NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, “Ra đi và quên lãng”

nuocmattruocconmua

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, nguyên tác Anh Ngữ “Tears Before The Rain” là một tập sử liệu về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam, do Larry Engelmann, Giáo Sư Đại Học San Jose State thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn nhiều thành phần: người Mỹ, người Việt, kẻ thắng người bại …Những cuộc phỏng vấn này khởi sự từ 1985, sách xuất bản năm 1990. Bản dịch Việt Ngữ do nhà văn Nguyễn Bá Trạc thực hiện năm 1993, xuất bản năm 1995 tại California.

NGUYỄN SƠN “Ra đi và quên lãng”

Tôi nảy ý tưởng đi Mỹ từ năm mới mười hai tuổi. Ngay từ những năm chiến tranh, tôi đã tò mò muốn đi Mỹ. Nhiều người bạn của tôi cũng thế . Nhưng lúc ấy tôi hãy còn ít tuổi quá, làm sao đạt được mục đích. Trong thời chiến, các bạn tôi và tôi cũng đã bàn nhau về chuyện sang Mỹ, mong ngay cả đến chuyện bỏ miền Bắc vào Nam. Ở miền Bắc lúc nào cũng phải lo bom đạn, lúc nào cũng phải lo giữ cho mạng sống an toàn.

Lúc ấy chúng tôi còn trẻ, chẳng có kế hoạch, chẳng có phương hướng, cũng không rõ nếu khi vào Nam thì sẽ bị đối xử ra sao. Chúng tôi không biết nếu vượt tuyến vào Nam có bị kết án hay không. Chúng tôi không muốn bị bỏ tù trong Nam, chỉ vì đã vào từ miền Bắc. Nhưng tất nhiên trong lúc chiến tranh, việc ấy chẳng thể nào thực hiện được.

Tôi bị gọi nhập ngũ đánh Trung Quốc và Campuchia. Sau bảy tháng trong bộ đội, tôi đào ngũ trở về Hà Nội. Lúc ấy mẹ tôi bảo bây giờ tốt nhất tôi nên học lái tàu. Vì thế tôi theo học một khoá điều khiển tàu chạy sông ở miền Bắc. Khi theo học lớp này, các bạn tôi hỏi có phải tôi đang tính đi trốn không? Tôi bảo phải. Sau đấy chúng tôi chung nhau tiền mua một chiếc tàu.

Rồi vào khoảng từ 1979 đến 1980, chính phủ trục xuất người Việt gốc Hoa. Nghe trên đài, chúng tôi hiểu bây giờ Liên Hiệp Quốc đã chú ý đến vấn đề tỵ nạn rồi.

Tôi đi với em trai và em gái tôi. Sau khi bị chặn xét tại Cảng Hải Phòng, tôi lái tàu đi đường sông ra biển, cũng nhiều người khác nữa đi theo. Lúc ấy trên tàu có tất cả năm mươi người.

Như thế chúng tôi đã đưa tàu đi từ Hà Nội đến Hồng Kông. Quyết định của chúng tôi là ra đi và quên lãng, chúng tôi sẽ không bao giờ quay trở về Hà Nội nữa. Bằng hành động ra đi, chúng tôi đã bày tỏ thái độ từ chối cái xã hội mà chúng tôi đã sống, để làm lại cuộc đời của chính chúng tôi, tại một nơi nào khác. Chúng tôi cũng chấp nhận luôn cái sống lẫn cái chết. Nếu sống sót được thì cũng chẳng bao giờ quay về Hà Nội, vì quay về có nghiã là tù đày hoặc chỉ sống một cuộc đời u ám. Người ta sẽ không bao giờ quên, không bao giờ tha thứ việc chúng tôi trốn chạy.

Vì nghĩ chuyện đi biển vẫn chẳng nguy hiểm bằng chuyện xảy ra nếu không thoát, nên chúng tôi đều có tư tưởng hết sức tích cực. Chúng tôi nghĩ chúng tôi sẽ sống. Và rồi sẽ có thể xây dựng được một tương lai tốt đẹp hơn cho bản thân chúng tôi, cho con cái chúng tôi tại một đất nước tự do.

Khi đến Hồng Kông, chúng tôi được đối xử rất tử tế. Chúng tôi được phép lựa chọn quốc gia định cư mà chúng tôi mong muốn.

Nhiều người ở miền Bắc có cùng một cảm giác như tôi, đều muốn làm những chuyện như tôi thực hiện. Trong suốt những năm chiến tranh, chúng tôi đều đã chịu chung những điều kiện của cuộc sống kéo lê. Lúc ấy đi ngược dòng chắc chắn chỉ có chết. Cho nên tôi phải đợi đến khi cuộc chiến đã xong.

Nếu tôi ở lại Hà Nội, cuộc đời tôi hẳn sẽ khác cuộc đời bây giờ ở Mỹ. Thứ nhất, có lẽ tôi đã lấy vợ đẻ con. Bây giờ tôi vẫn một thân một mình. Thứ hai, chắc tóc tôi không đến nỗi bạc như bây giờ, vì ở đất Mỹ này tôi phải lo âu nhiều quá. Ở lại Việt Nam có lẽ cuộc đời tôi ổn định hơn.

Hiện nay tôi lo lắng quá. Tôi mất việc, thất nghiệp, phải ở nhờ bạn bè và em gái tôi. Đôi khi, tôi nghĩ có lẽ tôi nên trở về Việt Nam. Nhưng không. Không. Đùa thế thôi. Thỉnh thoảng chúng tôi lại đùa. Đúng ra, đêm hôm nghĩ ngợi, tôi vẫn thường cân nhắc chuyện này. Tôi vẫn luôn luôn có cùng một câu trả lời cho câu hỏi này: Rời khỏi nước ra đi, ấy là một quyết định đúng. Tôi luôn luôn tự nhủ, ngẫm cho cùng, tôi đã hành động đúng. Tôi không có gì phải tiếc cả, thật đấy.

Ở đây đầu óc tôi mở mang, tôi luôn luôn học hỏi. Tôi cảm thấy tôi phát triển về phương diện trí thức, tôi vui thích về điều này. Tôi được gặp gỡ trao đổi với đủ hạng người với những tư tưởng khác nhau. Ở đây không ai sợ hãi ghê gớm gì. Tôi cũng lấy làm vui thích về điều này.

Tôi đã làm một quyết định đúng khi bỏ nước ra đi, những gì tôi đã phải chọn là những gì tôi đã muốn. Đến đây thì sự lựa chọn ấy cũng xứng đáng.

Ngày đi khỏi Việt Nam, tôi đã ra đi với tư tưởng dứt khoát. Tôi muốn đi càng nhanh càng tốt.

Nhưng khi tàu vừa ra hải phận quốc tế, khi những cơn sóng mạnh vỗ mạn tàu thì chúng tôi đã bắt đầu thấy lòng bứt rứt không yên. Chỉ mới đi bảy, tám tiếng đồng hồ, đã thấy thôi thúc, muốn quay tàu về. Chúng tôi nhớ đất nước, nhớ cửa, nhớ nhà. Ý thức được những gì đã làm, chúng tôi bắt đầu bật khóc. Tất cả chúng tôi đều quay nhìn lại Việt Nam mà khóc.

Tôi ra đi chỉ một bộ quần áo trên người. Tôi biết cuộc đời rồi sẽ không dễ dàng, rồi sẽ đầy khó khăn trở ngại, phải đổi máu, mồ hôi, nước mắt lấy sự sống, nhưng chúng tôi vẫn muốn hướng tới mà đi. Và khi đã ra tới hải phận an toàn, lại muốn quay về. Chúng tôi ai cũng khóc.

Giờ đây không ngày nào, đêm nào trôi qua mà tôi không nhớ nghĩ về Việt Nam. Trong trí nhớ, tôi nhìn thấy người trong gia đình, các họ hàng thân thích, hàng xóm láng giềng, cha mẹ đẻ ra tôi. Tôi khắc khoải nhớ đến mọi thứ, từ cái cây đến những góc nhà. Đất nước Việt Nam ở trọn vẹn trong tôi, trong ý nghĩ tôi. Nhưng xin ông phải hiểu cho, tôi đã sống hai mươi lăm năm trong cuộc đời ở đất nước Việt Nam. Đấy là nơi tôi lớn lên, nơi chứa đựng biết bao ngọt bùi thời thơ ấu, đấy là nơi tôi trưởng thành. Tôi đã sống ở nơi ấy một phần tư thế kỷ, đã tràn ngập biết bao ký ức. Tôi không thể ném bỏ tất cả. Những ký ức và dĩ vãng ấy lúc nào cũng ở trong tôi.

Quay về với thực tế đất Mỹ này, tôi quả muốn được học hành. Nhưng trí óc nhớ nhung và đầy hình ảnh Việt Nam, tôi không học nổi, tôi không học thêm được nữa. Những điều thầy giảng chui vào tai này lọt sang tai kia. Tôi chỉ nhớ được đôi điều thông thường người ta cần biết để sinh sống ở đây, còn ngoại giả những điều khác, chẳng có gì lưu lại được vì trí óc tôi đầy ắp Việt Nam.

Ngày đầu tiên đến định cư tại Mỹ tôi đã quyết định phải hội nhập, phải thích nghi, phải chấp nhận cuộc sống này. Nhưng rồi cũng lại lan man nghĩ ngợi về Việt Nam. Mỗi ngày tám giờ làm việc thì chỉ nghĩ đến việc làm, nhưng sau giờ làm, lại nghĩ đến gia đình, đất nước. Xong bữa cơm, bật cái truyền hình lên xem thì không hiểu hết vì tôi không giỏi sinh ngữ lắm. Thế là mỗi đêm trí óc lại trôi giạt về Việt Nam. Cuối tuần, tụ họp với bạn bè, lại nói chuyện quê hương đất nước Việt Nam. Đề tài ấy lúc nào cũng quanh quẩn bên tôi. Nếu không có người Việt mà chỉ giao thiệp với Mỹ thì có lẽ cũng bớt cảm giác Việt Nam. Nhưng ở đây, chung quanh tôi rất đông người Việt. Chúng tôi lại nhớ. Nỗi nhớ nằm trong xương tủy chúng tôi.

Tôi nghĩ ngay cả một ngày kia khi các lãnh tụ già ở Việt Nam đã chết, người trẻ có nắm quyền thì họ cũng đã quen đường lối thế hệ già, cũng lại rập cùng một khuôn mẫu. Tôi không thấy tương lai hạnh phúc nào cho đất nước Việt Nam, có lẽ ít nhất cũng phải đến sau năm 2000.

Ngày nay người ta vẫn không giác ngộ. Có một số du học sinh sang các nước Đông Âu, nhưng khi trở về họ cũng không làm gì được vì đất nước nghèo đói, ít người học thức, người ta không được phép thực sự chứng kiến những gì xảy ra trên thế giới. Trong chiều hướng này, người ta chẳng có thể mong đợi gì việc cải thiện mức sống cả.

Muốn đất nước tiến bộ, giới lãnh đạo phải thay đổi cách thức làm việc. Họ phải làm theo nhu cầu của dân, làm theo ước nguyện của dân. Nếu dân muốn làm việc 8 giờ một ngày, thì họ phải để cho dân làm việc 8 giờ một ngày. Nếu dân không muốn tệ nạn tham nhũng hối lộ, họ phải giải quyết tệ nạn tham nhũng hối lộ. Muốn cải thiện đất nước, lãnh đạo phải đi sát với nhân dân, tìm hiểu nhân dân. Hiện nay họ không làm như thế. Lãnh đạo ra chỉ thị bắt buộc nhân dân làm những gì họ muốn. Còn nhân dân cứ hành động những gì họ đòi. Dân thì nghèo khó, khổ sở. Con người phải làm việc vất vả, mà càng làm vất vả thì cuộc đời càng thấy khốn khổ thêm.

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, “Chúng ta thắng trận phải không? Xin làm ơn nói thật”

nuocmattruocconmua

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, nguyên tác Anh Ngữ “Tears Before The Rain” là một tập sử liệu về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam, do Larry Engelmann, Giáo Sư Đại Học San Jose State thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn nhiều thành phần: người Mỹ, người Việt, kẻ thắng người bại …Những cuộc phỏng vấn này khởi sự từ 1985, sách xuất bản năm 1990. Bản dịch Việt Ngữ do nhà văn Nguyễn Bá Trạc thực hiện năm 1993, xuất bản năm 1995 tại California.

DENNIS CHAMBERS
(Phi công Tù bỉnh)
“Chúng ta thắng trận phải không? Xin làm ơn nói thật”

Tháng Tám năm 1967 trong lần thực hiện phi vụ thứ một trăm lẻ một, tôi đã bị bắn hạ tại Đồng Hới, ngay phía Bắc vùng phi quân sự. Tôi là phi công phụ của chiếc máy bay F-4C. Phi công chính và tôi thoát chết, nhưng sau đó đã bị giam suốt năm năm rưỡi tại nhà tù Cộng sản, Hỏa Lò, nơi người ta vẫn gọi là “Khách sạn Hilton Hà Nội.”

Trước khi xảy ra vụ này, trong tôi đã tan vỡ nhiều ảo tưởng về cuộc chiến. Vì sao? Mục đích cuộc chiến tuyệt đối đúng, nhưng phương thức chúng ta chiến đấu, cách chúng ta muốn đạt đến mục đích thật hết sức sai lầm.

Tôi đóng ở Cam Ranh. Tôi đến đấy vào tháng 3 năm 1967. Ngay sau phi vụ đầu tiên, tôi đã phải viết thư cho dân biểu của tôi mà hỏi: “Chúng ta đang làm gì ở đây?” Chúng ta đang làm một lỗi lầm lớn, ai cũng có thể thấy rõ như vậy!

Ngay lúc mới đến Cam Ranh, người ta đã căn dặn chúng tôi đừng ai ra phố. Không được vượt qua cây cầu vào thị xã. Lý do, họ bảo là vì dân chúng bất thân thiện. Lạy chúa, bất thân thiện! Ngay tại Cam Ranh này mà dân chúng không đối xử thân thiện với chúng tôi. Họ là bạn, họ là đồng minh kia mà? Vậy nếu họ không thân thiện với chúng tôi thì việc gì đang xảy ra ở đây. Hoàn cảnh này là hoàn cảnh nào?

Về việc dội bom: chúng tôi đã dội bom dã man lên tất cả mọi thứ. Không bao giờ lại phí bom thả xuống biển. Sau mỗi phi vụ khi bay về, nếu còn dư bom, chúng tôi luôn luôn cố kiếm ra một cái gì mà dộng xuống. Bọn phi công sẽ kiếm một thứ gì, bất cứ cái gì để dội lên với số bom còn lại. Tôi cũng đã nghe kể nhiều chuyện về lính bộ binh thường nhả đạn giết dân bừa bãi chỉ vì lý do không ưa cái bộ dạng của người ta! Không ưa cách người ta nhìn, họ bóp cò. Tình trạng có vẻ thực vô kiểm soát. Bấy giờ là năm 1967. Sau này tình trạng lại còn tệ hại hơn. Sĩ quan không kiểm soát nổi lính tráng. Chúng ta có rất đông quân, mà chúng ta lại không hề bao giờ chính thức tuyên bố chiến tranh. Chúng tôi cứ bay, cứ dộng bom, và nếu tôi hỏi “Chúng ta đi đâu, chúng ta làm gì đây” thì câu trả lời luôn luôn vẫn là “không biết!”

Ấy thế rồi họ trói tay chúng tôi lại. Họ bảo chúng tôi là có một số việc chúng tôi không được phép làm. Ví dụ nếu tìm ra được các chiến đấu cơ MIG, chúng tôi phải làm các thủ tục nhận diện cho chắc chắn là MIG, rồi mới được phép bắn. Trong tình trạng ấy quý ông có biết cơ may sống sót của chúng tôi mỏng manh đến đâu? Một chiếc MIG có khả năng làm lắm chuyện hơn cả mấy chiếc F-4C, F-105, hoặc là F-111. Với những chiếc máy bay nguy hiểm như thế mà chúng tôi lại còn phải cố nhận diện đã, thì sinh mạng của chúng tôi chịu biết bao may rủi? Rồi chúng tôi lại bị cấm không được phép bắn những chiếc tàu dài hơn 50 bộ Anh, hoặc ngắn hơn 20 bộ Anh. Như vậy tất nhiên Việt Cộng cứ cho chở hết mọi thứ trong những chiếc tàu nhỏ là tha hồ an toàn xuôi ngược trên sông! Tôi cảm thấy thực cay đắng với tất cả những chuyện như thế.

Ngoài ra ở đấy người ta đã lừa bịp dối trá như điên. Con số máy bay được đếm là chỉ bằng nửa con số chúng tôi báo cáo. Số máy bay chúng ta mất xảy ra rất đều đặn: Chỉ trong năm tháng tôi ở đấy, chiếc máy bay của tôi đã là chiếc thứ 13 tại Cam Ranh bị mất. Và người ta chỉ ghi vào thống kê những chiếc máy bay mất nếu có người nào nhìn thấy tận mắt. Không nhìn thấy máy bay bị hạ kể như không mất. Thật là khùng!

Trong Hỏa Lò Hà Nội, các tù binh Mỹ còn sống sót được nhờ những lý do khác nhau. Tinh thần bác ái và tinh thần Thiên Chúa giáo đã giúp một số người sống còn. Riêng tôi, chính hận thù giúp tôi sống còn! Tôi hận thù Lyndon Johnson. Tôi hận thù Richard Nixon. Tôi hận thù chiến tranh. Tôi hận thù người Việt miền Bắc. Tôi hun đúc tất cả những hận thù ấy để sống còn.

Những hận thù ấy cũng tạo nên cho tôi một tinh thần hoài nghi sâu đậm. Khi được thả vào năm 1973, họ đưa chúng tôi vào chiếc máy bay C-141 từ Hà Nội đến Phi Luật Tân, lúc ấy tôi không còn một niềm tin vào bất cứ gì nữa. Đặc biệt tôi đã không tin được một lời nói nào của Cộng sản. Tôi cứ nghĩ chúng sẽ không bao giờ thả chúng tôi ra. Cho nên khi máy bay rời Hà Nội, tôi chắc mẩm là chúng sẽ bắn hạ chiếc máy bay này. Tôi đinh ninh chờ đợi một chuyện xảy ra: Có lẽ chúng đã đặt bom. Có lẽ một chiếc chiến đấu cơ MIG, hay một hỏa tiễn SAM sẽ phóng theo. Tôi tự bảo: “Không thể tin được! Chuyện này không thể xảy ra được! Đấy là mơ chứ không thể là thực.”

Thế rồi khi máy bay rời Hà Nội, một nhóm bác sĩ, y tá và những người trợ tá đến săn sóc chúng tôi. Tất cả chúng tôi đều nắm lấy họ mà cùng hỏi một câu: “Chúng ta thắng trận phải không? Xin làm ơn nói thật.” Và một sĩ quan Mỹ trên máy bay bảo: “Chắc chán là thế. Trên căn bản chúng ta đã thắng. Địch đã bại – Nhờ máy bay B-52, chúng ta đã thắng!” Khi nghe như thế, chúng tôi ngây ngất. Những năm tháng tù đầy của chúng tôi nhờ vậy mà xứng đáng. Không còn chữ nào ngọt ngào hơn mấy chữ “Chúng ta đã kết thúc xong.” Họ nói với chúng tôi như thế.

Rồi khi về nhà chúng tôi khám phá ra cuộc chiến chưa kết thúc. Chúng ta chưa thắng. Chúng tôi lại bị dối trá. Người ta không cho biết sự thật.

Khi Sàigòn sụp đổ, tôi đang sống tại căn nhà ở vùng núi Santa Cruz tại tiểu bang California. Tôi không coi truyền hình nhưng mỗi ngày đều đọc báo và nghe tin trên máy phát thanh. Khi đọc và nghe những chuyện xảy ra bên ấy, tôi có thái độ bi thảm của cái kiểu như là: “Đó, tôi đã bảo mà, thấy chưa.”

Tất cả những gì xảy ra thực sự chỉ là kết quả của hàng chuỗi lỗi lầm nghiêm trọng mà chúng ta đã tạo nên sau nhiều năm tháng.
Vào cuối tháng Tư, khi bắt đầu nghe tin về cuộc tỵ nạn và những con người đáng thương bên ấy đang cố ra khỏi xứ, tôi cảm thấy muốn phát bịnh. Bao nhiêu người đã từng làm việc cho chúng ta ở bên ấy giờ đây bị đối xử cạn tầu ráo máng. Chúng ta bỏ lại rất nhiều người. Lời hứa của Mỹ chẳng còn một giá trị gì. Bây giờ, ở Á Châu, lời hứa của người Mỹ không còn đáng một cục cứt!

Những gì đáng lẽ chúng ta phải thực hiện, đó là phải bảo đảm an ninh cho bạn hữu của chúng ta. Nhưng chính dư luận công chúng đã chống lại Việt Nam. Chính khách đã chống lại Việt Nam. Mỉa mai quá! Nếu trước đó họ chống vấn đề Việt Nam sớm hơn, thì mọi việc chẳng xảy ra như vậy. Tôi quy trách nhiệm cho toàn thể nước Mỹ về việc bỏ rơi những bạn hữu của chúng ta ở lại Việt Nam. Không một ai đứng dậy mà phản đối việc chúng ta bỏ rơi bạn, những người đã cật lực làm việc cho chúng ta. Bây giờ chúng ta thản nhiên bỏ rơi họ.

Những gì đáng lẽ chúng ta phải làm, thực giản dị. Đáng lẽ chúng ta phải thiết lập một khu vực “Không người” và bảo bọn Cộng sản rằng: “Nếu các anh vượt ranh giới này, chúng tôi giết.” Chúng sẽ hiểu điều ấy. Như thế, chúng ta sẽ mang tất cả những người bạn ra. Và chúng ta đáng lẽ phải nói: “Nga Sô, tránh ra! Trung Cộng tránh ra! Chúng tôi sẽ rời khỏi xứ trong 6 tháng – Nếu Bắc Việt can thiệp, chúng tôi sẽ xoá Hà Nội khỏi bản đồ tức khắc!”

Đáng lẽ chúng ta phải thiết lập tình trạng khẩn cấp, tuyên bố rõ rệt những gì sẽ thực hiện, yêu cầu quan sát viên Nga Sô và Trung Quốc đến để chứng tỏ chúng ta sẽ không quay trở lại. Chúng ta sẽ ra đi, và chúng ta sẽ mang theo các bạn hữu của chúng ta. Chúng ta cần mở những trại định cư tại Mỹ với các tiện nghi tạm cư cho các bạn của chúng ta. Vào thời đệ nhị thế chiến khi xảy ra vụ Nhật-Mỹ, họ dựng trại nhanh lắm. Thế thì chắc chắn họ cũng có thể dựng trại tạm cư rất nhanh cho các bạn của chúng ta vào năm 1975. Nhưng chúng ta đã không làm như vậy. Không ai còn có can đảm quyết định. Không ai muốn chấp nhận trách nhiệm.
Chúng ta đã chờ đợi quá lâu. Đáng lẽ chúng ta không nên để kết cuộc phải xảy ra trên cái nóc nhà khốn nạn của toà Đại sứ Mỹ ở Sàigòn. Đáng lẽ chúng ta có thể chấm dứt tình trạng rối loạn với một vài lời đoan quyết. Nhưng không ai đã nói một lời nào. Và bọn Cộng sản khốn kiếp cười vào mặt chúng ta. Chúng ta đã bị một bọn lùn xủn bu lấy đá vào mắt cá chân. Hy vọng là chúng ta có thể học được đôi điều trong chuyện này.

Tôi đã mất cái khả năng yêu thương tại Việt Nam. Tôi không còn yêu thương, tôi cũng không còn sát sinh được. Tôi không săn bắn, tôi không câu cá, mà tôi cũng không còn sức yêu thương. Khi trở về, họ gọi tôi là anh hùng. Không, tôi không phải là anh hùng. Tôi đâu có tự ý tình nguyện xin ngồi tù cho đến năm năm rưỡi? Tôi chỉ tình nguyện chiến đấu cho xứ sở. Tôi chỉ tình nguyện chiến đấu cho tự do. Tôi đã tình nguyện lái một chiếc máy bay.

Khi mọi sự tan vỡ vào năm 1975, tôi cảm thấy thời gian phục vụ của tôi ở Việt Nam thực là uổng phí. Ngày nay tôi chẳng nằm mộng hay thấy ác mộng gì về chuyện ấy. Tôi không nghĩ gì về Việt Nam nữa. Không, tôi hoàn toàn không nghĩ gì về những chuyện ấy nữa. Mọi phương tiện đối với người Mỹ này đều đã được tận dụng, kể cả việc làm giấy tờ giả mạo.

THỜI GIAN KHÔNG TRÔI ĐI…

lephuhai

Khi tôi lớn lên dì Hạnh vẫn còn trẻ lắm. Vết chân chim lờ mờ hai bên khóe mắt vẫn không làm xấu đi khuôn mặt tươi trẻ của dì. Dì sống tại khu phố cũ với đứa con trai bị lùng khùng từ nhỏ. Nhà của dì nằm lọt thỏm giữa một vườn cây đủ loại, từ các loại cây ăn trái như mít, xoài, ổi cho đến các thứ cây cảnh được trồng không theo một thứ tự nào. Và dường như tất cả được phủ lên bằng một lớp rêu xanh cũ kỹ cho phù hợp với mái ngói âm dương đang trân mình cố chịu dãi dầu với dòng thời gian không ngừng đi qua trước ngõ…
Nhà dì ở khá gần sông nhưng không khi nào dì đi ra bờ sông mặc dù mùa hè ở đây rất mát và cảnh trí không ngừng được công ty cây xanh tu tạo ngày càng thêm đẹp đẽ. Dì chỉ quanh quẩn với khu vườn, căn nhà và cái quán may nhỏ bé của mình nằm bên cạnh cổng. Hồi nhỏ tôi rất thích cái quán may của dì vì lúc nào nơi đây cũng tíu tít tiếng cười đùa của những cô gái học việc. Họ thường là những người ở quê ra với nguyên xi những chân chất thơ ngây, thậm chí thô vụng của mình. Và vì vậy dì tôi rất thương yêu họ.. Nhưng điều hấp dẫn tôi lúc đó ngoài tiếng máy may kêu xành xạch là mấy thẩu bánh kẹo to đùng và đủ loại mứt hoa quả do dì chế biến từ các nhóm cây trái trong vườn… Tôi thường đạp xe qua nhà dì, làm bộ lăng xăng lít xít để được dì cho ăn, nhưng ngại nhất là sợ bị phải trông coi thằng Tuấn – con dì. Nó thường hay lang thang đâu đó rồi đi lạc khiến mọi người phải cuống cuồng tìm kiếm. Những lúc ấy dì tôi trông lo lắng đến tội nghiệp… Lên khoảng sáu bảy tuổi thì thằng Tuấn bị bệnh rồi mất. Dì ở lại một mình trong căn nhà hai gian rộng và hoang vắng. Tôi lại càng hay qua lại với dì nhiều hơn, để dì đở buồn, má tôi vẫn thường nói như vậy.

Lớn hơn một chút tôi mới biết thêm về cuộc đời dì qua lời kể của má và bà ngoại. Hóa ra ngày xưa dì cũng là cô giáo. Dì tốt nghiệp Đại học cộng đồng duyên hải Nha Trang từ trước bảy lăm và về đây dạy học. Năm bảy ba dì lấy chú Khoa là bạn học cũ thời trung học. Năm ấy chú Khoa vừa tốt nghiệp trường Quốc gia hành chánh ở Đà Lạt và đi làm việc tại Phú Bổn. Dì Hạnh vừa mang bầu thì xảy ra biến cố bảy lăm, bắt đầu từ Tây nguyên. Chú Khoa mất tích trong đoàn người di tản tán loạn lúc đó. Tại thị xã dì Hạnh cũng bị cuốn đi trong cơn lũ tháo chạy. Dì bị chìm ghe trong lúc vượt qua sông. Rồi cũng chẳng biết nhờ đâu dì được cứu thoát và khi tỉnh dậy trên bờ cát, tiếng súng vẫn còn nổ ì ầm trong đêm. Dì thất thểu quay về nhà ngoại. Còn chú Khoa vẫn bặt vô âm tín.
Mãi tới khi mọi việc xong xuôi, chính quyền mới được thành lập, rồi được triệu tập đi dạy trở lại, dì vẫn cứ mãi ngóng trông vì nghĩ rằng chắc chú Khoa chỉ bị thất lạc đâu đó. Sau này có người nói đã thấy chú bị đạn chết trên đường dì cũng vẫn không tin, vẫn bình thản chờ đợi như thể chú vẫn còn đi làm xa đâu đó chưa về. Sau đó dì sinh thằng Tuấn. Không hiểu do bẩm sinh hay vì ảnh hưởng của đạn bom mà từ lúc sinh ra nó đã bị ngớ ngẩn. Dì Hạnh xin nghỉ việc ở nhà chăm sóc con từ đó… Điều đặc biệt là dì không hề tỏ ra khắc khổ hay ưu phiền quá độ. Dì vẫn cười nói, vẫn vô tư và vui vẻ. Chỉ có điều khái niệm thời gian của dì hình như dừng lại, và đối với dì như vậy là đủ. Mẹ tôi nói dì vô tâm vô tính. Nhưng tôi nghĩ khác, phải là một người hết sức yêu quí cuộc đời dì mới vượt qua được những khó khăn chồng chất, kể cả về tinh thần. Một vài người đàn ông đến với dì rồi lặng lẽ ra đi như thể không cách nào hòa nhập được vào cái thế giới nhỏ nhoi nhưng đầy ắp hoài niệm của dì. Chỉ có tôi, đứa cháu gái tong teo của dì là lần mò theo từng vùng ký ức của dì qua những lần trò chuyện bâng quơ cũng như có chủ đề…

Những ngày còn nhỏ tôi thường hay qua nhà ngủ với dì trong những đêm mưa lũ. Thích nhất là nằm nghe tiếng nước chảy ào ào ngoài sông, tiếng rả rích mưa rơi trên mái ngói và tiếng dì kể chuyện rì rầm. Dì hay kể cho tôi nghe về những chuyện tinh nghịch ngày xưa khi còn bé sống với các chị và ông bà ngoại, về những ngày tháng khi còn đi học, về những bạn bè của dì có những cái tên nghe lạ hoắc lạ huơ như trong một miền cổ tích nào xa lơ xa lắc… cho đến khi tôi chìm vào giấc ngủ êm đềm. Thường trong những lúc đêm khuya, tôi hay lén sờ vào vú dì, có khi ôm lấy bai bầu vú đầy đặn rắn chắc của dì, có khi lấy ngón tay nghịch lăn tăn cái đầu vú nhỏ như đầu mút đũa. Những lúc ấy dì thường đẩy tay tôi ra và nói: “Con bé này hư quá!” rồi ôm riết tôi vào lòng như muốn chuyền trọn vẹn cái ấm êm của thân thể lẫn tình cảm bị dồn nén của mình cho tôi. Những lúc như vậy tôi cảm thấy thật là hạnh phúc.
Rồi đến những ngày bước vào cấp ba, tôi được phép qua ở với dì Hạnh luôn để dì chăm lo và kềm kẹp việc học hành. Trong những ngày này, mùa nắng cũng như mùa mưa, dì Hạnh thường hay gọi tôi dậy vào lúc sáng sớm để đi lễ nhà thờ. Tôi không biết dì thật lòng tin vào Chúa hay đó là cái tính cách được hình thành từ những thói quen được lập đi lập lại nhiều lần. Tôi cũng theo dì và có được thói quen đó. Có lần tôi hỏi, dì có cầu nguyện không, dì trả lời có. Dì có xin được lấy chồng khác không, dì cốc đầu tôi nói cái con này, tào lao ghê!…
Ngoại tôi chỉ có ba người con. Má tôi, đến dì Đức và cuối cùng là dì Hạnh. Má tôi cũng có ba người con: chị hai, chị ba và tôi. Má tôi thường nói mày giống dì Hạnh y hệt, vô tâm và… lạc hậu. Tôi hỏi dì, tại sao má chê dì lạc hậu, dì nói bởi vì dì không “à la mốt”. Mà đúng thật như vậy, trong tủ áo của dì toàn là những trang phục được may từ những năm bảy mươi mấy. Hơn mười cái áo dài bông cổ thấp, không chít eo và ngắn củn cởn không còn hợp thời dì Hạnh vẫn vui vẻ mặc như thường. Tôi hỏi dì sao không may áo khác đúng mốt hơn, dì nói không cần, dì quen mặc như vậy từ thời đi dạy học. Tôi nói như vậy là quê lắm, dì chỉ cười nói chưa chắc ai quê hơn ai.
Tôi thường hay kể với dì về những buồn vui bắt gặp và những điều xảy ra ở trường, ở lớp. Có lần tôi suýt thất tình vì anh chàng lớp trưởng, buổi sáng nằm khóc vùi, dì kéo tung mền gối dựng tôi dậy và nói: “Sáng hôm nay cháu của dì buồn như một con chó ốm/ Như con mèo ngái ngủ trên tay anh/ Đôi mắt cá ươn như sắp sửa se mình/ Để anh giận sao chả là nước biển…” Tôi la lên dì nói tầm bậy gì vậy? Sao tầm bậy, thơ tình đó cháu ơi. Tôi thút thít: Con buồn muốn chết đây mà dì còn nói con là chó, là mèo, là cá ươn… Ai biểu cháu thất tình làm gì. Thôi ngồi dậy rửa mặt dì cho cái này ăn ngon lắm…
Dì Hạnh cũng thường hay nói chuyện văn chương cho tôi nghe. Dì nói Chinh phụ ngâm hay hơn truyện Kiều. Tôi cãi: Ai cũng công nhận truyện Kiều là đệ nhất tác phẩm của Việt Nam. Dì nói: Truyện Kiều cũng hay nhưng buồn quá. Cái buồn của Chinh phụ ngâm dễ chịu hơn, ngôn ngữ mang nhiều hình ảnh và màu sắc hơn. Rồi dì đọc: Ngòi đầu cầu nước trong như lọc/ Đường bên cầu cỏ mọc còn non/ Đưa chàng lòng dặc dặc buồn/ Bộ khôn bằng ngựa thủy khôn bằng thuyền… Tôi chê: Tối nghĩa quá, dì lại đọc sai nữa: “ngoài đầu cầu” chớ sao lại “ngòi đầu cầu”? Rồi cái gì lại “dặc dặc”, phải là “dằng dặc” mới đúng. Còn “khôn” bằng ngựa “khôn” bằng thuyền là làm sao? Quá khó hiểu! Dì Hạnh cười: Đây là cổ văn nên cháu không hiểu. Ví dụ như “khôn” có nghĩa là “đi” đó cháu ơi. Cháu chả biết gì hết. Phải hiểu nghĩa của từ mới thấy được cái hay của câu, của đoạn. Mà thôi, dì đọc cho cháu nghe bốn câu này: Thuở đăng đồ mai chưa dạn gió/ Hỏi ngày về chỉ độ đào bông/ Nay đào đã quyến gió đông/ Phù dung lại nở bên sông bơ thờ… Đó, cháu thấy hình ảnh có đẹp không? Hay cũng không hiểu nữa hả con… khỉ đột…

Còn nhớ năm đầu tiên ra trường đi dạy học ở một vùng xa tôi đã yêu một người. Mối tình đầu đối với tôi thật đậm sâu và trọn vẹn. Lòng yêu của tôi mạnh mẽ đến độ tôi đã một lần dạn dĩ trao thân cho anh ta mà không hề hối hận. Chỉ đến lúc bị nói lời từ biệt tôi mới thật sự hoảng loạn. Tôi đã chạy ngay về nhào vào đôi tay dì Hạnh khóc như mưa. Dì âu yếm ôm tôi vào lòng để nghe tôi kể cho dì tất cả nỗi niềm. Lặng đi một chút, dì hỏi: Cháu có thật lòng yêu người ấy không? Tôi trả lời có trong tiếng thổn thức. Không sao đâu, cháu của dì đừng buồn – dì áp đầu tôi vào ngực nói nhỏ nhẹ – miễn là cháu có yêu. Bà Nguyễn Thị Hoàng có nói “Cho không phí, chỉ có nhận mà không biết dùng mới phí”, nên người mất chính là anh ta chứ không phải là cháu. Cháu xinh đẹp và tốt bụng như vậy nhất định rồi sẽ hạnh phúc. Tôi không biết bà Nguyễn Thị Hoàng là ai nhưng quả thật những lời an ủi của dì đã mau chóng giúp tôi tìm lại được niềm vui tưởng chừng như không bao giờ trở lại.

Ngày tôi lấy chồng dì Hạnh vui mừng tíu tít. Dì lo lắng cho tôi từ chiếc khăn tay cho đến cái nịt ngực. Tôi đùa: Con lấy chồng chớ dì có lấy chồng đâu mà vui quá vậy? Dì nói, dì vui vì thấy lại hình ảnh của mình nhiều năm về trước. Trước buổi tiễn dâu, dì lén vào phòng đưa tôi một chiếc hộp vuông nhỏ. Dì nói: Dì nghèo quá không có gì cho cháu, tặng cháu cái này. Tôi mở ra. Trong hộp là chiếc nhẫn mặt ngọc bằng vàng tây đã cũ. Trên mặt đá có khắc hai chữ H và K lồng vào nhau theo kiểu cổ điển. Tôi không nhận, nói đây là vật kỷ niệm của vợ chồng dì. Dì không chịu, nói, thôi thì cứ coi như cháu giữ dùm cho dì vậy. Mắt tôi bất chợt cay cay. Dì vuốt má tôi: Đừng khóc, lấy chồng thì phải vui lên chứ. Tôi chỉ biết nghẹn ngào vì thương dì quá đỗi…
Cuộc sống gia đình tôi cũng rất bình thường. Chồng tôi là một người đàn ông tốt. Anh ấy cũng dạy học như tôi. Ngoài những giờ trên lớp anh ấy chỉ ở nhà chăm sóc tôi, con gái và nhà cửa. Không thể nói rằng tôi không hạnh phúc. Nhưng đó hình như là một thứ hạnh phúc hơi buồn. Tôi cũng chả nhớ gì về mối tình đầu của một thời dại dột. Có vẻ như thế hệ của chúng tôi bình yên quá. Mà cũng có thể bởi cuộc đời chẳng có một biến cố hay thay đổi kinh khủng nào nên những tháng ngày của tôi chỉ là những tháng ngày nhàn nhạt. Chỉ những lúc đến với dì Hạnh, hòa nhập vào cái thế giới nhỏ bé riêng tư của dì tôi mới thấy lòng mình như lắng lại, như mơ hồ có một khoảng không gian và thời gian không thật chập chờn đâu đó…

Bây giờ dì tôi không còn nữa. Dì mất vì bệnh ung thư lúc vừa bước sang tuổi năm mươi. Dì ra đi cũng bình yên và tĩnh tại. Căn nhà được khóa lại và vườn cây lá rụng um tùm. Chỉ có tôi những lúc nhớ dì lại chạy về quét dọn và đốt lên vài ngọn nến nhỏ trên bàn thờ. Thường những lúc ấy tôi tôi hay nằm trên chiếc võng treo ở nhà sau khe khẽ đong đưa mà nhớ thương dì đến chảy nước mắt. Bà ngoại và má tôi đòi bán căn nhà đi nhưng tôi nhất quyết không cho. Bởi lẽ ngoài dì ra chỉ có tôi là người duy nhất biết được rằng ngay tại căn nhà và khu vườn này thời gian không trôi đi. Nó cứ chậm rãi lượn lờ rồi quẩn quanh đâu đó. Một lát nữa thôi, bước ra ngoài đường kia sẽ là phố xá với nhịp sống hối hả. Còn trong ngôi nhà này, đã có dì, và chắc sau này sẽ là tôi với những hoài niệm về một thời đã qua ngọt ngào và cay đắng…

Lê Phú Hải

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, “Bố tôi”

nuocmattruocconmua

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, nguyên tác Anh Ngữ “Tears Before The Rain” là một tập sử liệu về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam, do Larry Engelmann, Giáo Sư Đại Học San Jose State thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn nhiều thành phần: người Mỹ, người Việt, kẻ thắng người bại …Những cuộc phỏng vấn này khởi sự từ 1985, sách xuất bản năm 1990. Bản dịch Việt Ngữ do nhà văn Nguyễn Bá Trạc thực hiện năm 1993, xuất bản năm 1995 tại California.

DƯƠNG QUANG SƠN
“Bố tôi”

Một hôm vào năm 1979, tôi ở nhà xem truyền hình. Tôi xem chương trình “Sáu Mươi Phút” vì đang có một phim về các thuyền nhân từ Việt nam đổ đến Mã Lai. Thông tín viên Ed Bradley đang phỏng vấn một vài người. Họ bảo họ đi từ Việt Nam sang bằng tàu, nhưng chính phủ Mã Lai không chịu cho vào bờ. Tàu đắm, rất nhiều người chết đuối. Tất cả những người sống sót đang khóc.

Tôi nhận ra một người lúc Ed Bradley phỏng vấn. Chính là người bạn thân nhất của anh tôi ở Việt Nam, tên Đặng Hồng Phước. Vì thế tức khắc tôi điện thoại cho anh tôi, tôi hỏi: “Anh có xem chương trình Sáu Mươi Phút đấy không?” Anh tôi nói: “Có, có thấy Đặng Hồng Phước không?” Tôi đáp: “Có”. Thế là chúng tôi quyết định tìm mọi cách cố liên lạc với Phước và bảo trợ Phước sang Mỹ. Chúng tôi viết thư cho Hội Hồng Thập Tự để liên lạc.

Sau khi liên lạc được, anh ấy viết thư cho chúng tôi. Anh ấy bảo trong số những người chết đuối có bố tôi. Anh ấy bảo bố tôi đã trả tiền cho chủ tàu để ra khỏi Việt Nam. Nhưng tàu đắm ngoài khơi Mã Lai, cha tôi chết mất tích.

Tự do là tất cả những gì bố tôi luôn luôn mong muốn. Bố tôi chỉ muốn được làm một con người tự do. Thế thôi. Bố tôi đã gửi anh tôi và tôi sang Mỹ để chúng tôi được tự do. Và bố tôi cũng cố chạy thoát Cộng sản. Nhưng đối với bố tôi, đã quá muộn. Quá muộn rồi.

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, “Ông ấy là Tướng, ông ấy ở lại…”

nuocmattruocconmua
HUỆ THU
(Dạy học)
“Ông ấy là Tướng, ông ấy ở lại…”

Năm 1975 tôi sống ở Saigon, dạy Anh văn. Có một số học trò đến học tại nhà. Rất nhiều người đã đến tận nhà học tiếng Anh, tiếng Pháp.

Tôi không phải là con người chính trị nên tôi rất ngạc nhiên trước các biến cố 1975. Ngày 25 tháng Tư, có một người bạn Mỹ tên Jim Bradley bảo tôi phải ra khỏi Saigon cho nhanh, chúng tôi sắp thua đến nơi. Nhưng tôi không tin.

Đến khi chứng kiến việc người ta bắt đầu di tản cô nhi và trẻ con, tôi vẫn muốn ở lại. Cách suy nghĩ của tôi bấy giờ là: Dẫu Cộng sản có đến chăng nữa, chúng tôi vẫn còn nhà cửa và ít tiền bạc trong gia đình. Cha mẹ tôi đã mất, nhưng tôi còn có cái khách sạn với một tiệm ăn ở Đà Lạt, hai căn nhà ở Saigon. Tôi nghĩ mình có khá nhiều tiền trong ngân hàng, nhưng tiền mặt thì không. Làm sao đi với hai bàn tay trắng? Cho nên cứ ở lại đợi xem.

Tôi sẽ cố thu xếp ít tiền, rồi có lẽ dăm ba tháng sau khi họ vào, nếu không thích thì đi.

Rồi tôi nhớ đã nghe tướng Kỳ tuyên bố trên Đài phát thanh. Ông ấy bảo: “Tôi sẽ ở lại chiến đấu cho đến giọt máu cuối cùng”. Tôi nói với các bạn tôi rằng: “Ông ấy là tướng mà ông ấy còn ở lại, tại sao mình phải chạy”. Các bạn tôi cũng bảo: “Ừ, tại sao phải chạy…” Ở lại mà đánh. Chúng tôi đều ở lại. Tôi nói: “Tôi là đàn bà, tôi chả sợ Cộng sản cộng siếc gì cả. Cứ ở lại xem họ làm trò gì với tôi”.

Tôi đã nghe theo đài phát thanh. Thế rồi, tôi lại nghe họ bảo ông Tổng thống Thiệu, ông Thiếu tướng Kỳ, ông nào ông nấy co cẳng chạy hết rồi. Tôi nói: “Trời đất quỷ thần, mới đêm qua vừa nghe Thiếu tướng Kỳ nói trên Đài phát thanh là ông ấy sẽ ở lại chiến đấu cho đến giọt máu cuối cùng… Làm sao tôi lại đi tin những người như vậy hở Trời?”. Ngày 30 nghe thua, rồi tất cả tan vỡ hết. Tôi hết sức kinh ngạc. Lúc ấy tôi đang ở trường Đại học Vạn Hạnh, chỗ cầu Trương Minh Giảng. Chúng tôi ngồi đấy thấy bộ đội Cộng sản tiến vào. Trước đó, ở đấy có lính nhảy dù. Vài người chỉa súng lên trời bắn cho đến khi hết đạn rồi ôm mặt khóc. Tôi cũng thấy lính nhảy dù cởi áo, cởi giầy, cởi quần, ném hết vũ khí, chỉ mặc đồ lót mà đi. Khi chứng kiến cảnh này, tôi cũng khóc.

Khi bộ đội Cộng sản tiến vào, chúng tôi mới nhìn thấy rõ bộ dạng họ. Ông có biết tại sao người ta sợ Cộng sản không? Để tôi giảng cho ông hiểu. Bởi vì chúng giống hệt như mấy con khỉ! Tôi tự bảo: “Trời đất quỷ thần, chả hiểu tại sao chúng ta lại thua mấy của khỉ như thế!”.

Nhưng có một việc tôi hiểu. Việt Nam có câu tục ngữ: “Như rắn mất đầu”. Rắn mất đầu là rắn chết. Mấy cái đầu của tất cả binh sĩ đã chạy sạch rồi, cái đuôi phải thua thôi. Nhưng để tôi nói cho ông hiểu chuyện này: Mặc dầu chúng tôi thua ở Việt Nam thật đấy, nhưng tôi vẫn tự hào. Vì nhìn thấy bộ đội Cộng sản, tôi chả sợ gì. Không, tôi chả sợ gì sất cả!

Cho đến bây giờ tôi vẫn không thích cái kiểu các ông Kỳ, ông Cao Văn Viên, ông Thiệu vắt giò lên cổ mà chạy như thế. Đáng lẽ các ông ấy nên ở lại mà đánh thì tốt hơn. Đến phút cuối cùng, có đánh chác gì? Lúc ấy tôi vẫn ở đấy. Chả thấy đánh chác gì cả. Tôi chả rõ tại sao họ lại thua, đánh đấm gì đâu? Bỗng dưng chỉ có ông Dương Văn Minh lên tuyên bố thua. Lúc ấy tôi ra đường Tự Do. Tôi đi lung tung. Chỗ nào cũng đi. Tôi thấy người ta leo lên mấy cái tàu ở Vũng Tàu, chả thấy đánh chác gì. Có lẽ đánh ở Pleiku, Ban Mê Thuột, ở Đà Nẵng hay Huế thì có, chớ ở Saigon có ai đánh đấm gì đâu? Tôi nghĩ nhiều người đã mắc phải một lỗi lầm thật lớn.

NHỎ NHOI HẠT BỤI (Đọc thơ Đan Tâm của Phạm Ngọc Lư)

khuatdau

Tôi mượn bốn chữ dễ thương trong tập thơ Đan Tâm để làm tiêu đề cho bài viết này. Dễ thương vì còn lại “một chút gì để nhớ” của con gái anh.
Nằm im giữa trái tim ta
Nhỏ nhoi hạt bụi… tên là Các khuê

Tôi đã đôi lần được gặp anh, quả là anh cũng nhỏ nhoi cả trong dáng hình và lời ăn tiếng nói.

Hãy nghe anh thầm thì bên mộ con:
Nằm chơi dưới một hàng cây
Lao xao lá, lá thơ ngây chuyện trò
Nằm thanh thản một nấm mồ
Hồn nhiên cỏ, cỏ thơm tho hơi người
Hồn nhiên bao tiếng khóc cười
Tan vào lòng đất thắm tươi linh hồn
Hòa vào màu cỏ xanh non
Bay vào mây khói chiều hôm quê nhà

Cùng năm sinh, cùng năm mất. Ngắn ngủi quá, mong manh quá! Nhưng qua những câu thơ trong trẻo, ta thấy bé vẫn còn sống mãi giữa hoa cỏ đất trời, sống mãi trong tim người cha cũng như trước kia đã từng sống trong bụng mẹ.
Nhưng khóc cho một mối tình thì khác. Chẳng phải khác vì người dưng mà vì
đời nông tình cạn/
ta bơi qua sông
mới hay đời nặng.

Chảy đi chảy đi
Hỡi sông buồn lắm
Nước thôi chờ chi
Thuyền xưa đã đắm
Người đi người đi
Trăm năm bến vắng
Chảy mau chảy mau
Đời: con nước siết
Tình: vực nước sâu
Em: dòng ly biệt
Ta chiếc lá chìm

Rất nhẹ nhàng, kín đáo. Nhưng cũng rất sâu xa thắm thiết.
Một người rất mực nhỏ nhẹ, tế nhị như thế, nhưng khi vào đời lại bị quăng vào một nơi:
Bốn phía rừng xanh màu nước độc
Đông tây nam bắc núi chập chùng
Một lũng đất bằng khu chén nhỏ
Trói chân ta vào chân Trường Sơn

Nơi đó là Củng Sơn, nơi chưa hết thanh xuân đã cùng đường, nơi đêm nằm mộng lớn nuốt mộng con. Một nơi đất trích nhưng không phải là Tầm Dương của Tư Mã Giang Châu, để ít ra bên trời lận đận cũng còn có một kỳ nữ cho mình chan chứa lệ áo xanh.
Nhưng chính nơi sơn cùng thủy tận ấy, đã giúp cho nhà giáo trẻ có tâm hồn thi nhân, viết nên một bài hành mà theo tôi là thống tâm thiên cổ. Bài Biên Cương hành.
Biên cương biên cương chào biên cương
Chào núi non rừng thẳm nhiễu nhương

Đây biên cương ghê thay biên cương
Tử khí bốc lên dày như sương
….
Cô hồn một lũ nơi quan tái
Có khi hóa thành thú muông…
Cô hồn một lũ nơi đất trích
Vỗ đá mà ca ngông hát cuồng

Những âm ương, uông lặp đi lặp lại đến mấy mươi lần nghe như những hồi chuông báo tử. Còn thê thiết hơn cả trong Vì ai chuông báo tử của Hemingway. Có lúc như cọp gầm núi Lá. Có lúc như con thú bị thương. Có khi như oan hồn kêu khóc ở Quỷ môn quan.
Vì đâu một chàng thư sinh chưa một ngày ra trận lại có thể viết nên một bài hành về nỗi cô độc, nỗi chết của người lính biên cương hay như thế? Đó là vì cả một Trường Sơn với đường Chín nam Lào, với Khe Sanh, Đắc Tô, với mùa hè đỏ lửa Quảng trị…
Gớm gió Lào tanh mùi đất chết
Thổi lấp rừng già bạt núi non

Chiến trường ném binh như vãi đậu
Đoàn quân ma bay khắp bốn phương.

Một nơi như thế nên nhìn đâu cũng thấy đá mang dáng dấp hình chinh phụ/trơ vơ chóp núi đứng bồng con.
Nhưng thân trai thì hề chi buổi chinh chiến tang thương/sá chi hạt cát giữa sa trường. Biết là nhất khứ bất phục phản, nhưng vẫn cứ phải ra biên cương vì cả hai bên đều ném binh như vãi đậu. Đây là nơi mà thân phận cỏ rác của người lính hai miền được tác giả thể hiện một cách thật bi tráng.
Họ không sợ cái chết, nhưng họ phát cuồng vì nỗi cô đơn.
Đầu tiên là nỗi nhớ, trông núi có khi lầm bóng vợ và vì vậy đêm nằm ôm đá mà mơ chuyện yêu đương. Nhưng đá sao yêu đương nổi, chỉ có thể vỗ đá mà ca ngông hát cuồng. Cô đơn khiến họ chém cây cho đỡ thèm giết chóc/ đỡ thèm môi mắt gái buôn hương. Sau cùng là hờn dỗi, trối trăng:
Thôi em yêu chi ta thêm tội
Vô duyên xui rơi lược vỡ gương
Thôi em chớ liều thân cô phụ
Chiến trường nay lắm nỗi đoạn trường
Thôi em còn chi ta mà đợi
Ngày về thôi cạn máu khô xương.

Một thời mà tương lai tối ám. Một thời mà ngày trở về là tang lễ thay cho hôn lễ. Cuộc chiến quá dài khiến cho những hy sinh mất mát trở thành những tiếng kêu vô vọng nếu không muốn nói là vô nghĩa. Đâu còn cái hào khí lãng mạn của những ngày đầu kháng chiến:
Tây tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

(Quang Dũng)
Ở những nơi mà người ta ném binh như vãi đậu, thì những chữ tổ quốc, tự do dù được thét gào rống rú suốt ngày đêm của cả hai bên, cũng không còn làm ai xúc động. Tất cả đã biến thành những con-vật-người, thành hạt đậu. Cho nên dù có bắt tay làm loa gọi, thì giữa chốn sơn cùng thủy tận vọng lại cũng chỉ là tiếng hú của con thú bị thương mà thôi.
Hành là một thể thơ xưa chứa chan tâm sự. Bài Tỳ Bà hành của Bạch Cư Dị trên một ngàn năm rồi mà lệ áo xanh vẫn chưa khô. Bài Tống Biệt hành của Thâm Tâm đến tận hôm nay vẫn còn tiếng sóng ở trong lòng. Bài hành Phương Nam của Nguyễn Bính vẫn láng lai châu thổ. Bài hành Biên Cương của Phạm Ngọc Lư xé ruột xé gan của cả một thế hệ đầu thai lầm thế kỷ.
Cần gì đọc lịch sử hàng chục vạn trang, chỉ cần đọc sáu mươi câu thơ của một người họ Phạm là đã thấy được, cảm nhận được, sống lại được cả một cuộc chiến phi nhân, xuẩn ngốc, một cuộc nội chiến mù lòa chẳng khác gì một cuộc tự sát tập thể.
Với bao nhiêu tội ác như thế, người ta bảo hãy để lịch sử phán xét. Thì đây, bài Biên Cương hành là một cách phán xét ngắn gọn nhất, trung thực nhất và cũng đau đớn nhất của một công dân nhỏ nhoi như hạt bụi. Hơn ai hết, chính thi sĩ mới là người có quyền và có bổn phận nói lên phán xét xuất phát từ chính trái tim của chính mình, cũng là trái tim của nhân dân.
Rồi cũng đến lúc: bom ngừng rơi, đạn ngừng nổ. Nhưng cái biên cương ấy vẫn chập chùng như vạn lý trường thành giữa hai miền. Những con người đã cạn máu khô xương bên thua cuộc giờ lại bị ném vào đời như vãi đậu.
Rời Củng Sơn trở về làng cũ, lại một bài hành nữa làm ta buồn muốn khóc. Không thét gào xé ruột như Biên Cương hành, nhưng Cố lý hành thầm thì như đứa con trở về chịu tội với quê hương.
Thôn ổ tiêu sơ gầy khói bếp
Đồng không mốc thếch lạnh tro tàn
Sao phên dậu nghiêng đầu câm nín
Rơm rạ làm thinh chẳng hỏi han
Ngõ vắng bàn chân như hụt đất
Tre già đang kể chuyện chôn măng
Nương rẫy đang phơi lòng dâu bể
Nói làm sao hết nỗi bàng hoàng
Phải đây là cố lý ta chăng
Dâu bóng mẹ già sau khung cửa
Và những người em mặt trái xoan
Đâu bóng chị hiền như hoa cỏ
Bên luống cà xanh liếp cải vàng!

Muốn ở lại làng cũ làm một anh dân cày cũng không được, anh đành theo bước chân của những người thua cuộc, làm một chuyến hành phương nam. Bài Trở Về Phá Tam Giang, theo tôi, cũng là một bài thiên cổ lụy.
Nhớ buổi ra đi thân tình đưa tiễn
Vợ gói câu thơ chị gói khúc đàn
Mẹ tóc trắng nhìn theo lặng lẽ
Con tóc xanh hai đứa dùng dằng
Bước xuống thuyền nhìn trời cao dõng dạc
Gõ mạn thuyền ngâm khúc hành phương nam

Nhưng :
Mưa miền nam, nắng miền nam
Trông mây thấp thòm nghe gió bàng hoàng
Quá đỗi mưa mau
Quá nhiều nắng khổ
Chén rượu quê người sao mà bạc
Ân tình đất khách lắm đa đoan

Không thể so sánh bài Binh Xa hành của Đỗ Phủ, nhưng các bài hành của Phạm Ngọc Lư cũng là những tiếng kêu đứt ruột, ngập tràn nỗi đau phận người trong từng câu từng chữ.
Từ một thư sinh rồi một thầy giáo, giờ anh ma xui quỷ khiến ta ngồi chợ/ bán gió rao trăng một núi dừa!
Bài thơ hóm hỉnh cười nhạo chính mình nghe ra thật cay đắng.
Cô gái Bến Tre vừa quen mối
Đếm dừa mà đôi mắt đong đưa
Người đẹp thương ta hay chơi đẹp
Bạc tiền không nài ép hơn thua
Khổ mấy lần áo khô áo ướt
Sợ lòng em chợt nắng chợt mưa
Thôi để yên ta bên chén rượu
Uống say… thành bại cũng bằng thừa
Uống say… ném áo lên nóc quán
Hết nợ hết duyên vĩnh biệt dừa

Rời bỏ Bến Tre, anh lại lạc vào miền đất đỏ Long Khánh. Đây là miền đất anh nếm trải nhiều cay đắng nhất. Trong bài thơ Bụi Đỏ gửi các con, anh đã viết những câu như lời thú tội.
Trời sinh chi đôi vai thêm khổ
Gánh gian nan như gánh tội đồ
Sinh chi kẻ sĩ đem đày đọa
Chôn vùi nắng bẩn với mưa dơ
Đi giữa rừng cao su trùng điệp
Lòng đau như vết cạo còn tươi
Mủ cứ chảy bám đầy tâm sự
Tâm sự đùn cao như gò mối chôn người
Đi giữa hoang sơ ruộng bàu khe suối
Gai hổ ngươi cào nát đôi chân
Nghĩ về quê cũ lòng thêm thẹn
Một ra đi là một lỡ lầm
Cứ hỏi mình chưa chán? chán chưa?
Nhìn núi Chứa Chan mắt buồn chan chứa.

Mười mấy năm lưu lạc, ô nhục đắng cay, có khác chi Kiều. Chỉ khác là có nhiều Thúc Sinh mà không có Từ Hải. Chút lòng trinh bạch mà Kiều gìn giữ trong tâm hồn để trao cho Kim Trọng, thì Ngọc Lư xin trao về Nàng Thơ.
Xưa ta cầm tuổi hai mươi
Vay em nhan sắc về nuôi tâm hồn
Nuôi bao mộng mị vàng son
Một đêm trắng mộng chỉ còn đan tâm

Chính vì thương ngày xưa không tuổi/ôm mối tình không tên, nhờ mối tình với Nàng Thơ ấy mà anh đã sống sót qua những năm tháng ở Củng Sơn, ở phương nam nắng khổ mưa đau. Nàng Thơ không còn lững thững giữa thành cũ rêu phong, không phơi tấm thân ngà ngọc trên sông Hương, mà đã cùng anh mười lít gạo trộn vài cân muối/nấu với tình em ăn vẫn ngon! Nàng đã cùng anh xé toạc đất tanh mùi máu kêu thét lên ở biên cương, rồi cùng anh xuôi nam, lại lộn về cố lý, qua phá Tam Giang, cuối cùng dừng lại trên bến nước thứ mười ba là sông Hàn. Một nàng Thơ rất mực tận tụy, nên dù mộng lớn mộng con đã tan tành, cũng vẫn còn bút mực đan thanh tươi màu.
Bút ấy chấm vào tấm lòng son, dù mai sau thơ anh có nằm chết trần truồng, thì tôi vẫn tin, trong trái tim của bạn bè hãy còn nhỏ nhoi hạt bụi tên là Đan Tâm.

Khuất Đẩu
(Viết 2010.
2014, đọc lại có sửa đôi chút.)
*Những chữ in nghiêng trích thơ của Phạm Ngọc Lư.
Phạm Ngọc Lư, sinh 1946, tại Thừa Thiên.
Cựu học sinh Quốc Học.Cựu sinh viên Viện Hán học Huế và Đại Học Văn Khoa Huế.
Từng dạy học ở Củng Sơn, Phú Yên
Đan Tâm, tập thơ do chính tác giả tự thực hiện, tháng 1/2004, để dành tặng thân hữu.

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, “Sao con không mang theo thằng cháu nội của ba?”

nuocmattruocconmua

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, nguyên tác Anh Ngữ “Tears Before The Rain” là một tập sử liệu về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam, do Larry Engelmann, Giáo Sư Đại Học San Jose State thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn nhiều thành phần: người Mỹ, người Việt, kẻ thắng người bại …Những cuộc phỏng vấn này khởi sự từ 1985, sách xuất bản năm 1990. Bản dịch Việt Ngữ do nhà văn Nguyễn Bá Trạc thực hiện năm 1993, xuất bản năm 1995 tại California.

NGUYỄN THỊ THANH NGUYỆT
(Bác sĩ)
“Sao con không mang theo thằng cháu nội của ba?”

Mùa Xuân 1975 tôi đang làm “ngoại trú” cho chương trình năm thứ năm Y Khoa – Cũng tựa như chương trình thực tập “nột trú” tại Hoa Kỳ. Vào cuối tháng Ba, tôi đang đến phiên làm ở bệnh viện Cơ Đốc, Saigon. Cũng như mọi người khác, tôi cảm thấy tình hình xuống dốc. Nhưng cho đến ngay lúc ấy, tôi vẫn không bao giờ tin là miền Nam sẽ sụp đổ và đầu hàng. Tệ nhất, tôi nghĩ Saigon có thể mất, có thể bị miền Bắc chiếm đóng tạm thời, nhưng sau một thời gian ngắn, mọi sự sẽ trở lại bình thường thôi.

Giữa tháng Tư, mỗi lúc người ta càng quan tâm hơn đến việc di tản các nhân viên trong bệnh viện chúng tôi. Tùy viên quân sự Hoa Kỳ, tướng Homer Smith ký giấy cho phép 175 người ra khỏi nước. Phần bảo trợ được ký trống để nhập nội Hoa Kỳ. Nhưng con số 175 không đủ cho số người muốn di tản. Vì thế chúng tôi đã tìm cách đưa nhiều người đi hơn với biện pháp tải thương. Chúng tôi băng bó một số người muốn đi, cho vào xe cứu thương. Chúng tôi cho xe mở còi hụ lái ra phi trường. Với biện pháp ấy lính gác cho vào, không khám xét gì. Nếu họ khám các bệnh nhân và tìm ra chuyện đóng tuồng, chắc chắn không ai đi nổi. Khi qua cổng phi trường, lập tức chúng tôi cho bệnh nhân lên các chuyến bay tải thương. Những chuyến bay này sẽ chở tất cả sang Phi Luật Tân.

Tôi còn nhớ có một bác sĩ với vợ ba con, tất cả đều khoẻ mạnh. Chúng tôi quấn băng, bó bột cho mấy đứa trẻ, còn giả vờ đặt cả ống truyền nước biển, chúng tôi đã đưa họ vào cổng phi trường bằng cách ấy. Nhưng rồi phải đợi máy bay. Trong lúc đợi, mấy đứa bé bó bột buồn tình ôm cả bông băng chạy quanh chơi đùa nghịch phá. Trong phi trường có lính gác. Tôi phải bảo bà mẹ nói mấy đứa trẻ im mồm, quay lại giả vờ ốm, không thì hết đi.

Chúng tôi thường cho khoảng hai mươi người vào trong hai hoặc ba xe cứu thương để cùng chạy ra phi trường. Các y tá, bác sĩ cùng đi theo để di tản với họ. Bằng biện pháp này, chúng tôi đã đưa đi được hầu hết những nhân viên muốn đi. Còn những người khác không đi bằng cách tải thương thì được cho vào danh sách 175 người có bảo trợ tại Hoa Kỳ.

Tất nhiên càng nhiều người đi thì số nhân viên bệnh viện càng hẹp lại, số bệnh nhân chúng tôi săn sóc cũng vậy. Hôm 24 tháng Tư, chúng tôi cho sáu bệnh nhân cuối cùng ra về. Đến hôm ấy, tôi vẫn chưa định đi. Lúc nói chuyện với bác sĩ Trưởng thường trú, ông bảo nếu tôi muốn ra đi thì tôi có thể đi chuyến bay lúc mười một giờ đêm. Như vậy phải có mặt tại nhà thương trước năm giờ chiều. Quá giờ ấy nếu không có mặt, xem như không muốn đi. Tôi hỏi tôi có thể mang theo con trai tôi được không. Ông bảo chỉ mang theo con trai thì được. Lúc ấy nhà tôi và tôi đã ly thân. Con tôi được mười tuổi. Khi nói chuyện về việc ra đi là đã ba giờ trưa. Như thế tôi chỉ còn hai tiếng đồng hồ để quyết định.

Tôi cố tìm người biết chuyện để hỏi ý kiến nếu Saigon mất, tình thế ra sao. Tôi cần nói chuyện để dứt khoát đi hay ở. Cuối cùng gặp người bạn học, cô ấy khuyên tôi nên đi. Tôi hỏi thế chị có đi không. Cô ấy bảo cô ấy là con cả, gia đình đến mười chị em, phải ở lại đỡ đần gia đình. Nhưng cô bạn tôi bảo nếu ở hoàn cảnh tôi, cô ấy sẽ ra đi. Sau khi nói chuyện với người bạn, tôi quyết định đi.

Trở về nhà. tôi nói chuyện với mẹ tôi rất ngắn ngủi. Lúc ấy mẹ tôi đương ốm. Tôi bảo mẹ tôi là con quyết định phải đi. Mẹ tôi khóc. Tôi băng qua đường, bảo em tôi và gia đình tôi rằng tôi sẽ mang con đi . Mọi người đều khóc.

Tôi lấy xe gắn máy chạy vào Khánh Hội, mất ba mươi phút. Tôi muốn đến chào ba tôi, lúc ấy đang làm việc ở đấy. Khi nghe tôi nói, ba tôi đứng sững. Ba tôi bảo: “Sao con không mang thằng cháu nội của ba đến đây. Nếu nó đi với con thì chắc đây là lần cuối ba được nhìn thấy nó”. Quả thật, đây là dịp cuối cùng mà ba tôi có thể gặp cháu nội. Ba tôi đã mất trong lúc mẹ con chúng tôi ở Hoa Kỳ.

Tôi bảo: “Ba ạ, con vội quá nên con quên”. Tôi đã bận bịu sắp xếp giấy tờ, học bạ, và vài ba bộ quần áo. Tôi ôm lấy ba tôi. Ba tôi và tôi cùng khóc. Rồi tôi chạy xe gắn máy về nhà đổi ít tiền, nhưng không đổi đâu ra được nữa. Tôi rời Việt Nam không một đồng xu dính túi.

Đêm mẹ con tôi rời Saigon, trời rất tối. Phi trường hết sức lộn xộn. Mãi đến lúc máy bay cất cánh mới dám chắc là đi được. Mẹ con tôi bay thẳng sang Guam vì bấy giờ chính phủ Phi Luật Tân không còn cho các chuyến bay Việt Nam vào nữa.

Tôi đến đảo Guam lúc Saigon đã mất ngày 30 tháng Tư. Nghe tin trên máy truyền thanh, chúng tôi đều khóc. Chúng tôi nghe tường thuật việc quân đội miền Bắc tiến vào thành phố bằng chiến xa, đi qua đường Thống Nhất vào chiếm Dinh Độc Lập. Trong tâm trí, mỗi chúng tôi đều có thể nhìn thấy hình ảnh ấy xảy ra. Chúng tôi hết sức đau buồn. Đêm hôm ấy, chúng tôi nói chuyện mãi về Việt Nam. Chúng tôi kể cho nhau nghe những chuyện chúng tôi nhớ, những gì chúng tôi yêu mến nhất ở Việt Nam. Chúng tôi nói với nhau rằng thật kinh ngạc khi miền Nam Việt Nam sụp đổ, việc ấy xảy ra như thế nào, có thể làm gì được để cứu vãn.

Nhưng quá muộn, chẳng còn có thể làm gì được. Đêm hôm ấy, tất cả những gì chúng tôi còn lại chỉ là hy vọng mà thôi.

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, “Hôm ấy là một ngày rất đẹp. Mặt trời soi rạng rỡ, và mọi người đều khóc.”

nuocmattruocconmua

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, nguyên tác Anh Ngữ “Tears Before The Rain” là một tập sử liệu về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam, do Larry Engelmann, Giáo Sư Đại Học San Jose State thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn nhiều thành phần: người Mỹ, người Việt, kẻ thắng người bại …Những cuộc phỏng vấn này khởi sự từ 1985, sách xuất bản năm 1990. Bản dịch Việt Ngữ do nhà văn Nguyễn Bá Trạc thực hiện năm 1993, xuất bản năm 1995 tại California.
larryengelmann

LÊ VĂN HẢI
(Không quân Nam Việt Nam)
“Hôm ấy là một ngày rất đẹp. Mặt trời soi rạng rỡ, và mọi người đều khóc.”

Năm 1954 khi đất nước chia đôi, Cộng sản chiếm miền Bắc, cha mẹ tôi di cư vào Nam. Lúc ấy, tôi mới lên một. Cha mẹ tôi biết rõ Cộng sản, họ không muốn sống dưới chế độ này. Vì thế họ đã vào Nam tìm tự do.

Tôi gia nhập không quân, vào trường học lái máy bay. Tôi tốt nghiệp trường huấn luyện không quân đầu tháng Tư, 1975. Vào thời gian ấy, phi công không bao giờ đủ xăng mà bay. Cơ phận cũng thiếu phải lấy bộ phận máy bay này mà lắp sang chiếc máy bay khác. Đạn dược không bao giờ đủ, phải đếm từng viên. Chúng tôi muốn chiến đấu. Nhưng không vũ khí, làm sao chúng tôi chiến đấu!

Bấy giờ trong không quân, vài người bảo nhau có thể chúng tôi sẽ thua trận. Nhưng khi nói vậy, chúng tôi cũng sợ, bởi chúng tôi nghĩ: Biết chừng đâu chúng tôi đã nghe Cộng sản tuyên truyền quá nhiều. Chúng tôi biết thượng cấp chúng tôi là những tướng lãnh tốt. Chừng nào chúng tôi còn có tướng lãnh tốt, làm sao chúng tôi có thể bại trận được?

Ngày 28 tháng Tư, tôi ở trong phi trường Tân Sơn Nhứt khi các phi công Bắc Việt dội bom. Chúng bay đến bằng chiếc A-37, dội bom xuống chúng tôi. Chuyện ấy chẳng làm tôi khiếp sợ. Năm 1968 Tết Mậu Thân, Cộng sản cũng đã vào tận thành phố, mà rồi chúng tôi đã đẩy bật chúng ra. Vì vậy chuyện này đối với chúng tôi chẳng có gì mới lạ. Nhưng đến 29 tháng Tư, chúng tôi nghe nói các tướng lãnh của chúng tôi đã chạy hết. Chúng tôi không tin nổi. Chúng tôi, những người trẻ, đã dự định tiếp tục chiến đấu. Nhưng làm sao chúng tôi chiến đấu được khi các tướng lãnh không còn chỉ huy chúng tôi nữa?

Sáng 30 tháng Tư, các phi công đều nói chuyện với nhau về bản tin họ nghe được ở điện đài trên tần số khẩn cấp. Họ bảo hạm đội Mỹ kêu gọi phi công Việt Nam mang máy bay ra ngoài hạm đội để khỏi rơi vào tay Cộng sản. Sau khi nghe bản tin, nhiều phi công lấy trực thăng nhồi nhét đầy người bay ra hạm đội Mỹ.

Lúc ấy tôi không đoan quyết là tôi muốn đi, vì vậy tôi không ra trực thăng. Tôi biết vẫn còn có các quân nhân đang chiến đấu dưới vùng đồng bằng, nên tôi nghĩ có lẽ tôi sẽ đi Nam tham gia với họ. Nhưng rồi tôi nghe chính phủ đã đầu hàng Cộng sản. Khi ấy, tôi quyết định ra đi.

Tôi và một người bạn xuống sông Sàigòn. Có một chiếc tàu sắp đi, chúng tôi quyết định leo lên. Chúng tôi cảm thấy việc ra đi là rất tệ, nhưng khi chính phủ đã đầu hàng, còn hy vọng gì nữa?

Dân chúng Sàigòn cử hành lễ lạc hoan hô, họ đã bị Cộng sản dối gạt. Họ tưởng Cộng sản thắng thì chiến tranh không còn nữa. Bây giờ họ đã được một bài học.

Khi chiếc tàu của chúng tôi chạy trên sông Sàigòn, không ai nổ súng bắn chác gì. Trên tàu có đến 3000 người, chật ních đàn ông. đàn bà, trẻ con. Chẳng có thực phẩm nước uống, chúng tôi cũng chẳng rõ khi ra đến biển Nam Hải số phận ra sao. Nhưng chúng tôi vẫn đi vì chúng tôi không thể ở lại sống dưới chế độ Cộng sản được.

Lúc ra đi, chúng tôi đều nhìn đất nước Việt Nam một lần cuối. Hình ảnh sau cùng chúng tôi thấy là bãi biển đẹp đẽ ở Vũng Tàu. Hôm ấy là một ngày rất đẹp. Mặt trời soi rạng rỡ và mọi người đều khóc. Sau khi chúng tôi nhìn Vũng Tàu lần cuối, một người lính ở trên tàu rút khẩu súng kê dưới cằm, bóp cò tự sát. Vài người nhảy ra khỏi thành tàu, biến mất dưới biển. Tôi chứng kiến hai người đàn ông đã nhảy ra bên thành tàu.

Chúng tôi lênh đênh trên mặt biển ba ngày không thực phẩm, không nước uống. Ngày thứ ba, chúng tôi gặp một tàu Đan Mạch. Họ bốc đàn bà và trẻ con đưa đi Hồng Kông. Còn chúng tôi, họ tiếp tế đồ ăn nước uống, đủ cho chúng tôi không chết trên mặt biển, họ chỉ đường cho chúng tôi đến Hồng Kông. Suốt cuộc hành trình còn lại, chúng tôi im lặng không nói với nhau một lời.

Chúng tôi quá đau buồn. Chúng tôi đã mất quê hương.

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, “Người Mỹ cuối cùng tôi thấy ở Việt Nam”

nuocmattruocconmua

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, nguyên tác Anh Ngữ “Tears Before The Rain” là một tập sử liệu về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam, do Larry Engelmann, Giáo Sư Đại Học San Jose State thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn nhiều thành phần: người Mỹ, người Việt, kẻ thắng người bại …Những cuộc phỏng vấn này khởi sự từ 1985, sách xuất bản năm 1990. Bản dịch Việt Ngữ do nhà văn Nguyễn Bá Trạc thực hiện năm 1993, xuất bản năm 1995 tại California.

HỒ QUANG NHỰT
(Giáo sư Trung học)
“Người Mỹ cuối cùng tôi thấy ở Việt Nam”

Bấy giờ tôi là một giáo sư Trung học, dạy ở Biên Hòa. Tôi lên Saigon, có mặt lúc thành phố này rơi vào tay Cộng sản hôm 30 tháng Tư, 1975. Khi vụ đầu hàng xảy ra, tôi đang ở trên Đại lộ Lê Lợi. Tôi đã chứng kiến cảnh dân chúng tan tác tìm đường trốn Cộng sản.

Trên đường phố tôi thấy một người Mỹ. Đó là người Mỹ cuối cùng tôi thấy ở Việt Nam. Anh đứng trước một tiệm ăn. Cặp mắt đỏ hoe. Tôi nghĩ anh rất buồn. Anh đang đợi người đến đón, tôi thầm nghĩ. Hoặc giả anh đang đợi ai đến giúp anh ẩn núp, che giấu cho anh? Nhưng không một ai đến cả. Tôi thấy anh xem đồng hồ vài lần rồi lại dáo dác nhìn khắp đầu đường cuối phố. Nhưng mọi sự đã quá muộn cho anh người Mỹ.

Lúc 4 giờ 45 Việt Cộng chạy xe vận tải qua đại lộ. Thấy người Mỹ đứng đấy, chúng dừng lại. Nhảy ra xe, chúng bắt đầu vặn hỏi anh ta. Hàng trăm người chứng kiến cảnh này. Anh người Mỹ bảo: “Tôi là công dân Hoa Kỳ”. Chúng bèn giáng cho anh một trận đòn. Chúng lôi xệch anh lên xe. Anh người Mỹ vẫn cố bảo: “Tôi là công dân Hoa Kỳ”. Nhưng chúng không buồn nghe. Việt cộng chả thèm nghe những chuyện như vậy. Chúng rồ máy xe đưa anh người Mỹ ra đi. Tôi không bao giờ biết thêm tin tức gì về anh ta nữa.

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, “Ánh sáng cuối đường hầm vừa phụt tắt.”

nuocmattruocconmualarryengelmann

NƯỚC MẮT TRƯỚC CƠN MƯA, nguyên tác Anh Ngữ “Tears Before The Rain” là một tập sử liệu về sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam, do Larry Engelmann, Giáo Sư Đại Học San Jose State thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn nhiều thành phần: người Mỹ, người Việt, kẻ thắng người bại …Những cuộc phỏng vấn này khởi sự từ 1985, sách xuất bản năm 1990. Bản dịch Việt Ngữ do nhà văn Nguyễn Bá Trạc thực hiện năm 1993, xuất bản năm 1995 tại California.

BECKY MARTIN
(Nữ nhân viên hành chánh, phòng tình báo – Văn phòng Tùy viên Quân sự).
“Ánh sáng cuối đường hầm vừa phụt tắt.”

Năm 1974 tôi đang làm việc cho bộ Quốc phòng ở Hoa Thịnh Đốn. Thấy công việc nhàm chán, tôi muốn được nhìn thế giới bên ngoài. Vì thế một hôm tôi xin ghi danh vào tất cả các chức vụ chính phủ còn bỏ trống mà tôi có thể đảm nhiệm, tại hai mươi quốc gia khác nhau. Tôi xin đi, không phân biệt nơi nào. Hai tuần sau, vấn đề Việt Nam bỗng nổi bật, người ta gọi tôi đến cho đi.

Lúc đó tôi nghĩ “Ờ, chiến tranh chấm dứt rồi.” Có “Hoà bình trong danh dự rồi.” Đâu còn cái nhạc khúc của quá khứ nữa. Tôi không một chút ưu tư. Đã quyết định đi bất cứ nơi nào, và tôi nghĩ mọi chuyện thật tuyệt vời!

Tôi có thời hạn hai tuần lễ để trình diện nhiệm sở mới, kể từ khi được thông báo. Tôi cần thông hành, cần sắp xếp việc di chuyển, nhưng người ta đã lo liệu hết mọi thứ. Điều duy nhất làm tôi áy náy trước khi đến nhiệm sở mới là chuyến bay Pan Am 747 từ đảo Guam đến Manila đông nghịt hành khách, nhưng từ Manila cất cánh đi thì chiếc máy bay hoàn toàn trống rỗng. Tôi nhìn quanh, chợt nhận ra rằng ngoài phi hành đoàn, tôi là người da trắng duy nhất. Tôi nhìn thấy có bốn cho đến sáu người Việt Nam mặc quân phục. Tất cả chỉ có vậy, trên một chiếc máy bay 747 khổng lồ! Khi cất cánh khỏi phi trường Manila, một chiêu đãi viên đến bên tôi, hỏi “Tại sao chị đi Sàigòn?” Tôi trả lời: “Đi nhận việc làm ở đấy.” Cô ta bảo “Chị nói dỡn?” Tôi nói “Không đâu. Thật đấy. Thế mỗi tuần cô bay vào Việt Nam bao nhiêu chuyến?” Cô ta nói: “Mỗi tuần hai chuyến.” Tôi hỏi: “Những chuyến ấy có đông người hơn chuyến này không?” Cô ta bảo “Không.”

Hãng Pan Am có khế ước chuyên chở thơ tín. Họ bay vào Việt Nam với những chuyến phi cơ gần trống rỗng như thế. Đó là mối nghi hoặc đầu tiên của tôi khi tôi nghĩ có thể tôi đã phạm một chuyện sai lầm gì đây. Hiển nhiên rất nhiều người đã biết một chuyện gì đang xảy ra, mà tôi lại hoàn toàn mù tịt.
Tôi đến nhận việc với tư cách Phụ tá Tình báo, nhưng khi đến nơi, tôi không thích công việc ấy nữa. Bởi vậy, tôi lựa một chức vụ hành chánh, làm việc với bộ phận tình báo của văn phòng Tùy viên Quân sự.

Cứ giả dụ chiến tranh đã chấm dứt, thì có nhiều vùng đất đã lọt vào tay Việt Cộng và quân Bắc Việt tại khắp miền Nam Việt Nam rồi. Điều ấy, tôi không được biết. Vào buổi thuyết trình đầu tiên mà tôi tham dự, là buổi thuyết trình về tình hình chiến sự trong nước, người ta treo lên tường tấm bản đồ Quân Khu I. Tôi nhìn thấy những dấu hiệu màu đỏ lẫn lộn với những dấu hiệu màu xanh. Lúc ấy những dấu hiệu này chẳng có ý nghĩa gì với tôi. Tôi không rõ ý nghĩa các dấu hiệu, nhưng màu sắc vẫn giúp tôi dễ dàng nhận ra mọi chuyện. Tôi thấy trên bản đồ, phần lớn màu đỏ. Tôi nghĩ “Chúa ơi, thật bất thường. Đỏ tượng trưng cho bọn dữ. Đỏ thường chẳng bao giờ tượng trưng cho người hiền lương cả!”

Rồi đến bản đồ Quân khu II. Trời ạ! lại có gì lầm lẫn nữa đây. Nhưng ít đỏ hơn, nhiều xanh hơn. Tôi quay sang Đại úy Stu Herrington-người trước đây mói chỉ gặp một lần – tôi thúc khuỷu tay anh ta, hỏi “Đỏ là ai? Xanh là ai?” Anh ta trả lời: “Đỏ là bọn dữ.” Tôi than thầm.

Đến bản đồ Quân khu III. Ờ, chúng ta có nhiều xanh hơn. Nhưng không nhiều lắm. Tôi nghĩ “Chết thiệt, mình làm gì thế này! Khùng hay sao mà đến nơi đây? Hoà bình trong danh dự, dỡn sao đây chớ? Chúa ơi, chúng ta đã để Việt Cộng lấy hết nửa nước này rồi.”

Sau buổi thuyết trình, Jim Wink hỏi “Cô nghĩ thế nào?” Tôi nói: “Jim, không xong. Mất một nửa rồi còn chi.” Ông ta nói “Không, không đâu.” Tôi nói “Đúng! Đúng! Đúng thế! Có cách gì chúng ta đẩy bọn chúng ra được nữa?” Mấy người ùa vào tranh luận, Jim Wink, Jimmy Harris và mấy người khác. Họ nói “Không, chả sao. Chúng ta sẽ cung cấp cho người miền Nam những yểm trợ chiến thuật mà họ cần. Chúng ta là đồng minh của họ…” vân vân, vân vân. Tôi rút lại, không tham dự vào cuộc tranh luận này. Tôi không muốn phải lải nhải với họ về những đề mục này nữa.

Chiều hôm ấy Stu Herrington đến phòng tôi. Anh ta nói “Cô có vẻ rầu rĩ về buổi thuyết trình hôm nay phải không.” Tôi bảo “Phải.” Anh ta nói” Ờ, vì thế tôi đến đây nói chuyện với cô để dự kiến lại mọi việc.” Tôi mời anh ta vào. Anh ta mô tả tình hình cho tôi nghe, sắp đặt mọi sự vào một viễn tượng thuộc phạm vi quân sự. Nói cách khác, với tất cả những dấu hiệu trên bản đồ, anh ta cho rằng vẫn không có nghĩa là chúng ta sẽ bị thua mau chóng trong giây lát đâu.

Nhưng một chuyện khác làm tôi vô cùng áy náy trong suốt ba tháng đầu tiên ở xứ này. Đó là có rất nhiều thanh niên trẻ ngoài đường phố: Họ đã khai gian tuổi, họ trốn quân dịch, họ sử dụng căn cước giả. Các thành phần đào ngũ rất đông. Cuộc chiến không được lòng dân chấp nhận nữa. Đã có nhiều sinh mạng tổn thất, đã đánh giết ròng rã bao nhiêu năm rồi. Tôi nghĩ ý dân Việt Nam không còn muốn chiến tranh nữa.

Tôi nghĩ một cách rất thành thực trước Thượng đế: Việt Nam là một trường hợp phí phạm khủng khiếp. Chúng ta đã hủy hoại đã phí phạm nhiều nhân lực, và đó là tổn thất lớn nhất của chúng ta. Chúng ta đã phí phạm nhiều tiền bạc. Chúng ta đã phí phạm nhiều năm tháng chiến đấu, đáng lẽ chúng ta phải hoàn tất trong một thời gian rất ngắn. Nhưng đây là vấn đề chính trị. Các chính trị gia không bao giờ cho phép quân đội thực hiện một điều lẽ ra quân đội phải làm: Đến đấy chiến đấu và chiến thắng.

Một buổi sáng hôm sau khi Nixon từ chức, chúng tôi nhận bản “Tóm lược tin tức tình báo và phân tích các hiểm nguy trong tháng.” Tùy viên Quân sự lúc ấy, tướng John Murray tỏ ra kiệt quệ vì xúc động. Ông nói: “Thưa các bạn, ánh sáng cuối đường hầm vừa phụt tắt.”

Thực ra, Cộng sản không bao giờ có thể nắm hết được những thủ đoạn của cáo già Nixon (Người Mỹ gọi là Tricky Dicky, tay Nixon mưu mẹo. Ghi chú của dịch giả). Đối với họ, ông là một ẩn số. Ông ta không suy nghĩ theo kiểu người Á Đông suy nghĩ. Lấy ví dụ điển hình như trong cuộc hoà đàm ở Ba Lê với Kissinger, có lúc mọi việc đã không diễn tiến êm đẹp với Lê Đức Thọ. Đùng một cái Hà Nội bị dội bom! Hai phe không tiến đến được thỏa hiệp thì Nixon quay lưng, mở chốt khai hỏa. Chỉ một thời gian ngắn, Bắc Việt vội vã trở lại bàn hội nghị. Như vậy, chúng ta tạo ra được hoà bình trong danh dự. Nhưng cuộc dội bom đã gây tổn thất nặng cho Bắc Việt. Cuộc dội bom chẳng những đánh vào Hà Nội, đánh vào các hệ thống và căn cứ chiến thuật tại miền Bắc, mà còn đánh vào các hệ thống và căn cứ chiến thuật của Cộng sản tại phía Bắc miền Nam Việt Nam. Nhưng rồi Nixon từ chức. Điều đó làm tôi quan ngại. Báo chí lúc đó toàn nói chuyện Watergate, nhưng chúng tôi chẳng đọc bao nhiêu. Chúng tôi cũng không bị các bản tin truyền hình tràn ngập. Chúng tôi không có đài truyền hình tin tức. Ở đây, chỉ có mỗi một tờ báo Anh ngữ duy nhất thì vụ Watergate không phải là một vụ quan trọng đối với tờ báo này. Thực ra, những người sống ở nước ngoài bấy giờ không am tường bao nhiêu về vụ Watergate. Họ không rõ tại sao người Mỹ phải tự hành xác về những chuyện không đáng gì đối với họ như thế.

Bởi vậy, vụ từ chức của Nixon làm thay đổi hết mọi sự đối với chúng tôi. Chúng tôi bắt đầu giải kết. Chúng tôi dành hai ba tháng trời để làm vi phim các tài liệu, rồi hủy hoại tất cả các tài liệu này sau khi vi phim thực hiện xong. Chúng tôi xé bỏ thiêu hủy hết. Những khối lượng giấy tờ vĩ đại trước đây sĩ quan an ninh chỉ nhìn thấy cũng đủ lên cơn đau tim, nay đều phải được tiêu hủy. Chúng tôi tìm cách thu nhỏ các tài liệu đến một kích thước rất bé để lúc cần là có thể vận chuyển ngay.

Vậy mà tôi vẫn không bao giờ thực sự cảm thấy Việt Nam có thể đổ vỡ cho đến lúc mất Đà Nẵng. Sự kiện này có tính tượng trưng đối với tôi. Tôi đã được đọc những bản phúc trình của các nhân viên văn phòng Tùy viên Quân sự ngoài ấy. Những bộ phận tiếp thu và liên lạc đều có đại diện ngoài Đà Nẵng. Tôi đã đọc phúc trình của họ về những gì đã xảy ra: Bỗng nhiên, địch quân kéo đến! Bỗng nhiên, cả mười bốn, mười lăm sư đoàn đã kéo đến!

Vào ngày 4 tháng Tư, chúng tôi lại có một bản tóm lược tin tức tình báo hàng tháng. Sáng hôm ấy, một Đại tá đến văn phòng chúng tôi. Ông nói: “Chúng ta sẽ khởi sự cuộc di tản đầu tiên. Bắt đầu ngay từ hôm nay!” Trước đó, chúng tôi đã lập một danh sách ưu tiên: Những ai ra đi, đi lúc nào, những người ít quan hệ nhất sẽ đi trước. Đại tá cho biết những người ở danh sách thứ nhất sẽ phải ra đi ngay hôm ấy, tức là ngày mùng 4 tháng tư. Tôi biết như thế sẽ gồm có một người nhân viên thư tín và một thư ký của chúng tôi, cũng sẽ gồm ba chuyên viên phân tích cao cấp của văn phòng chúng tôi ra đi. Tôi nói: “Vì chúng ta phải làm bản tóm lược tình báo hàng tháng, tại sao không tiếp tục cứ ở lại một thời gian nữa, rồi sẽ đi những chuyến bay sau?” Ông Đại tá nói: “Vâng, tôi cũng đang nghĩ như vậy.” Tôi nói: “Tốt quá.” Lúc sau, ông trở lại bảo: “Đại tá Legro đã đồng ý. Mọi người cứ ở nguyên.” Bởi vậy văn phòng chúng tôi thuộc bộ phận tình báo đương nhiệm là cơ quan duy nhất không có một người nào ra đi ngày 4 tháng Tư cả.

Tuy nhiên người ta vẫn tiếp tục chương trình di tản ngay từ hôm đó. Họ quyết định di tản một số trẻ em Việt Nam. Họ nghĩ đây là phương cách tốt để cùng di tản một số lớn phụ nữ làm việc cho văn phòng Tùy viên Quân sự. Vì thế sáng hôm đó, sau khi đến văn phòng làm việc, các nữ nhân viên được báo cho biết họ phải ra đi. Người ta triệu tập các nữ nhân viên ở phòng họp, cho biết quyết định, rồi cho họ được phép về nhà thu xếp hành lý. (Tôi nghĩ mỗi người được mang theo hai túi xách). Phần lớn các nữ nhân viên quay lại điểm hẹn, rồi được xe buýt của văn phòng Tùy viên Quân sự đưa vào phi trường lên máy bay. Một vài nữ nhân viên không đến. Vài người cảm thấy những ràng buộc với gia đình, họ không thể ra đi không mang theo gia đình. Họ không trở lại làm việc cho đến ngày hôm sau.

Hôm ấy chúng tôi đang làm việc trễ thì một nhân viên an ninh bước vào nói: “Chiếc máy bay C-5A bị rớt, vừa được đem trở lại Tân Sơn Nhứt.” Họ cần người phụ việc di chuyển các thi hài và các người bị thương ra khỏi mấy chiếc trực thăng sắp đáp xuống Tân Sơn Nhứt. Tất cả chúng tôi đổ xô, chen chúc nhau lên chiếc xe vận tải ra phi trường đứng chờ trực thăng, nhưng cũng không có nhiều chiếc đáp xuống.

Trước hết, họ đưa vào một số thi hài, một số người sống sót, đa số là trẻ con. Chiếc C-5A là một chiếc máy bay ba tầng. Phần lớn trẻ con ở tầng trên, nên sống sót, nhưng bị phỏng nặng. Điều làm tôi kinh hoàng là thấy tất cả những đứa trẻ đó đều bị thương, cháy da, thân hình ướt đẫm nước tiểu, nhưng không một đứa nào khóc. Chúng nằm im lìm như hình nộm. Tôi nghĩ chúng phải kêu la thảm thiết, nhưng không. Chúng nằm im. Không tiếng động. Không kêu. Không phản ứng gì.

Các bạn tôi thuộc văn phòng Tùy viên Quân sự đều thiệt mạng. Tôi hầu như mất đi các người thân của chính gia đình mình. Tôi đã có linh cảm họ chết, ngay cả trước khi chiếc máy bay trực thăng đem bọn trẻ con về. Nhiều người vội vã chạy đến cứu trợ, nhưng tôi đứng sững nhìn. Tôi cứ nghĩ “Họ chết hết rồi.” Một cơn tê dại lan từ sống lưng lên suốt đỉnh đầu. Tôi bàng hoàng trước sự mất mát. Có một cái gì giống như phản ứng hoá học xảy ra trong cơ thể tôi, làm tôi tê liệt. Tôi không đối phó được nữa. Trước đây, tôi chưa từng bao giờ cảm thấy tê dại như thế.

Một chiếc trực thăng khác bay rất lẹ, chở đến nhiều trẻ em khác. Tôi chạy đến, giúp mấy đứa trẻ ra khỏi trực thăng lên xe cứu thương. Tôi thấy thi hài một phụ nữ, chính là Barbara, một nữ nhân viên làm chung tại văn phòng Tùy viên với tôi. Con gái bà còn sống. Nó ngồi ngay bên xác mẹ. Mũi và miệng Barbara ngập bùn. Ngoài ra, chẳng thấy dấu vết nào khác. Sau này, họ bảo bà đã chết vì sợ. Bà có chứng đau tim. Một chiếc trực thăng khác đáp xuống, chở thi hài một nhân viên phi hành đoàn. Đầu anh ta dập vỡ, hẳn anh ta chết tức thì. Chiếc kế chở mười hai bao thi hài khác. Thấy vậy, tôi quay lưng lại, bỏ đi.

Dù ở bất cứ đâu, tôi cũng không bao giờ coi nhẹ những dịp lễ Tết gia đình. Tôi luôn luôn mời bạn bè thân thích đến nhà riêng trong những dịp này. Bàn ăn được bầy biện trang trọng như ở quê nhà. Không dùng đĩa giấy. Tôi luôn luôn giữ gìn truyền thống lễ lạc của dân Mỹ. Lễ Phục Sinh vừa cử hành hôm chủ nhật vừa qua. Mới đây, tất cả những người đàn bà ấy đã đến nhà tôi dùng bữa Phục Sinh. Bây giờ, tất cả đều đã chết. Chỉ chưa đầy một tuần, họ đều chết cả.

Đêm đó chúng tôi trở lại văn phòng, cố tìm xem những ai đã ở trên máy bay. Lúc ấy, chưa có danh sách phối kiểm. Có một người nữa, cùng tên với tôi, cũng là Becky Martin, đã ở trên máy bay. Cô này quê quán Texas, làm việc tại phòng không lực – Một nhân viên an ninh hỏi tôi: “Có muốn tôi điện thoại cho ông bà thân sinh của cô không?” Tôi nói: “Liệu gọi được không?” Anh ta bảo: “Không rõ nữa.” Lúc ấy, mọi liên lạc viễn thông đều bị cắt đứt, người ta không muốn mọi người gọi gia đình, cũng không muốn ai gọi vào. Người ta cần kiểm soát cho đến khi nắm vững những ai ở trên máy bay để đưa ra một bản thông báo chính thức. Không ai muốn xảy ra tình trạng phải nhận những cú điện thoại hỏi thăm, phải rầu rĩ trả lời: “Em ạ, tôi xin chia buồn, má em đã mất.” Mà có lẽ người mẹ lại vẫn còn sống.

Một nhân viên an ninh đã điện thoại được cho cha mẹ tôi. Anh ta nói với mẹ tôi trên đường dây rằng: “Thưa bà Martin, vừa xảy ra một tai nạn nghiêm trọng. Một vụ rớt máy bay. Nhưng con gái bà vẫn bình yên. Cô ấy không có mặt trên chuyến bay này.” Nhưng họ cắt điện thoại, không kịp cho anh ta nói rõ là có tên tôi trên danh sách nạn nhân, nhưng đấy chỉ là một cô Becky Martin khác.

Cha tôi có bạn bè làm việc ở Thái Lan, cả ở Sàigòn. Mấy người này điện thoại vào hỏi văn phòng tôi, rồi điện thoại lại cho cha mẹ tôi, xác nhận: “Đúng đấy, cô ấy vẫn bình yên.” Nhưng có người ở Cali lại gởi đến cho cha mẹ tôi một danh sách nạn nhân. Danh sách này làm cho cha mẹ tôi băn khoăn. Họ kinh hoảng, không biết đâu là thực. Phải một tuần rưỡi sau đó, khi tôi nói chuyện điện thoại thẳng với mẹ tôi, bà mới chịu tin là tôi thực sự bình an.

Sau tai nạn, tôi gói ghém tất cả hành lý vật dụng của các bạn tôi, xem xét giấy tờ của họ, liệt kê tất cả những gì họ có – Tôi làm việc này cho các nạn nhân để nếu vật dụng của họ không đưa được về, thì gia đình họ có thể được bồi thường. Khá nhiều nữ trang, đồ vật đắt tiền, hình ảnh, kỷ vật. Làm công việc này thật đau lòng, nhưng nó cũng giúp ích cho tôi. Nó làm cho tôi cảm thấy các bạn của tôi vẫn còn ở bên tôi.

Trước ngày xảy ra tai nạn này chừng một tháng, tôi đã nằm mơ. Trong giấc mơ tôi thấy tất cả chúng tôi ở chung một căn phòng, giống như phòng làm việc của chúng tôi. Một căn phòng rất lớn, rộng và dài, bàn làm việc sắp xếp nhiều hướng khác nhau. Trong phòng, có một hệ thống âm thanh. Thật là tuyệt. Sáng thứ ba, chúng tôi thường theo dõi những chương trình chơi banh bầu dục của đêm thứ hai. Rồi chúng tôi mở nhạc, và những bàn làm việc chợt lật ngược lên. Các ngăn kéo chợt mở tung ra. Tất cả giấy tờ đều bị lấy đi. Tất cả trống rỗng. Trong giấc mơ, tôi đang ngồi ở đấy với một vài người thì Anne Reynolds, Joan Prey, vài người nữa chạy vụt qua văn phòng. Joan đến chỗ chúng tôi, nói “Lẹ lên, chúng ta đi.” Tôi bảo “Khoan. Chưa đến lúc phải đi.” Cô ấy bảo “Cũng được, thế thì gặp lại chị sau,” rồi cô ta đi. Tôi nghe điện thoại, Anne và vài người nữa gọi đến nói “Lại đây. Chúng ta sẽ gặp nhau ở chỗ ấy, chỗ ấy nhé.” Tôi không biết chỗ ấy là chỗ nào. Trong giấc mơ, trời mưa xối xả điên cuồng, cánh cửa lắc lư đập ra đập vào trong gió. Tôi nghe một người nói tiếng Việt, một tên Việt Cộng. Tôi lo lắng tự hỏi “Các bạn tôi đâu hết? Lẽ ra họ phải ở đây, nhưng sao chẳng còn ai ngoài tôi?” Tên Việt Cộng mở tung cánh cửa, tôi bừng tỉnh.

Giấc mơ ấy làm tôi ray rứt. Hôm sau, tôi đến chỗ Anne ở, nhấm nháp một cốc rượu. Tôi bỗng bảo: “Bọn khỉ mốc chúng mày bỏ tao đi sạch!” Anne hỏi: “Này, bạn nói cái gì vậy?” Tôi kể cho cô ấy nghe giấc mơ của tôi, cô ấy bảo rằng: “Không đâu Becky, bọn này không bao giờ bỏ bạn mà đi đâu.”

Nhưng sau này quả họ đều đã bỏ tôi. Họ đều đã bỏ tôi mà ra đi. Đấy là một giấc mơ kỳ lạ. Nó ám ảnh tôi suốt mấy ngày sau, nhưng rồi tôi đã cố khỏa lấp nó đi.

Hai ngày sau khi máy bay rớt, vài người trong nhóm chúng tôi xuống họp an ninh tại toà đại sứ. Người ta trình bày kế hoạch di tản người Mỹ khỏi Sàigòn. Họ chỉ cho chúng tôi một vài cao ốc mà họ trù tính sẽ cho trực thăng đáp xuống bốc người. Họ cũng trù tính cho những người có đệ tam quốc tịch đến những cao ốc ấy để di tản. Nhiều trực thăng chỉ có thể bốc ba hay bốn hành khách một lúc, như vậy nếu xảy tình trạng rối rắm khẩn cấp thì chẳng bốc đi được bao nhiêu.

Người ta nghĩ Bắc Việt sẽ để yên cho chúng tôi đi. Tại sao lại phải hủy hoại cả một thành phố, trong khi họ có thể chiếm cứ được một cách trọn vẹn, không đổ vỡ gì? Nhưng nếu người miền Nam đâm ra hoảng hốt, họ cũng muốn di tản thì họ sẽ đi đâu? Tất là họ sẽ tìm đến những trực thăng Mỹ! Chúng tôi sẽ phải kiểm soát cho được cái đám đông ấy. Và chúng tôi lại không nói được ngôn ngữ của họ!

Khi văn phòng tôi được nghe kể chương trình di tản do toà đại sứ đề ra, họ đã văng một loạt ngôn ngữ mà tôi không tiện kể. Chúng ta không nên in ra những ngôn từ ấy. Không thể tin được! Tôi cứ ngồi yên như phỗng mà suy nghĩ. Người có trách nhiệm mà hành xử như vậy sao? Đến trẻ con tiểu học cũng nhìn thấy những lỗ hổng trong kế hoạch ấy! Nếu tất cả mọi người dồn cục ở các cổng vào, thì sao? Chúng tôi sẽ cho ai vào, ai không?

Đến lúc này, tôi nghĩ tốt hơn hết phải tự lo liệu một số việc riêng của mình. Tôi chưa bao giờ viết chúc thư. Vì vậy tôi ngồi xuống, viết thư cho cha tôi và làm giấy ủy quyền cho luật sư. Lúc ấy thực dốt nát, tôi đã ký giấy ủy quyền bỏ trống cho luật sư. Tôi viết thư cho cha tôi, nói “Trong trường hợp con không về nhà vào cuối tháng năm, hãy giải quyết cái xe của con như thế này, giải quyết trương mục tiết kiệm của con như thế kia, giải quyết các vật dụng sở hữu khác như thế này…”

Tôi viết một danh sách dài những điều yêu cầu cha tôi làm, rồi tôi đưa cho Stuart nhờ viết địa chỉ lên phong bì. Tôi sợ nếu mẹ tôi thấy tuồng chữ của tôi, bà sẽ bóc. Trên bì thư chúng tôi cũng đề “Thư riêng.” Mẹ tôi không bao giờ mở thư của ba tôi, nhưng tôi có cảm tưởng trong cơn rối ren này nếu mẹ tôi thấy tuồng chữ của tôi, bất kể thư ai, bà cũng bóc ra xem.

Sau này mẹ tôi quả đã mở thư ra thiệt. Lạy Chúa! Thư đến từ Sàigòn, chắc phải có chuyện liên quan đến tôi. Cha tôi không có mặt để bóc thư, mẹ tôi cứ thế bóc ra.

Gửi xong lá thư, tôi nhẹ nhõm người. Sau đó Doug Dearth nói với tôi “Nhăn nhó chuyện gì vậy?” Tôi bảo: “Vừa phải lo xong đủ thứ chuyện” Anh ta hỏi: “Thế nghĩa là thế nào?” Tôi trả lời: “Anh biết đó, trường hợp chúng ta có khó khăn gì trong việc ra khỏi xứ này thì tôi đã lo liệu xong xuôi mọi chuyện của tôi rồi.” Anh ta lại hỏi: “Cô làm gì vậy, gửi chúc thư về nhà à?” Tôi nói: “Tất nhiên không phải chúc thư. Chỉ là giấy ủy quyền thôi.” Anh ta bảo: “Becky ạ, nếu cô chết thì giấy ủy quyền cho luật sư có ăn thua gì?” Tôi nói: “ờ, nhưng cũng trễ rồi. Mọi việc sẽ ổn thỏa thôi!”

Chúng tôi bắt đầu cho nhân viên ra đi, từ bộ phận này sang bộ phận khác. Vì là viên chức chỉ huy, tôi là người cuối cùng trong bộ phận của chúng tôi ra đi. Việc chúng tôi đi được thực hiện trong vòng trật tự. Vì sẵn có phương tiện, nên khi có lệnh đi là chúng tôi đi.

Đêm 21 tháng Tư, cũng là đêm Thiệu từ chức, tôi ra phi trường Tân Sơn Nhứt rời khỏi Việt Nam. Chờ đợi suốt đêm. Những máy bay C-130 đến và đi đều đặn như vòng quay đồng hồ. Muốn đưa ai ra đi lúc ấy, bạn chỉ cần đến bảo họ thế này: “Tên tôi như vậy, như vậy… Tôi có một số người như vậy, như vậy… cần phải đem đi.” Họ sẽ đưa cho bạn một cái thẻ. Có vậy thôi. Thế là tên bạn và số người đem đi sẽ được đưa vào danh sách. Khi người ta gọi, bạn cứ việc vào máy bay. Những máy bay C-130 có thể chở hàng trăm người mỗi chuyến. Cứ như vậy giờ này sang giờ khác. Cứ diễn tiến như vậy suốt mấy ngày.

Đến tảng sáng hôm sau tôi mới rời khỏi Việt Nam. Chúng tôi được xe buýt đưa ra tận máy bay, có nhân viên không lực Mỹ khám người, khám hành lý. Người ta cũng mang đến cả một đơn vị Thủy quân Lục chiến để bảo vệ an ninh khu vực. Khu chờ chuyến bay lớn nhất là khu bể bơi, khu đánh “Bowling,” khu nhà tập thể dục thuộc phòng Tùy viên Quân sự. Những khu này đông nghẹt người. Người ta ở đấy, chờ đến lượt, rồi lên máy bay.

Lúc chúng tôi tôi lên máy bay, vài phi công Việt Nam lái mấy chiếc chiến đấu cơ phản lực chạy rà qua. Chúng tôi dơ lên ngón tay cái, dấu hiệu chiến thắng, bạn ơi mọi sự vẫn tốt đẹp, cứ tiếp tục tiến lên! Chúng tôi cố làm cho họ tin rằng người Mỹ không rời đi đâu cả! Nhưng ngoài thành phố người ta biết rõ hơn, mặc dù không bao giờ có một xác nhận chính thức nào về việc người Mỹ đang di tản.

Chiếc máy bay đầy nhóc người. Tiếng động cơ inh ỏi. Trời gây gấy lạnh. Tôi đếm được năm người da trắng trên chuyến bay. Tất cả số còn lại đều là người Việt, khoảng một trăm người trên mỗi chuyến. Từng đơn vị gia đình một. Khi máy bay ra đến biển, tôi bật khóc.

Chúng tôi đáp xuống phi trường Clark ở Phi Luật Tân. Tôi tìm cách sang một chuyến bay khác, sau cùng lên một chiếc máy bay chở trẻ con Việt Nam. Hoá ra, có vài em sống sót trong vụ chiếc C-5A rớt cũng ở trong chuyến bay này. Chiếc máy bay này là chiếc C-141 cải biến, ghế hành khách quay mặt về phía đuôi máy bay. Ở đuôi máy bay, người ta bố trí những chiếc giường cũi để giữ cho trẻ an toàn.

Tôi bảo tôi nhận việc đi “hộ vệ” đám trẻ con. Tôi nghĩ chuyện ấy khá mỉa mai, nhưng tôi đã làm chuyện ấy, và chẳng nghĩ ngợi gì hơn nữa. Quá nhiều chuyện đã xảy ra và quá nhiều người đã thiệt mạng! Người ta buộc trẻ con vào những người đi kèm để khi máy bay đáp xuống, lỡ có tai nạn gì thì mấy đứa trẻ sẽ không bị bắn ra.

Tôi ôm trong tay một bé sơ sinh. Đúng ra, đó không phải là một bé sơ sinh, mà là một chú bé đã ba tuổi, nhưng nó ốm o, nhỏ thó như đứa trẻ con một tuổi. Tôi cũng coi sóc cho hai bé con nữa. Hai chị em đứa bé con! Chúng đã sợ sệt trong suốt chuyến bay trên đường về quê hương nước Mỹ.