Ừ THÌ NĂM MỚI

dangchaulong

ừ thì năm mới sắp sang
ừ thì ngày lụn tháng tàn năm qua

Cuối năm, ngày vẫn chậm nặng trôi như bao ngày, nhưng sao lòng tôi nao nao bần thần ngồi điểm lại những năm tháng đã qua đời tôi, những năm tháng mùa xuân không còn thắm, những năm tháng mùa hè chói chan đầu tiên.
Năm mùa xuân trôi qua khung cửa sắt, nghe báo tin xuân ừ thì biết là xuân.. Chạnh buồn, chạnh nhớ, nuốt ngược những giọt nước mắt vào trong, giả lả cười vui cùng bạn đồng cảnh:
Thấy hoa nở khắp núi rừng xa tít
Anh giật mình mới biết đã sang xuân
Trong giao thừa không lấy gì đón Tết
Anh thở dài khói thuốc cũng bâng khuâng
Nơi quê cũ không biết em còn thức ?
Thắp giùm anh ngọn nến giữa đêm đen…
(nhạc Nguyễn Hữu Ninh, thơ NC)

Lời ca thầm thì như bản thánh ca buồn não nề
Ba mươi lăm mùa xuân còn lại, ngược xuôi bỏ sức lực để giành lấy tàn hơi, âm thầm như con dế trũi nép bên góc tối sâu, muốn ca lên thân phận cũng không có nổi làn hơi. Lại nhớ và thầm thì cùng mình bài ca Năm mới như ủi an người thân trong dịp sang mùa:
Hãy thắp giùm anh ngọn đèn
Cho anh nhìn rõ mặt ngày vừa đến
Cho anh thấy chỗ chúng ta đang nằm
Cho anh thấy căn nhà chúng ta đã sống
Lần cuối cùng cho đến ngàn sau
(nhạc Phan Ni Tấn, thơ Chu Trầm Nguyên Minh)

Tâm cảnh nào, thân phận nào đã xô đẩy lòng mình chung nỗi niềm xưa. Cũng vẫn vậy một thân phận mỏng, một nỗi âu lo kiếp sống kéo dài theo bước ta đi, nhếch môi chùng một nụ cười đa nghĩa, ngùi buồn.
Hôm nay nhìn tờ lịch sắp sửa vô dụng, quyển lịch sắp sửa quẳng đi để thay vào đó quyển lịch mới, tôi thấy dững dưng, lòng nguội. Dường như trong tôi chỉ còn sót lại chút ý nghĩa cần phải gìn giữ: Ngày cuối năm, dù thế nào cũng phải lết về gia đình, cũng phải nhóm lên ngọn lửa cuối năm cho nồi bánh tét xum họp. Ngày đầu năm viết cho cháu con một câu đối nhắc nhớ tình nhau. Cái thành trì cuối cùng của tôi chỉ còn có vậy. Ba mươi lăm năm nổi lửa chong đêm nấu bánh chờ xuân bên rận rà tiếng cười nói của những người thân. Mỗi người một việc, nhưng tâm điểm nồi bánh tét đã cho chúng tôi đậm đà tình nghĩa gia đình. Những bộn bề, những nghịch cảnh đã không còn tồn tại khi ngọn lửa ấm thâu đêm sưởi nồng nàn chân tình cùa đại gia đình đêm đen tối 30.
Các em tôi đôi lúc bàn năm nay mua bánh cho đỡ mệt công, tôi gạt phắt đi. Chỉ còn một chút đóm nồng nàn này, phải để thế hệ sau thấy rõ tình cảm bùng dậy theo ánh lửa bánh Tết ba mươi này, có thế, chúng mới biết cách nhen lửa cho đời sau.
Người lớn tuổi chỉ biết đón năm mới theo cách của riêng mình, chẳng phải là mừng nhưng là một cách dạy cháu con giữ lửa.
Ngày mai Tết ư, ừ thì Tết

đặng châu long
31-12-2014

Advertisement

Cõi người và chim trời

dangchaulong

Bây giờ, chỉ những lúc thật cần thiết tôi mới bước lên xe rong ruổi trên đường phố Sài gòn. Cuộc chạy đua với mưu sinh vô cùng tận trong thành phố đông đúc này như một nỗi dài chán ngán với xe, với khói, với chen chúc, hòa lẫn những tiếng ồn ào, cải vã, ca cẩm chẳng có gì vui. Ai cũng chọn cho mình một quỹ đạo riêng, tách biệt hẳn với đám đông cùng sống . Họ nhìn nhau bằng cặp mắt nghi ngại, rập rình, dè chừng từng lời giao tiếp, nụ cười.
Sài gòn bây giờ không còn là Sài gòn lấp ló cuối thập niên 70 Sài gòn lặng lẽ của thập niên 80, Sài gòn rón rén của thập niên 90. Sài gòn bây giờ là Sài gòn lạo nhạo, lao xao như đàn bồ chao rộ tiếng áp đảo nỗi trầm mặc trước nỗi chao đời. Sài gòn đang mục dần những xuề xòa, đơn giản để láu lỉnh hơn, lau nhau hơn với đời, để đến nỗi còn lại sự tử tế nào rơi rớt lại, ta có thể rơi lệ mừng trong ngậm ngùi thầm cám ơn đời.
Lộn quanh mấy nẽo Sài gòn
Thấy ta chợt mất chợt còn đời ta

(Luân Hoán, Hơi thở Việt Nam)
Đều đặn mỗi buổi sáng sớm. xe tôi đi qua con đường An Dương Vương để quẹo về bến xe Pétrus Ký cũ. Lần nào tôi cũng nhớ về một ký ức Cư xá Hùng Vương B cách nay hơn 50 năm. Căn nhà số 19 thân yêu thời thơ ấu đã không còn dấu tích, chỉ còn sót lại vài căn biệt thự cũ kỹ khu A cư xá. Hàng cây dầu vẫn uy nghi thả theo gió những cánh hạt nâu đỏ bay vòng vèo trong lồng lộng nhưng tôi hoài tìm chưa thấy lại dáng đơn sơ một thời xếp lại. Một lần chờ đèn đỏ trên đường Trần Bình Trọng – An Dương Vương, có một tín hiệu bình an, làm mỗi lần sáng sớm đi qua tôi lại dõi tìm. Đó là đàn chim sẻ cánh nâu xinh xắn hối hấp sà xuống mổ thức ăn bên góc đường Trần Bình Trọng – An Dương Vương, hướng Nhà Thờ Chợ Quán. Những lần sau, tôi đi qua, nhìn dưới chiếc cột đèn góc phố, thấy những vụn thức ăn chim màu vàng còn sót lại sau khi đàn chim ra đi. Tôi thầm cám ơn người vô danh nào đó đã cho tôi chút ấm cúng cùng thiên nhiên, dù chỉ một khoảnh khắc bình mình trước khi nền văn minh cơ giới rộ lên tiếng rú gầm chiếm ngự không gian đô thị. Tôi vẫn hàng ngày dõi nhìn những vụn thức ăn chim màu vàng còn sót lại đó, cho đến ngày hôm kia, khi đi ngang, tôi dù quan sát kỹ, chỉ thấy một vài hạt vàng còn lại của ngày trước chứ không còn nhiều như những ngày qua. Lòng tôi chợt se lại như một cảm giác bất an về người tốt vô danh đó, nhưng không dám nghĩ điều xấu hơn.
Đều đặn những lần về Bình Thạnh thăm chị em, đi đến góc Lý Thái Tổ – Điện Biên Phủ, tôi lại bắt đầu “điểm danh” lại bốn điểm để bình trà đá miễn phí của những người không quen biết rải trên khoảng dài con đường đi đến Bệnh viện Bình Dân. Tôi thán phục tấm lòng của họ dàn trải cùng tha nhân. Một cách đơn giản, đều đặn, ngày lại qua ngày, không khoa trương, Tôi cũng được biết họ cũng là những người bình thường, không dư dật, sống trải lòng đúng nghĩa của một cư dân Sài gòn từ thuở khai hoang. Cái chân tình bình dị này tôi đã quá rõ từ những ngày thơ ấu, những tiếng đệm đuôi câu: hen, nghe, nghen, hông.. hoặc tiếng: cưng, qua, quởn, nói nào ngay.. của dân Sài gòn nghe thật ngọt và thật lòng. Ngay cả cái càm ràm của họ cũng nhiều lúc thật dễ thương, như câu chuyện ghi lời chỉ đường của một cư dân trên tấm xốp gắn lên cây: “Bà con nào đi Photo thì qua Bưu điện bên đường…hỏi hoài mệt quá”.Hoặc ở góc Minh Khai-Cao Thắng, họ còn làm tấm bảng chỉ dẫn bằng décal rõ ràng, dưới đệm thêm câu “hỏi hoài mệt quá đi”.Ngó vậy chứ những cư dân này cũng còn…chịu khó mệt cùng tha nhân. Chả bù ở Hà Nội, họ treo bảng thẳng thừng “Không biết đường – đừng hỏi” hoặc “ Hỏi gì Mười ngàn hai phút” một cách rạch ròi, xơ cứng tình người.
Tuần rồi, buổi sáng khi đi ngang qua góc vòng xoay Lý Thái Tổ – Điện Biên Phủ, tôi sững sốt kêu lên: “Ủa, cái bình trà đá đâu rồi”. Trong tôi, một cảm giác gai lạnh trong lòng như vừa chứng kiến một sự gục ngã một cây cổ thụ của sự tử tế. Sự ra đi không rõ nguồn cơn. Chỉ cầu mong cho sự an bình của con người thiện tâm này. Tôi nhìn lại những chiếc bình trà đá miễn phí khác dọc đường Điện Biên Phủ, may chúng vẫn tồn tại như một nhịp đập của con tim nhân ái Sài gòn còn sót lại.

Buổi sáng trong lòng Sài Gòn
Quen thuộc đến thật ngẩn ngơ
Đèn màu âm vang chộn rộn
Người ta tất bật xô bồ
Buổi sáng trong lòng thành phố
Nghẹn ngào người lái xích lô
Tiếng rao vệ đường bươn chải
Mời ăn chiếc bánh chưng gai

(Đặng Ngọc Ngân, Tản mạn Sài gòn)
Lại ra đi giữa mịt mù khói, lao xao đủ thứ âm thanh xô bồ của lòng đường phố Sài gòn những giờ huyên náo. Tôi vẫn đăm mắt nhìn những cột mốc tử tế nhân ái còn sót lại giữa lao xao đời mới. Tôi lơ đãng chậm lướt xe qua những bóng nhà, bóng người, bóng xe như những ảo ảnh bên đời. Qua hiên nhà, nơi cột đèn góc phố Trần Bình Trọng, tim tôi bỗng reo vui khi nhìn thấy lại những hạt thức ăn chim lấm tấm vàng phô trên nền đường phố, hình ảnh thân quen cũ đơn giản mà quá lao xao lòng. Chắc chủ nhân của những hạt vàng đã trở về lại sau chuyến ngao du nào đó, dẫu sao cũng tạ ơn đời, một người tử tế vẫn bình an.
Tôi hồi hộp lái chiếc Honda cũ kỹ đi đến vòng xoay Lý Thái Tổ góc phố bên Điện Biên Phủ vẫn thiếu vắng chiếc bình inox lịch sự ngày nào. Con phố bỗng vô duyên đến lạ, con tim mi ai đã lấy đi rồi.

Đặng Châu Long

29-11-2014

Kiệt Tấn con người chịu chơi…

dangchaulong

“Thiên đàng là cõi tột cùng nghiêm chỉnh nên… cấm cười. Buồn chết luôn! Buồn thúi ruột! Buồn tàn canh gió lạnh. Buồn mút mùa … lệ thuỷ. Mặc cho bất cứ thằng nào nó có cù đến mỏi cả tay cũng… chả chịu cười! Nhất định quạu đeo và nghiêm chỉnh dài dài, dài dài… Bất tận”.
(Kiệt Tấn, Sự đời, nghĩ lai rai 19)

Gặp gỡ anh Kiệt Tấn và nghe anh tâm sự cùng mọi người thật đơn sơ. Việc đời dường đến với anh như một cơn gió thoảng, hiu hiu cho mát một chút và không cần e dè. Chỉ một câu chuyện nhỏ thuở học làm thơ cùng cô giáo đã thấy cái hóm hỉnh của anh.”Bận nọ trong lớp học, để dạy cho học trò mình làm thơ, cô giáo đương cử ra một thí dụ: “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo / Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo. Chữ veo với chữ teo đều thuộc vần eo. Làm thơ cốt nhứt là phải có vần, các em hiểu chưa?” “Dạ hiểu!” Thực tập. Trò thứ nhứt, cũng cảm đề từ cái ao: “Trong một cái ao cóc / Em thấy bơi lội một bầy cá lóc”. Cũng được. Trò thứ hai, cũng lại cái ao: “Trong một cái ao ếch / Em ngó hoài hổng thấy gì hết”. Không hay lắm, nhưng mà có vần, thôi cũng được. Trò thứ ba, cũng vẫn cái ao: “Trong một cái ao nhái / Em bước xuống nước lên tới…” Tới đây em nhỏ bỗng nhợn, bèn nhỏ bước ngập ngừng: “lên tới…, lên tới…” Cô giáo sốt ruột lên tiếng thúc giục: “Nước lên tới đâu em?” “Dạ… dạ… Trong một cái ao nhái / Em bước xuống nước lên tới… đầu gối” Cô tức quá đập thước cây xuống bàn: “Bộ em không thể nào rán thêm một chút nữa cho nó có vần hay sao?” “Dạ thưa cô… thưa cô… em cũng rán lắm, nhưng mà ngặt vì ao nước nó cạn quá!” Và không biết sau đó cô giáo đã hiểu thấu câu thơ “ý tại ngôn ngoại” của anh chưa.
Cách nói chuyện như không của anh làm tôi mường tượng đến công án của những thiền sư đắc đạo. Những câu trả lời luôn là một bất ngờ choáng váng cho người hỏi. Những chủ trương, định kiến của thế gian luôn bị gác bỏ ngoài lề.
“Khi viết về miền Nam ruộng đồng mút mắt, sông nước tư bề, khi viết về những người bình dân sống nơi miền đất này mà không có hò hát, không có ca dao, tôi nghĩ là một thiếu sót lớn. Hò hát và ca dao tạo được bầu không khí quê mùa cho truyện viết, cũng hợp tình hợp cảnh lắm chớ. Nên lắm! Ngoài ra, khi còn đi học, đôi khi tôi còn dùng ca dao để chim gái, như dụ dỗ cô Hoa trong “Bến đò trao thơ” khiến cho cô xiêu lòng mà trao duyên cùng tướng cướp: “Hãy thề với anh hết miễu qua chùa, Ai cho anh uống thuốc bùa anh mê?” Rụng rún chưa em Hai?” (Phỏng vấn Kiệt Tấn, Phan Thị Trọng Tuyến, Đặng Mai Lan thực hiện)”
Cái làm tôi rụng rún với anh Kiệt Tấn là tính u mặc trong từng câu chuyện nhỏ cùa anh. Khi anh ngồi cùng trò chuyện thân mật với nhóm Quán Văn, tôi hỏi thăm anh về tuổi tác, anh cười và nói “mười hai con giáp tôi không giống con nào, mang tiếng tuổi mèo nhưng mặt lại giống chó”. Thảo nào anh độc lập quá, cứ thanh thản quan sát đời, yêu ghét rạch ròi, chẳng ai tác động được anh.
Cái làm tôi rụng rún với anh Kiệt Tấn là sự quá nhạy cảm của anh với những mảng đời bất hạnh. Mỗi lần nhắc tới những cụ già đi nhặt bao nylon, những bà già đi bán đậu phọng là “nước mắt anh chảy dài, anh ôm mặt khóc dù trước mặt anh là những người cùng viết văn như anh hoặc khi anh kể lại cho các bạn nghe cảnh con gấu lăn lộn, đau đớn, rống lên những tiếng thảm thiết khi bị loài người lấy mật, anh nghẹn ngào xuống giọng:Con người sao ác quá! Anh khóc ngon lành. Chị Ánh phải vỗ về anh, như đã từng làm thế”. (Nguyên Minh, Sông Seine và tôi). Tấm lòng hòa điệu cùng đời của anh mới chơn chất làm sao.
Cái làm tôi rụng rún với anh Kiệt Tấn về cách hành văn của anh như múa gậy vườn không, chạm vào những chuyện thân xác như nói tới mây bay gió thoảng thường tình thế sự: “Cái gì anh cũng ngó, cũng mó, cũng sờ, cũng nếm tuốt tuột. Ừ, dê dễ sợ: anh cầm cái bông bưởi, anh hửi cái bông hồng, anh bồng cái bông cúc, anh hít cái bông mai, anh liếm luôn bông lys… Chẳng còn chi là đoá hoa thành thị/ núi rừng/vương giả! Chẳng lẽ với đàn bà anh luôn “phàm tục” như vậy sao? Chuyện tình của anh chóng vánh đi đến… đỉnh cao xác thịt, phải chăng anh cố ý bỏ quên phần… trái tim? Trái tim thì rất khó sờ mó! Bởi cách một lớp thịt mỡ”.(KT, Đưa hai tay lên trời)
Anh như cánh chim chon von trên đỉnh tuyệt mù buông mình thả rơi tự do giữa trời lồng lộng gió để đột ngột lao mình lên đâm vỡ tầng mây cao vút – một mình – cánh chim tự biết xoay sở mình giữa muôn chiều gió lộng
Những ngôn từ đơn giản trong văn anh pha trộn những phương ngữ đã từ mấy mươi năm không còn gặp lại: Mẹ rượt, bú tí, nâng bi, mút mùa lệ thủy, trật đường rầy, chằn ăn trăn quấn, tưới hột sen, nhằm nhò gì đâu ba cái lẻ tẻ, cù lần….
Trong truyện ngắn Tết dồi, tả lồ lên coi chơi đã kéo ta ngược về ký ức tuổi thơ, mê mẫn xem sơn đông mãi võ ở khu đất trống nào đó cạnh chợ đông. Những tay quảng cáo vừa bán thuốc, vừa ba hoa đủ thứ chuyện đời, thỉnh thoảng nhắc nhở “tả lồ lên”, tiếng phèng, tiếng trống lại dồn dập rộ lên kích thích trí tò mò của khách qua đường gần xa. Câu chuyện xưa nay vẫn cứ đan xen như một niềm nhớ không rời kèm theo những hóm hỉnh sẵn có trong anh:“ ở đất Bắc còn cày bằng trâu. Con trâu kéo cày quanh quẩn trong khăn mu xoa, đi dăm phút đã về chốn cũ. Thấy tôi mỉm cười, Tùng hỏi tôi trong Nam có trâu cày không chú. Tôi đáp trong Nam con trâu chỉ chắp tay sau đít đi tới đi lui trên bờ đê ngó chừng ông chủ đẩy cày máy và cho điểm ghi công. Khi nào trời nắng gắt quá, thanh tra lao động bèn lui vào lùm tre nằm nhơi cỏ hoặc đánh giấc bên đồi dạ lan. Cụ nằm cụ nghỉ cụ xơi.. thuốc lào. Khỏe re! Nhẹ nhàng, hân hoan, thơ thới. Ai dám bảo “chăn trâu là khổ”?( Kiệt Tấn, Tết dồi! Tả lồ lên coi chơi!)
Những mẫu chuyện khóc, cười, hí lộng cùng đời của anh Kiệt Tấn phơi bày ra ngập tràn từng tác phẩm, nhưng có vẻ tất cả nỗi lòng anh chỉ trải hết trong Thơ điên cùng Sự đời. Những câu văn viết ngắn như từng chiêm nghiệm hàng ngày, những câu thơ viết ra khi muốn cô đọng nỗi niềm, có một Kiệt Tấn như vậy khi lắng đọng cùng đời:
lận lưng ồ sót chiếc nem
nhớ ra mình đã gặp em chợ chiều
lá chùm ruột nem lái thiêu
tặng ta ta tưởng em yêu thằng khùng
làm thơ lục bát ngũ cung
đáp tình em đã thủy chung bất ngờ
ngó sen dài mút cọng tơ
giăng lên lục bát thành thơ ái tình
uống say ta uống một mình
trong tim chợt nở thình lình đóa sen
ngày mai ghé chợ biếu em
thương ta em hãy sen đem cúng chùa
(KT, Lục bát điên, khúc 103)
về đây chiều lắng buông rơi
về đây ngơ ngác chim trời khuất mây
về đây đâu phút sum vầy
về đây sông nhỏ ngất ngây lặng lờ
về đây bụi loãng bơ vơ
về đường đất bây giờ đá xanh
về đây chân bước không đành
về đây hiền hậu một vành trăng xưa
về đây kẽo kẹt tre đưa
về đây rào khép ngọn dừa quạnh hiu
về đây dạ lý tiêu điều
về đây đâu nữa yêu kiều áo bay
về đây ta lại về đây
về đây mây trắng trôi hoài ngàn năm
về đây hoàng hạc mất tăm
về đây lặng đứng âm thầm chốn xưa
(KT, Lục bát điên, khúc 82)
yết yết yết đế ba la
sang bờ bên ấy gọi là tới chưa
bát nhã ngóng đợi đò đưa
bờ này bờ nọ trời mưa xóa nhòa
như lai thiền trụ một tòa
ngó hào quang tỏa chóa lòa thấy chi
chấp tay mà niệm mâu ni
cái thân giả tướng có gì được chăng
(KT, Lục bát điên, khúc 68)
Những câu chuyện của Sự đời của anh tổng hợp hết những thất tình lục dục của cõi sống, như một cái kho tạp nham thế sự. Khi ta đọc qua, có thể sẽ chuyển từ trạng thái cười qua trạng thái ngậm ngùi. Cũng chẳng sao, Trời đất vô cùng một cuộc say và ta có thể tung tăng dõi theo anh qua từng trạng thái:
“Từ hồi xưa tới giờ bần tăng chưa hề được đọc một quyển sách ngoại ngữ nào hết (!) Vì vậy, để giảm bớt được phần nào cái tình trạng lạc hậu kinh niên, bần tăng bèn lấy quyết định “đổi mới tư duy”, và đồng thời “cách tân” ngòi bút của mình ngõ hầu theo kịp nhịp đập của con tim văn chương quốc tế. Ông Proust viết Đi tìm thời gian đã mất thì bần tăng viết “Đi kiếm không gian vẫn còn”. Ông Hemingway viết Ngư ông và biển cả thì bần tăng viết “Ngư bà và cái ao rất cạn”. Ông Faulkner viết Âm thanh và cuồng nộ thì bần tăng viết “Im lặng là vàng” (quyển 1) và “Nín khe mà nằm vùng” (quyển 2). Ông Gide viết Khung cửa hẹp thì bần tăng viết “Cửa sổ rộng”. Ông Steinbeck viết Của chuột và người thì bần tăng viết “ Của mèo và khỉ đột”. Người ta viết dâm thư “Funny hill” thì bần tăng viết “Phanh neo heo”. Và còn hứa hẹn nhiều sáng tác tân kỳ, tình dục “táo bạo trâng tráo” khác nữa trong một tương lai gần xịt, ngõ hầu giảm bớt được phần nào cái tệ trạng lạc hậu kinh niên của mình.” (Kiệt Tấn, Sự đời,8)
Anh nghĩ lai rai: “Từ chỗ thấp hèn nhứt cho tới chỗ cao cả nhứt, từ chỗ phàm tục nhứt cho tới chỗ thiêng liêng nhứt, con người lúc nào cũng chạy theo những hoang tưởng không dứt”. nhưng cái lai rai của anh chẳng thể cười. Sự đời vốn dĩ là vậy, những mặt nạ vẫn được quá nhiều người ưa chuộng, những sắc màu ta thấy được chẳng phải là sự thật vốn dĩ nó tồn tại :
“Một điều hiển nhiên: bộ mặt đạo đức giả bao giờ cũng phết lên mình một lớp sơn nghiêm chỉnh. Ai không đồng ý điểm này xin hãy thay bộ đồ lớn, thắt cà vạt đen, giơ cao tay lên và đứng dậy bước lên bục gỗ lớn tiếng phản đối… một cách nghiêm chỉnh! Một cách nghiêm chỉnh, please! S’il vous plaît! Yakitori! Phần tôi, tôi xin được phép bận xà lỏn rằn, ngồi tại chỗ, giơ cao tay lên và đứng dậy… dết toa lô, dô toa lết. Sorry! Désolé! Hara kiri! (Phỏng vấn Kiệt Tấn, Phan Thị Trọng Tuyến, Đặng Mai Lan thực hiện)”

75 tuổi đời, Kiệt Tấn vẫn còn lai rai phương ngoại, vẫn còn hí lộng cùng trời cuối đất, thật đáng mừng cho anh. Cuộc chơi đang còn dài và Kiệt Tấn vẫn còn dư sức cười ruồi cùng mọi hỉ nộ ái ố vẫn đang diễn bên tấn tuồng đời :

“túc lên một tiếng tù và
gọi hồn kiệt trụ gọi ma xứ hời
về đây sấp ngửa cuộc chơi
ta ôm núi đá một đời quàng xiêng”
(KT, Hổng giống ai)

đặng châu long
31-08-2014

NÓI VỚI ÚT ĐÔNG

dangchaulong

Ngày giỗ Ba, vừa gặp nhau Út Đông đã trách « anh ác lắm » làm mình cũng khựng, không biết « ác » chỗ nào. Tôi thường post ảnh gia đình lên blog và chua thêm vài câu thọt lét cho vui. Nhưng thời gian này, nhớ lại, thì mình đâu có « sáng tác » ra câu nào đáng quan tâm cho mấy cái ảnh. Út Đông biết tôi đoán không ra nên mới nói ngọn ngành là do cái bài « Nói với Ba » của tôi. Út Đông đọc xong thì chạnh lòng khóc sướt mướt.
Thôi thì ngày giỗ anh Sơn sắp đến rồi, anh không nói với anh Sơn nữa, mà nói với em.
Đúng là anh sống với anh Sơn hơn em tám năm. Những ngày còn chút xíu, anh thường được anh Sơn « na » đi khắp xóm cùng làng, có khi còn quấn cho anh cái vòng dây antigone lên đầu mà có lúc em nhìn thấy trong tấm ảnh còn sót lại, hoặc khi cùng cả gia đình đi chơi, chụp ảnh khi Ba về Sài gòn làm Trưởng ga, năm l952, Út Đông có thấy anh đứng xớ rớ ngoài nhóm gia đình thoải mái mút cây cà rem không ?.
Thật ra thì thời gian sống cùng anh Sơn cũng không nhiều lắm đâu. Chỉ thời gian nghỉ hè, hai anh Điệp và Sơn trở về từ trường Lasalle Mossard Thủ Đức, hay họa hoằn là những lần anh đột ngột về thăm gia đình khi ba má đổi ra Tuy Hòa, thế thôi.
Những mảnh nhỏ ký ức về anh giống như những hạt bay tung muôn hướng, bây giờ nhặt nhạnh lại nó cũng gian khó vô cùng. Nhưng có những thời khắc ta có thể cùng nhớ và không quên.
Đó là chuyện của ba năm trước, lúc anh chị em mình đi về quê Nội Bình Chánh để đưa anh Sơn về cùng Ba Má và anh Điệp ở Gò Dưa.
Anh chị em mình nhớ lại những kỷ niệm về anh, nhớ lần anh bị nạn, năm 1966, mà cả gia đình không ai về kịp để tiễn anh lần cuối. Chú Thiếm Tám phải đứng ra thay Ba Má và em Tuyết Nga thay mặt anh em mình chịu tang đứng bên áo quan che dù cho anh đỡ nắng trên đường ra nghĩa trang. Theo sau áo quan là người vợ chưa kịp cưới của anh. Buồn hay vui khi mình lìa trần đúng vào ngày sinh nhật của mình, khi vừa đúng 24 tuổi đời ? Cuộc đời là một chuỗi Tái ông thất mã phải không Út Đông ? Anh Điệp chưa kịp mừng vì sắp nhận được giấy giải ngũ thì đã nằm xuống vì loạt đạn oan nghiệt khi anh làm nhiệm vụ cứu thương. Anh Sơn chỉ còn chưa đầy một tháng làm đám cưới thì nhận một quả mìn trong ngày sinh nhật. Vậy thì có nên nhắc lại cái triết lý của John Steinbeck « Những kế hoạch hoàn hảo nhất của chuột và người, cuối cùng, thường không thực hiện được » để tự an ủi cho số phận dân đen không ?
Em có biết anh chờ gì khi cầm máy ảnh đứng bên mộ anh Sơn giai đoạn sắp mở nắp không ?
Anh không hy vọng thấy lại hình ảnh anh trước khi mất hút, tan biến vào hư vô như Triều chuẩn bị camera chờ thời khắc đó, bởi hòm anh Sơn là hòm kẽm. Thời gian phá lớp kẽm đủ để anh có thời gian tan biến vào hư không rồi.
Điều anh chờ đợi là nhìn thấy vết thương chí tử của anh. Thấy để chắc chắn điều đã từng nghe khi nhận tin báo tử. Ngày đó, dì Tám đã phải nhét cả một chiếc khăn lông vào hộp sọ vỡ tung của anh để chỉnh lại khuôn mặt anh được đầy đặn lại, để người thân bớt muộn phiền vì cái chết không toàn vẹn đó.
Và, lạy Trời, đã cho anh nhìn thấy vừa đủ để xác nhận mọi thông tin. Dù xương cốt anh Sơn còn tươi đỏ như mới vài năm nào chứ không phải 42 năm, nhưng hộp sọ anh không còn nguyên vẹn, vỡ vụn như đã từng…
Bên cạnh đó là chiếc khăn lông nhét vào hộp sọ anh năm nào. Tất cả đồ tùy táng còn y nguyên, cả những tờ giấy vàng bạc gởi theo anh.
Anh xé thử cái poncho bằng chất nylon qua 42 năm dưới mộ. Vẫn còn độ dẻo như lúc ban đầu, Có lẽ do nơi anh an nghỉ là vùng ruộng trũng ngậm nước.
Mọi việc gần xong, lúc anh em mình sắp về, anh lẳng lặng mang theo tấm đá hoa cương đầu mộ có ghi ngày sinh tử của anh Sơn, gọi là một chút gì về anh Sơn, để mỗi lần anh em mình về nghĩa trang Gò Dưa lại có cái để nhớ về. Tấm bia này bây giờ được gắn vào cùng mộ Ba đó.
Nếu có một điều ước nguyện của anh Sơn được như ý, chính là việc anh ao ước nếu có mất đi thì có quanh mình 25 vòng hoa tươi. Điều đó đã xảy ra đúng như vậy. Ước nguyện đó anh đã thổ lộ với dì Chín khi đến nhà dì Chín nhờ cố vấn áo cưới cho ngày thành hôn sắp đến.
Tiếc thay ! đó là một dự tri đau đớn.

ĐẶNG CHÂU LONG

BIỂN – RỪNG VÀ TÌNH VÙNG CAO

dangchaulong

được làm giọt biển chắc vui
giỡn cùng con sóng
ngàn khơi bồng bềnh
tung hê thế sự chông chênh
mang mang lồng lộng
trùng xanh mặn nồng
(đặng châu long, chút tơ vui)

Đại ngàn và biển cả là hai nơi tôi đặc biệt yêu thích và nhớ về mỗi khi có thời gian. Vẻ mênh mông, u tịch của rừng và biển đã làm choáng ngợp hồn tôi mỗi khi được cùng hòa mình vào. Ngày xưa, khi còn nhỏ, cùng bạn bè Thanh Niên Hồng Thập Tự Khánh Hòa ngồi quanh lửa trại hát những bài ca khoáng đạt ca tụng thiên nhiên: ..Rừng muôn cây xanh cao âm u ngàn gió lá, khuất bóng ánh trăng sao, ngồi chung quanh phiến đá ta khơi lửa hồng bập bùng bập bùng trong đêm thâu…(Hoàng Quý, Đêm trong rừng) hoặc cùng các bạn ca đòan Bá Ninh hát lên bài ca Trùng dương lớp lớp mây trời cuộn bay của Phạm Duy: Triều dâng, triều dâng, ngọn sóng, ngọn sóng theo trăng Theo trăng vào bờ, ôm lớp phù sa, theo trăng vào bờ …nghe thật sảng khoái.
Đại dương đã thật sự quá gần gũi cùng tôi khi tôi chuyển từ Tuy Hòa về học tại Nha trang, Trường Lasan Bá Ninh chỉ nằm cách những cụm dương hình khối trước biển một con đường, đường Duy Tân chạy dài gần bảy cây số đến tận Chutt, Cầu Đá, trên đó, ngôi nhà tôi sống chỉ cách trường khoảng hơn hai trăm mét, cạnh Dòng Chúa Cứu Thế mà bây giờ đã là Khách sạn Hải Yến.
Đêm đầu tiên ngủ trong ngôi biệt thự Hỏa Xa cũ xưa đó, tôi đã ngủ cùng tiếng sóng vỗ ầm ì rền rĩ suốt đêm. Nhiều giấc mơ đã dẫn biển theo vào cơn mê hoặc mộng ảo đó, đôi khi thấy mình như bị khối sóng cao lừng lững vồ dập ngộp chìm trong cơn mê. Buổi tối chạy ra đứng trước biển, cảm nhận giữa đêm đen cái sức mạnh huyền bí biển, thông qua từng đợt sóng âm u đều đặn phả bờ, mang theo những tiếng òa vỡ ầm vang của từng con sóng vô hình. Cảm giác nhỏ nhoi trước mênh mông biển đó khiến ta thu bớt cái cao ngạo của con người, để hòa cùng kỳ ảo biển xanh thâm tạ thiên nhiên đã thể hiện ra hùng lực của mình.
Buổi sáng, chạy dọc dài bờ xanh Nha Trang, con sóng nhỏ lăn tăn dịu nhẹ vỗ về như lời mẹ ru canh giấc ngủ sâu, “Sóng vỗ miên man như câu ru êm của Mẹ dịu dàng Nước biếc mênh mông như đôi tay ôm của Mẹ trùng dương.”(Phạm Duy, Mẹ Trùng Dương). Không gì sảng khoái bằng giấc tinh mơ một mình chạy chầm chậm dọc biển, giữa mênh mông cát vàng chỉ có rải rác từng nhà nhỏ bát giác làm phòng thay đồ cho khách nhàn du. Dừa và dương như cùng ta vẫy gọi lời mừng chút ngọn gió hây hây còn đọng cơn ngáy ngủ giữa bình minh. Đôi khi trong cơn sảng khoái, cùng người bạn thân, chạy tấp vô lò bánh mì nhỏ ở đường song song gần đó mua cái bánh mì nóng hổi, kẹp thêm một que cà rem lạnh buốt vừa chạy vừa ăn để nghe ra cơn lạnh buốt từ tâm hòa quyện cùng cái nóng dòn tan của bánh mì cầm giữa bàn tay mà lòng như rộng mở thênh thang.
Những ngày sân bóng chuyền, bóng rổ, bóng bàn, sân banh trong trường không còn trống chỗ, thày trò lớp tôi lại dắt nhau ra biển, mang theo trái banh basket cùng chơi water-polo trên biển. Những tiếng hò reo, giọng cười giòn giã hòa cùng bọt sóng trắng xóa một vùng.
Những ngày mưa nguồn dầm dề cũng là những ngày biển héo ủ ê. Giòng phù sa vàng đặc màu bùn theo giòng sông Cái đổ hòa vào biển làm giòng xanh trở nên khó ưa, Rác rưởi cuốn theo những uế tạp làm biển xanh không còn dáng vẻ uy nghi thường hằng. Nhưng cũng chưa bằng ngày gió bão. Tiếng gầm gừ biển như rên xiết nỗi lòng. Bao nhiêu thứ trên đời đều hiện diện và phô bày trần trụi theo từng đợt sóng xô bờ. Lang thang trên biển vào ngày này ta sẽ nghe ra nỗi đớn đau biển khi cố gắng đẩy đưa những ô trược trả lại bờ. Biển hung hăng phả lên đường Duy Tân từng đợt cát đọng dài sau cơn sóng. Biển vùi dập lôi xiêu vẹo từng dãy nhà Xóm Cồn vốn dĩ đã quá mỏng manh như kiếp dân chài chỉ cần kiếm đủ cho hôm nay. Không năm nào chúng tôi không đi cứu trợ Xóm Cồn và cũng chưa bao giờ thấy cư dân ở đây làm lại ngôi nhà nào kiên cố khả dĩ chống chỏi cơn giận dữ trùng khơi. Chỉ như một kiếp sống bồng bềnh không cần chống trả lại. Chỉ cần biển rộng lượng cho những ngày rong thuyền tìm chút sản vật đại dương đắp đổi ngày thường.
Và thế đó. Vòng cung đại dương trải bao năm vẫn ấp ủ thành phố Nha Trang mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm. Có đi xa, có ghé nhiều phố biển mới ngộ ra rằng không đâu sở hữu được một kho báu biển xanh hiền hòa như Nha trang vốn có, để hàng đêm người lữ thứ chạnh lòng quê cồn cào nhớ tiếng sóng ngày thơ.

@

Khi biển đã quá quen thuộc cùng tôi mỗi sáng mỗi chiều thì cánh rừng thâm u vẫn còn là một bí mật chưa từng được khai phá. Ngay cả những chuyến di hành vào Hòn Hèo, Chín Khúc, Đá Hang, Đá Bàn, Núi Chúa cũng chỉ là cỡi ngựa xem hoa dù đôi khi vẫn bị núi rừng mê hoặc lôi níu bước chân, nhiều khi mấy anh lính mang máy theo tôi hỏi: “bộ ông không sợ chết sao?” Tôi chỉ lơ đãng nói tửng tửng: “bị thương là chưa chết, mà chết thì …hết biết, có gì mà sợ” . Cái triết lý “chết nghĩa là hết thở” của tôi vậy mà hiệu nghiệm, chẳng cần giải thích dông dài cho tật ghiền khám phá rừng của mình.
Rồi vận may đã đến cùng tôi, nghe ra lại thấy buồn cười. Tôi được lệnh đưa hai khẩu pháo lên ngọn đồi trên Buôn Ea Thi, nơi giáp ranh đèo Phụng Hoàng và Đèo Dốc Cao, để thay thế cho đơn vị bạn trong ba tháng. Núi rừng, đèo dốc vây quanh, cách Ninh Hòa 35 cây số, cách Khánh Dương 25 cây số. Bạn cùng tôi là một con đường quốc lộ, một cái buôn nhỏ Ea Thi và một con suối ngay dưới chân đồi. Tôi có cảm giác như bay bỗng cùng núi rừng đại ngàn đó.
Một cái tiền đồn hắt hiu nằm giữa rừng núi hiu hắt này nghe ra ngày rất dài và đêm cũng chẳng ngắn. Buổi sáng nghe khỉ hú, chim kêu mãi cũng nhàm. Ngồi gõ domino hoài cũng phát chán. Tôi bắt đầu lang thang cùng vợ và con gái đầu chưa đầy tuổi, còn tay ẳm tay bồng. Mới đầu chỉ là những chuyến ghé thăm buôn Ea Thi cho qua thời gian. Bạn gần gũi nhất cũa chúng tôi là gia đình một già làng, bác Luk. Chúng tôi đem chia sẻ cho bác và cư dân quanh buôn Ea Thi những loại thuốc sốt rét và thuốc thông thường, và đôi khi là mì gói, cá khô. Bác và những con bác hay cùng chúng tôi chuyện trò về tập tục, đời sống trong buôn. Có thể nói gia đình bác Luk rất tiến bộ trong nếp nghĩ và lối sống. Con bác nói về mái nhà sàn của gia đình, nhà duy nhất mái lợp bằng tôle: “Sống phải theo tục lệ, chứ không đã làm nhà theo kiểu miền xuôi cho thoải mái”. Gia đình bác thường mời chúng tôi dự những dịp vui của buôn, có khi là lễ tạ thần rừng sau chuyến đi săn được nai, có khi là dịp cúng giàng khai ché rượu cần. Có cùng sinh hoạt mới thấy hết những nét chơn chất đáng mến của những con người đơn sơ này. Ngày cúng thần rừng, bác Luk lên mời tôi, tôi cứ ngỡ vật hiến cúng là một con ma-nú (gà) mập bự. Tôi bước lên nhà sàn, bước qua tấm phản dọc hông nhà dài cỡ gần 20m mà có lần bác khoe để làm được nó, bác phải cùng dân buôn làng vào trong rừng chặt hạ, đẽo bằng rựa suốt một tháng ròng rã, cuối cùng dùng voi kéo về nhà. Gần bên bếp giữa nhà là một chiếc dừng, trên đó có một cái chén và một ngọn đèn dầu nhỏ, Trong chén có một con bằng cỡ con chim sẻ, hỏi ra mới biết là con ma-nú con, Hóa ra người miền cao thường cúng bằng những phẩm vật nhỏ: gà con, heo con, chứ không như người miền xuôi. Con nào cũng là con, họ không có quan niệm lớn nhỏ, ngay cà khi trao đổi mua bán, một nải chuối lớn hay chuối chót giá cũng như nhau. Chiếc nia lớn cuối cùng được mang ra với khối thịt đã được thái nhỏ bày trên những tàu lá chuối. Chỉ có vậy. Riêng chúng tôi được gia đình bác phát cho mỗi người một cái chén và một đôi đũa. Dân làng lần lượt đến, lần lượt qua nia thịt bốc mỗi người một nhúm. Có người “hiện đại” hơn, móc trong túi ra một túi ni lon bỏ thịt vào. Thời đó chỉ mới dùng túi ni lon nên chưa phổ thông như bây giờ. Hai chiếc ché đã được đổ đầy nước đặt cách nhau không xa, Chúng tôi cùng gia đình bác dùng 1 ché, còn lại là những người tham dự. Bác giải thích cho tôi thủ tục uống rượu này, trước tiên là chủ nhà sẽ uống 3 lon nước châm, nghĩa là mực ché bao giờ cũng đầy ngang. Nguyên do chủ nhà uống trước để khách an lòng về độ an toàn của ché rượu mà thôi. Sau đó là khách, cũng 3 lon nước châm mỗi người, không hơn không kém.
Đôi lúc không quen tập tục vùng cao cũng làm mình ngộ nhận, may là tôi thường dè dặt thăm hỏi mới tránh những ngỡ ngàng. Một buổi sáng, tôi và bà xã mang hai thùng hỏa pháo bằng sắt ra suối múc nước uống mang về, dọc con suối có một cô gái trong buôn đi ngược chiều, tay mang một trái bầu khô dùng đựng nước nhỏ. Khi ngang qua chợt một mùi như mùi tử khí từ mái tóc vừa gội còn sũng nước của họ ập qua mũi, làm tôi và bà xã có cảm giác vô cùng khó chịu. Ngày hôm đó chúng tôi phải lên thật cao múc nước, không dám múc nước chỗ thường ngày, vì biết những cô gái trong buôn khi gội đầu bao giờ cũng gội nơi nguồn cao hơn nơi tắm. Chúng tôi cứ phân vân họ gội đầu bằng gì mà mùi quá khó chịu vậy. Nghe chúng tôi kể lại, con bác Luk bỗng cười và nói đó là nước vo gạo để ủ mấy đêm nên có mùi như vậy, tuy hôi, nhưng rất mượt tóc. À ra là vậy, thảo nào….
Có một tục lệ hơi dị đoan vẫn còn tồn tại ngày ấy là tục dời buôn. Khi trong buôn có vài người chết gần nhau thì họ lục tục bỏ đi kiếm nơi lập buôn mới và không còn bao giờ quay đầu về nơi cũ dù chỉ ghé qua.
Những lúc rỗi rảnh không ghé Buôn Ea Thi, vợ chồng tôi lại dạo rừng. Mấy ngày này con gái đầu đã được đưa về Diên Khánh ở với Ngoại để bỏ bú nên tha hồ đi xa. Chui qua những tán lá um tùm, hòa cùng thiên nhiên hoang dã, hái măng le, rau má, tàu bay. Đi xa hơn nữa, phát giác ra cái buôn cũ đã bị bỏ phế, chúng tôi dè dặt bước vào như ngại động chạm linh hồn những người từng sống nơi đây. Những giàn nhà sàn hoang phế lẫn khuất trong cây cỏ bủa vây, những đường làng chỉ còn đọng chút viền dấu tích. Tịch lặng. Trong chốn này dường như còn sót lại chút hồn thu thảo như Bà Huyện Thanh Quan hoài cảm nhớ về chốn rêu phong thành cổ trong thơ. Dần dần chúng tôi cũng quên đi chuyện lý do người vùng cao bỏ làng, những vạt trầu vẫn đậm nét tốt tươi, những cây rau trộn trong cỏ hoang dại đã khơi dậy lòng ham thích “thu hoạch”. Tôi hái thật nhiều như chưa từng hái, nhất là trầu, dù chưa biết làm gì. Ôi thiên nhiên rừng rú, ta muốn “cắn” vào ngươi.
Vừa lặt lè mang “chiến lợi phẩm” về bỗng thấy dưới hầm ngủ có dáng một cô bé bồng Trân, con gái đầu của vợ chồng tôi. Thì ra là Dung, em Hạnh, năm nay 14 tuổi ở cùng ngoại. Dung kể lại bé Trân lì quá, mấy ngày qua cứ khóc, khóc mãi, bà ngoại ngán quá bào Dung ẳm ra Ninh Hòa giao lại vợ chồng tôi. Bà vẫn chưa biết tôi chuyển lên Phụng Hoàng. Hai dì cháu đi xe đò lên Núi Cấm Ninh Hòa không gặp, Dung òa lên khóc làm anh Tú, người thay thế tôi ở đơn vị đó cứ hỏi mãi lý do. Cuối cùng mới rõ bà ngoại chỉ cho tiền xe vòng đi vì yên trí vòng về có vợ chồng tôi. Tú cười xòa nói “yên trí, tôi cũng như anh Long, không sao anh sẽ đưa hai dì cháu tới nơi an toàn.” Tú gọi máy cho đơn vị tôi để ra đón, lấy xe chở hai dì cháu ra bến xe gởi tiền tài xế và dặn cho xuống đúng chân đèo Dốc Cao-Phụng Hoàng, nơi đã có trạm kiểm soát hổn hợp. Hú vía hai dì cháu, tới nơi bình an. Có lẽ bé Trân chỉ nhớ hơi mẹ, qua một đêm, ngày hôm sau cai hẳn sữa, Cám ơn thần rừng.Tiễn Dung về lại Diên Khánh, gởi thêm hai thùng trầu và trái đỏ, kỷ niệm chiến tích những ngày lê lết núi rừng.
Sáng 30 tết năm ấy tôi tự cấp phép cho mình về Nhatrang một ngày. Hôm sau lên đồi anh em kể lại, bác Luk mang lên một bao bí bầu bắp khoai và một tô gạo lúa rẫy tặng tôi ăn tết, không có tôi bác lại quẩy mang về. Tôi vội vã chạy xuống buôn xin lỗi vì vắng mặt. Bác háy tôi mội cái rõ dài và buông nụ cười đại ngàn tha thứ. Người miền cao ngày ấy đơn giản và đôn hậu như vậy đó. Như rừng già chỉ biết chở che.
Biển còn đôi khi cuồng nộ. Rừng im lặng không nói, như người vùng cao chơn chất, gói những muộn phiền để tung theo cơn gió ngàn bay.
Ngày tôi từ giã núi rừng Phụng Hoàng, gia đình bác Luk dẫn nhau ra tiễn, bác tặng tôi một trái bầu khô cùng lời chúc an bình, Cám ơn đại ngàn, cám ơn tấm lòng người vùng cao đã cùng nhau phơi trải một thời

ĐẶNG CHÂU LONG
21-03-2014

GA LỘC NINH TRONG KÝ ỨC TUỔI THƠ

dangchaulong

1
Sau mấy ngày bị Nhật quản thúc tại Lộc Ninh, 4 giờ sáng ngày 1 tháng 10 năm 1945 Toàn quyền Decoux rời Lộc Ninh được quân Nhật hộ tống về Thủ dầu Một để chờ chuyến bay của Anh đưa sang Calcutta . Hai ngày sau, tại phi trường Tân Sơn Nhất, Decoux ra đi không kèn không trống, không một viên chức ra tiễn, dù máy bay và hành khách đã phải chờ ông suốt 3 giờ liền với lý do được thông báo “trục trặc kỹ thuật”.
Đó là những gì đã xảy ra cuối cùng cho Decoux lưu lại trên trang mạng ondasie. Việt nam đang bước qua một giai đoạn lịch sử khác.
Hơn nửa thế kỷ nhìn lại ký ức thuở ấu thơ tại thị trấn nhỏ bé Lộc Ninh này thật chẳng dễ dàng chút nào nếu không có sự thôi thúc nhờ cái duyên gặp trên trang blog một bài viết kể về chuyến xe lửa cuối cùng của tuyến Lộc ninh – Sài Gòn vào mùa hè 1960, ngày 05-09-1960 chuyến xe lửa trên đó có Ba tôi, chị Phượng, Chị Hà. tôi, em Oanh và em Đạt rời xa Lộc ninh.Vĩnh viễn. Sẽ chẳng còn những chuyến xe lửa đi về trên tuyến này kể từ chuyến giã từ này Tiếp tục đọc

Lời cuối tiễn anh Chu Trầm Nguyên Minh

Đặng Châu Long

1798027_400135126788677_804826451_n

Anh Tâm,
Vậy là anh đã lỗi hẹn cùng bè bạn, thanh thản ra đi theo lồng lộng mây ngàn
Em thì kịp đúng hẹn cùng anh, hoàn tất ước mơ cuối của anh trong những ngày không còn làm việc cùng máy tính. Em đã đọc cho anh nghe giòng thơ chinh chiến với tất cả sự kìm nén nỗi lòng. May mà anh vẫn vui để nghe trong đêm 17-02 đó, đêm cuối cùng tỉnh táo nhất của anh
Tám năm chống chọi cùng cơn bạo bệnh thật chẳng dễ gì, nhưng với anh chắc chẳng là gì so cuộc đời anh đã trải. Em đã nhiều lần ngậm ngùi khi mở lại bài viết của anh trải cuộc đời mình kể từ lúc anh trao bài gởi gắm cho em vào tháng tư năm ngoái.
Thân phận anh quá nghiệt ngã, năm sinh, họ tên anh, quan hệ chị em đều phải giấu kín để tồn sinh. Cuộc chiến luôn đẩy đưa nhau vào ngõ cụt khôn lường.
Chị Tùng Vân nhắc lại anh rất sợ trực diện cùng đám chết của bất cứ ai. Nỗi ám ảnh về tang thương của những người thân khiến anh không muốn nhìn những hình ảnh gợi lại sự tang thương quá đỗi ở thời thơ ấu điêu linh.
Và bây giờ anh cũng phải tự đối đầu, bước vào vòng sinh tử một cách chững chạc
Tất cả, tất cả mọi chuyện anh đã sắp sẵn từng bước, từng ngày. Cho đến ngày cuối đời, khi ghi chép từng câu viết trên một mớ dày giấy tờ công chứng trong bệnh viện và đặt bút ký tên mình lên những văn bản đó, anh đã hoàn tất thủ tục cuối cùng trong sự bình tỉnh vô song. Sau đó là sự buông tay, thả thân cho tiếng gọi thiên thu.
Những giờ cuối, nằm nghe người thân nói, mỉm nụ cười vô thanh, anh đã sẵn sàng cho chuyến đi vô hạn vào ngàn trùng.
Anh đi, nhưng vẫn còn đó bạn bè một thuở. Bàng hoàng hay tin anh nhưng vẫn biết sẽ không lâu tái ngộ cùng anh.
Cuộc đời là phiến mây trôi, ai qua được mối sầu sinh tử. Có đáng chăng khi mình đã thể hiện con người đã sống hết mình và bằng cả tấm lòng.
Nhắc lại lời anh hôm 11-02, “khi mình cầm viết, phải có trách nhiệm với lịch sử và cuộc đời và chịu trách nhiệm cả với những người cùng giòng sống quanh mình” mới biết cho đến cuối cùng anh vẫn quyết liệt không từ bỏ trách nhiệm mình cùng tha nhân bên dòng sống
Thôi thì anh cứ thanh thản ra đi. Bạn bè không chỉ ngắn dài vài giọt, tâm thế anh sẽ mãi in đậm trong mọi người Tiếp tục đọc

BỖNG NGỌT VỊ ĐỜI

1656388_624273880978935_684078041_nCầm cuốn sổ 25 năm trước tôi tập tò dịch lại tác phẩm Kẻ Tiên Tri của Khalil Gibran cho qua những ngày tháng đau bệnh, thất nghiệp, chán nãn một thuở nào, giở trang đầu tiên đọc lại, những dòng chữ như đang cùng tôi nhảy múa:
Làm sao có thể ra đi trong thanh thản mà chẳng khổ đau? Không, sao ta có thể rời bỏ thành phố mà chẳng để lại vết thương lòng.
Dằng dặc là những chuỗi ngày đau khổ mà ta đã trải qua ở chốn tường thành. Dằng dặc là những đêm cô đơn; và ai có thể rời sự thống khổ và cô đơn mà chẳng đắng cay.
Hằng hà mảnh hồn ta đã tan tác trong các đường phố này. Hằng hà những đứa con của khát vọng ta, trần truồng đi trong những ngọn đồi này, và ta chẳng thể dứt bỏ nhẹ nhàng được.
Đó chẳng phải trang phục ta có thể cởi ra hôm nay; đó là tấm da ta phải đành lòng giật ra tự đôi tay mình
Đó chẳng phải một ý tưởng để ta dễ dàng dứt bỏ; đó là trái tim nguội lạnh bởi sự đói khát khôn nguôi
(Le Prophète, Khalil Gibran)
Tôi thở dài gấp lại, liên tưởng đến anh Chu Trầm Nguyên Minh, liên tưởng đến anh Thanh Hồ và không sao nguôi ngoai giòng nhớ.
Cả hai anh, nhà thơ và nhà họa sĩ tôi biết đều có chung một nỗi niềm, một vết cứa tình bạn chưa bao giờ lành. Chung qui cũng vì đời hai anh quá trọng nghĩa tình.
Nỗi đau của anh Thanh Hồ về người bạn thân thiết ngày nào cùng quẩn, trốn lính cũng ngộ. Ngày anh cất nhà, anh cương quyết phải chừa đường dọc hông nhà một mét dù chiều rộng nhà chỉ còn vỏn vẹn hơn ba mét. Cuối đường, sát tường dựng một thủ kỳ nhỏ che một lổ hổng tường, chỉ bởi nhà bạn đối lưng nhà anh. Anh nói để bạn anh có đường thoát khi bị khám nhà. Sau 75 anh bạn bay bổng coi như không biết có anh.
Còn anh Chu Trầm Nguyên Minh thì “tội” bảo bọc một người bạn của người bạn khi anh còn làm ở quân trường. Có lần vì vậy mà suýt phải ra tòa án binh nếu không nhờ chị Tùng Vân quen biết gỡ ra. Sau 75 anh chị cũng bị hồi mã thương khi sa cơ thất thế.
Năm 2003, gặp gỡ, nói chuyện với hai anh, nghe anh Thanh Hồ bực bội nói chuyện cùng anh Chu Trầm Nguyên Minh về nỗi đời, anh Chu Trầm Nguyên Minh chỉ nói chuyện đời nó đã là vậy thôi bỏ qua cho nhẹ lòng. Tôi không rành nên chẳng tiện xen ngang.
Nhưng nghe chừng vết cứa đó vẫn còn y đó. Chuyện đời đừng nghĩ đến thì thôi, tuổi già lại hay hồi tưởng, nhớ tới lại ngậm ngùi.
Có lần gần đây khi qua chơi cùng anh Chu Trầm Nguyên Minh, anh hỏi tôi: em thấy có nên gạt bỏ một khoảng buồn quá khứ không vui với mình không? Tôi biết anh vẫn canh cánh chuyện đó nên nói: việc đó là do anh. Nên hay không chẳng quan trọng gì so với việc thanh thản với tâm mình. Biết đâu họ cũng mãi mang cục đá nặng nề như anh trĩu buồn vì chuyện đó suốt khoảng dài mấy chục năm qua
Cánh thời gian bay hút đi, vệt đời dài vẫn cứ quét vào tim nhau những cơn đau nhói lòng. Anh Lê Vĩnh Thọ vẫn mãi đùa anh là nhà giáo làm thơ, việc đời cứ phải như việc dạy trẻ, gai mắt khó chịu thì không thể xuề xòa vuốt nhẹ bỏ qua. Tội nghiệp cho một chữ tình làm sao tròn trịa lăn trên cõi nhân gian đầy gai góc lọc lừa này.
@
Sớm hôm qua, tôi gọi điện cho anh vào giấc sáng thăm hỏi sức khỏe. Nghe gọi, cô con dâu của anh hỏi anh có trả lời được không, và sau đó là giọng nhẹ hụt hơi của anh làm tôi giật thót mình. Tôi nói anh chuyển lại cho cô con dâu để hỏi chi tiết và nơi anh nằm điều trị. Hóa ra anh đã vào bệnh viện Triều An từ mùng hai tết mà tôi chẳng hề hay biết do còn ở Nhatrang.
Vợ chồng tôi vào đến, thì đã có mặt một số anh em Quán Văn. Vợ chồng anh Trương văn Dân và Elena vẫn là những bạn sốt sắng với cánh anh em làm văn nghệ rồi Lê Ký Thương, Vũ Thế Thành… nồng ấm quanh anh. Gặp nhau anh mừng ra mặt và thăm hỏi từng người. Anh nói được sống cùng các bạn thì dại gì không sống. Anh dặn dò tôi đủ chuyện, tôi thì cứ nói thì còn nợ anh, từ từ trả….mặt vui nhưng lòng vẫn cứ buồn. Bây giờ bạn vây quanh, lát nữa đây tứ tán, nói như anh: bây giờ vui mừng thì cứ vui mừng, lát nữa lại tiếp tục…chiến đấu. Anh lại nhắc đến vợ chồng Út Chiến, tiếc lâu quá không gặp để Tiểu Nguyệt hát lại bài ca Năm Mới cho anh thỏa khóc lại một lần. Đúng anh trời sinh ra là để làm…thi sĩ. Bà xã tôi tuy không hát nhưng anh cũng đủ rơm rớm dặn “canh” tôi đủ chuyện. Vậy đó, thân anh còn lết bết như vậy cứ lo chuyện bao đồng. Vũ Thế Thành rổn rang chuyện dưới đất trên trời cùng anh. Trương văn Dân lại rủ anh đi thêm một chuyến Paris để sáng sáng ra phố tìm lại bà đầm bán bánh mì. Trông anh thật sảng khoái giữa tiếng cười nói và cả tiếng ca bài Lời tình buồn từ điện thoại của anh Vũ Thế Thành mở cho anh nghe. Ai nói vào bệnh viện không khí nặng mùi ê te?
Không viết được, không vào máy được là cả sự bực bội của anh. Anh làm việc như sợ quỹ thời gian không đủ, không kịp. Anh đã thể hiện nghiêm chỉnh tính cách anh vẫn nói : khi mình cầm viết, phải có trách nhiệm với lịch sử và cuộc đời và chịu trách nhiệm cả với những người cùng giòng sống quanh mình
Nhìn lại quanh tôi hôm nay, không ai nhận mình là nhà này nhà nọ, chỉ là những người có khát vọng viết như một trải nghiệm sống và bộc bạch nỗi lòng để lấp bớt những nỗi niềm và hoài bão đã phôi phai dần theo năm tháng.
Chỉ còn đọng lại những bạn đời theo cùng năm tháng như những chứng nhân giữa đành hanh cuộc sống. Đời bỗng vui như cuốn Tương Tri nằm im bên gối để anh cảm nhận nơi xa các bạn vẫn dõi theo.

ĐẶNG CHÂU LONG
12-02-2014

NHẬN DIỆN NĂM MỚI

để nhớ anh Chu Trầm Nguyên Minh

Hãy cắm giùm anh cánh hoa
Nơi cánh cửa mở ra cõi ngoài
Nơi linh hồn anh bao lần ứa máu
Nơi có những chuyến xe đi về
Mang theo những điều mộng ảo
Nơi anh ôm em và chúng ta sẽ khóc
Lần cuối cùng cho mãi mãi ngàn sau
(Chu trầm Nguyên Minh, Năm Mới)
@
Mùa Noel tôi hay nhớ lại bài ca NOEL NOEL của Nguyễn Hữu Ninh sáng tác, mùa Tết tôi lại nhớ đến bài ca NĂM MỚI của Phan Ni Tấn. một bài ca được phổ từ bài thơ Năm mới của Chu Trầm Nguyên Minh.
Tiếng hát khàn trầm của anh bạn Nguyễn Hữu Ninh đã lột tả hết những chịu đựng của con người trước nỗi thống khổ cuộc đời, và chúng tôi, tôi và Út Chiến, thường nghêu ngao một mình để khỏa lấp nỗi trống trải trong những ngày nhọc nhằn của thập niên 80 nơi rừng núi Thạch Thành Phú Yên.
Nhà Út Chiến nằm bên giòng sông Cửa Bé và sông Quán Tường ở khu tái định cư Hòn Rớ. Trước nhà là dãy Chín Khúc Đồng Bò, sau nhà là một dàn rớ trên sông nước mà Út Chiến đã cùng anh Cụng dựng lên để làm kinh tế phụ qua ngày. Cảnh trí thơ mộng của sông núi cộng thêm chòi kéo rớ bên bờ liễu rũ đã thu hút không biết bao bè bạn tứ phương về tụ hội.
Năm 2002, trong một cuộc vui ở chòi rớ, Út Chiến đã nghêu ngao lại bài ca Năm Mới góp vui. Trong chiếu hôm ấy có cả thi sĩ Vũ Nguyên và anh Họa sĩ Thanh Hồ, Thanh Hồ đột nhiên vỗ đùi và nói:” Đây là bài hát phổ thơ của Chu Trầm Nguyên Minh, anh bạn rất thân của mình từ nhiều năm trước. Chắc anh sẽ vui lắm khi biết bài hát này”. Và khi tàn tiệc , Thanh Hồ hứa hẹn sẽ mang anh Chu Trầm Nguyên Minh về đây để gặp lại đứa con tinh thần của anh qua lời nhạc Phan Ni Tấn.
Nghe vậy thôi, rồi ai nấy cũng phải lao vào giòng chảy cơm áo gạo tiền, tôi năm ấy đã vào Sài Gòn làm việc và một hai tháng lại về Nhatrang gặp gỡ bạn bè.
Tết 2003, theo thông lệ, gia đình chúng tôi lại về Diên Khánh đón Xuân cùng gia đình con gái đầu. Nhận phone Út Chiến ngày mùng một Tết:”anh chị ghé nhà em chiều nay nghe, có cả anh Chu Trầm Nguyên Minh và Thanh Hồ nữa”. Hơi bất ngờ, nhưng không hề gì, đã về tới nhà thì thời gian là của mình, huống gì là cuộc hạnh ngộ.
Chiều năm mới bên bờ sông Cửa Bé sau nhà Út Chiến thật thanh bình. Giòng sông như ngừng chảy, chỉ hiu hiu gió khẽ lay những bông liễu đỏ phất phơ .Chiếc bàn nhỏ dưới gốc liễu đã có năm người ngồi. Đây là lần đầu tiên tôi gặp gỡ anh Chu Trầm Nguyên Minh sau biết bao lần đọc thơ anh trên Văn, Văn Học, Bách Khoa, Dựng Đất…anh ngồi đó, khuôn mặt phúc hậu, giọng ôn tồn nhỏ nhẹ, đúng là phong thái của một nhà giáo lâu năm. Tôi cũng không quên ngạc nhiên thứ hai của mình : ngoài anh Chu Trầm Nguyên Minh, Thanh Hồ, Út Chiến, Tiểu Nguyệt thì người thứ năm lại là người tôi từng quen biết, anh Nguyễn Hữu Anh Tuấn. Anh và tôi cùng làm việc ở Funaco tại Trường Lái. Trái đất quả nhỏ bé .Anh Tuấn cũng chưa từng ngờ rằng, anh Lê Sỹ Ngọc -bạn thân của anh- lại là bạn cùng lớp của tôi tại trường Đặng Đức Tuấn Tuy Hòa trong thập niên 60, bởi tôi chưa hề nhắc suốt nhiều năm cùng làm tại Điện Biên cũng như ở Funaco.
Anh Chu Trầm Nguyên Minh ngồi đó, hỏi thăm chúng tôi đủ chuyện quanh phát tích bài hát đó, như thể đón lại một người thân về sau một chuyến đi xa ngái ngàn trùng. Anh ngồi nghe Út Chiến hát, mắt anh đẫm lệ, vì sao??
Trong thuở bình sinh đôi mắt ta
không hề cho đẫm lệ bao giờ
cười theo thất bại, khinh nguy hiểm
nện gót vang đường nhịp khúc ca
(Thế Lữ, Tiếng gọi bên sông)
Út Chiến vẫn hát, cố hát thật “hay” vì Út Chiến chỉ hay hát chứ chẳng hát hay. Anh Tuấn lấy máy ảnh Fuji ra tạm làm máy thu bài hát của “ca sĩ” Út Chiến để làm quà cho anh Chu Trầm Nguyên Minh. Anh Chu Trầm Nguyên Minh dường như đang hồi tưởng lại thưở ra đời của bài thơ Năm mới
“Cuối năm 1969 – đầu năm 1970 mình được biệt phái về dạy lại ở trung học Duy Tân Phan Rang ,lúc này,tụi mình đã có hai cháu ,con gái đầu lòng: Phạm Nguyễn Ca Dao ,con trai kế : Phạm Trần Nguyễn . Mình thuê căn nhà ở Mỹ Đức ,ngoại ô thị xã, căn nhà nằm bên một rừng cây Bạc Hà ,lẻ loi. Để có sữa cho hai cháu,mình chạy nhiều trường ,dạy cả ban đêm .Đêm đêm trên chuyến xe trở về…mình viết bài này”
……
Hãy hát giùm anh lời ca xưa cũ
Chỉ lại con đường tuổi trẻ anh đi
Chỉ lại nhớ nhung ,chỉ lại giận hờn
Chỉ cho anh nơi ngày xưa hò hẹn
Chỉ cho anh ánh nắng mai hồng
Đã chói chang một thời lãng mạn
Chỉ cho anh,hỡi em
Ngoài tuổi già vừa đến
Hãy nói giùm anh một lời triu mến
Yêu anh, yêu anh, yêu anh
Dù đôi mắt này giờ đây đã dại
Dù mái tóc này giờ đây hết xanh
Hỡi em,hãy mở vòng tay ngoan
Ôm hết những úa tàn sót lại
( Chu Trầm Nguyên Minh, Năm Mới)
Tiếng hát Út Chiến đã bặt, nhưng anh vẫn nhòa lệ trầm tư:
Hút sâu giữa cõi trầm tư
Một thời thơ trẻ mệt nhừ tử sinh
Phiêu linh giữa giấc u minh
Ngẫm xưa đã vậy ngẫm mình giờ sao
Muôn cơn sóng dữ ngọt ngào
Dìm thân thế nát giữa màu tang thương
(Châu Long, Viết cho anh Chu Trầm Nguyên Minh)
Tôi lặng ngồi ngắm dáng anh, ngẫm lại những chữ “giùm” trong cuộc đón năm mới thật thảm thương. Thảm thương một cách tròn vẹn, tròn trịa bổn phận làm người. Sống chính là nhớ. “Sứ mạng của con người trên mặt đất này là nhớ” (Henry Miller)
Anh đã nhìn, đã thấy, đã nhớ, đã khóc, đã tưởng niệm và đã giao trọn trái tim còn lại của mình cho người thân yêu chỉ để nhắn nhủ gắng gượng giữa cơn sóng gió còn dài. Bình yên và cơn phúc lớn chưa hề xảy đến cho thân phận con người. Có hề gì, dù đớn đau điên dại, anh vẫn thiết tha yêu cuộc sống này.
Đây không phải là bài duy nhất của anh được phổ nhạc, nhưng có một điểm chung là anh chưa từng là người được biết đầu tiên khi bài nhạc phổ thơ anh ra đời. như bài thơ Lời Tình Buồn của anh, Vũ Thành An phổ nhạc. Bài hát ra đời,1967, lúc Vũ Thành An và anh gặp nhau ở Quân Trường Thủ Đức, bài hát được yêu thích và phổ biến đã 45 năm, anh biết cũng rất muộn màng
Nhìn dáng vẻ trang trọng của anh Chu Trầm Nguyên Minh, Út Chiến như thấy mình có lỗi vì hát không đạt tinh thần bài hát lắm nên nói với anh Chu Trầm Nguyên Minh sẽ mời anh Sơn (GĐ HTX Sơn Hà) đến nhà hát cho anh nghe. Thật tiếc, khi có anh Sơn đến thì anh Chu Trầm Nguyên Minh đang trên một tour biển đảo Nhatrang.
Cuộc hội ngộ bất ngờ này đã là ấn tượng khó quên của tôi. Về nhà, lục lại trong chồng tạp chí Văn cũ, tôi lại tìm thấy lại được bài gốc Năm Mới của anh Chu Trầm Nguyên Minh. Tôi đã mang theo về Sài gòn với hy vọng sẽ gặp lại anh và trao cho anh quyển Văn chứa chất kỷ niệm về một đứa con tinh thần .
Nửa năm sau, ngày 21-06-2003 tôi lại có dịp cùng anh Chu Trầm Nguyên Minh và anh Thanh Hồ gặp gỡ tại Câu Lạc Bộ Văn Nghệ Sĩ 81 Trần Quốc Thảo Q3. Kỳ này tôi rủ thêm Nguyễn Hải, bạn thân lâu năm của tôi ở Sài Gòn cùng đi. Tôi cũng không quên quyển Văn đã chuẩn bị gởi anh. Gặp lại và trao anh quyển báo cũ, tôi chỉ nói: “Em gởi lại anh một kỷ niệm, nơi đến của nó phải là anh”. Không khí đơn giản của quán làm mọi người dễ hòa đồng và gần gũi. Bàn chúng tôi ngồi có nhiều người tôi chưa hề gặp, tôi chỉ còn nhớ anh Nhạc Sĩ Nguyễn Nam bên Đài Truyền Hình, có lẽ do dáng ngỗ ngáo phong trần khác xa độ tuổi trung niên của anh, thêm vào chiếc xe môtô phân khối lớn làm người anh lọt thỏm khi ngồi lên. Anh Thanh Hồ trổ tài vẽ ký họa cho Nguyễn Hải và tôi giữa tiếng trò chuyện ồn ào trong quán nghệ sĩ mà anh đã quá quen thuộc. Anh Chu Trầm Nguyên Minh vẫn trong phong thái nhẹ nhàng, chừng mực nói chuyện đời thường với mọi người như một người thân quen của quán nghệ sĩ này từ mấy mươi năm trước. Thảo nào những học trò cũ của anh ở Trung Học Duy Tân Phan Rang luôn nhớ anh trước tiên khi nhắc nhớ đến kỷ niệm trường xưa:
Này , ông nói nhớ Phan rang , nhớ Duy Tân , mà ông nhớ gì nhất
-Ừ , thì nhớ câu hát :” Anh đi rồi còn ai vuốt tóc , lời tình thơm sách vở học trò…” của thầy Chu Trầm Nguyên Minh , Vũ Thành An phổ nhạc.
http://trunghocduytan.com/viewtopic.php?t=11251&sid=f823037e541c73cbc3da91016c8f643a
*
Gần mười năm không gặp lại, tình cờ anh tìm lại được số điện thoại của tôi. Anh gọi cho tôi như tìm lại được một người thân xưa cũ làm tôi cũng nghẹn ngào như anh.
Chúng ta chỉ là những cánh bằng tan tác. Giữa đời say bỗng thấy bóng ta trong người tương ngộ. Còn thấy nhau cứ trân trọng nhau mà chợt nhói nỗi xót xa. Tất cả chỉ là cọng củi mục giữa giòng suối mùa lũ. Có đọng lại chăng là nguồn mát lạnh của giòng suối đã đẩy xô ta giữa nỗi đời quá đỗi đa đoan.

ĐẶNG CHÂU LONG

CHU TRẦM NGUYÊN MINH – TÂM CẢNH MÙA CHINH CHIẾN.

Đặng Châu Long

chu_tram_nguyen_minh-tran_dat

Viết tặng anh CHU TRẦM NGUYÊN MINH

Chiến tranh không chỉ là khói và lửa. Cái dai dẳng của chiến tranh chính là những dư chấn ngầm cùng những âm ba dai dẳng trong từng thân phận con người từng trải qua cơn cuồng nộ của cuộc chiến đó. Những người thuộc thế hệ giữa thế kỷ 20 trải nghiệm những nỗi niềm đau qua nhửng cuộc chiến bi hùng và trái tim họ chưa từng lành lại.

Phần đông độc giả chỉ quen với một Chu Trầm Nguyên Minh, thi sĩ của giòng thơ tình lãng mạn, điển hình là bài thơ nổi tiếng Lời Tình Buồn, được phổ nhạc bởi Nhạc Sĩ Vũ Thành An. Ít người biết đến những bài thơ nói về thân phận con người giữa cuộc chiến khốc liệt mà anh cũng là một nạn nhân Tiếp tục đọc