Quê hương ơi Đừng khóc nữa !…

tranthitrucha

Hình như mắt tôi cay nồng khi đặt chân lên đất Mũi Cà Mau !
Bạn bè đồng nghiệp cười nói xôn xao khi được nhìn thấy một vùng đất lạ lẫm với sông nước vây quanh. Hai tiếng đồng hồ trên tàu cao tốc, đi qua những ngôi nhà mái lá lụp xụp ẩn mình trong bóng cây trôi nổi bồng bềnh, những đứa trẻ gầy gò lặng yên nhìn theo bóng dáng những con thuyền đi qua, không cười nói , không chạy nhảy , nô đùa như những đứa trẻ được sống trên mặt đất bằng phẳng. Các em nghĩ gì , mơ gì trong những đôi mắt thơ dại ?!…
Ôm cột mốc mũi Cà Mau ở vĩ độ bắc 8 . 37. 30, kinh độ đông 104. 43 và mơ đến một ngày nào đó đặt chân lên Ải Nam Quan. Số phận của dân tộc tôi như cuộc đời của người phụ nữ đa đoan trong nghèo khó. Dân tộc tôi có quá nhiều anh hùng sao cũng lắm nỗi bi thương?!
Nỗi đau từ trong cuộc chiến và hậu chiến mà những người thân của tôi gánh chịu, chẳng có nỗi đau nào giống nỗi đau nào nhưng đã làm cho cuộc đời của họ trở nên lầm lụi và tan nát.

Mẹ chồng tôi trước khi nhắm mắt đã trăn trối : ” Các con cố tìm mộ ba con đem về bên mẹ “. Bà không biết chữ nhưng thông minh lạ thường, lao động lam lũ đến nổi đến nổi sinh rớt đứa con đầu lòng trong luống rau khoai khi gánh nước tưới rau. Đứa bé nằm trong bọc, khi gọi được bà mụ đến cắt rốn thì bị ngạt, ba ngày sau là mất.
Sáu tháng sau, ba chồng tôi quyết định bỏ bà ở lại và lên đường mà không hề biết rằng bà đã mang thai sau đêm chia tay, bào thai đó là chồng tôi , giọt máu duy nhất của ông để lại trên cõi đời này. Bà bỏ lại mảnh ruộng hương hoả của nhà chồng chia phần, về phố buôn gánh bán bưng nuôi con ăn học.

Sau năm 1975, bà chờ đợi ngóng trông…
Người ta lần lượt quay về đoàn tụ nhưng ông không về. Đồng đội đi cùng ông cũng không ai quay về báo tin. Bà lặn lội đi tìm.
Người thì bảo ông vào Bồng Sơn. Người thì bảo ông chết ở núi rừng A Lưới vì đói và sốt rét…
Nản quá bà quay về tiếp tục buôn gánh bán bưng và bảo con trai: ” Thôi cố học kiếm ít chữ mà sống, không đi lính tráng cho ai nữa hết.” Vậy mà đến khi nhắm mắt bà vẫn còn trăn trở !

Một buổi chiều tôi đến chơi nhà người bạn thân, gặp mẹ chồng cô ấy ở quê lên thăm con cháu.
Như duyên kì ngộ ! Bà là một chiến binh trở về và là người đi cùng đoàn với ba chồng tôi. Bà chậm rãi nói trong hồi tưởng:
…Đoàn người đi trong mùa mưa rừng khắc nghiệt, vừa đói lả vừa rét lạnh. Những buôn làng dân tộc vùng A Lưới không cho vào trú ngụ, phải cắm trại ngoài lán rừng để ngủ, có người không chịu nổi đã trốn và quay về đồng bằng. Ông ấy bị sốt rét rừng, không có thuốc mà phải ăn sắn… Ông ấy không qua khỏi, đồng đội còn lại khoảng mười người đã đào huyệt bằng tay, đất núi lổm chổm sỏi đá, chỉ đào được cài huyệt nông chèn vừa người ông nằm, không có quan tài chỉ có tấm vải dù cùng những tư trang ông ấy mang theo.
Chồng tôi mắt đỏ hoe hỏi trong nghẹn ngào :
– Có ai còn sống sót cùng bà trong đoàn đó không hở bà ?
Bà nhớ có một ông hiện nay đang sống ở Hải phòng, tên là …
-Bà có còn nhớ đặc điểm nơi chôn ba con không ?
Trí nhớ của bà bây giờ rất tệ , bà chỉ nhớ nó nằm bên một con suối, có cây cổ thụ và một tảng đá rất lớn. Có lẽ con nên tìm ông ở Hải Phòng hỏi thêm. Nhưng bà nói thật, không còn gì đâu con à , mưa lũ qua bao nhiêu năm đã cuốn trôi xuống suối xuống sông rồi.

Chuyến đi lên A Lưới để tìm cha đã được chuẩn bị thật kĩ càng với bao hy vọng.
Chàng cùng những người bạn thân ba lô, gậy gộc , dao xẻng cùng người đồng đội của ba mình ở Hải Phòng mà chàng đã ra công tìm kiếm và năn nỉ thảm thiết , ông cũng đã già nên sợ những chuyến đi gập ghềnh về núi rừng. Ông già say xe nghiêng ngã cho đến khi xe dừng lại ở thị trấn A lưới . Ông xuống xe đi quanh một vòng rồi ngao ngán lắc đầu:
Không còn lại dấu tích gì của A Lưới ngày xưa.
Con suối hiền hoà nước trong vắt không phải là dòng suối đục ngầu trong mùa mưa lũ, có bao nhiêu gốc cây cổ thụ, có bao nhiêu tảng đá … Buôn làng có những người phụ nữ váy áo mang sắc màu của thành phố, thanh niên chạy xe máy ào ào qua những con đường hai bên vách núi cheo leo.
Chàng ngồi thẩn thờ trên phiến đá bên suối, cạnh người đồng đội của cha mình thất vọng đến rệu rã.

Từ đó chàng bắt đầu đi tìm những nhà ngoại cảm.
Nghe nói ở đâu có nhà ngoại cảm tìm được mộ của người thân là chàng lao đi, bất kể xa xôi, bất kể ngày đêm.
Một đêm chàng về rất khuya và bảo tôi đi theo chàng đến nhà một người bạn.
Ở đó có rất đông người đang chờ đợi nhà ngoại cảm BH từ Hà nội vào.
Thoạt nhìn tôi đã ngờ ngợ vì nhà ngoại cảm này không giống cô BH mà tôi đã xem trên phim ảnh, báo đài, cô cao lớn hơn, khuôn mặt cô thô hơn, không thanh tú như cô BH. Tôi nói nhỏ điều này với chàng nhưng cô gái đi theo phục vụ cô BH lừ mắt bảo im. Tất cả ai muốn được cô BH giúp đều qua sự sắp xếp của cô này.
Cô ấy nói rằng cô BH không nhận tiền, chỉ làm việc thiện nguyện nhưng vì đường xa phải lo vé máy bay, khách sạn nghĩ ngơi, ăn uống và thuốc men để giữ sức cho cô nên tuỳ lòng hảo tâm của gia chủ. Chàng náo nức tìm cha nên chẳng tiếc gì tiền bạc. Cô ấy bảo chúng tôi về soạn hoa quả cúng và thắp hương khấn xin trước sau đó cô BH sẽ vào nhà.
Cô BH đang thắp hương khấn vái lầm thầm bỗng dưng mặt cô đỏ bừng, nước mắt ràn rụa ôm lấy chàng nức nở :
-Con ơi ! ba về đây, ba khổ lắm, rét, lạnh , nhớ con.
Cô gái đi theo nhắc nhở:
-Hỏi nhanh đi ! ba ở đâu cho con biết con đi tìm.
-Nghĩa trang Bồng Sơn, bên phải , dãy 3, số 5 .
Đến đó con sẽ thấy có một người đàn ông lưng gù mắt kém, hãy cám ơn bác ấy vì bác là người chăm sóc hương khói cho ba.
Tôi vội vàng ghi vào sổ tay trong khi chàng gục đầu khóc nức nở.

Cuộc hành trình đi tìm cha lần thứ hai có phần nhẹ nhàng đỡ vất vả hơn.
Chúng tôi đến nghĩa trang vào lúc trời xế trưa nắng nóng, bụng đói cồn cào nhưng chàng như vội vã lao đi, tôi năn nỉ :
-Anh à, mình vào quán cơm này ăn trưa rồi mua thêm ít hương đèn bánh trái cúng đi anh.
Người đàn ông chủ quán có khuôn mặt thật phúc hậu hỏi :
-Anh chị đến đây tìm mộ người thân phải không?
-Sao anh biết ?
-Gần đây tự dưng có rất nhiều người ở xa đến đây tìm mộ người thân.
-Vậy hở anh ? Nghĩa trang này được xây dựng từ năm nào anh biết không ?
-Từ năm 1979, trước đây nằm trên ngọn đồi cao kia kìa. chính quyền di dời về đây nên rơi rớt nhiều lắm…
Chúng tôi nhìn theo hướng tay của người đàn ông chỉ, đó là ngọn đồi cao đầy hoa lau trắng. Giọng người đàn ông vẫn đều đều bộc bạch:
-Đây là vùng đất bom đạn ác liệt nhất, dân gánh gồng bỏ chạy đi tha hương tứ xứ, họ mới quay về sau năm 1975. Nhưng chẳng làm ăn gì được nhiều, ruộng đất khô cằn nhưng vẫn còn nhiều bom mìn chưa gỡ hết, thỉnh thoảng vẫn có người tan xác vì cuốc nhằm bom mìn. Anh chị đã đến đây rồi thì hãy thắp hương cho tất cả những người đã nằm xuống, dù đó có là người thân của anh chị hay là không phải thì cũng là người dân Việt mình. Họ chết đau đớn lắm ! Có nắm mộ hơn chục người không biết ai là ai, có nấm mộ của những thanh niên mới mười chín đôi mươi… Vậy mà vẫn còn những kẻ nhẫn tâm lợi dụng cái chết thương tâm để buôn thần bán thánh…
Lúc đó tôi không hiểu lời người đàn ông địa phương nói gì, sau này chiêm nghiệm lại tôi mới hiểu.
Nghĩa trang nằm trên ngọn đồi thấp, đi lên bằng những bậc tam cấp, người đàn ông đi ra từ căn phòng nhỏ như một trạm gác bước ra. Tôi hồi hộp nhìn cái lưng gù và đôi kính đen trên mắt ông, chàng đưa giấy tờ cho ông xem và trình bày ý nguyện tìm mộ cha theo nhà ngoại cảm dự đoán. Ông gật gù im lặng trải tấm sơ đồ nghĩa trang, chỉ vào dãy 3 bên phải đi vào, ngôi mộ thứ 5 là ngôi mộ vô danh. Tôi thấy lòng nhẹ nhỏm. Lặn lội đường sá xa xôi tới đây nhỡ như mộ ở vị trí này có tên của người khác thì thật hụt hẩng.
Tôi bày bánh trái hoa quả lên mộ, tay chàng luống cuống bật hoài diêm ga không đỏ, tôi bình tĩnh hơn phụ giúp chàng.
Chàng quì trước mộ khóc :
Ba ơi, con đi tìm ba theo ý nguyện của mẹ , nếu thật sự là ba thì hãy cho con một niềm tin…
Chàng cắm chiếc đũa trên mộ rồi run tay đặt quả trứng đứng thẳng trên chiếc đũa.
Thật lạ lùng chẳng khác nào ảo thuật !
Và chúng tôi đã tin, vì cô BH căn dặn như vậy.
Khi cô nói điều đó tôi nghĩ làm sao thực hiện được, vậy mà với đôi tay run rẩy, luống cuống chàng vẫn đặt được quả trứng đứng thẳng trên chiếc đũa vững vàng.
Chúng tôi cứ để nguyên như vậy suốt buổi chiều.
Những đứa trẻ tóc hoe vàng vì nắng, mặt nhọ nhem gầy gò như những cành cây khô lấp ló ở bìa thành chờ đợi, tôi cầm những bao kẹo ra phát cho chúng, tội nghiệp! chúng rụt rè nhận và chạy vụt đi gọi những đứa trẻ khác đến.

Ngồi lặng trong gió chiều, tôi nghe rưng rức buồn.
Sao có quá nhiều nấm mộ vô danh?
Những người nằm trong huyệt mộ kia là anh hùng sao?
Họ nghĩ gì khi bỏ lại sau lưng gia đình, vợ con, ruộng nương, nhà cửa…?
Những người thân của họ cũng đau đớn, khắc khoải chờ đợi trong hoài vọng, nhớ nhung… để rồi họ nằm đây giữa núi đồi hoang hoải.
Không biết ở thế giới đó họ buồn vui thế nào ?
Tôi nghe văng vẳng một bài ca cũ xao xác trong tiếng gió.
Mờ trong bóng chiều
Một đoàn quân thấp thoáng

Ra biên cương trong một chiều sương âm u
Âm thầm chen khói mù
Bao oan khiên đang về đây hú với gió.

Chiến sĩ vô danh, anh hùng vô danh !
Còn những ngôn từ nào đẹp hơn để có thể bù đắp cho những sự mất mát đau đớn của họ? Những người phụ nữ cô độc chờ đợi chồng trong vô vọng, những đứa trẻ thiếu vắng tình thương của cha phải ngơ ngác, lạc loài trong suốt thời thơ bé cho đến tận bây giờ như chàng. Họ đã mong đợi điều gì khi ra đi và khi nằm xuống, những người còn sống trở về và thế hệ kế tiếp đã làm gì với hậu chiến ?!

Bổng dưng tôi thấy lạnh người, một miền kí ức đau buồn và khốc liệt hiện về.
Buổi chiều cuối tháng 3, nắng vẫn ngọt ngào trong tiếng súng vang rền vọng về từ rừng dương liễu. Mẹ tôi đeo những chiếc ruột tượng quanh bụng các con dặn dò :
-Phòng khi chạy lạc, thì các con hãy lấy tiền trong này ra để mua thức ăn…
Tôi núp trong hầm cùng với các em, ba mẹ tôi chạy lên chạy xuống băng bó cho những người dân bị thương, ba mẹ tôi làm nghề y, nhà tôi là một bệnh xá tư. Hai anh trai lớn đã được gởi cho người bạn lên tàu trốn ra biển. Ai cũng sợ một cuộc ác chiến đẩm máu xảy ra.
Vậy mà chỉ khoảng một giờ trưa, tiếng súng im bặt một cách bất thường. Những dân quân du kích địa phương áp tải một đoàn lính thất trận bê bết máu vào bệnh xá của gia đình tôi băng bó. Ba me phải huy động tất cả y tá và người giúp việc cũng phục vụ không xuể. Một người lính ngồi ủ rũ bên thềm nhà với cây đàn guitar trên vai. Cánh tay anh bê bết máu. Tôi nhìn sững anh, anh giống anh trai tôi quá, chỉ khác là khuôn mặt anh cương nghị, rắn rỏi già dặn hơn. Bổng dưng tôi nghĩ đến anh tôi không biết đang lênh đênh trên mặt biển không biết sống chết thế nào. Tôi cầm chai thuốc sát trùng và cuộn băng ngồi xuống băng bó vết thương cho anh thật nhẹ nhàng. Anh nhìn tôi mắt đỏ hoe.
-Cám ơn bé nhiều lắm … Bé cho anh gởi lại cây đàn… Hãy giữ dùm anh !
Rồi anh lặng lẽ nhập vào đoàn quân thất trận thất thểu bước đi dưới sự áp tải của những dân quân du kích…

Cuộc sống trở lại bình yên.
Tôi trở lại trường học, bạn bè lơ thơ dăm ba đứa, phải dồn ba lớp lại mới ngồi đầy một lớp học, bàn ghế xộc xệch, sân trường đầy rác bẩn, rơi rớt vương lại vài tấm vải lều rách nát của người dân tị nạn, hồ sơ học bạ bị đốt sạch … Chúng tôi học trong tiếng ve sầu héo hắt, có những người thầy, người bạn tôi đã ra đi, có những nằm lại với biển trong cuộc trốn chạy tao loạn và cũng có những người quay trở lại với dáng điệu rã rời và ánh mắt cam phận.
Trong những người quay trở về có thầy tôi !
Người thầy mà tôi ngưỡng mộ kính yêu, những giờ văn của thầy cuốn tôi vào một thế giới lung linh của chân thiện mỹ, tôi yêu văn chương từ lời dạy của thầy.
Thầy cũng thất thểu trở về với bầu đoàn thê tử, Thầy đến trường để trình diện và xin dạy lại nhưng không được chấp nhận mà phải chịu sự quản lí của địa phương.
Một ngày u ám, ngôi nhà bị khám xét, Thầy bị bắt đưa đi học cải tạo vì là sĩ quan biệt phái.
Vợ thầy là người phụ nữ có nét đẹp yếu đuối, dịu dàng, cô ngơ ngác với bầy con nheo nhóc sáu đứa, những đồ đạc còn lại trong nhà lần lượt ra đi để đổi lấy miếng ăn. Hết đồ đạc để đổi cô đổi lấy thân… làm sao đành lòng nhìn con đói rách gầy gò vì thiếu ăn, mặc cho hàng xóm xì xầm dè bỉu. Ngày mồng năm tháng năm, nhà người ta có bánh trái xôi chè ngập bàn, nhà cô lạnh ngắt, tôi hái những trái xoài chín trong vườn nhà mẹ đem đến cho các em, cô ứa mắt :
-Các em nói với cô,ngày mồng năm má nấu cho bọn con nồi cơm không độn và nồi canh chua thật ngon ăn một bữa cho đã thèm đi má…
Năm năm sau thầy trở về, không còn bóng dáng hào hoa, uy nghi của thầy tôi nữa. Đó là người đàn ông tóc đã bạc mầu, nước da vàng như nghệ, đôi mắt muộn phiền cam chịu. Thầy sửa soạn lại chiếc xe đạp cũ và làm nghề xe đạp thồ. Những người hàng xóm nhiều chuyện xầm xì to nhỏ về cô , thầy lắc đầu lảng tránh. Không thấy thầy giận hờn trách cứ gì cô mà chỉ thấy Thầy càng yêu thương chăm sóc cô nhiều hơn.

Những ngày tháng đầy cơ cực và thiếu đói, tôi vẫn thường về quê thăm ba mẹ và để kiếm thêm lương thực .Buổi chiều nghe tiếng nhốn nháo của đám đông ngoài ngõ, vội vàng chạy ra nhìn thấy người đàn ông nằm trên đám cỏ gai la hét chưởi bới, mắt vằn lên những vệt máu đỏ, mặc kệ cho đám cỏ gai cào rách da thịt. Mọi người im lặng như nhìn một màn ảo thuật quen mắt, trên gương mặt họ thật thờ ơ vô cảm…
Mẹ nói với tôi:
-Thằng đó bắn nhiều người quá nên bây giờ những oan hồn nhập vào hành hạ nó.
-Bắn ai hở me ?
-Những người lính thất trận … Tội nghiệp họ có tội gì đâu … Có đứa non nớt như mới vừa rời sách vở bị bắt đi lính… chẳng khác gì con mình…

Me tôi ứa nước mắt
Kí ức về người lính đã gởi lại cây đàn hiện về.
-Có phải trong những người lính đó có cả người con đã băng bó và gởi lại cây đàn guitar ?
-Ừ ! Đêm đó nó lùa hết vào trường học sau nhà mình, đem bánh trái nước ngọt cho ăn … rồi sắp hàng bắn…. chôn chung trong một huyệt … ác quá !
Trời ơi, vậy mà tôi vẫn giữ cây đàn guitar mong ngày anh quay lại.

Tôi về lại thành phố nghe tin thầy tôi đã mất vì lao phổi. Cô lặng lẽ khóc, nước mắt của người đàn bà đẹp thật nao lòng ! Các con của thầy chưa đủ lớn để mưu sinh nhưng tất cả đều nghỉ học để tự kiếm lấy miếng ăn, những đứa con trai sắm chiếc xiên bằng sắt xuống bến đón những chuyến thuyền cá vào sáng sớm, những đứa con gái theo mẹ ra chợ mua đi bán lại những bộ quần áo cũ.
Nỗi đau buồn như nối tiếp đau buồn!
Cũng trong những ngày đó tôi nghe tiếng khóc ai oán của gia đình người hàng xóm đối diện nhà mình. Bình đã mất ở chiến trường biên giới phía Nam. Chàng trai vẫn lẽo đẽo theo tôi đi học về mỗi ngày, đôi mắt rụt rè hiền từ nhìn tôi như muốn nói bao điều mà chưa dám nói , chỉ đêm đêm thả vào sân nhà tôi những bức thư tình dịu dàng ướp nồng mùi hoa thiên lí. Hoà bình rồi kia mà sao Bình lại phải ra đi và nằm xuống ở vùng đất xa xôi không phải là quê hương mình. Mẹ Bình mất trí, bà không tin là con trai mình đã chết , cứ chiều chiều ra ngõ ngóng con trai , gặp ai cũng hỏi : ” Có thấy thằng Bình tôi ở đâu không ? Sao nó đi lâu quá không về ?”

Thanh bình!
Tên của bạn tôi là Thanh Bình, đó là khát vọng muôn đời của một dân tộc đã chịu quá nhiều nỗi đau buồn của chiến tranh. Vậy mà sao đến bây giờ nước mắt vẫn cứ rơi hoài ?!…
Chồng tôi rơi vào trạng thái trầm cảm không cười, không nói từ khi phát hiện ra bị nhà ngoại cảm lừa dối trong việc đi tìm kiếm mộ cha. Thầy tôi lao lực quá sức trong mưu sinh và nỗi đau tinh thần đeo bám mà sinh bịnh tật qua đời. Mẹ của bạn tôi vẫn mỏi mòn ngóng con trong điên loạn…
Nỗi đau của hậu chiến, người nằm xuống và người ở lại, ai buồn hơn ai ?!…Biết đến bao giờ nước mắt sẽ thôi rơi ?
Cây đàn guitar của người lính để lại vào những đêm có gió lao xao một khúc nhạc lạnh lòng. Mẹ tôi đem cây đàn ra đốt, những sợi khói mong manh cuốn bay về trời…

Trần Thị Trúc Hạ

6 thoughts on “Quê hương ơi Đừng khóc nữa !…

  1. Hình đại diện của nguyễn minh phúc nguyễn minh phúc nói:

    Truyện viết hay quá.Cám ơn tác giả

    Thích

  2. Hình đại diện của trandzalu trandzalu nói:

    Truyện ngắn em viết hay và xúc động lắm.Người nữ tài hoa ui ! Trần Thị Trúc Hạ

    Thích

  3. Hình đại diện của Linh Phương Linh Phương nói:

    Đọc truyện ngắn ” Quê hương ơi ! Đừng khóc nữa ” của Trần Thị Trúc Hạ tôi không dằn được cảm xúc từ 40 năm nay cố nén trong lòng.
    “…Những người lính thất trận … Tội nghiệp họ có tội gì đâu … Có đứa non nớt như mới vừa rời sách vở bị bắt đi lính… chẳng khác gì con mình… Me tôi ứa nước mắt…”
    Tôi cũng là người lính thất trận, tôi cũng là người lính chờ đợi mỗi chiều thứ bảy, Ủy ban quân quản cầm tờ giấy đọc tên những chiến hữu của tôi và dẫn đi lện núi không bao giờ trở lại.
    Hệ lụy chiến tranh 40 năm vẫn còn đây, trong truyện ngắn của Trúc Hạ.Một thay đổi đề tài khi viết về phần đất Nam Bộ cuối miền Tổ quốc.Một thay đổi đề tài để không trùng lấp với những đề tài mà Trúc Hạ đã viết.
    Đọc văn Trúc Hạ đã khiến tôi- một đọc giả khó tính cũng ngậm ngùi,chảy nước mắt. Đó chính là sự thành công trên con đường văn học của một nhà văn nữ.

    Thích

  4. Hình đại diện của aitrinhngoctrana aitrinhngoctrana nói:

    Chiến tranh để lại bao tàn tích!Bao cảnh bi thương sau hậu chiến!Bao nỗi lòng đau khổ cầu xin”Những người thân sống còn bình yên Cuộc chiến qua mát mát hy sinh !Tâm trí thôi ám ảnh buồn phiền!Như thanh bình đẹp như cái tên !?Giữ lại lòng tiếng đàn dịu êm ”

    Thích

  5. Chân tình và thấu cảm.

    Thích

  6. Hình đại diện của Trần Thị Thanh Hải Trần Thị Thanh Hải nói:

    Đọc truyện ngắn của Trúc Hạ, tự nhiên chị nhớ đến hai câu thơ của Quang Dũng:
    ” Rải rác biên cương mồ viễn xứ
    Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
    Hai câu thơ một thời đã làm nên biết bao thăng trầm, biết bao oan khuất cho bài thơ Tây Tiến.
    Có một thời người ta né tránh không muốn nói đến mất mát đau thương . Cuộc chiến tranh nào qua đi mà không để lại những nỗi đau? Mà nỗi đau chiến tranh lại quá lớn, không gì xoa dịu được. Thời gian, sự tri ân, và rất rất nhiều điều khác… vẫn không thể làm lành được vết thương.
    Bây giờ ta đang sống trong thời kì thanh bình. Hãy quên đi những kí ức đau buồn. Cuộc sống nào cũng có mặt tốt và mặt chưa tốt. Điều quan trọng ta nhìn những điều ấy theo hướng nào mà thôi.

    Thích

Gửi phản hồi cho nguyễn minh phúc Hủy trả lời