Chưa dứt bốn câu đầu, anh đã bật khóc và làm tôi phải khóc theo trước ngạc nhiên của số thân hữu bạn bè. Thật khó tưởng tượng nổi, hai người đàn ông 65 và 71 tuổi đã khóc như một đứa trẻ khi nhắc đến những người bạn đã nằm xuống. Rồi hình ảnh Trạch Gầm với những giọt nước mắt bên tách càfé vẫn ngày đêm ám ảnh và gây xúc động mỗi khi tôi cầm cuốn Vụn Vặt trong tay.

Những lời thơ viết về tình đồng đội của anh đã kéo ký ức tôi trở lại quảng đời dĩ vãng mà trong thời Mậu Thân 1968, tôi đã sống trọn vẹn với những người lính thuộc trung đội tác chiến tại vùng rừng núi Quảng Đức. Những người bạn nầy đã ra đi nhưng họ vẫn sống mãi bên tôi và phù hộ cho tôi còn sót đến ngày hôm nay. Tôi xin mượn mấy câu thơ của Trạch Gầm để tưởng niệm những người lính đã nằm xuống :

Tao sống đến ngày cuối cùng cuộc chiến
Được cái hơn mầy nhìn thấy đau thương
Đành làm người ngu đổ thừa vận nước
Uổng cả tháng ngày gối đá nằm sương

(Lời trước nghĩa trang)

Cũng từ bài thơ nầy Trạch Gầm gởi đến với những người đã nằm xuống chân dung của anh trong những ngày tháng vô vị nơi quê người.

Mầy đã hơn tao vì mầy đã chết
Hưởng chút lễ nghi hưởng chút ân cần
Có được người thân cho lời nuối tiếc
Còn tao bây giờ sống cũng như không

(Lời trước nghĩa trang)

Kỷ niệm để đời với Trạch Gầm là tuyển tập Vụn Vặt, cuốn thơ vừa lấy từ nhà in chưa ráo mực, anh đã biếu tôi và từ ngày đó đến nay tôi vẫn chưa đọc xong. Mỗi lần cầm cuốn thơ lên vừa nghiền ngẫm vài giòng thì tôi bị cuốn vào tâm trạng của tác giả…đau buồn cho vận nước, xót xa vì cuộc chiến và tiếc thương những người bất hạnh, rồi nước mắt tôi cũng xóa mờ những giòng chữ. Đa số thi nhân thường mượn các đề tài tình yêu nam nữ để tìm nguồn cảm hứng sáng tác nhưng trên 100 bài thơ trong tuyển tập Vụn Vặt, Trạch Gầm đã dành gần như đa số bài để nói về những gắn bó về tình huynh đệ, tình cảm của người trai thời chiến và để tưởng niệm đến đồng đội đã ra đi…

Những ai đã sống chết với đồng đội, đã cùng băng rừng lội suối, ngày đêm truy lùng địch thì mới cảm thông được tình thương gắn bó với nhau. Cuộc đời người lính chiến không có gì quý hơn ngoài chiếc ba lô độc nhất trên người, tấm ‘pông-sô’ thay mái ấm gia đình và việc kết nghĩa anh em đồng đội như tình thân ruột thịt. Họ là những người trai thời chinh chiến, hiến dâng cuộc đời cho tổ quốc non sông, thương tật, sống chết không biết sẽ đến bất chợt bao giờ. Đối với họ trên đầu là tổ quốc, trước mặt là kẻ thù, hai bên là đồng đội và sau lưng là chiếc ‘băng-ca’ hay cổ quan tài đang chờ sẵn ! Hãy nghe Trạch Gầm viết về số mệnh :

Một thoáng theo mây rơi dài nước mắt
Khóc nỗi bạn bè…lưu lạc bốn phương
Thằng mất thằng còn – Nổi trôi vận nước
Giọt ngắn giọt dài ướt đẫm quê hương

(Vụn Vặt)

Những ai đã qua đoạn đường gian khổ với những lúc hành quân, lội sông, bằng rừng, vượt núi trong rét mướt, trong đói khát, trong gian khổ, ngày đuổi giặc, chiếm mục tiêu, đêm ngủ ngồi ngay tại hố cá nhân để chờ địch thì mới thấm thía được những cảnh

Bi-đông’ nước bùn chia sẻ
Gói mì nhai vội chuyền tay
Chuyển nhau điếu thuốc cháy dở
Sống chết biết giờ nào hay

(Cho nhau, Thơ DinhLamThanh)

Để rồi từ đó những người con yêu quý khắp mọi nẻo đường đất nước đã trở thành anh em ruột thịt một nhà. ‘Pông-sô’cùng ngủ, cơm chung nón sắt, nước một bi-đông, miếng khô chia đôi thì việc đùm bọc sống chết với nhau vẫn là một cái gì thiêng liêng của những người khoác chiếc áo trận.

Em còn chia xẻ cùng anh
Nỗi xót xa tự ngọn ngành đau thương
Vẫy tay giã biệt chiến trường
Một ngày cũng đủ cô đơn suốt đời

(Hỏi)

Đối với bạn bè còn sống, Trach Gầm đã giải bày tâm sự về những năm tháng nơi đất khách quê người :

Mầy hỏi tao bây giờ sống ra sao
Cơm áo tha phương có phải nghẹn ngào
Gần mười năm tù còn in trong trí
Hay…cháy rồi giữa đất rộng trời cao…

Tao gởi về mầy một trang giấy trắng
Thật lao đao mầy cứ tự vẽ vời
Nơi tha phương trăm hội đoàn yêu nước
Tao ngu ngơ…không biết khóc hay cười
(Trả lời)

Rồi những đêm mưa vùng Cali, anh trăn trở như hổ nhớ rừng :

Mầy nhìn mưa mầy nhớ gì không hở ?
Tao nhìn mưa tao cứ mãi nhớ rừng
Rừng của quê hương những ngày khói lửa
Tao, bao năm dài cặm cụi hành quân

Mầy nhìn mưa…mầy nhớ gì không nhỉ
Tao nhìn mưa…Tao nhớ quá bạn bè.
(Từ cơn mưa dài)

Và cái ‘đau’ của anh vẫn vây quanh cuộc sống :
Tao bây giờ không tiền mua rượu uống
Mà vẫn say…say ngút với nỗi buồn
Nhìn thiên hạ tranh nhau quyền yêu nước
Mấy chục năm ròng – Nước vẫn tang thương !

(Nói với bạn bè)

Mầy có tin không quê hương đã mất
Giữa lúc bọn tao nguyên vẹn hình hài
Đâu thuở quân trường đâu thời huấn nhục
Để nhận lấy ngày khốn nạn hôm nay

Một lũ đàn anh tan hàng cuốn gói
Bỏ mặc bọn tao đứng khóc dưới cờ
Món nợ tang bồng bao giờ trả nổi
Mất cả sơn hà cứ tưởng như mơ

Giờ chẳng dám nhìn ngay vào mắt Mẹ
Cũng chẳng đủ lời tâm sự cùng Cha
Đành đến thăm mày những thằng đã chết
Ngày…quê hương còn lắm nỗi thiết tha
(Lời trước nghĩa trang)

Ít thấy anh đề cập đến tình yêu đôi lứa cũng như những mộng mơ tuổi trẻ, mà nếu có, anh cũng mượn những mối tình vụn vặt để nói về thân phận đau thương đất nước cũng như những mất mát thời chiến tranh :
Anh có mẹ gì đâu mà để tặng
Một món quà sinh nhật cho em
Gặp gỡ thôi…dăm ba lần thất hẹn
Còn nhớ ngày anh còn tỉnh…chưa điên

Là thằng lính cứ rày đây mai đó
Có nhớ thương, cũng đỏ mắt phố phường
Chiếc võng tòn teng ôm đời chinh chiến
Có em vật vờ đở bớt cô đơn
(Quà sinh nhật cho người yêu)

Viết về Trạch Gầm mà không nhắc đến những chữ Đ.M. trong thơ của anh thì thật thiếu sót. Một vài người cho rằng nghe không được êm tai qua hai bài thơ :
Đọc thơ mầy…
Đ. M, tao buồn muốn khóc
Tao chẳng còn là tao, tao chẳng nên người
Mấy chục năm rồi tao lạc lõng chơi vơi
Dù trước đó
Tao có triệu anh em chung màu áo trận
Tàn cuộc chiến…
Hình hài tao nguyên vẹn
Mười năm tù xem tựa giấc chiêm bao
Tao còn tay còn chân. Còn nỗi tự hào
Chỉ tội cái…mang ước mơ lần lựa
Cứ chờ đợi Ai cho tao nhúm lửa
Nơi tha phương tao hốt toàn tro tàn
Tro bụi từ quá khứ vinh quang
Đến nỗi đầu óc tao ung què, tao chẳng hề hay biết

Đọc thơ mầy
Đ. M. tao buồn muốn chết
Nơi quê hương mầy hào khí ngút trời
Nơi tha phương…Tao cũng có lắm người
Yêu nước thật thà, thật thà yêu nước
Rắn không đầu, mạnh thằng nào nấy thét
Ngày cứ tàn, đất nước cứ tan thương
Hai chữ tự do sấp ngửa đoạn trường…
Tao ôm chặt lội qua ngày khốn đốn
Mầy cần súng mà tao không có súng
Nỗi nghẹn ngào nầy mới chết mẹ tao
Cám ơn mầy
…Ừ thì cũng dù sao
Nhờ mầy thét Trăm hồn sông núi thức
(Đến cùng Nguyễn Cung Thương)

Những ai đã sống đời quân ngũ, sống chết với đồng đội thì mới cảm nhận hai chữ Đ.M thoát ra từ miệng của người lính. Đối với người Miền Nam, hai chữ nầy không có nghĩa là một câu chưởi thô tục mà trong thân tình giữa bạn bè thường được xử dụng một cách thân thương. Tôi còn nhớ rõ câu nói của một đệ tử cũng như người bạn, người em theo sát tôi trong các cuộc hành quân. Một đêm trong rừng Quãng Đức, anh vén tấm ‘pông-sô’ chui vào hỏi tôi :
– Đ.M. ông thầy húp canh không ?”
Tôi hỏi lại :
– Đ.M. canh gì đó mầy ?”
– Thì Đ.M ! Canh nước mưa với bột ngọt chớ có gì nữa !”
‘Ca’ (ly bằng nhôm của lính) canh nóng thật ngon, chỉ có nước mưa pha với bột ngọt nhưng tôi thấy ấm bụng và cái mặn mà đang chạy vào tim phổi ruột gan, không biết vì bột ngọt hay chữ Đ.M. thân thương nằm trong chén canh của người lính !

Nhưng một trường hợp khác, Trạch Gầm lại xữ dụng hai chữ Đ.M, để chưởi cha bọn cộng sản. Tôi biết anh không còn ngôn ngữ nào để diễn tả nỗi uất hận trong lòng, dù hai chữ Đ.M. nầy thật đúng nghĩa và hợp thời nhưng vẫn chưa lột hết ý nghĩa để chưởi bọn bán nước cướp của, hại dân hại nước, đem giang sơn bán cho Tàu cộng:

Đ.. má, cho tao chưởi mầy một tiếng
Đất của Ông Cha sao mầy cắt cho Tàu
Ngậm phải củ gì mà mầy cứng miệng
Đảng của mầy, chết mẹ… đảng tào lao

Chế độ mầy vài triệu tay cầm súng
Cầm súng làm gì… chẵng lẽ hiếp dân
Tao không tin lính lại hèn đến thế
Lại rụng rời … trước tai ách ngoại xâm

Mầy vỗ ngực. Anh hùng đầy trước ngỏ
Sao cứ luồn, cứ cúi, cứ van xin
Môi liền răng à thì ra vậy đó
Nó cạp mầy, mầy thin thít lặng thinh

Ông Cha mình bốn ngàn năm dựng nước
Một ngàn năm đánh tan tác giặc Tàu
Thân phận mầy cũng là Lê là Nguyễn
Hà cớ gì…. mầy hèn đến thế sao

Chuyện mầy làm Toàn Dân đau như thiến
Mầy chết rồi, tao nghĩ chẳng đất chôn
Hãy tỉnh lại ôm linh hồn sông núi
Cứ đà nầy… chết tiệt còn sướng hơn

Đàn gảy tai trâu…. xem chừng vô ích
Giờ mầy nghe tao chưởi còn hơn không.
(Cho tao chưởi mầy một tiếng)

Tôi tin rằng những độc giả nào đã đọc thơ Trạch Gầm cũng sẽ Yêu Trạch Gầm như tôi vậy.

ĐINH LÂM THANH
Paris